#11
|
||||
|
||||
![]() Thấy Được Những Huyền Bí Bên Kia Cõi Chết Qua Hiện Tượng Hàn Mặc Tử
Thi Sĩ: Hàn Mặc Tử thơ/lời: 130 Dũng Lạc Cao Tường Cả ngàn trường hợp những người đã được các bác sĩ chứng nhận là đã chết thực sự rồi vì một lí do huyền bí nào đó bổng dưng sống lại, đã được bác sĩ Raymond Moody thu góp trong cuốn "Đời Sau" (Life After Life) xuất hiện năm 1975. Tôi đã tìm đọc trước hết vì tò mò muốn biết những điều bí ẩn về hiện tượng này. Nhưng trong lòng thì vẫn hồ nghi, không biết những kết luận của bác sĩ Moody có thực không, hay cũng chỉ do phản ứng thuốc và cơ thể lúc hấp hối, vì óc cũng như các tế bào đang chết mà nảy sinh ảo giác và những hình ảnh như kiểu "nảy đom đóm mắt" vậy. Nhưng rồi cái tò mò này dẫn tôi đi xa hơn. Về những thay đổi kì lạ và bất ngờ nơi những người như thế, mà cụ thể là Hàn Mặc Tử. Hàn Mặc Tử là một nhà thơ thiên tài và thần bí. Thơ của ông chất chứa những ý tưởng và hình ảnh lạ lùng vượt qua ngôn ngữ loài người. Bí ẩn gì đàng sau hiện tượng này? Những vần thơ tuyệt tác của ông do tài năng riêng hay do một nguồn huyền bí nào khác? Đời sống của ông đã tữ những vật vã cô đơn cùng độ đến những cảm nghiệm hút hồn đầy hoan lạc. Điều gì lạ vậy? I. ĐƯỢC ÁNH SÁNG BIẾN ĐỔI (Transformed by the Light) Đó là tựa đề cuốn sách do cuộc nghiên cứu nhiều năm bằng phương pháp khoa học của bác sĩ Melvin Morse về hiện tượng những người chết sống lại, mới được xuất bản (Villard Books, 1992), sau sự thành công của chương trình nghiên cứu khác tại Seattle trong cuốn Gần Aùnh Sáng Hơn (Closer to The Light, Ivy Books 1990). Thực ra thì bác sĩ Raymond Moody đã thu góp, phân tìch và đưa tới những kết luận chung về những trường hợp trên từ lâu, nhưng chưa mang tính cách khoa học như của bác sĩ Melvin Morse xác nhận trong cuốn "Được Ánh Sáng Biến Đổi": "Tôi muốn chứng minh một cách khoa học những điều mà những người nghiên cứu khác chỉ phỏng đoán, xem những người chết sống lại được thay đổi như thế nào..." (trang 29) Đã chết thật khác với tình trạng hôn mê bất tỉnh. Tôi đã có dịp nói chuyện với một người quen, đã bị hôn mê cả tháng trời sau khi mổ, thì không thấy có hiện tượng như trường hợp chết đi sống lại, mà chỉ có những cơn mơ dài. Vì tình trạng hôn mê vẫn chưa phải là chết thật. Những gì xẩy ra trong thời gian một người đã thực sự chết rồi sống lại? Có người chết 5 phút, có người chết nửa giờ. Cả mấy trăm trường hợp như vậy được khảo sát bằng phương pháp khoa học đàng hoàng. |
#12
|
||||
|
||||
![]() Tất cả mọi trường hợp trên đều có 4 điểm chính:
1. Hồn ra khỏi xác: bay lơ lửng trên không nhìn xuống xác của mình, thấy rõ mọi người và mọi sự đang xẩy ra trong khung cảnh mình vừa tắt thở. Thấy các y tá và bác sĩ chạy hối hả. Thấy những người thân yêu đang khóc... 2. Ống tối dài: sau đó hồn như bị hút vào một cái ống dài thật tố đen với một tốc độ nhanh kinh khủng. Betty Eadie kể lại kinh nghiệm của chính mình trong cuốn "Được Aùnh Sáng Aáp Ủ" (Embraced by The Light, Gold Leaf Press 1992): Đây đúng là thung lũng bóng tối sự chết" (trang 39) như Kinh Thánh đã từng nói tới. 3. Nguồn sáng: bỗng thấy một nguồn sáng xuất hiện đầy yêu thương và an bình. Aùnh sáng này thật sáng nhưng không :Di mắt. Có người cảm nghiệm thấy Chúa, có người thấy Đức Maria.... "thấy tắm trong ánh sáng và thấy một bà mầu nhiệm mặc áo trắng đến cầm tay nâng đỡ tôi" (trang 191). Lúc đó hồn được soi sáng nhìn lại và thấy tất cả cuộc đời của mình hiện lên trong một nháy mắt. Giáo lý vẫn gọi là phán xét. "Tôi thấy tôi là chính những người tôi xúc phạm, và cũng là chính những người tôi giúp đỡ". Lời thuật này làm chứng lời Chúa trong Phúc Aâm Thánh Gioan: Chúa không sai Con của Ngài xuống để luận phạt thế gian mà là để cứu rỗi; ai đi trong bóng tối thì đã tự luận phạt rồi. Rồi hồn sung sướng sửa soạn bước vào vùng ánh sáng thì lại nghe rõ lệnh: chưa phải lúc, hãy trở về. Thế là sống lại. Tất cả đều không thích trở lại như vậy. Cũng có một số trường hợp, thay vì gặp vùng ánh sáng yêu thương, thì lại gặp vùng đen tối hiện hình như quỉ sứ trong biển lửa thật sợ hãi, như bác sĩ Raymond Moody thuật lại trong "Aùnh Sáng Muôn Năm" (Light Beyond, Bantam Books 1989, trang 26-27). Betty Eadie tả kỹ về cảm nghiệm nguồn ánh sáng: "Bây giờ thì tôi biết có Chúa thật. Không còn chỉ tin vào một lực vũ trụ, mà tin vào một Đấng đàng sau sức mạnh đó. Tôi thấy Đấng đầy yêu thương đã dựng nên vũ trụ và đặt mọi khôn ngoan vào đó. Tôi thấy Ngài điều khiển trí khôn ngoan và sức mạnh này. Tôi thấy trực tiếp rằng Chúa muốn chúng ta trở nên giống như Ngài, và Ngài cho chúng ta những đặc tính giống như Chúa, như óc tưởng tượng và sáng tạo, ý chí tự do, trí thông minh, và nhất là khả năng yêu thương..." (trang 61). "Tôi cảm nhận tình yêu của Chúa vô điều kiện, vượt trên mọi tình yêu trần thế... Và tôi được ấp ủ trong cánh tay của ánh sáng vĩnh cửu này" (trang 53). 4. Được biến đổi: bác sĩ Morse cho biết: "Tất cả mọi trường hợp đều được biến đổi sau khi đã gặp ánh sáng này... Họ trở nên đầy nhiệt lực và dễ thương hơn, đôi khi họ được sức cảm thụ lạ về những lãnh vực tâm linh trước kia không hề biết" (trang 6). Một số người biết trước truyện sẽ xảy ra trong tương lai hay ở xa "Họ ít sợ hoặc không sợ chết nữa, vì họ biết có một cuộc sống mới. Một số người tự nhiên thông minh hơn ra nhiều... biết nhiều nguyên lí toán học ngay cả về nguyên tử... thuyết tương đối của Einstein ...phát triển nhiều khả năng tâm linh..." (trang 9-10). Tất cả những cái thấy trên đây đều được bác sĩ Melvin Morse chứng nghiệm là có thật, chứ không phải do phản ứng của thuốc hay cơ thể lúc chết do ảo giác vì thiếu dưỡng khí hay vì những thần kinh óc bị hủy hoại. (xem Được Aùnh Sáng Biến Đổi trang 194). "Cảm nghiệm ánh sáng không thể tự tạo ra được, mà chỉ có thể có được ở điểm chết hoặc nơi những thị kiến tâm linh rất đặc biệt... Sự thay đổi mạnh nhất và kéo dài lâu nhất được thấy nơi những người đã trông thấy ánh sáng này" (trang 197). II. HÀN MẶC TỬ ĐÃ CHẾT MẤY LẦN VÀ ĐÃ THẤY GÌ? Trong thơ Hàn Mặc Tử, có nhiều ý tưởng và hình ảnh kì lạ khó hiểu. Một vài người vội nghĩ ngay đó chỉ là những tưởng tượng hay bám víu vào niềm tin cho khuây khỏa cơn bệnh, hay chỉ là những kiểu chơi chữ cho bay bướm cao siêu. Nhưng qua những khảo cứu và những khám phá khoa học trên thì chắn chắn ai cũng phải nhận rằng những ý tưởng và hình ảnh này đúng là của một người đã chết, đã thấy nhiều điều huyền bí từ "cõi chết" (phải nói là cõi sống thật mới đúng), rồi sống lại trở về kể lại như một lời chứng. Sự kiện đầu tiên được Nguyễn Bá Tín trong "Hàn Mặc Tử Anh Tôi" thuật lại. Hồi nhỏ Hàn Mặc Tử rất ham chơi. Hết thích bắn ná cao su thì sang bắn súng, rồi quần Anh và tắm biển, nhất là thời gian gia đình ở Qui Nhơn. "Có lần cả hai anh em xuýt chết vì lội ra quá xa bờ, khi vào bị gió nồm quá mạnh, anh Trí đuối sức gần ngất đi, phải nằm ngửa cho gió đẩy vào bờ. Trông anh sợ hãi khác thường, thần sắc ngơ ngác, như không còn trông thấy gì nữa. Anh thều thào: "Ở Huế, bơi qua cầu Bạch Hổ bị rong vấn chân kéo chìm không lội đuợc, mà sao ít sợ hơn bữa ni". Rồi anh lẩm bẩm nghe như: Đức Mẹ...