Go Back   Vina Forums > Thư Viện Online > Kho Tàng Truyện > Truyện Kiếm Hiệp
Hỏi/Ðáp Thành Viên Lịch Tìm Kiếm Bài Trong Ngày Ðánh Dấu Ðã Ðọc

Trả lời
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
  #21  
Old 10-05-2004, 12:26 AM
dethuong123 dethuong123 is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Sep 2004
Nơi Cư Ngụ: none
Bài gởi: 1,547
Send a message via AIM to dethuong123 Send a message via MSN to dethuong123 Send a message via Yahoo to dethuong123
Default

Bồ Tùng Linh:::
Liêu Trai Chí Dị

Thôi Mãnh


Thôi Mãnh, tên tự là Vật Mãnh, con nhà thế gia ở Kiến Xương. Tính cương nghị. Thuở nhỏ đi học, bọn trẻ hơi có gì xúc phạm đến thì lập tức vung tay đánh liền.

Thầy học nhiều lần răn đe nhưng vẫn không chừa. Tên và tự đều do thầy đặt cho. Ðến mười sáu mười bảy tuổi thì võ nghệ cao cường tuyệt luân. Lại có thể chống sào dài nhảy lên nóc nhà. Rất thích giúp người khác và rửa sạch bất bình. Vì vậy, người làng đều cảm phục. Trong nhà ngoài cửa thường đứng đầy những người đến bẩm bạch, tố cáo.

Thôi ưa chế ngự kẻ mạnh, nâng đỡ người yếu, không sợ oán thù. Ai ho he dám chống lại thì gạch, đá, gậy gộc choảng luôn, kỳ cho đến tay chân thân thể phải tàn tật. Mỗi lần thịnh nộ bốc lên, không ai còn dám khuyên can.

Duy chàng thờ mẹ rất có hiếu, hễ mẹ đến là nguôi giận ngay. Mẹ trách quở đũ điều, Thôi dạ dạ vâng lời, nhưng ra khỏi cửa lại quên mất.

Liền bên nhà, có một người đàn bà rất hung hãn, ngày ngày ngược đãi mẹ chồng. Mẹ chồng đói lả gần chết, con trai lén cho ăn, chị ta biết được, thét mắng trăm điều, vang động khắp bốn bên hàng xóm.

Thôi giận lắm, vượt tường sang xẻo luôn tai, mắt, mũi, môi, lưỡi. Mụ chết ngay. Mẹ hay tin kinh hoàng, gọi anh hàng xóm qua, hết lòng xót thương an ủi, gả cho anh ta một con hầu trẻ, việc mới yên.

Mẹ phẫn chí khóc lóc không chịu ăn. Thôi sợ, quỳ xuống xin chịu đòn, lại thưa rằng đã biết hối. Mẹ cứ khóc, không thèm nhìn. Vợ Thôi họ Chu, cùng quỳ xuống với chồng; mẹ bèn cầm gậy đánh con, rồi lại lấy kim thích vào cánh tay, thành hình chữ thập, dùng sơn bôi vào cho khỏi mất dấu. Thôi đều xin chịu hết, mẹ mới ăn trở lại.

Bà mẹ thích đãi cơm các nhà sư và đạo sĩ, thường mời họ dùng bữa no nê. Xảy có một đạo sĩ ở trước cửa thì Thôi đi qua. Ðạo sĩ nhìn Thôi mà nói:

- Tôi xem lang quân có nhiều khí hung hoạnh, sợ khó giữ được cho tròn tuổi thọ. Nhà tích thiện đáng ra không có người như vậy.

Thôi vừa mới nhận lời răn của mẹ, nay nghe được điều đó thì tỏ cung kính mà nói:

- Chính tôi cũng tự biết thế, nhưng hễ thấy bất bình, thì khó mà kìm được. Gắng hết sức sửa đổi, hoặc giả có tránh được không?

Ðạo sĩ cười nói:

- Hẵng đừng hỏi tránh được hay không tránh được, mà trước xin tự hỏi có thể sửa đổi hay không sửa đổi thôi. Chỉ nên tự mình ức chế thật riết; nếu muôn phần được một thì tôi sẽ mách anh một phép giả tử.

Bình sinh Thôi không tin bùa phép, nên chỉ cười mà không nói gì. Ðạo sĩ nói tiếp:

- Tôi biết lang quân không tin, nhưng lời tôi nói chả phải như lời bọn đồng cốt. Cứ làm được cũng đã là thịnh đức, dẫu không công hiệu cũng chẳng hại gì.

Thôi xin được nghe lời dạy bảo. Ðạo sĩ bèn nói:

- Vừa có một kẻ hậu sinh đi qua trước cửa kia, anh nên kết giao thật hậu tình với hắn; sau này có phạm tội chết, thì người ấy có thể cứu sống anh được.

Nói rồi gọi Thôi ra chỉ cho biết người đó. Thì ra đó là thằng bé con nhà họ Triệu, tên là Tăng Kha.

Triệu là người đất Nam Xương, gặp năm đói kém phải đến ngụ cư ở Kiến Xương. Từ đấy Thôi bèn cùng Triệu giao kết thân tình, mời dọn sang ở nhà mình, cung cấp cho rất hậu. Tăng Kha tuổi mới mười hai, lên nhà lạy mẹ, nhận nhau làm anh em.

Năm sau, đến vụ canh tác mùa xuân. Triệu đem gia quyến đi, từ đó không có tin tức gì.

Bà cụ họ Thôi, từ khi người đàn bà hàng xóm chết, răn con càng cẩn mật; có người nào đến kêu nài, cầu cứu gì, bà đều xua gạt đi. Một hôm, cậu ruột Thôi mất, chàng theo mẹ sang viếng, giữa đường gặp mấy người đang trói giải một người đàn ông, vừa mắng chửi vừa thúc đi cho nhanh, lại còn đánh đập. Người xem nghẽn cả đường, xe không tiến lên được. Thôi hỏi duyên do, thì những người biết Thôi đều xúm đến mách bảo.

Nguyên trước đây cậu con trai một vị chức sắc lớn, là tên Giáp nọ, ngang ngược nhất làng, dòm thấy vợ chàng Lý Thân có nhan sắc, muốn chiếm đoạt, nhưng không có cớ gì, bèn bảo người nhà dụ anh ta đánh bạc, đưa tiền cho vay, lấy lãi rất nặng, bắt đem cả người vợ ghi vào khế văn, thua hết lại cho vay, một đêm nợ đến vài nghìn. Ðược nửa năm thì nợ mẹ đạ nợ con đã hơn ba mươi nghìn. Thân không sao trả được, cậy thế đông người chúng đến cướp lấy người vợ. Thân đến cửa mà khóc lóc, Giáp giận, bắt trói, treo lên cây, đánh bằng roi, cứa bằng dao, và bức phải làm tờ 'giấy không kêu nài'.

Thôi nghe nói, nộ khí bốc lên ngùn ngụt, gia roi cho ngựa tiến lên, ý muốn dụng võ.

Mẹ Thôi vén rèm xe, gọi lại bảo:

- Chà, lại thế đấy hả?

Thôi đành phải làm nhịn.

Viếng tang xong trở về, không nói cũng không ăn, chỉ ngồi sững, mắt nhìn thẳng, như đang giận dữ người nào. Vợ căn vặn cũng không buồn đáp. Ðến đêm, mặc cả áo ngoài, nằm trên giường, trằn trọc mãi đến sáng. Ðêm sau cũng vậy, chợt mở cửa đi ra rồi lại trở vào nằm, cứ như thế đến ba bốn lần. Vợ không dám hỏi, chỉ lo lắng nín im để xem sao. Thế rồi lại ra đi, rất lâu mới về, khép cửa lên giường ngủ say. Cùng đêm ấy, có người đã giết tên Giáp trên giường nằm, phanh bụng rút ruột ra ngoài; thây của vợ Thân cũng loã lồ nằm ở dưới giường.

Quan nghi cho Thân, bắt về tra xét, cùm kẹp tàn khốc, lòi cả xương mắt cá chân nhưng vẫn không cung xưng; hơn một năm không chịu nổi cực hình, phải nhận liều, bị ghép vào tội tử hình.

Vừa gặp lúc mẹ Thôi mất. Chôn cất xong, chàng bảo vợ rằng:

- Kẻ giết tên Giáp, chính là ta. Chỉ vì còn mẹ già, không dám tiết lộ. Nay việc lớn đã xong, cớ sao một người làm lại để kẻ khác vạ lây? Ta sắp ra nhận tội chết trước nhà chức trách.

Vợ kinh hãi, túm áo kéo lại, chàng dứt chéo mà đi, tự ra thú nhận ở pháp đình.

Quan ngạc nhiên, cùm lại, tống vào ngục, mà tha cho Thân.

Thân không chịu, chứ một mực nhận tội. Quan không thể quyết, giam cả hai. Họ hàng thân thuộc chê trách Thân.

Thân nói:

- Cái việc mà công tử làm, là việc ta muốn làm mà không làm được. Công tử đã làm thay cho ta, mà ta lại nở lòng ngồi nhìn công tử chết hay sao? Nay ta cứ coi như công tử chưa ra đầu thú là được rồi.

Rồi cứ giữ nguyên, không đổi lời khai, lại cố tranh tội với Thôi. Lâu về sau nha môn cũng biết duyên cớ, bắt Thân phải ra khỏi ngục, để Thôi chịu tội.

Ngày xử quyết đã gần đến, xảy có quan Tuất Hình Triệu Bộ Lang tới duyệt các án tù. Ðọc đến tên Thôi Mãnh, ông gạt hết mọi người ra rồi cho gọi vào.

Thôi vào, ngẩng nhìn lên công đường, thì là Tăng Kha. Vừa buồn vừa mừng, nói hết tình thực.

Triệu bồi hồi một lúc lâu, rồi vẫn truyền tống giam, dặn lính ngục phải đối đãi tử tế. Dần dần lấy cớ là đã biết tự thú được giảm đẳng, sung làm lính thú Vân Nam.

Thân cũng được đi theo để phục dịch. Chưa đầy một năm, được viện lệ ân xá mà về, đều là nhờ sức của Triệu cả.

Sau khi đã về, Thân vẫn theo không rời, nhận làm quản gia cho chàng, nhưng trả tiền không lấy, chỉ những thuật leo trèo đánh đá là chú tâm tập luyện.

Thôi đãi ngộ rất hậu, cưới vợ cho và cấp cho ruộng đất. Riêng Thôi, từ đó cố gắng sửa đổi tính nết cũ, mỗi khi sờ đến vết kim châm trên cánh tay, thì ràn rụa nước mắt.

Trong làng xóm có xảy ra việc gì, thì Thân tự thác mệnh Thôi lo liệu dàn xếp mà không bẩm cho Thôi hay.

Có viên giám sinh họ Vương, là nhà hào phú, bọn vô lại bất nhân bốn phương thường hay thậm thụt ra vào cửa hắn. Những nhà khá giả trong ấp phần lớn đều bị chúng cướp bóc, nếu có ai dám trái ý, hắn sai bọn cướp giết ngay ngoài đường. Con hắn cũng dâm bạo. Vương có một bà thím goá chồng. Cả hai cha con cùng gian dâm với bà. Vợ là Cừu thị mấy lần can ngăn Vương, Vương liền thắt cổ nàng cho chết.

Anh em họ Cừu kiện lên quan thì Vương đút lót để người cáo giác mình phải mang tội vu khống. Hai anh em chịu oan uất không có cách gì phân giải được, bèn tìm đến Thôi để kêu cầu, tố cáo.

Song bị Thân cự tuyệt đuổi đi. Vài ngày sau có khách đến, gặp lúc không có người hầu ở nhà. Thôi bảo Thân pha trà, Thân làm thinh đi ra nói với người khách rằng:

- Tôi với Thôi Mãnh chẳng qua cũng là bạn bè thôi. Theo nhau đi đày ở ngoài muôn dặm, không thể nói là không tận tình. Thế mà đã không trả công cho đồng nào lại sai khiến như đầy tớ, thì chịu sao cho nổi.

Nói xong, hằm hằm sắc mặt bỏ đi. Có người nói lại với Thôi. Thôi lấy làm lạ sao Thân đổi tính thay nết như vậy, nhưng cũng chưa coi là kỳ cho lắm. Bỗng Thân lên quan kiện Thôi ba năm không trả tiền công cho mình.

Thôi kinh dị quá, phải thân đứng ra đối chất . Thân phẫn uất tranh cãi.

Quan cho là lý không ngay thẳng, trách mắng, đuổi đi.

Lại mấy ngày sau, bỗng đang đêm Thân vào nhà họ Vương bắt cả hai cha con, người thím, người dâu giết tất rồi dán giấy vào vách, tự viết tên họ mình. Khi cho truy bắt thì đã đào vong mất tích.

Nhà họ Vương nghi cho Thôi Mãnh là chủ mưu. Quan không tin.

Thôi mới hiểu, câu chuyện kiện tụng Thân bày ra trước đây là vì sợ giết người sẽ liên luỵ đến mình. Các địa đầu châu ấp phụ cận truy nã rất gắt. Vừa lúc giặc Sấm nổi loạn, việc ấy mới xếp lại.

Chẳng bao lâu nhà Minh mất ngôi. Thân đem gia quyến về, lại nối tình thân với Thôi như xưa. Lúc bấy giờ, giặc cỏ tụ tập như ong. Vương có đứa cháu họ tên là Ðắc Nhân, tập họp bọn vô lại do chú chiêu mộ ngày trước, chiếm cứ núi non làm giặc kéo đi đốt cướp xóm làng.

Một đêm, chúng dốc hết cả sào huyệt kéo đến, rêu rao là để phục thù. Lúc đó Thôi không có nhà. Khi giặc phá cửa, Thân mới tỉnh dậy vượt qua tường nấp trong bóng tối.

Giặc sục sạo tìm Thôi, không thấy, bắt vợ Thôi, vơ vét của cải rồi đi.

Thân trở vào, chỉ có một người đầy tớ, phẫn chí đến cực điểm, bèn cắt một sợi dây thừng thành mấy chục khúc, đem những khúc ngắn trao cho người đầy tớ, còn mình giữ lấy những khúc dài. Dặn người đầy tớ phải vượt qua sào huyệt giặc, trèo lên lưng chừng núi, châm lửa vào dây thừng rồi treo lên các bụi gai, xong thì cứ bỏ đấy về ngay, đừng ngoái lại.

Người đầy tớ vâng lời ra đi.

Thân nhìn thấy bọn giặc đứa nào cũng thắt dây lưng đỏ, và buộc miếng the đỏ trên mũ, bèn cũng bắt chước nguỵ trang như vậy. Có một con ngựa cái đã già, mới đẻ con, giặc bỏ lại ngoài cửa. Thân buộc con ngựa con lại, cưỡi ngựa mẹ, ngậm tăm ra đi, thẳng đến ổ giặc.

Giặc đóng ở một thôn lớn.

Thân buộc ngựa ngoài thôn, trèo tường vào, thấy bọn giặc còn lăng xăng, rối rít, giáo mác cầm trên tay chưa kịp buông. Thân vồ hỏi mấy đứa, biết vợ Thôi còn ở chỗ tên Vương.

Một lát, nghe truyền lệnh cho quân nghỉ, tiếng dạ như sấm ran. Bỗng có người báo núi phía Ðông có lửa. Bọn giặc cùng nhau đứng trông. Lúc đầu mới chỉ có một hai chấm, rồi thì nhiều như sao sa.

Thân dồn hơi kêu lên rất gấp rằng mé núi phía Ðông có động! Tên Vương cả kinh, nai nịt lại, dẫn quân ra.

Thân thừa dịp tụt lại phía sau bọn chúng rồi quay mình đi luôn vào trong trại. Thấy hai tên giặc đứng canh ở dưới trướng. Chàng phỉnh chúng, nói:

- Vương tướng quân bỏ quên thanh bội đao ở đây!

Hai tên thay nhau tìm kiếm. Thân đứng đằng sau chém tới, một tên ngã nhào, đứa kia ngoảnh lại nhìn, Thân liền chém nốt. Rồi cõng vợ Thôi vượt tường mà ra, mở ngựa trao dây cương dặn:

- Nương tử không biết đường, cứ để mặc cho ngựa đi.

Ngựa nhớ con bon bon chạy. Thân theo sau, đến một hẻm núi, chàng châm lửa vào sợi dây thừng, treo khắp nơi rồi mới chạy về.

Ngày hôm sau Thôi trở về nhà, cho là điều đại sỉ nhục, bồn chồn, tức tối ra mặt, muốn đơn phương độc mã đi dẹp giặc. Thân phải can ngăn mới thôi. Bèn triệu tập người làng cùng bàn tính mưu kế.

Chúng đều khiếp sợ, không ai dám hưởng ứng. Giảng giải khuyên dụ đến vài bốn lần mới được hơn hai mươi người dám đi. Nhưng khổ nỗi lại không có khí giới. Vừa khi ấy lại trói hai tên gian tế trong một nhà bà con của Ðắc Nhân. Thôi muốn giết ngay, Thân không cho, hạ lệnh cho hai mươi người cầm gậy, dàn ra trước mặt, rồi cắt tai cả hai đứa mà thả cho về. Mọi người đều oán, nói rằng:

- Một đám quân gia thế này, đang sợ giặc nó biết được, thế mà lại cho hai thằng kia nhìn thấy hết. Nếu bất chợt chúng dốc toàn đội kéo xuống đây thì đóng cổng làng, cũng không sao giữ được!

Thân đáp:

- Chính tôi muốn cho chúng nó xuống!

Bèn cho bắt kẻ giấu giặc trong nhà đem giết đi. Rồi sai người đi mọi nơi mượn cung nỏ, súng kíp, lại lên ấp mượn hai cỗ pháo lớn.

Trời vừa tối, chàng dẫn tráng sĩ đến chỗ hẻm núi, đặt pháo vào nơi xung yếu, cho hai người cầm lửa nấp ở đấy, dặn hễ thấy giặc mới phát hoả.

Lại đi đến phía Ðông cửa hang, chặt cây đặt lên dốc núi.

Thế rồi Thân và Thôi mỗi người lĩnh một suất hơn mười người chia ra mai phục hai bên bờ. Gần hết canh một, xa xa nghe tiếng ngựa hí, ngầm xem xét, giặc quả ồ ạt kéo đến từng xâu dài, liên miên không dứt.

Chờ chúng đã đi vào cả trong lũng rồi, bèn đẩy cây lăn xuống để chặn đường về.

Một lát, tiếng pháo nổ ran, tiếng hò reo chuyển động cả khe núi. Giặc rút mau, dẫm đạp lên nhau, đến chỗ hẻm phía Ðông, không thoát ra được, dồn cục một đống. Hai bên bờ, tên đạn giáp công, khí thế như mưa bay gió cuốn. Quân giặc, đứa đứt đầu, đứa gãy chân, nằm gối lên nhau, ngổn ngang trong rãnh, chỉ sót lại hai mười đứa, quỳ gối xin chuộc mệnh; bèn sai người trói cả lại giải đi. Thừa thắng tiến thẳng lên sào huyệt giặc. Bọn giặc giữ trại nghe hơi chạy trốn sạch; bao nhiêu đồ đạc đều lục tìm kỳ hết đem về.

