#11
|
||||
|
||||
![]() ÃO TỬ - RĂNG GÃY LƯỠI CÒN
Truyền thuyết cổ của xứ Trung Hoa nói rằng. Lão Tử là một bậc thánh hiền. Còn thầy dạy Lão Tử có tên là Thường Thu. Một năm kia, thầy Thường Thu do tuổi cao sức yếu, lại bệnh nặng nên sắp chết. Lão Tử nghe tin dữ, vội từ xa lại thăm thầy. Lão Tử cầm tay thầy, ngập ngừng hỏi: “Thầy sắp về chầu tổ tiên, có lời hay ý đẹp nào truyền lại cho hậu thế, có thể nói cho đệ tử biết không?” Thầy Thường Thu chầm chậm nói: “Con không cần hỏi, ta cũng sẽ nói cho con nghe! “Thầy Thường Thu thở dài một cái, rồi nói: “Đi qua quê hương phải xuống xe đi bộ. Con có biết không?” “Con biết rồi ạ!” Lão Tử trả lời, “Qua quê hương phải xuống xe, không phải là muốn nói không nên quên tình cảm cố hương ư?” Thầy Thường Thu mỉm cười, nói: “Đúng rồi! Vậy thì, khi đi qua những cây cầu gỗ lớn cần bước từ từ. Con có biết không?” “Con biết!” Lão Tử nói tiếp, “Qua cầu bước chậm, ý muốn nói phải kính lão, tôn hiền phải không ạ?” “Lại đúng nữa!” Thầy Thường Thu lại mỉm cười và gật đầu tỏ vẻ tán thưởng người học trò giỏi của mình. Nghĩ một lúc, thầy há miệng ra, hỏi Lão Tử: “Con nhìn vào miệng ta xem, đầu lưỡi có còn không?” “Còn ạ!” Lão Tử trả lời và ngạc nhiên hỏi lại, “Tại sao đến giờ này thầy lại hỏi chuyện đó để làm gì ạ?!” Thầy Thường Thu không trả lời vào câu hỏi của Lão Tử, ngài tiếp tục hỏi: “Thế con có thấy ta còn chiếc răng nào không?” “Chẳng còn chiếc răng nào cả!” Lão Tử trả lời vẻ lơ đãng. Thầy Thường Thu hỏi: “Có có hiểu ý của ta qua những câu hỏi đó không?” Lão Tử nghĩ một lúc, chợt tỉnh ngộ, thành kính trả lời: “Bây giờ con hiểu ạ! Lưỡi còn, phải chăng vì nó mềm ạ? Còn răng gãy hết không phải vì nó quá cứng đó sao?” Thầy Thường Thu nắm chặt tay Lão Tử mỉm cười, cảm động nói: “Rất đúng. Việc trong thiên hạ, cách thức xử thế đãi nhân cũng nằm trong đạo lý đó. Bây giờ thầy không còn gì để dạy cho con nữa rồi!” Nói xong, thầy thanh thản trút hơi thở cuối cùng trong vòng tay người học trò xuất chúng. |
#12
|
||||
|
||||
![]() Trâu Kỵ ghi nhớ lời Thuần Vu Khôn nên ông làm việc hết sức siêng năng và cẩn thận. Bấy giờ ai cũng đồn vị quan trấn thủ đất A là người hiền, và chê quan trấn thủ đất Tức Mặc đủ điều. Trâu Kỵ để tâm đến việc đó, cho người xem xét hư thực rồi tâu lại cho Tề Uy Vương biết.