Đức Mẹ... Tôi tưởng anh cầu nguyện. Trông anh khác lạ đi, tôi càng hoảng sợ: anh không còn giống anh nữa, với đôi mắt lạc thần. Từ đó, anh không tắm biển nữa, sợ nước, ít hoạt động, nói năng nhỏ nhẹ như sợ ai nghe. Thường ngồi khoanh tay nghe hơn là nói, thân thể gầy sút đi. Nhiều lúc như xuất thần, anh không hay biết gì chung quanh, nhất là lúc anh ngâm thơ, giọng như run run đau đớn" (trang 20-21). Thật lạ lùng, các diễn tiến trong thơ Hàn Mặc Tử cũng giống hệt như 4 điểm chính trong khảo sát của bác sĩ Melvin Morse: 1. ĐÃ THOÁT HỒN NGOÀI XÁC Hàn Mặc Tử đã thấy gì hôm đó? Trong "Ánh Sáng Biến Đổi" bác sĩ Morse thuật lại một truyện xảy ra của Jim cũng suýt chết đuối ở bờ biển California y như trường hợp Hàn Mặc Tử, mà ông gọi là "fear death" (chết vì quá sợ ): "Khi thấy càng bị đẩy xa bờ hơn, tôi quá sợ hãi, và càng đạp mạnh hơn. Bỗng tôi thấy mình bay lên trên không khí nhìn xuống tôi đang bơi, giống như có hai cặp mắt cùng nối vào một óc... Rồi tôi được tràn ngập bởi một nguồn sáng, như mây bao phủ quanh tôi. Tôi thấy thích thú... Bỗng tôi trở lại thân xác tôi. Tôi nghĩ rằng tất cả cảm nghiệm này kéo dài khoảng một phút". (161-162) Ánh sáng trong trường hợp Hàn Mặc Tử ở bờ biển Qui Nhơn được biểu hiện là chính Đức Maria, mà sau này được ghi lại trong bài Thánh Nữ Đồng Trinh Maria: Maria, linh hồn tôi ớn lạnh Run như run thần tử thấy long nhan Run như run hơi thở chạm tơ vàng Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến. Chính Nguyễn Bá Tín cũng xác nhận điều này: "Anh xúc động đến rơi lệ và thì thầm cảm tạ được ơn cứu thoát trong tai nạn đó" (Hàn Mặc Tử Anh Tôi, trang 82). Lạy Bà là Đấng tinh truyền thanh vẹn Giàu nhân đức giàu muôn hộc từ bi Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy Cơn lâm lụy vừa trải qua dưới thế. Và ít nhất ba chỗ trong cuốn "Hàn Mặc Tử", Ông Trần Thanh Mại có nhắc tới việc Hàn Mặc Tử chết đi sống lại trong thời gian bệnh đã nặng: đôi ba lần (trang 55, 80) rồi bốn năm lần (trang 136). Chính Hàn Mặc Tử đã ghi lại: Toan ngất đi trong cơn mê khoái lạc Mẹ dấu yêu liền vội đền tay nâng. ... Anh đã thoát hồn anh ngoài xác thịt Để chập chờn trong ánh sáng mông lung. (Sáng láng) |
#13
|
||||
|
||||
![]() Trong Kinh Thánh, Thánh Phaolô có lần kể lại chuyện về chính mình bị ném đá chết ngất đi tại Lystra: "Tôi sắp kể về các cuộc thị kiến và khải minh Chúa ban cho tôi. Tôi biết có một người trong Đức Kitô, cách đây mười bốn năm (hồn còn ở trong xác hay đã ra ngoài xác tôi không biết, có Thiên Chúa biết) được bốc lên tầng trời thứ ba; và tôi biết người đó (hồn còn ở trong xác hay đã ra khỏi xác tôi không biết, có Thiên Chúa biết) đã được bốc lên Thiên Đàng và được nghe thấy những tiếng nói mà người thường không có thể cũng không được phép phát ra. Đó là người tôi muốn khoe chứ tôi đây thì khoe làm gì, vì chỉ thấy những điểm kém hèn. Giả tỉ tôi nhất định khoe thì cũng chớ ai cười tôi là khùng, vì tôi nói đúng sự thực; nhưng tôi sẽ không nói nữa, vì những vụ thị kiến kia quả là vĩ đại khác thường, tôi sợ vì đó mà có người đánh giá tôi cao hơn những tư cách họ mắt thấy tai nghe ở nơi tôi" (2Co 12:1-6).
2. HỒN BAY VÙN VỤT Nhất là trong "Hồn Lìa Khỏi Xác", Hàn Mặc Tử đã diễn lại y như bác sĩ Melvin Morse đã khảo sát trong giai đoạn sau khi chết bị hút vào ống tối dài, mà Betty Eadie tả là thung lũng bóng tối sự chết: Há miệng cho hồn văng lên muôn trượng Chơi vơi trong khí hậu chín tầng mây Aùnh sáng lạ sẽ tan vào hư lãng Trời linh thiêng cao cả gợi nồng say. Vì không giới nơi trầm hương vắng lặng Nên hồn bay vùn vụt tới trăng sao Sóng gió nổi rùng rùng như địa chấn Và muôn vàn thần phách ngả lao đao... Rồi hồn ngắm tử thi hồn tan rã Bốc thành âm khí loãng nguyệt cầu xa Hồn mất xác hồn sẽ cười nghiêng ngả Và kêu rêu thảm thiết khắp bao la... Đêm nay ta khạc hồn ra khỏi miệng Để cho hồn bớt nỗi bi thương Nhưng khốn nỗi xác ta đành câm tiếng Hồn đi rồi không nhập xác thê lương. 3. TẮM GỘI Ở TRONG NGUỒN ÁNH SÁNG Thấy ánh sáng muôn năm là yếu tố then chốt trong thiên tài nghệ sĩ sáng tác của Hàn Mặc Tử. Ông thấy và diễn tả lại một cách trung thực. Không phải như một luận đề, suy diễn, hay kết luận của hệ thống giáo lí nào cả, mà là một thực chứng. Nhiều khi ông điên cả lên vì cảm thấy như vậy mà không làm sao dùng ngôn ngữ loài người mà diễn đạt nổi. Cái điên trong tập "Thơ Điên" không nhất thiết vì quá đau đớn, mà vì cái xốn xang như trong "Kêu Gọi": "Ý còn ở trong lòng thì rạo rực xốn xang, khi phô phang lên giấy thì tê dại, ngất ngư, như không có chút gì là rung động nữa... Lòng ta hừng hực mỗi khi nắng hanh lên. Aáy là dấu hiệu mùa thơ đã chín. Gặt hái cho mau, kẻo ngọn thơ càng cao, người thơ càng điên dại..." (Chơi giữa mùa Trăng, trang 27-28). Nguồn ánh sáng mà Hàn Mặc Tử thấy là một ngôi vị Thiên Chúa tình yêu, chứ không phải là một lực vũ trụ vô vi, vô vị nhạt nhẽo. Là chính Chúa Giêsu trong cảm nghiệm của thánh Phaolô trên đường Đa-mát: "Đương khi còn đi đường, khúc đó đã gần tới Đa-mát ngay trước cổng mở vào thành, chợt ông trông thấy có ánh sáng từ trời bủa xuống bao kín chung quanh ông. Oâng ngã xuống đất, và nghe thấy có tiếng bảo rằng: Sau-lô, Sau-lô, sao nhà ngươi bách hại ta hoài? Oâng hỏi: Ngài là ai? Tiếng nói trả lời: Ta là Giêsu..." (TĐCV 9:3-5). Cảm thông và kết hợp với Thiên Chúa là một tương giao rung động con tim chứ không phải như