Go Back   Vina Forums > Thư Viện Online > Kho Tàng Truyện > Truyện Tiểu Thuyết - Truyện Dài
Hỏi/Ðáp Thành Viên Lịch Tìm Kiếm Bài Trong Ngày Ðánh Dấu Ðã Ðọc

Trả lời
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
  #11  
Old 05-20-2004, 05:41 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

VII - Mở tầm mắt



Với mọi quan hệ giao tiếp và thông tin ngày càng mở rộng, trái đất như bé nhỏ lại-Các nước như gần lại với nhau hơn-Nhu cầu hiểu biết lẫn nhau giữa người nước này với người nước khác không phải chỉ để thỏa mãn tính tò mò mà là một yêu cầu thật sự của cuộc sống, chính trị, kinh tế, tài chính, văn hóa và tình cảm, mang lại những lợi ích thiết thực và lâu dài.
Trong hoàn cảnh Việt nam đang sống một cuộc sống riêng biệt, cách ly với cuộc sống thế giới, tôi là người may mắn được đi đến một số nước để dự hội nghị, đi tham quan và làm công tác báo chí...Tôi cho đó là những dịp may hiếm có để mở rộng tầm mắt, bổ sung sự hiểu biết của mình...
Đối với các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, tôi đã được tớí thăm gần hết-Từ Trung quốc, Liên xô đến Cộng hòa dân chủ Đức, Ba Lan, Tiệp khắc, Hung ga ri, Bun ga ri...rồi Triều tiên tôi đều đã đi qua. Lào và Căm pu chia thì còn ở lại những thời kỳ khá lâu-Sau năm 1975, tôi có nhiều dịp đi ấn Độ, Indonexia, Thái Lan, Malaixia, Xanhgapo, Philipine. ở châu Phi tôi đã dự họp ở An giê, ghé qua Xê nê gan, Ai cập (thăm Kim tự tháp kỳ vĩ), và làm việc ở Etiopi và Zimbabue-ở châu Mỹ tôi đã từng làm việc ở trụ sở Liên Hợp Quốc ở New York gần ba tuần, họp bàn tròn với những đại biểu các nước nói tiếng Pháp.
Phần lớn các chuyến đi là để làm công tác báo chí. Một số chuyến đi Indonexia, và Malaixia, cũng như Australia là theo danh nghĩa học giả, nhà nghiên cứu chiến lược, theo lời mời của Viện nghiên cứu chiến lược Gia các ta, Viện nghiên cứu chiến lược Kuala Lampue và trường đại học Griffith ở thành phố Brisbane, Australia-Các chuyến đi Angiê ri, Ethiopia, Bình Nhưỡng (Bắc Triều tiên) của tôi là trên danh nghĩa ủy viên đoàn chủ tịch ủy ban đoàn kết á Phi của Việt nam đi dự những cuộc họp về đề tài chống phân biệt chủng tộc ở Nam Phi, và tình hình chính trị, quân sự trên bán đảo Triều Tiên...
Tôi đã dự những cuộc tiếp đón long trọng, những cuộc đại yến chiêu đãi thượng khách ở những thủ đô lớn. Đó là buổi Tổng bí thư Brezhnev cùng nguyên soái Ustinov tiếp đại tướng Võ Nguyên Giáp và đoàn đại biểu quân sự Việt nam ở điện Kremlin. Đó là buổi đại yến ở Đại lễ đường nhân dân do nguyên soái Điệp Kiếm Anh và tướng Trần Tích Liên khoản đãi đại tướng Giáp. Và sau đó là cuộc gặp gỡ với chủ tịch Hoa Quốc Phong. Đó là cuộc chiêu đãi trọng thể của bà Thủ tướng Ấn Độ Indira Gandi mời Tổng bí thư Lê Duẩn trong nhà khách danh dự của chính phủ Ấn Độ. Nhân danh nhà báo tôi đã hỏi chuyện tổng thống Souharto, tướng Tổng tư lệnh Muadani của Indonexia, chủ tịch Nengistu Haisle Mariam của Ethiopia (vừa bỏ chạy sang Zimbabue tháng 5. 1991), thủ tướng Mugabe của Zimbabue, ngoại trưởng Manglaput của Philipin và thủ tướng Ragib Gandhi của ấn Độ...Năm 1986 tôi cũng từng qua Nam Mỹ, đến Buenos Aires của thủ đô Argentinia dự cuộc hội báo của tuần báo "Quepasa" của đảng cộng sản Argentinia và thăm một số tỉnh của phía Nam nước này.
Mỗi chuyến đi làm tôi thêm mở mắt một chút. Tôi thường tách khỏi các đoàn chính thức, thâm nhập cuộc sống của người dân bình thường, của tầng lớp trí thức, của các đồng nghiệp làm báo để có thông tin trực quan, từ nhiều đối tượng, nhiều tiếng chuông, do đó đáng tin cậy nhất.
Hàng chục lần ở Trung Quốc, từ Nam Ninh, Liễu Châu, Vũ Hán đến Bắc Kinh, Thượng Hải...cho tôi nhận thức rất nhiều vẻ về đất nước này. Thời kỳ trước 1965, những panô lớn Bắc Kinh và các thành phố lớn là hình Mao, là hình hai anh em Trung-Xô tay nắm tay tiêu biểu cho tình hữu nghị vĩ đại. "Lão tà cơ (Người Anh Cả)". Người anh cả Liên Xô hồi ấy là thần tượng của người dân Trung Quốc. Phong trào học tiếng Nga lan rất rộng. Rồi đến cảnh đấu tố trong cách mạng văn hóa vô sản. Rất Tầu, nghĩa là ầm ĩ, xô bồ, ồn ào, bát nháo, số đông theo nhau, học đòi nhau, lôi kéo nhau...Một đám đông theo định hướng cưồng nhiệt, cuồng tín, cuồng động, không cho phép nói ngược, đặt câu hỏi. Số đông là chân lý, số đông là sức mạnh. Một tỷ người, một tỷ cái đầu tuân theo một hiệu lệnh. Mọi ho hoe chống đối lập tức bị coi là phản bội, đáng nhổ vào mặt, đáng đội mũ lừa dong trên đường để mọi người mắng mỏ, xỉ vả, nguyền rủa.
Tôi đã thu được biết bao tài liệu Trung quốc ở Căm pu chia, từ Hiệp định quân sự ký giữa hai nước hồi tháng 17. 71976, về công binh Trung quốc sang xây dựng sân bay Kong pong Chnang, dài rộng nhất Đông Nam á, về lời khen của Mao Trạch Đông khi xiết chặt và lắc đi lắc lại bàn tay đẫm máu của Pôn Pốt: "Xin chúc mừng! Hảo, hảo à-Các đồng chí đã lập nên kỳ công của lịch sử, diệt hết bọn tư bản, bọn địa chủ bóc lột bọn tay sai phản động chỉ trong thời gian ngắn! hảo a, hảo a!" Một cuộc cách mạng bằng gậy, bằng vồ, bằng cuốc đập vào đầu hàng triệu con người! Nhân danh chủ nghĩa xã hội, chũ nghĩa cộng sản thuần chất, trong sạch nhất, nhân danh chủ nghĩa Mác Lê Nin, những định tạo nên mẫu mực cho cách mạng vô sản thế giới!
Tôi đã ngắm nhìn rất lâu chiếc ảnh bìa của báo Newsweek tháng 6. 1989: Một đòan xe tăng, xe bọc thép Trung Quốc gắn súng lớn trên quảng trường Thiên An Môn dừng tất cả lại trước một thanh niên tay cầm sách vở, chiếc áo vắt vai, tự nhiên, điềm tĩnh lạ thường-sắt thép chùn bước trước con người. Để sau đó sắt thép khạc lửa, khạc bão lửa vào đám đông, đem lại cái chết cho hàng ngàn con người, dìm trong máu khát vọng dân chủ. Và đó là chủ nghĩa xã hội ư? Là nhân đạo cộng sản ư?
Tôi nhớ lại những quyển Mao tuyển hồi cách mạng văn hóa vô sản. Tôi thấy những mầu đỏ rực ấy hồi 1965 trên hè phố Bắc Kinh. Cờ đỏ, sách báo đỏ, huy hiệu đỏ, khẩu hiệu đỏ. Cái gì cũng nhiều, cũng lóe mắt-Vào hiệu sách, người bán, người mua cùng ngừng lại để tụng vài đoạn Mao tuyển...Trên hè phố, trong vườn hoa, trẻ em tay cầm Mao tuyển, miệng hát đồng ca Mao chủ tịch! ở bệnh viện người ta tụng Mao tuyển để chữa bệnh với niềm tin vu vơ! Và cách mạng đựơc hiểu là lật nhào mọi giá trị cũ. Học sinh đại học kéo cổ thầy giáo xuống bắt qùy, cho đội mũ lừa đi dong phố xá. Tôi gặp những sinh viên Bắc Kinh buộc phải trốn sang đây, ở Paris, làm người Trung hoa lưu vong vì cái tội mê say dân chủ đúng hai năm trước. Các anh chị còn rất trẻ ấy vẫn một niềm tin: "khát vọng dân chủ bị dập bởi bạo quyền, nhưng nó âm ỉ, nó không tắt, nó chờ thời cơ. Tất cả đau nhục là thuốc nổ, sẽ bùng lên khi các cụ gìa cộng sản-phong kiến nhắm mắt.
ở Liên Xô hồi 1965, tôi đã vào viếng lăng Lê Nin-Stalin, cả hai chữ ấy in trên đá vân phủ trên mộ lớn, đi vào trong là hai quan tài kính Lê Nin ở bên phải (hướng nhìn ra) và Stalin ở bên trái. Stalin với bộ quân phục và huân chương đầy ngực làm cho Lê Nin nằm bên như bé hẳn lại...ít lâu sau, Stalin biến mất khỏi lăng. Bao điều bí ẩn phơi bầy ra ánh sáng. Con người được sùng bái, ca ngợi, yêu mến như thần tượng bị hạ bệ xuống tận bùn đen về sự xảo trã, sự độc ác khát máu, tính vô nhân. Từ 1985, cơ quan an ninh quốc gia KGB thú nhận đã can thiệp thô bạo quyền công dân, dựng nên vô số vụ án oan, vụ án giả. Tháng 9. 1990 tôi đi qua cơ quan kế hoạch nhà nước Liên Xô trên đại lộ Karl Marx. Ngôi nhà đồ sộ nay vắng tanh vắng ngắt, trong khi ngay cạnh đó, người ta xếp hàng thành đuoi dài để mua bánh mì và...diêm! Mấy anh cán bộ Đài phát thanh Moscow kháo nhau lo lắng: Còn một tuần nữa phải khai cho xong hộ khẩu từng gia đình để chuẩn bị nhận thẻ phân phối thực phẩm và các hàng hiếm khác! "Trở lại y như thời chiến và mấy năm sau chiến tranh!" "Lùi lại gần nửa thế kỷ!" Giá cả đang lên dữ dội! Tôi đã từng đi qua cơ quan kế hoạch nhà nước Liên Xô hồi 20 năm trước, đâu có vắng như chùa bà đanh hôm nay! Hồi ấy người ta ra vào tấp nập, các đoàn xe đen bóng loáng đỗ tại bãi xe cực lớn phía bên, người ta ăn mặc chỉnh tề, sách cặp lên xuống, vẻ trang nghiêm mà hối hả. Giá cả đứng nguyên một chỗ trong hàng 30 năm ròng. Họ khắc vào chân chiếc quạt máy 18 rúp 2, vào chiếc bàn là 6 rúp 6 là cứ như vậy suốt hàng chục năm...
Trước kia phần lớn người Việt nam đều cho rằng người Liên Xô ai cũng tốt cả. Liên Xô hôm nay là Việt Nam ngày mai. Đó là mẫu mực của con người mới, con người lao động hăng say, có năng xuắt cao và có tinh thần quốc tế xã hội chủ nghĩa cao quý- Mọi người đều quý mến và tin cậy chuyên gia Liên Xô...
Tháng 4. 1986, tôi ghé qua Liên Xô trên đường từ Berlin về nước. ở Moscow, tôi gặp đoàn cán bộ dầu khí Việt Nam. Có anh em vốn là đại tá quân đội chuyên ngành, quen biết tôi từ lâu- Thế là tôi được biết rõ thêm về sự cộng tác Việt Xô trong tổ chức Việt -Xô Pétro, tổ chức hợp tác để tìm kiếm và khai thác dầu ở thềm lục địa Việt Nam. Chuyên gia Liên xô trước kia nhiều người tốt. Nhưng không ít người nặng về quyền lợi riêng của đất nước mình. Cơ quan nhà nước Liên Xô là cả một hệ thống nặng nề, cồng kềnh, làm việc quan liêu, thông tin thiếu chặt chẽ, quan hệ dọc còn chậm và quan hệ ngang rất lỏng lẽo. Việc hợp tác về dầu khí những tưởng thuận buồm xuôi gió, rằng Liên Xô giúp Việt Nam rất vô tư và hào phóng vì Liên Xô ứng ra hàng chục tỷ rúp mua biết bao thiết bị đắt tiền và hiện đại...Thế nhưng sau gần 10 năm làm việc, phía ta khôn dần lên, thì té ra không phải hoàn toàn như vậy! Liên Xô đã đưa sang quá nhiều chuyên gia, cả những chuyên gia mà ta có khả năng tự đảm nhận, tạo thành cả làng chuyện gia ở Vũng Tàu (cũng như làng Liên Xô ở công trình thủy điện Hòa Bình). Những chi phí lớn ấy ngoặm khá nhiều vào số tiền họ ứng ra và cho ta vay nợ. Gía cả ta tính cho bạn cũng rất hớ, từ tiền nhà, cung cấp nhu yếu phẩm, đưa đón họ, phục vụ họ di chuyển...đều với giá hữu nghị...Đã vậy những thiết bị họ cung cấp cho ta, có thứ mua từ Ấn Độ, từ Hồng Kông, từ Singapore đưa tới, ta đều tính theo hóa đơn họ đưa, cao hơn rất nhiều giá bạn mua thật sự! Có anh cay cú bảo tôi: Đó, bạn thân thiết, ông anh cả, tinh thần quốc tế vô sản cao cả là như vậy đó. Càng là anh em càng lèn cho đau! Đây là bài học rất sâu sắc. Ta dại dột, ngây thơ qúa. Dại từ ông lãnh đạo trên cao xuống cán bộ các Bộ, các tổng cục...Cuối cùng, nhân dân ta phải gánh chịu tuốt.
Tôi đã ghé Cộng hòa dân chủ Đức 4 lần. Tháng 10. 1965 tôi đã đến cổng Brandenburg nhìn sang trụ sở quốc hội Đức cũ ở Tây Berlin. Bức tường Berlin dựng lên vừa được ba năm. Tôi được viên trung tá Muller chỉ huy đơn vị biên phỏng dẫn vào phòng chỉ huy, nghe giới thiệu trên bản đồ và qua một cuốn phim việc xây dựng bức tường kiến cố này, cũng như hệ thống phòng thủ bằng điện tử, mìn, giây điện, hệ thống canh gác cẩn mật ngăn cách đông với tây Berlin, chia cắt Cộng hòa dân chủ Đức với Cộng hòa liên bang Đức. Không ai có thể nghĩ rằng bức tường kiến cố ấy đã bị phá không phải bằng tiến công quân sự, mà bằng ý muốn của nhân dân. Anh Horn, hồi ấy là cán bộ phòng Việt nam trong vụ châu á bộ ngoài giao CHDC Đức, đã hướng dẫn chúng tôi đi thăm Dresden, nơi có bản doanh của bộ đội khối Vacsovie, thăm Leipzig, Potsdam, thăm Weimar, nơi có di tích phòng làm việc của văn hào Goethe, thăm lò thiêu người của phát xít Hitler ở Buchenwald, thăm hải cảng ở phía bắc Rostov. ở Berlin, anh cùng cả gia đình đưa tôi lên tháp truyền hình cao gần 300m gọi là Télé-Café, nơi có cửa hàng giải khát quay 360 độ mỗi giờ, để ngồi ngắm quang cảnh đông và tây Berlin buổi chiều và ban đêm...ít lâu sau tôi gặp anh ở Hà Nội, anh đã là bí thư thứ nhất đại sứ quán CHDC Đức ở Việt nam. Sau đó tôi ghé Viêntian thì anh là đại sứ CHDC Đức tại Lào. Sau năm 1979, anh là đại sứ đầu tiên của CHDC Đức ở Pnom-penh rồi trở về công tác tại Bộ ngoại giao với chức Vụ trưởng-Một nhà báo ở Berlin sang Hà Nội đầu năm 1989 cho biết anh có thể sắp là thứ trưởng ngoại giao. Hôm nay nhớ đến Berlin, tôi lại nhớ đến anh. Bức tường ngăn cách đã biến mất, nước Đức đã thống nhất trong vui buồn lẫn lộn...Không biết anh và gia đình nay ở đâu, làm gì? Anh còn ở ngành ngoại giao? Có còn là cán bộ của đảng viên của đảng công nhân xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức? Những quan niệm về chủ nghĩa Mác, Lê Nin, về chủ nghĩa xã hội, về chủ nghĩa quốc tế vô sản của anh hồi ấy nay đang được anh nhìn nhận ra sao, sau biết bao biến thiên đột ngột và sâu sắc hơn một năm qua...
Tháng 4. 1986 tôi dự đại hội đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức ở cung Cộng hòa Berlin. CHDC Đức đã có những bước tiến rõ rệt trong xây dựng, dẫn đầu các nước xã hội chủ nghĩa về sản xuất các hệ thống CAD-CAM (Computer aided designed - Computer aided manufactured), về máy tính điện tử tốc độ cao. Tuy vậy nước này vẫn một mực đứng ngoài việc "đổi mới và ngay thật" (perestroika và glasnost), tự cho rằng đã thực hiện điều đó từ khá lâu rồi, đã đứng ở trong số 10 nước công nghiệp hóa cao nhất thế giới. Tôi không ngờ đó là đại hội cuối cùng của đảng công nhân xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức trên cương vị cầm quyền. Một đảng nổi tiếng trong các nước xã hội chủ nghĩa là rất nghiêm, bản chất công nhân rất đậm, kỷ luật rất chặt, tính thống nhất cao và đất nước có nền an ninh rất vững! CHDC Đức và Liên Xô là hai nước giúp đỡ tận tình nhất cho đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam về mặt an ninh, như đào tạo cán bộ về các mặt chuyên môn, trao đổi kinh nghiệm về phát hiện điều tra, xét hỏi, về xử lý các phương tiện thông tin, kỹ thuật chuyên môn trong công tác an ninh và phản gián...Những năm gần đây cơ quan mặt vụ Liên Xô KGB đã được chấn chỉnh khá sâu sắc, đã thải loại hàng chục nghìn nhân viên có sai lầm nghiêm trọng gây oan ức biết bao công dân lương thiện. KGB đã công khai tạ tội trước nhân dân về những hành vi lạm dụng quyền hành, vu cáo, chụp mũ một cách độc đoán, vi phạm nặng nề hiến pháp và pháp luật Liên Xô, đã minh oan cho nhiều công dân, trong đó có nhiều nhà khoa học, nhà văn, nhà thơ, nhà báo...Hàng chục nghìn người đã chết trong cảnh tù đầy và oan ức. Tháng 6. 1991 vừa qua, nhiều tờ báo ở Moscow đưa tin, nhà văn kiêm nhà báo Alexandre Cheltalinski thành viên của "ủy ban bảo về di sản văn học của những nhà văn bị đàn áp, " được sự giúp đỡ tận tình của ủy viên Bộ Chính trị đảng cộng sản Liên Xô Alexandre Yacovlev và được phép của viện kiểm sát tối cao Liên Xô đã khui được một đống tài liệu tuyệt mặt cực kỳ quý giá trong kho tư liệu lưu trữ của cơ quan KGB. Nhà báo này được đọc nhiều biên bản hỏi cung, nhiều bản thảo có giá trị đã bị tịch thu dưới thời Stalin, trong đó những tác phẩm độc đáo của Platsnov, của Bulgacov, của Isaccs Babel, của linh mục Pavel Flarenski, của Guopuy Davidox. Nhiều tập nhật ký viết ngay trong nhà tù của KGB ở cạnh trụ sở này, tác giả đã bị xử bắn, hoặc đã chết trong tù do bị tra tấn và ngược đại. Một số cán bộ của KGB cố tình dấu diếm những hồ sơ và tác phẩm trên đây đã bị phát hiện, thải loại và chờ ngày xét xử trước pháp luật.


Trả Lời Với Trích Dẫn
  #12  
Old 05-20-2004, 05:42 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