Uy Vương cho triệu tập quần thần, lại đòi hai vị quan trấn thủ kia. Trước mặt bá quan, vị quan đất Tức Mặc bị coi bằng "nửa con mắt". Vua gọi lão ra hỏi: - Người trấn thủ Tức Mặc cớ sao để các quan ở triều chê ngươi? Lão đáp: - Thần chỉ biết làm hết chức trách của mình, còn việc khen chê thần không được biết. Uy Vương lớn tiếng: - Ta cho người dò xét đất Tức Mặc thấy ruộng vườn tươi tốt, người dân giàu có, việc quan không bê trễ, cả một vùng phương Đông ấy yên ổn, mới hay nhà ngươi một lòng vì dân, không đút lót cho bọn quan lại ở triều, vì lẽ đó mà nhà ngươi bị chê. Ngươi thật xứng đáng là một lương thần. Nói rồi liền gia phong cho vị quan đất Tức Mặc. Lại gọi vị quan đất A, nói: - Ngươi trấn thủ đất A thế nào mà ngày nào ở triều cũng thấy lời khen ngợi về ngươi. Ta cho người đến dò xét thì thấy ruộng vườn bỏ hoang người dân đói rách. Quân Triệu xâm lấn bờ cõi ngươi không chịu cứu. Nhà ngươi bóc lột tiền của dân chúng đút lót cho kẻ tả hữu của ta để được tiếng khen. Ngươi là tên tham quan độc ác. Quan đất A sụp lạy xin tha tội. Uy Vương truyền đem hắn bỏ vào chảo dầu sôi. Các quan xanh mặt. Vua truyền những tên từng khen chê bất công đó ra mắng: - Các ngươi là tai mắt của ta lại ăn bẩn, phải trái đảo lộn. Nay đem các ngươi cho vào vạc dầu. Uy Vương truyền đem những kẻ thân tín nhất của mình bỏ vào vạc dầu để làm răn! Chư hầu thấy sự cải cách của Uy Vương đều sợ. Lời Bàn: Việc này nhan nhản ở mọi xã hội. Đời nay có khác gì đời xưa? Thí sinh đi thi thấy mình yếu kém bèn đút lót để được điểm cao. Thậm chí có người không đi thi mà vẫn cấp bằng làm mất công nhà vua phải "lật sổ bộ" ra tra. Nguyễn Khuyến nói: "Có tiền việc ấy thì xong nhỉ? Đời trước làm quan cũng thế a?" May mắn thay cho triều nào minh quân gặp lương thần. Vụ án hai ông quan trên đây là một bài học cho những người có trách nhiệm với người dân. |
#13
|
||||
|
||||
![]() Trong Một Cuộc Tranh Biện
Không Có Người Thắng Kẻ Bại Trong Một bữa tiệc, ông khách ngồi bên tay mặt tôi quả quyết rằng câu "Có Một vị thần nắm vận mạng của ta, ta cưỡng lại không được" ở trong Thánh Kinh. Ông ta lầm. Tôi biết vậy. Tôi chắc chắn vậy, không ngờ vực gì Nữa. Cho nên, để tỏ sự hơn người của tôi, sự quan trọng của tôi, tôi Tự nhận việc cải chính. Mà có ai cầu tôi cải chính đâu! Tôi bảo ông Ta rằng câu đó của thi hào Shakespeare. Ôn ta không chịu nhận mình lầm, Cãi! "Sao? Câu đó mà của Shakespear sao? Không thể được, thật vô lý! Rõ ràng trong Thánh kinh mà! Tôi biết". Ngồi bên trái tôi là ông Grammond, Bạn cũ của tôi, ông này đã nhiều năm nghiên cứu Shakespear. Cho nên Chúng tôi quay lại cùng xin ông Grammond phân giải xem ai phải ai trái. Ông Grammond đá mạnh vào chân tôi ở dưới bàn làm hiệu rồi tuyên bố: "Anh Dale anh lầm rồi: ông nói đúng. Câu đó ở trong Thánh kinh". Khi đi về cùng với ông