kiểu tượng muối trở về hòa tan trong biển cả là cội nguồn mình. Đó là một tương giao thân tình kiểu "I - Thou" trong tâm tình của Buber. Và như Betty Eadie, Hàn Mặc Tử thấy hồn sung sướng được ấp ủ trong Tình Yêu: Ai tới đó mà chẳng nao thần trí Tòa châu báu kết bằng hương kì dị Của Tình Yêu rung động lớp hào quang .... A ha hả, say sưa chê chán đã Ta là ta hay không phải là ta? Cò gì đâu cả thể với cao xa Như cội rễ của trăm ngàn đạo hạnh. (Siêu Thoát) Và trong bài "Ngoài Vũ Trụ", hồn thơ còn thấy rõ hơn: Sáng vô cùng, sáng láng cả mọi miền Không u tối như cõi lòng ma quỉ Vì có Đấng Hằng Sống hằng ngự trị Nhạc thiêng liêng dồn trổi khắp u linh. .... Tình thơm tho như ngấn lệ còn nguyên Ta ước ao đầu đội mũ triều thiên Và tắm gội ở trong nguồn ánh sáng. 4. ĐƯỢC BIẾN ĐỔI: QUI TỤ THÂU VỀ TRONG MỘT MỐI Nhiều người trong cuộc khảo cứu của bác sĩ Melvin Morse, sau khi chết đi sống lại, đã trở nên khác lạ với những khả năng cảm thụ đặc biệt. Trường hợp Olaf trong "Được Aùnh Sáng Biến Đổi" thì thấy: "đang trôi trong vũ trụ vô bờ bến... Vũ trụ như những bọt xa bông đang qui về trọng tâm theomột hình thái phức tạp, nhưng tôi hiểu được trọn vẹn, thấy được mọi sự đều có nghĩa... cảm thụ được toàn thể vũ trụ..." (trang 12-13). Hàn Mặc Tử cũng đã được khả năng lạ lùng này, là thấy mọi trắng đen đỏ vàng ,buồn vui, trầm bổng cuộc đới không phải là những mảnh vỡ vô nghĩa hay những cù lao trôi nổi phi lí, mà đều qui tụ thâu về trong một mối, mang trọn ý nghĩa trong một chương trình mầu nhiệm như lới Kinh Thánh: "Chúng ta biết rằng mọi sự đều đi liền với nhau sinh ích cho những ai được Chúa yêu thương, tức là những người được Chúa kêu gọi theo chương trình của Người" (Roma 8:28). Cái thấy này cũng đang phù hợp với những khám phá mới nhất về khoa học vật lý. Từ nhãn quan vật lý cá biệt "những cù lao" của Newton đến thuyết tương đối của Albert Einstein, và bây giờ là "quantum physics", dịch thoát là "vật lý vũ trụ nhất thể", mọi sự xuất phát và "qui tụ thâu về trong một mối", đều liên hệ tới nhau vì chia sẻ cùng một lực sống. Hàn Mặc Tử đã tả lại cái thấy này trong bài Siêu Thoát: Những cù lao trôi nổi xứ mênh mang Sẽ qui tụ thâu về trong một mối. Và tư tưởng không bao giờ chắp nối Là vì sao? Vì sợ kém thiêng liêng Trí vô cùng lan nghĩ rộng vô biên Cắt nghĩa hết những anh hoa huyền bí Trời bát ngát không cần phô triết lí Thơ láng lai chấp :Da những hàng châu Ta hiểu chi trong áng gió nhiệm mầu? Những hạt lệ của trích tiên đầy đọa. LÀM MỘT NHÀ VĂN Tất cả những cái thấy trên đúng là như vẽ ra cảnh thiên đàng trong hình ảnh Kinh Thánh qua các thị kiến của các tiên tri và Khải Huyền, thật lạ lùng vượt qua sức hiểu biết con người, nhưng có thực, giống như cái thấy của thánh Gioan: "Tôi thấy một trời mới và một đất mới, cảnh trời thứ nhất và đất thứ nhất đã biến dạng, cả biển cũng không thấy đâu. Tôi thấy thành thánh, thành Giêrusalem mới, từ Thiên Chúa trên trời hạ xuống, xinh đẹp như một tân nương trang điểm chờ chồng. Rồi tôi nghe có tiếng lớn phán ra từ bảo tòa: Ngươi có thấy đô thị này chăng? Tại đây Thiên Chúa sống giữa loài người. Người sẽ đặt trú sở của Người giữa chúng; và chúng sẽ lã thần dân của Người, và chính Người sẽ là Thiên Chúa của họ, đúng như mấy chữ Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. Người sẽ lau mắt họ cho ráo lệ sầu, sẽ không còn chết :Dc, không còn tang chế hay là buồn rầu nữa. Thế giới cũ đã qua" (Khải Huyền 21:1-4). Với cái thấy đã một lần cảm nghiệm, Hàn Mặc Tử đã diễn ra thành những vần thơ tuyệt tác có một không hai trong nền văn học Việt Nam, và của nền tu đức Công Giáo. Ông nhìn cuộc sống và mọi sự, ngay cả con người cùi của mình, với một nhãn quan mới chan hòa ánh sáng chứ không u ám vật vã như trước nữa. Ông Thái Văn Kiểm trong bài nói chuyện tại giáo xứ Paris dịp giỗ 50 năm Thi Hào Hàn Mặc Tử ngày 11.11.1990 đã có những nhận xét: "Nhà thơ của chúng ta bẩm thụ được cái thiên tư cao quí là nhìn thấy được cái hư ảo, cảm được cái vô lượng và nghe được sự yên lặng của vô thủy vô chung". "Nơi đây vang dội những lời cầu nguyện, những hương lạ mê ly, những âm thanh kỳ diệu, tất cả chìm ngập trong bể hào quang và trong tinh hoa của thi vị". Vì "theo Hàn Mặc Tử, thi ca là một sáng tạo thuần túy của Thượng Đế, và để báo đáp công ơn đó, thi sĩ phải là kẻ xướng thánh ca, cảm thông với thượng Đế, ca ngợi chân thành sự nghiệp thiêng liêng và vinh quang bất diệt của Người. Thi sĩ là gạch nối, là trung gian ưu tú giữa Hóa Công và nhân loại". Đức Tin tuyệt đối nơi Thượng Đế đã giúp Hàn Mặc Tử trải qua những thống khổ nơi trần gian, đồng thời hoàn bị thi ca của chàng đến mức độ cao siêu và thành tựu". Hàn Mặc Tử đã làm chứng đức tin bằng thơ văn về những gì huyền bí đã thấy bằng thực chứng qua những lần chết đi sống lại. Đọc thơ Hàn Mặc Tử, thì một người ngoài Công Giáo cũng nhận ra có linh hồn, có thung lũng "ngục tổ tông" bóng tối sự chết, có phán xét, có thiên đàng, có hỏa ngục, có buồn có vui, mọi sự sẽ "qui tụ thâu về trong một mối", và nhất là có Chúa là nguồn Ánh Sáng Tình Yêu. Có nhiều người Công Giáo viết văn, làm thơ, nhưng chỉ khi nào chuyển được sứ điệp Chúa Kitô, của Thập Giá và Phục Sinh, thì mới có được những nhà văn, nhà thơ Công Giáo như Hàn Mặc Tử. Đúng như lời Hoài Thanh đã nhận xét trong Thi Nhân Việt Nam: "Thơ Hàn Mặc Tử ra đời, điều ấy chứng rằng đạo Thiên Chúa ở xứ này đã tạo ra một cái không khí có thể kết tinh lại thành thơ. Tôi tin rằng chỉ những tình cảm có thể diễn ra thơ mới thiệt là những tình cảm đã thấm tận đáy hồn đoàn thể" (trang 212). LM. DŨNG LẠC TRẦN CAO TƯỜNG Số lần đọc: 46 |
#14
|
||||
|
||||
![]() :::: Cung Khanh ::::