ở CHDC Đức, chính vào ngày bức tường chia cắt đông-tây bị sụp đổ, viên tướng cầm đầu cơ quan an ninh STASI (An ninh quốc gia của nhà nước và của đảng công nhân xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức) đã tự kết liễu mình bằng một phát đạn súng ngắn. Con người có uy quyền gần như tuyệt đối, từng hét ra lửa, đã hoảng sợ trước sự vùng dậy của quần chúng hay đã hối hận về những việc làm quá đáng của mình. Hắn đã cho bắt bớ, xử lý thô bạo, không theo pháp luật nhiều công dân chân chính, chụp mũ bừa cho những ai đấu tranh cho dân chủ là tay sai phát xít, tay sai của CHLB Đức, tay sai CIA, đầy đọa họ, gia đình và bạn bè họ...Hồi ấy, STASI là bàn tay sắt, có trụ sở to lớn, trang bị hiện đại ở khắp các vùng, còn to lớn và hiện đại hơn cơ quan GESTAPO hồi xưa, tiêu biểu cho một chế độ luôn lên gân và chỉ lo trấn áp những công dân bất đồng ý kiến...Cơ quan an ninh của ta từng tiếp thu nhiều kinh nghiệm của Liên Xô và CHDC Đức nên tìm đọc kỹ những bài báo, tài liệu được công bố về cơ quan KGB và STASI trong năm qua để chấn chỉnh kịp thời công tác của mình. Qua trả lời báo Nation (Băng Kok) của bộ trưởng Mai Chí Thọ, trong những cuộc họp báo của đại diện cơ quan phản gián Bộ Nội Vụ ở Hà Nội, cung cách nhận định và chụp mũ đối với nhà văn Dương Thu Hương và bản thân tôi là rất cũ, coi chúng tôi là những kẻ phản bội(!), phạm pháp(!), là bị đế quốc và phản động lôi kéo, mua chuộc, nguy hiểm cho an ninh quốc gia! Điều mà cơ quan KGB và cơ quan STASI đã phải từ bỏ và sám hối thì những người chỉ đạo cơ quan an ninh ở Hà Nội được họ huấn luyện vẫn còn bám giữ, vi phạm luật pháp và đi ngược lại quyền tự do, dân chủ của công dân...ở Hà Nội, ta cứ đi qua các đường Yết Kiêu, Trần Bình Trọng, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Du, Nguyễn Thượng Hiền mà xem. Các cơ quan an ninh rộng lớn, bề thế, cao đẹp đến lộng lẫy ra sao, thiết bị hảo hạng cho nơi làm việc, phòng họp, nhà khách ra sao...thì ở sát đó trường Đại học Mỹ thuật vốn có truyền thống từ đầu thế kỷ, hiện trong tình trạng đổ nát, bệ rạc, thầy giáo và sinh viên sống chật chội và nhếch nhác như thế nào. Điều mà cơ quan STASI bị dư luận ở Đức lên án đáng làm cho những người lãnh đạo Việt Nam, đậc biệt ở Bộ Nội Vụ suy nghĩ nghiêm chỉnh và rút ra những kết luận cần thiết cho đất nước. Khi chính những người cầm đầu KGB và STASI thú nhận đã phạm tội nặng nề, khi đặt "một nhà nước ở trong một nhà nước, " có trách nhiệm thi hành luật pháp lại ngang nhiên chà đạp lên luật pháp, khi những người cầm đầu KGB đã công khai nói lên niềm hối hận, nỗi hổ thẹn của mình thì những người lãnh đạo cơ quan an ninh và bảo vệ chính trị (trong và ngoài quân đội) ở nước ta lẽ nào lại không biết hối hận và hổ thẹn gì về những việc làm sai trái của mình?
Theo tôi Budapest là thành phố đẹp nhất trên sông Danube với 8 chiếc cầu nối liền hai bờ: Buda ở phía dưới và Pest ở phía trên. Trụ sở quốc hội rất đặc sắc, soi bóng xuống dòng sông xanh. Người Hungari dễ thương, chân thành, cởi mỡ, giống người Việt Nam ở sự tinh tế và ấm cúng trong tình bạn. Hai lần ở thăm Hungari tôi nhận ra rất rõ sự gắn bó của dân tộc này với Tự do. Một nét "rất lạ": Hongarie là nước xã hội chủ nghĩa duy nhất xưa nay vẫn cho phép công dân của mình được đi thăm viếng và du lịch bất kỳ nước nào-xã hội chủ nghĩa cũng như tư bản chủ nghĩa, như sang áo, Nam Tư, ý, Pháp, Thụy Sĩ, và cả Mỹ, Canada, Anh...Trong khi bức tường ngăn cách hai nước Đức, trong khi công dân Liên Xô, Tiệp, Bulgarie hầu như không được ra các nước tư bản chủ nghĩa để tham quan du lịch. Tôi hỏi các bạn Hungari và được biết chính nhờ được tự do đi về mà rất ít người Hungari ở lại các nước đó. Người Hungari định cư ở nước ngoài không nhiều, họ gắn bó rất sâu đậm với quê cha đất tổ...Chính nét đặc sắc về tự do dân chủ đã làm cho Hungari là nước đi sớm nhất, từ hồi năm 1956, để tìm tòi một mô hình chính trị và kinh tế thích hợp với bản sắc dân tộc mình ở giữa môi trường châu Âu đầy những lực kéo theo đủ phương khác nhau. Chính do đó, sự chuyển đổi hiện nay của Hungari tuy đầy những phức tạp, khó khăn nhưng không hàm chứa nhiều bi kịch lớn như ở Đông Đức, Rumani, Anbani, Nam Tư, Ba Lan và cả Liên Xô nữa...
Đầu năm 1989, tôi có dịp ở Bình Nhưỡng (Bắc Triều Tiên) ba tuần lễ, dự một cuộc hội nghị của tổ chức đoàn kết á Phi bàn về tình hình quân sự và chính trị trên bán đảo Triều Tiên. Chúng tôi tham quan khu vực Bàn Môn Điếm, trong khu phi quân sự ở vĩ tuyến 38, thăm thành phố Khai Thành cổ kính, với những khu vườn và ruộng trồng nhân sâm-một đặc sản của Bắc Triều Tiên, thăm những đập và hồ lớn ở miền Tây. Bình Nhưỡng là thủ đô được xây dựng lớn, rất nhiều nhà cao tầng được thiết kế và thi công sau chiến tranh. Tôi ở khách sạn Kô-ri-ô cao 44 tầng, cách đó không xa một khách sạn cao 105 tầng đang được hoàn tất. Phải công nhận cuộc sống ở đây còn kém khá xa Nam Triều Tiên, nhưng so với quá khứ thì một trời một vực. Bắc Triều Tiên chỉ có 19 triệu dân mà tài nguyên lại rất phong phú: Than, thủy điện, đá làm xi măng, quặng sắt thép, nhôm, vàng. Thủy sản nhiều, công nghiệp hóa chất sớm phát triển, vải lụa nhân tạo dồi dào, tính ra mỗi đầu người có đến hơn 40m/một năm. Người dân Bắc Triều Tiên vẫn còn sống trong môi trường cách biệt. Không được nghe đài nước ngoài. Không được xem sách báo nước ngoài, không được xem ti vi nước ngoài-Bất cứ ai phạm phải những điều cấm kỵ ấy đều có thể vào tù. Tôi gặp mấy chục cán bộ Triều Tiên, từ Tổng biên tập báo Rô-đông Shimun, đến ông Chủ tịch tổng công đoàn, Vụ trưởng vụ báo chí Bộ Ngoại giao, giám đốc khách sạn Kuriu, cho đến ông phó chủ tịch thành phố Khai Thành, đại tà Rô và đại tá Kim ở Bàn Môn Điễm...tất cả đều "tụng" những câu giống nhau, gần như thuộc lòng "chúng tôi độc lập, tự do và hạnh phúc ngày nay là nhờ lãnh tụ anh minh Kim Nhật Thành, nhờ tư tưởng chủ thể của Người, lãnh tụ anh minh Kim Nhật Thành và lãnh tụ kính mến Kim Chung I (Kim Trung Nhất, con trai của ông Kim Nhật Thành) đã dìu dắt gần 20 triệu nhân dân Triều Tiên từ cuộc sống nô lệ đói nghèo đến cuộc sống hạnh phúc hôm nay..." Ai cũng mang huy hiệu ông Kim ở ngực, từ cán bộ cao cấp nhất đến người phát thư, người bảo vệ ở khách sạn, người quét rác trên hè phố. ở đây không còn một cửa hàng tư nhân nào, kể cả hiệu giải khát nhỏ, cửa hiệu cắt tóc cũng không. Người dân không biết perestroika ở Liên Xô, cũng chẳng biết cải cách ở Trung quốc ra sao hết. Các tờ báo của nhà nước chỉ đang hoạt động của lãnh tụ, ảnh của lãnh tụ đi thăm nơi này nơi khác. Nhà xuất bản trong nướcvà ngoài văn cũng chỉ có in và bầy bán các bài viết, bài nói của ông Kim Nhật Thành và người con sắp kế nghiệp bố. Những cuốn sách in rất đẹp, tít sách được in bằng kim nhũ, cùng những sách in về bố mẹ của ông Kim, được coi là "Quốc phụ" và "Quốc mẫu" của đất nước này, một số cuốn sách kể về các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh...Một nền văn học đáng kính, để mà vái chào từ xa! Chúng tôi được dẫn đến xem Tháp Chủ Thể cao hơn 120 mét, trên cùng là một ngọn lửa lớn, riêng nó cao hơn 8 mét, kết bằng ánh sáng điện đỏ :Di, ngày đêm lấp lánh. chân tháp là những viên gạch lớn bằng đá vân ghi tên và địa chỉ những câu lạc bộ, nhóm nghiên cứu học thuyết Chủ Thể ở khắp mọi nơi trên thế giới, từ Ai cập, Syri, Tunisie, ở Bắc Phi đến Columbia, Urugoay ở Nam Mỹ, từ Canada, San Francisco ở Bắc Mỹ đến Mo zambic, Madagaska ở Nam Phi, từ Bruxells (bỉ), Tây Ban Nha, Pháp, Anh ở châu Âu cho đến ấn Độ, Ceylan, Philipine ở châu á. Tháp được xây dựng bằng hơn 21. 000 khối đá hoa cương quý, vừa đúng bằng số ngày mà lãnh tụ tối cao họ Kim đã sống từ khi lọt lòng mẹ đến khi 60 tuổi tròn. Ngọn tháp lớn đỏ rực lửa này dựng lên để kỷ niệm ngày sinh lần thứ 60 của lãnh tụ kiệt xuất. Chúng tôi cũng đã được ngắm vô vàn bức tượng bằng đá, bằng đồng, bằng xi-măng, bằng thạch cao của ông Kim rải ra trên khắp đất nước. Có điều gì rất không bình thường là từ tự do, no ấm đến hạnh phúc của mỗi con người ở đây đều được coi là đặc ân ban cho từ một con người kiệt xuất, có tài thánh. Con trai của vị thánh sống này sẽ được kế tục trị vì đất nước theo kiểu cha truyền con nối thời phong kiến. Trên dải đất thiên liêng, cứ mỗi mét vuông là có 120 mảnh sắt thép lớn nhỏ bom đạn, cuối cùng con người được tự do, với kiểu tự do như vậy!
Hồi 1987, ở thủ đô Adis Abebas của Ethiopie, tôi đi dạo một buổi chiều chủ nhật ở quảng trường Cách mạng, có bức tượng đá Lê-Nin cao hơn 6 thước, do một nhà điêu khắc Liên Xô làm cho nước này. Bức tượng được báo chí Liên Xô nhân xét là tiêu biểu cho sức mạnh của chủ nghĩa Lê Nin đã lan tới Châu Phi. Tôi nói với mấy anh bạn Việt Nam đi cùng hôm ấy: "Thật là quá sớm!" Khi người dân Ethiopie còn bị nạn đói từ Đông sang Tây, khi người dân da mầu ở đây còn đói chữ, giáo dục còn lâu mới được phổ cập, đã có ai hiểu gì mấy về Lê-Nin và chủ nghĩa Lê-Nin? Khi đảng cầm quyền ở đây tuy tự nhận là Mác xit lê-nin-nit nhưng tất cả các biểu hiện của nó lại còn mao ít hơn cả Mao! Cán bộ cơ quan nhà nước và cơ quan đảng bị bắt buộc nhất thiết phải mặc đồng phục mầu xanh kiểu đại cán Trung Hoa, mặc dù trời nắng như thiêu! Những lời của lãnh tụ, nguyên là đại úy Mengistu Mariam được in và ghi thành khẩu hiệu ở khắp nơi, như một kiểu Mao tuyển màu đỏ :Dt. Vừa rồi, ông Mengistu Mariam đã bỏ chạy sang Zimbabue và bức tượng Lê-Nin nói trên đã bị một số người dân trẻ nước này buộc dây thép vào cổ và dùng xe tải kéo cho đổ nhào. Họ nghĩ một cách giản đơn rằng đó là nguyên nhân của sự nghèo khổ và nội chiến liên miên ở đất nước bất hạnh này. Bức tượng Lê-Nin đã trở thành cái bung xung để hứng chịu mọi căm phẫn của nhân dân.
Tôi đã sang Argentina ở Nam Mỹ. Đây là cả một lục địa, mà kích thước về mọi mặt thật lớn, rừng rậm bạt ngàn, nợ nước ngòai cũng cực lớn (gần 300 tỷ đô la), có một bề dài đến 3000 km, có thành phố hơn 10 triệu dân và có những con sông rộng ơi là rộng, không phải chỉ rộng ở cửa biển, mà ngay quãng giữa đã rộng từ 3 đến 7 km! Đó là dòng sông Parana, phải đi trên máy bay, bay thật chậm nhìn xuống mới thấy hết cái kỳ vĩ của sông nước lục địa này!
Đó là bãi đất bằng phẳng rộng tít tắp gọi là Pampa, đường ôtô rộng chạy xuyên qua các vùng trồng cam, quýt, lê, táo mênh mông, chẳng có bóng người, những đàn ngựa, cừu, dê hàng ngàn vạn con, chẳng ai chăn dắt trên những bãi cỏ xanh vô tận...Con người ở đây sôi nổi, đi nhanh, nói lớn, ôm chặt, khiêu vũ sôi động, quay cuồng, thích màu sắc nóng...Họ ưa xem đua ngựa, vật bò tót, thích bóng chầy hơn bóng đá vì bóng đá thư thái, uyển chuyển qúa, chẳng mạnh mẽ, dữ dằn như bóng chày...Chính trong cai nhiệt tình Mỹ La tinh ấy, tôi đã làm bạn vỡi những người cộng sản Uruguay, Bolivie và Argentina...Chúng tôi trao đổi thư từ với nhau. Và hơn một năm nay, họ băn khoăn, chán nản, vỡ mộng, nhưng vẫn tìm một con đường cho lục địa này. Một anh nhà báo Argentina gặp ở Hà Nội tháng 7. 1990 bảo tôi: "Có thời tao là mao ít, mao ít cuồng nhiệt. Cả thế giới không ai bằng Mao! Sau cách mạng Trung Quốc, tao vỡ mộng. Thế rồi tao yêu Fidel, yêu hơn cả người yêu. Nhà tao đầy ảnh Fidel, "ông có râu rậm", mấy thằng em tao bảo vậy. Thế rồi có một dạo xuống đường hô: Hồ! Hồ Chí Minh! Che, Che, Che, Che-Ghêvra! Nay thì chẳng biết hô gì, chẳng còn say mê ảnh ai nữa! Tao theo dõi chặt tình hình thế giới, tình hình Việt Nam, nay đến để nhìn cho rõ. Sao đất nước của Hồ Chí Minh thống nhất 15 năm rồi mà nghèo, mà đói, mà nạn cờ bạc, nạn gái điếm, nạn tham nhũng, nạn hối lộ trở thành nổi tiếng đến vậy? Người ta dặn tao là đến Việt Nam phải đề phòng ngay kẻo mất cắp!!!" Tôi nói đến tình trạng Việt Nam bị bao vây, cô lập, anh ta lắc đầu: "Không, không phải như vậy. Đó không phải là lý do. Cái đầu này này! Cái đầu lãnh đạo của Việt Nam ấy! Phải xem lại! Phải xem lại!"
Tôi đã nhiều lần ở thăm các nước láng giềng Đông Nam á:
Thái Lan, Malasie, Indonesie, Philipine...Bangkok ồn ào, ôtô chạy ầm ĩ, các kênh rạch giữa phố xá đen ngòm, hôi thối bên những cao ốc, siêu thị hiện đại, đầy ắp hàng hóa, để lại cho khách du lịch cảm giác căng thẳng, xô bồ. Kualămpua thoáng rộng, có hồ, nước, vườn cây xanh chứa muông thú giữa thủ đô để lại mọt ấn tượng êm mát thanh bình. Manila, bên cạnh những cao ốc 20, 30 tầng trên những đại lộ thênh thang là những dẫy phố nghèo, nhà cữa lụp xụp, đường ghồ ghề. Djacarta là thành phố rộng nhất khu vực Đông Nam á với hơn 200 khách sạn, 30 ngân hàng lớn với khu vực giải trí dựng theo huyễn thoại cho trẻ em, hấp dẫn cho cả người lớn. Nhưng vẫn lồ lộ khó khăn do nạn nhân mãn đè nặng lên đất nước: Gần 200 triệu dân chen chân trên những hòn đảo lộng gió...
Mỗi lần ghé qua nước bạn, đi một vòng thăm thú, lòng tôi canh cánh một nỗi đau cứ ngấm mãi-Hà Nội ta, thành phố Hồ Chí Minh ta, nước Việt Nam ta trên tất cả các mặt cứ tụt hậu, tụt hậu mãi thế này! Sân bay Băng cốc hồi 1973, 1974 còn kém khá xa sân bay Tân Sơn Nhất Sài Gòn. Thế mà nay rộng lớn hiện đại hơn cả sân bay quốc tế Vnecouvô hay Chérémétivô ở Moscow! Hàng không Thái Lan vừa hợp nhất hai hãng hàng không nội địa và quốc tế, có hơn 200 máy bay, tỏa rộng đến 42 nước, được tiếng là phục vụ lịch sự nhất, sang trọng nhất Đông Nam á. Còn ở ta? Hàng không của ta? ở Djacarta, riêng xe ôtô con đã gần 1 triệu, còn xe buýt là 26. 000, 8000 xe tắc xi luôn tỏa trên các nẻo đường phục vụ sự đi lại của nhân dân thủ đô-Còn ta? Tôi ghé thăm những trường đại học ở Băng Cốc và Kualalampua thư viện, phòng họp, trường học...đều thiết kế rộng rãi, trang bị đầy đủ máy tính, máy ghi dữ liệu, máy hỏi và trả lời các bộ môn, học toán, lý, hóa, văn, sử, địa...đều bằng máy chiếu phim...Các trường đều có các phòng chơi thể thao đủ môn loại, nhà ăn, nhà giải khát, nơi đọc các loại sách báo. Câu lạc bộ được trang bị đầy đủ về âm nhạc, chiếu phim, ca hát, nhảy, múa...
Họ là những nước gần ta, điều kiện tự nhiên không có gì hơn ta, vậy mà họ đã cất cánh, tạo nên tốc độ trên con đường phát triển, đang là những con rồng dự bị của Châu . Theo thống kê của ủy ban kinh tế xã hội châu á và Thái Bình Dương (ESCAP) của Liên Hợp Quốc, năm 1990 vừa qua thu nhập tính theo đầu người của Indônésie đã đạt 545 đô la Mỹ, Philipine đạt 727 đô la Mỹ, Thái Lan gần ta đạt 1. 418 đô la và Malaisie đã đạt tới 2. 300 đô la. Ta thì chưa tới 200 đô la! Cũng theo thống kê này năm 1990, Singapore và Hồng Kông đều đạt trên 12. 000 đô la Mỹ (gấp 60 lần ta)-Những nước phát triển cao như Australia (úc) và Anh đã đạt trên 16. 000 đô la, Pháp, Đức vượt 20. 000 đô la. Mỹ vượt 21. 000 đô la và Nhật bản đạt tới 23. 500 đô la- Nhân nói đến Nhật bản mà sức mạnh kinh tế và tài chính đã vươn tới :Dnh cao nhất của thế giới ngày nay, tôi nhớ đến cuộc nói chuyện với giáo sư Tari Yokohama ở khách sạn quốc tế Narita cuối năm 1988. Ông gần 70 tuổi chuyên nghiên cứu và dạy về kinh tế. Ông am hiểu chủ nghĩa Mác. Ông kể lại bí quyết làm giầu của người Nhật bản sau khi chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Đó là nỗi tủi nhục của kẻ thua trận, nỗi lo sợ khôn nguôi của kẻ mắc nợ lớn do phải bồi thường chiến tranh cho Đồng minh, sự bó buộc phải trông cậy vào sức lao động của chính dân tộc mình trên đất nước quá nhỏ hẹp của mình mà thôi. Trong thất bại và tủi nhục của kẻ bị chiếm đóng, cả một dân tộc nín lặng, nhẫn nhục, bặm môi lại làm việc, cố kết với nhau. Ông ta cười giữa hai hớp rượu Sa-kê: "Hồi ấy chúng tôi dạy cho học sinh từ lớp thấp: Các em bất hạnh đã sinh ra trên đất Nhật này, một đất nước bị bom nguyên tử và bom đạn tàn phá, bị nhục vì thua trận, bị trừng phạt, bị mắc nợ lớn. Có thoát khỏi hoạn nạn này là do các em. Do nghi lực và tri tuệ của các em. Các em phải học cho giỏi, chiếm các lĩnh vực hiểu biết và các quy trình công nghệ tiên tiến nhất...Chúng tôi cho học sinh trẻ xuất sắc đi làm công và đi học: Nghề ôtô ở Mỹ, nghề làm máy thu thanh ở HàLan, nghề đồng hồ ở Thụy sĩ, nghề chế tạo máy ảnh ở Đức, nghề luyện kim, chế tạo cơ khí ở Pháp. Học, bắt chước họ để làm được như họ, rồi cải tiến, mỗi nghề một chút. " Sau đó ông kể rằng, người Nhật đã tận dụng một lợi thế lâu dài, đó là không có quân đội lớn, chỉ có một đơn vị dân phòng, lại không được sản xuất vũ khí, càng tốt! Ngân sách quân sự chỉ có 0, 6 %, mãi sau này mới nâng lên 1%, rồi hơn 1% ngân sách chung. Đêm ấy tôi nghĩ về đất nước Việt Nam của tôi. Trong khi mình huênh hoang là chiến thắng lịch sử huy hoàng vượt tất cả thời kỳ lịch sử hiển hách thời xưa, là đã toàn thắng một đế quốc hùng mạnh nhất thế giới, rằng sẽ không còn ai dám động đến lông chân mình, rằng Việt Nam cứ ra ngõ là gặp anh hùng, rằng từ nay xây dựng thì dễ ợt, chẳng mấy chốc thì giầu to vì đánh giặc mới là khó nhất trên trần gian này, mà ta thì làm được một cách xuất sắc...Thế rồi càng bốc đồng: Nước ta rừng vàng, biển bạc, sông ngòi, bờ biển tha hồ nhiều tôm cá, làm chơi ăn thật, nay làm thật thì để đâu cho hết của...Sao lúc ấy không ai chỉ ra rằng ta đã mất bao nhiêu thời gian, sinh mạng trong chiến tranh, đã thua kém người ta trong xây dựng, phải tính rất cẩn thận bài toán phát triển đất nước, tận dụng từng chiến lợi phẩm, từng đồng vốn, tiết kiệm từng tấn nguyên liệu, đào tạo lại công nhân cán bộ kinh tế quản lý, kinh doanh...và nhất là phải đề phòng cái kiêu ngạo, tư phụ, coi trời bằng vung sau chiến thắng lớn này! Lẽ ra đại hội 7 phải nhìn lại một cách dũng cảm và ăn năn, hối hận trước nhân dân, xin lỗi nhân dân và cùng nhân dân đi vào con đường đổi mới một cách mạnh mẽ, dứt khoát, gỡ bỏ những bệnh tật đang hoành hành, bắt tay vào cuộc phấn đấu mới...Thế nhưng những người cầm quyền đã không làm được điều ấy! Cái khả năng "xin lỗi" và khả năng "nhận khuyết điểm" thật quá là mỏng manh, họ không tự vượt lên được chính mình!