Thôi cả mừng, hỏi Thân về mưu kế đốt lửa. Thân nói:

- Ðốt lửa ở phía Ðông, vì sợ chúng đuổi ở bên Tây; dùng thừng ngắn là để cho mau cháy hết, vì sợ chúng dò biết là không có người; lại đốt ở cửa hang, vì sợ cửa hang rất hẹp, một người cũng đủ chặn giữ. Bọn chúng đuổi tới, thấy lửa, tất phải sợ. Ðó đều là hạ sách, mạo hiểm mà dùng trong lúc nhất thời thôi.

Bắt mấy tên giặc lên hỏi thì quả nhiên khi đuổi đến cửa hang thấy lửa, chúng đều hoảng sợ mà lui bước.

Hơn hai mươi tên cướp bắt được đều bị xẻo tai cắt mũi rồi thả cho về. Từ đó, họ Thôi và họ Thân uy danh lừng lẫy. Những người tị nạn xa gần theo về như chợ, vì vậy mà tổ chức được một đoàn dân binh hơn ba trăm người.

Bọn cường hào ở các nơi không dám phạm đến nữa; cả một vùng nhờ đó mà được yên.
__________________
You Are My Friend And I Hope
You Know That's True.
No Matter What Happens
I Will Stand Right By You.
In Times Of Grief
I Will Give You Belief.
I'll Be There For You
Whenever You Are In Need.
To Lend You A Hand
To Do A Good Deed.
So Just Call On Me When
You Need Me, My Friend!
I Will Always Be There For You
Right To The End!
~~~~~~~~~~***********~~~~~~~~~
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #22  
Old 10-05-2004, 12:29 AM
dethuong123 dethuong123 is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Sep 2004
Nơi Cư Ngụ: none
Bài gởi: 1,547
Send a message via AIM to dethuong123 Send a message via MSN to dethuong123 Send a message via Yahoo to dethuong123
Default

Bồ Tùng Linh:::
Liêu Trai Chí Dị

Thạch Thanh Hư


Hinh Vân Phi, người Thuận Thiên, thích đá, thấy đá đẹp, không tiếc tiền mua giá cao. Tinh cờ đánh cá ở sông, có vật vướng vào lưới, lặn xuống lấy thì được một tảng đá bề ngang bảy thước, bốn mặt long lanh, núi non trùng điệp kỳ tú. Hinh mừng lắm, như bắt được của báu. Trở về lấy gỗ đàn hương tía chạm thành cái đế bày ở đầu bàn. Mỗi khi trời sắp mưa thì các lỗ đá đùn mây, nhìn xa như bông đùn kín lỗ hổng.

Có nhà thế hào nọ, đến cửa xin cho xem, đoạn trao ngay cho một đứa đầy tớ khoẻ mạnh vác lấy, quất ngựa đi mất, Hinh không làm thế nào được, chỉ dậm chân uất ức mà thôi. Ðứa đầy tớ vác đá đến bờ sông nghỉ vai ở trên cầu, chợt tuột tay, đá rơi xuống sông. Nhà hào phú giận, lấy roi đánh đầy tớ, rồi bỏ ngay tiền ra, thuê người lặn giỏi, tìm đủ cách mò lên được, rút cuộc không thấy đâu cả. Từ đó,người mò đá ngày ngày kéo đến đầy sông, mà chẳng ai thấy được.

Sau đó, Hinh đến chỗ đá rơi, nhìn dòng sông mà than thở thì thấy nước trong suốt đáy, tảng đá vẫn ở dưới đó. Hinh mừng quá, cởi áo lặn xuống, ôm đá lên. Về nhà rồi không bày ở nhà sảnh nữa, dọn sạch phòng trong, đặt ở đó.

Một hôm, có một ông cụ gõ cửa xin xem đá. Hinh nói thác rằng đã mất đã lâu. Cụ cười mà rằng:

- Ở phòng khách không có sao?

Hinh bèn mời vào phòng khách, để chứng tỏ là không có thực. Vào đến nơi thì rõ ràng tảng đá này ở trên kỳ, ngạc nhiên không biết nói sao.

Ông cụ vỗ vào tảng đá nói rằng:

- Ðây là vật cũ của nhà tôi, mất đã lâu, vẫn còn ở đây à? Nay đã thấy xin cho lại.

Hinh quẫn quá, bèn tranh với ông cụ làm chủ tảng đá.

Ông cụ cười mà hỏi:

- Ðá là của nhà ông, lấy gì làm bằng?

Hinh không trả lời ra sao được. Ông cụ nói:

- Tôi thì biết rõ, trước và sau tảng đá có chín mươi hai lỗ, trong lỗ lớn có năm chữ: Thanh Hư Thiên Thạch Cung .

Hinh xem kỹ, trong lỗ ấy quả có hàng chữ nhỏ như hạt gạo, rán hắt sức nhin mới có thể thấy được; lại đếm lỗ, đúng như số ông cụ nói; Hinh không trả lời được, nhưng cũng cố chấp không chịu đưa. Ông cụ cười mà nói rằng:

- Của nhà ai mà ông đòi làm chủ ư?

Chắp tay vái chào đi ra. Hinh tiễn ra đến ngoài cửa, quay vào thì đá đã biến đâu mất. Hinh vội đuổi theo, thấy ông cụ thủng thỉnh bước đi cũng chưa xa, chạy tới kéo vạt áo mà van xin. Ông cụ nói:

- Lạ chưa, tảng đá bảy thước, há có thể cầm lấy giấu trong tay áo hay sao?

Hinh biết là thần, cố kéo về nhà, quì xuống van xin. Ông cụ bèn hỏi:

- Ðá đó thực là của nhà ông hay là của nhà tôi?

Hinh đáp:

- Quả là của nhà cụ, chỉ xin cụ dứt tình mà cho tôi.

Ông cụ nói:

- Ðã vậy thì đá vẫn ở đó.

Vào đến phòng trong thì đá vẫn nguyên chỗ cũ. Ông cụ nói:

- Của báu trong thiên hạ nên để cho người biết quý . Ðá này có thể tự chọn lấy chủ, tôi cũng mừng. Nhưng nó vội xuất hiện, ra mắt hơi sớm, ma kiếp chưa trừ, tôi thực muốn mang nó đi, đợi ba năm nữa mới đem tặng ông. Nếu muốn giữ nó ngay thì phải giảm tuổi thọ ba năm, nó mới có thể ở mãi với ông được. Ông có bằng lòng không?

Hinh đáp:

- Bằng lòng.

Ông cụ bèn lấy hai ngón tay đặt vào một lỗ đá, thấy đá mềm như bùn, theo ngón tay mà vít kín lại. Lần lượt vít ba lỗ. Ông cụ nói:

- Số lỗ trên đá là tuổi thọ của ông.

Xong rồi từ biệt mà đi. Hinh hết sức giữ lại, ông cụ nhất định từ chối; hỏi họ tên, cũng không nói, rồi đi ngay.

Ðược hơn một năm, Hinh có việc đi vắng, đêm có kẻ trộm vào buồng, chẳng lấy cái gì, chỉ lấy tảng đá mà mang đi. Hinh về tiếc tưởng chết, dò hỏi thuê tìm, tuyệt không ra vết tích. Ðược vài năm, tinh cờ vào chùa Báo Quốc, thấy có người bán đá, thì ra là vật cũ của minh, bèn nhận lấy. Người bán đá không chịu, nhân đó vác đá đến cửa quan.

Quan hỏi:

- Lấy gì làm bằng?

Người bán đá nói đúng số lỗ. Hinh hỏi còn gì khác nữa, người bán đá không nói được. Hinh bèn nói năm chữ trong lỗ, với ba vết ngón tay, lý ngay được tỏ.

Quan toan phạt đánh người bán đá, người ấy khai là mua ở chợ mất hai mươi đồng vàng, bèn tha.

Hinh lấy được đá về, lấy gấm bọc lại, cất vào trong rương, thỉnh thoảng mới lấy ra ngắm nghía một lần, đốt trầm trước rồi mới lấy đá ra.

Có ông thượng thư nọ đem một trăm đồng vàng đến mua. Hinh bảo:

- Dẫu là vạn lạng, cũng không đổi .

Thượng thư nổi giận ngầm lấy việc khác mà hãm hại. Hinh bị bắt, lo cầm bán hết điền sản chạy vạy. Thượng Thư nhờ người bắn tin cho con Hinh là muốn lấy đá. Con thưa với Hinh.

Hinh bằng lòng chết theo đá, không chịu bỏ. Vợ bàn riêng với con, dâng đá cho Thượng Thư. Hinh ra khỏi ngục mới biết, chửi vợ đánh con, nhiều lần toan thắt cổ chết, người nhà đã biết mà cứu thoát. Một đêm nằm mơ thấy một người đàn ông đến, tự xưng là Thạch Thanh Hư, bảo Hinh chớ buồn:

- Chỉ tạm biệt nhau hơn một năm thôi, ngày hai mươi tháng tám sang năm, lúc tờ mờ sáng, có thể đem hai quan tiền đến cửa Hải Ðại chuộc về.

Hinh được mộng, mừng rỡ, ghi cẩn thận ngày tháng. Còn tảng đá ở nhà thượng thư cũng mất vẻ kỳ lạ, không còn đùn mây nữa, lâu dần cũng coi thường. Năm sau thượng thư có tội, bị cách chức rồi chết.

Ðúng ngày hẹn, Hinh đi đến cửa Hải Ðại thì gia nhân quan thượng thư ăn cắp tảng đá đem ra đó, tìm người để bán, nhân đó Hinh bỏ hai quan tiền mua được về.

Về sau, Hinh sống đến tám mươi chín tuổi, tự sắm sửa quan quách, lại dặn con, hễ minh chết thì lấy đá chôn theo. Ðến khi mất, con vâng lời trối, chôn đá vào trong mộ. Ðược độ nửa năm, kẻ trộm đào mộ lấy đá đi. Người con biết nhưng không tìm hỏi ở đâu được. Qua hai năm, cùng đầy tớ đi trên đường, chợt thấy hai người mồ hôi nhễ nhại, chạy theo, ngửa mặt lên không đưa tay vái và nói:

- Hinh tiên sinh, tha cho chúng tôi, hai đứa lấy đá đi chẳng qua bán được bốn lạng bạc mà thôi.

Bèn bắt trói lại, đưa đến quan, quan hỏi tên liền phục tội ngay. Hỏi đến đá, thì nói là bán cho người họ Cung. Lấy đá đến, quan cầm xem rất thích, muốn chiếm, bèn sai cất vào kho. Viên lại vừa nâng tảng đá lên thì bỗng rơi xuống đất, vỡ làm mười mấy mảnh, ai nấy đều thất sắc. Quan cho cùm hai tên trộm, ghép vào tội chết.

Con Hinh nhặt các mảnh đá rồi lại đem chôn vào mộ như cũ.
__________________
You Are My Friend And I Hope
You Know That's True.
No Matter What Happens
I Will Stand Right By You.
In Times Of Grief
I Will Give You Belief.
I'll Be There For You
Whenever You Are In Need.
To Lend You A Hand
To Do A Good Deed.
So Just Call On Me When
You Need Me, My Friend!
I Will Always Be There For You
Right To The End!
~~~~~~~~~~***********~~~~~~~~~
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #23  
Old 10-05-2004, 12:31 AM
dethuong123 dethuong123 is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Sep 2004
Nơi Cư Ngụ: none
Bài gởi: 1,547
Send a message via AIM to dethuong123 Send a message via MSN to dethuong123 Send a message via Yahoo to dethuong123
Default

Bồ Tùng Linh:::
Liêu Trai Chí Dị

Công Tôn Hạ


Vùng Bảo Ðịnh có chàng Mỗ, học sinh rường Quốc Học, sắp vào kinh đi lo lót tiền để kiếm chức Huyện Doãn.

Ðang sửa soạn hành trang thì bị ốm, hơn một tháng không dậy được.

Bỗng đứa tiểu đồng vào thưa: Có khách đến.

Mỗ cũng quên cả bệnh, chạy ra đón khách.

Khách ăn mặc sang trọng, thuộc loại người quyền quí.

Mỗ vái chào mấy lượt rồi mời vào nhà, hỏi khách từ đâu tới.

Khách đáp:

- Tôi tên Tôn Công Hạ, môn khách của hoàng tử thứ mười một. Nghe tin ngài chuẩn bị hành trang vào kinh lo chức Huyện Doãn, ngài đã có chí ấy sao không lo ngay chức Thái Thú có hơn không?

Mỗ khiêm tốn từ chối, chỉ nói:

- Tôi tài lực mỏng không dám có ước vọng quá cao.

Khách tình nguyện cố gắng hết sức mình giúp Mỗ, bảo Mỗ hãy chỉ bỏ trước ra nửa số tiền thôi, nếu xong việc, sẽ đến nhậm sở lấy nốt.

Mỗ rất mừng, hỏi kế sách thế nào. Khách trả lời:

Tổng Ðốc, Tuần Phủ đều là bạn rất thân của tôi. Chỉ cần đưa tạm năm nghìn quan là mọi việc xong tất. Trước mắt, ở đất Chân Ðịnh chức Thái Thú đang khuyết, cần phải lo tính ngay.

Mỗ ngại là vị ở ngay tỉnh nhà. Khách cười bảo:

- Ngài khéo lo nghĩ vẩn vơ. Cứ chỉ có tiền là được rồi. Còn ai hỏi đến gỗ tang gỗ tử ấy ở đất Ngô hay đất Việt làm gì.

Mỗ rốt cuộc vẫn trù trừ, ngại rằng việc này hơi trái lẽ thường. Khách bảo:

- Không phải nghi ngờ gì nữa. Tôi xin nói thực với ngài: đây là chức Thành Hoàng ở dưới âm ty bị khuyết. Tuổi thọ của ngài đã hết. Sổ ma đã chấm rồi. Phải thừa dịp này mà xoay xở mới có thể trở thành người quý hiện ở âm phủ được.

Nói rồi lập tức đứng dậy từ biệt. Lại dặn:

- Ngài hãy tự suy tính đi, ba ngày nữa sẽ gặp lại.

Sau đó khách ra cổng, lên ngựa mà đi.

Mỗ bỗng mở mắt ra, vĩnh biệt vợ con, bảo mang tiền để dành của nhà đi mua một lạng thoi vàng giấy, đến nỗi vét hết mặt hàng đó trong quận, rồi đem chất đống giữa sân lẫn với trâu ngựa giấy, cùng các con nộm bằng rơm, đốt suốt đêm ngày, tro cao như núi.

Ba ngày sau khách đến thật. Mỗ đem tiền ra trao. Khách dẫn Mỗ đến ngay công thự. Thấy một vị quan ngồi ở trên điện, bàn sụp lạy.

Quỉ quan hỏi qua tên họ, đoạn khuyên Mỗ những câu như Thanh liêm, cẩn thận...ý rồi lấy văn bằng ra, gọi chàng tới trước án mà trao.

Mỗ rập đầu, ra khỏi cổng thự. Tự nghĩ: giám sinh vốn là chân thấp hèn, nếu không có xe cộ, quần áo rực rỡ thì không đủ để ra oai với bọn lại thuộc. Do đó, chàng sắm thêm xe, ngựa. Lại sai bọn lính ma đem chiếc xe kết hoa về đón người thiếp yêu của mình.

Cắt đặt vừa xong, thì đoàn nghi trượng từ Chân Ðịnh đã tới. Suốt đoạn đường hơn một dặm, kẻ đón người đưa, ồn ào tấp nập. Chàng thấy đắc ý lắm.

Bỗng toán đi trước ngừng chiêng trống, dẹp cờ quạt. Ðang khi ngơ ngác sợ hãi, thấy những người cưỡi ngựa đều nhảy cả xuống, phủ phục ở bên đường. Người chỉ thấp độ một thước, ngựa nhỏ bằng con hồ ly.

Người đi trước xe sợ hãi nói:

- Quan Ðế đến rồi.

Mỗ sợ quá, xuống xe phủ phục dưới đất. Từ xa trông thấy vị Ðế quân cùng bốn năm kỵ sĩ, lỏng cương từ từ đi tới. Bộ râu ngài tốt trùm cả má, không giống hẳn với hình dáng trong tranh ngưòi ta thường vẽ, nhưng thần thái thì uy nghi dũng mãnh. Mắt dài gần tới mang tai.

Quan Ðế ngồi trên ngựa hỏi:

- Quan nào đây?

Người đi theo đáp:

- Viên Thái Thú Chân Ðịnh.

Ðế quân nói:

- Ru rú một quận con con sao dám phô trương bề thế như vậy?

Mỗ nghe thấy, giật mình, sợ rợn gai ốc, co rúm người lại, tự thấy mình chỉ còn như đứa trẻ lên sáu bảy tuổi.

Ðế quân bảo dậy, đi bộ theo sau chân ngựa. Bên cạnh đường có toà cung điện, đế quân vào đó, ngồi ngoảnh mặt về hướng Nam, sai lấy bút giấy, đưa cho bảo tự ghi họ tên, quê quán vào đó.

Mỗ viết rồi trình lên. Ðế quân xem xong nổi giận nói:

Ðây là đứa bán hàng ở kẻ chợ, sao có thể giao cho trị dân được.

Lại sai xét trong sổ chép công tội. Bên cạnh đó là một người quì tâu, không rõ nói câu gì. Ðế quân lớn tiếng bảo:

- Cầu cạnh tiến thân là tội nhỏ, bán chác quan tước mới là tội nặng.

Bỗng thấy vị thần Kim Giáp cầm lấy dây xích ra đi ngay. Về phần Mỗ, có hai người bắt ra, lột hết mũ áo đánh cho năm chục roi, cặp mông hầu như rụng hết thịt, đoạn tống ra khỏi cổng.

Nhìn khắp bốn phía, xe ngựa đã sạch không. Mỗ đau đớn không thể bước đi được, đành nằm thở trên vạt cỏ. Nhận kỹ chỗ mình nằm thì thấy cách nhà không xa lắm. May sao thân nhẹ bỗng như tàu lá, nên mất một ngày một đêm mới bò về được đến nhà.

Thốt nhiên, chàng bừng dậy như đang mơ chợt tỉnh, rên rỉ trên giường. Người nhà xúm lại hỏi han. Mỗ chỉ kêu rằng bắp đùi đau lắm. Thì ra chàng bị mê man như chết đã bảy ngày rồi, đến lúc này mới tỉnh lại. Chàng nói:

- Cô Lân đâu, sao không tới?

Ðó là tên tự người vợ bé của Mỗ. Trước đây, cô Lân đang ngồi trò chuyện, bỗng nhiên nói:

- Ông ấy đã làm quan Thái thú quận Chân Ðịnh, sai lính về đây đón ta đấy.

Nói rồi trở vào buồng trang điểm thật đẹp, trang điểm xong thì chết, cũng mới qua một đêm thôi.

Nghe người nhà kể lại sự lạ đó, Mỗ hối hận đấm ngực, bảo để thi hài lại đó, không được chôn, hy vọng cô ta sẽ tỉnh lại. Nhưng qua mấy ngày vẫn không thấy tăm hơi gì, đành phải mai táng.