người con gái thần rắn Về phía Nam suối Ngọc có cái miếu cổ, hư sập rồi không ai chữa lại. Dựa bên miếu có cây đào to lớn, cành lá um tùm. Trong miếu có hang, hang sâu thăm thẳm. Dưới hang có một con rắn to lớn không biết ngần nào. Rắn sống lâu năm, linh thiêng hoá hình người được. Cây đào bên miếu sống cũng lâu và cũng thiêng. Mỗi năm đến cuối mùa đông, bắt đầu mùa xuân, khi hoa đào đua nở, thì trong những cành sây bông hiện ra một giai nhân đẹp tươi như hoa đào; cứ mỗi đêm ca hát trước miếu. Mãn mùa xuân, lúc hoa tàn, cánh hoa đào rơi trước gió, người ấy biến mất, chờ mùa xuân sang năm lại ra. Chốn ấy hoang vu, không ai lai vãng. Có người bảo đấy là ổ trăn, vì họ thấy mang máng nhiều sọ người nằm trong bụi rậm. Có hôm mưa giông người ta gặp một con rắn lớn dị thường bò trước miếu, hoặc khoanh tròn dưới gốc đào, lúc tạnh thì biến mất. Từ đấy họ sợ thêm, và lần lần quanh miếu thành một khu rừng nhỏ, không dấu chân người. Bấy giờ cuối mùa đông, cây cỏ đâm chồi, trên nhành đào lấm tấm lộc non. Khi xuân đến, hoa điểm hồng mơn mởn. Một đêm nồng, giai nhân hiện ra tha thướt. Nàng cất tiếng hát. Rắn thần đang yên giấc thức dậy lắng nghe. Đêm trong, ngàn sao lóng lánh, từng trận gió thoảng rải hương ngào ngạt. Thần rắn nhìn giai nhân nhởn nhơ bên những cành đào, lòng thần hồi hộp. Rồi uốn thân mình, thần hoá một trang thanh niên tuấn tú. Chàng là một tài tử, tiếng sáo véo von, nhịp nhàng với lời ca thanh tao của giai nhân... Từ đó hai người quen biết nhau, thân mật nhau rồi trở nên vợ chồng. Mùa xuân năm ấy hoa đào lộng lẫy hơn các hôm khác. Đêm đến, trong không uyển chuyển tiếng yêu đương của chàng và nàng. Những chim én đưa thoi, dệt thời gian lẹ làng và thấm thoắt. Sang hè, cuộc ái ân tạm ngừng. Giai nhân tuy buồn về nỗi tạm biệt chàng, nhưng vui tươi bày tỏ cùng chàng một mầm hy vọng. Rắn thần dẫu bịn rịn khúc chia ly, nhưng khấp khởi mừng thầm vì ái ân đã kết quả. Rồi một tia nắng nồng, một ngày nồng nực làm héo những đáo hoa cuối mùa. Luồng gió nồm thoảng nhẹ, rải trên bờ cỏ úa vàng bao cành hoa đẹp. Giai nhân từ biệt thần rắn và biến theo vẻ đẹp cây đào. * * * |
#15
|
||||
|
||||
![]() Mùa xuân năm sau, hoa đào nở rất ít nhưng màu sắc đậm đà. Thần rắn trông chờ giai nhân, và, một tối đầu mùa xuân
nàng trở về. Sắc nàng kém tươi nhưng thâm thuý. Nàng sinh một gái, xinh đẹp hồng hào. Thần rắn vui mừng khôn xiết, nhưng một cái buồn tự đâu xâm về chiếm lấy tâm linh chàng. Giữa mùa xuân, trong lúc cây cỏ xanh tươi, trăm hoa đến lúc dậy thì dưới ánh vàng ấm áp, giai nhân than thở cùng chàng: - Thiếp không dè ái ân của đôi ta đến đây kết liễu. Thiếp không còn sống nữa để cùng chàng sum họp và nuôi con. ái tình đã đem cho thiếp tất cả nhan sắc và đẹp đẽ của sự sống. Ăn ở với chàng được một mụn con, đó là kỷ niệm êm đềm trong đời hai ta. Chàng sống lâu vì chàng là sức mạnh. Chàng sẽ ở lại săn sóc con thơ. Thiếp là sự đẹp rất mong manh. ái tình đã làm cho thiếp thêm xuân nhưng cũng làm cho thiếp :Dng tàn. Bây giờ thiếp chết, nhưng thiếp còn để dấu vết nhan sắc lại cho con. Chàng nuôi con hết lòng, đó cũng như chàng tỏ tình còn mến thiếp. Nhưng thiếp xin nhờ chàng một điều: lúc con khôn lớn, chàng nên căn dặn nó, đừng lâm vào vòng ái ân mà kiếp sống phải ngắn lại. Nếu nó muốn sống đời đời kiếp kiếp, trẻ mãi, vui tươi mãi, thì phải xa lánh ái tình. Nói xong, nàng khóc rất lâu, trao con cho thần rồi biến mất. Hôm sau, những hoa đào tàn rụng. Cây đào khô héo lần rồi chết. * * * Thần rắn chắt chiu nuôi con thơ, dấu tích của người yêu quý. Ngày ngày chàng vào rừng xa tìm sữa đem về. Ngày qua, nàng lớn khôn; đúng mười sáu năm thì nàng đẹp đẽ và thông minh hơn loài người. Nhan sắc nàng chính là nhan sắc của mẹ ngày xưa; nhưng trong nhan sắc ấy ẩn vẻ huyền bí của cha. Thông minh của nàng là thông minh của loài rắn. Đôi mắt của nàng trong như trời quang không mây. Cái nhìn nàng chính cái nhìn thôi miên thu cả tâm hồn người và vật của tổ tiên loài rắn để lại. Miệng nàng cười xinh đẹp như hoa đào. Nàng đi tha thướt, yểu điệu, uyển chuyển. Tất cả tính nết và sắc đẹp của cha mẹ, nàng đều thọ lãnh. Thần rắn thấy con lớn khôn và xinh đẹp thì lo âu. Ngày ngày dặn con chơi quanh nơi miếu, không được đi xa. Thần lo sợ nàng bị ái tình quyến rũ. Thần chưa dám ngỏ cái sợ ấy cho con biết, cùng nói lại lời trối của giai nhân cho con nghe. Thần cũng không nói câu nào với con mà có lẫn hai tiếng ái tình vào, vì thần biết hai tiếng ấy có sức mạnh vô ngần. Ngày ngày nàng quanh quẩn bên miếu, tâm hồn ngây thơ và chất phác. Hàng ngày, thần rắn ra sức tìm thức ăn về cho con. Cực nhọc, nhưng thần vẫn sung sướng vì thấy con :Dng lớn và khôn ngoan. Nhiều lần suýt chết với thú dữ trong rừng, thần trở về buồn rầu, gương mặt còn in nét sợ. Nhưng khi thấy nàng chạy đến mừng rỡ, nói những lời ngây thơ, thần bỗng quên tất cả ưu tư, trở lại vui vẻ, nô đùa với con. Một buổi chiều, trời mưa tầm tã, thần quảy thức ăn về xong, hồi tưởng đến ngày xưa... Thuở ấy, thần hống hách oai linh, không ai dám phạm đến tên tuổi. Thú dữ, người vật thảy đều xa lánh. Thần rất khoẻ mạnh, không biết mệt nhọc là gì. Nhưng từ lúc yêu cho đến bấy giờ, linh tính phai dần, để san sẻ cho con. Ngày trước, thần muốn đi đâu, chỉ uốn mình hoá gió bay đi. Bây giờ phép ấy không linh nghiệm. Thần đã mất thiêng. Nhưng mất phép màu nào, thì con thần được thêm một đức tính. Cảm nhận bấy nhiêu, thần tự an ủi: ?Dẫu sao, ta sẽ còn sống mãi mãi, bởi đứa con ta?. Cứ như thế mà ngày tháng trôi đi. Rồi một hôm, thần mệt nhọc, biết mình sắp chết. Thần gọi con lại bên mình trối rằng: - Con chắc không biết ta là ai và mẹ con ở đâu. Ta xưa là rắn, rất công phu luyện tính mình. Trải mấy trăm năm lao khổ, tính mới được linh và hoá được làm người. Ta phải trau dồi trong mấy trăm năm lòng ta trong sạch, trí ta sáng suốt để hơn cả mọi người và thành thần. Ta ước ao sống đời đời kiếp kiếp dung dưỡng tính tình, nhưng vì ta yêu mà sự sống phải bớt lại để trao sự sống cho con. Mẹ con trước kia là cây đào, cùng trải mấy trăm năm chất chứa tinh hoa, gộp cả nhan sắc từ đời nào mới hoá hình người được. Rồi cũng vì yêu, mà đem cả vẻ đẹp san lại cho con để phải bỏ mình. Chúng ta đều vì yêu mà chết, vì con mà hy sinh tất cả thông minh, tất cả vẻ đẹp của chúng ta. Ngày ấy, lúc mẹ con sắp mất, có lời trối này mà cũng là lời trối của ta: ?Con là kết quả ái tình của một thần linh và một nhan sắc tuyệt trần. Con là một giai nhân của những giai nhân trong đời, một thần linh trong những thần linh. Đời con sẽ là đời của mẹ con và của ta hợp lại. Nhưng nếu con muốn giữ vẹn toàn đức tính, con phải xa lánh tình yêu đi; gương mẹ con ngày trước và của ta bây giờ đủ cho con thấy xa...?. |
#16
|
||||
|
||||
![]() Nói xong, thần rắn thấy lòng bứt rứt, giãy giụa. Một lát sau lăn lộn dữ dội, biến hình rắn hổ mang mà chết...