Tôi ở Pháp đến nay đã được gần một năm. Tôi tận dụng thời gian ở đây để tận mắt tìm hiểu đất nước này, một nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Tôi đã đến khá nhiều nơi ở Paris, ra vùng ngọai ô ở tất cả các hướng Tây, Bắc, Đông, Nam...tôi gặp gỡ hỏi chuyện các nhà kinh tế, chính trị, quân sự, sử học về nước Pháp, nước Pháp xưa kia, trong chiến tranh, sau chiến tranh và hiện nay...
Tôi từng đi các địa phương Lyon, Lille, Toulouse, Aix- en-Provence. Tôi đọc sách báo Pháp hàng ngày, có những buổi gặp gỡ thú vị với các nhà báo, nhà làm phim, nhà họat động chính trị thuộc nhiều mầu sắc-từ cực tả sang hữu. Nước Pháp đã để lại những ấn tượng mới mẻ đối với tôi, phong phú hơn nhiều so với nền văn hóa và văn học Pháp tôi tiếp thu khi còn ít tuổi- Nói về nước Pháp phải viết một cuốn sách dầy mới đủ. Tôi chỉ xin kể lại đây những điều sâu sắc.
Tự do cá nhân, tự do của công dân, là một quyền lợi, một thành tựu, một động lực rõ rệt của đất nước này. Tự do gắn với bình đẳng, với phát triển-Nước Pháp đúng là quê hương của cách mạng 1789, của: Tự do - Bình đẳng - Bác ái. Có người ở Việt Nam sẽ phê phán tôi đi ca ngợi chủ nghĩa tư bản! Rằng chính Pháp đã gây ra chiến tranh xâm lược, gây tai họa cho chúng ta. Tôi có lý do để căm thù đất nước này. Mẹ tôi, bà mẹ thương yêu vô vàn của tôi, bà mẹ nhân ái từng nuôi hàng chục con nuôi Vệ quốc quân, đã tắt thở vì những viên đạn ga-răng bắn vào giữa ngực ngay sau những ngày Tết Trung thu 1948. Một tốp lính lê-dương Pháp nhẩy dù xuống Vân Đình và tràn qua làng Liên Bạt quê tôi. Một tên chỉ điểm ở xã đã chỉ cho lính Pháp biết mẹ tôi là "vợ một Việt Minh cao cấp, " khi cha tôi đang là Trưởng Ban thường vụ quốc hội trên Việt Bắc. Cũng lại lính Pháp giết chết người bạn thân thiết nhất của tôi - người bạn con chấy cắn đôi - bạn Nguyễn Dung, đại đội phó đại đội 4, tiểu đoàn 14 trong một trận đánh ở Quảng trị năm 1947. Tôi đã vuốt mắt cho Dung và về sau còn vuốt mắt cho hàng trăm đồng đội thân thiết của tôi, với mối căm thù không nguôi quân xâm lược. Tuy vậy tôi vẫn giữ một cách nhìn khách quan đối với nước Pháp.
Đất nước của tự do từ những nét nhỏ. Vào hiệu ăn hay ở nhà, người Pháp chọn riêng cho mình rất kỹ từng món ăn-Người ta tôn trọng sở thích của nhau và mỗi người biểu hiện cái quyền sở thích của riêng mình-Lúc đầu tôi hơi lạ, chưa quen, có cá nhân quá không nhỉ? Thế là vào ăn hai người, ba người, bốn người, mỗi người tìm cho mình một thực đơn riêng. Anh ăn cá, tôi ăn gà, bạn này ăn thịt bò. Tôi uống rượu vang đỏ, anh uống rượu vang trắng, bạn kia uống bia Nhật, chị kia uống bia Tầu - Thuốc lá người hút, người không, nhưng anh này hút Camel, anh kia Philip Morris đậm, bạn kia nữa thì xì gà hay Gaulois. Đến nước chè cũng vậy - Anh chè có vị bạc hà, tôi chè Sri Lanka, chị kia chè Tizane...Thật lắm vẻ. Rượu thì khỏi nói, vài chục loại, tùy thích, mọi người một thứ, tự chọn, cho đến ở nhà, bữa cơm gia đình cũng vậy. Đã thành nếp, thành tập quán rồi. Người vợ muốn ăn cá hấp, anh chồng muốn ăn thịt bò, con trai thích thịt gà hầm, con gái thích xúp thịt cừu, khoai tây. ít khi ăn chung một món, trừ khi có đặc sản, có thức gì thật đặc biệt có bàn bạc. Cho đến khi ăn pho-mát, có cả một hộp lớn, có 6, 7 thứ pho-mát: Vị cừu, vị bò, có thứ hơi chua, có thứ rất mặn, thứ rắn, thứ mềm, thứ vàng, thứ trắng...mỗi người một sở thích...Trong gia đình ai ăn thứ gì, làm món ăn gì cứ tự tiện làm lấy-Khi bận thì cùng nhau làm, trao đổi ý kiến với nhau. Giờ ăn cũng vậy. Cứ việc tùy ý, tiện lúc nào thì ăn. Không ai làm phiền ai, cản trở ai, quấy rầy ai, làm khó chịu cho ai cả. Tôi quan sát cháu Alise bốn tuổi trong nhà tôi ở. Từ bé cháu đã vậy. Tự do lựa chọn, lễ phép, lịch sự mà lựa chọn, thoải mái mà lựa chọn.
Cháu có bà ngoại là chị Ngọc, ông ngoại là anh Jacques.
Thế mà từ khi biết nói đã gọi: Ngọc! Jacques! Gọi mẹ cháu cũng bằng tên: Luce! Gọi bố cũng bằng tên: Michel! Đó là thói quen, là phong tục, không cần thưa bẩm, không cần gọi rõ ông, bà, cha, mẹ. Chỉ cần một cái tên trần trụi là đủ. Gọi tổng thống, gọi thủ tướng, đảng viên gọi tổng bí thư cũng chỉ gọi bằng cái tên trần trụi. Chẳng có gì là bất kính, là hỗn hào, là láo xược cả-ở ta mà gọi thủ tướng, tổng bí thư bàng cái tên là không quen, không thể được, là bất kính, là qúa trớn, và trong hội họp gọi như vậy là nguy tai, nói chuyện riêng với nhau mà gọi như vậy là có thể bị báo cáo, bị chất vấn, bị xét hỏi về chính trị, bị phiền phức, rầy rà đến suốt cả đời.
Tôi đến thăm một gia đình Việt kiều- Anh tham gia phong trào ủng hộ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ ở bên nhà từ rất sớm. Chị người Pháp, vào đảng cộng sản, rồi từ năm 1982 chuyển sang đảng xã hội. Con gái đầu của anh chị làm nghề vẽ quảng cáo. Cháu theo chủ nghĩa Mao từ những năm đầu học đại học Mỹ thuật, nay lại chuyển sang đảng xã hội. Đó tính chất đa nguyên ở trong gia đình. Họ thảo luận, đôi khi tranh luận náo nhiệt, nhưng tôn trọng nhau, tôn trọng sư suy xét, lựa chọn của mỗi người, và họ rất phục thiện. Trước hết là phục thiện với chính minh. Mình thấy con đường nào đúng, tổ chức nào đúng thì theo. Không bắt chước, không a-dua, không mù quáng, luôn tỉnh táo, và xử dụng trọn vẹn quyền lựa chọn của chính mình. Dân chủ là thế. Mỗi người chọn chỗ đứng của mình, dùng là phiếu của mình để chọn mặt gửi vàng. Đó là thước đo công bằng. Đảng xã hội Pháp hiện nay có được chừng 30 % tín nhiệm trong cử tri. Ba đảng phái hữu được hơn 40 % : Đảng cộng sản thuộc phái tả, xưa kia có lúc lên đến 32 % (đảng dẫn đầu nước Pháp, đảng của những người bị xử bắn), rồi 26 %, nay chỉ còn 8 %- Đang cực hữu của Le Pen, mang tính chất kỳ thị chủng tộc được 10 % vào giữa năm 1991. Có dân chủ, có cạnh tranh về chính trị, mỗi đảng phải tự lo xây dựng mối quan hệ với cử tri, phải có đường lối được cử tri tán thành, có biện pháp thực hiện, nội bộ giữ gìn ngay thật, trong sạch, không bị tai tiếng, không có xỉ căng đan trước dư luận.
Tôi quan sát nhiều cuộc biểu tình rộng lớn của học sinh trung học toàn nước Pháp hồi đầu tháng 11. 1990. Nội dung đấu tranh là đòi nâng cao chất lượng giảng dạy, sửa sang và trang bị lại các lớp học, giảm số học sinh mỗi lớp, trên dưới 40 xuống 35, xây dựng thêm trường lớp nơi đông dân cư. Các thầy cô giáo, cha mẹ học sinh tham gia rất đông đảo. Cuộc đấu tranh lớn ở Paris, Lyon, Bordeau, Marseille...lan nhanh ra cả nước. Các đòan học sinh đáp xe lửa, xe buýt từ các tỉnh đổ về Paris. 300. 000 học sinh biểu tình từ quảng trường La Bastille, qua Austerlitz, vòng về Champs Elysees trước trự sở của chính phủ Pháp. Biểu ngữ, cờ, khấu hiệu căng khắp nơi, truyền đơn phân phát rộng rãi, và tiếng hô của họ vang động cả Paris. Tôi đứng hàng giờ quan sát, rồi đi cùng các đoàn. Những đòan học sinh trẻ, từ 12 đến 18 tuổi hừng hực khí thế, vừa hát vừa đi, vừa hô khẩu hiệu, vừa đi, nghiêm chỉnh, tươi vui, suốt từ 9 giờ sáng cho đến tối mịt, trên một quảng đường dài gần 10 km. Thế là quyền thủ tướng, bộ trưởng bộ Giáo Dục Jospin phải tiếp các đại biếu, nhận các kiến nghị và trao đổi ý kiến với họ- Tổng thống Mitterand phải tiếp các đại biểu học sinh trẻ. Tôi thích thú, cảm thấy như trẻ lại khi đứng ở chỗ các nhà báo trước trụ sở quốc hội và trước phủ tổng thống, nhìn các đại biểu học sinh vai đeo cặp sách, đàng hoàng bước lên các bậc thềm lớn để vào nơi trang nghiêm nhất của chính quyền trung ương, ngồi đối diện với các bộ trưởng và nghị sĩ không chút mặc cảm, tự ty, họ trình bày rõ những yêu sách của mình, tranh cãi đàng hoàng. Và tối đó, qua các kênh truyền hình, hàng triệu người xem ti-vi của nước Pháp và thế giới được thấy cảnh ở trong điện Elysees, tổng thống Pháp Mitterand và các nhà chức trách cao cấp nhất của nước Pháp tiếp kiến, lắng nghe, thảo luận với hơn 20 học sinh trung học đại diện của các cuộc biểu tình tuần hành và chấp nhận những yêu sách ấy. Hai hôm sau, phủ tổng thống thông báo, chính phủ Pháp đã quyết định trích ngay từ ngân sách dự trữ 5 tỷ Francs (gần bằng 1 tỷ đô la) để chi cho việc mở rộng trường lớp của các trường trung học, đáp ứng một phần yêu sách của cuộc đấu tranh...Đại diện hoc sinh trung học quyết định: tất cả trở về học tập bình thường, ghi nhận sự đáp ứng bước đầu của tổng thống và chính phủ, kiên quyết đấu tranh tiếp tục vì chất lượng giáo dục trung học là nền tảng của chất xám, của văn minh và văn hóa quốc gia...Có những khẩu hiệu rất được dư luận chủ ý như: Không một Franc cho chiến tranh vùng Vịnh! Bớt ngân sách quân sự cho giáo dục quốc dân! Giáo dục trung học là nền tảng của tương lai! Chúng tôi muốn học giỏi, hãy bảo dảm điều kiện cho chúng tôi!...
Tôi nhìn lớp lớp học sinh phấn chấn trở về trong đêm với khí thế của những chiến sĩ vừa thắng trận, ca hát vang ở các bến tầu điện, các ga xe lửa mà nhớ, mà tủi cho các em học sinh trung học và đại hoc ở nước ta! Bao giờ các em cũng sẽ tổ chức được đội ngũ của mình, đề ra yêu sách thiết thực và giành được nhung quyền lợi thiết thân như thế...ở ta người ta hay nói về quyền làm chủ, nhưng lại không có phương tiện và biện pháp để thực hiện cái quyền tối thiểu ấy trong xã hội!
Tôi rất chú ý đến hành động của cảnh sát Paris với cuộc biểu tình này. Cuộc đấu tranh được các ban đại diện học sinh hoạch định rất kỹ, với một kỹ năng tổ chức và huy động rất cao, thành kế hoạch cụ thể. Những ai dự, từ đâu đến, giờ giấc ra sao, ai phụ trách, những điểm tập trung, lộ trinh tuần hành đều được quy định thống nhất. Cảnh sát được Ban lãnh đạo biểu tình thông baó trước hai ngày, và chính cảnh sát trưởng Paris phải huy động hơn 3000 cảnh binh với 30 xe buýt tỏa đi dọc các tuyến đường để bảo vệ an toàn cho các người tham gia đấu tranh. Thật là lý thú.
Cảnh sát có nhiệm vụ bảo vệ học sinh đi đấu tranh, ngăn ngừa bọn càn quấy, bọn phá dám, bọn lưu manh trà trộn vào, chúng gỉả danh học sinh để gây chuyện, phá phách các cửa hiệu nhằm cướp bóc.
Báo chí và truyền hình đưa rất đầy đủ tin tức của cuộc đấu tranh. Có đến hơn 20 tờ báo hàng ngày ở thủ đô và 6 kênh truyền hình - Các báo và đài đều có một cuộc cạnh trạnh, khi thì công khai, khi thì ngấm ngầm để đưa tin được sớm nhất (đua nhau đến từng phút như đưa tin chiến sự vùng Vịnh), đủ nhất và chính xác nhất. Trình độ nghiệp vụ, lương tâm nghề nghiệp cao, các thiết bị in và truyền tin hiện đại. Dư luận là người trọng tài công tâm nhất, người cho điểm, người phán xét thật sự. Mối quan hệ giữa báo, đai, người xem, người nghe thật bén nhậy. Việc thăm dò, bình xét thái độ và ý kiến của công chúng là tức thời. Đang có cuộc tranh luận chính trị giữa hai người A và B. Ngay trong thời gian tranh luận, ai khen, hay chê A hay B, chỉ việc quay 4 số ở máy điện thoại rồi phát biểu ý kiến là đài có máy tính điện tử tổng hợp tức thời và đưa ngay kết qủa lên truyền hình. Ví như ông A được 42% ý kiến tán thành, ông B được 35% ý kiến tán thành, 23% chưa có ý kiến rõ trên tổng số 1000 người có ý kiến.
Trong làng báo Pháp có một tờ báo ở nước ngoài ít ai biết, nhưng người đọc ở Pháp thích thú vô cùng - Đó là tờ tuần báo "Con vịt bị trói" ra vào sáng thư nâm. Đây là tờ báo để cười, một tờ báo giải trí, được ăn khách nhất và cũng được lãi lớn nhất trong tất cả các tuần báo Pháp, bán chạy ở Paris, ở các thành phố và các vùng nông thôn. Mọi đảng phái, mọi tuối tác, nghề nghiệp đều ưa thích. Văn phong báo cực kỳ hóm hỉnh. Không có kiểu cù vào cột nhạt nhẽo, hay cù kiểu hạ đẳng, vô văn hóa. Báo này không thuộc đảng phái nào. Do đó, tôi nghĩ nó là tờ báo chính trị bổ ích lớn nhất cho cuộc sống dân chủ. Tờ báo chỉ trích, lên án, công kích một cách mỉa mai, chua cay mà hóm, tất cả những thói hư, tật xấu trong xã hội, dám vuốt râù những ông lớn nhất nếu như họ có dấu hiệu bê bối, không chút e dè, nể sợ. Báo "Con vịt bị trói" từ năm 1975 cho đến nay, vạch tội cả nhân viên phụ trách ngành hải quan, các quan tòa, rồi cả hệ thống thuế...Nó không buông tha bất cứ ai, từ tổng thống, thủ tướng, đến ông cẩm các quận, những tay buôn lậu, trốn thuế, những mafia tội ác và những kẻ phân biệt chủng tộc, nếu họ có thật những vấn đề, những xì căng đan. Đây là một công cụ lợi hại bảo vệ nền dân chủ và quyền công dân, cố giữ môi trường trong sạch cho xã hội. Tờ báo đươc dư luận quý trọng, tất cả những vấn đề nó nêu lên đều được ngành hữu quan ghi nhận làm cho sáng tỏ và phần không ít được trả lời, kết thúc, khép kín hồ sơ trên mặt báo. Các nhà báo sành nghề ở Paris bái phục "Con vịt bị trói" vì nó đụng chạm rất nhiều đến các vị tai to mặt lớn, có máu mặt và lắm quyền, đến nhiều tổ chức chính trị, kinh tế, tài chinh lắm thế lực-nếu hớ hênh là dễ bị chết kẹt, bị đưa ra tòa để bồi thường danh dự do tố điêu, tố láo...vậy mà "Con vịt bị trói" vẫn binh chân như vại, vẫn lớn tiếng kêu "cạc, cạc..." cho cả làng nghe, đế cả làng giải trí và phẫn nộ, để công bằng được thực hiện. Nó có tai mắt ở nhiều nơi, có hệ thống cộng tác viên ở lắm chỗ để làm công tác thẩm định, phán đoán có cơ sở, lượng định kỹ mọi chuyện trước khi gây cười cho độc giả.
Một điều được ghi thành văn trong hiến pháp các nước phương Tây và các văn bản pháp quy khác là không một ai có thể bị trừng phạt do những quan niệm chính trị và tư tưởng chính trị của mình. Hiến chương Liên hợp quốc về quyền con người cũng ghi rõ điều đó - ở các nước ấy, ai thích chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn tự do - Ai muốn theo chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Lê Nin, hay chủ nghĩa Mao, chủ nghĩa Trosky hay cả chủ nghĩa Staline là hoàn toàn tự do. Ai muốn ca ngợi Fidel Castro, Che Ghevara, hay Tito...là hoàn toàn tự do. Cũng như ai muốn theo Phật giáo, theo Kitô giáo, theo Hồi giáo...đều tự do cả. Không một ai được áp đặt cho ai một học thuyết nào, một lý luận, một quan điểm chính trị nào. Cả đến chính phủ, tổng thống và đảng được đa số phiếu cũng không được quyền, không được phép bắt buộc công dân tín nhiệm mình, phục tùng những chính kiến riêng của mình, ca ngợi, tâng bốc mình. Người công dân chỉ có nghĩa vụ tôn trọng pháp luật. Mà pháp luật bảo vệ quyền tự do tư tưởng của công dân. Cho nên những chuyện ở ta như là đảng cộng sản cứ tự nhận là được nhân dân tín nhiệm, là nhân dân chỉ hoàn tòan tin cậy chúng tôi thôi, và yêu nước là bắt buộc phải yêu chủ nghĩa xã hội (mà chủ nghĩa xã hội nào, ra sao?), không yêu chủ nghĩa xã hội là không yêu nước, là phản bội...thì người phương Tây không làm sao hiểu nổi được! Nó trái với Hiến chương Liên hợp quốc, trái với hiến pháp các nước (và cả Hiến pháp của nước ta ghi rõ quyền tự do tư tưởng), nó có mầu sắc của những chế độ tiền tư bản, khi người dân đen không được láo xược với vua quan, vua là tuyệt đối sáng suốt theo mệnh trời, người dân chỉ được cúi đầu vâng dạ...
Rõ ràng chỉ có một nền dân chủ đa nguyên khi cho công dân nhiều lựa chọn, có cạnh tranh và có đối trọng. Người công dân có quyền tự do cao nhất là tự do suy nghĩ, tự do khen và tự do chê, tự do sử dụng lá phiếu bầu của mình, tự do tín nhiệm và tự do không tín nhiệm, bảo đảm một không khí chính trị lành mạnh, ổn định, thường xuyên phát triển và tiến bộ.
Điều nổi bật ở các nước tư bản là sự am hiểu luật pháp và tuân thủ luật pháp được biểu hiện ở khắp nơi. Nguyên tắc của nó là: người công dân có quyền làm mọi thứ, trừ những điều luật pháp cấm đoán. Cho nên phải biết từ khi còn nhỏ tuổi cho đến khi về già những gì luật cấm. Từ đi ra đường, đi làm, đi du lịch, mua bán, tậu tài sản, gữi tiền...đều có những luật lệ quy tắc rất chặt chẽ. Tôi không phạm luật lệ, tôi là người tự do, không ai đươc đụng chạm đến tôi. Tôi không sợ một ai hết, từ ông cẩm, ông cò, ông thị trưởng, ông hải quan, đến ông bộ trưởng, ông thủ tướng, ông tổng thống. Tôi đi đứng đàng hoàng, ung dung, thư thái với tất cả nhân cách bình đẳng với mọi người- Nếu có ai dụng đến tôi một cách phi pháp, nhà nước phải bảo vệ tôi, tôi có quyền thuê luật sư nếu như tôi chưa hiểu biết hết luật, để bảo vệ cho tôi một cách công bằng. Điện Panthéon là nơi chốn cất "những người con vĩ đại của nước Pháp". Không có tổng thống, thủ tướng, bộ trưởng nằm đây đâu! Toàn là những nhà văn hóa lớn, nhà tư tưởng, nhà khoa học, bằng tài năng sáng tạo của mình, làm rạng danh cho đất nước. Phía trước điện là trường Đại học Luật khoa, trường lâu đời nhất, gần 200 năm. Nhà nước pháp quyền phải như thế- nắm quyền qua luật pháp-và luật pháp yêu cầu mọi người tuân theo, trên tinh thần bình đẳng của công dân. Các nhân viên cảnh sát ở Paris rất lịch sự, lễ độ. Cả những nhân viên cảnh sát giao thông mặc đồng phục xanh, đi phạt những xe đậu không đúng chỗ cũng lịch sự, nhưng cương quyết Không có: "Xin anh, xin chị thông cảm cho em..." như ở ta, mà đã phạt là phạt. Nếu không có tiền sẵn thì xem giấy, địa chỉ, gửi giấy phạt về nhà. Không trả đúng hẹn, thì bị phạt thêm. Cứ phép nước mà làm. Người có quyền không được cậy quyền thế, quát nạt, khinh người. Nhận tiền phạt đều có biên lai chính thức, có cuống đàng hoàng, không thể lèm nhèm. Luật pháp quy định chặt chẽ, bịt chặt mọi sơ hở. Suốt thời gian ở Paris, tôi chưa hề gặp một ai hỏi giấy tờ, vậy
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #13  
Old 05-20-2004, 05:43 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