Grammond, tôi nói: "Anh biết câu đó của Shakespear mà!" Ông Grammond trả lời: "Dĩ nhiên. Nó ở trong kịch Hamlet, hồi V, màn II. Nhưng, này anh, chúng ta là khách trong một cuộc hội họp vui vẻ, tại Sao muốn chứng minh rằng ông ấy lầm? Có phải làm như vậy mà người Ta có thiện cảm với mình đâu? Sao không để ông ta giữ thể diện một Chút? Ông ta không hỏi ý kiến của anh mà. Tại sao quả quyết tranh biện Với ông ấy? Đừng gây với ai hết". "Đừng gây với ai hết". Ông bạn già của tôi nói câu ấy, nay đã khuất, Nhưng lời khuyên đó, bây giờ vẫn còn giúp cho tôi nhiều. Mà hồi ấy tôi cần có bài học đó vô cùng. Thuở thiếu thời, tôi ham Mê tranh biện với anh tôi. Ở trường, không có cuộc tranh biện nào mà Tôi không có mặt. Tôi học phép luận lý, phép lập luận, sau này tôi Dạy môn biện chứng pháp và tôi phải thú rằng: Ôi! Mắc cỡ thay! Có Lần tôi tính viết một cuốn sách về môn đó nữa. Tôi đã có mặt trong Hàng ngàn cuộc tranh biện và có khi dự cuộc bàn cãi nữa. Và sau vô Số kinh nghiệm, tôi nhận thấy rằng cách hay nhất để thắng một cuộc Tranh biện là tránh hẳn nó đi. Hãy trốn nó như trốn rắn hổ, hoặc trốn Động đất vậy. Mười lần thì có tới Chín lần các đối thủ, sau cuộc tranh biện, vẫn tin chắc rằng mình có Lý. Trong các cuộc tranh biện không Ai thắng hết. Thực vậy, vì nếu bạn thua... thì là thua rồi. Và nếu bạn Thắng thì... bạn cũng thua nữa. Tại sao ư? Thì đây! Ví dụ bạn thắng đối Thủ của bạn một cách rực rỡ và tỏ cho người đó thấy rằng y là một Thằng ngu. Phải, rồi sao nữa? Bạn đã làm thương tổn lòng tự ái, lòng Kiêu căng của người ta. Người ta tức giận lắm vì đã thua bạn. Rồi thì: Kẻ nào bắt buộc nghe ai, luôn luôn vẫn giữ ý sai của mình. Bạn biết điều đó chứ? Trong một công Ty lớn bảo hiểm, tất cả nhân viên phải theo lệnh này: "Không bao giờ Được tranh biện". Không phải tranh biện mà làm cho người ta tin được. Hai sự đó không có chút liên lạc gì với nhau hết. Muốn dẫn dụ người, Không phải tranh biện mà được. Chẳng Hạn, đã lâu rồi, tôi có một người học trò hiếu thắng lắm, trung hậu Giản dị, nhưng trời! Thích cãi nhau làm sao! Anh ta làm đại lý cho một Hãng bán cam nhông, nhưng không thành công, chỉ vì anh thích cãi lại những Người anh mời mua xe và làm cho họ phát giận. Anh tranh biện, la ó, không Tự chủ được nữa. Có khách nào dám chỉ trích xe của anh ư, anh đỏ mặt Tía tai lên, chỉ muốn nhào vào bóp cổ người ta. Cái thời đó, bao giờ Anh cũng thắng trong các cuộc tranh biện. Nhưng về sau, anh thú với tôi: Than ôi! Biết bao lần ở nhà một khách hàng ra, tôi khoan khoái tự nhủ: "Ta đã làm cho thằng cha đó phải ngậm câm"... Tôi làm cho họ ngậm câm, Phải, nhưng tôi chẳng bán cho họ được chút chi hết. Công việc thứ nhất của tôi không phải là dạy anh ta ăn nói, mà dạy Anh ta giữ mồm miệng. Và bây giờ anh ta là một người bán hàng quan Trọng nhất trong công ty Bạch xa