Nàng thương tiếc khôn xiết, đem thây cha chôn cạnh gốc đào. Từ ấy nàng ghê tởm ái tình. Nàng không biết là gì, nhưng cũng nguyện trước mồ cha mẹ, hễ gặp ái tình chốn nào sẽ tiêu diệt đi. * * * Nhan sắc và thông minh của nàng quyến rũ các loài vật. Những con ong về đóng ổ nhả mật cho nàng, những chim trĩ, gà rừng đẻ trứng và để nàng bắt làm thịt. Sự sinh sống như vậy mà dễ dàng, sung sướng. ở mãi một nơi, nàng thấy bực dọc muốn đi xa, tìm cảnh mới, muôn dịp tìm ái tình để trả thù cho cha mẹ. nàng hoá một bà cụ già, đầu tóc bạc phơ xuống kinh đô, hỏi thăm ái tình ở đâu. Những người nghe hỏi đều mỉm cười chế nhạo. Họ bảo nhau: - Đã già từng ấy tuổi mà còn đi tìm thú nguyệt hoa. Nàng thấy họ chế nhạo mình, tưởng rằng ái tình không có đây, và mình tìm một việc không có cho nên họ cười. Nàng đi nơi khác, thay hình một trang thanh niên tuấn tú. Gặp đoàn thiếu nữ đang chuyện trò với nhau, vui cười thích chí, nàng đến gần hỏi có biết ái tình không. Bọn ấy cả thẹn, đôi má mỗi người đều ửng hồng, họ nhìn nhau e lệ, rồi tản lạc bỏ nàng đứng đấy. Hoài công tìm kiếm, nàng trở lại chốn cũ, và nản chí tưởng không cách gì gặp được ái tình. Một buổi chiều, nàng ra bờ suối Ngọc. ánh chiều rọi trên dòng, gió mát từng chặp thoảng qua, nàng nghe lòng lâng lâng bát ngát. Một đôi chim song song, bay về phương xa, tận chân trời, rồi khuất trong làn sương; nàng cảm thấy buồn vơ vẩn, một thứ buồn nhẹ nhàng và vô cớ, nương theo gió theo mây, để tràn thấm vào tâm tư nàng. Từ đấy không đi đâu nữa, chiều đến, nàng chỉ ra nhìn làn nước suối để lắng nghe cái cảm giác ấy, như ru như cám dỗ. Nàng không biết cảm giác ấy là gì, nàng thấy một ngày một lẻ loi, và lòng mang mang khát khao thèm thuồng. Đôi khi nàng hổ thẹn với nàng, nhưng có lúc, dường táo bạo hơn nữa, nàng trông chờ..., nhưng nàng cũng không rõ mình trông chờ sự gì nữa. Bỗng một buổi chiều gần tàn. Vòm trời phương Tây trong như nước biếc, tha thướt một vài áng mây hồng. Mặt trời đã khuất lâu rồi, nhưng :Dt vót mấy ngọn thông cao, còn nhuộm một ít điểm vàng của ngày sắp tắt. Gió thổi, cành lá đong đưa. Nàng nhìn màu chiều biến đổi trên dòng như mọi ngày. Bỗng nàng e thẹn tránh núp vào một khóm lau để xem. Một thanh niên dắt một bầy trâu xuống bờ bên kia uống nước. Thanh niên an nhiên cởi trần, tắm vào dòng mát. Chàng lội bơi nô đùa, tưởng chốn ấy vắng vẻ, không còn giữ gìn lo sợ điều gì. Nàng nghe má nóng bừng, muốn quay đi. Nhưng chàng trai có một hấp lực gì, khiến nàng đứng yên một chỗ để trộm nhìn chàng. Tắm xong, chàng dắt trâu đi. Cảnh đẹp, chàng ngồi trên lưng trâu lấy tiêu ra thổi. Tiếng tiêu uyển chuyển trong không khí tịch mịch. Nàng nhìn chàng đến lúc khuất đằng sau những nẻo quanh, nhưng thanh âm vẫn trầm bổng du dương trong không khí, lòng đê mê phập phồng, nàng khóc lúc nào cũng không hay. Từ đó, như hẹn với dòng nước, cứ chiều đến, chàng trai ấy trở lại suối tắm mát. Khi trời còn sớm, chàng ngồi trên bờ xanh lấy tiêu ra thổi. ở bên này, nàng vẫn lắng nghe cái âm thanh kỳ diệu ấy như cám dỗ nàng, và gợi cho nàng một cảm giác say mê. |
#17
|
||||
|
||||
![]() Thế rồi một hôm nàng gặp chàng trai, vì nàng cảm thấy tiếng tiêu của chàng mỗi ngày thêm thiết tha, quyến luyến.
Nàng không cần giấu thân thể nàng được nữa. Hai người yêu nhau, nhưng nàng vẫn ngây thơ, không biết mình đang yêu, chỉ cảm nhận mơ hồ đang chiều theo một sự kích thích nào của cơ thể. Nàng rất ưa cái sức khoẻ cuồng bạo của chàng, cái luồng điện ngây ngất của chàng truyền sang người nàng. Những đêm trăng sáng, trong như ngọc, chàng lại với nàng, thổi tiêu cho nàng nghe, rồi cả hai mê nhau đắm đuối. Một đêm như thế, nàng nằm trong lòng thanh niên, nhìn chàng và hỏi: - Sao chàng mạnh khoẻ vậy? Trang thanh niên cười đùa mà đáp: - Ta mạnh khoẻ vì muốn sống lâu dài. Rồi chàng sẽ nâng mặt nàng lên, nhìn đôi mắt trong. Nàng lim dim đê mê chờ đợi... ... Lúc tỉnh, chàng còn thiêm thiếp ngủ, nàng mệt nhọc thấy mình oán hận sự gì. Nhìn lại chàng, nàng đột nhiên nhớ lời của chàng đã thốt trong cơn âu yếm, và liên tưởng đến lời trối của cha; chàng muốn sống lâu dài, cha mẹ nàng cũng muốn sống lâu dài. Nàng nghe mình yếu ớt vì mệt mỏi; cái yếu ớt do sức mạnh của chàng gây ra. Nàng bỗng sợ hãi cái sức cuồng bạo ấy đã làm giảm sức nàng. Nàng nghĩ đến cái hoạ ái tình, và cho cái sức mạnh của chàng là ái tình đáng ghê kia vậy. Một áng mây qua, làm mờ ánh sáng trăng. Bóng tối trùm lên gương mặt thanh niên. Một hình ảnh tiều tuỵ hiện ra trước mắt, nàng sực nhớ đến cái chết của cha. Nàng ngồi phắt dậy, lần tay vào mái tóc lấy một mũi kim dài và sắc của cha nàng để lại, chích sâu vào ngực của chàng. Chàng thanh niên rú lên: - Nàng làm gì thế? - Thiếp giết ái tình. Mũi kim truyền nọc độc của loài rắn vào mạch máu. Mắt thanh niên hoa lên, cả người chàng mềm nhũn. Rất khẽ, chàng bảo nàng trong một hơi thở. - Không, nàng giết ta chớ không giết được ái tình. * * * Lòng nàng không yên. Chiều chiều nàng vẫn ra bờ suối trông chàng, vì nàng không tin chàng đã chết. Nàng chỉ giết ái tình. Trong gió chiều, nàng còn vẳng nghe tiếng sáo của chàng. Lắm lúc ở bên này nhìn sang bờ bên kia, nàng mơ thấy chàng cởi áo, rồi nhảy vào dòng suối. Làn nước nổi sóng và bọt trắng tung toé trên dòng. Nhưng, đó chỉ là bông lau bị gió hốt rải trên mặt nước. Nàng trở lại chốn đêm xưa, một mùi hôi tanh xông lên. Thây chàng thanh niên túa ra những đường nước vàng mà từng đám ruồi đáp xuống. Đôi mắt chàng chỉ là hai hố sâu, lúc nhúc những ký sinh trùng. Nàng quay đi, ghê tởm cái chết của ái tình. Nhưng còn chàng thanh niên xinh đẹp kia, chàng không thể chết, vì chàng không phải ái tình. Trong gió chiều, nàng còn vẳng nghe tiếng sáo của chàng. Chàng trai ấy không bao giờ trở lại, và nàng cũng không thôi trông mong. Một hôm, ngồi nhìn dòng nước, hồi tưởng chuyện đêm xưa, nàng bỗng nghe ngóng. Một tiếng người êm ả rót vào tai nàng: - Không, nàng giết ta chớ không giết được ái tình. Nàng run lên sợ hãi. Một luồng gió nhẹ lướt qua: khóm lau nghiêng đầu về một phía. Nàng bịt tai chạy trốn để không nghe lời kỳ dị ấy. Nàng hãi hùng, tưởng tượng ái tình còn đeo đuổi, hãm hại nàng. Nàng bỏ chốn cũ, lìa mồ mả đi lang thang. Nàng tìm nơi nào có thể không còn nghe tiếng kêu gọi tha thiết ấy. Nàng tìm khắp nơi, và lúc đi tìm, nàng nhận thấy người nàng đổi khác. Dạ dưới của nàng mỗi ngày một lớn thêm. Có người bảo nàng có thai, nàng lắc đầu không hiểu, và không biết họ bảo gì. Nàng cảm nhận mỗi ngày, đức tính của cha mẹ để lại kém sút lần, và không rõ những đức tính ấy san sẻ về đâu. Nàng bớt nhanh nhẹn, bớt vui tươi như ngày còn nhỏ, sức mạnh kém thuở nàng gặp chàng thanh niên. Một hôm, uống nước trên sông, nước trong in bóng nàng. Nàng bỗng rú lên ngạc nhiên. Nàng không còn vẻ đẹp lộng lẫy ngày trước. Dòng nước lặng lẽ bảo nàng: đôi má hóp, đôi mắt lờ đờ, đôi môi lợt lạt. Nàng ôm mặt khóc rưng rức như trẻ con. ... Mấy tháng sau, một hôm nhớ cha mẹ, nàng trở về thăm mả cũ. Cảnh điêu tàn. Nàng bùi ngùi nhớ lời dặn của cha mẹ ngày xưa. Nàng lưỡng lự không biết có theo lời dạy của cha mẹ nàng không; sau rồi nàng quả quyết rằng có, và không bao giờ nàng bị ái tình quyến rũ. Hơn nữa, nàng đã giết ái tình và rửa thù cho cha mẹ. Đêm ấy, nàng thấy trong người đau tức, không sao chịu nổi. Nàng rên xiết lăn lộn. Đến khuya, trăng mờ, hệt như đêm xưa, nàng khát, nước, ôm bụng lần ra bờ suối. Uống xong, mệt lả người, nàng gục xuống bờ cỏ, rồi ngất đi. * * * Sáng hôm sau, một lữ khách qua đấy nghe tiếng trẻ khóc, bèn vạch lau đi tìm. Trên nỗng cỏ, một đứa bé hồng hào vừa lọt lòng, nằm khóc vì khát sữa. Cạnh đứa nhỏ, một con rắn - lưng điểm những chấm hồng xa trông như lấm tấm hoa đào - nằm khoanh thiêm thiếp. Nơi bụng con rắn, đứt một lằn dài. Lữ khách sợ hãi, cầm đòn đập chết con vật, rồi vội vã bồng đứa bé đi. Rút trong tập truyện ngắn Cách ba nghìn năm, Nxb. Đời nay, Hà Nội, 1944 |
#18
|
||||
|
||||
![]() :::: Cung Khanh ::::
Quyến rũ Trong các chi nhánh đạo Phật có phái Minh sư1. Những tín đồ nào trong phái, học rộng, hay chữ, thuộc nhiều kinh kệ và tính hạnh nhân từ được cầu lên chức Lão. Thuở ấy có một tín đồ phái Minh sư tên là Huyên, người tuổi trẻ, vừa ba mươi mà lên tới bực Lão. Cụ học rộng và thông minh. Cụ sống một mình trong túp lều tranh, dưới chân đồi Yên Tĩnh. Sau nhà, có vườn, nửa trồng hoa, nửa trồng cây trái. Sau những buổi cầu kinh hoặc đọc sách, cụ ra vườn vun tưới mấy khóm huệ hay bắt sâu đeo theo đọt non của nhãn và xoài. Thường ít có khách đến chơi, hay chỉ có những người rất nghèo khổ đến thăm. Cụ vẫn một lòng niềm nở, tiếp đãi và cứu giúp họ. Lòng từ thiện rải khắp bốn phương, và tín đồ cùng người ngoài đều tặng cụ là ?Bác ái?. Chiều chiều cụ lên đồi, theo đường mòn viền cỏ nhung. Trên đồi gió mát và ánh nắng tươi đem cho cụ những tư tưởng thâm thuý về đời người và vạn vật. ánh vàng tha thướt trên nổng cỏ xanh, chiếu những hạt mưa còn đọng trên đọt non muôn mầu. Trông xa, bờ cỏ điểm hoa, và mỗi hoa là một vì sao rơi trên mặt đất. Hứng thú cụ chắp tay, chúc tụng Tạo Hoá và đức Mâu Ni2. 1. Phái Minh sư: trong kinh sách đạo Phật không thấy có phái Minh sư, chỉ có Minh sơ coi về Minh đế là một trong 25 đế do Số Luận sư lập ra nhưng cũng không hẳn là một phái của Phật giáo. 2. Mâu Ni: tức Thích Ca Mâu Ni (563 - 487 tr. CN) là vị tổ khai sáng Phật giáo ở ấn Độ. ?Ôi những lẽ nhiệm mầu! Ôi những lẽ huyền bí! Hỡi Tạo Hoá rất khéo léo! Hỡi Thích Ca rất hiền từ! Vạn vật quanh ta phải chăng công trình đấng tối cao của Thiên Nhiên! Nhan sắc nô đùa với thanh hương. ánh sáng trầm ngâm trong làn gió khiêm tốn và thật thà. Tiếng nhạc êm đềm vang trong lá: chim ca tụng dâng hương lòng cho Thiên Nhiên. Phải chăng đó là ý của ngài và của đồ đệ ngài, đức Phật Thích Ca rất thông minh, rất cao siêu. ?Ta kính trọng, tôn sùng đức Mâu Ni đã hy sinh mà tìm chơn lý. Gương của người :Di rạng muôn đời, muôn kiếp. Còn ai noi được chí ngài để xả thân cho sự Đẹp, sự Thực, sự Phải, những ánh hào quang của ngọc chơn lý. ?Sống muôn thuở sao bằng sống một ngày, ánh muôn sao đâu sánh với mặt trời. Cực khổ vì muôn điều, sao bằng cực khổ vì chơn lý. Người đời gục mặt vào mảnh đất, còn mắt đâu nhìn bầu trời rộng rãi bao la. Tâm lo âu muôn việc lớn của trần - tuy là nhỏ - còn đâu nhọc vì vũ trụ huyền bí, nhiệm mầu. Trí tính toan lợi nhiều của thế giới - tuy là ít - còn đâu nghĩ tới vô biên. ?Chỉ có người: Thích Ca Mâu Ni tối cao và sáng láng. Chỉ có người thấy xa mà gần; chỉ có người biết tìm bao quát vũ trụ cho tâm hồn yên tĩnh; chỉ có người tánh viễn vọng mà ưa lẽ Thực nắm được Niết bàn. ?Danh vọng cho Thích Ca! Quý hoá thay đức Thiên Nhiên tối cao và tuyệt mỹ?. * * * Một hôm cụ đọc sách trước hiên, bỗng có bạn đến chơi, tay xách đôi nhành lài1. Cụ tiếp rước, vui vẻ, mừng rỡ, ân cần mà người bạn vẫn rụt rè, khiêm tốn. Đấy nhờ sự tu hành đắc quả, vẻ hiền từ cụ xuất phát ra ngoài có sức mạnh khiến người thường phải kính cẩn khâm phục. Ông lão hỏi người bạn: - Anh đến thăm ta hay có việc gì? - Tôi đến thăm cụ và luôn dịp kính tặng đôi nhành lài để cụ trồng sau vườn. Lại nói tiếp: - Ngày xưa, lúc cụ và tôi còn nhỏ, cụ thích hái hoa và ưa nhất hoa lài. Nay cụ xuất tục, tôi còn lảng vảng nơi trần, kính dâng quà này là có ý nhờ cụ thương kẻ phàm còn chìm nổi trong bể khổ, mà cũng có ý nhắc nhở sự ham thích ngày xưa để tránh. Vì biết đâu trên đường đạo lý, cụ lại không gặp những thứ hoa ấy, rồi phải tốn công hái, để xao lãng, bê trễ việc tu thân. Ông lão Huyên mỉm cười đáp lại: - Quý hoá thay ông bạn ngày xưa! Ta rất cám ơn người bạn thân thiết và yêu mến của ta. Trải mười mấy năm xa cách, anh không quên còn tặng nhau đôi cành hoa đẹp, kỷ niệm lúc chúng ta còn xuân. Ngày trước, cùng đi học một đường, ta vì ham hoa lài mà luôn luôn bê trễ việc học. Anh thường khuyên can mà ta không nghe, đến nỗi lạc đường công danh. Ngày nay đi tu, tìm sự thực thiêng liêng, đường đi khó khăn hơn đường công danh thuở nọ. Anh còn nhớ đến, lo sợ ta gặp ?hoa lài? kia quyến rũ mà lỗi nước như xưa. Anh đem ngay nó cho ta, ngày ngày có mặt, để không phút nào quên mà bê trễ sự tu hành. Quý hoá thay ông bạn ngày xưa, quý hoá thay! 1. Lài: Tiếng miền Trung và Nam gọi hoa nhài. Câu chuyện vui vẻ thân mật kéo dài đến chiều, người bạn từ biệt ra về. Cụ bịn rịn đưa theo một quãng đường. Lúc chia tay, người bạn nhìn cụ mà nói: - Từ đây cách nhau, mỗi người đi một nẻo. Sống chết lúc nào cụ cũng nên nhớ đến hoa lài mà giữ mình cho vẹn, hầu mau tìm thấy chơn lý. Cụ Huyên trở lại, lòng buồn bực. Cụ đem hai nhánh lài trồng vào chậu để trước án thư. Bây giờ làm công việc ấy, cụ thư thả, lòng bình tĩnh như không xảy ra việc gì. |
#19
|
||||
|
||||
![]() Từ ấy, cụ để tâm niệm Phật, bố thí kẻ nghèo thập phương. Có khi nhà tranh cụ che chở những lữ khách lỡ đường, hoặc