Bệnh của Mỗ đỡ dần, nhưng vết thương ở đùi lại rất nguy kịch, nửa năm mới dậy được. Chàng thường tự bảo:

- Tiền của để lo chức quan đã hao phí hết, lại chịu hình phạt tai ác dưới âm ty. Những thiệt thòi đó còn có thể chịu được, duy người thiếp yêu không biết đem đi đâu mất, thì những lúc canh khuya, chịu sao cho nổi.
__________________
You Are My Friend And I Hope
You Know That's True.
No Matter What Happens
I Will Stand Right By You.
In Times Of Grief
I Will Give You Belief.
I'll Be There For You
Whenever You Are In Need.
To Lend You A Hand
To Do A Good Deed.
So Just Call On Me When
You Need Me, My Friend!
I Will Always Be There For You
Right To The End!
~~~~~~~~~~***********~~~~~~~~~
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #24  
Old 10-05-2004, 12:32 AM
dethuong123 dethuong123 is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Sep 2004
Nơi Cư Ngụ: none
Bài gởi: 1,547
Send a message via AIM to dethuong123 Send a message via MSN to dethuong123 Send a message via Yahoo to dethuong123
Default

Bồ Tùng Linh:::
Liêu Trai Chí Dị

Thanh Mai


Thư sinh họ Trình ở Bạch Hạ là người lỗi lạc, không câu thúc. Một hôm, ở ngoài về, cởi thắt lưng, thấy đầu dây nằng nặng như có vật gì bám vào. Nhìn xuống không thấy gì. Ngoảnh đi ngoảnh lại có người con gái từ sau áo hiện ra, vén tóc mỉm cười, xinh đẹp tuyệt trần. Trình ngờ là ma. Cô gái nói:

- Thiếp không phải là ma, mà là hồ đây.

Trình nói:

- Ðã là giai nhân thì ma cũng không sợ, huống chi là hồ.

Bèn cùng nhau giao hoan. Hai năm sau, nàng sinh được đứa con gái, đặt tên là Thanh Mai.

Nàng thường khuyên Trình:

- Ðừng lấy vợ, tôi sẽ sinh con trai cho anh.

Trình tin lời bèn không lấy ai nữa.

Họ hàng bạn hữu đều chê cười, Trình xiêu lòng, lại lấy người con gái họ Vương ở Hồ Ðông.

Hồ nghe tin, tức giận, đến cho con gái bú rồi giao cho Trình nói:

- Ðây là món hàng phải bù tiền của anh, để nó sống hay giết nó đi đều tuỳ anh, tôi việc gì đi làm vú nuôi cho người?

Ðoạn ra cửa đi thẳng.

Khi Thanh Mai lớn lên thông minh, linh lợi, mà vẻ người thanh tú y hệt như mẹ. Ðược ít lâu, Trình bị bệnh chết, Vương thị cũng tái giá, gửi nuôi Thanh Mai ở người chú họ. Chú phóng đãng vô hạnh, định đem bán để kiếm lợi. Gặp có ông tiến sĩ họ Vương, còn ở nhà chờ bổ, nghe tiếng nàng thông minh, liền bỏ ra một món tiền lớn mua về để hầu hạ con gái là A Hỷ.

Hỷ vừa mười bốn, dung nhan tuyệt thế, thấy Thanh Mai vừa lòng lắm, cho ngủ chung một giường.

Thanh Mai cũng khéo léo hầu hạ, thường đón biết chủ, nên cả nhà đều yêu thương.

Trong vùng có chàng thư sinh họ Trương, tên là Giới Thụ, nhà nghèo xác, không có chút sản nghiệp, phải ở thuê căn nhà của ông Vương. Nhưng chàng nết na, hiếu thuận, không cẩu thả, lại chăm học.

Một hôm, Thanh Mai tình cờ sang nhà, thấy chàng ngồi trên một hòn đá ăn cháo tấm, vào nhà trong nói chuyện với mẹ chàng thì thấy trên bàn có cái dò lợn. Lúc ấy người cha đang ốm, chàng vào nâng cha dậy đi tiểu, nước tiểu dây bẩn ra áo chàng. Sợ ông cụ thấy sẽ ân hận, chàng vội giấu vết bẩn, tự ra ngoài giặt giũ.

Mai thấy thế lạ lắm, về kể chuyện đó rồi nói với cô chủ:

- Người khách thuê nhà của nhà ta không phải là người tầm thường, nương tử không muốn lấy người chồng xứng đáng thì thôi, còn muốn lấy được người xứng đáng thì chàng Trương chính là người ấy.

Cô gái sợ cha mẹ chê chàng nghèo, Mai nói:

- Không phải, việc này là do ở nương tử, nếu thấy được, em sẽ bảo riêng với cậu ấy để nhờ người làm mối. Phu nhân tất gọi nương tử đến bàn, bấy giờ nương tử chỉ vâng một tiếng là tốt đẹp thôi.

Cô gái lại sợ sau này nghào mãi, sẽ bị người ta chê cười. Mai nói:

- Em cam đoan là biết xem tướng kẻ sĩ trong thiên hạ, nhất định không nhầm.

Hôm sau, sang nhà nói chuyện với mẹ Trương.

Bà cụ hoảng hốt, cho lời cô gái là triệu chẳng lành. Mai bảo:

- Tiểu thư nghe nói đến công tử nhà, khen công tử là người có đức, cháu đã nhòm biết tứ như vậy, nên mới nói. Người mối đến, hai chúng tôi sẽ giúp thêm thì việc có thể xong. Bằng không được thì đối với công tử cũng có gì là nhục đâu?

Bà cụ nói : Ðược.

Bèn nhờ bà bán hoa, họ Hầu đến hỏi. Phu nhân nghe xong, buồn cười, nói lại với Vương. Vương cũng cười to. Gọi con gái đến, kể lại Hầu nhị. Cô gái chưa kịp trả lời, Thanh Mai đã hết sức tán tụng chàng là người hiền đức, quyết phải quý hiển. Vương phu nhân lại hỏi rằng:

- Ðây là việc trăm năm của mày, nếu có thể ăn cơm hẩm gạo lức được thì ta cũng bằng lòng cho.

Cô gái cúi đầu một lúc lâu, ngoảnh mặt vào vách nói:

- Giàu nghèo là số, nếu số tốt thì có nghèo cũng chẳng lâu, mà lâu dài sẽ không còn nghèo. Còn như số đã xấu thì tuy gấm vóc vương tôn mà có phải ít người không thước đất cắm dùi đâu? Việc này xin tuỳ thầy mẹ.

Lúc đầu Vương bàn với con gái cũng chỉ là muốn mua một trận cười, đến khi nghe thấy con nói vậy thì bụng không vui, nói:

- Mày muốn lấy gã họ Trương ư?

Cô gái không đáp. Lại hỏi, vẫn không đáp. Giận nói:

- Con này cốt cách bần tiện, chẳng muốn khá, định xách bị làm vợ thằng ăn mày, không biết xấu chết quách đi!

Cô gái đỏ mặt, uất giận, cố cầm nước mắt bước ra, bà mối cũng trốn mất.

Thanh Mai thấy việc không xong, muốn tự làm mối cho mình. Mấy hôm sau đang đêm đến nhà Trương. Chàng đang đọc sách, giật mình hỏi đến làm gì thì lời lẽ thổ lộ có phần úp mở. Chàng liền nghiêm nét mặt mà từ khước.

Mai khóc nói:

- Thiếp là con nhà tử tế, không phải là gái dâm bôn, chỉ vì thấy chàng là người hiền đức nên muốn đem thân để nương tựa.

Chàng nói:

- Nàng yêu tôi, bảo tôi là người hiền đức, mà việc đêm hôm ám muội, kẻ tự trọng cũng không làm nữa là người hiền đức ư. Trước lăng nhăng mà sau thành vợ chồng, người quân tử cũng cho là không nên, nữa là việc không thể thành được thì sau này hai bên đối xử với nhau thế nào?

Mai nói:

- Nếu vạn nhất mà thành được, thì có ra ơn cưu mang được không?

Chàng nói:

- Ðược người như nàng, lại còn mong gì hơn nữa. Nhưng có ba điều không thể, và không biết làm thế nào, nên không dám khinh dị mà nhận lời.

Mai hỏi:

- Là những gì?

Ðáp:

- Nàng không có khả năng tự chủ, nên không thể, thì biết làm thế nào? Dù có tự chủ mà thầy mẹ tôi không bằng lòng thì cũng không thể, vậy biết làm thế nào? Dù thầy mẹ tôi bằng lòng mà thân nàng cao giá, tôi nghèo không sao chuộc được, thì lại càng không thể, và biết làm thế nào? Thôi nàng về ngay cho, cái hiềm gốc mận ruộng dưa thật đáng sợ.

Mai sắp đi, lại dặn rằng:

- Nếu chàng có lòng thì xin cùng nhau lo toan.

Chàng nhận lời. Mai về, cô chủ hỏi đi đâu, bàn quỳ mà tự thú. Cô gái giận là dâm bôn, toan đánh. Mai khóc, biện bạch rằng không có điều gì khác, nhân mới kể thực tình. Cô gái thở dài nói:

- Không đi lại cẩu thả, thế là người có lễ; hỏi cha mẹ, thế là người có hiếu; không khinh dị mà nhận lời, thế là người có tín. Có ba đức tốt ấy, trời tất sẽ giúp. Người đó không lo nghèo đâu.

Ðoạn lại nói:

- Mày định thế nào?

Thanh Mai đáp:

- Làm vợ anh ấy.

Cô gái cười nói:

- Con ngây, mày tự chủ được ư?

Mai nói:

- Không được thì chỉ còn chết thôi.

Cô gái nói:

- Ta sẽ làm cho mày được như nguyện.

Mai cúi đầu mà vái. Lại vài hôm sau, nói với cô gái rằng:

- Hôm nọ cô nói là đùa chăng? Hay quả có lòng thương em thực? Nếu quả là thương thì còn việc nhỏ này nữa, xin rủ lòng thương cho trọn.

Cô gái hỏi việc gì. Ðáp:

- Chàng Trương không có tiền cưới mà tì này cũng không lấy gì để tự chuộc mình ra được. Nếu ông bà đòi nhiều tiền thì có gả em cũng như không gả thôi.

Cô gái trầm ngâm rồi nói:

- Việc này thì sức ta không làm nổi. Ta cho mày đi lấy chồng sợ còn chưa được, huống chi là bảo không đòi tiền chuộc, thì tất ông bà không nghe, mà ta cũng không dám nói đâu.

Thanh Mai nghe nói thế, nước mắt ròng ròng, chỉ xin nàng thương mà cứu vớt. Cô gái nghĩ lúc lâu, nói:

- Thôi thì ta còn để dành được một ít vàng, sẽ dốc túi ra giúp mày vậy.

Mai vái tạ, nhân lẻn sang bảo với Trương. Mẹ Trương mừng lắm, cố vay mượn khắp nơi, cộng được số tiền kha khá, cất đi đợi tin mừng.

Vừa gặp lúc Vương được bổ làm quan tạ ở Khúc ốc, Hỷ thừa dịp nói với mẹ:

- Thanh Mai tuổi đã lớn, nay nhà ta sắp chuyện đến nơi thầy trị nhậm, chi bằng cho nó ra.

Phu nhân vốn thấy Thanh Mai khôn ngoan quá, sợ lại dẫn con gái vào đường bất nghĩa, cũng định đem gả đi mà sợ con gái không vui. Nay nghe con nói, mừng quá. Hai hôm sau, có bà mối đến tỏ bày định của Trương Thị. Vương cười nói:

- Nhà đó thì xứng đôi với thị tỳ nhà ta rồi; trước kia sao lại càn rỡ thế. Nhưng nếu bán nó làm tỳ thiếp ở cửa nhà quan thì được giá gấp đôi hồi mua đấy.

Cô gái vội bước lên nói:

- Thanh Mai hầu hạ con đã lâu, nếu đem bán nó làm hầu thiếp, thì thật không nỡ.

Vương bàn truyền cho nhà họ Trương mang tiền trả nguyên số sẽ gả Thanh Mai cho chàng.

Khi đã về nhà chồng, nàng hầu hạ cha mẹ chồng rất hiếu, chiều chuộng còn hơn cả con trai chiều bố mẹ, làm lụng rất siêng năng, ăn rau cám không lấy làm khổ. Vì thế cả nhà ai cũng yêu kính Thanh Mai. Mai lại làm thêm nghề thêu thùa, bán chạy lắm người mua đợi ở cửa chỉ sợ không mua được. Ðược thêm món tiền, nhà cũng đỡ túng. Nàng lại thường khuyên chàng chớ lo việc nhà mà lỡ việc học, nhà cửa cứ phó mặc cho nàng. Nhân ông chủ đi nhậm chức, nàng sang tiễn A Hỷ, Hỷ trông thấy khóc mà nói:

- Em được toại nguyện rồi, ta cũng không bằng.

Mai đáp:

- Ðược thế này là ai cho em mà dám quên, nhưng cô đừng bảo là không bằng con hầu, e lại giảm tuổi thọ của con hầu đi đấy.

Bèn khóc mà biệt nhau.

Vương đến đất Tấn được nửa năm thì phu nhân chết, quan tài quàn ở trong chùa. Lại hai năm sau, Vương vì tham tang bị cách chức, phải bồi thường hàng vạn, dần dần nghèo túng, không đủ ăn, đầy tớ cũng bỏ đi. Bấy giờ bệnh đậu lan rộng, Vương mắc bệnh rồi chết, chỉ còn một vú già ở với cô con gái; chẳng bao lâu vú già cũng chết nốt. Nàng càng lênh đênh cơ khổ. Có bà cụ hàng xóm khuyên đi lấy chồng, nàng nói:

- Ai chôn cất được cha mẹ tôi, tôi sẽ xin theo.

Bà cụ thương tình tặng cho mấy đấu gạo rồi đi. Nửa tháng sau lại đến nói:

- Tôi đã hết sức giúp nương tử, nhưng việc này khó quá! Người nghèo thì không sao chôn cất được, mà kẻ giàu thì chê cô là con gái của một gia đình sa sút, biết làm thế nào. Có một cách này, chỉ sợ nương tử không theo được thôi.

Nàng hỏi:

- Cách gì?

Nói rằng:

- Ở gần đây có một chàng họ Lý, muốn lấy vợ lẽ; nếu được trông thấy dung nhan thì dầu có bảo tống táng thật linh đình, hền cũng chịu cáng đáng mà không tiếc.

Nàng khóc oà lên, nói:

- Thiếp là con nhà quan, mà phải đi làm lẽ người ta ư?

Bà cụ không nói gì, bỏ đi. Sau đấy, mỗi ngày chỉ được một bữa, gắng sống để chờ xem có ai hỏi không, nhưng ở được nửa năm thì không chịu được nữa. Một hôm bà cụ đến, nàng khóc lóc nói:

- Khốn đốn thế này, vẫn chỉ muốn chết, còn dùng dắng sống tạm bợ đây là vì hai cỗ quan tài còn đó. Nếu đã đâm đầu xuống ngòi xuống rãnh rồi thì ai thu nhặt nắm xương cho cha mẹ? Cho nên nghĩ lại chẳng bằng nghe lời bà vậy.

Bà cụ dẫn Lý đến. Thoáng trông thấy nàng, anh ta thích lắm, tức thì bỏ tiền ra lo việc tống táng, cả hai cỗ quan tài cũng đưa đi, xong rồi mới đón nàng về. Vào nhà chào vợ cả, vợ cả vốn hung hãn, lại cả ghen, lúc đầu Lý cũng chưa dám nói là thiếp, chỉ nói thác là mua tỳ. Ðến khi thấy nàng thì nổi giận đùng đùng, liền vác gậy đuổi thẳng không cho vào nhà. Nàng rũ tóc, nước mắt giàn giụa, không biết tiến thoái đằng nào. Có một ni sư già đi qua, rủ về cùng ở.

Nàng mừng bèn theo về.

Ðến am, nàng vái xin làm lễ cắt tóc, bà sư không cho nói:

- Tôi trông nương tử không phải chịu đày đoạ lâu trong cảnh phong trần. Am đây dưa muối gạo lức, kham khổ cũng đủ no, hẵng cứ tạm ở để đợi thời, thời đến nương tử khắc sẽ đi!

Ở được ít lâu, bọn vô lại trong chợ dòm thấy nàng đẹp, cứ đến đập cửa, buông lời trêu ghẹo làm vui. Bà sư không ngăn được. Nàng kêu khóc toan tự tử. Bà sư đến cầu xin ông nọ ở bộ Lại yết thị nghiêm cấm, lũ thiếu niên ác nghịch kia mới hơi né tránh. Sau đang đêm có kẻ đào tường vào nhà chùa, bà sư kêu lên bộ, bắt được đứa cầm đầu, đưa về quận phạt đòn, mới dần dần được yên.

Lại được hơn một năm, có một công tử thế gia đi qua am thấy nàng, kinh ngạc lắm, ép bà sư dỗ dành nàng, lại đem nhiều tiền đến đút lót cho bà sư. Bà sư mềm mỏng nói rằng:

- Người ấy con nhà trâm anh, không chịu làm lẽ, công tử cứ về đi, rồi thong thả xin bẩm lại.

Lúc y đi rồi, nàng toan uống thuốc độc tự tử, bỗng đêm nằm mộng thấy cha đến, mặt mày đau khổ, nói rằng: Ta không theo con, để con đến nỗi này, ăn năn thì đã muộn rồi, nhưng con hãy khoan, đừng chết vội, ước nguyện của con còn có thể đạt được. Nàng lấy làm lạ. Trời sáng, rửa mặt xong, bà sư trông thấy giật mình nói:

- Trông sắc mặt nương tử, trọc khí đã tiêu hết, tai ương không đáng lo nữa. Phúc sẽ lại đến, đừng quên thân già này nhé.

Nói chưa dứt lời, nghe có tiếng gõ cửa, nàng sợ thất sắc, nghĩ bụng tất là đầy tớ nhà công tử nọ. Bà sư mở cửa, quả thế thực. Bọn đầy tớ xúm lại hỏi việc mưu tính thế nào. Bà sư ngọt ngào đon đả, xin hoãn ba ngày nữa. Chúng thuật lại lời chủ:

- Nếu việc không xong, bắt bà nói thế vào.

Bà sư vâng dạ chúng mới đi. Cô gái đau đớn lắm, lại muốn tự tử, bà sư ngăn lại. Nàng lo rằng ba ngày nữa chúng trở lại sẽ không biết nói thế nào. Bà sư nói:

- Còn thân già này đây, chém giết tôi xin chịu.

Hôm sau, trời vừa trưa thì mưa như trút nước. Bỗng nghe có mấy người đập cổng, réo gọi ồn ào; nàng tưởng lại có biến, khiếp sợ không biết làm thế nào. Bà sư đội mưa ra mở cổng, thấy chiếc kiệu đỗ lại, một đám thị tỳ đỡ một người đẹp bước ra, kẻ hầu người hạ thầy tớ oai vệ, mũ lọng rất lộng lẫy. Kinh ngạc hỏi thăm; đáp rằng:

- Ðây là bà nội tướng quan tư lý tạm vào tránh mưa.

Bà dẫn vào trong điện, chuyển sập mời ngồi; bọn người nhà thị tỳ chạy vào các phòng trai tìm chỗ nghỉ. Vào trong buồng thấy nàng, cho là đẹp, liền chạy ra bẩm với phu nhân.

Một lúc mưa tạnh phu nhân đứng lên xin đi thăm thiền xá trong am. Bà sư bèn đưa vào. Trông thấy cô gái kinh ngạc quá, cứ nhìn chằm chằm, không chớp mắt, nàng cũng nhìn lại rất lâu. Thì ra phu nhân không phải là ai khác, chính là Thanh Mai. Hai người đều khóc nức nở, nhân mới cùng kể lại sau xưa. Mới biết Trương ông đã ốm mà mất. Chàng Trương sau khi hết tang, đỗ liền thi hương, thi hội, được bổ làm quan tư lý. Chàng rước mẹ cùng đi, sau lại dời cả gia quyến đến.

Cô gái than thở nói:

- Hôm nay trông nhau mà sao như một trời một vực!

Mai cười, đáp:

- Cũng may nương tử gặp bước gian truân, chưa lấy ai, chính là trời muốn cho chúng ta sum họp đấy thôi. Nếu không bị mưa cản thì làm gì có cuộc gặp gỡ bất ngờ này? Trong việc này có quỷ thần chứ không phải sức người làm được.

Liền lấy mũ ngọc, áo gấm, giục cô gái thay. Nàng cúi đầu bỡ ngỡ. Bà sư cũng khuyên thêm. Nàng sợ cùng ở chung thì danh không được thuận. Mai nói:

- Danh phận đã có từ trước, thiếp đâu dám quên đức lớn, vả nghĩ chàng Trương đâu phải là người phụ nghĩa? ép thay quần áo rồi từ biệt sư bà mà đi.

Về đến nơi, mẹ con đều mừng. Nàng sụp xuống lạy nói:

- Ngày nay không còn mặt nào dám trông thấy mẹ!

Mẹ cười khuyên giải; nhân mới bàn chọn ngày làm lễ hợp cẩn. Cô gái nói:

- Nếu trong am mà còn đường sống, dù chỉ bằng sợi tơ, thì cũng không theo phu nhân đến đây; ví như còn nghĩ đến tình cũ, thì xin cất cho một túp lều để đặt tấm bồ đoàn niệm Phật, thế là đủ rồi.

Mai cười mà không nói gì. Ðến ngày, ôm các thứ trang sức lộng lẫy, nàng loay hoay không biết là thế nào. Giây lát bỗng nghe tiếng nhạc nổi lên, nàng càng không tự chủ được. Mai sai thị tỳ, u già ép nàng mặc áo rồi xốc tay đỡ đưa ra. Thấy chàng mũ áo đứng vái, nàng bất giác cũng ngơ ngẩn vái theo. Lễ xong, Mai kéo nàng vào động phòng, bảo rằng:

- Ngôi vị này bỏ trống, đợi chị đã lâu rồi.

Rồi lại ngoảnh vào chàng nói đùa:

- Ðêm nay được dịp đền ơn, phải làm cho tròn nhé.

Quay ra toan đi. Cô gái nắm lấy quần. Mai cười nói:

- Ðừng giữ em lại, việc này không thể làm thay nhau được.

Rồi gỡ tay thoát ra.

Thanh Mai đối xử với cô gái rất kính cẩn, không dám giành riêng phần ân ái. Mà cô gái vẫn thẹn thùng không yên tâm. Vì vậy, bà mẹ bắt gọi cùng nhau là phu nhân, nhưng Thanh Mai rốt cục vẫn giữ lễ tỳ thiếp, không dám lơ là.

Ba năm sau, Trương được triệu vào kinh đô, đi qua am cũ của bà sư, đem năm trăm lạng vàng để tạ ơn sư bà; bà sư không nhận, cố ép mới nhận hai trăm lạng để dựng đền đại sĩ và lập bia cho Vương phu nhân. Sau Trương đến làm thị lang. Trình phu nhân sinh được hai trai, một gái. Vương phu nhân sinh được bốn trai, một gái. Trương dâng thư trần tình, hai người đều được phong làm phu nhân.
__________________
You Are My Friend And I Hope
You Know That's True.
No Matter What Happens
I Will Stand Right By You.
In Times Of Grief
I Will Give You Belief.
I'll Be There For You
Whenever You Are In Need.
To Lend You A Hand
To Do A Good Deed.
So Just Call On Me When
You Need Me, My Friend!
I Will Always Be There For You
Right To The End!
~~~~~~~~~~***********~~~~~~~~~
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #25  
Old 10-05-2004, 12:37 AM
dethuong123 dethuong123 is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Sep 2004
Nơi Cư Ngụ: none
Bài gởi: 1,547
Send a message via AIM to dethuong123 Send a message via MSN to dethuong123 Send a message via Yahoo to dethuong123
Default

Bồ Tùng Linh:::
Liêu Trai Chí Dị

Xảo Nương


Miền Quảng Ðông có thân hào họ Phố, tuổi ngoại sáu mươi, sinh một trai tên là Liêm, rất thông tuệ, nhưng chẳng may bị trời hoạn, mười bảy tuổi mà dương vật chỉ nhỏ như con tằm. Xa gần biết chuyện, không một nhà con gái nào dám hứa gả. Tự nghĩ phận mình dòng dõi đã tuyệt, ngày đêm lo lắng không biết làm thế nào.

Liêm theo thầy học tập, một hôm nhân thầy đi vắng, ngoài cửa có gánh xiếc khỉ, bèn bỏ học đi xem. Ðến chừng đoán thầy sắp về đắn nơi, sợ hãi, bỏ trốn luôn. Rời nhà được mấy dặm, trông thấy một nàng áo trắng dắt một con hầu nhỏ đang đi ở phía trước. Một lần cô gái quay đầu lại, thì ra khuôn mặt diễm lệ ít ai sánh được. Gót sen bước có vẻ chậm rãi, Liêm vội đi vượt lên. Cô gái quay sang nói với con hầu:

- Thử hỏi chàng xem có phải định đến kẻ Quỳnh không?

Con hầu bàn gọi chàng hỏi. Liêm hỏi lại rằng có việc gì. Cô gái đáp:

- Ví thử có đi Quỳnh thì có phong thư, phiền chàng tiện đường đưa giúp về nhà hộ. Mẹ già tôi ở nhà cũng là người hiếu khách.

Liêm lúc ra đi vốn cũng chưa định đi đâu. Nghĩ rằng lênh đênh hồ hải một chuên cũng hay, bàn nhận lời. Cô gái liền rút lá thư đưa con hầu, con hầu trao lại cho chàng. Hỏi họ tên quê quán người nhận thì nàng đáêáêáêášên

- Họ Hoa, ở làng gái Tần, cách thành Bắc chừng ba bốn dặm.

Chàng bàn đáp thuyền mà đi. Ðến được thành Bắc đất Quỳnh Châu vào lúc trời đã chiều tối. Hỏi thăm thôn gái họ Tần thì chẳng một ai biết cả. Ðành nhắm hướng Bắc mà đi, được chừng bốn năm dặm thì trăng sao đã hiện lên nhấp nháy, cỏ dại thơm lừng trải dài mờ cả mắt, chốn đồng không chẳng có lấy một quán trọ nào; tình cảnh thật khốn quẫn. Nhìn thấy một ngôi mộ bên đường, nghĩ muốn nằm nghỉ quách bên ngôi mộ đó, nhưng lại khiếp sợ hổ lang. Bèn ôm cây trèo lên, ngồi chồm chỗm trên ngọn cao. Nghe tiếng thông reo xào xạc, côn trùng tỷ tê, trong lòng thảng thốt, hối hận như thiêu như đốt. Thốt nhiên nghe bên dưới có tiếng người. Cúi đầu nhòm xuống, thì rành rành đã là một nơi sân viện; một cô gái xinh đẹp ngồi trên phiến đá, hai con hầu vấn tóc châm đuốc hoa đứng hầu hai bên. Người đẹp quay đầu sang bên trái bảo:

- Ðêm nay trăng sáng sao thưa, gói trà cô Hoa vừa tặng có thể đem pha một ấm uống thưởng thức đêm thanh được đấy.

Chàng nghĩ đây hẳn là ma quỷ, trong mình sởn cả gai ốc, nín hơi không dám thở. Chợt một con hầu nhìn lên nói:

- Trên cây có người.

Cô hãi kinh hãi đứng bật dậy kêu lên:

- Trẻ ranh lớn mật ở đâu dám mò đến đây nhòm trộm người khác!

Chàng cả sợ, không còn chỗ nào để trốn nữa, đành ôm cây tụt xuống, phục xuống đất xin tha thứ. Cô gái đến gần, đưa mắt nhìn qua một lượt, chợt đổi giận làm vui, kéo chàng dậy cùnng ngồi. Chàng liếc mắt ngó nàng, thì tuổi khoảng mười bảy mười tám, vẻ người xinh đẹp có một. Nghe giọng nói cũng tiếng vùng này, nàng hỏi:

- Chàng đi đâu đây?

Ðáp rằng:

- Có người nhờ đưa giúp lá thư.

Nàng nói:

- Ðồng hoang khối khách ăn đêm, ngủ giữa trời sương rất đáng ngại. Nắu chẳng hiềm nhà tranh vách đất, xin mời vào nghỉ tạm.

Nói rồi đưa chàng vào nhà. Trong nhà chỉ có một chiếc giường, nàng sai con hầu sắp hai tấm chăn lên đấy. Chàng tự thẹn thân hình khiếm khuyết, xin nằm ở dưới đất. Nàng cười đáp:

- Khách quý đến nhà, con gái đâu dám thất lễ, đòi nằm cao hơn khách

Chàng không biết tính sao đành phải nằm chung một giường, nhưng trong lòng hoang mang lo lắng, không dám tự tiện co duỗi. Chẳng bao lâu, cô gái luồn bàn tay nhỏ nhắn qua lớp chăn, cấu nhẹ vào đùi chàng. Chàng vờ ngủ, như không biết gì. Lại một chốc nữa, nàng mở chăn ra chui hẳn sang, lay chàng, chàng vẫn nằm im không động. Nàng thuận tay lần xuống thám thính chỗ kín, bỗng ngừng ngay lại, dáng buồn thiu, rồi thiểu não lật chăn trở dậy; giây lát nghe có tiếng khóc. Chàng bàng hoàng cả người, không biết chui vào đâu cho hết thẹn, lại giận trời kia sao nỡ bắt người ta phải khuyết tật. Cô gái gọi con hầu thắp đèn lên. Nhìn thấy mặt nàng còn ngấn lệ, con hầu kinh ngạc có điều gì buồn. Nàng lắc đầu đáp:

- Ta tự thương phận mình bạc thôi!

Con hầu đứng trước giường, nhìn chằm chằm xuống mặt chàng. Nàng bảo:

- Hãy gọi anh ta dậy rồi bảo xéo đi!

Nghe mấy lời ấy chàng bội phần xấu hổ. Lại thêm lo đang giữa đêm hôm, tối tăm mù mịt chẳng biết đâu mà đi. Giữa lúc còn dùng dằng chưa quyết đi một người đàn bà đẩy cửa bước vào. Con hầu thưa:

- Cô Hoa đã về.

Chàng hé mắt nhìn trộm thì thấy bà này tuổi đã ngoại năm mươi, nhưng còn giữ được phong vận. Thấy cô gái chưa ngủ, bà liền hỏi duyên cớ. Nàng chưa kịp đáp thì lại thấy trên giường có người nằm, bèn hỏi:

- Nằm cùng giường là ai đấy?

Con hầu trả lời thay:

- Lúc tối có một chàng trai trẻ đến đây xin ngủ nhờ.

Bà liền cười:

- Biết đâu Xảo Nương hôm nay vui vầy đuốc hoa cơ chứ!

Chợt thấy cô gái ngấn lệ chưa khô, bà kinh ngạc hỏi:

- Ðêm hợp cẩn mà lại buồn bã khóc lóc không phải cách; chẳng lẽ chàng rạ thô bạo lắm sao?

Nàng không đáp, mặt càng thêm âu sầu. Bà ta định kéo vạt áo để nhìn rõ chàng, vừa động đến áo thì phong thư rơi xuống giường. Nhặt lên xem bà bỗng sợ hãi nói:

- Chừng nét chữ của con gái tôi đây mà-

Mở ra đọc, bà than lên một tiếng chua xót. Cô gái hỏi nguồn cơn thì bà đáp:

- Ðây là thư của con Ba báo tin nhà, nói rằng chàng Ngô chồng nó đã mất, nó nay trơ trọi không nơi nương tựa. Chưa biết tính thế nào.

Cô gái tiếp:

- Ban nãy anh ta nói là chuyển giúp lá thư cho ai đó, may mà tôi chưa đuổi đi.

Bà già gọi chàng dậy, hỏi rõ nguyên ủy lá thư. Chàng kể tình đầu. Bà bảo:

- Xa xôi làm phiền lặn lội đưa thư, nay biết lấy gì báo đáp!

Lại ngắm kỹ chàng rồi cười, hỏi:

- Vì sao lại làm trái Xảo Nươi

Chàng đáp:

- Chẳng biết mình có tội gì.

Bà quay sang hỏi cô gái. Nàng than rằng:

- Chỉ thương cho thân mình, sống đã vớ phải anh chồng lại cái, chết cũng lại nhà đứa bị thiến mà ăn nằm. Vì thế mà tủi thôi.

Bà già quay lại nhìn chàng nói:

- Thông minh linh lợi thế này, vốn là trống mà hoá ra lại là mái ư? Thôi thì khách nhà tôi, không thể làm phiền người khác mãi thế được.

Nói rồi dẫn chàng sang chái nhà phía Ðông, đưa tay sờ xuống khố mà khám nghiệm, rồi vừa cười vừa nói:

- Chẳng trách nào Xảo Nương khóc hết nước mắt cũng phải. Nhưng may vẫn còn chút cuống rễ. Còn có thể cố sức được.

Bèn khêu đèn, lục hết hòm rương, lấy ra một viên thuốc màu đen trao cho chàng, bảo nuốt ngay, lại dặn nhỏ rằng đừng cử động. Rồi đi ra.

Còn lại một mình chàng nằm nghĩ ngợi, không biết thuốc chữa chứng bệnh gì. Chừng khoảng canh năm tỉnh dậy, cảm thấy dưới rốn một luồng hơi nóng xông thẳng vào chỗ kín, lại lùng như có vật gì treo ở khoảng dưới háng. Ðưa tay sờ thử, thì ra mình đã thành một gã đàn ông hẳn hoi. Trong lòng mừng đến thảng thốt, giống như vị thượng quan thình lình được trao chín vật báu.

Khi hừng đông lờ mờ ở chấn song thì bà già trở lại, đem bánh mới hấp vào buồng cho chàng, lại dặn hãy cứ ngồi yên, rồi khoá trái cửa lại, ra ngoài nói với Xảo Nương rằng:

- Anh chàng vất vả mang thư đến đây, hãy giữ lại đấy, gọi con Ba về, cho nó kết nghĩa chị em. Với lại, cũng phải đóng cửa để khỏi người ta buồn chán.

Nói rồi ra cửa mà đi.

Chàng quẩn quanh mãi đâm buồn, thỉnh thoảng lại đến gần khe cửa, y như con chim ngó trộm qua nan lồng. Trông xa thấy Xảo Nương cũng muốn gọi lại báo rõ sự tình, nhưng e thẹn ngập ngừng nên lại thôi. Mãi đến tối mịt bà già mới dẫn con gái trở về. Vừa đẩy cửa đã lên tiếng:

- Ðể sầu muộn giết mất lang quân rồi! Con Ba hãy vào mà bái tạ đi!

Cô gái gặp trên đường mấy bữa trước rụt rè bước vào, ngước nhìn chàng, e ấp vái chào. Bà mẹ bảo họ gọi nhau bằng anh em. Xảo Nương cười:

- Gọi là chị em gái cũng được.

Rồi cùng kéo nhau ra gian giữa, ngồi quay quẩn quanh mâm rượu. Uống được vài chén, Xảo Nương hỏi đùa:

- Người hoạn thấy sắc cũng động lòng chứ?

Chàng đáp:

- Thì chân què vẫn nhớ đến giày; Mắt loà vẫn cứ loay hoay muốn nhìn mà!

Ai nấy cùng cười rộ. Xảo Nương lấy cớ Tam Nương vừa đi đường mệt nhọc, ép cô phải đi nghỉ. Bà mẹ quay sang Tam Nương, bảo cùng nằm chung với chàng. Tam Nương xấu hổ mặt đỏ bừng, không chịu đi. Bà mẹ bảo:

- Ðây là trượng phu mà cũng là cân quắc, còn có gì mà sợ?

Rồi giục hai người vào buồng, lại dặn riêng chàng:

- Trong thì làm rễ ngoài cứ vờ làm con ta cũng được.

Chàng mừng rỡ, nắm cánh tay nàng dắt lên giường. Như dao sắc mới mài lần đầu đem thử, khoái trá thế nào cũng có thể biết rõ. Trong lúc đầu gối tay ấp, hỏi nàng:

- Xảo Nương là người như thế nào?

Ðáp:

- Là ma đấy. Tài sắc vô song nhưng số phận lại thường gập ghềnh trắc trở. Lấy phải cậu út nhà họ Mao, bị bệnh liệt dương, mười tám tuổi đầu vẫn chẳng nên hồn. Vì thề ẩn ức không vơi được, ôm hận mà chết.

Chàng thất kinh, ngờ Tam Nương cũng là ma. Nàng nói:

- Nói thật với chàng, thiếp chẳng phải ma mà là hồ. Xảo Nương sống lẻ loi không có đôi mà mẹ con thiếp lại không có nhà, nên mượn tạm căn nhà này ở nhờ.

Chàng rất ngạc nhiên. Nàng nói:

- Ðừng ngại. Tuy là ma là hồ, nhưng không gây hoạ cho nhau đâu.

Từ đấy, hàng ngày họ thường cùng nhau chuyện trò, yến ẩm. Dẫu biết Xảo Nương chẳng phải là người mà lòng chàng vẫn quyắn luyến nhan sắc. Chỉ hận một nỗi muốn được hiến cho nàng mà không có dịp. Chàng vốn là người hoà nhã, lại giỏi yêu chiều pha trò, nên dần được Xảo Nương rất thươu

Một hôm, mẹ con họ Hoa có việc đi vắng, lại đóng cửa nhốt chàng ở trong buồng. Chàng tức bực, loanh quanh trong nhà mãi rồi đứng cách lần cửa gọi Xảo Nương. Xảo Nương bảo con hầu đem chìa khoá ra thử, mấy lượt thì cửa mở. Chàng ghé tai xin gặp riêng. Xảo Nương bảo con hầu đi chỗ khác, chàng liền kéo nàng lên giường và nằm áp lại. Nàng đùa cợt, đưa tay sờ phía xuống dưới rốn mà bảo:

- Ðến là tiếc! Chỗ này lại khuyắt mất rồi!

Nói chưa dứt lời thì tay đã chạm phải vật gì, tày một nắm, hoảng hốt kêu lên:

- Sao trước lờ mờ có thấy gì đâu mà nay đã lớn vổng lên nhanh thế?

Chàng cười đáp:

- Trước xấu hổ vì phải sắm vai khách nên nó rụt lại. Nay bị phỉ báng quá không chịu nổi, nên nó làm con ếch giận dữ đấy thôi!

Bèn cùng nhau giao hoan. Xong xuôi nàng mới chợt nghĩ ra, tức tối nói:

- Thì ra nay mới biết đóng cửa là có duyên cớ. Hồi trước cả hai mẹ con lênh đênh không nơi nương náu, đã nhường nhà cho mà ở. Rồi Tam Nương theo học thêu thùa, cũng lại hết lòng bày vẽ, không giấu giếm tí gì. Thế mà nay lại sinh lòng đố kỵ thế đ giấu

Chàng phải lựa lời khuyên giải, lại lấy tình thực mà nói, nhưng Xảo Như vẫn hậm hực mãi. Chàng bảo:

- Giữ kín đấy nhé! Cô Hoa dặn tôi nghiêm lắm.