Trong những tháng sống trên đất Pháp, điều gây ấn tượng lớn và sâu đối với tôi là người công dân, người lao động được hưởng biết bao nhiêu quyền lợi thiết thực. Phải đấu tranh quyết liệt mấy thế hệ công nhân và công dân mới giành được giờ lao động mỗi ngày là dưới 8 giờ (so với 10, 12 giờ hay hơn nữa thời chủ nghĩa tư bản sơ khai), mỗi tuần làm việc 42 giờ hoặc dưới 42 giờ (so với 60, 65 giờ hay hơn nữa), cũng như mỗi tuần làm việc 5 ngày (so với 6 hoặc 7 ngày hồi trước)- Trên báo Pháp đang bàn về việc tổ chức để người lao động, viên chức có thể nghỉ 3 ngày liền sau 4 ngày làm việc, mở ra một hướng đấu tranh mới mẻ ở một số ngành. Lương tối thiểu của công nhân viên chức được ấn định hàng năm. Hiện nay lương SMIC (tối thiểu cho các ngành nghề) hàng tháng là 5300 Francs (bằng gần 1000 dô la). Người về hưu được bảo đảm về cuộc sống. Tùy theo thâm niên, nghề nghiệp và mức lương mà nhận được lương hưu khá giả hay dư dật ít nhiều. Quỹ trợ cấp xã hội rất lớn, do nhiều nguồn đóng góp: của chính phủ, trích ra từ ngân sách, tiền trích từ lương của lao đông, viên chức, cũng như đóng góp của người chủ mướn lao động, mướn nhân công và viên chức, từ các hãng tư nhân phải trích lãi và nộp nhiều loại thuế...Người lao động, viên chức được bảo hiểm về sức khỏe, được chữa bệnh, nằm bệnh viện không mất tiền, hoặc chỉ phải đóng góp rất ít, nếu không làm việc được, neo đơn, thất nghiệp thì được các cơ quan cưú trợ xã hội xét và được những khoản phụ cấp thích đáng...Chính phủ làm ra những căn nhà HLM (nhà cho thuê giá thấp) cho những người thu nhập trung bình và thấp (những ngôi nhà làm riêng cho cán bộ cấp cao ở Hà Nội còn kém xa những HLM ở Pháp). Trẻ em, người già, người tàn tật, được chăm sóc rất đặc biệt, không phải chỉ cho một số ít, mà cho đại trà, nghĩa là mọi người trong diện ấy một cách bình đẳng.
Việc đi lại của công dân được nhà nước giải quyết từng bước theo nhu cầu. Hiện Paris có hệ thống tầu điện ngầm như mắc cửi, gồm hơn 10 đường trục chéo nhau với gần 600 ga. Có đến hơn 3 triệu lượt người đi Metro mỗi ngày- thêm vào đó có hệ thống 4 đường RER- xe điện tốc độ cao-trong thủ đô nối liền với hệ thống xe lửa trải ra khắp nước. Lại có hệ thống xe lửa nhanh TGV, mỗi giờ chạy được 240 km...Có chính sách bán vé chuyến, vé ngày, vé tháng có loại vé dành chung cho tầu điện ngầm, RER, và xe buýt, có loại vé cho công nhân, cho học sinh và sinh viên. Lại có loại vé cho người về hưu, người tàn tật, được bớt 50 %, hay hoàn toàn không mất tiền- Học sinh đi tập thể, đi du lịch được mua gíá hạ hơn nữa...
bên sông Loire, tôi ghé thăm một nhà dưỡng lão của hơn 40 cụ từ 76 đến 103 tuổi. Đây là lâu đài của môt quận công cũ ở trong vùng. Các cụ được phục vụ chu đáo, ăn ngủ, chơi bài, đọc sách báo, chơi thể thao, đi bách bộ, làm vườn...Mọi cụ già trong vùng có hoặc không có người thân chăm sóc, đều có thể đến đây sống trong niềm vui và được phục vụ chu đáo. Đã có sự ganh đua giữa các vị dân biểu, các quận trưởng, tỉnh trưởng, giữa đảng cộng sản, đảng xã hội, với các đảng phái hữu. Đại biểu nào cầm quyền một nhiệm kỳ đều cố để lại một dấu ấn về thành tựu của mình ở địa phương: đó là một, hai nhà trẻ, dăm bảy lớp mẫu giáo, là những vườn hoa và thảm cây xanh..., đó cũng có thể là 1, 2 trường trung học, một thư viện có vài nghìn cuốn sách, là sân vận động, là những phòng thể thao mùa đông. Đó có thể là ngôi nhà dưỡng lão, những đại lộ trồng cây, những cửa hàng thực phẩm, hoặc những nhà ở có kiến trúc đặc sắc cho nhân dân thuê với giá rẻ...Nhiệm kỳ của ông, bà, làm tốt, thực sự quan tâm đến nhân dân, thực hiện đầy đủ lời hứa tuyển cử, cử tri chúng tôi lại tín nhiệm ông, bà. Còn ông hoặc bà kia chỉ hứa hão, lại bê bối, chẳng có tích sự gì để đánh đấu nhiệm kỳ thì thôi, xin vái ngài, ô voa...xin ông bà về nghỉ cho dân khỏe...
Các vị đại biểu ra ứng cử đều có chương trình cụ thể, không có hứa hẹn chung chung. Phải am hiểu địa phương về tất cả các mặt (sản xuất, số lao động, số thất nghiệp, hệ thống y tế, giáo dục, các mặt xã hội và đời sống của các lớp dân cư...) từ đó đề ra kế hoạch cho cử tri xem xét.
Thị trường Paris cũng vậy. Ông Chirac ra tranh cử với một kế hoạch rất rõ ràng. Giải quyết những vấn đề lao động, xây dựng và điều hành các công việc của thủ đô, xây dựng những công trỉnh, giải quyết nạn thất nghiệp...Đã hứa hẹn là phải thực hiện đến nơi, đến chốn, hoặc vượt lời hứa. Việc xây dựng khu La Defense, một quần thể kiến trúc rất lớn ở phía Tây Paris-đặc sắc nhất ở châu Âu-đã căn bản hoàn thành. Khu La Villette, "thành phố khoa học và công nghiệp" ở phía đông bắc Paris, trong quận 19 đang được hoàn tất. Đây là nơi phổ biến những kiến thức, những thành tựu khoa học và công nghiệp của nước Pháp và thế giới, có phòng chiếu phim rộng lớn, diện tích màn chiếu hình vòm, rộng 1000 mét vuông. Những kiến thức về vật lý, hóa học, sinh học, tin học, quang học, địa lý, về du hành vũ trụ, về lò phản ứng hạt nhân, từ giản đơn đến phức tạp đều được trình bầy dưới dạng phổ cập và nâng cao, thu hút mỗi lứa tuổi, nhất là tuổi trẻ đến để tìm hiểu về khoa học hiện đại. Gần đây thị trưởng Paris lại phải xắn tay thúc đẩy việc mở rộng hệ thống tầu điện ngầm ra các hướng như ông từng hứa. Trong nhiệm kỳ này của ông, Paris sẽ có thêm gần một chục ga mêtrô nữa- Những ga tầu điện ngầm thật đặc sắc của Paris. Có ga như La Bastille, Montparnasse, Les Halles, Republique, ga Lyon...có 3, 4 đường chéo nhau, gối lên nhau. Nhà ga rộng mênh mông, ước bằng cả mặt hồ Hoàn Kiếm, có 3, 4 tầng dưới mặt đất...
Tổng thống Pháp Pompidou trong nhiệm kỳ của mình cũng để lại một dấu ấn giữa Paris. Một Trung tâm mang tên ông, còn gọi là Trung tâm Beaubourg (tên của phố này). Ngôi nhà cực lớn, 6 tầng cao và 3 tầng hầm được xây dựng về hình thức như một nhà máy với những ống vận chuyển xanh, cùng với những ống đuy ra lắp gương. Đây là một trung tâm văn hóa giáo dục công cộng, mỗi ngày tiếp đón chừng 80 ngàn đến 120 ngàn lượt người. Họ đến đọc báo, xem sách, xem phim, xem triển lãm khoa học, mỹ thuật, nghe nói chuyện, làm bài, học ngoại ngữ. Vào cửa không tốn một xu, chẳng cần giấy tờ gì hết, mà tha hồ lấy báo hàng ngày, báo hàng tuần của Pháp và thế giới ra mà đọc, Có "thư viện nhân dân" cực lớn đủ loại sách, được xếp đặt khoa học, có những thủ thư tận tình, có chỗ ngồi đọc sách thoáng rộng, đủ ánh sáng, có máy sao chụp tài liệu, có hệ thống nghe và nhìn để học hơn 20 thứ tiếng khác nhau, có những trung tâm máy tính điện tử ghi mọi dữ kiện chính trị, văn hóa, khoa học...giải đáp ngay tức khắc những câu hỏi của mọi người...Trên tầng cao nhất có sân đứng ngắm Paris và xung quanh, có nơi điểm tâm, giải khát tự phục vụ và những phòng triển lãm hội họa hiện đại. Tôi gặp những bạn trẻ Việt nam, Trung quốc, Angieri...đến đây để học thêm hàng tuần, hàng tháng liền, nâng cao trình độ tiếng Pháp và trình độ chuyên ngành của mình, chẳng tốn tiền. ở đây chỉ cần có thiện ý, ham học, còn điều kiện rõ ràng là có sẵn, không tốn kém gì cả, Trung tâm mang tên tổng thống Pompidou là dẫn chứng về một cơ sở cung cấp hiểu biết, trí tuệ cho toàn xã hội. Những người phụ trách trung tâm này cho biết: chúng tôi bỏ vốn vào đây không ít, nhưng bù lại là lợi, lợi không nhỏ. Vì sức mạnh của một dân tộc là kiến thức, quảng đại quần chúng thừa hướng một cách rộng rãi, kịp thời.
Còn tổng thống Mitterand? Nhiệm kỳ của đương kim tổng thống sẽ được để lại những dấu ấn lâu bền ở một số công trình đồ sộ- Nhân dịp kỷ niệm 200 năm ngay cách mạng Pháp 1789-1989 đã hoàn thành Kim tự tháp lớn bằng kính đặt ở sân trong của lâu đài Louvres, đã phục hồi toàn bộ cung điện Louvres sau khi tổng thống quyết định di chuyển Bộ Tài chính làm việc tại đây ra bờ sông Seine, đã xây dựng cung opera mới, nhà hát lớn của thủ đô, ngay trên nền nhà ngục Bastille cũ đã bị san bằng hồi ấy: một opera phủ kính, đặc sắc và độ sộ vào bậc nhất châu âu hiện nay- Đã hoàn thành một loạt công trình lớn bên bờ sông Seine, nổi nhất là trụ sở Bộ Tài chính mới, có sân máy bay lên thẳng, có bến, xuống tầu trên sông Seine, có cung thể thao tầm cỡ quốc tế ở cạnh.
phía đông, trên sông Marne, một công trình kỹ vĩ mang tên Euro-Disneyland đang được khẩn trương xây dựng trên một khu vực rộng hơn một ngàn héc-ta. Đây là một trung tâm giải trí cho thiếu niên, và cả cho thanh niên và người lớn tuổi. Một phác họa kiểu châu Âu của Disneyland ở châu Mỹ, để thế hệ trẻ tha hồ thưởng thức những bay bổng của tưởng tượng, sống trong những thần thoại và truyền thuyết: từ thế giới cuả Bạch tuyết và bảy chàng lùn, đến vô vàn chuyện thú vị về con chuột của Walt Disney, qua những câu chuyện hấp dẫn của dân gian Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ, Tây Ban Nha, Mỹ La Tinh...và tập trung vào văn học dân gian Pháp, một nền văn học mang nhiều tính nhân đạo sâu sắc...
Có nhiều người sẽ mắng mỏ tôi ăn phải bả của chủ nghĩa tư bản và đưa nó lên tận mây xanh! Không, tôi đã nói chuyện với khá nhiều nhà kinh tế và sử học Pháp, với những anh em Việt kiều sống hàng hai mươi, ba mươi năm ở Paris và trực tiếp quan sát bằng tai, bằng mắt mình cuộc sống các mặt. Phải khẳng định rõ rệt rằng cuộc sống của nhân dân, của lao động, viên chức đã có thay đổi lớn trong từng thời gian một- Sau chiến tranh thế giới thứ hai, cuộc sống rất gay gắt- phải mua hàng bằng tem phiếu- Thiếu điện, thiếu than sưởi mùa rét. Thiếu nhà vệ sinh, điện nước, thiếu thang máy...Sản xuất được khôi phục và phát triển là đời sống được cải thiện. Hiện nay Pháp là nước số tỷ lệ điện nguyên tử trong lưới điện quốc gia cao nhất châu Âu, điện cho sản xuất và tiêu dùng không thiếu Xưa kia điện thoại vài trăm người mới có một máy, nay cứ 1, 4 người một bộ máy- Hàng hóa rất nhiều vẻ. Bánh mì bán thừa thãi có đến 20 loại, tha hồ chọn: bánh tròn, bánh dẹt, bánh có tỷ lệ cám, bánh có trộn bột ngô, và trộn kê, bánh có đường, có mứt...Sữa bò cũng có hàng chục loại, với các chai đựng khác nhau...Đó trước hết là do việc tìm hiểu thị hiếu, nhu cầu của nhà sản xuất nhằm phục vụ khách hàng tốt nhất. Không phải từ lòng tốt và thiện tâm của các nhà tư bản, mà từ cuộc chạy theo lợi nhuận phải chăng, chạy theo lợi ích của các công ty, các nhà sản xuất, xã hội chấp nhận điều đó một cách sòng phẳng. Thứ hai là những tiến bộ của khoa học và kỹ thuật, những sáng chế và phát minh được ứng dụng sớm nhất vào sản xuất, đưa năng xuất xã hội ngày càng lên cao. Tôi vừa xem một máy tính điện tử bỏ túi nhẹ bằng một bao thuốc lá, có thể dịch từ tiếng Pháp sang tiếng Anh và ngược lại chứa 12 nghìn từ, giá chỉ bằng một phần hai mươi lương tối thiểu của một công nhân bậc thấp! Thật là kỳ diệu! Pháp là nơi phát minh ra tấm "thẻ" gọi điện thoại điện tử-từ tính mua một lần dùng hàng chục cho đến một trăm lần mọi máy điện thọai công cộng.
Ba là-điều này rất quan trọng: tất cả những kết quả ấy đều phải trải qua những cuộc đấu tranh bền bỉ, lâu dài, có khi khá gay gắt về chính trị, kinh tế của các chính đảng dân chủ và tiến bộ, của các cộng đoàn, của hàng triệu công nhân, qua các cuộc thảo luận, tuần hành, bãi công bộ phận và toàn bộ, với những yếu sách cụ thể từ thấp lên cao. Sức lực, kinh nghiệm đấu tranh ấy đã dựa vào Hiến pháp, luật pháp, quyền công dân mà phát huy hàng ngày, được các phương tiện thông tin đại chúng, báo chí, phát thanh, truyền hình hỗ trợ mạnh mẽ và rất có hiệu quả.
Điều thứ tư là do có Liên Xô, có hệ thống xã hội chủ nghĩa, tại đó nhân dân lao động được chăm sóc nhà ở với giá thuê rất thấp, chữa bệnh cho nhân dân không mất tiền, giáo dục từ thấp lên cao không mất tiền, phụ cấp xã hội và bảo hiểm xã hội ở một số nước khá cao (cho những đối tượng trẻ em, người già, gia đình đông con, người tàn tật, nuôi cao tuổi cô đơn), thời gian lao động công nhân viên chức giảm trong năm, trong tuần lễ và trong ngày...Những thành quả của các nước xã hội chủ nghĩa ấy thúc đẩy nội dung đấu tranh của lao động các nước tư bản. Chính giai cấp tư bản buộc phải chú trọng để không thua kém các nước xã hội chủ nghĩa về mặt này trong cuộc cạnh tranh giữa hai xã hội đối lập. Điều đáng buồn cho chủ nghĩa xã hội hiện thực là không thiếu những thiện ý về cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của những người lao động và đông đảo nhân dân nhưng đã thực hiện qúa tải, nôn nóng và vội vã với những chủ trương bao cấp tràn lan theo kiểu bình quân chủ nghĩa, trong khi chưa tạo nên được năng xuất lao động cao và sản phẩm dồi dào như ở chủ nghiã tư bản. Đi cùng với thiếu dân chủ, sự đổ vỡ là không tránh khỏi.
Có người chất vấn tôi về nạn thất nghiệp, nạn mãi dâm, nạn nghiện ma túy, tệ tham nhũng trong các nước tư bản? Trong vấn đề này cần có thái độ tỉnh táo, khách quan và công bằng- Trong một thời kỳ, nhất là thời kỳ chiến tranh, khi toàn bộ sinh lực xã hội được huy động cho cuộc chiến đấu sống mái với kẻ thù xâm lược, các nước xã hội chủ nghĩa đã từng giữ gìn tương đối trong sạch xã hội mình, từ lực lượng lãnh đạo đến nhân dân. Một thời gian nhất định, đạo đức, niềm tin, tính tự giác trong xã hội nhìn chung đã cao hơn cả pháp luật. Thế nhưng ở các nước ấy, một thời gian dài đã có thái độ không sòng phẳng theo kiểu lập trường cứng nhắc và gian lận: về phía ta thì đẹp đẽ phô ra, xấu xa đậy lại, về phía "địch" thì tha hồ nói thêm, tô vẽ cho xấu thêm, bẩn thêm. Ví dụ, các giáo sư và giáo trình xã hội chủ nghĩa không công nhận là trong các nước xã hội chủ nghĩa có thất nghiệp (mà chỉ có người chưa có việc làm!), cũng như tại đó không có khủng hoảng (chỉ có giá cuả đồng tiền chưa vững), cũng như không có cạnh tranh (chỉ có thi đua), còn trộm cắp, xì-ke, hối lộ, mãi dâm...chỉ là một số hiện tượng tiêu cực tạm thời. Các nước xã hội chủ nghĩa đều có nền dân chủ một triệu lần cao hơn các nước khác! Những chân lý ấy trước đây, khi chưa có được tin tức, trao đổi, khi chưa đọc báo nước ngòai, khi chưa được xem phim, khi người thân trực tiếp thăm viếng nhau còn hiếm, thì còn có người tin. Nhưng khi hàng rào ngăn cách biến mất, những thông tin về các nước được mở rộng, chuẩn xác, thì những sự thật không sao còn che dấu được nữa.
Trên các mặt: sản xuất ra nhiều của cải, đạt năng xuất lao động cao, ứng dụng nhanh các quy trình công nghệ mới, đáp ứng những yêu cầu phong phú của người tiêu dùng...thì chưa có một nước xã hội chủ nghĩa nào đạt, thậm chí còn kém và kém rất xa. Theo Mác và Lê-nin, đó là những mặt then chốt nhất, đem lại thế mạnh và thế ưu việt của một chế độ xã hội. Liên Xô là nước đầu tiên phóng vệ tinh nhân tạo và cũng lần đầu tiên đưa con người vào vũ trụ, nhưng đến nay lại sút kém về mặt này, khi Mỹ đã đưa người lên cung trăng đang phóng những con tầu vũ trụ cực lớn và thu hồi nó về, đồng thời đang đóng vai trò quyết định trong việc thám hiểm Sao Hỏa...
Về mặt thực hiện dân chủ thì chế độ độc đảng đã tỏ ra không ổn trên thực tế- Sự độc đóan, chuyên quyền, đặc quyền, đặc lợi, thói gia trưởng, quan liêu, xa rời nhân dân đã ngang nhiên dẫm đạp lên quyền dân chủ- Tất cả các nứơc xã hội chủ nghĩa cũ đều đã sớm muộn chấp nhận đa nguyên: Liên Xô, Ba Lan, CHDC Đức (trước khi thống nhất với CHLB Đức), Tiệp Khắc, Bungari, Hungari, Rumani, cho đến Mông cổ, Anbani, Nam Tư. Chỉ còn Trung Quốc, Triều Tiên, Cu Ba và Việt Nam còn cố cưỡng lại xu thế ấy, nhưng chắc chắn không thể cưỡng được lâu, vì trái với đạo lý, trái với quy luật tất yếu, trái với đòi hỏi mạnh mẽ của nhân dân mỗi nước-Viện lý do là địch sẽ lập tức lợi dụng là thái độ hoảng hốt, thiếu tự tin và thiếu tin ở nhân dân.
Mặt khác những tình hình thiếu dân chủ, vi phạm quyền làm chủ xã hội của nhân dân đã làm sản xuất rối loạn, bất công xã hội mở rộng, nạn tham nhũng hoành hành như bệnh dịch, xã hội băng hoại về mặt đạo đức và không ổn định- Sự không ổn định hiện nay hoàn toàn không phải do lực lượng nào bên ngoài gây nên mà do tình trạng thiếu dân chủ.
Cái gốc của vấn đề là ở xã hội nào cũng có người tốt và người xấu. Trong con người nào cũng có mặt tốt và mặt xấu- Trước kia, có người hiểu rằng những người lãnh tụ cộng sản là rất tốt, là hảo hạng, thậm chí gần như là tốt đẹp một cách thánh thiện, xứng đáng là mẫu mực cho toàn xã hội. Nhân dân quý trọng đến mức tôn thờ Staline, Mao Trạch Đông chính là vì thế. Sau này được biết Staline độc đóan ra sao, hung bạo thế nào, coi thừơng tính mạng nhân dân ra sao, thì nhân dân Liên Xô và thế giới đều căm giận và khinh bỉ. Mao cũng hết thiêng do độc đóan, tùy tiện trong cách mạng văn hóa vô sản, đàn áp những người dân chủ, nhân dân lương thiện...ở Việt nam, chủ tịch Hồ Chí Mnh được nhìn nhận như một con người tận tụy, có đạo đức, có tâm huyết, hiểu biết rộng, hành động kiên quyết...Về sau nhiều người cho rằng ông là lãnh tụ, có công, nhưng cũng có ưu, có khuyết, có sai lầm nữa, đó là một điều tự nhiên. Còn những người lãnh đạo sau chủ tịch Hồ Chí Minh đã tỏ ra yếu kém tất cả các mặt: gìa ốm về thể chất, thiếu đức tính lắng nghe, thiếu am hiểu về thế giới mới, thiếu trách nhiệm, thiếu phục thiện, cố duy trì một chế độ không dân chủ về chính trị.
ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa, hay tư bản chủ nghĩa, xem ra vấn đề cốt tử là nhân dân, trước hết là người lao động. Toàn thể công dân trong xã hội có được lựa chọn những người lãnh đạo của mình và kiểm tra công việc của họ hay không? ở các nước tư bản chủ nghĩa, họ đã đấu tranh và giữ được cách làm như thế, nhân dân được hưởng thụ chính đáng những quyền lợi thiết thực. ở các nước tư bản, cuộc đấu tranh vẫn tiếp tục hàng ngày. ở Pháp gần đây các lực lựơng phái tả (vốn thuộc đảng cộng sản Pháp, đảng xã hội Pháp và một số người không đảng phái) vừa gặp nhau trên khẩu hiệu Refondations ("xây dựng lại" hay "đặt nền móng mới"), nhằm đấu tranh cho một chế độ xã hội có nhiều dân chủ, và công bằng xã hội hơn. Tôi đã dự những cuộc họp có nội dung phong phú ấy ở phòng họp quốc tế La Villette, nhằm tập hợp một lực lượng mới của cánh tả Pháp do thời cuộc đòi hỏi. Không có chế độ nào tuyệt mỹ cả - mọi xã hội đều phải vận động theo hướng hoàn thiện thêm. Dân chủ, công bằng xã hội và hạnh phúc của nhân dân luôn luôn và mãi mãi là mục đích ở phía trước, đây là một sự tiếp cận thường xuyên và không bao giờ kết thúc cả.
Vấn đề bà con Việt kiều đang sinh sống ở nước ngoài tại mọi châu lục là một vấn đề cực lớn. Cần một công trình nghiên cứu chu đáo về lịch sử, địa lý, chính trị, kinh tế, pháp luật, tập quán, tâm lý...để cùng nhau giải quyết theo những lợi ích trước mắt và lâu dài của tổ quốc Việt nam.
Việc này càng cần thiết và cấp bách vì đã bị coi nhẹ, lại bị nhiễu loạn vì những tình cảm nhất thời chi phối ở cả hai bên chiến tuyến trước kia. Những tình cảm âm tính ấy đến nay vẫn còn tồn tại. Rất cần cùng nhau bàn bạc để giải quyết thấu tình đạt lý, trên tinh thần hòa hợp và hiểu biết lẫn nhau.
Cộng sản và quốc gia, ai đúng, ai sai? Ai có công và ai có tội? Ai là chân chính, ai là không chân chính? Câu chuyện này có thể nói hoài không hết, thảo luận hoài không sao ngả ngũ và kết luận được. Bởi vì chỗ đứng khác nhau, cách nhìn nhận khác nhau, đối lập nhau.
Tôi đã gặp và hỏi chuyện khá nhiều bà con người Việt ở Pháp và ở Hoa Kỳ, ở úc và ở Thái Lan, ở Bỉ và ở Hà Lan...Có người là bộ trưởng trong chính phủ Trần Trọng Kim (tháng 3. 1945), hoặc bộ trưởng trong chính phủ Hồ Chí Minh sau cách mạng tháng Tám. Họ là những trí thức, giáo sư, sinh viên, công chức. Họ là những nhà hoạ sĩ, điêu khắc, sáng tác âm nhạc, nhà báo...Họ là những bà nội trợ, nam nữ thanh niên...Họ là những người lính O. N. S (lính thợ) sang đây từ Đại chiến thế giới thứ nhất (số này chỉ còn lại rất ít người, đã trên dưới 80 tuổi), hoặc từ Đại chiến thế giới thư hai, có những người thông ngôn cho anh em lính thợ ONS. Có người đi tu học từ hồi 1950 đến 1954, hoặc từ những năm 1960 rồi ở lại. Có những người đi vào những năm 1973, 1974 và 1975 khi chiến tranh kết thúc. Có nhiều người ra đi hồi 1977, 1978 trong những chiến dịch ra đi của người Hoa.
Có người ra đi bằng con đường đoàn tụ gia đình của Cao ủy người tỵ nạn...Cũng có một số người là thuyền nhân, trôi đạt và chờ đợi mãi ở các trại tỵ nạn ở Hồng Kông hay ở Thái Lan, Malaixia hay Philipine, Singapor hay Indonesie, hoặc ở Australia rồi mới sang được đất Pháp. Có người đã vào quốc tịch Pháp, có người xin tỵ nạn chính trị, có người còn hộ chiếu Viêt Nam, quy chế của họ rất khác nhau. Có người lấy vợ hoặc lấy chồng Pháp, sinh con, đẻ cái. Có gia đình đã trải qua hai hay ba thế hệ người gốc Việt Nam trên đất Pháp. Động cơ rời quê hương của họ - chừng 200. 000 người hay hơn nữa, cũng rất khác nhau. Bị chính quyền hồi còn chính phủ bảo hộ (Bắc kỳ và Trung kỳ) hoặc thuộc địa (Nam Kỳ) tuyển mộ một cách cưỡng bức đi lính thợ. Gia đình khá giả cử đi du học rồi bị kẹt do chiến tranh. Nhiều anh em sang Pháp chỉ nghĩ sẽ học ở đây trong 4, 5 năm là cùng, vậy mà kẹt lại đến 20, 30, 40 năm! Cũng có người đi bằng đường chính thức, đoàn tụ gia đình...Quan điểm chính trị do đó hết sức nhiều vẻ, đi từ cực đoan này sang cực đoan khác. Có những bác công nhân tự nhận là trung kiên, vững vàng nhất, "trung thành, tận tụy nhất, " luôn giữ bàn thờ tổ quốc, cờ đỏ sao vàng và ảnh lớn chủ tịch Hồ Chí Minh giữa nhà, coi đại sứ quán cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam như đại diện của tổ quốc Việt Nam và coi lời của đảng cộng sản, cũng như đại biểu của đảng, những căn dặn của cán bộ sứ quán như là lời dạy của cha mẹ mình, để một lòng tuân theo...ở cực kia là những người quyết không đội trời chung với cộng sản, coi cộng sản là nguồn gốc của mọi tai họa, khổ đau và nghèo hèn của dân tộc, họ thâm thù và khinh bỉ những người cộng sản, nhất là những người lãnh đạo của đảng và nhà nước. giữa hai cực đoan ấy là cả một gam mầu sắc rất phong phú, trong đó có cả một số người không có chính kiến chính trị rõ ràng, chỉ biết làm ăn, kinh doanh, kiếm lợi cho gia đình và riêng mình ở nơi xa quê hương này, hoặc chỉ lo đến việc xin visa về nước sao cho dễ dàng.
Không gì bằng đối thoại. Đối thoại ngay thẳng và thanh thật, không có định kiến trước. Tôi muốn lắng nghe nhiều hơn là nói. Cố hiểu cho rõ ý kiến và để biết hòan cảnh của mỗi người. Có người để cho tình cảm dẫn dắt, phát biểu rất sôi nổi. Có người nặng về lý trí, điềm tỉnh và tỉnh táo. Có người xa nước quá lâu, tất cả chỉ còn là kỷ niệm. Có người có những suy tư sâu sắc, những nghiền ngẫm kỹ lưỡng, những đắn đo chân thực. Cũng có nhiều người có biến chuyển trong nhận thức và kể lại những nhận thức đã thay đổi ra sao và vì đâu. Có những người ý kiến trái ngược nhau, chỉ cần mở đầu tranh luận là kéo dài bất tận những cuộc cãi vã. Chiến tranh và hận thù. Một bên thì lập luận: Ai theo Pháp, theo Mỹ để lôi kéo vào đất nước hàng triệu tên xâm lược, bắn phá hàng chục triệu tấn bom đạn trên cả hai miền Nam Bắc? Hàng triệu người chết, tàn phá nhà cửa, ruộng đồng, rừng quý. Mỹ Lai là thế nào? Chiến dịch tố cộng, diệt cộng tàn bạo để trụy lùng, bức haị những người yêu nước ra sao? Chiến dịch Phượng Hoàng, Bình định, Bình định cấp tốc, lùng ráp những người cộng sản, những người yêu nước ra sao? Các người là Việt gian chính cống. Không có các người, Pháp, Mỹ cũng bị bó tay. Các người đã thua trận nhục nhã, nay còn định quay lại à? Nhân dân không bao giờ quên tội ác của các người đâu. Những tiếng nói của phía bên kia vang lên: Những tiếng nói: Cộng sản là có tội, là tội phạm chính. Ai đã từ bỏ quyền lợi dân tộc để phục vụ cho nước ngoài, cho quốc tế Ba, cho Nga Xô, cho Trung cộng? Ai đã giết hại hàng chục ngàn người nông dân và công dân vô tội trong cải cách ruộng đất? Ai tàn phá sức sản xuất xã hội, làm cho xã hội hỗn loạn sa sút, đảo điên vì cải tạo nông nghiệp, cải tạo công thương nghiệp cưỡng bức, đề xướng học thuyết đấu tranh giai cấp và luận thuyết "ai thắng ai" gay gắt? Ai mù quáng theo lệnh của Staline, coi mọi người không cùng chính kiến là kẻ thù nguy hiểm, cần phải thủ tiêu để tàn sát những người quốc gia thuộc các tổ chức quốc dân đảng, Việt Nam cách mạng đồng chí hội (Việt quốc, Việt cách), Duy Dân, Phục quốc?...rồi tàn sát cả những người cộng sản, quốc tế chủ nghĩa như các nhóm Trotskit Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu...những trí thức vô sản cùng ở nhà tù Côn Đảo với những người cộng sản?...Ai đàn áp hàng trăm trí thức văn nghệ sĩ trong các vụ "chống đảng", "xét lại", "Nhân Văn-Giai phẩm. " Rồi ai đã xua đuổi hàng nửa triệu người Hoa, trong đó có cả những công nhân mỏ than, công nhân các xí nghiệp đánh cá, làm gốm, các thợ giỏi ở Chợ Lớn...Ai đã gây nên chuyện ra đi của hàng triệu người Việt, tổ chức các kế hoạch B để vơ vét cơ man nào là tiền của, vàng, đồ trang sức vào túi cá nhân, gây nên cái chết oan uổng và bị thảm của hàng chục ngàn người do tai nạn tầu thuyền, sóng gió, hải tặc? Và ai? Nếu không phải những người cầm quyền cộng sản phảỉ chịu trách nhiệm về tình hình sản xuất sa sút, đời sống nhân dân cực kỳ bi đát, nạn tham nhũng lan tràn, văn hóa suy đồi, nạn trộm cắp, đi điếm, cờ bạc tùm lum khắp cả nước?
Quả thật hai bên mà ngồi kể tội nhau, tội xưa và tội nay, tội gọi là bán nước, hại dân, tội về dùng bạo lực đối xử với nhau...thì không sao có thể giảng hòa thông cảm nổi. Và hình như bên nào cũng có cái lý của mình, có những sự thật của mình. Có người còn cho rằng chính sự lựa chọn của những người Cộng sản, đưa Việt nam vào qũy đạo của Liên Xô và Đế Tam Quốc tế đã làm cho Việt Nam trở thành mục tiêu của chiến lược kìm giữ phong trào Cộng sản của các nước Phương Tây. Đó chính là nguồn gốc sâu xa của những cuộc chiến tranh liên miên trong hơn 40 năm qua. Họ đặt ra những chữ "nếu" - "Nếu" như Đảng Cộng sản không dành được sự lãnh đạo trong Cách mạng Việt Nam..."Nếu" như các Đảng mang tính chất quốc gia dành được quyền lãnh đạo Cách mạng..."Nếu" như Đảng Cộng sản sau khi dành được độc lập cho đất nước rồi mà không mù quáng lao vào xây dựng chủ nghĩa xã hội kiểu Staline, theo kiểu kế hoạch gò bó, thủ tiêu mọi quyền tự hữu về tư liệu sản xuất, ..."nếu như?" Ôi là cái chữ "nếu!" Châm ngôn Pháp có câu:
"Với cái chữ "Nếu, " có thể nhét cả Paris vào trong một cái chai!
Cho dù Paris này đã lớn rộng vô cùng rồi.
Ai đúng? Ai sai? Cần thấy rằng nhân dân ta bị đổ máu quá nhiều. Tài sản đất nước bị phung phí. Hiện tình đất nước thật bi đát: đứng thứ 158 trong số 166 quốc gia trên thế giới! Cả một năm, người Việt Nam lao động cật lực mà chỉ nhận được đồng lương vẻn vẹn chưa bằng số tiền người dân các nước đã phát triển làm ra trong bốn ngày!
Tôi đã có lần trình bầy với bạn bè gần xa có những quan điểm đối lập: Tôi xin nghe và ghi nhận ý kiến của các bạn. Xin tạm gác lại cuộc tranh luận có thể còn kéo dài lê thê vì khó ngả ngũ. Xin nhìn thẳng vào hiện tình khủng hoảng nghiêm trọng để cứu dân, cứu nước ta- Bạn có đồng ý không? Cứu dân, cưú nước trong cơn SOS cực kỳ khẩn cấp này đã, phải không bạn? rồi khi chung sức cứu dân, cứu nước khỏi thảm họa thì chúng ta có thể hiểu nhau hơn, gần nhau hơn, độ lượng và khoan dung với nhau hơn, bạn có đồng ý không?
Tôi hiểu rằng, nén những tình cảm sâu sắc, gác lại những nhận thức đã thành định kiến đâu phải dễ! Tôi đã từng căm thù sôi sục. Mẹ tôi, người mà tôi yêu quý nhất trên đời, nhân ái với hàng xóm và thương yêu những người chiến sĩ như con mình đã từng là nạn nhân của cuộc chiến tranh này. Có lần trong kháng chiến chống Pháp, tôi tạt về thăm mẹ sau hai năm đằng đẳng vắng nhà. Mẹ tôi ra đồng hái những nắm lá khúc về gĩa, làm bánh, hấp cho tôi ăn. Vài ngày sau đó, vào Tết Trung Thu năm 1948, trong trận càn của lính Pháp qua làng, một tên chỉ điểm đã dẫn lính lê dương xộc vào nhà tôi, bắn vào ngực mẹ tôi một tràng tiểu liên. Bà chết ngay trên sân nhà bếp. Từ đó tôi nuôi một ý chí căm thù khôn nguôi. Ra trận, trên chiến trường Trung Bộ, chiến trường Bắc Bộ hay Tây Nguyên, sau đầu ruồi của khẩu súng là tên địch đã giết mẹ tôi. Tôi có những người cháu ruột, con của các chị tôi tử trận ở chiến trường Huế, Quảng Ngãi và Tây Ninh. Và cháu Ngọc mới bốn tuổi, cháu ruột của vợ tôi bị bom Mỹ làm cho tan xác, chết chung cùng với các bạn của cháu ở làng Hưng Dũng (Nghệ An). Khi Mỹ thua trắng tay, tôi vui mừng vì những mối thù của riêng mình đã được trả sòng phẳng...
Và nay chính tôi lại đề xuất ý kiến với các bạn xa gần là xin nén tình cảm riêng lại đã. Quả là một yêu cầu không đơn giản. Tháng 3. 1991 tôi gặp một thuyền nhân quê ở Rạch Giá sang Pháp từ năm 1981. Vợ anh bị hải tặc Thái Lan hiếp, thành bệnh rồi chết. Anh mất hai con trên biển, một con trai 13 tuổi và một con gái lên hai. Anh sinh bệnh tâm thần sau khi đáp lên một hòn đảo ở Malaixia. Nay khỏi bệnh, anh làm công cho một tiệm ăn người Việt. Anh vẫn sống một mình với niềm oán hận cộng sản không đội trời chung. Với anh, tôi tôn trọng nỗi đau khổ của người cha, người chồng. Tôi thông cảm thảm cảnh của anh, khó có thể yêu cầu anh để sang một bên sự oán thù đã trở thành máu thịt, ít ra là lúc này.
Cộng đồng người Việt ở hải ngoại thật muôn vẻ. Chớ đơn giản và có định kiến. Tôi từng nghe ở Hà Nội các quan chức nhận định: họ đã bỏ Tổ quốc ra đi là táng tận lương tâm, là vong bản, mất gốc! Đó là những tên chống cộng, chống chế độ thâm căn cố để, quay lưng lại dân tộc, những kẻ ích kỷ, trốn chạy cho bản thân mình, tìm cho sung sướng, đi kiếm bơ sữa, mặc cho đồng bào nghèo khổ ở trong nước- Đối với họ ta không nên tiếc làm gì. Cứ coi như ta không có họ! Đây là cục thịt thừa trên cơ thể dân tộc, cắt bỏ đi thì cơ thể càng khỏe. Đó là cách nhìn độc đoán, mang tính áp đặt, suy diễn đơn giản, gộp chúng thành một gói cả một cộng đồng rất đa dạng. Và cách nhìn ấy vô lý, bất công, và nhất là có hại.
Quả thật ở Hoa Kỳ và úc có những lực lượng cực đoan, chống cộng một cách điên cuồng. . Họ lập binh đoàn, lập mặt trận với đủ thứ tên:
...Họ tuyển mộ những quân nhân cũ và thanh niên mới, đưa vào biên chế, huấn luyện quân sự. Họ làm lễ tuyên thệ, xuất phát. Họ ra thông báo về tình hình chiến sự, về những chiến khu trong quốc nội...Họ mở những đêm dạ hội, quyên góp, âm nhạc và diễn kịch, nhẩy múa lấy tiền để mua sắm vũ khí và nuôi quân...Tôi đã hỏi chuyện khá lâu Võ Đại Tôn, người chỉ huy lực lượng vũ trang phục quốc đã bị bắt sống trên đất Lào, gần biên giới Việt nam năm 1981. Võ Đại Tôn thú nhận đã bị lừa-Khi ra đi, Võ Đại Tôn và đồng sự những tưởng là ở miền Nam Việt nam đã có sẵn chiến khu, sẵn "vùng giải phóng", sẵn "có sở nhân dân chống cộng". Khi về đến gần thì chẳng thấy có gì hết trọi! Không ai liên lạc, đón rước, thông báo cho tình hình! Cả chuyện trở về sau này của đảng trưởng Hoàng Cơ Minh và tùy tùng cũng chỉ là những nhóm thiêu thân bị đánh chận, bị giết, bị bắt trước khi nhập được vào đất Việt Nam-Vì nhân dân không còn muốn chiến tranh. Lực lượng họ sao địch được nổi quân đội và an ninh tại chỗ? Tôi gặp một sĩ quan quân đội cấp cao Sài Gòn cũ ở Hoa kỳ, cuối năm 1988, ông ta nói:" Họ bày đặt đủ thứ, nhưng thiệt ra không có mấy thực lực. Tôi không bao giờ tin có chiến khu, có mật khu nào ở quốc nội cả. Họ tổ chức dữ dằn vậy chỉ để là quyên tiền, lập quỹ, và từ đó vô túi cá nhân cũng bộn đó, rồi lấy tiền đó kinh doanh, kiếm lãi để chia chác, nuôi nhau nữa...Làm vậy mấy ông lớn mới có lý do để giữ nguyên những chức tước cũ: ông quận trưởng, ngài bộ trưởng, ông đại tá, ông dân biểu, cho tới ngài thủ tướng, ngài tổng thống. Không còn quyền nhưng còn cái tiếng, cái xưng hô, để tự mình an ủi mình, an ủi lẫn nhau cho đỡ tủi thân mà. Cái thực chất là ở chỗ đó, ông ạ...". Gần đây tổ chức Mật trận quốc gia thống nhất giải phóng Việt nam lâm vào khủng hoảng lớn, những nhân vật :Dp bu còn bị tòa án Mỹ truy tố vì tội lậu thuế, trốn thuế và lấy tiền của Mặt trận chuyển vào trương mục cá nhân...Xu thế cực đoan dùng bạo lực đã xẹp dần, xẹp rất nhanh ở các bang Hoa Kỳ và ở úc, trong khi xu thế hòa hợp lan ra khá mạnh. Qua tiếp xúc với một số chính khách và nhà báo Hoa Kỳ, tôi nhận rõ một điều là các chính quyền Mỹ từ Carter, Ford, đến Rigan và Bush đều thực hiện một chính sách nhất quán: đưa vấn đề Việt Nam lùi nhanh vào quá khứ, xóa sạch hội chủng Việt Nam ở trong xã hội Mỹ, đặt quan hệ Mỹ- Việt trên cơ sở hoàn toàn mới. Các chính quyền ấy mong Viêt nam đổi mới, mau :Dng giải quyết vấn đề Campuchia, thực hiện dân chủ và cởi mở cả về kinh tế và chính trị để ổn định tình hình- Gây bạo loạn và lật đổ không phải là chủ trương của Mỹ, của chính quyền Hoa Kỳ, cũng không phải là hành động của CIA hiện nay. Đây là một sự thật rất dễ nhận ra. Nhưng những người phụ trách cơ quan phản gián và an ninh ở Việt Nam vẫn cứ cố tình nhìn đời bằng con mắt lệch lạc về nghề nghiệp, nhìn đâu cũng thấy kẻ thù và âm mưu bạo loạn. Đến mức cán bộ chính trị, cán bộ tuyên huấn, cán bô ngoại giao am hiểu tình hình cũng không dám nói khác với cơ quan an ninh, luôn hô hào cảnh giác trên báo chí và đài phát thanh: "Việt nam đang là mục tiêu chính để gây bạo loạn và lật đổ của để quốc Mỹ, của Vatican, của tất cả các lực lựơng phản động trên toàn thế giới, chúng đang tập họp nhau lại để gây loạn ở Việt nam!" Những người hô hoán lên như thế cũng không tin đó là sự thật. Họ cần làm việc ấy với hai mục đích đã được tính toán: hạn chế trào lưu đòi đổi mới, đòi quyền tự do dân chủ ở trong nước và bắt buộc nhân dân phải cố hiểu rằng đế quốc và phản động là nguyên nhân chính gây ra mọi khó khăn và bế tắc trong xã hội hiện nay...
Tôi quen với một gia đình trước ở thành phố Hồ Chí Minh, đã mạo hiểm đi cả nhà, trên một chiếc thuyền gỗ ọp ẹp năm 1982. vợ chồng đều là giáo viên trung học. Con gái đầu, cháu Thủy vừa 30 tuổi, sau 1975 còn tham gia các cuộc diệt trừ gian thương, cải tạo tư sản ở miền Nam. Cháu đi kiểm kê tài sản còn được bằng khen. Cháu kể lại những công việc "cách mạng" hồi đó một cách tự nhiên, vui vẻ: "Các chú cách mạng, có chú thiệt tốt, chăm lo cho bọn cháu thiệt chu đáo, có chú rất quan cách, quan liêu. Và có cả mấy ông bự chỉ lo uống rựơu say và tham nhũng..." Ba má cháu không bị cách mạng, không bị các ông "30. 4" quấy nhiễu chi hết, vậy vì sao lại bỏ đi? Bố cháu kể: "Bọn tôi không cay đắng chi hết, cũng không căm thù chi hết! Chế độ Sài Gòn cũ coi khinh người trí thức. Bọn tôi hy vong cách mạng sẽ khác. Vậy mà cách mạng coi bộ còn tệ hơn! Bọn tui là giáo viên nên hiểu rất rõ. Học sinh do vậy hết chăm học. t thanh niên cầm cuốn sách trong tay. Thư viện vắng hoe à, vì không có sách báo, còn tiệm nước thì đầy nhóc thanh niên. Tui lo cho hai cháu trai, lo cho tương lai của chúng nó. Tính toán kỹ rồi liều ra đi chỉ vì vậy thôi...Ha
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #14  
Old 05-20-2004, 05:45 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