những người nghèo không chỗ nương thân. Lòng bác ái cứ thế mà lan ra mãi, hương bố thí của lòng nhân bay khắp mấy vùng. Nhưng cụ vẫn không yên bởi câu chuyện hoa lài năm trước. Mỗi đêm cụ lo, tưởng như Ma vương chực hờ đâu đấy, sắp hiện ra quyến rũ, trong khi tâm hồn cụ yếu ớt. Những việc làm nhân đạo: săn sóc kẻ nghèo, chữa bệnh người đau ốm, đem lại cho cụ một vài bình tĩnh và sự yên ổn trong người. Cứ mỗi lần đón tiếp người cực khổ, ốm đau, cụ thấy lòng nhẹ nhàng vui vẻ, như hình rửa được một ít bụi nhơ. Nhưng khách tha phương lần lần rời cụ đi nơi khác. Tâm hồn lưu lạc của họ xui giục, khiến họ không biết vui thích ở lâu một nơi nào. Họ phiêu lưu đã quen, ngắm mãi một cảnh sinh ra chán, họ tìm nước non mới lạ, và như thế mãi không dứt. Cụ Huyên vì đó mà sống lại cảnh quạnh hiu vắng vẻ. Rồi sự vắng vẻ gợi về những ảnh Ma vương, yêu quái. Cụ tĩnh toạ, đọc sách, làm vườn, không cho tâm trí rảnh rang một giây nào. Bỗng một chiều, có một thiếu nữ mười sáu xuân xanh, nghèo khổ lắm đến lạy xin cụ cho ở vài hôm. Thiếu nữ hứa với cụ lúc nào hỏi thăm được bà con thì về, vì lúc nhỏ mồ côi cha, mẹ lấy chồng đem bán cho người khác. Lớn lên, biết chuyện, tìm cách trốn đi, về làng Yên Tĩnh tìm họ hàng. Đến đây, không biết nhờ ai, trong lúc chưa tìm được nhà quen, bỗng có người mách ông lão hiền từ và nhân đức mới đến xin trọ mươi hôm. Cụ Huyên không biết làm thế nào, nhưng cũng không từ chối được. Cụ chịu nuôi thiếu nữ lúc nào biết rõ họ hàng ở đâu thì về. Thiếu nữ, tuy bần hàn nhưng trắng trẻo, ngộ nghĩnh, có duyên. Thiếu nữ ở với cụ rất đảm đang, hầu hạ cụ hết lòng kính mến. Lúc nào không tìm bà con, thì gánh củi ra chợ đổi gạo. Nhưng cụ nhận thấy nhiều sự lạ trong cách ăn ở của nàng, đâm ra nghi ngờ lắm. Thiếu nữ ăn rất ít cơm, có bữa không ăn. Cụ hỏi tại sao? - Không đáp. - Ban ngày thì ngủ, mà đêm thì thức. Mỗi tối cứ đến giờ Tý, dậy mở cửa ra sau, không biết đi đâu, mãi đến gà khởi sự gáy bận nhất thì về. Một hôm, cụ quả quyết rình xem thiếu nữ làm gì. Đọc kinh xong, cụ giả vờ đi nghỉ. Đến giờ Tý nghe thiếu nữ mở cửa, thì cụ cũng dậy. Thiếu nữ đi ra sau, cụ cũng nom theo. Nàng đi về phía cuối vườn đến chỗ trống dừng lại ngó quanh, ý chừng xem có dạng người không. Khi chắc đâu đấy thật yên lặng, không một bóng người, thì cởi hết áo mặc trong người rồi nhảy múa. Múa một giây lâu, thì đứng lại thở, hơi thở rất dài, rất sâu mà khẽ lắm... Cụ Huyên thấy bóng ấy giữa yên lặng của vạn vật, những nét trắng mờ linh động trong âm khí, tâm thần kích thích, rối loạn. Cụ loạng choạng bước trở vào nhà, sương đêm xuống thấm cả đầu và áo mặc. Lúc về phòng, lên giường nằm, sờ soạng thì có vật gì mịn màng, âm ấm nằm trong chăn. Cụ giật mình, lấy đèn soi. Đó là một con mèo đen, hệt con vật năm trước. Nó trương mắt nhìn cụ kêu ?meo meo? như mơn trớn. Cụ giơ tay sắp đánh, thì nó phóng đi, vào bóng tối rất nhanh, như hồn ma. Từ đấy cụ thao thức mãi không ngủ được. Muốn ép trí thư thả niệm kinh, nghĩ đến sự thực nhiệm màu mà trí tưởng tượng lại nổi lên làm chủ. ảnh thiếu nữ theo cụ vào nằm trong chăn. Một ít lâu cụ nhuốm bịnh không dậy được, mê man thấy đương nằm trên một cái đệm thơm tho mát mẻ. Cụ sung sướng, cố nhìn thì nệm ấy hoá ra thiếu nữ. Cụ vội xoá hình dáng ấy đi, thì đâm ra nói nhảm. Lúc hơi tỉnh, mở mắt, thì thấy vô số mèo đen bao quanh khắp thân thể; con thì leo lên thành giường, con thì kêu ?meo meo?, con thì ngầu giỡn trên đình màn, con thì chạy trên người cụ cào xé. Cụ sợ hãi lắm khi thấy chúng một phút một đông, không biết nơi nào đến. Có lúc một con bỗng đứt ra thành hai, một cái đầu và một khúc đuôi lom xom nhảy; cứ thêm thêm nhiều, đợi khi nào cụ nhắm mắt mới thôi. Nhưng kế đó xuất hiện một không gian tối tăm, mà nơi ấy một thân thể uyển chuyển nhảy theo điệu múa. Bỗng cụ nghe mát lạnh ở trán. Mở mắt nhìn cụ bắt gặp đôi mắt lo lắng của thiếu nữ. Thấy đã tỉnh, nàng thỏ thẻ: - Thưa cụ, cụ bị cảm nặng lắm, ông lang vừa ra nói cho con biết như thế và bảo con săn sóc, coi chừng thang thuốc cho cụ luôn luôn. Nàng đi ra, một giây sau bưng một chén thuốc cho cụ Huyên. Ông lão mệt mỏi và bần thần không ngồi được. Thiếu nữ phải choàng tay đỡ dậy, nhưng áo đã cũ, khuy nút bở rời, bị sức nặng thân thể cụ Huyên trằn xuống mà bứt đi. Cánh áo sứt hé mở, lộ ra cái da trắng đỏ. Cụ rùng mình, uống cạn chén thuốc, nằm nhanh xuống giường trùm chăn kín mít và rên xiết như người bị thương. Xế trưa cụ thấy nhẹ, bảo thiếu nữ đem mấy quyển sách trên án thư đưa cho cụ. Cụ lâm râm niệm kinh, và tối đến cụ nhận thấy trong người khoẻ khắn, tâm thần bình tĩnh. Cách đó ít hôm, thiếu nữ vào lạy cụ xin từ biệt vì tìm được bà con rồi. Cụ hỏi nàng về đâu thì chắp tay thưa rằng: về Thành An. Lại hỏi người bà con tên gì thì nàng ngập ngừng dường không muốn nói. Nhưng sau vì cụ gạn hỏi, phải nói người ấy tên Quang ở lối hàng da trong ấp. * * * Cụ lo sợ vẩn vơ, bây giờ không dám ở một mình. Cụ về nhà bà con, nhờ tìm hộ một tiểu đồng. ít tháng sau có người dắt đến một thằng bé trạc mười sáu mười bảy tuổi. Nó xấu xí, mặt mày u nần và còn một mắt. Nó không chút thông minh và tỏ vẻ đần độn. Thấy thế cụ an tâm cho ở. Thường ngày phải lau chùi bàn ghế, quét dọn trong nhà, hay vun phân tưới nước những hoa quả trong vườn. Nó dốt nát và không bao giờ quan tâm đến sách vở, kinh kệ chồng chất trên án thư. Cụ thêm yên tâm và hy vọng ngày kia sẽ đem nó vào Niết bàn. Vả lại cụ thường nghĩ rằng: ngu đần, ít lanh lợi, thì vào Niết bàn không khó, có phần dễ dàng hơn những bực thông minh là khác. Ngày ngày, sau khi rảnh việc, cụ chỉ thấy nó lên đồi cắt những cỏ thơm đem về. Có khi nó vào một khu rừng nhỏ ven đồi tìm quả ?viết? chín hồng. Cụ tưởng nó đem cỏ vể lót chiếu nằm cho êm, cho thơm và hái trái ?viết? về ăn, nhưng một hôm cụ đương niệm kinh thì ngửi được một mùi thơm ngọt phảng phất trong gió. Thấy lạ, cụ đi tìm. Bước ra sau gặp đứa ở đang loay hoay đun nấu một chất nước gì và tay nó đang cầm một cái bình nhỏ kề lên mũi ngửi. Trong ấy chứa một thứ nước xanh, trong vắt như lọc. Cụ hỏi nó đun vật gì, nó kính cẩn thưa: - Con đun nước cỏ thơm và chất mật của trái viết. - Mày đun để làm gì? - Cụ hỏi. - Để nấu linh dược. Cụ ngạc nhiên lấy bình linh dược của nó mà xem, ngửi thử thấy bay mùi thơm. Hỏi có nếm được không thì nó gật đầu. Cụ nhắm một ít thấy ngọt ngon lạ, và khi nuốt vào thấy ấm. Một giây sau, cả người nhẹ nhàng khoẻ khắn, cụ vui vẻ hơn lên. Ông lão Huyên mừng rỡ, hình như cụ đắc chí về một sự bào chế tiên thánh nào. Vì từ đó ngày ngày đồi Yên Tĩnh được nghe cụ hát nghêu ngao, và tiểu đồng sáng đi cắt cỏ thơm thực nhiều, trưa vào rừng tìm trái viết đem về lấy mật. Trí thông minh sáng suốt lại giúp cụ chế được một thứ hơi rất nhẹ mà rất mạnh. Hơi thơm đậm đà, cụ gọi là tinh hoa của linh dược. Bây giờ khắp vùng đều biết mùi thơm ấy. Họ không hiểu là