Nói chưa dứt lời thì Hoa Cô đã đẩy cửa bước vào. Hai người vội vàng nhỏm dậy. Hoa Cô trừng mắt hỏi:

- Ai mở cửa?

Xảo Nương cười chặn lời, tự nhận mình mở cửa. Hoa Cô càng giận, quát mắng mãi không thôi. Xảo Nương vẫn cười mỉa, đáp:

- Mẹ này mới thật nực cười chứ! Ðã là trượng phu mà cũng cân quắc thì còn làm được gì nữa?

Tam Nương thấy mẹ mình và Xảo Nương ra sức khích bác lẫn nhau, trong lòng không yên, bàn đứng ra can ngăn, cả hai mới đổi giận làm lành. Xảo Nương lời lẽ dẫu gay gắt, nhưng xem từ đấy đã muốn nhún mình thờ Tam Nương làm chị. Chỉ hiềm Hoa Cô ngày đêm canh phòng ráo riết, nên đôi tình nhân không thể tự do thổ lộ, chỉ biết đầu mày cuối mắt đưa tình mà thô xem

Một hôm Hoa Cô bảo chàng rằng:

- Cả hai chị em chúng nó đều đã hầu hạ anh. Nhưng nghĩ lại, sống ở đây không phải là kế lâu dài. Vậy anh nên về trình với cha mẹ để sớm tính chuyện đính ước trăm năm thì hơn.

Liền đấy, bà sắm sửa hành trang, giục chàng lên đường. Hai cô gái nhìn chàng, mặt mày ủ rũ, mà Xảo Nương càng như không chịu nổi, lệ ròng ròng như châu sa, không lúc nào dứt. Hoa Cô ngăn họ lại rồi dẫn chàng ra đi. Vừa ra khỏi cửa thì lầu viện đã biến đâu mất, chỉ còn thấy một ngôi mộ hoang.

Hoa Cô tiễn chàng lên tận thuyền, nói:

- Sau khi anh đi, già này cũng sẽ dắt hai con gái đến trú ngụ ở quý ấp. Nếu không quên ước cũ thì xin đợi nhau trong đám vườn hoang nhà họ Lý để làm lễ nghênh hô ngụ

Chàng bàn trở về quê.

Bấy giờ, ông già họ Phó đã tìm kiếm con trai hết cách. Ðang giữa lúc lòng lo như lửa đốt thì bỗng thấy con về, mừng rỡ ngoài tưởng tượng. Chàng kể lại vắn tắt đầu đuôi, nhân nói cả việc đính ước của họ Hoa. Cha bảo:

- Lời nói của yêu quái sao đủ để tin. Mày sở dĩ còn toàn mạng trở về cũng chỉ vì bị tật nguyền chứ không thì đã chết rồi.

Chàng đáp:

- Ðám đó tuy khác loài nhưng tình cũng như người; huống nữa, lại thông minh, xinh đẹp, có lấy làm vợ cũng chẳng sợ họ hàng làng xóm chê cười.

Cha không nói gì, chỉ cười nhạt. Chàng bèn lui ra. Nhưng rồi vì ngứa nghề, không đành phận, bèn tư thông với con hầu. Dần dần giữa ban ngày cũng công khai giở trò dâm dật, có muốn làm cho câu chuyện kinh động đến tai cha mẹ. Một hôm, con hầu nhỏ lén nhìn thấy, chạy đi báo với bà cụ. Bà cụ không tin, đến gần xem, bấy giờ mới đâm hoảng. Cho gọi con hầu đến hỏi, liền biết rõ sự thật. Mừng quá sức, gặp ai cũng nói toạc ra, để chứng tỏ con mình không có tật; rắp tính chuyện hôn nhân với nhà thế gia. Chàng nói riê muốn là

- Không phải nhà họ Hoa thì không lấy đâu.

Mẹ nói:

- Trên đời thiếu gì gái đẹp, hà tất phải là quỷ với yêu.

Chàng đáp:

- Con ví không có Hoa Cô thì đâu biết mùi đời. Bội bạc người ta chẳng phải là điều hay.

Ông lão họ Phó nghe lời, cho một người tớ trai và một vú già đến nơi xem xét. Ra khỏi thành Ðông chừng bốn năm dặm thì tìm được thửa vườn hoang nhà họ Lý. Nhác thấy một làn khói bốc lên nghi ngút giữa một khóm trúc bên bức tường thấp đã đổ nát, bà vú bàn xuống xe, rảo thẳng đến cửa, thì bắt gặp mẹ con đang lau ghế cọ nhà, như có chờ đợi. Bà vú vái chào, thưa rõ lời chủ dặn. Nhìn thấy Tam Nương, bà họ L. Nhá họ

- Ðây chính là vợ của tiểu chủ tôi sao? Tôi vừa thấy đã phải thương, không trách công tử cứ mê mẩn như người mất hồn.

Rồi hỏi luôn đến cô chị. Hoa Cô than thở mà rằng:

- Ðó là con gái nuôi của tôi. Ba hôm trước cháu bỗng bị bạo bệnh, tạ thế mất rồi.

Nhân đó, đem rượu thịt ra thết đãi bà vú và người tớ trai. Bà vú trở về thuật rõ dung mạo, cử chỉ của Tam Nương. Cả ông bà đều vui mừng. Sau cùng mới nói đến tin Xảo Nương mất. Chàng nghe đau đớn muốn trào nước mắt. Ðến đêm nghênh hôn, gặp mặt Hoa Cô, tự mình hỏi lại. Hoa Cô đáp:

- Ðã đầu thai ở đất Bắc rồi.

Chàng than thở giây lâu. Ðón Tam Nương về rồi mà rốt cuộc vẫn không dứt tình được với Xảo Nương. Hễ nghe có người nào ở kẻ Quỳnh mới đắn đếu cho gọi đến hỏi chuyện. Có người cho biết dưới mộ cô gái họ Tần đêm đêm vẫn nghe tiếng quỷ khóc. Chàng ngờ có sự lạ, vào bảo với Tam Nương. Tam Nương trầm ngâm một lúc lâu rồi khóc mà nói:

- Em phụ chị rồi!

Gạn hỏi lại thì đáp rằng:

- Thú thực lúc mẹ con thiếp ra đi, không nói cho chị ấy biết. Tiếng gào oán đó chẳng phải của chị ấy thì còn ai nữa? Trước đã định bảo thật cho nhau, nhưng lại sợ phơi bày tội lỗi của mẹ.

Chàng nghe đoạn đổi buồn thành vui, lập tức cho sắm sửa xe cộ, ngày đêm vượt đường đi gấp; ruổi đến trước mộ nàng, gõ vào tấm mộc chủ cắm ở mộ mà gọi to lên:

- Xảo Nương! Xảo Nương! Anh ở đây!

Giây lát thấy cô gái ẵm một đứa trẻ từ trong mồ chui ra, đau đớn ngước đầu lên, mắt nhìn ai oán không dứt. Chàng cũng ngậm ngùi rơi lệ. Sờ vào đứa bé trong lòng hỏi con ai. Xảo Nương đáp:

- Ðây là cái mầm oan nghiệt của chàng để lại. Sinh được ba tháng rồi.

Chàng nói:

- Trót nhầm nghe lời Cô Hoa khiến mẹ con phải chôn chặt mối hờn ở dưới lòng đất. Tội thật không tha thứ được.

Rồi cùng nhau dắt díu lên xe, băng vời vượt biển mà về. Ôm con vào trình mẹ. Mẹ nhìn thấy đứa bé mặt mũi khôi ngô, thân thể khoẻ manh, không giống với loài yêu ma, càng thêm mừng rỡ. Hai cô gái sống hoà thuận, thờ bố mẹ chồng rất có hiếu. Về sau, ông Phó bị bệnh, mời thầy thuốc đến, Xảo Nương bảo:

- Bệnh không làm gì được nữa, vì hồn đã lìa khỏi xác.

Nàng đôn đốc sắm đồ tang liệm, xong đâu đấy thì ông mất.



Ðứa bé lớn lên giống cha, phần thông tuệ còn trội hơn. Mười bốn tuổi đã vào học nhà phán.



Ông già cở Cao Bưu, hiệu Tử Hà, từng làm khách đất Quảng,nghe được chuyện này.Chỉ có tên làng xóm thì nhớ không chính xác, và chung cục câu chuyện ra sao cũng không được rõ.
__________________
You Are My Friend And I Hope
You Know That's True.
No Matter What Happens
I Will Stand Right By You.
In Times Of Grief
I Will Give You Belief.
I'll Be There For You
Whenever You Are In Need.
To Lend You A Hand
To Do A Good Deed.
So Just Call On Me When
You Need Me, My Friend!
I Will Always Be There For You
Right To The End!
~~~~~~~~~~***********~~~~~~~~~
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #26  
Old 10-05-2004, 12:39 AM
dethuong123 dethuong123 is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Sep 2004
Nơi Cư Ngụ: none
Bài gởi: 1,547
Send a message via AIM to dethuong123 Send a message via MSN to dethuong123 Send a message via Yahoo to dethuong123
Default

Bồ Tùng Linh:::
Liêu Trai Chí Dị

Bành Hải Thu


Nho sinh ở Lai Châu, là Bành Hiếu Cồ, học ở cơ ngơi khác cách nhà khá xa. Trung thu không về kịp, một mình hiu quạnh, nghĩ trong thôn chẳng có ai trò chuyện được. Chỉ có chàng thư sinh họ Khâu là danh sĩ trong huyện, nhưng vốn có tật kín, Bành thường khinh bỉ.

Trăng lên, càng thấy buồn tênh, cực chẳng đã đành viết thiếp mời Khâu. Rượu nửa chừng, có một người gõ cửa lạch cạch, tiểu đồng chạy ra xem thì là một thư sinh muốn yết kiến chủ nhân. Bành đứng lên cung kính mời khách vào. Vái chào xong, cùng ngồi quanh chiếu rượu, hỏi họ hàng quê quán, khách đáp:

- Tiểu sinh người Quảng Lăng, cùng họ với ngài, tên chữ là Hải Thu. Gặp đêm trăng đẹp thế này, ở nhà trọ càng buồn khổ. Nghe tiếng ngài là bậc cao nhã, bàn đường đột yết kiến.

Nhìn xem, người ấy áo vải mà sạch sẽ chỉnh tề, nói cười phong lưu. Bành mừng lắm nói:

- Vậy ra là người đồng tông với tôi. Ðêm nay là cái đêm gì mà gặp được khách quý thế nàch

Liền sai rót rượu, khoản đãi như bạn thân từ trước. Xem , khách dường như cũng rất khinh Khâu, Khâu ngẩng lên bắt chuyện, thì ngạo mạn không đáp lễ. Bành thẹn thay cho Khâu, bàn đánh lảng câu chuyện, xin hát trước một khúc dân ca cho vui. Rồi ngửa mặt dặng hắng lần nữa, hát khúc Hào Sĩ Phù Phong, cùng nhau vui cước.

Khách nói:

- Tiểu sinh không biết hát, không lấy gì đáp lại khúc dương xuân của ngài. Xin nhờ người hát thay được chăng?

Bành đáp:

- Xin vâng.

Khách hỏi:

- Ở thành Lai Châu này có danh kỹ nào không?

Bành trả lời:

- Không có.

Khách nín lặng hồi lâu rồi bảo tiểu đồng:

- Ta vừa gọi một người đến ở ngoài cửa, hãy ra dẫn vào đây!

Tiểu đồng đi ra, quả thấy một cô gái đang loanh quanh ngoài cửa. Nàng khoảng đôi tám, xinh đẹp như tiên. Bành ngạc nhiên hết sức, kéo nàng cùng ngồi. Cô gái mặc áo màu lá liễu, choàng khăn màu vàng, hương thơm sực nức bốn bên.

Khách an ủi:

- Lặn lội ngàn dặm tới đây, thật phiền nàng quá!

Cô gái mỉm cười vâng dạ. Bành lấy làm lạ, gạn hỏi, khách đáp:

- Quê quán khổ nỗi không có giai nhân, tiểu nhân vừa phải gọi cô này trên thuyền ở Tây Hồ đến đâ-

Ðoạn bảo nàng:

- Khúc Chàng Bạc Tình cô vừa hát ở trên thuyền hay lắm, xin hát lại lần nữa.

Cô gái hát rằng:





Chàng bạc tình,

Tắm ngựa ao xuân nọ,

Tiếng người xa,

Tiếng ngựa bỏ.

Trời sông cao,

Trăng núi nhỏ,

Ngoảnh đầu đi không về,

Trong sân trời rạng tỏ.

Chẳng oán xa nhau nhiều,

Sầu hội vui ít có,

Ngủ nơi nao?

Ðừng như bông theo gió.

Cho dù chẳng phong hầu,

Chớ về Lâm Cùng đó!



Khách lấy cây sáo ngọc dắt trong tất ra hoà theo tiếng hát, hết khúc thì sáo cũng dừng.



Bành sửng sốt khen mãi không thôi, rồi hỏi:

- Từ Tây Hồ đến đây đâu chỉ ngàn dặm? Thế mà trong phút chốc vời đến được, chẳng là tiên hay sao?

Khách đáp:

- Ðâu dám nói đến tiên, nhưng có thể coi muôn dặm gần như ngoài cửa. Ðêm nay trăng gió trên Tây Hồ đẹp hơn mọi khi nhiều, không lẽ không đến xem một chuyến? Ngài theo chơi được chăng?

Bành đang để tâm xem sự lạ liền nhận lời đáp:

- Rất hân hạnh.

Khách hỏi:

- Ngài đi thuyền hay cưỡi ngựa?

Bành nghĩ ngồi thuyền nhàn nhã hơn bàn nói:

- Xin cho đi thuyền.

Khách bảo:

- Nơi đây gọi thuyền hơi xa, trên sông Ngân hẳn có người chở đò.

Bàn giơ tay vẫy lên không, gọi:

- Thuyền ơi! thuyền xuống đây! Bọn tôi muốn đến Tây Hồ, không sẳn tiền thưởng đâu.

Lát sau, một chiếc thuyền hoa từ trên không lướt xuống, khói mây quấn quýt. Họ cùng lên thuyền. Thấy một người cầm bơi chèo ngắn, đoạn cuối gài kín lông chim dài, hình dáng như cái quạt lông, phẩy một cái là gió mất vi vu. Thuyền dần dần lên tít mây xanh, nhằm hướng Nam lướt tới, vùn vụt như têy

Khoảnh khắc thuyền đã hạ xuống nước. Chỉ nghe sáo đàn rộn rã, chiêng trống vang lừng. Ra khỏi khoang nhìn, trăng in khói sóng, thuyền chơi họp chợ, người lái buông chèo, mặc thuyền tự trôi. Nhìn kỹ, quả là Tây Hồ thật.

Khách lấy ra từ sau khoang món nhắm lạ và rượu ngon, vui vẻ đối ẩm. Lát sau, một chiếc thuyền lầu tới gần rồi đi sát ngay bên cạnh. Nhòm qua song cửa thấy trong thuyền có hai người đang cười rộ bên bàn cờ.

Khách đưa chén rượu mời cô gái, nói:

- Cạn chén, rồi đưa cô về.

Trong lúc cô gái nâng chén, Bành bịn rịn bồi hồi, chỉ sợ nàng đi mất, bàn lấy chân bấm khẽ. Nàng đưa mắt liếc ngang, Bành càng xao xuyến, xin hẹn ngày gặp lại.

Cô gái nói:

- Nếu chàng có lòng thương, cứ hỏi tên Quyên Nương là ai cũng biết.

Khách lấy ngay khăn lụa của bành trao cho nàng, bảo:

- Tôi thay ông ấy đính ước lời hẹn ba năm sau.

Ðoạn khách đứng lên, đặt cô gái trên lòng bàn tay nói:

- Tiên chăng! tiên chăng!

Rồi kéo cửa sổ thuyền bên, bỏ cô gái sang. Mắt cửa chỉ bằng cái đĩa nàng ép mình trườn vào, không cảm thấy bị chật hẹp chút nào. Lát sau nghe thuyền bên có tiếng nói:

- Quyên Nương tỉnh rồi!

Tức thì thuyền ấy chèo đi ngay. Xa trông thuyền nọ đã ghé bến, người dưới thuyền kéo cả lên bờ, Bành bỗng mất hứng chơi, bèn nói với khách muốn lên bờ cùng xem qua đây đó. Vừa mới thương lượng, thuyền đã tự cập bờ, nhân đó bỏ thuyền lên bộ dạo quanh chừng hơn một dặm. Khách đến sau, dắt một con ngựa, bảo Bành giữ lấy. Rồi khách lại đi ngay, dặn rằng:

- Ðợi tôi mượn thêm hai con ngựa nữa.

Mãi không thấy khách đến, đường đã vắng người, ngìng trông trăng đã xế về Tây, trời đã sắp rạng. Khâu cũng không biết đi đường nào. Bành dắt con ngựa tới lui, không biết nên đi hay ở. Khi giong cương cho ngựa tới nơi đậu thuyền thì cả người lẫn thuyền đều chẳng thấy đâu. Bành nghĩ lưng túi rỗng không, càng thêm lo sợ. Trời đã sáng rõ, thấy trên mình ngựa có một túi nhỏ, thò tay xem, được ba bốn lạng bạc, bàn mua thức ăn rồi cứ đợi, bất giác gần trưa. Bành tính chi bằng hỏi thăm Quyên Nương dần dà sẽ hỏi được tin Khâu nhưng khi hỏi đến tên Quyên Nương thì chẳng một ai biết cả. Bành cụt hứng buồn tênh, hôm sau lên đường. Ngựa chạy tốt, may không liệt nhược, nửa tháng về tới nhà.

Lúc ba người cưỡi thuyền bay lên, tiểu đồng về báo:

- Ông chủ đã lên tiên rồi!

Cả nhà đau buồn khóc lóc, nghĩ rằng không về nữa. Bành về tới nhà, buộc ngựa bước vào, người nhà sửng sốt mừng rỡ, xúm lại hỏi han, bấy giờ Bành mới kể hết những sự lạ. Nhân nghĩ chỉ một mình về quê quán, e bên nhà Khâu nghe tin sẽ đến gạn hỏi, bàn răn người nhà chớ nói rộng ra. Trong lúc chuyện trò, Bành kể đến lai lịch con ngựa. Mọi người nghe nói của tiên cho bàn kéo cả ra chuồng xem. Tới nơi chẳng thấy ngựa đâu, chỉ thấy chàng Khâu bị buộc cạnh chuồng ngựa bằng giây cương cỏ. Ai nấy kinh hãi quá sức, gọi Bành đến xem. Thấy Khâu gục đầu dưới máng cỏ, mặt mày xám ngắt, hỏi không nói, duy hai mắt lúc nhắm lúc mở mà thôi. Bành thấy bất nhẫn quá,sai người cởi giây cương vực lên giường.

Khâu như người mất hồn, đổ nước cháo nóng cho, nuốt được chút ít, giữa đêm hơi tỉnh vội đòi ra nhà tiêu. Xốc nách nách đưa đi. Khâu xón ra được mấy cục phân ngựa. Lại cho ăn uống tí chút, bấy giờ mới nói được, Bành đến bên giường hỏi han, Khâu kể:

- Sau khi rời thuyền, hắn dẫn tôi đi nói chuyện phiếm. Ðến chỗ vắng, hắn vỗ đùa vào gáy, tôi liền mê mẩn ngã lăn ra. Nằm phục giây lát, nhìn lại thấy mình đã hoá ngựa. Tâm trí vẫn tỉnh táo nhưng không nói được. Thật là chuyện vô cùng nhục nhã, không sao nói với vợ con được. Xin bác chớ tiết lộ.

Bành nhận lời, sai người hầu thắng ngựa đưa Khâu về.

Từ đấy Bành không sao quyên được Quyên Nương. Ba năm sau, vì có người anh rể làm chức quan Phán ở Dương Châu, Bành nhân đến thăm. Châu này có Lương công tử là chỗ thân quen với Bành, mở tiệc mời chàng đến uống rượu. Trong tiệc có mấy đào hát đều đến vái chào. Công tử hỏi đến Quyên Nương, người nhà thưa là bị ốm.



Công tử giận dữ nói:

- Con tiện tỳ cao ngạo thanh giá, hãy mang thừng trói đem đến đây!

Bành nghe đến tên Quyên Nương, giật mình hỏi là ai. Công tử đáp:

- Nó là con hát số một ở Quảng Lăng. Cậy có chút tiếng tăm mới dám kiêu căng vô lễ.

Bành ngờ tên họ ngẫu nhiên trùng nhau, nhưng lòng vẫn xúc động hồi hộp, chỉ mong được thấy mặt ngay. Lát sau, Quyên Nương đến, công tử hầm hầm kể tội.



Bành nhìn kỹ, quả là người đã gặp trong tiết trung thu, bèn thưa với công tử:

- Cô này là chỗ tôi quen biết cũ, mong ông tha thứ

Quyên Nương đưa mắt ngắm Bành, dường như cũng ngạc nhiên.



Công tử chưa vội hỏi kỹ đã sai người mời rượu. Bành hỏi:

- Khúc Chàng Bạc Tình nàng còn nhớ chăng?

Quyên Nương càng kinh hãi, chăm chú nhìn Bành rồi mới hát khúc xưa. Lắng nghe, đúng là tiếng hát đêm trung thu năm ấy.

Rượu tàn, công tử sai nàng chăn gối hầu khách. Bành nắm lấy tay nàng hỏi:

- Lời hẹn ba năm hôm nay mới thực hiện được chăng?

Quyên Nương đáp:

- Năm xưa theo người đi chơi thuyền Tây Hồ, em uống chưa được mấy chén đã như say. Trong lúc choáng váng bị một người nhấc đem đến một thôn nọ. Một tiểu đồng dẫn em vào nhà trên chiếu rượu có ba người, chàng là một trong số đó. Sau lại đi thuyền đến Tây Hồ , người ta mới đưa em về thuyền cũ qua mắt cửa sổ. Mỗi khi nhớ lại lúc cầm tay ân cần, cứ bảo là mộng ảo. Nhưng khăn lụa còn đây, em vẫn gói kỹ cất đi.

Bành kể nguyên do rồi cùng nhau than thở. Quyên Nương ngả mình vào lòng Bành, nức nở nói:

- Tiên đã làm mối, xin chàng đừng cho em là kẻ phong trần đáng vứt bỏ mà thôi không nghĩ đến người đang ở trong bể khổ này.

Bành đáp:

- Lời hẹn trên thuyền chưa ngày nào tôi lãng quên. Nếu nàng có đó, dù có phải dốc túi bán ngựa, tôi cũng khô š

Sáng hôm sau, thưa chuyện với công tử, lại vay mượn quan Biệt giá ngàn vàng, xoá sổ cho nàng rồi đưa nhau về quê. Tình cờ đến cơ ngơi nọ, nàng vẫn nhận ra nơi uống rượu năm nào.
__________________
You Are My Friend And I Hope
You Know That's True.
No Matter What Happens
I Will Stand Right By You.
In Times Of Grief
I Will Give You Belief.
I'll Be There For You
Whenever You Are In Need.
To Lend You A Hand
To Do A Good Deed.
So Just Call On Me When
You Need Me, My Friend!
I Will Always Be There For You
Right To The End!
~~~~~~~~~~***********~~~~~~~~~
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #27  
Old 10-05-2004, 12:41 AM
dethuong123 dethuong123 is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Sep 2004
Nơi Cư Ngụ: none
Bài gởi: 1,547
Send a message via AIM to dethuong123 Send a message via MSN to dethuong123 Send a message via Yahoo to dethuong123
Default