ở Nữu Ước. Bây giờ anh làm sao? Xin Nghe anh ta nói: Bây giờ, khi tôi lại Nhà một khách hàng và nếu người đó bảo tôi: "Cái gì? Xe cam nhông Hãng Bạch xa? Tôi xin chịu. Xe đó dở quá. Cho không tôi, tôi cũng không Nhận. Tôi, tôi mua xe cam nhông hãng X", thì tôi ngọt ngào trả lời người ấy rằng: "Thưa ông, xe hãng X tốt lắm. Nếu ông mua xe hãng đó, ông không lầm đâu. Hãng đó tin cậy được và Chế tạo đồ thật tốt". Như vậy ông Ta hết nói gì nữa, không còn lý lẽ gì để tranh biện được nữa. Ông ấy bảo xe hãng X cừ lắm. Tôi đáp: "Chắc chắn vậy". Thì ông phải im Liền. Ông ấy không thể lặp đi lặp lại suốt cả buổi chiều câu: "Xe Hãng X rất tốt". Thế là chúng tôi bỏ câu chuyện đó và chúng tôi Bắt đầu tả những cái tốt, khéo của xe cam nhông Bạch xa của tôi. Có một hồi mà một mối hàng chỉ trích hãng tôi như trên kia thì tôi Đã phát điên rồi. Tôi đã đập nhiều vố vào hãng X của ông ấy rồi Và càng đập thì ông ấy lại càng binh vực nó. Càng binh vực thì ông ấy lại càng tin chắc rằng xe hãng X tốt hơn các xe khác. Nghĩ tới quá khứ của tôi, tôi tự hỏi, với tính tình như vậy, làm sao Tôi có thể bán được món hàng gì chứ. Đã phí nhiều năm để tranh biện, Gây lộn, và tạo ra sự phản kháng lại mình. Bây giờ tôi quyết làm Thinh. Như vậy lợi hơn nhiều". Ông Franklin Đã là khôn khéo, ông nói: "Mình tranh Biện và cái lẽ, có thể làm cho người khác ngượng được, nhưng thẳng Như vậy có ích gì đâu, vì không khi nào làm cho người ta thành thật đồng ý với mình hết". Vậy xin bạn tự ý Lựa lấy: Một đàng thì rực rỡ thắng người ta, nhưng về phương diện lý Luận, một đàng thì được người ta thành thật đồng ý với mình. Xin lựa Lấy một vì được cả hai là điều hiếm thấy lắm. Một tờ báo ở Boston chép lại mộ chí ngộ nghĩnh sau này: Đây là nơi an nghĩ ngàn thu của William Joy. Y suốt đời hăng hái bênh vực ý kiến của y. Y có lý trong đời y. Nhưng có lý hay Vô lý. Y cũng vẫn chết không hơn, Chẳng kém". Phải, bạn có lý lắm, Ngàn lần có lý trong khi bạn hăng hái chứng minh đề nghị của bạn. Nhưng Bạn luống công vô ích vì không thể thay đổi ý kiến người khác. Vậy Bạn có lý hay vô lý rốt cuộc cũng vậy! Sau nhiều năm hoạt động chính trị, William Mc. Adoo, tổng trưởng thời Tổng Thống Wilson tuyên bố: "Lý luận không thể nào thắng được một người Ngu hết". "Một người ngu!" Ông nhũn Nhặn quá, ông Mc. Adoo. Nhiều năm kinh Nghiệm đã dạy cho tôi rằng không thể nào làm đổi ý kiến của bất Kỳ một người nào, dù người đó thông minh học thứ tới đâu đi nữa! Xin các bạn nghe chuyện ông F. Parsons, một nhà buôn, tới phòng giấy Một viên chức thu thuế để kêu nài về một sự tính lộn trong số thuế Của ông. Nguyên do là người ta đã đánh thuế vào một số tiền chín ngàn Đồng mà ông chưa thâu được và cũng bao giờ thâu được vì con nợ không Trả nổi. Viên thu thuế lạnh lùng đáp: "Cái đó tôi không biết. Đã Khai số tiền đó thì