VIII Những tấm lòng



Tôi đang sống những ngày căng thẳng và chật vật. Mọi cuộc dấn thân đều phải thấu hiểu trước và chủ động chấp nhận. Những nỗi đau và bất hạnh của nhân dân thối thúc tôi có thể làm được gì thì phải làm hết sức mình. Những thảm họa mang tầm vóc dân tộc trẻ em gầy ốm, tỷ lệ chết khi sinh của các em quá cao (57/1000 cao gấp sáu lần ở Pháp và Mỹ), nạn thất học lan tràn, hàng 300, 000 học sinh bỏ học, hơn 70, 000 giáo viên bỏ dậy, hệ thống bệnh viện xuống cấp, người bệnh phải chung nhau hai người một giường, thiếu thuốc men. Nạn tham nhũng, ăn hối lộ của mọi cửa đè nặng lên cuộc sống người dân lương thiện. Tất cả những điều ấy không cho phép tôi do dự, tính toán cho riêng mình. Tôi tin là mình đã làm theo lẽ phải và lương tâm.
Và tôi đã được những sự giúp đỡ tận tình -Những tấm lòng vàng. Xa gia đình bè bạn, đây là sự an ủi, cao hơn nữa là sức động viên, khuyến khích, cổ vũ tôi. Tôi có thêm biết bao bạn bè trên dất Pháp mới mẻ và xa lạ này. Anh chị em trí thức, làm báo, giáo sư, thầy thuốc...những người Việt yêu nước chân thành tìm hiểu việc tôi làm và giúp đỡ tôi rất chân tình. Những cuộc trao đổi ý kiến cởi mở, ngay thật về tình hình đất nước. Anh chị em ở Lyon, Marseille, Tonlouse, Lille...Paris đón tôi về nói chuyện và trao đổi ý kiến. Anh em theo dõi tình hình Việt nam rất chặt chẽ. Có gia đình đặt mua tất cả các loại báo hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng từ Việt nam, có những tủ sách cực kỳ hiểm, ở Việt Nam cũng khó có thể có, gồm đủ loại sách báo từ đầu thế kỷ này. Tủ sách của giáo sư Hoàng Xuân Hãn, và của nhà nghiên cưứ Tạ Trọng Hiệp, gồm những sách cổ văn, Hán văn và chữ Việt là những kho tàng vô gía. Các vị sẵn sàng hiến những sách quý nhất cho đất nước. " nhưng không phải bây giờ, vì sẽ không phát huy được tác dụng mong muốn do tình trạng không ổn định, còn hỗn loạn qúa: ".
Vợ chồng chị Ngọc Bình ngỏ ý đón tôi về nhà anh chị. Chị quê ở Bạc Liêu, sang đây đã hơn 30 năm, tốt nghiệp đại học rồi dạy học. Anh Jacques chồng chị, giáo sư ngôn ngữ ở Đại học Sorbonne 7. Năm 1989, hai anh chị về thăm quê hương Việt Nam, do đó hiểu khá rõ tình hình, thông cảm sâu sắc với tình cảnh gay gắt của nhân dân ta và rất tâm đắc với sự nghiệp đổi mới, nhất là với nhu cầu xây dựng một cuộc sống dân chủ về chính trị. Chị bảo tôi: " Tôi hiểu việc anh làm là cần thiết, là tâm huyết với nước mình. Anh hãy coi phòng này là phòng của anh, nhà này là nhà của anh. Anh cứ sử dụng tùy ý để làm việc ". Chị cho tôi ở một phòng, chị thường thay vỏ chăn, vỏ gối cho tôi- Anh đem cho tôi đài thu thanh để nghe tin tức và khi xem ti vi có tin thế giới lại gọi tôi sang xem. Anh rất giỏi nhiều ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha, thường dự các cuộc họp quốc tế về ngôn ngữ học ở nước ngoài.
Thường trước khi đi làm, chị để ở trên bàn mảnh giấy nhỏ cho tôi : trong tủ lạnh có chả giò (nem Sài Gòn), có thịt gà, anh dùng đi nhé, hay : tôi có làm sẵn bánh cuốn, có thịt cưừ, anh ăn ngon nhé!...Đĩa trái cây luôn luôn đầy, gồm : cam, nho, táo, chuối...vì chị biết tôi rất thích ăn hoa quả. Chị luôn hỏi thăm sức khỏe, công việc, những tin tức gia đình, bạn bè tôi, động viên và an ủi tôi khi xa nhà. Cháu ngoại chị, bé Alise, 6 tuổi, là" bạn nhỏ " thân thiết của tôi. Nhà cháu ở gần nên mẹ cháu hay đưa cháu sang bà ngoại nhờ trông giúp. Cháu rất ngoan, hay hát, hay cười, hiếu động. Tôi cùng cháu chơi ú tim, đi trốn, đi tìm ngoài vườn, bế cháu hái mận, cùng cháu hát những bài dân ca Pháp. Những lúc ấy tôi càng nhớ thêm hai cháu ngoại của tôi -bé Hoài Anh năm tuổi và bé Quỳnh Anh tám tuổi. Tôi được sống những ngày tháng ấm áp trong một gia đình có nền văn hóa hòa hợp Việt-Pháp. Hai anh chị thường trao đổi ý kiến với tôi về tình hình Pháp, tình hình Việt Nam. Mới đây hai anh chị sinh hoạt trong một lực lượng mới của cánh tả mang tên " refondation ", đặt nền móng lại cho các lực lượng chung của phái tả. Hai anh chị cũng là những nhà giáo có quan điểm sâu sắc về giáo dục. Anh chị đã áp dụng để dạy hai con gái, hai con rể và hai cháu ngoại. Đó là cách thức giáo dục tự do, khơi gợi nhân cách, hướng dẫn cho các cháu tự suy nghĩ, tự kết luận, tự dạy mình, hoàn thiện mình, tạo nên phong cách sống độc lập và tự chủ rất thoải mái, êm ấm mà sâu sắc, vừa rất trí tuệ lại vừa rất tình cảm. Cả nhà sống chân thật với nhau, không mảy may mầu mè, khách sáo, giả tạo, luôn ngay thẳng và tôn trọng sở thích của nhau, tin yêu nhau rất mực. Những lần bé Alise về nhà, cháu cứ đòi vào phòng tôi để chào " tông tông Tín ", thơm tôi rồi mới chịu về. Chị Ngọc có quan điểm dân chủ rất mới mẻ, chính chị yêu cầu là trong đổi mới, mọi người không nên ở trong cấp ủy quá hai nhiệm kỳ, và tập trung làm việc thật tốt trong một thời gian nhất định, rồi sau đó nhường chỗ cho người khác. Có làm như vậy lãnh đạo mới được bồi bổ thường xuyên bởi các lực lượng trẻ kế tiếp và không làm những người bị thay thế có mặc cảm là kém cỏi. Theo đúng tinh thần: tre gìa măng mọc.
Tôi thường đưa chị xem những lá thư tôi nhận được từ Hà Nội. Đó là thư của vợ tôi, con gái, con rể tôi và cả của cháu Quỳnh Anh mới 8 tuổi, cũng như các thư của các chị tôi, ba chị ở Hà Nội, một chị ở Hải Phòng và một chị ở thành phố Hồ Chí Minh. Vợ tôi rất sửng sốt khi nghe tin tôi ở lại và vô cùng lo lắng khi nghe những buổi phát thanh đầu tiên của đài BBC truyền đi, những câu trả lời phỏng vấn của tôi. Cuối một lá thư vợ tôi kể có lần đang đạp xe trên đường phố, có người đạp theo để hỏi thăm, tuy chưa hề quen biết và nhờ chuyển lời hỏi thăm tôi, khuyến khích cả gia đình chịu đựng những khó khăn do việc tôi làm mà ông ấy cho là : can đảm, biết hy sinh cho đồng bào. Qua thư ấy tôi được biết có một số giáo viên quen biết gia đình hứa hẹn rằng : " Chị chớ quá lo, sau này anh ấy về, dù có khó khăn ra sao, bọn tôi sẽ góp phần cho cuộc sống của gia đình...". Tôi xây dưng gia đình tháng 9-1956. Vợ tôi quê ở thành phố Vinh. Hồi ấy tôi đóng quân tại đó. Tôi luôn đi xa, vợ tôi lo việc nuôi và dạy dỗ 2 con nên người. Vợ tôi là giáo viên, vừa nghỉ hưu năm 1990. Con gái tôi, Bùi Bạch Liên, 34 tuổi, là bác sĩ gây mê hồi sức ở bệnh viện Mắt trung ương. Được thư con gái, tôi ngồi tần ngân suốt cả buổi chiều. Cháu viết : " dù sao con cũng tin ở bố, ở sự sáng suốt và lòng chân thành của bố đối với đất nước. Con chỉ mong bố giữ sức khỏe thật tốt, đó là điều cần thiết nhất. Có những lúc thương bố quá, con chỉ mong được sang ở đó với bố, dù phải đi làm vất vả như rửa bát cũng được, miễn là được chăm sóc bố hàng ngày. Bố mà có làm sao thì đời chúng con chẳng còn ý nghĩa gì nữa..."
Tôi quý Bạch Liên từ nhỏ. Khi đi học, cháu rất chăm và được bạn bè rất qúi mến. Cháu hiền từ, chân thật. ở bệnh viện nơi cháu làm việc, ai cũng quý cháu, từ viện trưởng là giáo sư Nguyễn Trọng Nhân, đến các chị y tá, lao công. Tính cháu ngay thẳng, có lần cháu kể : " Con rất buồn bố ạ. Thuốc men ở bệnh viện đã thiếu mà có người nỡ đổi thuốc và lấy cắp thuốc của công, cũng là thuốc của bệnh nhân. ". Con rể tôi cũng lo lắng cho tôi. Cháu đã qua môt cuộc thi tuyển để đi học ở trường Đại học Harvard (Hoa Kỳ) về quản lý kinh tế và đã đỗ. Thế nhưng cơ quan cháu là Uỷ ban nhà nước hợp tác và đầu tư với nước ngoài không cho cháu đi nữa, khi có việc tôi làm. Đó là chuyện rất vô lý, vì lẽ ra ai làm người nấy chịu, không thể quy kết bừa là có liên quan...Cháu rất bình tĩnh và viết thư cho tôi: "...con hiểu việc ông làm và tin rằng thời gian sẽ ủng hộ ông. Con không được đi học nữa, nhưng con khóng ân hận và luyến tiếc một chút gì, con đã lường hết mọi chuyện cho đến mức xấu nhất..." Cháu Quỳnh Anh đã viết cho tôi đến bốn lá thư! Hai ông cháu như là bạn. Có những chuyên riêng của trẻ thơ cháu thích nhỏ to cùng tôi. Trước kia, tôi thường dắt cháu đi vườn hoa, đi mua sách thiếu nhi. Có khi hai ông cháu đi ăn chè, ăn kem. Một bức thư cháu viết : " ông ơi, con nguyền rủa trái tim bệnh tật nó làm cho ông đau..." Cháu xưng với tôi là " con ", rất năng vào bệnh viện thăm tôi hỏi tôi bị cơn đau tim nặng cách đây hai năm. Có bức thư cháu trêu tôi: " ông Thất Tín ơi, con vẫn tin ông Thành Tín và nhớ ông Thành Tín làm. Con đã biết đi xe đạp rồi, nhưng phải có mẹ con đi kèm ở bên cơ. Con đã bỏ vào ống tiết kiệm để dành tiền, con chờ ông về để đi mua sách, mua chuyện với ông..." Tôi bật cười khi đọc thư cháu- vì ông Mai Chí Thọ vừa chơi chữ, chụp mũ tôi là Thất Tín, còn gán cho tôi cái tội phản bội! Thật là quan trọng, vì từ mồm một ông Uỷ viên Bô Chính trị đương chức, lại là bộ trưởng Bộ Nội Vụ. Chắc trong gia đình nói chuyện với nhau về chuyện này, Quỳnh Anh nghe được, nhớ rồi viết, để vừa là trêu, vừa là an ủi tôi. Cháu tính rất hóm hỉnh. Thật đáng thương, từ bé, cháu đã phải sớm biết những chuyện vô lý, kỳ quặc như thế và cũng bắt đầu phải tìm hiểu những điều oan trái như vậy rồi...Tôi nhơ đến con, cháu, con dâu, con rể của các nhà văn Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, cũng đều bị phân biệt đối xử khinh thi, xỉ vả và dè bỉu hàng chục năm ròng. Chỉ vì những người có tâm huyết và tài năng ấy đã nói lên qúa sớm những sự thật.
Có một lá thư, trên phong bì chữ con gái tôi để gọn mấy chữ :
người gửi Quỳnh Anh - Thư đến quán ăn Việt Nam 80 Rue Monge - Paris - Cháu đề như vậy để cho tôi biết là thư gia đình. Thế mà chỉ một tuần sau, ở Hà Nội, cơ quan an ninh quốc gia đã mở một cuộc điều tra xem Quỳnh Anh là ai, làm gì, ở đâu, có phải là người trong nhóm Bùi Tín hay không! Chắc hẳn có người nào đó đã nhìn thấy phong bì và báo cho sử quán Việt Nam ở Pháp. Tôi đã viết thư cho đại sứ Phạm Bình, nguyên là bạn tôi, từng cùng nhau dự các cuộc họp quốc tế ở Indonesia, ở Malaysia, ở úc, nói rõ: " anh nên xem mấy anh phụ trách an ninh của sứ quán làm việc như vậy đó. Có gì xin cứ hỏi tôi. Tôi sẽ trả lời đầy đủ, không dấu diếm điều gì. Vì tôi làm việc này hoàn toàn từ đáy lòng tôi, từ suy nghĩ của riêng tôi, không liên quan đến bất cứ ai, không có phe hay nhóm gì cả! Quỳnh Anh là cháu ngoại tôi, mới lên 8, học lớp 3, trường phổ thông Trưng Vương Hà Nội".
Cũng như hồi cuối năm 1990, đã xảy ra một chuyện rất buồn cười. Số là vào dịp cuối năm, nhân tuần nghỉ từ ngày Thiên Chúa giáng sinh 25. 12 đến ngay Tết dương lịch I. I., các anh em làm báo tiếng Việt ở Tây Âu, trong các hội người Việt thường tụ tập về Paris để trao đổi về tình hình đất nước và nghiệp vụ làm báo. Tháng 12. 1990 vừa qua có hơn 20 anh em từ Đức, ý, Anh, Thụy sĩ, Bỉ, Hà Lan...sang Paris. Anh em mời tôi tham dự vì coi tôi là đồng nghiệp, vào tối 29. 12 ở quán Monge. Một chuyện ngẫu nhiên ngày ấy cũng là ngày sinh nhật của tôi. Có mấy anh biết nên có mấy lời chúc mừng ngắn. Chuyện chỉ có vậy. ấy thế mà có người quan trọng ở sứ quán điện báo cáo về Hà Nội. Và thế là có thông báo của Ban Bí thư cho các chi bộ rằng : Bùi Tín đang tập họp bọn phản động ở Tây Âu về Paris để bàn mưu lật đổ! Tại cuộc họp báo, Bùi Tín có đọc diễn văn và họ còn hô khẩu hiệu phản cách mạng! Tôi đã viết thư về cho ông Dương Thống, người tôi từng quen biết, nay phụ trách Tổng cục An ninh, để nói rõ rằng : " Các anh cần biết bộ hạ của các anh làm viêc như vậy đó! Đầy những chuyện suy diễn, tưởng tượng, bịa đặt...Các anh đã nhận định oan ức bao nhiêu người, làm cho họ bị đối xử bất công, mà nay vẫn chưa tỉnh ngộ và rút kinh nghiệm để sửa chữa. Tôi làm mọi việc ở đây công khai, đàng hoàng, đánh bài ngửa, không có gì khuất tất, ám muội, phải che dấu cả".
Cũng như trước Tết dương lịch, có vợ chồng anh Việt kiều ở Lille về thăm gia đình ở Hà Nội. Tôi nhờ hai anh chị mang về cho hai cháu ngoại hai con búp bê nhỏ. Thế mà cán bộ sứ quán ở Paris chạy đi hỏi hàng chục nơi: " Bùi Tín gửi qùa cho cháu là qua tay ai? có biết không? Sứ quán rất cần tin này! " Tôi gọi điện thoại đến sứ quán nói rõ tên người tôi gửi và nói thêm: " Đây là sự giúp đỡ hoàn toàn về tinh cảm, không mảy may có nghĩa là hai anh chị ủng hộ hay tán thành việc tôi làm, để rồi sứ quán sẽ gây khó dễ cho họ theo kiểu cách họ vẫn thường làm để trừng trị, trả thù vặt một cách vô lý ". Tôi rất xúc động nhận được ảnh chụp hai cháu ôm hai con búp bê qùa của ông ngoại. Mẹ cháu còn kể một tối thứ bảy, hai cháu về nhà tôi như thường lệ, từ dưới cửa hai đứa đã gọi to : " Ông ơi, ông ngoại ơi, ông đã về chưa?..." Và tối ấy lục tủ quần áo tôi ra, dành nhau mấy cái ao để ôm và đắp khi đi ngủ, " để chúng con đỡ nhớ ông! ". Bé Hoài Anh lên 5 rất sáng dạ và hiếu động, khi nhìn thấy ảnh tôi ở trên báo, còn nói to với bà ngoại : " Bà ơi, con nhìn thấy ảnh ông, mà con còn ngửi thấy mùi ông nữa! " Thật ngây thơ và thương cảm qúa!.
Con gái tôi sống rất tế nhị và tình cảm. Khi con trai tôi, Bùi Xuân Vinh, đi Hồng Kông với vợ chưa cưới, Bạch Liên buồn vì nhớ em vô cùng. Cháu gầy hẳn đi và sưu tầm tất cả những gì của em để cất giữ làm kỷ niệm. Nay cháu càng buồn : " Gia đình ta thế là chia thành 3, 4 nơi! Biết bao giờ mới găp lại nhau cho đủ! ". Hai chị em quấn quít nhau từ bé. Khi cháu Vinh mới đẻ, gia đình còn ở phố Bùi Bằng Đoàn trong thị xã Hà Đông (thật là ngẫu nhiên chúng tôi được ở phố mang tên cha tôi. Nhà do sở Giáo dục tỉnh Hà Tây phân phối cho vợ tôi là giáo viên) cả phố đều biết cháu vì tiếng khóc như còi. Khi di vườn trẻ, cháu được cổ giáo Tám qúy và gọi là : thằng Bống cuả cô. Cháu năng động, yêu thể thao và âm nhạc. Cháu thích chơi đàn phong cầm, ghi-ta, có đôi tai sành âm nhạc. Đá bóng rất hăng, chơi quần vợt cũng không kém. Cháu đã có bằng kỹ sư cơ khí trường Đại học Bách khoa, tự học tiếng Pháp rồi tiếng Anh. Cháu nói tiếng Anh cũng tốt. Vợ chưa cưới của cháu là Hoàng Lệ Hằng học đến năm cuối trường Đại học sư phạm ngoại ngữ Hà Nội, khóa tiếng Anh-Hai cháu xuống Hải phòng, rồi là "thuyền nhân" trên một chiếc tàu cũ. Trải qua 26 ngày đêm căng thẳng, sóng gió mới đến Hồng kông vào tháng 3. 1989. trong trại kín, đến tháng 7. 1990 hai cháu mới được ra phố tự do, hiện chờ ngày đi Hoa kỳ, do cô em tôi ở California bảo lãnh. Tôi nhớ con đến day dứt-đứa con trai duy nhất của tôi, cháu đích tôn duy nhất của cha tôi - vừa tự hào và yên lòng, vì cháu có nét riêng. Chan hòa với bạn bè, cháu được bạn tin cậy và quý mến. Tôi cũng mừng vì cháu có tinh thần tự lập, ý chí quyết đoán làm chủ đời mình, khát vọng được học thêm để thành tài. Cháu chỉ kịp xin giấy kết hôn với người yêu ở quận Đống đa (Hà Nội) chiều hôm trước, sáng hôm sau cùng nhau xuống Hải Phòng để lên đường. Vợ cháu thuộc một gia đình trí thức, dản dị, thanh bạch, rất hợp với nếp nhà tôi, hai cháu lại hợp nhau. Tháng 4 vừa rồi, cháu gửi thư cho tôi có đoạn:
". . Con luôn tin rằng đất nước rồi sẽ phải thay đổi. Nhân dân, nhất là thanh niên không thể chịu được mãi cảnh thiếu thốn, nhất là thiếu quyền dân chủ. Con hiểu tình hình đất nước ta là cực kỳ vô lý. Nhìn vào lịch sử, không bao giờ những chế độ cầm quyền không được lòng dân lại được lâu bền. Người dân chưa dám nói ra vì còn sợ đủ thứ, nhưng nhất định tình hình sẽ thay đổi-Con tin rằng gia đình ta sẽ đoàn tụ trong nỗi vui mừng của cả nước được tự do. Chúng con chỉ mong bố giữ thật tốt sức khỏe. Bố chớ lo gì cho chúng con. Chúng con đang chờ để sang với cô chú, nhưng có việc làm, nên cũng không sốt ruột như dạo trước..." Các chị tôi rất lo lắng cho tôi. Vì tôi tuy là con thứ 8 trong gia đình 10 người con, nhưng là con trai đầu. Hai chị lớn tôi mất từ hai, ba năm trước. Cả năm chị hiện còn đều thỉnh thoảng viết thư cho tôi và hàng ngày tụng kinh, cầu nguyện cho tôi. Gia đình lớn của tôi sống rất tình cảm, gắn bó - Hằng năm, ngày kỵ giỗ chính đều có mặt đông đủ tất cả các anh chị, em. Con cháu ngày càng đông. Nếp sống của gia đình thuộc dòng họ lớn là thế. Các chị tôi với hai anh em trai tôi (tôi và chú em Bùi Nghĩa, giáo sư y khoa) sống thuận hòa. Chúng tôi thương yêu, dùm bọc nhau, từ hồi tôi còn rất nhỏ, cho đến khi lớn, trưởng thành và cho đến tận ngày nay không hề gợn lên một điều gì bất thường xung khắc cả. Giáo dục trong một gia đình nề nếp mang tác dụng bền lâu. Sống ngay thật, không luồn cúi, không buông lỏng chạy theo tiền tài, danh vọng để rồi tham nhũng, hư hỏng là một định hướng sống đã thành máu thịt. Các chị tôi đều sửng sốt, bất ngờ trước việc làm của tôi hiện nay, nhưng đều tin rằng, việc làm ấy là từ một động cơ trong sáng. Song ai cũng không khỏi lo lắng cho số phận của tôi, vì e rằng kết qủa không chắc chắn, mà lại còn có thể chuốc họa cho bản thân và gia đình.
Em gái tôi hiện ở California, thường liên lạc qua thư từ và điện thoại với tôi. Đây là cô út, cả gia đình đều qúy mến. Cô từ Sài Gòn qua Mỹ cùng chồng tháng 4. 1975, đều là công chức dưới chế độ cũ. Chồng cô là cháu gọi cụ Nguyễn Thượng Hiền bằng bác ruột, người cùng làng Liên Bạt, _ng Hòa, Hà Sơn Bình. Em tôi có một con gái đã lấy chồng. Hai vợ chồng là kỹ sư cấp cao, ngành tin học. Trong một bức thư gửi cho tôi, con rể cô báo tin vừa sanh con gái đầu lòng và viết : " Cháu rất cảm động đọc thư bác bày tỏ nỗi lòng của mình với đất nước. Mong mỏi con dân nước Việt trong cũng như ngoài nước noi gương Lý Công Uẩn: " canh khuya chẳng dám co chân duỗi, chỉ ngại non sông xã tắc xiêu ", thì nước ta có cơ thoát vòng hoạn nạn. Bác đã gióng tiếng chuông chính trị lên rồi, bọn cháu hy vọng những người hiểu biết ở cả hai phía sẽ đứng dậy..."