Bồ Tùng Linh:::
Liêu Trai Chí Dị

Hồng Ngọc


Ông cụ họ Phùng người Quảng Bình có một con trai tên chữ là Tương Như. Hai bố con cùng là Chư sinh. Ông Phùng tuổi gần sáu mươi, tính ương ngạnh mà nhà vẫn thiếu thốn. Trong khoảng vài năm, vợ và con dâu lại cùng mất cả, việc cơm nước đều phải tự làm lấy.

Một đêm, Tương Như ngồi dưới bóng trăng, chợt thấy người con gái láng giềng từ bên kia tường nhòm sang. Chàng nhìn thấy đẹp, đến gần thấy hé cười, lấy tay vẫy, không đến, cũng không di, cố nài mãi mới trèo thang sang. Liền ăn nằm với nhau. Hỏi họ tên, cô gái nói:

- Thiếp là con gái nhà láng giềng, tên là Hồng Ngọc.

Chàng rất yêu, xin cùng nàng tính chuyện lâu dài. Cô gái nhận lời. Từ đấy, đêm đêm thường đi lại, được độ nửa năm. Một đêm, ông Phùng thức dậy, nghe có tiếng con gái cười nói, nhòm vào gian nhà của con thì nhìn thấy cô gái. Giận lắm, gọi chàng ra mắng:

- Ðồ súc sinh, làm cái trò gì thế? Cửa nhà sa sút như thế, còn không biết chịu khó gìn giữ, lại còn học thói đàng điếm ư? Người ta biết ra thì phẩm hạnh của mày còn ra gì nữa! Dẫu người ta không biết thì tuổi thọ của mày cũng giảm.

Chàng quỳ xuống nhận lỗi, khóc xin hối cải. Ông cụ mắng cô gái:

- Con gái không biết giữ phép buồng khuê, đã nhuốc mình lại làm nhuốc cả người. Nếu việc vỡ lở ra, hẳn không chỉ một mình nhà này xấu hổ.

Mắng xong, bực tức trở về nhà ngủ. Cô gái chảy nước mắt nói:

- Lời bố quở trách thật là thẹn nhục! Duyên phận hai ta thôi thế là hết.

Chàng nói:

- Còn cha, con không được tự quyết định. Nếu nàng còn có tình, thời nên cố gắng ngậm tủi làm lành.

Cô gái muốn quyết tuyệt. Chàng nghe, sa nước mắt. Cô gái lại khuyên giải, nói:

- Thiếp với chàng không có lời của mối lái, không có lệnh của cha mẹ, chỉ là trèo tường chui gạch mà theo nhau, thì sao có thể cùng nhau đầu bạc được? Vùng này có một người tốt đôi với chàng, có thể hỏi làm vợ.

Chàng phàn nàn nhà nghèo, cô gái nói:

- Tối mai xin đợi, tôi sẽ mưu tính cho.

Ðêm hôm sau, cô gái quả nhiên đến, bỏ bốn mươi lạng bạc ra tặng chàng, nói rằng:

- Cách đây sáu mươi dặm, ở thôn Ngô có người con gái họ Vệ, tuổi đã mười tám, còn cao giá nên chưa ai lấy; chàng đưa nhiều tiền thì ắt phải xong việc.

Nói xong, từ biệt mà đi. Chàng tựa lúc thuận tiện, thưa với bố, muốn xin đi xem mặt, nhưng câu chuyện số tiền thì giấu đi, không dám nói cho bố biết. Ông Phùng tự lượng nhà nghèo, lấy cớ đó gạt đi. Chàng lại tìm lời ôn tồn nói với bố cứ thử đến xem cho biết thôi. Ông cụ gật đầu.

Chàng bàn thuê đầy tớ và người ngựa đi đến nhà họ Vệ. Vệ vốn là người làm ruộng. Chàng gọi ra ngoài nói chuyện riêng. Vệ biết chàng là con nhà dòng, lại thấy dáng vẻ đàng hoàng, trong bụng đã bằng lòng, nhưng còn ngại chàng kỳ kèo tiền nong chăng.

Chàng nghe ông cụ nói ngập ngừng, đã biết , bàn dốc tiền trong túi ra, bày trên bàn. Vệ mừng, nhờ người học trò bên láng giềng đứng giữa, viết tờ giấy đỏ mà giao ước với nhau. Chàng vào nhà chào lạy cụ, thấy nhà cũng chật hẹp, cô gái đứng nấp sau mẹ. Chàng đưa mắt nhìn, tuy ăn mặc xuềnh xoàng mà thần sắc tinh anh rực rỡ, bụng mừng thầm. Vệ mượn tạm nhà bên để tiếp đãi chàng rể và nói:

- Công tử không cần đón dâu, đợi may được ít quần áo sẽ đưa đến tận nơi

Chàng liền hẹn ngày rồi về, nói dối với bố rằng:

- Họ Vệ mến nhà ta dòng dõi thanh bạch nên không đòi tiền.

Ông cụ cũng mừng.

Ðến ngày hẹn, Vệ quả đưa cô gái đến. Cô gái siêng năng dè sẻn, lại thuần tục nết na, tình nghĩa vợ chồng thật là thắm thiết. Hơn hai năm sau, sinh được một con trai, đặt tên là Phúc Nhi.

Nhân ngày tết Thanh Minh, bố con đi thăm mộ, gặp kẻ thân hào trong huyện họ Tống. Tống nguyên làm quan Ngự Sử trong triều, phạm tội tham tang, phải cách chức về làng, những vẫn giương oai hà hiếp người. Hôm đó cũng đi thăm mộ về, thấy cô gái cho là đẹp, hỏi người trong thôn biết là vợ chàng. Nghĩ Phùng là học trò nghèo, đem nhiều của ra dụ dỗ, có thể làm cho đổi lòng. Liền sai người bắn tin cho chàng. Chàng nghe thấy, giận hiện ra mặt, rồi lại nghĩ thế không địch nổi với Tống, bàn nén giận làm vẻ tươi cười, về nói với bố. Ông Phùng giận lắm, chạy ra trước mặt người nhà họ Tống, trỏ trời vạch đất mắng nhiếc tàn tệ. Tên người nhà ôm đầu lủi đi mất. Họ Tống cũng tức giận, sai mấy đứa xông vào nhà chàng, đánh cả bố lẫn con, làm sôi sùng sục. Cô gái nghe thấy, bỏ con xuống giường, xoã tóc chạy ra kêu cứu. Chúng bèn cướp lấy, khiêng lên rồi ầm ầm kéo đi. Hai bố con bị đánh sụm, rên rĩ trên đất; đứa bé khóc oe oe trong nhà. Hàng xóm láng giềng cùng thương hại, xóc đỡ đặt lên giường. Qua ngày sau, chàng chống gậy mới đứng lên được, còn ông cụ thì tức giận không ăn rồi thổ huyết mà chết.

Chàng lăn khóc, ẵm con đi kiện Ðốc Phủ. Kiện hầu khắp mọi nơi, rút cục vẫn không thắng, sau lại nghe nói vợ không chịu khuất phục mà chết, lại càng đau xót. Khí oan đầy bụng, không lối nào giãi bày được. Thường nghĩ muốn đón đường đâm Tống chết, nhưng lo đầy tớ nó đông, con nhỏ, lại không gửi được. Ngày đêm buồn bã nghĩ ngợi, hai mắt không chớp nổi.

Chợt có một người đàn ông đến viếng nhà, râu quăn, hàm bạnh, xưa nay chưa từng quen. Chàng mời ngồi, toan hỏi họ tên quê quán, khách đã vội nói trước:

- Ông có cái thù người ta giết mất bố, cướp mất vợ mà không báo ư?

Chàng ngỡ là người của Tống sai đến dò hỏi, nên chỉ trả lời ậm ừ cho xong. Khách giận, mắt trợn tròn muốn rách khóe, liền bước ra nói:

- Tôi tưởng anh là người, nay mới biết anh là thằng hèn không đáng đếm xỉa.

Chàng xét thấy có cái gì là lạ, liền quỳ xuống, kéo áo khóc nói rằng:

- Thực ra vì sợ là người nhà họ Tống đến dò la, nay xin giãi bày hết tâm can. Cái điều nằm gai nắm mật của tôi, kể đã nhiều ngày rồi vậy; chỉ thương hòn máu trong bọc này, sợ rồi tuyệt tự mất. Ngài là bậc nghĩa sĩ, liệu có thể vì tôi mà làm chàng Chữ Cu được chăng?

Khách nói:

- Ðó là việc của đàn bà con gái, tôi không làm được. Cái việc ông muốn nhờ người, xin hãy tự làm lấy, còn cái việc ông muốn tự làm thì tôi xin làm thay cho.

Chàng nghe nói, đập đầu xuống đất. Khách chẳng thèm ngoái lại, bỏ đi ra. Chàng chạy theo hỏi họ tên, đáp rằng:

- Việc không xong, không oán; việc xong không nhận ơn.

Rồi đi liền.

Chàng sợ vạ đến mình, ẵm con đi trốn.

Ðến đêm, cả nhà họ Tống đang ngủ, có người vượt qua mấy lần tường, giết ba cha con nhà Ngự Sử với một thị tì, một con dâu. Nhà họ Tống làm tờ trạng cáo quan, quan rất kinh hãi. Tống cố vu cho Tương Như. Vì thế quan cho lính đi bắt chàng. Chàng trốn không ai biết là đi đâu, vì thế càng cho là thật. Ðầy tớ nhà họ Tống cùng với nhà quan đi lùng khắp nơi, đêm đến núi Nam Sơn, nghe có tiếng trẻ khóc, lần tìm ra được, liền trói mang về. Ðứa bé càng khóc dữ, chúng liền giật lấy vứt đi. Chàng oan ức muốn chết. Khi gặp quan lệnh ở huyện, quan hỏi tại sao giết người? Chàng thưa:

- Thực là oan! Nhà họ Tống chết về đêm, tôi ra đi từ ban ngày; vả lại ẵm đứa nhỏ khóc oe oe như vậy thì leo tường giết người sao được?

Quan lệnh nói:

- Không giết người sao lại đào tẩu?

Chàng đuối lý, không biện bạch được nữa. Liền giam vào ngục. Chàng khóc nói rằng:

- Tôi chết cũng không tiếc nhưng đứa bé mồ côi kia có tội tình gì?

Quan lệnh nói:

- Mày giết con người ta đã nhiều, thì giết con mày còn oán gì nữa?

Chàng bị lốt áo mũ nho sinh lại bị cùm kẹp, đánh đập khổ sở nhưng cung không xưng nhận điều gì.

Quan lệnh đêm hôm ấy nằm ngủ bỗng nghe có vật gì cắm phập vào giường, kêu bần bật thành tiếng, sợ quá kêu lên. Cả nhà giật mình thức dậy, xúm lại đốt đuốc soi, thấy một con dao ngắn lưỡi sắc nhọn sáng loáng, găm vào giường, sâu xuống gỗ đến hơn một tấc, chặt cứng không thể rút ra được. Quan lệnh trông thấy, sợ hết hồn vía, cho người cầm giáo đi lùng khắp nơi cũng không thấy tung tích gì cả. Bụng cũng nản, lại nghĩ: người nhà họ Tống đã chết rồi, không có gì phải kiềng họ nữa, bàn trình bẩm lên quan trên để giải oan cho chàng rồi tha về.

Chàng về đến nhà, trong hũ không còn một đấu gạo,một mình một bóng ngồi trông bốn bức tường mà thôi. May được nhà hàng xóm thương xót cho ăn uống, tạm bợ sống qua ngày. Nghĩ đến cái thù lớn đã trả được thì mừng đến tươi tỉnh lại; nhưng nghĩ đến cái hoạ thảm khốc, sut nữa chết cả một nhà thì nước mắt lại đầm đìa sa xuống; lại nghĩ nửa đời nghèo xác dòng dõi không ai nối, thì ở nơi vắng người bỗng khóc rống lên, khản cả tiếng không tự nén giữ được.

Như thế chừng nửa năm, việc bắt bớ cũng nhạt dần, bàn kêu xin với quan huyện được mang hài cốt họ Vệ về. Chôn cất xong, đau xót muốn chết. Một mình trằn trọc trên giường, nghĩ không còn cách gì để sống.

Bỗng có người gõ cửa, chàng chú lắng nghe, thấy ngoài cửa có tiếng một người đang nói chuyện với trẻ con. Chàng vội dậy, dòm xem thì hình như một người con gái. Cánh cửa vừa mở, liền hỏi:

- Cái oan lớn đã được rửa, may không việc gì chứ?

Tiếng nói nghe quen lắm,mà trong lúc thảng thốt không thể nhớ được. Ðánh lửa soi thì ra Hồng Ngọc, dắt một đứa nhỏ cười đùa ở dưới đầu gối. Chàng chẳng kịp hỏi, ôm lấy cô gái mà khóc oà. Cô gái cũng thảm đạm lắm. Rồi đẩy đứa bé mà nói:

- Mày quên bố mày rồi ư?

Ðứa bé nắm lấy áo cô gái, mắt chòng chọc nhìn chàng. Chàng nhìn kỹ thì ra Phúc Nhi. Giật mình kinh hãi, khóc mà nói rằng:

- Sao con lại về đây được?

Cô gái nói:

- Nói thực với chàng, trước kia thiếp nói là con gái bên láng giềng là nói dối đấy, thiếp thực là hồ. Nhân đi đêm thấy tiếng trẻ khóc trong hang, liền bế về nuôi ở Tần. Nghe nạn lớn đã yên nên đem con về cùng chàng đoàn tụ.

Chàng gạt nước mắt lạy tạ. Ðứa bé ngồi trong lòng cô gái y như nương tựa vào mẹ đẻ, thật không nhận ra bố nữa. Trời chưa sáng, cô gái đã trở dậy. Hỏi thì đáp:

- Kẻ hèn mọn này muốn đi đây.

Chàng chưa mặc áo, quỳ ở đầu giường, khóc không ngẩng mặt lên được nữa. Cô gái cười nói rằng:

- Thiếp nói dối chàng đấy. Nay nhà đương gây dựng lại, không thức khuya dậy sớm sao được?

Rồi phát cỏ, quét dọn, làm như đàn ông vậy. Chàng lo nhà nghèo túng, không thể đủ ăn. Cô gái nói:

- Chỉ xin chàng cứ việc buông màn đọc sách không phải hỏi đến thiếu đủ, may không đến nỗi chết đói nào.

Rồi bỏ tiền sắm khung cửi dệt vải, lại thuê vài mươi mẫu ruộng, mướn người cày cấy, vác phạng đi phát tranh, kéo lá lợp nhà, hàng ngày như thế, coi là việc thường. Làng xóm nghe nói có vợ hiền càng vui lòng giúp đỡ. Chừng nửa năm sau, cảnh nhà thịnh vượng, như thể một nhà giàu lớn.

Một hôm chàng nói:

- Sau lúc tro tàn, nhờ mình tay trắng gây dựng lại, nhưng còn một việc chưa được thoả mãn, biết làm thế nào?

Hỏi là việc gì, chàng đáp:

- Kỳ thi sắp đến, mà khăn áo chưa lấy lại được?