phải đóng thuế". Hai bên cãi lý trong một giờ đồng hồ: Viên thu thuế thì lạnh lùng, Ngạo nghễ và cố chấp. Ông Parsons dẫn chứng ra cũng vô ích. Càng tranh Biện thì viên thu thuế càng lỳ. Sau cùng, ông Parsons thay đổi chiến Thuật và kiếm cách thỏa lòng tự ái của viên thu thuế, ông nói: "Tất Nhiên tôi cũng cho rằng việc của tôi không quan trọng bằng những việc Khác, gai góc hơn nhiều mà ông thường phải giải quyết. Chính tôi cũng Đã học chút ít về thuế má, quốc khố. Tôi thích môn đó lắm... Nhưng Tất nhiên là tôi chỉ học trong sách, còn ông, ông học một cách trực Tiếp, họ bằng kinh nghiệm. Có lúc tôi muốn làm nghề của ông. Tôi Sẽ học thêm được biết bao nhiêu điều". Xin các bạn nhớ rằng ông Parsons thực tình nghĩ như vậy. Viên thu thuế tức thời thẳng người lên, dựa lưng vào ghế, kể cho ông Parsons nghe những chuyện về nghề của ông, những vụ gian lận xảo quyệt Mà ông đã khám phá được. Lần lần lời lẽ, cử chỉ hóa ra thân mật, Rồi ông ta kể chuyện về con cái ông ta. Khi ông Parsons ra về, ông ấy Nói để xét lại yêu cầu và sẽ cho hay kết quả ra sao. Ba ngày sau, ông Cho ông Parsons hay là ông miễn cho số thuế đó, như lời ông Parsons xin. Câu chuyện đó chứng tỏ rõ ràng cái nhược điểm thông thường nhất của Loài người là muốn tỏ sự quan trọng của mình ra. Mới đầu viên thu thuế Tỏ uy quyền của ông một cách ồn ào. Nhưng khi uy quyền đó đã được ông Parsons công nhận rồi khi ông này không tranh biện nữa thì ông ta Tươi tỉnh ra, hóa ra nhân từ, dễ cảm và tốt bụng như những người khác. Constant, người bồi phòng thân cận nhất của Hoàng Đế Nã Phá Luân thường Hầu bi da Hoàng Hậu Joséphine. Trong cuốn ký ức về đời tư của Nã Phá Luân, ông viết: "Tuy tôi chơi bi da rất giỏi nhưng tôi cũng cố ý nhường Cho Hoàng Hậu thắng tôi, mà được vậy, Hoàng Hậu rất vui lòng". Ta nên luôn luôn nhớ bài học đó: Ta hãy để cho khách hàng, bè bạn, người yêu và bạn trăm năm của ta Thắng ta trong những cuộc tranh biện nho nhỏ mà không tránh được. Đức Thích Ca nói "Oán không bao giờ diệt được oán, chỉ có tình thương Mới diệt nó được thôi" Tranh biện không phá tan được sự hiểu lầm. Phải thiệp thế, biết khéo léo, có lòng hòa giải và khoan hồng, tự Đặt mình vào địa vị đối thủ của ta mới có thể thu phục họ được. Một lần Lincoln khiển trách một sĩ quan nhỏ tuổi đã tranh biện với bạn. Ông nói "Người nào đã muốn tu thân tự tiến thì không phí thì giờ cãi Vã nhau. Những cuộc gây lộn đó làm cho tính tình hóa ra khó chịu và Làm mất sự tự chủ đi. Thỉnh thoảng phải biết nhịn người. Thà nhường Lối cho một con chó còn hơn là tranh nhau với nó để nó cắn cho. Vì dù Có giết được nó thì vết cắn cũng không lành ngay được". Vậy muốn dẫn dụ người khác cho họ nghĩ như mình, bạn phải theo quy tắc Thứ nhất này: Cách hay hơn hết để Thắng một cuộc tranh biện là tránh hẳn nó đi. |
#14
|
||||
|
||||