Gần đây khi được biết ở Hà Nội, có người chụp mũ cho tôi là kẻ "phản bội", cô em tôi cản ngăn tôi chớ có trở về, khuyên tôi sang Hoa Kỳ ở, có sẵn nhà cửa, rồi sẽ dọn gia đình tôi sang đoàn tụ. Tôi rất hiểu tình cảm của cô em tôi, nhưng tôi trả lời tôi dứt khoát trở về. Trong cơn nước sôi lửa bỏng của nhân dân, không thể bỏ chạy, lo cho riêng mình được.
Các anh chị em còn ông bác ruột tôi cũng chung nỗi lo tương tự, khi sinh thời, cha tôi và các ông bác, bà cô tôi ứng xử đối với tất cả những thành viên trong họ hàng thân thuộc như chung một mái nhà vậy. Ông chú họ tôi năm nay gần 80 tuổi, hiện là bậc trên nhất của dòng họ, cũng nhắn tin, cổ vũ, căn dặn tôi : phải tỉnh táo, cẩn trọng trong mọi việc làm, tâm niệm giữ lòng ngay thật vì dân, vì nước...
Tôi cũng nhận được hơn một trăm lá thư của bè bạn. Vì an toàn của các bạn ấy, tôi không thể kể tên và địa chỉ ra đây. Có người rằng phải trung với đảng, hiếu với dân, song giờ đây anh lại đóng vai trọng tài phán xét, phủ nhận với luận điệu xuyên tạc cả quá khứ và hiện tại..."
Một số anh em ở báo Quân đội nhân dân đã đáp ngay lại bằng một bài báo ký tên " Bút bi chiễn sĩ " gửi cho tạp chí " Nhà báo và Công luận ". Tất nhiên bài này không được đăng. Anh em sao lại, gửi cho tôi. Trong có đoạn: "...Chúng tôi sửng sờ đọc bức thư ngỏ " Gửi anh Bùi Tín " của Tuấn Minh đăng trên tập san Nhà báo và Công luận. Những người cầm quyền lo sợ cái đứng đắn, hợp lòng dân qua " bản kiến nghị của một công dân " và các buổi phỏng vấn truyền thanh của Thành Tín đã mộ được một lính đánh thuê mẫn cán!"
Bài báo kkông hề nói đến nội dung đầy chân lý của bản kiến nghị và lời giải thích trên đài, vì không ai làm nổi việc bác bỏ nó cả. Có phải cơ hội hòa hợp và hòa giải dân tộc đã bị bỏ lỡ? Có phải chiến lợi phẩm và tài sản qua cải tạo tư sản và gian thương phần lớn đã bị tiêu tan? Có phải tuổi trẻ, trí thức, văn nghệ sĩ có tài năng và tâm huyết đã bị khinh thường và trù dập? Có phải những vụ án "xét lại ", " chống đảng ", " phản động " là bất công, cần minh oan? Có phải lăng Bác Hồ, cầu Thăng Long, Thủy điện Hòa Bình là trái với đạo lý dân tộc và coi thường giới kỹ thuật? Có phải di chúc của bác Hồ bị cắt xén và sửa chữa là coi thường người chết và coi thường người dân? Có phải tệ giáo điều và duy ý chí đã gây tai họa vô cùng? Có phải tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi lan tràn là do đảng độc quyền lãnh đạo, bóp nghẹt dân chủ?...Tất cả đều là sự thật.
Tuấn Minh không dám bác nội dung, chỉ dùng lời lẽ vu cáo, bôi đen, kiểu tiểu nhân, đánh ngưới vắng mặt để hòng lập công và tiến thân. Tự nhận là đồng chí, đồng đội, đồng nghiệp mà phản bạn, phản bội chân lý.! Khi còn ở báo Quân đội, Thành Tín và Tuấn Minh là hai thái cực mà chúng tôi nhận thấy rất rõ. Thành Tín ngay thẳng, khiêm tốn, say nghề làm báo bao nhiêu, thì Tuấn Minh thủ đoạn, đạo đức giả, nịnh trên, nẹt dưới, bất nhân với anh em bấy nhiêu...
Chúng tôi thấy cần vạch mặt kẻ cơ hội mao-ít trước công luận và nhờ gia đình anh Thành Tín chuyển đến anh sự ngưỡng mộ và tin cậy của những người làm báo trẻ-quân nhân chúng tôi. Anh là tấm gương sáng cho mọi người làm báo, khi đất nước và nhân dân đang trong cảnh nước sôi, lửa bỏng này..."
Tôi còn nhận được hơn 80 bức thư của bạn nghe đài trong nước viết cho tôi hoặc viết về tôi được gửi cho đài phát thanh BBC ở Luân Đôn, hoặc qua bưu điện Paris, chưa kể hơn 100 bức thư của các bạn Việt Nam hải ngoại (ở Pháp, Mỹ, úc, Canada, Tiệp Khắc, Đức, Liên Xô, Bulgarie...). Còn qua điện thoại thì không sao kể xiết. Các nhà báo, phóng viên truyền thanh, truyền hình Pháp, ý, Anh, Bỉ, Hòa Lan, Nhật Bản, Thụy Sĩ, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Nauy, Thái Lan, Hồng Công, Singapore, Indonesia, Philipin...từng quen biết hoặc chưa quen biết, đều gọi tới để phỏng vấn, trao đổi ý kiến, hỏi thăm sức khỏe hoặc tình hình riêng của tôi. Tôi đã ghi kín cả ba bốn cuốn sổ tay, tên địa chỉ và số điện thoại những bạn bè cũ và mới, thuộc đủ các giới, nghề nghiệp, quốc tịch và chính kiến...Thế mới biết dư luận còn quan tâm nhiều đến tình hình đất nước ta.
Một lá thư đề ngày 17. 4. 1991 của tập thể các em học sinh trường phổ thông trung học Lê Hồng Phong thành phố Hồ Chí Minh viết:"...học sinh chúng em rất ủng hộ bản kiến nghị của ông Bùi Tín và rất phẩn nộ trước thái độ thờ ơ của chính phủ. Chúng em mong anh Đỗ Văn phát lại phỏng vấn cho cả nước nghe một lần nữa..."
Một em học sinh (tôi không thể ghi tên em) lớp 12 G, trường phổ thông trung học Kim Thành, huyện Kim Yên, Hải Hưng viết: "...với trình độ hiểu biết của học sinh trung học, chúng em cũng có thể nhận thấy những điều ông Bùi Tín phát biểu trên đài BBC là hết sức thực tế và trách nhiệm. Dù sao đến lúc này, đất nước ta đã có một người dám đứng lên nói tiếng nói của nhân dân. Cho phép chúng em gửi lời cám ơn ông Bùi Tín và xin đài BBC cho chúng em biết địa chỉ của ông Bùi Tín hiện nay ở đâu...". Một bức thư khác đề ngày 7. 2. 1991 từ thành Phố Hồ Chí Minh viết "...ông Bùi Tín vừa bị khai trừ ra khỏi đảng và bị cách chức, tôi cho đây là một tin mừng. Trước hết tôi mừng cho ông Bùi Tín. Đảng lấy oán trả ân là đảng phụ ông chứ ông không phụ đảng. Đồng bào trong nước ai cũng biết và ái mộ ông hơn nữa. Tôi biết rất nhiều cán bộ và đảng viên cho rằng ông nói rất đúng, nhưng trong các buổi sinh hoạt họ vẫn phải buộc lên án ông..."
Bạn H. P. ở thị xã Sơn Tây viết: "...cho tôi gửi lời thăm ông Bùi Tín và chúc ông kiên trì trên con đường của mình. Tham quyền, tham nhũng, bảo thủ đang ở khắp nơi. Những người dân chúng tôi chỉ có cái thắt lưng to để thắt bụng. Hình như những người lãnh đạo đang có lý tưởng làm nghèo đất nước!..."
Bạn V. H. ở Nha Trang viết: " Tôi rất khâm phục ông Bùi Tín vì ông đã nói lên được những điều mà người dân Việt Nam chỉ được phép chứng kiến bằng mắt chứ không được quyền nói lên bằng lời. "
Một lá thư của bạn nghe đài ở Hậu Nghĩa để ngày 25. 3. 1991 viết:
"Thưa đại tá! Đảng bởi dân mà ra, đảng bởi dân mà còn. Dân không khai trừ đại tá ra khỏi đảng, thì không ai có quyền khai trừ cả. Đại tá vẫn là đảng viên của dân.
Mất hàng triệu đảng viên xấu không bằng mất đi một đảng viên biết thương dân...có người dân sẵn sàng hiến dâng trái tim mình để đại tá phẫu thuật thay tim mới, hầu bệnh tim không còn. Toàn dân đang cầu nguyện cho đại tá bình phục và :Dng thành đạt...xin đại tá an tâm, toàn dân, bộ đội cùng đảng viên chân chính không bỏ đại tá đâu..."
Anh N. D. V. ở thành phố Hải Phòng trong thư đề ngày 15. 1. 1991 viết: " Nhờ qúy đài chuyển tới ông Bùi Tín lời đồng tình, ủng hộ của chúng tôi đối với những quan điểm, chính kiến của ông trong mục đích đưa đất nước thoát khỏi tình trạng hiện nay..."
Anh T. V. ở Hà Nội viết: " Anh Thành Tín đưa ra kiến nghị là môt tín hiệu khởi sắc đang được lưu ý trong trào lưu dân chủ hóa ở Việt Nam, nó báo hiệu rằng, trong thời vận hiện nay, trào lưu ấy đang từng bước tiến tới chỗ chín muồi..."
Ông C. A. D. ở Cần Thơ, Hậu Giang trong một bức thư dài có đoạn viết: " Xin thông tin ngược với anh chị ở đài BBC rằng, các buổi phát thanh của ông Bùi Tín thật là xuất sắc. Xuất sắc ở chỗ người thực hiện và xuất sắc ở con người Bùi Tín. Nhiều người đã nghe và rất đồng tình với ông Bùi Tín..."
Một lá thư khác gửi cho tôi viết: "...anh đã gây một chấn động rất lớn qua các buổi phỏng vấn. Việc làm của anh làm sôi động dư luận trong nước, bất cứ nơi nào tại Sài Gòn, những người có học vấn và quan tâm đến tình hình trong nước đều bàn luận và tán thành việc làm của anh...đến nỗi Mai Chí Thọ, em ruột Lê Đức Thọ, bộ trưởng Nội Vụ đã phải lên tiếng thóa mạ anh. Tôi xin ca ngợi anh Đỗ Văn đã làm đầy đủ chức năng của một người làm công việc truyền thông, giúp cho nhà biết được sự thật rất nhiều sự thật".
Tháng 1 năm 1991 một lá thư của nhóm Việt Kiều yêu nước ở Trung Quốc gửi cho tôi viết: " Chúng tôi rất ái mộ tấm lòng dũng cảm và yêu tổ quốc của ông. Song chúng tôi can ông rằng: " Ông chớ vội về Việt Nam trong lúc này, e rằng nếu không chết mất tăm trong nhà tù, thì cũng bị quản thúc không hoạt động được gì. Xin ông hãy nán lại ở ngoại quốc để làm việc có lợi cho dân tộc và đất nước..."
Một em học sinh ở đảo Lại Sơn viết cho tôi, giọng thư thật vô cùng cảm động: "...em vừa được nghe đại tá bị khai trừ và cất chức. Em học lớp 12, cuối cấp ba, nên cũng hiểu được phần nào về chính trị, nên rất qúy trọng ông, một con người dũng cảm và sáng suốt, nói một cách rất thẳng thừng về xã hội Việt Nam..."
Một bức thư dài từ Quảng Ngãi đề ngày 10. 3. 1991 của bạn P. V. M. ở Mộ Đức gửi cho tôi viết: " Xin báo tin để ông biết, đời sống công nhân, viên chức đất Quảng quá khổ - Một nữ giáo viên lương một tháng có 35. 000 đồng, có người phải đi làm để nuôi con dại vì một lon sữa ngoại 12. 000 đồng. Một số cán bộ phải đạp xe xích lô suốt đêm để nuôi sống gia đình, và còn cái nạn thất nghiệp nưã, khẩu hiệu được truyền bá hằng ngày nghe thật hay...
• Tất cả vì dân.
• Đảng viên, cán bộ là đầy tớ của nhân dân
• Lo trước cái lo của dân, sướng sau cái sướng của dân
• Không có chế độ nào dân chủ hơn chế độ ta...
Những Khẩu hiệu ấy chỉ là lừa dối người dân, nghe không lọt được lỗ tai! Tôi nhớ câu châm ngôn của người Anh :
Người ta có thể lừa dối một số người mãi mãi, hay lừa dối tất cả mọi người một thời gian nhất định. Nhưng không ai có thể lừa dối mãi mãi tất cả mọi người!
Kẻ lừa dối cứng đầu cuối cùng ắt phải bị chỉ mặt và bị trừng phạt. "
Tôi cũng nhận được 21 lá thư của bạn trí thức, lao động, hiện đang sống, làm việc ở Đức, Tiệp Khắc, Bulgarie và Liên Xô. Những bức thư kể về hoàn cảnh khó khăn của anh em đi xuất khẩu lao động, những vụ xô sát do kỳ thị chủng tộc của một số dân nước sở tại, thái độ vô trách nhiệm, bạc nhược và tham nhũng của một số nhân viên sứ quán Việt Nam, cũng như những lòng tốt của những người dân thương, trí thức và lao động các nước đó. Anh chị em rất chú ý đến bản kiến nghị của tôi và tỏ thái độ hoan nghênh rất mạnh mẽ. ở Đức, Tiệp Khắc và Bulgarie đã tự xuất bản một số tờ báo theo xự hướng dân chủ, hòa hợp, đa nguyên, không bạo động...Đó là những tờ báo Diễn đàn, Dân chủ, Cánh én, Điểm tin...in chưa thật đẹp nhưng mang nội dung đặc sắc, có đủ thế tài: ngôn luận, bình luận, phóng sự, điều tra, diễn đàn, truyện ngắn, thơ, tóm tắt tình hình trong nước, và tình hình quốc tế. Có bức thư viết: " Chúng tôi có thể đi buôn để kiếm sống, làm giầu cho bản thân và gia đình, mua xe ôtô, tậu nhà, để dành vốn lớn để tiêu xài. Nhưng còn đất nước và đồng bào ta thì sao? Lúc này phải cứu dân, phải cứu nước ra khỏi đói nghèo và lạc hậu. Có ra ngoài mới biết nước ta chậm tiến cả về chính trị, kinh tế và mức sống. Mà chậm tiến về chính trị, không có dân chủ là tai họa lớn nhất, là cái gốc của sai lầm và đau khổ..."
Một kỹ sư thay mặt cho " một nhóm các trí thức trẻ ". từ Tiệp Khắc về nước năm 1990, viết một lá thư dài cho tôi ngày 10. 3. 1991, có đoạn viết: " Trở về Tổ quốc, chúng tôi hoàn toàn thất vọng. Tình hình chính trị Việt Nam mới vang lên được vài tiếng nói dân chủ thì nay đã bị thay thế bởi những quan điểm cực hữu theo quan điểm Stalin và Mao. Thêm vào đó là rối loạn về kinh tế, lạm pháp về tài chính, sự tự cô lập về đối ngoại, làm cho cuộc sống của người dân vô cùng đau khổ. Qua thư này chúng tôi muốn bầy tỏ sự ủng hộ và đồng tình với quan điểm chính trị của ông. Chúng tôi đều cho rằng:
• 1- Cần phải tranh đấu chấm dứt sự chuyên quyền của một đảng, chuyển sang một thể chế đa nguyên, thể hiện dân chủ theo nguyên tắc công khai và tự do (tự do ngôn luận, tự do lập hội, báo chí.)
• 2- Cần tập hợp đông đảo trí thức, những người yêu nước, những thanh niên khát khao tự do và dân chủ...trong một tổ chức chính trị tổ chức tranh đấu thắng lợi.
• Những bản kiến nghị của những trí thức có tâm huyết vừa qua là tấm gương dũng cảm cho những ai thật sự yêu nước, thương dân và cho những người có lương tri, hiểu biết.
• 3- Cần phối hợp với quốc tế, kêu gọi sư ủng hộ và giúp đỡ nhiều mặt của quốc tế, của cả tổ chức dân chủ và từ thiện, xã hội...cho phong trào dân chủ ở Việt Nam.
• 4- Mục đích cuối cùng là: Xây dựng ở Việt Nam một xã hội dân chủ, một nhà nước pháp quyền thật sự do dân lựa chọn và tự do thật sự vì dân, xây dựng một chế độ đa nguyên là động lực của sự phát triển đất nước..."
• Đất nước ta vừa qua có đến gần 20 vạn người, phần lớn là thanh niên, đi xuất khẩu lao động. Đã có hơn 80. 000 đã trở về, mang những ước vọng sâu sắc về dân chủ và tự do. Anh chị em đã sống ở nước ngoài, nhận biết được nhiều thông tin trực giác ở các nước sở tại, cũng như từ nhiều nguồn thông tin đại chúng đồ sộ khác của nhiều quốc gia. Đi một ngày đàng, học một sàng khôn. Có điều kiện để so sánh một cách thực tế và rõ ràng, anh chị em đang nung nấu một hoàn bão rất trẻ, rất khỏe về dân chủ hóa đất nước...
• Một bác nông dân ở Minh Hải đọc cho con viết một lá thư bốn trang lớn gửi cho tôi. Bác kể:
• " Cả gia đình tôi rất siêng nghe BBC, nhứt là từ khi ông đưa kiến nghị. Vậy là người dân Nam Bộ biết được ông là người cùng ông Vũ Kỳ bí thơ cụ Hồ đưa ra công khai toàn bộ Di Chúc cụ Hồ mà họ đã cắt bớt không cho dân biết. Nhờ vậy, người dân mới được giảm thuế 50 phần trăm liền hai năm. Chúng tôi gửi lời cám ơn ông nhiều lắm. Ruộng đất là do công khai phá của tiền nhân, của cha ông để lại cho con cháu. Tiền nhân đổ mồ hôi và máu xương đất ruộng này. Ruộng này của nhân dân chớ! Chúng tôi yêu cầu trả lại ruộng cho nhân dân, trả lại quyền sở hữu chủ cho nông dân. Có quyền sở hữu đất ruộng, các gia đình mới đầu tư, ráng hết sức sản xuất, làm ra thiệt nhiều lúa gạo. Nông dân chúng tôi đòi chuyện này cho tới cùng đó. Các ông nói ruộng đất của toàn dân là nói sai, họ dành hết ruộng tốt chia cho bọn cường hào mới. Phải trả lại ruộng cho nông dân để người cày có ruộng". Bác nông dân đã nói lên khát vọng có lý lẽ của người nông dân nước ta.
• Tôi rất chú ý đến một số bức thư của anh chị em trí thức ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Nam Định, Huế...Điều lý thú là những lá thư ấy không chỉ tán thành những ý kiến của tôi, mà còn đề ra những ý kiến mới, chứng tỏ ở nước ta còn có biết bao nhiêu người đang cùng suy nghĩ về hiện tình đất nước, cố tìm ra những giải pháp thích hợp. Có thể nói những lá thư này truyền cho tôi thêm nghị lực và niềm tin. Một giáo sư ở thành phố Hồ Chí Minh viết : " Noi theo anh, tôi cũng mạnh dạn nêu lên một " bản chương trình toát yếu " gồm 5 điểm như sau:
• 1- Đảng cộng sản Việt Nam ra tuyên bố tự nguyện xác định laị vị trí chính trị của mình, từ bỏ ưu thế độc tôn, chuyên quyền trong 15 năm qua trên phạm vi cả nước. Đảng chỉ có thể dành ưu thế chính trị thông qua đua tranh với các tổ chức chính trị khác một cách bình đẳng, tự do, trong khuôn khổ một hiến pháp mới. Phải xóa bỏ cơ chế chính trị xã hội phi dân chủ đã lỗi thời.
• 2- Giải thể quốc hội và chính phủ hiện nay, thành lập quốc hội và chính phủ mới trên cơ sở tổng tuyển cử thực sự dân chủ, tự do và bình đẳng. Quốc hội mới tập trung dự thảo và thông qua hiến pháp sửa đổi, luật mới về ứng cử, bầu cử, luật kinh tế, luật về tổ chức hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng (báo chí, đài phát thanh, truyền tin, truyền hình). Nếu cần thì trưng cầu ý kiến toàn dân về một số vấn đề cơ bản nhất.
• 3- Giải thoát ý thức hệ hiện hữu khỏi những thiên kiến cũ kỹ, không áp đặt những chủ thuyết lỗi thời cho dân tộc. Xây dựng ý thức hệ tự do, đa nguyên, phù hợp với nền văn minh thời đại, đã được kinh nghiệm lâu dài của các nước tiến bộ kiểm nghiệm. Thực sự tự do tín ngưỡng, đòi sự bình đẳng, công bằng với các tôn giáo.
• 4- Thực hành phi quốc doanh hóa nền kinh tế theo quy luật tự nhiên của cơ chế thị trường. Chỉ giữ lại những cơ sở lớn cần thiết. Lấy sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất làm nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
• 5- Giải tỏa mọi tư tưởng kình chống, định kiến với một số quốc gia trên thế giới. Thiết lập mọi bang giao bình thường với mọi quốc gia, đặc biệt với những cường quốc hàng đầu. Xin gia nhập chính thức ngân hàng thế giới WB và qũy tiền tệ quốc tế FMI, giao hoàn toàn vấn đề Campuchia cho người Campuchia...
Với kiến nghị của anh Thành Tín, của nhiều bậc thức giả khác, lối ra đã sáng tỏ, ngọn đèn xanh hy vọng đã bật sáng, hỡi những ai có lương tri và tâm hồn dân tộc, hãy hưởng ứng bằng mọi cách với lòng dũng cảm phi thường!..."
Vậy là không phải chỉ có những chính kiến của ông Nguyễn Khắc Viện, ông Hoàng Chí Minh, ông Lê Giản, ông Lữ Phương, ông Phan Đình Diệu...mà còn biết bao nhiêu ý kiến xây dựng, rất bổ ích và thức thời khác nữa đều bị bóp nghẹt và ngăn chặn truyền bá, coi như nguy hiểm cho trật tự và an ninh của đất nước!
Tôi biết ơn tất cả những bạn bè đã quen hoặc chưa biết mặt đã ủng hộ hoặc cổ vũ tôi.
Sau Tết âm lịch, hai nghệ sĩ cải lương là Đức Hậu, Ngọc Huyền từ thành phố Hồ Chí Minh sang biểu diễn ở Paris đến dự một cuộc họp mặt thân mật với Việt kiều. Tại đó, tôi ngồi gần nữ nghệ sĩ cải lương Kim Chung. Bà sang Phap từ lâu. Tôi nhớ khi còn nhỏ đã xem vở tuồng " Đổng Trác hý Điêu Thuyền " rất mùi mẫn. Bà ngồi cạnh một bà bạn đã lớn tuổi, tóc bạc trắng - Vô tình tôi nghe được câu chuyện của hai bà. Bà bạn nghệ sĩ Kim Chung kể : " Tôi vừa ở Hà Nội v
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #15  
Old 05-20-2004, 05:46 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