Cô gái cười nói:

- Trước đây thiếp đã lấy bốn lạng vàng gửi lên quan quảng văn đã lấy lại được tên vào sổ. Ðợi chàng nhắc thì đã lỡ lâu rồi còn gì?

Chàng càng cho là thần. Khoa ấy, chàng đỗ thi Hương. Bấy giờ tuổi vừa ba mươi sáu, ruộng tốt liền bờ, nhà cửa cao rộng. Cô gái người vẫn mảnh dẻ tưởng như gió thổi là bay, mà làm lụng quá con nhà nông. Tuy mùa đông rét buốt vẫn chịu khó làm, mà bàn tay vẫn mềm mại như mỡ đông. Tự nói là ba mươi tám tuổi, người ta trông chỉ chừng đôi mươi.
__________________
You Are My Friend And I Hope
You Know That's True.
No Matter What Happens
I Will Stand Right By You.
In Times Of Grief
I Will Give You Belief.
I'll Be There For You
Whenever You Are In Need.
To Lend You A Hand
To Do A Good Deed.
So Just Call On Me When
You Need Me, My Friend!
I Will Always Be There For You
Right To The End!
~~~~~~~~~~***********~~~~~~~~~
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #28  
Old 10-05-2004, 12:43 AM
dethuong123 dethuong123 is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Sep 2004
Nơi Cư Ngụ: none
Bài gởi: 1,547
Send a message via AIM to dethuong123 Send a message via MSN to dethuong123 Send a message via Yahoo to dethuong123
Default

Bồ Tùng Linh:::
Liêu Trai Chí Dị

Vương Thành


Vương Thành, con nhà thế tộc lâu đời ở Bình Nguyên, tính lười biếng, sinh nhai ngày càng sa sút, chỉ còn mấy gian nhà nát, vợ chồng đêm nằm đắp mảnh vải bố, nhiếc móc nhau đũ điều. Bấy giờ là tiết đại thử, khí trời nung nấu. Trong làng có cái vườn cũ của họ Chu, tường vách đã đổ nát, chỉ còn một cái đình, người làng vẫn đến đấy ngủ nhờ, Vương cũng thế. Một hôm trời sáng , mọi người đi cả rồi, mặt trời đã lên cao ba con sào, Vương mới dậy, quanh quẩn muốn về, chợt thấy trong đám cỏ có chiếc thoa vàng, nhặt lên xem thấy có khắc mấy chữ nhỏ 'Phủ Nghi Tân chế tạo' .

Ông nội của Vương là Nghi Tân trong phủ Hành. Những vật cũ trong nhà phần nhiều đều có dấu hiệu ấy, nên chàng nhân cầm chiếc thoa có dáng chần chừ.

Bỗng có một bà cụ đến tìm thoa. Vương tuy nghèo nhưng tính vốn liêm khiết , liền đưa trả lại.

Bà cụ mừng lắm, hết sức khen ngợi tấm lòng cao thượng, bà nói rằng:

- Chiếc thoa có đáng giá trị là bao, nhưng là chút kỷ vật của ông nhà tôi ngày xưa để lại.

Vương hỏi:

- Cụ nhà xưa là ai?

Ðáp rằng:

- Ðó là quan Nghi Tân, họ Vương tên Giản Chi đã quá cố.

Vương kinh ngạc, nói rằng:

- Ông nội tôi đấy! Sao mà gặp nhau với bà được?

Bà cụ cũng kinh ngạc nói:

- Anh là cháu cụ Vương Giản Chi đó sao? Ta là hồ tiên một trăm năm trước đây có trao duyên gắn bó với cụ cố nhà anh. Cụ cố mất đi, già này tu ẩn, đi qua đây đánh rơi chiếc thoa lại vào tay anh, đó chẳng phải là số trời hay sao?

Vương cũng đã nghe nói ông nội mình có vợ hồ, cho nên tin lời bà cụ, bèn mời bà hạ cố đến nhà. Bà cụ theo về, Vương gọi vợ ra chào; áo rách bù đầu, sắc mặt đói ăn tối sầm.

Bà cụ than rằng:

- Ôi! Con cháu Vương Giản Chi mà nghèo khổ đến thế này sao?

Lại nhìn về phía cái bếp lạnh tanh không có khói lửa mà nói:

- Gia thế như thế này thì lấy gì mà sống?

Người vợ bèn kể hết nỗi khổ, nghẹn ngào sướt mượt.

Bà cụ đưa chiếc thoa cho chị vợ, bảo hãy cầm cho người ta lấy tiền để đong gạo, rồi ba ngày nữa bà sẽ đến thăm. Vương cố giữ lại, bà nói:

- Anh có một vợ mà nuôi không nổi; ta ở lại đây thì chỉ ngồi mà ngắm xà nhà chứ có ích gì?

Nói xong đi liền. Vương kể lại đầu đuôi, người vợ sợ quá.

Vương ngợi khen tấm lòng ân nghĩa của cụ và bảo vợ phải thờ bà như mẹ. Người vợ xin vâng.

Qua ba ngày, quả nhiên bà già lại đến, đưa ra mấy đồng vàng để đong lúa và mạch, mỗi thứ một thạch.

Tối đến, bà cụ và người vợ nằm chung một cái giường bé. Chị vợ lúc đầu còn sợ, nhưng xét thấy tình rất mực ân cần, nên cũng không ngờ nữa.

Ngày hôm sau, bà cụ bảo Vương rằng:

- Cháu đừng lười, nên tìm một nghề mọn mà làm, chứ ngồi không mà ăn thì lâu thế nào được?

Vương nói mình không có vốn liếng gì cả. Bà đáp:

- Khi ông nội nhà anh đang còn, thì vàng lụa tha hồ mà lấy, vì ta không phải là người trần, không dùng đến những thứ ấy, nên cũng không lấy nhiều, chỉ dành giữ món tiền phấn sáp được bốn mươi lạng vàng, đến nay vẫn còn, tàng trữ cũng chẳng làm gì. Anh hãy đem đi mà mua vải cát cho hết, rồi mang gấp vào kinh thành, có thể có chút lãi.

Vương theo lời, đi mua hơn năm mươi tấm mang về.

Bà cụ giục thu xếp hành trang, tính rằng sáu, bảy ngày có thể đến Yên Kinh. Dặn rằng:

- Chớ lười, nên siêng! Chớ hoãn nên kíp! Chậm trễ một ngày ăn năn chẳng kịp.

Vương xin kính vâng, xắp hàng vào bao tải rồi lên đường.

Giữa đường đi gặp mưa, áo giày ướt sũng. Suốt đời Vương chưa từng dầu dãi gió dầm sương. Vì vậy mệt rũ, chịu không thấu bèn vào nhà trọ tạm nghỉ.

Ngờ đâu mưa cứ tầm tã mãi đến chiều hôm, nước trên rèm chảy xuống như thừng. Qua một đêm, đường càng lầy lội, người đi ngập đến cổ chân.

Vương trong lòng nản lắm. Chờ mãi đến giờ ngọ, đường mới hơi khô, nhưng mây đen lại kéo lên, rồi trời lại mưa to. Phải ngủ đến hai đêm ở nhà trọ mới đi được.

Gần đến kinh, nghe đồn giá vải lên cao vọt, trong lòng mừng thầm. Vào kinh nghỉ ở quán trọ.

Chủ quán lấy làm tiếc là Vương đến chậm. Trước đó đường giao thông với phía Nam vừa mới được mở, vải cất đến rất ít, các nhà buôn lớn ở kinh đô mua khá nhiều, giá cao gấp ba so với thường ngày, nhưng một ngày trước thì hàng vải ùn đến giá bỗng xuống rất thấp, những người đến sau thất vọng.

Chủ quán nói rõ đầu đuôi cho Vương biết, Vương ưu uất không vui. Qua một ngày qua, vải cát đến càng nhiều, giá càng xuống. Vương cho là không có lãi, không chịu bán. Nấn ná đến hơn mười ngày, tiền cơm chưa tính ra đã tốn nhiều, nghĩ càng thêm lo buồn.

Chủ quán khuyên Vương nên bán rẻ đi, để xoay cách khác.

Vương nghe theo bán tháo hết, lỗ vốn mười lượng. Sáng dậy, soạn sửa ra về, mở đẫy ra xem thì bạc đã mất rồi. Hoảng loạn lên báo với chủ quán. Chủ quán không biết làm thế nào. Có kẻ bảo Vương lên kêu quan, bắt chủ quán bồi thường, Vương than rằng:

- Ấy là cái số của ta, chứ chủ quán có lỗi gì?

Chủ quán nghe vậy, rất mến tấm lòng trung hậu của Vương, tặng năm lạng vàng, kiếm lời an ủi, khuyên về.

Vương nghĩ bụng, không còn mặt mũi nào gặp lại bà tổ mẫu, loanh quanh hết ra lại vào, tiến thoái đều khó. Chợt thấy có người chọi chim Thuần, mỗi lần chọi đặt cuộc đến mấy ngàn, mua mỗi con chim Thuần nhiều khi hơn một trăm đồng tiền.

Chàng bỗng nảy ra một , tính nhẩm tiền còn trong đáy, may ra chỉ đủ buôn chim Thuần, bèn đem cái này bàn với chủ quán. Chủ quán khuyến khích tận tình, lại hứa cho ở nhờ nhà trọ, ăn uống không phải trả tiền, Vương mừng lắm, bèn ra đi, mua đầy một gánh chim Thuần đem về trong thành. Chủ quán cũng mừng, chúc cho bán được nhanh. Ðến đêm, mưa to mãi đến mờ sáng. Khi trời đã sáng hẳn, nước trên đường cái như sông, mà trời vẫn rả rích mưa. Ngồi chờ tạnh liên miên mấy ngày, mưa không ngớt hột. Dậy nhìn chim Thuần trong lồng thì đã chết mất nhiều. Vương sợ lắm, không biết làm thế nào. Sang ngày sau, chết càng nhiều, chỉ còn được mấy con, đem bỏ chung vào một lồng để nuôi. Qua đêm, lại ra thăm thì vẻn vẹn còn được một con, bèn chạy vào nói với chủ quán, bất giác ứa nước mắt, chủ quán cũng thương cảm. Vương tự liệu, tiền hết không về được, chỉ muốn tìm đường chết. Chủ quán khuyên giải an ủi, rồi cùng nhau ra xem con chim còn lại, ngắm nghía rất kỹ, nói rằng:

- Ðây hình như là một con chim quí ! Những con kia mà chết biết đâu không phải là bị con này chọi chết? Anh bây giờ cũng rỗi không có việc gì, hãy chăm chút tập tành cho nó. Nếu quả là con chim hay, thì mang nó đi đánh cũng mưu sinh được. Vương nghe theo. Khi con chim đã thuần thục, chủ quán bảo đem ra đường phố, đánh cuộc lấy rượu thịt. Chim khoẻ lắm, luôn luôn thắng. Chủ quán mừng, đưa tiền cho Vương, bảo đem ra quyết ăn thua với đám con em trong làng chơi chim Thuần ở kẻ chợ. Ba lần chọi ba lần đều thắng. Chừng nửa năm, góp nhóp được hai mươi lạng vàng, trong lòng cũng được an ủi, xem con chim như tính mệnh của mình.

Thuở đó có một vị Thân Vương rất thích chim Thuần; mỗi năm gặp tiết thượng nguyên, thách dân gian ai có nuôi chim Thuần thì đem đến phủ đệ để chọi. Chủ quán bảo Vương rằng:

- Giờ đây, cái cơ đại phú đã có thể đến ngay rồi đấy. Chỉ có điều không biết vận may của anh như thế nào thôi!

Bèn nói rõ sự tình và đem Vương cùng đi, dặn rằng:

- Ví thử có thua thì nín hơi mà đi ra thôi! Còn như vạn nhất con Thuần mình đấu thắng thì Thân Vương thế nào cũng hỏi mua, anh đừng nhận bán; nếu gạn hỏi thì cứ nhìn vào cái đầu của tôi, chờ khi nào đầu tôi gật thì hẵng ngả giá!

Vương nói:

- Ðược!

Vào đến phủ thì thấy những người chọi chim sát vai nhau đứng cả ở dưới thềm. Chốc lát Thân Vương ngự ra trên điện, tả hữu truyền rằng có ai muốn chọi thì cho lên. Liền có một người xách lồng bước bậc mà lên trên điện. Thân Vương sai thả chim Thuần ra. Khách cũng thả. Mới nhảy đá qua loa, con chim của khách đã thua chạy. Thân Vương cả cười. Chỉ một lúc, người đến chọi mà thua đã có đến mấy vị. Chủ quán nói:

- Ðến lúc rồi!

Bèn cùng nhau bước tới bậc mà lên. Thân Vương xem tướng con chim của Vương mà nói:

- Tròng mắt có vằn máu giận dữ,cũng là một cánh hùng kiện đây! không nên khinh địch.

Bèn truyền lệnh cho đem con Mỏ Sắt ra nghênh chiến. Mới nhảy vọt đấu đá vài lần mà con chim của Thân Vương đã sả cánh. Lại chọn một con chim giỏi hơn đem ra, hai lần đổi, hai lần thua. Thân Vương cấp tốc truyền lệnh vào lấy con Ngọc Thuần của nội cung. Một lát mới thấy đem ra, lông trắng như cò, thần khí hùng dũng khác thường.

Vương Thành thấy thế, trong lòng nao núng, bèn quỳ xuống xin thôi, nói rằng:

- Con chim của Ðiện Hạ là chim thần, sợ đánh giết mất chim tôi thì tôi sạt nghiệp mất!

Thân Vương cười rằng:

- Cứ thả ra cho nó chọi, chẳng may nó chết thì ta sẽ đền bù cho thật hậu.

Thành bèn thả chim mình ra. Con Ngọc Thuần xông thẳng đến. Nhưng khi Ngọc Thuần đang chạy tới thì con Thuần của Vương nằm phục xuống như con gà dữ để đợi. Con Ngọc Thuần mổ vào nó thật mạnh, nó liền nhảy phắt lên như con hạc bay liệng để đánh lại. Khi tiến, khi lui, khi trên, khi dưới, cầm cự với nhau áng chừng một khắc, thì con Ngọc Thuần lơi dần, mà con Thuần của chàng giận càng sôi, đánh đá càng gấp. Chẳng mấy chốc bộ lông tuyết của Ngọc Thuần rụng xơ ra, rồi sã hai cánh chạy trốn. Cả ngàn người đứng xem, không ai là không tấm tắc khen ngợi. Vị Thân Vương bèn bảo bắt nó lên, thân hành cầm lấy xem xét một lượt từ đầu mỏ đến móng chân, rồi hỏi Thành rằng:

- Con chim này anh có bán không?

Thành đáp:

- Tiện nhân nghèo khó, phải nương nhờ vào nó mà sống, không dám bán.

Thân Vương nói:

- Ta trả giá cao, anh sẽ có một gia tư bậc trung, có bằng lòng không?

Thành cúi đầu suy nghĩ giây lâu mới nói:

- Thật quả không muốn để lại, nhưng nay Ðiện Hạ đã yêu thích nó; nếu khiến cho tiện dân được có ăn mặc, thì còn đòi gì hơn.

Thân Vương hỏi giá, Thành xin ngàn lạng vàng. Thân Vương cười rằng:

- Cái anh ngốc này, nào có phải châu ngọc gì mà giá ngàn vàng?

Vương nói:

- Ðiện hạ không cho nó làm báu, nhưng với hạ thần thì ngọc bích liên thành cũng chẳng bằng!

Thân Vương hỏi:

- Thế nào?

Thành đáp:

- Tiện dân đem nó ra chợ, mỗi ngày được vài đồng, đổi thưng đấu gạo, một nhà mười miệng ăn, nhờ đó mà không đến nỗi đói rét, còn của báu nào bằng?

Thân Vương nói:

- Tôi không để anh thiệt đâu, thôi trả anh hai trăm đồng.

Thành lắc đầu; lại trả thêm một trăm. Thành đưa mắt nhìn chủ quán. Chủ quán không động đậy. Thành bèn nói:

- Thưa mệnh Ðiện Hạ, xin bớt một trăm.

Thân Vương nói:

- Thế thì thôi vậy, ai đời lại đem chín trăm lạng đổi lấy một con chim Thuần bao giờ?

Thành xách lồng chim lên định đi thì Thân Vương gọi:

- Này anh chọi chim, lại đây! Lại đây! Tôi dứt khoát trả anh sáu trăm đồng. Bằng lòng thì để, không bằng lòng thì thôi vậy!

Thành lại đưa mắt về phía chủ quán. Chủ quán vẫn điềm nhiên. Ý nguyện của Thành đã hoàn toàn thoả mãn, chỉ sợ nhỡ mất thời cơ, bèn nói:

- Với cái giá của Ðiện Hạ, thật không hài lòng, nhưng đã y ước với nhau mà lại không xong, sợ mắc lỗi thất kính càng lớn cực chẳng đã, xin y theo mệnh lệnh của Ðiện Hạ.

Thân Vương mừng rỡ, cho người cân vàng đưa ngay, Thành nhận vàng, lạy tạ mà đi ra. Chủ quán giận, trách rằng:

- Tôi bảo anh thế nào mà đã vội vã bán đi như thế ? Nếu kéo thêm một chút nữa thì đã có tám trăm cầm tay rồi!

Thành về nhà trọ, đặt vàng lên án mời chủ quán tự lấy. Chủ quán không chịu, Thành ép mãi mới đem bàn tính ra, tính toán đủ tiền phí tổn ăn uống mà nhận.

Thành xắp đặt hành lý ra về.

Ðến nhà, thuật lại những việc đã làm, bỏ vàng ra cùng mừng với nhau.

Bà cụ bảo tậu ba trăm mẫu ruộng tốt, dựng nhà cửa, sắm đồ đạc, nghiễm nhiên là một thế gia.

Bà cụ dậy sớm, đôn đốc cho Thành trông nom việc cày bừa, vợ trông nom việc canh cửi, hơi lơ là thì quát tháo, mà vợ chồng vẫn không hề oán thán.

Qua ba năm, nhà càng giàu, bà cụ ngỏ ý muốn đi, vợ chồng cố giữ lại, đến chảy nước mắt. Bà bèn ở lại.

Sáng ngày vào hầu, thì đã mất hút.
__________________
You Are My Friend And I Hope
You Know That's True.
No Matter What Happens
I Will Stand Right By You.
In Times Of Grief
I Will Give You Belief.
I'll Be There For You
Whenever You Are In Need.
To Lend You A Hand
To Do A Good Deed.
So Just Call On Me When
You Need Me, My Friend!
I Will Always Be There For You
Right To The End!
~~~~~~~~~~***********~~~~~~~~~
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #29  
Old 10-05-2004, 12:45 AM
dethuong123 dethuong123 is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Sep 2004
Nơi Cư Ngụ: none
Bài gởi: 1,547
Send a message via AIM to dethuong123 Send a message via MSN to dethuong123 Send a message via Yahoo to dethuong123
Default

Bồ Tùng Linh:::
Liêu Trai Chí Dị

Hồ Gã Con


Có một Thiên Quan họ Ân, người Lịch Thành thuở nhỏ, nhà nghèo, thường tỏ ra gan dạ. Trong ấp có khu nhà của một cố gia, rộng vài chục mẫu, lầu viện liền nóc, thường thấy chuyện quái dị, vì thế mà bỏ hoang, không ai ở.