gì, nhưng cũng đoán phỏng rằng: - Cụ Huyên tu hành đắc đạo, phúc đức lan rộng thơm tho trùm một ven đồi. Cũng vì đó, cụ Huyên bớt tĩnh toạ dần, chỉ nếm thường linh dược, hoặc ngửi tinh hoa của linh dược cất trong bình đậy kỹ. Và sau những lúc nếm hoặc ngửi ấy, trí não thông minh sáng suốt lạ thường. Người cụ nhẹ nhàng, thân thể mọc cánh bay bổng lên thượng tầng không khí, tìm chơn lý và Niết bàn. Một hôm, uống và ngửi nhiều linh dược quá, cụ ngã lăn xuống đất mê man. Tiểu đồng thấy cụ nằm mê, lấy bình tinh hoa ngửi thử. Nó chưa biết thứ ấy khác với linh dược của nó thế nào. Ngửi xong nó cũng ngất đi, trong lúc lửa trong một lò đun linh dược cháy dần. Vì nóng quá hơi linh dược đọng nhiều sức mạnh, tung bắn ra ngoài. Lửa bắt hơi bùng cháy không tài nào dập tắt. Khi đó cụ Huyên và đầy tớ vừa tỉnh, còn ngơ ngác không biết tai hoạ ra sao. Có dân trong xóm đem gầu đến cứu, nhưng một người cản lại bảo rằng: - Cụ Huyên thiêu mình để tịch. Trong cơn nguy ông lão rối bấn, lúng túng, còn tiểu đồng thì ngồi dưới đất xem ngọn lửa cười xoà. Cụ nhìn nó ghê tởm. Bỗng nó trợn mắt nhe răng, trỏ tay về phía cụ vừa thét: - Ông có nhìn được không? Có nhìn được không? Cụ run cầm cập: - Gì? Cái gì? - Ha ha! Quỷ vương, kia là Quỷ vương! Cụ vội ngoái ra sau xem xét, nó đứng xổng dậy nhảy lại chụp cụ, đè xuống cho ngửi nốt tinh hoa linh dược. Cụ ngã khuỵu bất tỉnh, liền đó, nó xốc cụ lên vai, nhằm nồi linh dược đang sôi mà phóng vào. Bên ngoài lửa thiêu hết nóc nhà tranh, cột kèo chuyển nghe răng rắc. Một tiếng ầm vang lên, cả nhà đều sập, và ngọn lửa cháy bừng. Rút trong tập truyện ngắn Cách ba nghìn năm, Nxb. Đời nay, Hà Nội, 1944 |
#20
|
||||
|
||||
![]() Mùi vị sát nhân
"Tôi nghĩ rằng, xúc xích là một trong những phát minh xuất sắc nhất của con người - Herny Chandler nói - Và một cái bánh mì kẹp thịt thì ko những bổ mà còn thực tế nữa. Chúng ta ko cần phải bận tâm trong việc ăn uống, mà còn có thể đọc sách hay cầm một khẩu súng ngắn trong lúc ăn". Trên tường, chiếc đồng hồ điện tử chỉ 12 giờ 15 phút, ngoài Davis và Chandler ra, văn phòng ko còn ai cả. Cắn một miếng bánh mì lấy từ hộp đồ ăn trưa của Davis, Chaldler mỉm cười, nói:"Ngài Davis, vợ chồng ngài kín đáo quá đấy và điều này sẽ tạo thuận lợi cho công việc của tôi. Dĩ nhiên, tôi sẽ sắp xếp mọi việc cứ giống như là ngài tự sát nhưng ko làm ra vẻ như cảnh sát bị đánh lừa mà để họ quyết định kẻ sát nhân phải ra hầu toà và họ sẽ bị lúng túng trong việc xác định động cơ giết người của kẻ sát nhân. Hiển nhiên, ko có mối liên hệ nào giữa tôi và ngài ngoại trừ việc ngài thuê tôi cùng 20 nhân viên khác". Davis để những ngón tay giá lạnh của mình lên bàn:"Vợ anh sẽ biết và cô ấy sẽ báo cảnh sát". - Thế ư! Tôi nghi ngờ điều đó. Một phụ nữ có thể làm những chuyện to tats đối với người mình yêu khi anh ta còn sống. Nhưng một khi anh ta chết đi thì mọi chuyện sẽ khác. Phụ nữ rất thực tế, ngài Davis ạ. Và nếu như cô ta nghi ngờ thì chỉ là nghi ko biết có phải tôi đã giết ngài ko. Chắc chắn cô ta sẽ ko biết đâu và cô ta cũng ko báo cảnh sát vì ko muốn cho mọi người biết chuyện. Có lẽ hàng tá người ngoài tôi ra đang muốn ngài chết đi đấy. Tuyệt vọng, Davis nói:" Cảnh sát sẽ thẩm vấn mọi người và họ sẽ biết rằng anh đã ở đây khi mọi người ra về". Chalder lắc đầu: - Tôi ko nghĩ thế. Không một ai biết tôi ở đây. Tôi đã về khi mọi người vẫn còn làm việc và tôi đã trở lại khi biết chắc ngài chỉ có một mình. Tôi quyết định hành động trong giờ nghỉ trưa. Cảnh sát sẽ gặp khó khăn khi điều tra việc này vì lúc đó, mọi người đã đi ăn trưa. Hơn nữa, tôi ko phải là loại người dễ bị chú ý. Ngài Davis, tôi đã chờ ngài 2 tuần rồi, may thay, sáng nay tôi phát hiện ra ngàiđem bữa trưa theo khi đi làm. Chắc ngài quá bận, ko thể đi ra ngoài để ăn trưa, phải ko thưa ngài?" Davis liếm môi:"Phải". Với tay lấy góithuốc trên bàn, Davis hỏi:" Anh có biết bây giờ Helen đang ở đâu ko, Chaldler?" - Sao? Muốn tạm biệt cô ta, hay muốn cô ta thuyết phục tôi đừng làm việc này? XIn lỗi ngài, Helen đã đi nghỉ mát một tuần với chị gái từ hôm thứ năm rồi. Đốt một điếu thuốc, hít một hơi thật sâu, Davis nói:"Tôi ko hối tiếc gì khi chết cả.". Chaldler nghiêng đầu, vẻ ko hiểu. - Chuyện này xảy ra đã ba lần rồi - Davis tiếp - Ba lần. Trước Helen, có Beatrice và trước Beatrice là Dorothy. Chaldler mỉm cười:"Ông đang tìm cách hoãn binh đấy phỏng? Ko ăn thua gì đâu. Tôi đã khoá hết các cửa ra vào và ko ai vào được đây trước 1 giờ cả. Nếu như có ai quay lại, tôi sẽ bắn ngài và tẩu thoát". Liếc nhìn điếu thuốc, Davis nói:"Yêu và hận rất dễ đi đôi với nhau đấy Chaldler. Đặc biệt đối với tôi, nó càng mãnh liệt hơn. Tôi yêu Dorothy và biết chắc rằng nàng cũng yêu tôi. CHúng tôi dự định cưới nhau. Tôi đã chuẩn bị hết mọi việc và sung sướng chờ đến ngày cưới. Nhưng cuối cùng thì sao, nàgn bảo rằng sẽ ko bao giờ yêu tôi nữa...Nếu tôi ko có nàng thì cũng chẳng ai có được nàng cả. Thế là tôi đã giết nàng". Khẽ chớp mắt, Chaldler hỏi:" Tại sao ngài lại kể cho tôi nghe chuyện này?". - Có gì khác nhau đâu? Tôi đã giết nàng, nhưng điều đó đối với tôi vẫn chưa đủ. Anh có hiểu ko?Chưa đủ. Tôi hận nàng... Tôi mua một con dao và một cái cưa. Sau đó, cưa nàng ra từng khúc, bỏ vào một túi xách, chèn đá vào rồi vứt xuống sông. Chaldler tái mặt, nhìn Davis đang giận dữ:"Hai năm sau, tôi gặp Beatrice. Nàng đã có chồng nhưng chúng tôi vẫn quan hệ với nhau. Sau 6 tháng, tôi nghĩ ràng nàng cũng yêu tôi như tôi yêu nàng. Thế là tôi yêu cầu nàng ly dị chồng để lấy tôi. Thế mà, anh có biết ko, nàng đã cười tôi đấy. Lần này thì dao và cưa cũng ko đủ làm tôi thoả mãn. Tối đó, trăng thật sáng, tôi mang túi xách có xác Beatrice vứt vào vườn thú. Thế là xong mạng thứ hai". Lần này thì mắt Chaldler mở to hơn. Davis vẫn đều đều nói:" Vợ anh, Helen ấy, sẽ ko gặp anh đâu, Chaldler. Đối với tôi, nàng chỉ là một món đồ chơi. Tôi vừa yêu nàng vừa hận nàng và tôi liên tưởng đến những con mèo, đến cái cách mà chúng thưởng thức con mồi như thế nào...". Nhìn vào đôi mắt đầy kinh hoàng của Chaldler, Davis hỏi:" Anh có biết thật sự Helen đang ở đâu ko, Chaldler?". Sau đó, hắn đưa cho Chaldler nửa miếng bánh mì đang ăn dở mà ko nói gì. * Sau tang lễ, Davis đưa Helen ra xe. Khi còn lại một mình với hắn, nàng hỏi:"Em khẳng định là Henry ko biết gì về chuyện của chúng mình, nhưng em ko hiểu tại sao hắn lại tự sát trong văn phòng của anh". Davis lái xe ra khỏi cổng, mỉm cười:"Anh ko biết. Có lẽ, anh ta đã ăn một cái gì đó....". (Phương Lan lược dịch) |
![]() |
Ðiều Chỉnh | |
Xếp Bài | |
|
|