:::: Bùi Tín ::::
Hoa xuyên tuyết

IX Lòng dân-ý trời



Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam đã kết thúc. . Vẫn như các đại hội trước, các báo ở Hà Nội đăng những hàng chữ đỏ : " Đại Hội đã thành công rực rỡ". Ngay ở trong đảng đã có mấy người tin rằng nghị quyết của đại hội sẽ được thực hiện, rằng chỉ trong 5 năm nữa nhân dân ta sẽ thoát khỏi cuộc khủng hoảng? Có mấy ai tin rằng trong 10 năm nữa tổng sản lượng nước ta tính theo đầu người sẽ tăng gấp đôi, nghĩa là 100 %? Đúng một tháng sau đại hội, giá vàng tăng lên từ 380. 000 đồng lên 460. 000 đồng một lạng, giá một đồng đôla từ 8. 600 đồng lên 9. 4000 rồi 9. 8000, ngấp nghé 10. 000 đồng, tiền lương của người lao động và viên chức vốn đã ít ỏi, lại bị giảm thêm trên thực tế. "cuộc sống rồi sẽ ra sao?", vẫn là câu hỏi xoáy sâu, quặn lòng người dân. Đại hội 7 đã không đáp ứng đúng tình hình cực kỳ nghiêm trọng, cuộc bắt mạch kê đơn cho đất nước không kết qủa. Suốt 16 năm trải qua 4 kỳ đại hội, mỗi lần người ta cứ tưởng rằng đã tìm ra giải pháp, nhưng bệnh cũ cứ nặng thêm. Tìm ra bệnh bao giờ cũng chậm, kiểu vuốt đuôi, định chữa bịnh này thì con bệnh đã chuyển sang bệnh khác hiểm nghèo hơn.
Khi đất nước lâm nguy, nhiều ý kiến, kiến nghị đã được đề xuất. Nhưng lãnh đạo vấn giữ thái độ gia trưởng độc đoán, nhắm mắt, bịt tai. Khả năng lắng nghe vốn đã ít ỏi trở về con số không.
Có những lời bình đáng suy nghĩ. Một nhà báo Pháp nhận xét: " Đại hội 7 xét cho cùng chỉ là một cuộc trình diễn cho ông Đặng Tiểu Bình xem. Lẽ ra tìm nhiều bạn tốt, thì họ lại ngã hẳn về một phía, lao vào lòng "kẻ thù vĩ đại", cho rằng thế là đúng đắn: Chung một ý thức hệ chung một chế độ xã hội chủ nghĩa! cùng là đảng cộng sản, những tưởng khôi phục tình đồng chí, chí cốt và tìm ra được lối thoát!. . "
Sau đại hộì, quan hệ giữa hai đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc được cải thiện rõ ràng. Theo tôi đây là sự liên kết giữa những người cùng chung một mối lo sợ đến hoảng hốt với trào lưu dân chủ và đa nguyên đang dâng lên mạnh mẽ ở trong mỗi nước. Đây là sự liên kết của những người bảo thủ về chính trị. Họ "tầm" nhau để duy trì hiện trạng chính trị trong mỗi nước, bóp nghẹt nguyện vọng dân chủ của nhân dân, ngăn chặn một cách tuyệt vọng phong trào dân chủ đa nguyên đang lan rất mạnh ở châu Âu, Châu phi, châu Mỹ la tinh và cả ở châu á.
Tình hình thế giới những năm gần đây có những thay đổi hết sức cơ bản. Từ hai cực, hai phe đã xuất hiện tình thế đa cực. Từ đối dầu, sống mái chuyển sang cục diện hợp tác và đấu tranh trong chung sống hòa bình. Cách nhìn cũ không còn thích hợp với tình hình mới. ở nước ta hiện nay điều sinh tử và thiêng liêng nhất là giải phóng đến mức cao nhất sức sản xuất toàn xã hội, làm ra được nhiều của cải nhất đây là chìa khóa để cứu ván đất nước, con đường thoát ra khỏi khủng hoảng.
Nghèo đói và lạc hậu phải là nỗi đau chung, nỗi nhục chung của mỗi công dân, của mỗi người Việt Nam ở trong nước và nước ngoài. Không chỉ lạc hậu về mức sống, mà cả về hiểu biết về khoa học, kỹ thuật, về công nghệ, về quản lý, về dân chủ hóa, về chính trị. ý thức vượt qua nghèo đói và lạc hậu, đạt đến phát triển về mọi mặt phải là động lực chung của toàn xã hội, động lực vươn lên của mọi người Việt Nam có trách nhiệm.
Nhà thơ Nhất Uyên ở Paris đã đọc cho tôi nghe bài thơ của anh nói lên nỗi nhục ấy và chép lại tặng tôi. Bài thơ có đầu đề: Nhục nước đói nghèo. Dưới đây là một đoạn:
...Nhục những tài năng lưu vong phụng sự xứ người mà
nước mẹ,
đường về sao quá hẹp?
Nhục với tài nguyên thiên nhiên,
bốn mùa cây trái
nhục với biển dài,
sông rộng,
đất phì nhiêu,
nhục với trẻ thơ tong teo,
mẹ gầy đói ốm,
nhục với cha già trên vỉa hè lây lất
Nhục với độc lập mà đói hơn thời thuộc địa,
nhục với tự do,
dân gào thét tự do!
nhục với công bằng,
dân gào thét bất công , nhục với dân chủ,
mà khổ hơn thời địa chủ!
Nhục với Thái lan, Nam hàn...
đã tiến xa trên đường kỹ nghệ mà nước ta còn nghèo đói xin ăn!
Nhục với lý tưởng đẹp cao,
nhục thần tượng tôn thờ, nhục với lịch sử ngàn năm dựng nước.
Nhục những kẻ không còn biết nhục,
hãm hại người ngay, xua đuổi người tài,
nhục kẻ bất phu
không biết đến kiếm Lưu cầu khi dân dân tộc đến cơ hàn cùng cực.
Ai là người vì vận nước ngày mai,
nuôi chí kinh bang
để cùng nhau rửa nhục.
Đổi mới về kinh tế quan trọng nhất hiện nay là công nhận quyền sở hữu ruộng đất của nông dân. Trả lại ruộng đất cho những lao động nông nghiệp, tài sản của cha ông bỏ công khai phá. Chủ trương của đại hội 7 vẫn còn nửa vời, vẫn coi ruộng đất là sở hữu của toàn dân. Các hộ nông dân chỉ có quyền sử dụng. Bà con nông dân vẫn chưa hoàn toàn yên tâm, chưa mạnh dạn bỏ vốn đầu tư, cải tạo, chăm sóc đồng ruộng vì họ chưa coi đó là sở hữu của mình.
Trong sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp, phải thật sự tôn trọng, cổ vũ quyền tự do kinh doanh của tư nhân, mở ra một thời kỳ tư nhân mạnh dạn bỏ vốn riêng, hùn vốn riêng, mở xưởng, lập công ty: chế biến nông sản, chế tạo cơ khí, kinh doanh giao thông vận tải, mở các nghề tin học, sinh học, hóa chất, vật liệu xây dựng...tạo nên cả một lớp nhà kinh doanh có tài năng, làm cho nền kinh tế sống động trong sản xuất ra hàng hóa là chính, chứ không phải đi buôn (phần lớn lại là đi buôn lậu!) và làm dịch vụ là chính như hiện nay. Việc xuất hiện hàng loạt nhà doanh nghiệp tài ba trong kinh doanh đàng hoàng (chứ không phải đi chạy mánh mung, đánh qủa, ăn xổi như hiện nay) là thước đo của sự đổi mới về kinh tế.
Đổi mới về kinh tế phải đi cùng với đổi mới về chính trị. Đây là hai mặt của đời sống xã hội có liên quan chặt chẽ. Không phải thực hiện máy móc, đổi mới kinh tế thực hiện đúng một bước thì đổi mới chính trị phải đúng một bước. Trên đại thể, kết hợp hai mặt đổi mới ấy. Không thể một mặt thì tiến lên mà một mặt thì lui lại! Như con người bước một chân lên trước, còn chân kia thì lui lại sau, sao mà đi được?! Hiện nước ta là như vậy. Kinh tế có định hướng, mở cửa tự do hóa, nhưng chính trị thì co lại, hạn chế quyền dân chủ hơn trước. Mâu thuẫn là ở đây. Có không bình thường là ở đây. Nguy cơ mất ổn định cũng là ở đây. Cái làm mất uy tín, mất cảm tình của bạn bè và dư luận thế giới cũng là ở đây.
Lập luận bảo thủ của đại hội 7 là : " Phải giữ ổn định bằng mọi giá. Bước đi, liều lượng mở rộng dân chủ phải tính toán thận trọng. Không thể hấp tấp vội vàng. Nhấn mạnh dân chủ có lãnh đạo, dân chủ đi đôi với tập trung, gắn liền với kỷ luật". Lập luận này rất có hại. Nó kìm giữ đất nước trong tình trạng chậm tiến về chính trị, do đó cản trở đổi mới về kinh tế. Nó đi ngược lại khát vọng của nhân dân, nó mâu thuẫn với quan điểm nhân dân lao động làm chủ, vi phạm quyền công nhân.
Lập luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội của đại hội 7 là: " Đây là con đường do chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn ", do đó không thể nào từ bỏ được! Những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội được nêu lên là:
• Do nhân dân lao động làm chủ,
• có một nền kinh tế phát triển cao, dựa trên chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu,
• có một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà mầu sắc dân tộc,
• Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công. Làm theo năng lực, hướng theo lao động. Có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
• Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Nhắc đến chủ tịch Hồ Chí Minh hàng đến mấy chục lần trong các văn kiện để " kiên trì con đường chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đứng đắn của chúng ta " là không nên, không khoa học. Chủ tịch Hồ Chí Minh mất đã 22 năm nay. Ông Hồ đã từng cùng với đảng chủ trương sớm hoàn thành hợp tác hóa toàn bộ nền nông nghiệp. Đến nay chủ trương này bị công nhận là sai lầm, vậy thì không thể chỉ dựa vào lý do vì đây là chủ trương của ông Hồ mà khẳng định đó là chân lý. Ông Hồ cũng chủ trương công nghiệp hóa đất nước với tốc độ cao, lấy công nghiệp nặng làm chính, đến nay chủ trương ấy cũng đã tỏ ra sai lầm. Hơn nữa, ông Hồ không còn sống để chứng kiến cuộc khủng hoảng nghiêm trọng, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Và ông cũng không được thấy những đảo lộn cực kỳ hệ trọng trên trường quốc tế, làm thay đổi hẳn bộ mặt thế giới. . Theo tôi, tất cả các chủ trương, quan điểm của những người đã khuất, dù cho họ tài giỏi đến đâu, chỉ nên coi là những gợi ý, để tham khảo. Chỉ có những người đương thời mới có đầy đủ trách nhiệm, điều kiện hiểu biết để tự giải quyết mọi công việc của thời đại mình, của thế hệ mình.
Chính vì đuối lý nên người ta cứ phải viện ông Hồ Chí Minh! Một luận điệu của đại hội 7 là nước ta không thể quay về chủ nghĩa tư bản. Thật ra chúng ta vẫn chưa có chủ nghĩa xã hội. Chúng ta cũng chưa có chủ nghĩa tư bản theo đúng nghĩa. Chủ nghĩa xã hội hiện thực ở các nước đều sụp đổ rồi. Có đến hơn 100 nước tư bản hiện nay, trong đó có những cường quốc lớn nhất, có những " con hổ " ở châu á. Không nên câu nệ tên gọi, ê-ti-két. Có những nước tư bản rất phát triển, có nước tư bản rất chậm tiến. Có nước tư bản bảo đảm quyền lợi xã hội, bảo hiểm xã hội thật cao, như ở Bắc Âu được gọi là " nhà nước phúc lợi ". Ta không nên bắt chước mù quáng ai cả. Nên xây dựng một chế độ dân chủ, chăm lo phát triển sản xuất, rất quan tâm đến bình đẳng xã hội, hạn chế chênh lệch giàu nghèo, rất chú ý đến đời sống văn hóa, tinh thần, đạo lý trong xã hội. Một chế độ dân chủ tiến bộ. Tiến bộ có thực chất. Nhưng muốn tiến tới đó phải công nhận quyền sơ hữu tư nhân về ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác. Nếu không sẽ không có gì cả!
Những đặc trung về chủ nghĩa xã hội mà đại hội 7 nêu ra không phải là điều kiện cần và đủ! ở các nước tư bản cũng có chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Nhiều nước tư bản, hệ thống hàng không, vận tải, đường sắt đường biển nằm trong tay nhà nước. Cũng có tư bản nhà nước nắm những cơ sở điện nguyên tử, điện tử, luyện kim, tín học...Có nơi nhà nước chịu mọi chi phí về giáo dục và y tế. Có nơi những phụ cấp xã hội, bảo hiểm, chăm sóc trẻ em, người già, người lớn tuổi, người tàn tật rất cao, vượt xa những nước xã hội chủ nghĩa trước đây. Quyền tự do cá nhân ở các nước tư bản, trải qua các cuộc đấu tranh quyết liệt của công dân, cũng đạt mức cao hơn nhiều các nước xã hội chủ nghĩa hiện thực: tự do về tư tưởng, tự do lập hội, tự do báo chí, tự do xuất ngoại, tự do kinh doanh...
ở nông thôn Pháp, hình thức hợp tác xã rất phổ biến. Đó là hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, chế biến nông sản, hợp tác xã tín dụng.
ở ta có người ngộ nhận rằng chỉ ở các nước xã hội chủ nghĩa mới có hợp tác xã, mới có xí nghiệp quốc doanh, mới có bao cấp về y tế, giáo dục...
Về nền văn hóa tiên tiến đậm đà màu sắc dân tộc thì tôi đã thấy biểu hiện của đặc trưng này ở ấn Độ và Indonesia, còn rõ hơn ở các nước xã hội chủ nghĩa.
Đối chiếu với những đặc trưng đã nêu trên với hiện thực ở nước ta, thì có thể kết luận ta đề ra chủ nghĩa xã hội lúc này là hoàn toàn không thích hợp. Chính các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác như Karl Marx và Engel từng chỉ rõ: Chỉ có thể đặt vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội khi đã có điều kiện, đó là một nền sản xuất mang tính chất xã hội sâu sắc, gắn liền với một giai cấp công nhận sản nghiệp đông đảo. ở ta cả hai điều kiện ấy còn lâu mới xuất hiện! Cái bệnh duy ý chí tai hại là ở đó. Hơn nữa chủ nghĩa xã hội trên thực tế đã và đang phá sản rõ rệt rồi!. Nó không còn sức sống qua thử thách khắt nghiệt của thực tiễn.
Trong " Bản kiến nghị của một công dân" tôi đề nghị đổi tên nước vì tên gọi " nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" hiện nay là không thích hợp. Lấy tên: Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhiều người cho là quay trở về với cái cũ, không nên - Lấy tên nước Việt Nam Cộng Hòa cũng lại là quay về cái cũ khác. Cho nên có lẽ lấy tên nước Việt Nam (Etat du Viet nam) là ổn, vừa gọn, vừa rõ.
Cần dũng cảm và thông minh nhìn thật rõ, thật sáng: nước mình đang đứng ở đầu, ở thời điểm và hoàn cảnh nào, theo định hướng nào.
Tập trung xây dựng nền dân chủ thật rõ là dân chủ, một nền kinh tế dân tộc trên cơ sở quyền hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, và tự do kinh doanh là chính (nhà nước vẫn giữ một số ngành then chốt nhưng không ôm đồm). Còn đối với chủ nghĩa xã hội thì nhiều lắm cũng chỉ nên ghi là " theo định hướng xã hội chủ nghĩa", hay " sự lựa chọn xã hội chủ nghĩa cho bước phát triển tiếp theo".
ở nước ta có chủ nghĩa xã hội đâu mà sợ mất! Đã có chủ nghĩa xã hội đâu mà gọi là bước thụt lùi! Chũ nghĩa xã hội, một kiểu chủ nghĩa xã hội khoa học, có đầy dự tính dân chủ và nhân đạo- sau này dù có chăng nữa, thì lúc này vẫn còn là ở phía trước khá xa xăm.
Về chuyên chính vô sản cũng vậy. Ta nêu lúc này là rất không thiết thực, lạc lõng. Khái niệm này được đưa vào Hiến pháp năm 1980, chẳng có ý nghĩa gì thiết thực. Nó có tính chất giáo điều. Thì cứ nói xây dựng chính quyền vững mạnh là được, xây dựng nhà nước pháp quyền, giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Thế là đủ, là rõ. Có lần tôi vào thành phố Hồ Chí Minh. Mấy anh đạp xe xích lô bảo : " Chúng tôi là vô sản đây. Chính quyền đâu có bênh vực vô sản! Các ông ấy coi bộ thù ghét vô sản dữ! " Cuộc sống vô sản thật bần cùng, kiệt quệ hơn dưới các chế độ cũ nhiều! Tình hình như vậy mà nói giai cấp vô sản nắm chính quyền, đảng của giai cấp vô sản, rồi chuyên chính của giai cấp vô sản, thì thật gượng gạo và trớ trêu!.
Nếu như dân chủ hóa đời sống chính trị của xã hội là yêu cầu bức thiết về chính trị thì thực hiện đa nguyên chính trị là vấn đề then chốt của yêu cầu ấy. Không giải quyết vấn đề này thì đảng cộng sản càng mất uy tín, lòng dân không yên và tư thế trước thế giới của đất nước ta vẫn còn kẹt cứng. Đa nguyên đã là hiện thực rõ rệt trong cuộc sống. Nhiều chế độ sở hữu là đa nguyên về quan hệ sản xuất. Luật pháp bảo hộ quyền làm ăn chính đáng của nông dân làm ăn riêng lẻ, của nông dân hợp tác hóa, của thợ thủ công cá thể hay hợp tác, của công nhân các xí nghiệp tư nhân và quốc doanh, đó là đa nguyên về quyền lợi. Luật pháp bảo hộ tự do tín ngưỡng của mọi tôn giáo là đa nguyên về nhân sinh quan...Mọi phong cách, trưởng phái của văn nghệ sĩ được tôn trọng là đa nguyên trong sáng tạo văn hóa nghệ thuật...Đa nguyên gắn bó với dân chủ.
Đa nguyên chính trị dẫn đến đa đảng, là hướng đi tất yếu của xã hội dân chủ. Hiến pháp của tất cả các nước dân chủ đều ghi rõ : quyền tự do tư tưởng, tự do tổ chức, lập hội (lập chính đảng) của công dân. Hiến pháp của nước Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua tháng 12. 1980 ghi rõ trong điều 67 :" Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do biểu tình phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân". Rõ ràng phần chân lý ở đoạn trên, còn cái đuôi :" phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội " là đặt điều kiện để hạn chế quyền công dân kể trên. Còn "phù hợp với lợi ích của nhân dân " thì rõ ràng không thành vấn đề, vì người công dân càng có đầy đủ quyền lợi thì càng có nhiều lợi ích. Hạn chế quyền công dân chính là hạn chế lợi ích của họ.
Văn kiện đại hội 7 có đoạn viết : " trong điều kiện nước ta hiện nay không có sự cần thiết khách quan để lập nên cơ chế chính trị đa nguyên, đa đảng đối lập. Thừa nhận đa đảng đối lập có nghiã là tạo điều kiện cho sự ngóc đầu dậy ngay tức khắc và một cách hợp pháp các lực lượng phản đông phục thù trong nước và từ nước ngoài trở về hoạt động chống Tổ quốc, chống nhân dân, chống chế độ. Đó là điều nhân dân dứt khoát không chấp nhận (trích báo cáo của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh).
Đây là vấn đề sai lầm rất lớn, mang tính ngụy biện của đại hội 7. Đây là điểm ví phạm rõ nhất Hiến pháp, cũng là thái độ vi phạm nền dân chủ một cách ngang nhiên và công khai nhất. Họ lại lạm quyền nói thay nhân dân.
Văn kiện lập luận rằng :" không phải có nhiều đảng chính trị là có dân chủ, và không phải có một đảng là không có dân chủ ". Lập luận này chỉ đúng một nửa, nửa trên đúng. Còn nửa dưới sai. Cần chỉ rõ một chân lý chung nhất: dân chủ chỉ có thật khi công nhận nhiều tiếng nói, nhiều tổ chức, nhiều đảng phái. Hiến pháp công nhận quyền tự do tư tưởng, tự do tổ chức, tự do lập hội là mặc nhiên công nhận chế độ đa đảng. Vì trong xã hội có nhiều tư tưởng thì ắt dẫn đến có nhiều tổ chức chính trị một cách hợp lý. Trên thế giới hầu hết các nước đã thực hiện chế độ đa đảng. Những nước xã hội chủ nghĩa cũ hay ở trong thế giới thứ ba đã lần lượt chuyển sang chế độ đa đảng. Đó là Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc, Bulgarie, Hungari. Cho đến Nam Tư, Albanie, Mông Cổ đều thực hiện chế độ đa đảng. Phi châu cũng thực hiện chế độ đa đảng. Họ đi vào đường mù quáng sai lầm cả ư? Không! trái lại, chế độ độc dang là nguyên nhân của tình trạng độc đoán, quan liêu, xa rời thực tế tai hại.
Vấn đề cần bàn bạc kỹ lưỡng ở nước ta là thực hiện chế độ đa nguyên, đa đảng như thế nào cho tốt đẹp, là chuyển từ chế độ độc đảng sang chế độ nhiều đảng sao cho thuận buồm xuôi gió, không gây nên hỗn loạn xã hội. Vấn đề là ở chỗ đó, chứ không phải là lắc đâu nguây nguẩy, một mực từ chối đa nguyên chính trị trong tâm lý sợ hãi.
Cần giữ niềm tin ở nhân dân, ở công dân nước ta. Cần hiểu sâu sắc nhân dân Việt Nam có trình độ chính trị khá vững vàng, có truyền thống đoàn kết và nhân ái rất tinh tường, phân biệt ai có thiện chí đối với đất nước, ai đi ngược lại lợi ích của dân tộc và nhân dân. Nhân dân là trọng tài minh mẫn, nắm trong tay lá phiếu - quyền phán xét chuẩn xác. Họ có đủ sáng suốt để vạch mặt chỉ tên những kẻ có dã tâm gây rối, những kẻ mỵ dân...Luật pháp cần phải nghiêm để trừng trị kịp thời những kẻ cố tình gây bạo loạn. Quá trình dân chủ hóa chính trị phải dứt khoát đi vào con đường đa nguyên. Giống như dân chủ hóa kinh tế phải dứt khoát đi vào con đường sản xuất hàng hóa và thị trường. Hai quá trình ấy gắn bó chặt chẽ, tạo điều kiện thúc đẩy lẫn nhau phát triển.
Điều hợp lý là nghĩ đến phương án đi thận trọng từng bước. Nên vận động, thuyết phục hoặc có những quy định dân chủ để bước đầu chỉ nên có vài tổ chức chính trị xuất hiện. Nhân dân ta có truyền thống văn hóa sâu đậm. Đất nước Việt Nam là đất nước văn hiến lâu đời. Đối xử giữa những tổ chức chính trị sẽ có nhiều khả năng là sự đối xử lịch sự, có văn hóa, tôn trọng lẫn nhau, đối thoại, tranh luận trong không khí ôn hòa, bình đẳng và trung thực. Đối lập trong xây dựng và đấu tranh thẳng thắn với nhau, chứ không phải đối lập trong sống mái và sát phạt lẫn nhau. Thực hiện được như vậy, cuộc sống chính trị của nhân dân ta sẽ bước một bước khá dài trên con đường dân chủ hóa. Lợi thưc tế là rất lớn. Lòng dân sẽ yên. Trí tuệ của nhân dân sẽ được phát huy. Đảng cộng sản sẽ có điều kiện để xét lại mình, rũ bỏ được những sai lầm và cố tật, có thể khôi phục được niềm tin trong lòng dân (chứ không phải chỉ ghi bằng chủ nghĩa trong điều 4 của Hiến pháp). Sinh hoạt chính trị và kinh tế sẽ khởi sắc và tiến bộ. Một xã hội luật pháp được hình thành. Nhân dân tự tin, có trách nhiệm, thận trọng, đắn đo lựa chọn người đại diện cho mình, điều mà gần 50 năm nay họ không thực hiện được vì không có sự tự lựa chọn, các cuộc bỏ phiếu đều hình thức, không có thực chất. Qua quá trinh dân chủ hóa như trên, nhân dân có quyền tự lựa chọn nhân tài cho đất nước. Chính quyền do dân và vì dân sẽ không còn ở trên giấy mà đi vào cuộc sống.
Tôi xin nhắc lại : phản đối và bác bỏ đa nguyên, đảng cộng sản đã vi phạm tinh thần và lời văn của Hiến Pháp nước ta, tỏ ra không tin ở nhân dân, trốn tránh sự phán quyết công minh của cử tri và tạo nên một tư thế chính trị rất yếu kém của đất nước trước cộng đồng thế giới.
Sắp tới, ở Campuchia sẽ thực hiện đa nguyên chính trị, với cuộc tranh cử tự do của các phe phái đối lập để lập nên chính phủ liên hiệp. Điều này hợp với trào lưu chung của thế giới.
Một hướng chính trị quan trọng là sau 30 năm chiến tranh ở nước ta, nên quan tâm xây dựng hòa bình, đoàn kết và hòa hợp, dân chủ và nhân ái. Chiến tranh đã chấm dứt, nhưng di chứng nó để lại khá sâu trong nội tâm mỗi người. Người chiến thắng, kẻ chiến bại, người chính nghĩa, kẻ phản động, người cộng sản, kẻ quốc gia, người là chính, là phải, kẻ là tà, là ngụy...Cần làm tất cả để những vết thương lòng kín thành sẹo, Việc ra đi dai dẳng, không sao chấm dứt được của hàng trăm, hàng ngàn" thuyền nhân " mỗi tháng bất chấp hiểm nguy ngoài biển cả phải là nỗi lo âu của cả nước. Chương trình ra đi có trật tự ODP và chương trình ra đi nhân đạo HO (có thể đi đến gần nửa triệu người) là điều không bình thường. Họ phải gạt nước mắt rời bỏ tổ quốc một cách miễn cưỡng, cho thấy những vết thương chiến tranh của dân tộc ta vẫn còn rỉ maú, và còn lâu mới thành sẹo. Đã có người đặt chân lên đất Hoa Kỳ được vài ngày thì tự vận vì cảm thấy cuộc sống bơ vơ, gay gắt không như họ hy vọng. Biện pháp để giải quyết vấn đề trên đây là chủ trương hòa giải và hòa hợp dân tộc sâu sắc (tuy quá chậm còn hơn không) thấm nhuần đạo lý và lòng nhân ái của dân tộc, nêu lên quyền bình đẳng về nhân cách và quyền lợi của mọi công dân, bất cứ quá khứ ra sao. Để những người miễn cưỡng định ra đi có thể lựa chọn sự ở lại, cùng chung lòng, chung sức xây dựng đất nước mình, giữa tình thương yêu của đồng bào mình. Hãy xóa bỏ và gạt sang một bên những tỵ hiềm, những thù oán do lịch sử để lại. Những định kiến của người phía bên này đối với người phía bên kia cũng nên gác lại. Hãy nhìn nhau, mặt đối mặt, như những anh em ruột thịt. Hãy coi nhau như những người con cùng một tổ tiên, cùng ông bà, cha mẹ. Sự đối địch dù sao cũng chỉ là tạm thời, do hoàn cảnh lịch sử chi phối, một phần do những lực lượng bên ngoài. Những cảnh giết hại lẫn nhau, bắn chém nhau chỉ là bất đắc dĩ. Chẳng khác gì trên cùng một cơ thể, tay trái, tay phải đánh đấm, cào cấu nhau, đâm chém nhau vậy. Đã đến lúc hồi tỉnh, bình tâm nhìn lại tất cả. Để những người lương thiện của 2 bên đi đến hiểu nhau, nhân ái và độ lượng, tương kính và khoan dung, với ý nghĩa chung: mỗi bên đã yêu nước bằng những cách khác nhau, nay vẫn là lòng yêu nước gắn bó nhau trở lại để bắt tay vào xây dựng lại đất nước hoang tàn, vì cuộc sống của thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Cố gắng đạt đến một sự thỏa thuận chung là chấm dứt đả kích, moi móc, nặng lời với nhau, chung sức, chung lòng xây dựng tương lai. Chủ trương đoàn kết, hòa hợp ấy được thực hiện sẽ làm cho nhân dân cả nước phấn chấn, gần 2 triệu người Việt ở nước ngoài yên lòng. Một không khí hòa giải sẽ xuất hiện, cổ vũ những người có tài năng và tâm lòng ở trong và ngoài nước đóng góp hết sức mình cho sự nghiệp phục hưng tổ quốc. Đối với bà con Việt kiều ở hải ngoại những cuộc vận động tiếp sức cho sự phát triển của tổ quốc sẽ mang quy mô rộng, hiệu quả cao, không rời rạc, ngập ngừng như hiện nay. Những chất xám Việt Nam ở nước ngoài có giá trị cao sẵn sàng trở về (một thời gian hay về hẳn) để đóng góp cho đất nước những trí thức, kinh nghiệm về quản lý, kinh doanh, khoa học kỹ thuật quý báu. Nỗi bất hạnh xa rời tố quốc, của hàng triệu con người được chuyển thành một lợi thế độc đáo, thu hút những tài năng trở về giúp nước, tăng chất lượng, tốc độ phát triển của đất nước.
Về chính sách đối ngoại, cần kiến trúc lại cho thích ứng với những thay đổi cực kỳ lớn lao đã diễn ra trên thế giới trong thời gian gần đây. Phải đưa đất nước Việt Nam ta hòa nhập vào cộng động quốc tế. Phải thoát ly dứt khoát khỏi sự phân chia giáo điều cũ kỹ :" hai phe, bốn mâu thuẫn"...Phải tỉnh táo gác bỏ kết luận về" nội dung cơ bản của thời đại ngày nay là sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới ". Đó là kiểu nói lấy được, chủ quan, không có cơ sở thực tiễn, cũng như kiểu nói cố đấm ăn xôi rằng, chủ nghĩa tư bản đang giẫy chết vậy.
Hội nhập với thế giới thì phải thực hiện những gì ta đã cam kết khi gia nhập. Liên Hợp Quốc. Chủ động và tự giác mà thực hiện. Trước hết về quyền con người, về quyền công dân. Sẽ không còn công dân nào bị bắt bớ, bị giam cầm hay bị quấy rầy do những quan điểm, tư tưởng thuộc ý thức hệ này hay ý thức hệ khác. Hãy từ bỏ sự cưỡng bức về nhận thức và tư tưởng, ví dụ như sự khẳng định yêu nước là phải yêu chủ nghĩa xã hội. Mỗi công dân có quyền suy nghĩ và có nhận thức riêng của mình qua sự xét đoán của chính mình. Không ai có quyền gò ép cả.
Không thể dửng dưng, vô trách nhiệm bất chấp dư luận thế giới phủi tay trước hàng mấy trăm trường hợp từ ủy viên trung ương, cán bộ cao cấp, tướng tá cho đến công dân thường bị xử oan, bị án oan, án giả, quy chụp, tù đàng trong suốt mấy chục năm qua.
Sòng phẳng và công bằng trả lại tư do cho tất cả những người đang bị bắt giữ, bị giam tù vì những quan niệm chính trị hay tôn giáo của họ. Hiện nay Việt Nam mang cái tiếng là nước vi phạm nhân quyền, nước vi phạm quyền công dân vào loại cao nhất! Hàng loạt vụ án chính trị " chống đảng ", " xét lại" " chống chủ nghĩa xã hội ", "phản động "...cần có một tổ chức pháp lý kết luận lại. Phải minh oan cho những người bị xử oan. Phải đính chính cho những trường hợp bị giam, bị phạt nặng hơn sự cần thiết. Phải xin lỗi, đền bù những tổn thất theo đúng luật. Làm được những điều ấy, không những nhà cầm quyền không mất uy tín mà còn được hoan nghênh. Nhân dân và cả thế giới trông đợi. Im lặng, ỉm đi thì lòng dân không sao yên được, công bằng xã hội chỉ là nói hão, trên giấy. Cả thế giới tiến bộ không chấp nhận thái độ bất nhân.
Cần chủ động đi những bước lớn, thật lòng hòa giải với những kẻ thù cũ : Hoa Kỳ, Nhật Bản, Pháp, Trung Quốc và những đồng minh của các nước này. Cần tìm ra những sáng kiến để sớm đi đến bình thường hóa một cách tốt đẹp nhất, có lợi cho các bên, đồng thời trên nhiều hứơng.
Quan hệ với Hoa Kỳ có ý nghĩa quan trọng bậc nhất. Trong vấn đề tù binh chiến tranh (POW) và người mất tích khi làm nhiệm vụ (MIA), có biện pháp để chủ động xóa tan những hoài nghi. Tất cả những tù binh phía Việt Nam giữ đã trao trả hết cho phía Hoa Kỳ sau Hiệp định Paris. Trường hợp anh lính Garwood tự nguyện ở lại, đến 1979 mới về Mỹ là trường hợp duy nhất. Hài cốt lính Mỹ tìm ra được đến đâu là giao cho phía Hoa Kỳ. Những tin tức về tù binh Mỹ vẫn còn ở Việt Nam là thất thiệt, là những tin đồn có động cơ không lành mạnh, hoặc do những lầm lẫn.
Tôi đã theo dõi khá chặt vấn đề tù binh Mỹ ở miền Bắc và đã viết một cuốn sách về họ. Tôi đã gặp khá nhiều tù binh Mỹ từ năm 1967 đến năm 1973 và thường xuyên tiếp xúc với cơ quan của Bộ Quốc Phòng phụ trách vấn đề này. Tôi khẳng định dứt khoát và có cơ sở là hoàn toàn không còn một quân nhân Mỹ nào còn sống ở Việt Nam cả. Tôi khẳng định điều này trên tinh thần thông cảm sâu sắc và tôn trọng tình cảm của những gia đình, thân nhân của các quân nhân Mỹ bị mất tích, mà chưa có tin tức về trường hợp hy sinh của họ. Không thể để cho những gia đình ấy sống trong tình trạng phấp phỏng, hoài nghi và hy vọng không có chút cơ sở thực tế, để rồi sẽ bị thất vọng một cách đau khổ. Tôi đề xuất một cách làm : phía Việt Nam đồng ý để phía Mỹ, những đại diện của chính quyền Mỹ đại diện của những gia đình quân nhân Mỹ bị mất tích tự do đi đến những địa phương mà họ muốn làm công tác điều tra cần thiết. Phía Việt Nam tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất, dễ dàng nhất, hợp tác với phía Mỹ một cách thành thật, vô tư, không chút vụ lợi. Bất cứ chi tiết nào phía Mỹ nêu ra về vấn đề nào cũng sẽ được phía Việt Nam đón nhận, chung sức làm sáng tỏ trong khả năng cố gắng cao nhất.
Trong vấn đề Campuchia (là một điểm then chốt trong quan hệ Việt-Mỹ), cần công khai, sòng phẳng theo lập trường hoàn toàn tôn trọng độc lập, chủ quyền của Campuchia, để người Campuchia giải quyết với nhau vấn đề của nước họ, với sự giám sát của Liên Hợp Quốc, của Hội Đồng Bảo An. Nhân đây cũng cần nhận rõ : chúng ta đã để bộ đội Việt Nam quá lâu ở Campuchia là sai lầm (gần 10 năm), hơn 100. 000 thương binh Việt Nam do cuộc chiến tranh này gây ra, cần có chính sách chăm lo một cách chu đáo. Một số khá đông anh em bị cụt chân. Cần công khai xin lỗi phía Campuchia về việc làm sai trái của một số chuyên gia Việt Nam ở bên đó (từ năm 1979 đến năm 1990), những việc làm bao biện, mang ý thức nước lớn, gia trưởng, thiếu tôn trọng chủ quyền nước bạn, kể công...Cũng cần khẳng định rằng việc đưa bộ đội vào Campuchia là cần thiết và chính đáng, nhầm bảo vệ an ninh của đất nước mình, đồng thời để cứu một dân tộc khởi bị tàn sát. Nhưng sau đó chủ trương xây dựng một liên minh đặc biệt của ba nước Đông Dương mang tính chất chủ quan, lỗi thời, không thích hợp với tình hình đang phát triển, gây căng thẳng không cần thiết trong khu vực. Việc này bị thế giới lên án rất mạnh mẽ và do đó Việt Nam bị cô lập kéo dài.
Chủ trương đoàn kết, hòa hợp với những người Việt Nam với nhau (trước kia ở hai trận tuyến) gắn liền với chủ chương thật lòng hòa giải với nước Mỹ. Nên đặt vấn đề với Hoa Kỳ trên tinh thần nhân đạo cùng phối hợp chăm sóc những nạn nhân chiến tranh ở cả hai miền, thuộc cả hai phía trong chiến tranh. Cùng phối hợp chăm sóc các thương binh, những người tàn tật, những gia đình có người thân hy sinh trong chiến tranh, những cựu sĩ quan, những công chức về hưu (của cả hai phía).
Hoàn cảnh lịch sử đã dẫn đến cuộc đụng đầu giữa Hoa Kỳ và Việt nam, mang lại những tổn thất to lớn về người và của cho cả hai bên. Có những mất mát không gì hàn gắn được. Nay đã đến lúc dứt khoát giở sang trang khác trong mối quan hệ giữa hai nước. Hãy xây dựng giữa nhân dân hai nước một tình bạn lâu bền và sâu sắc. Từ năm 1988, tôi viết bài nói quan hệ Việt-Mỹ, duyên hay là nợ? theo tinh thần này.
Hãy mở rộng quan hệ giữa những cựu binh, kể cả thương binh, giữa văn nghệ sĩ với nhau, giữa các trường đại học, viện nghiên cứu, giữa các tổ chức phụ nữ, thanh niên, lao động, công đòan của hai nước, dựa trên lòng tin và tình bạn. Luận điệu cho rằng hiện nay đế quốc Mỹ và phản động đang tập trung sức để lật đổ chính quyền ở Việt Nam là một luận điệu chủ quan, mang nặng tâm lý suy diễn, hoảng hốt, mang dấu ấn của thời kỳ đối địch đã thuộc về quá khứ. Thật ra chính giới Hoa Kỳ cũng chỉ mong cho nước Viêt Nam ổn định, dân chủ hóa đồng bộ cả về chính trị và kinh tế, gia nhập một cách thuận lợi vào cuộc sống của cộng động thế giới. Mong muốn ấy phù hợp với ước vọng của nhân dân ta.
Khi đất nước ta đi vào con đường dân chủ hóa, đoàn kết hòa hợp dân tộc, nên nghĩ đến việc chủ động mời tổng thống Mỹ, tổng thống hoặc thủ tướng Pháp, thủ tướng Nhật Bản và Trung Quốc, mời Đức Giáo Hoàng viếng thăm nước ta để có thể tìm hiểu rõ tình hình, thấy tình cảm mới mẻ của nhân dân ta giành cho những nước vốn là thù địch. Việt Nam không bao giờ để lòng để dạ những mối thù trong quá khứ.
Chúng ta chủ động tạo nên những điều kiện để tranh thủ đầu tư quy mô lớn, cũng như sự giúp dỡ cho vay của các nước và các tổ chức quốc tế như ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ thế giới (IMF). Trong không khí tin cậy và hiểu biết lẫn nhau, Việt Nam nên sớm mời một số chuyên gia quốc tế am hiểu về kinh tế, tài chính, ngân hàng, quản trị công nghiệp, quản lý kinh doanh, quản lý thị trường, luật pháp, tư nhân hóa, áp dụng công nghệ mới, chuyển giao kỹ thuật...đến cùng chuyên gia ta lập các phương án về sản xuất, quản lý, kinh doanh, đào tạo cán bộ chuyên ngành theo những nội dung và tiêu chuẩn của thế giới.
Một chuyên gia kinh tế Nhật Bản nhận xét rằng: Việt nam vẫn chưa từ bỏ bệnh chủ quan ngay trong đại hội 7. Các đại biểu khi giơ tay biểu quyết đến năm 1995 đất nước nhất định sẽ căn bản ra khỏi khủng hoảng kinh tế, tài chính, chỉ biểu lộ một quyết tâm, một mong muốn chủ quan không có cơ sở. Tính khả thi, lại giống như nghị quyết của các đại hội trước, là hoàn toàn đáng ngờ! Quả nhiên ngay sau đại hội, giá vàng, giá gạo, giá đô-la đều tăng vọt, bất chấp những quyết định vừa được biểu quyết!...Nghị quyết một đàng, cuộc sống đi một nẻo.
Khi có lòng tin cậy nhau, chính phủ dân chủ thật sự do dân và vì dân có thể thẳng thắn trình bầy với các nước quan tâm đến tình hình nước ta về thực trạng của đất nước mình, số dân, số lao động, số thất nghiệp, số người tàn tật, số thương binh nặng (của cả hai phía), số trẻ em suy dinh dưỡng...Tình trạng nền kinh tế, giáo dục của nước ta. Thực trang hạ tầng cơ sở. Những vấn đề cấp bách cần ưu tiên giải quyết, vấn đề tài chính, ngân hàng, vấn đề nợ nước ngoài, những ý kiến đề xuất của ta, của các chuyên gia quốc tế.
Theo những tính toán sơ bộ của những chuyên gia am hiểu của ESCAP (ủy ban kinh tế xã hội châu á và Thái Bình Dương) thuộc Liên Hợp Quốc, trong điều kiện Viêt Nam hiện tại (với thu nhập tính theo đầu người dưới 200 đô la) muốn có bước phát triển vừa phải để khỏi tụt hậu thêm so với các nước láng giềng Đông Nam á thì trong 5 năm tới, mỗi năm Việt Nam cần được đầu tư từ 4 đến 6 tỷ đô la (trong năm năm là từ 20 đến 30 tỷ đô la), và năm năm tiếp theo (1995-2000) mỗi năm cần chừng 5 tỷ đến 8 tỷ đô la.
Họ cho rằng những con số có vẻ to lớn trên đây là cần thiết, vì Việt Nam đã trải qua chiến tranh quá lâu dài (hơn 30 năm), chịu đựng 10 triệu tấn bom đạn, cơ sở hạ tầng bị tàn phá nặng nề, hồi phục chưa được mấy. Không có sự giúp dỡ khởi đầu của một số cường quốc thế giới thì khó có thể bước vào thời kỳ phát triển được. Việt Nam cần một kế hoạch như kế hoạch Marshall ở Tây Âu sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Bảy nước công nghiệp phát triển đang nghiên cưú vấn đề giúp dỡ Liên Xô. Các nước Tây Âu đang nghiên cứu vấn đề giúp dỡ các nước Đông Âu (qua ngân hàng BERD chẳng hạn).
Một số chuyên gia nhấn mạnh đến vấn đề ưu tiên cấp bách : dựng dậy hệ thống giáo dục đang xuống cấp nhanh (cơ sở đào tạo nh
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #16  
Old 06-10-2004, 12:38 PM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