Lâu ngày tranh cỏ mọc um tùm, giữa ban ngày cũng không ai dám bén mảng đến.

Một hôm, Ân đang cùng các bạn học trò uống rượu, có người nói đùa:

- Ai dám ngủ trong nhà đó một đêm, chúng tôi sẽ góp tiền đãi bữa rượu.

Ân ngồi nhổm ngay dậy, nói:

- Khó gì việc ấy:

Rồi cắp một chiếc chiếu mà đi. Chúng bạn tiễn Ân đến cổng, bảo đùa rằng:

- Chúng tôi hẵng đợi ngoài này, nếu như có thấy điều gì thì kíp gọi to lên.

Ân cười đáp lại:

- Nếu có ma hãy hồ thì sẽ tóm cổ đưa về làm bằng

Nói rồi đi vào. Thấy lau sậy mọc khuất cả lối đi, các loài cỏ dại mọc rậm như gai.

Hôm đó, nhằm khoảng đầu tháng, trăng non mờ nhạt, nên cửa ngõ cũng phân biệt được.

Ân đưa tay lần vách mà đi mãi, mới đến khu lầu phía sau.

Trèo lên sân thưởng nguyệt, thấy sáng sủa, sạch sẽ, một vành trăng sáng ngậm trên đầu núi, ngồi một lúc lâu, không thấy có gì lạ, trong bụng cười thầm cho là thiên hạ đồn hão.

Rồi giải chiếu xuống đất, gối đầu lên hòn đá, nằm ngắm sao Ngưu Lang Chức Nữ.

Canh khuya, lơ mơ muốn ngủ, Ân chợt nghe dưới lầu có tiếng giầy lẹp kẹp đi lên.

Ân vờ ngủ, ghé mắt xem, thấy một nàng áo xanh xách chiếc đèn hoa sen, thốt nhiên nhìn thấy Ân thì giật mình lùi bước, bảo với người đi sau rằng:

- Có người lạ trên này.

Người bên dưới hỏi:

- Ai vậy?

- Cô gái đáp rằng:

- Không biết.

Giây lát, một ông già bước lên, đến tận nơi nhìn kỹ, nói:

- Ðây là quan thượng thư họ Ân. Ngài đã ngủ say, ta cứ làm việc mình. Ông lớn là người không câu nệ, chắc không lấy làm lạ mà quở trách đâu.

Họ bèn đưa nhau lên, vào cả trong lầu. Các cửa lầu mở hết. Một lát nữa, kẻ đi người lại càng nhiều. Trên lầu, đèn sáng như ban ngày.

Ân khẽ cựa mình, cất tiếng ho hắng.

Ông già thấy ông đã tỉnh, bèn bước ra, quỳ xuống thưa rằng:

- Kẻ hèn mọn này có đứa con gái sắp gả chồng, đêm nay cho cháu làm lễ vu quy; không ngờ xúc phạm đến quan nhân, mong ngài lượng thứ.

Ân ngồi dậy, đỡ ông lão lên nói:

- Không biết hôm nay là ngày vui mừng của nhà ta, thật áy náy vì không có gì để mừng tặng.

Ông già đáp:

- Ðược quan nhân hạ cố, trấn áp điềm hung hiểm, là may lắm rồi. Lại xin được phiền ngài ngồi lại cùng vui, quý hóa biết chừng nào

Ân cũng mừng, nhận lời.

Vào trong lầu, nhìn xem, thấy bày biện đẹp đẽ, trang nhã.

Lúc ấy, có người đàn bà bước ra vái chào, tuổi đã ngoại bốn mươi. Ông già nói:

- Ðây là tiện nội.

Ông vái chào lại.

Bỗng nghe tiếng sênh, tiếng nhạc cất lên inh tai, có người nhà chạy vội lên thưa:

- Ðến rồi!

Ông lão chạy ra đón, Ân cũng đừng đợi.

Phút chốc, một chiếc đàn lồng bằng sa mỏng, dẫn chú rễ vào.

Chù rễ tuổi khoảng mười bảy mười tám, vẻ người sáng sủa, thanh tú.

Ông già bảo hãy chào quan khách trước.

Chàng trai đưa mắt nhìn ông.

Ông giữ chân tiếp khách dùm chủ nhà, nên nhận lễ nửa khách nửa chủ. Thứ đến là bố vợ và chàng rễ giao bái. Xong, bèn ngồi vào bàn tiệc.

Một loáng, đám người phấn sáp kéo lên như mây. Rượu thịt bày la liệt. Chén ngọc, bình vàng sáng nhoáng, chiếu rọi lên bàn ghế.

Rượu được vài tuần, ông già bảo con hầu vào mời tiểu thư ra.

Con hầu vâng lời đi vào, lúc lâu vẫn không thấy ra.

Ông lão tự mình đứng lên, vén bức màn, giục ra.

Phút chốc, một bọn hầu gái, trẻ có già có, cùng đỡ cô dâu ra.

Tiếng ngọc đeo vang lên lanh canh, mùi lan thơm sực nức.

Ông già truyền bảo nàng hãy trông lên mà chào lạy.

Lạy xong cô dâu đứng dậy, ngồi bên cạnh bà mẹ.

Ân đưa mắt liếc nhìn, thấy cô tóc phượng cài trâm thu, tai đeo ngọc minh châu, dung nhan tuyệt đẹp.

Thế rồi, rót rượu vào chén vàng, mỗi chén lớn chừng vài đấu.

Ân nghĩ:

-Vật này có thể đưa cho bạn bè làm chứng được, bèn giấu vào trong tay áo rồi vờ say, tựa xuống ghế, gục đầu mà ngủ.

Mọi người đều nói:

- Ông lớn say rồi!

Không bao lâu, nghe tiếng chú rễ có lời xin rước dâu.

Tiếng nhạc, tiếng sênh lại nổi lên, mọi người nhộn nhịp xuống lầu ra đi.

Xong xuôi, chủ nhân thu dọn bàn tiệc, thấy thiếu mất một cái chén, tìm khắp không thấy.

Có người bàn, vụng ngờ cho ông khách đang nằm ngủ.

Ông già vội gạt đi không cho nói hết, chỉ sợ Ân nghe được.

Lúc lâu nữa, trong ngoài im lặng cả, Ân mới trở dậy.

Tối mò không có đèn đuốc gì, chỉ có mùi thơm của phấn sáp và hơi rượu, như còn đầy cả bốn quanh tường.

Trông ra, hừng đông đã rạng, bèn thong thả bước ra. Sờ vào trong tay áo, cái chén vàng vẫn còn.

Ra đến cổng thì bạn bè đã đợi sẵn, họ cứ ngờ Ân đang đêm lẻn ra, gần sáng mới trở vào.

Ân đưa chén cho xem, ai cũng kinh ngạc, dò hỏi.

Ân bèn kể rõ đầu đuôi cho biết. Chúng đều nghĩ vật này thì anh học trò nghèo chẳng thể nào có, mới tin là chuyện thực.

Về sau, ông thi đỗ Tiến sĩ, nhậm chức ở Phù Khâu.

Có nhà gia thế họ Chu thết tiệc ông, sai lấy bộ chén lớn, mà mãi vẫn không thấy người hầu mang ra.

Có đứa hầu nhỏ che miệng nói thầm với chủ nhân điều gì đấy, nét mặt chủ nhân có vẻ tức giận.

Một lát sau đem bộ chén vàng ra, rót mời khách uống.

Nhìn kỹ kiểu chén cùng đường trạm trổ, không khác chút gì với thứ chén của hồ dạo nào.

Ân lấy làm lạ , Ân hỏi chén này chế tạo ở đâu. Chủ nhân đáp:

- Bộ chén này cả thảy có tám chiếc, đời ông thân tôi làm quan Khanh tại kinh, kén tìm thợ khéo chế ra, nên lấy làm vật gia bảo truyền thế, cất kỹ từ lâu. Vì được đại nhân hạ cố mới lấy ở trong hòm ra, thì chỉ còn bảy chiếc.

Ngờ đâu người nhà lấy trộm, mà dấu niêm phong mười năm vẫn như cũ, thật chẳng hiểu sao nữa.

Ân cười bảo:

- Chén vàng mọc cánh bay mất rồi, những vật báu truyền đời không nên để cho mất. Tôi có một chiếc cũng gần giống, xin đem để tặng ngài.

Tiệc xong, về dinh, ông lấy chén ra, cho người mang đến.

Chủ nhân xem kỹ, rất kinh hãi, đích thân đến tạ ơn, và hỏi nguyên do chiếc chén từ đâu mà có.

Ân bèn kể lại đầu đuôi câu chuyện.

Mới hay rằng vật ngoài nghìn dặm, hồ cũng có thể lấy được, duy chỉ không dám giữ làm của mình.
__________________
You Are My Friend And I Hope
You Know That's True.
No Matter What Happens
I Will Stand Right By You.
In Times Of Grief
I Will Give You Belief.
I'll Be There For You
Whenever You Are In Need.
To Lend You A Hand
To Do A Good Deed.
So Just Call On Me When
You Need Me, My Friend!
I Will Always Be There For You
Right To The End!
~~~~~~~~~~***********~~~~~~~~~
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #30  
Old 10-05-2004, 12:46 AM
dethuong123 dethuong123 is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Sep 2004
Nơi Cư Ngụ: none
Bài gởi: 1,547
Send a message via AIM to dethuong123 Send a message via MSN to dethuong123 Send a message via Yahoo to dethuong123
Default

Bồ Tùng Linh:::
Liêu Trai Chí Dị

Nhan Thị


Thuận Thiên Mỗ Sinh , nhà nghèo , gặp phải năm đói kém theo cha đi đất Lạc kiếm ăn . Tánh chàng rất độn , mãi 17 tuổi mới viết chữ thành hàng lối , nhhưng được bộ mặt lịch sự trai , khéo pha trò , tài nghề viết thư từ , cho nên ai cũng tưởng là chàng học giỏi lắm , nhhưng không dè bên trong rỗng tuếch .

Không bao lâu , cha mẹ kế tiếp qua đời , chàng trơ trọi một mình , phải làm nghề gõ đầu trẻ ỡ Lạc , để kiếm ăn độ nhựt .

Lúc đó trong xóm có người con gái mồ côi , họ Nhan , dòng dõi một nhà học giỏi . Khi người cha còn , thường dạy nàng học , chỉ đọc qua một lượt là nhớ nằm lòng . Ngoài mười tuổi , học làm thơ , người cha nói :

- Nhà ta có nữ học sĩ , tiếc không được đội mũ thôi .

Vì thế ông rất mực yêu quí , chỉ mong kén được một người chồng quý hiển cho con . Sau lúc ông qua đời , bà mẹ nàng vẫn ôm cái chí lớn đó . Nhưng đeo đuổi ba năm cũng chẳng toại nguyện , kế bà ấy cũng mất . Có người khuyên nàng lấy chồng học trò , nàng cũng đồng ý , nhưng cũng chưa kén được ai .

Vừa lúc mụ hàng xóm leo tường qua , nói chuyện với nàng , trong tay cầm một giấy viết chữ gói chỉ thêu , nàng mỡ ra xem , thì là chữ của Mỗ Sinh viết gởi bạn ở lối xóm . Nàng xem đi xem lại , khen ngợi chữ tốt . Mụ nọ dòm biết ý tứ , nói nhỏ :

- Ấy là một chàng đẹp trai , cũng mồ côi như cô , tuổi ngang như cô, nếu cô bằng lòng thì tôi mách chàng cậy mối đến là xong .

Nàng lẳng lặng không nói chi .

Mụ nọ về ngỏ ý với chồng . Người bạn lối xóm vốn chơi thân với chàng , đem chuyện ấy nói , chàng bằng lòng lắm , nhân có chiếc vòng vàng của mẹ để lại , bèn cậy người đem đến làm lễ vấn danh và xin cưới liền .

Vợ chồng như cá nước duyên ưa , hết sức vui vẽ . Ðến bửa được thấy văn bài chồng làm , nàng phì cười và nói :

- Văn với minh dường như hai người , thế này biết đời kiếp nào thi đổ ?

Từ đó sớm hôm khuyên đốc chàng học , nghiêm khắc như thầy đối với học trò . Tối đến , nàng chăm đèn ngồi , tự cất tiếng học ê a , học trước để làm gương cho chồng ; học mãi đến canh ba mới nghĩ .

Như vậy được hơn một năm , văn chương thi cử của chàng đã hơi thông , nhưng đi thi khoa nào cũng rớt . Thân danh lận đận , sinh sống lại nghèo , tự nghĩ tình cảnh buồn tênh , bất giác hu hu khóc lóc .

Nàng phát cáu , mắng nhiếc to tiếng :

- Trời để cho mình làm đàn ông thật uổng . Nếu để cho tôi bỏ khăn yếm , thay đổi làm con trai , thì tôi coi sự thi đổ dễ như trò chơi vậy .

Chàng đang buồn rầu héo gan héo ruột , nghe vợ nói khoác như vậy , quắc mắt giận nói :

- Mình là đàn bà , chưa được bước chân đến chổ thi cử bao giờ , mới tưởng công danh phú quí như chuyện xuống bếp múc nước hay nấu cháo vậy . Nếu cho mình được làm đàn ông thì rồi cũng lận đận rớt lên rớt xuống như ai , chứ tài giỏi gì ?

Nàng cười :

- Mình đừng nên giận , tôi nói thiệt đó . Ðến khoa thi này , tôi sẽ cải trang mà đội tên mình vô trường thi , nếu quả thật tôi cũng lận đận rớt lên rớt xuống như mình thì xin khoét mắt không dám coi rẻ thiên hạ nữa .

Chàng cũng cười và nói :

- Khanh chưa biết nổi cay đắng bên trong ra sao , nên muốn nếm thử . Ðã muốn vậy thì cứ làm , nhưng tôi chỉ sợ chân tướng lộ ra bị làng xóm cười chê mà thôi .

Nàng trả lời :

- Tôi nhất định làm thiệt không phải giả bộ đâu . Còn nhớ thường ngày mình nói tổ tiên có nếp nhà cũ ở đất Yên , vậy tôi xin cải trang làm con trai đi theo mình về ở đó , giả làm em mình , làng xóm biết đấy là đâu .

Chàng nghe theo . Nàng liền vô buồng bịt khăn mặc áo nam tử đi ra hỏi chồng :

- Mình xem tôi có làm con trai được không nào ?

Chàng nhìn vợ quả thật là một thiếu niên đẹp trai , trong lòng mừng rỡ , lập tức đi chào lới xóm để về cố hương . Những người chơi thân đều có quà tặng , mua một con ngựa đở chân , cùng vợ lên đường .

Người anh con nhà bác của chàng còn sống thấy hai em về , cùng trẻ đẹp , hết sức vui mừng sớm hôm chăm nom giúp đở . Lại thấy hai em thức khuya dậy sớm chăm chỉ học hành , lòng thêm yêu quí , thuê một thằng bé để hầu hạ riêng . Nhưng buổi tối , chàng đuổi thằng bé về .

Mỗi khi trong làng có đám cưới đám giổ gì mời thĩnh , duy có anh (anh đây tức là chàng) ra mặt , còn em chỉ ngồi học trong buồng , đến nổi về làng đã nữa năm mà ít người được trông thấy mặt .

Có người nào ân cần xin cho giáp mặt thì anh từ chối hộ . Người ta xem văn bài của em hay quá , lấy làm kinh hải . Có kẻ xông vào tận nơi thì em chỉ cái chào qua loa , rồi ẩn mặt ngay .

Những người được thấy dung nhan , đều hâm mộ tán dương , vì thế tiếng tăm vang dậy , mấy nhà quyền quí tranh nhau , muốn gã con gái cho . Người anh con bác đem chuyện ấy bàn tính , em chỉ nhoẻn cười , cố nài ép thì nói :

- Thề lập chí trèo lên mây xanh , không thi đậu thì không lấy vợ .

Gặp kỳ thi hạch tại tĩnh , anh em cùng đi thi . Anh lại rớt . Em đậu số một , rồi thi Hương đậu Cử nhơn thứ tư , qua năm sau đậu luôn tấn sĩ .

Trào đình bổ đi tri huyện Ðồng thành , việc cai trị giỏi dang , lần lần thăng Chưởng Ấn Ngự Sữ ở Hà Nam , giàu có ngang bậc vương hầu . Rồi viện cớ bệnh tật xin về quê quán hưu dưỡng . Quan khách đến thăm đầy ngỏ , đều từ tạ không tiếp .

Từ lúc học trò cho tới khi quý hiển , không hề nói tới sự cưới vợ , khiến ai cũng lấy làm lạ . Sau khi về hưu , dần dà có nuôi thị nữ hầu hạ . Người ta nghi chắc có sự tòn ten với mấy ả này , nhưng người chị dâu để ý dò xét , tuyệt nhiên không có sự gì ám muội .

Minh trào mất ngôi , trong nước đại loạn ,bấy giờ mới tự thú với chị dâu :

- Thú thiệt với chị , em không phải là đàn ông , mà chính là vợ của Tiểu lang đó . Vì thấy chồng học lôi thôi thi mãi chẳng đậu , em phát cáu tự làm cho biết tay . Bấy lâu giấu diếm hồi hộp , chỉ lo đở bể ra , bị nhà vua triệu vô tra hỏi thì thiên hạ cười chết .

Chị dâu không tin . Bèn tháo giày vớ đưa bàn cẳng cho xem , bấy giờ chị mới chưng hửng , nhìn trong giày thấy lót đầy bông gòn và vải . Từ đó , nàng trở lại làm đàn bà , còn chức hàm của vợ thì chàng lãnh lấy .

Hồi nào tới giờ , nàng không hề chửa đẻ , bèn ra tiền mua hầu cưới thiếp cho chồng , và nói :

- Phàm ai làm nên giàu sang cũng mua hầu có thiếp để tư phụng cho sướng thân . Riêng tôi làm quan trải mười năm , chỉ vò vỏ một mình , thế thôi . Mình phước gì mà được hưỡng hầu non gái đẹp như vầy chớ ?

Chàng cười và nói bỡn :

- Thì mình lựa chọn lấy ít cậu đẹp trai để chúng hầu hạ , như kiễu Sơn Âm công chúa , em Tống phế đế ngày xưa vậy , có sao ? Xin mình cứ việc .

Người đồn nhau câu chuyện ấy làm một trò cười .

Lúc ấy , cha mẹ chàng được ơn vua truy tặng mấy lần . Các hàng văn thân đến mừng , đều tôn chàng là quan Thị ngự , nhưng chàng hổ thẹn về sự nhận chức hàm do vợ làm nên , cho nên suốt đời cam làm anh học trò tầm thường , đi ra chưa từng dùng võng lọng bao giờ.

Hết
__________________
You Are My Friend And I Hope
You Know That's True.
No Matter What Happens
I Will Stand Right By You.
In Times Of Grief
I Will Give You Belief.
I'll Be There For You
Whenever You Are In Need.
To Lend You A Hand
To Do A Good Deed.
So Just Call On Me When
You Need Me, My Friend!
I Will Always Be There For You
Right To The End!
~~~~~~~~~~***********~~~~~~~~~
Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời


Ðiều Chỉnh
Xếp Bài

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
Bạn không được quyền gởi bài
Bạn không được quyền gởi trả lời
Bạn không được quyền gởi kèm file
Bạn không được quyền sửa bài

vB code đang Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển đến


Múi giờ GMT. Hiện tại là 12:30 PM.


Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2025, Jelsoft Enterprises Ltd.