:::: Aziz Nesin ::::
Hội Nghị Các Nhà Giải Phẫu





Hội nghị quốc tế các nhà giải phẫu lần này được tiến hành ở thành phố Luyblitx. Nó mang một ý nghĩa quan trọng. Hội nghị lần thứ mười đã thu hútđuợc sự chú ý của các nhà giải phẫu nổi tiếng nhất trên thế giới và hoá ra là một hội nghị có đông người dự nhất. Tham dự hội nghị còn có phóng viên báo chí của tất cả các nước, mặc dù đấy không phải là một sự kiện trọng đại, như một trận đấu bóng đá hoặc một cuộc họp báo để cho một nữ minh tinh màn bạc - tóc đen hay tóc hung - phô diễn quần áo của mình. Các nhà giải phẫu cự phách nhất của hai mươi ba quốc gia đem tới hội nghị những báo cáo khoa học. Trong số họ có những người tài nghệ cao cường đến mức ngay cả việc tách rời từng bộ phận cơ thể con người rồi ghép lại như cũ - như thể tháo lắp chiếc đồng hồ hay khẩu súng trường tự động - cũng chả là điều gì ghê gớm đối với họ cả. Bởi vì vậy mà báo chí khắp thế giới, sau phần thông báo về những mẫu quần áo tắm phụ nữ mới nhất, về kết quả các trận đấu bóng đá tranh giải vô địch quốc gia và về những tội ác khủng khiếp nhất, đã cho là cần thiết phải chạy mấy dòng về hội nghị các nhà giải phẫu.

Ngày đầu tiên được dành cho các thủ tục khai mạc hội nghị. Hôm sau, tại phiên họp toàn thể, đại biểu bắt đầu nghe các bản tham luận. Sang ngày thứ ba bắt đầu phần thảo luận. Bác sĩ C.Klazeman, nhà giải phẫu Mỹ nổi tiếng, bước lên diễn đàn cùng một người giúp việc. Các phóng viên thông tấn, báo chí vội vã rút bút và sổ tay ra. Các nhà giải phẫu ngồi kín phòng họp, đeo ống nghe vào, chuẩn bị nghe diễn giả nói. Cố nhiên, mỗi người sẽ chọn trong 4 ngôn ngữ châu Âu thứ nào mình thông thạo nhất.

- Thưa các đồng nghiệp kính mến! - Bác sĩ C.Klazeman bắt đầu - Tôi xin chia sẻ với các đại biểu dự hội nghị lần thứ mười những suy nghĩ về ca giải phẫu thú vị nhất của tôi sau suốt 35 năm thực hành giải phẫu. Ai cũng biết rằng cho đến nay chưa có một nhà giải phẫu nào thành công trong việc thay đổi vân ngón tay cả. Lịch sử y học chưa hề biết đến một thí nghiệm tương tự vì vậy nó không hề được ghi thành văn. Khá nhiều lần chúng tôi đã lột lớp da ngón tay nhưng lớp da mới mọc ra vẫn như cũ. Vì vậy mà cảnh sát không gặp khó khăn trong việc lùng bắt bọn trộm cướp, giết người. Trong ca giải phẫu mới nhất, tôi đã thành công trong việc thay đổi lớp vân tay. Trước mắt các ngài là một trong những thương gia lừng danh nhất nước Mỹ - Mr Thomas - vua thụ tinh nhân tạo. Biệt danh của ông là "Jack, kẻ đập vỡ quai hàm". Ông ta đã hiện diện trong hồ sơ lưu trữ của Cục Điều tra liên bang trong cái biệt danh này. Trong suốt mười năm trời cảnh sát ra công truy lùng tay bẻ khóa lão luyện này mà đành uổng công. Lý do chỉ là vì sau mỗi vụ trời tôi lại tiến hành một cuộc giải phẫu thay vân tay cho Mr Thomas, tức "Jack, kẻ đập vỡ quai hàm". Tôi xin cam đoan với các bạn rằng phẫu thuật thay vân tay không chỉ khó khăn nhất mà còn có lợi nhất, bởi vì cái việc được chia đôi số của cải các tay trộm chôm được trong két đâu phải là dở gì. Bây giờ tôi xin chiếu cho quý vị coi những cảnh phim giới thiệu phần kỹ thuật của ca mổ.

Tất cả các nhà giải phẫu có mặt trong phòng đều nhất trí công nhận đồng nghiệp người Mỹ quả là chuyên gia cự phách nhất trong lĩnh vực mổ xẻ. Song bản tham luận của nhà giải phẫu người Anh tiếp theo liền đồng nghiệp người Mỹ đã làm cho mọi người phải thay đổi ý kiến của mình. Mr B. Lains bước lên diễn đàn cùng một người nữa, bắt đầu:

- Thưa các đồng nghiệp rất kính mến! Tôi xin kể cho các bạn nghe một phẫu thuật đáng được coi là phức tạp nhất và đáng chú ý nhất trong lịch sử y học của nhân loại. Các bạn thấy đấy, bên cạnh tôi là vị hạ sĩ quan anh hùng Mechew, trong thế chiến thứ hai đã từng hạ sát được 26 lính giặc. Song chẳng may một mảnh lựu đạn địch đã tiện đứt đầu ông... Với thứ keo đặc chế của mình, tôi đã gắn được chiếc đầu đứt lìa đó vào cổ, trông nó thậm chí còn đẹp hơn trước ấy. Nay thì đến bom nguyên tử cũng chẳng làm cho nó rời ra được nữa. Bây giờ tôi xin "bật mí" cách pha chế chất keo này.

Sự kinh ngạc của những người tham dự hội nghị đã lên đến tột :Dnh. Tất cả đều tin chắc rằng sẽ không còn được nghe bản tham luận nào thú vị hơn nữa. Nhưng diễn giả kế đó - một bác học Pháp - đã buộc họ phải thay đổi ý kiến này: Ông ta bước lên diễn đàn cùng một mỹ nhân tóc vàng bận bộ đồ tắm. Vừa nhác trông thấy nàng, các vị đại biểu có tuổi đã lập tức nhấp nhỏm trên ghế.

- Thưa các đồng nghiệp vô cùng kính mến! - Nhà giải phẫu Pháp lên tiếng. - Tôi muốn kể cho các bạn hay về một phẩu thuật chỉnh hình khác thường. Tôi hy vọng các bạn sẽ đánh giá đúng mức thành công của tôi nếu tôi nói cho các bạn biết rằng người đẹp tóc vàng vừa tạo ra những phản ứng dữ dội trong phòng này chính là bà mẹ vợ đã 65 tuổi của tôi.

Sau đó diễn giả còn thông báo thêm một số chi tiết nữa: ông đã thực hiện phẫu thuật với bà mẹ vợ là cốt để trả thù người vợ đã phụ bạc ông; sau khi biến bà mẹ vợ thành một thiếu phụ trẻ đẹp, ông đã "bắt bồ" với bà ta. Nhà bác học Pháp kết thúc bản tham luận của mình bằng phần trình bày cơ sở khoa học của phát minh kỳ diệu này.

Các diễn giả nối nhau lên diễn đàn, người nào cũng công bố công trình nào đó kỳ lạ. Chẳng hạn như nhà giải phẫu Đức tuyên bố:

- Cái chết đối với một con người không có nghĩa là sự ngưng hoạt động của tất cả các bộ phận. ở người chết vì chứng nhồi máu, cố nhiên là tim không thể làm việc được nữa, nhưng các bộ phận khác vẫn hoạt động như thường. ở người chết vì bệnh lao, chỉ có buồng phổi là ngưng hoạt động. Theo tôi, sau khi tim hoặc phổi đã ngưng hoạt động, cái chết vẫn chưa hiện diện... Từ các bộ phận không bị hư hại của người chết, tôi đã tạo ra những con người mới. Đây - nhà giải phẫu Đức chỉ vào một chàng trai đầy sinh lực, có thân hình của thần Apolon. - Trước mắt các bạn là một con người mà đôi chân vốn là của một lực sĩ đã chết vì chứng viêm ruột thừa và thân thì của một đô vật đã chết vì chứng hoại thư, còn đầu thì của một bệnh nhân lao phổi.

Những người có mặt ở hội nghị cho rằng nếu hôm sau nhà giải phẫu Nhật không đưa ra được phát minh lạ thường nào thì ca giải phẫu cuả vị bác sĩ Gwynter người Đức, tạo ra con người mới từ các bộ phận không bị hư hại của người chết, xứng đáng được coi là đặc sắc nhất trong tất cả các công trình được công bố tại hội nghị.

Nhưng nhà giải phẫu người Nhật Himi Siyama còn làm cho cử toạ sửng sốt hơn nữa. Chỉ vào một người đang đứng kế bên, ông nói:

- Đây là một người Nhật, do bị thọt chân nên không được gọi vào lính trong thế chiến thứ hai! Không đủ sức mang mãi vết thương tinh thần trầm trọng đến như thế, ông ta đã mổ bụng tự sát, kết quả là ruột bị rứt ra khỏi khoang bụng...

Đã đến ngày cuối cùng của hội nghị. Các diễn giả gắng sức vượt trội nhau bằng những tham luận càng về sau càng gây kinh ngạc hơn. Riêng có một tay bác sĩ cứ ngồi yên nghe các đồng nghiệp của mình báo cáo. Tất cả những người tham dự hội nghị đều đã lên tiếng. Ngài chủ toạ bèn quay về phía đại biểu cứ nín thinh đó mà nói:

- Thưa ngài, lẽ nào ngài không có ý định kể cho hội nghị nghe chút gì về các phẫu thuật của ngài hay sao?...

- Có chứ ạ, song chẳng biết việc làm của tôi có đáng để cho quý vị lưu tâm không?

Trong phòng vang lên những tiếng nói:

- Có, có! Chúng tôi muốn nghe ông phát biểu!

- Tất cả đại biểu đều phải có tham luận...

Tay bác sĩ được khích lệ dữ quá, bèn bước lên diễn đàn. Ông ta nói:

- Thôi được, quý vị đã muốn thì tôi xin trình bày ca mổ cắt amidal của tôi.

Tiếng cười vang lên trong phòng: khéo nói chuyện tào lao sau ngần ấy tham luận kinh thiên động địa!

Tiếng cười làm mếch lòng diễn giả:

- Thưa quý vị! Vì khiêm tốn nên tôi đã làm giảm bớt ý nghĩa phẫu thuật của mình. Nhưng tôi không thể chịu được sự nhạo báng. Vừa mới nghe đến amidal là quý vị đã cười ầm lên rồi.

Tiếng cười trong phòng càng rộ lên:

- Trò nhảm nhí chứ phẫu thuật cái gì!

- Tôi thì chả thèm động tay vào cái thứ phẫu thuật đó!

- Một nhà giải phẫu mà nhắc đến ba cái trò nhăng nhít đó thì thật là đáng xấu hổ!

Những tiếng la ó từ tứ phía đó càng làm cho diễn giả nổi sùng lên:

- Thế quý vị có biết cái người được tôi cắt amidal cho là ai không nào?

- Thì cứ cho rằng ông là Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đi! Liệu điều đó có liên quan gì tới phẫu thuật nào?

Diễn giả mặt đỏ gay:

- Người được tôi tiến hành phẫu thuật là một nhà báo.

Các đại biểu dự hội nghị cười sặc suạ:

- Nhà báo, thương gia, viên chức hay người lính chăng nữa thì có gì khác nhau nào?

Diễn giả giơ tay lên:

- Yên lặng cho! Vâng, thưa quý vị, chẳng có gì khác nhau cả. Nhưng lúc đó ở nước chúng tôi vừa ban hành Luật Báo chí mà. Nhà báo không tài nào mở miệng ra được nên buộc tôi phải cắt amidal cho anh ta qua đường... hậu môn!

Nụ cười biến khỏi khuôn mặt các đại biểu dự hội nghị. Thế vào đó là niềm kính trọng sâu xa đối với diễn giả. Tiếng vỗ tay dậy lên như sấm. Toàn thể những người tham gia Hội nghị quốc tế các nhà giải phẫu lần thứ X đã nhất trí công nhận phẫu thuật cắt amidal này là sự kiện đặc sắc nhất trong lịch sử y học./.



Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời


Ðiều Chỉnh
Xếp Bài

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
Bạn không được quyền gởi bài
Bạn không được quyền gởi trả lời
Bạn không được quyền gởi kèm file
Bạn không được quyền sửa bài

vB code đang Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển đến


Múi giờ GMT. Hiện tại là 06:07 PM.


Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2025, Jelsoft Enterprises Ltd.