![]() Lòng tự ái của con người
Philippe, vua nước Macédoine, khi đang đem quân vây thành Méthone, có một tên cung thủ đại tài tên là Aster đến xin vào đội tinh binh của nhà vua. Người ấy khoe rằng tài nghệ cung tiễn hay lắm, chim bay dầu lẹ đến bậc nào, y bắn cũng không sai bao giờ. Vua ghét đứa khoe mình nên phán rằng: Được, để ta đánh trận với chim sẻ, bấy giờ ta sẽ dùng đến tài ngươi. Aster nghe câu nói mỉa mai ấy, lấy làm căm tức vô cùng, liền chạy thẳng vào thành bị vây chờ dịp trả thù. Một hôm Aster đứng trên bờ thành, thấy vui Philippe đang đi kinh lý các trại quân đóng ngoài thành, liền lấy một cây tên, viết vào mấy chữ: “Gởi cho con mắt bên hữu của vua Philippe”, rồi bắn xuống. Tên trúng giữa mắt phải của vua. Vua sai sứ cầm chiếc tên vào trả lại trong thành giặc, phê lên trên mũi tên rằng: “Ta mà lấy được thành này, Aster sẽ bị xử trảm”. Sau quả y lời. Vua Philippe, thật đã mua đắt cái cao thú được nói một lời có ý vị. Nhưng mà, Aster lại mua rất đắt cái thú trả được thù. Cái lòng hiềm thù nhiều khi nó ngộ chúng ta mà đưa chúng ta đến chỗ bại. Cái tính châm chích người ta cũng chẳng nguy hiểm kém gì. Đành rằng nói được những câu thâm trầm, khiến cho kẻ khác sợ ta, nhưng chúng sợ ta thì ít mà lòng oán hận lại nhiều. Những lời nhạo báng để lấn áp người, để thỏa được lòng tự ái của mình, khiến cho lòng người bị chạm lấy đau khổ không thể quên được. Thường thường người ta có thể tha thứ cho ta một cái tội ác dễ hơn là tha thứ cho ta một lời nói độc. Cái “tôi” có phải là dễ ghét đâu theo như lời Pascal. Nó là cái chữ dễ yêu nhất trong đời. Nhưng vì ta đã quá nâng niu chiều chuộng nó… mà thành ra cách cư xử trong đời ta gây không biết bao nhiêu sự vụng về, ân hận, đau khổ, tai ương… Và cũng chính vì thế mà Pascal mới thốt ra câu nói chua cay này, “Cái tôi thật đáng ghét”. Cái “tôi” chẳng những dễ yêu mà thôi, nó lại là trung tâm điểm của vũ trụ là khác. Bao nhiêu sự vật trong đời, chung quy đều quây quần theo cái cốt ấy: Bản ngã. Như ta đã thấy, lòng tự ái là nguồn gốc lớn của muốn sự đắng cay chua xót ở đời. Muốn cho tâm hồn được bình tĩnh, thời không có gì kỵ bằng lòng tự ái. Trong các thị dục, thị dục về lòng tự ái là vô độ hơn cả: trong các khổ não, cái khổ não do lòng tự ái gây ra là khó tránh và thường thống thiết hơn. Có người nói: “Lòng tự ái đã là kẻ thù cho sự bình tĩnh bên trong, nó lại cũng là kẻ thù cho sự yên ổn bên ngoài nữa. Phàm khi lòng tự ái được thỏa mãn là tất có xâm phạm đến bên ngoài…” Lòng tự ái của ta xui khiến ta bao giờ cũng chăm chăm đáu đáu chỉ chực có dịp miệt kẻ khác để cho khỏi bị kẻ khác miệt mình. Thành ra nhiều người trong chúng ta bao giờ cũng cứ lo đi dòm ngó người khác; xem ai có gì xấu thì phô trương lên, ai có gì tốt thì bài bác đi, để nuôi cái lòng tự đắc của mình. Xem đấy đủ rõ câu “Ẩn ác dương thiện” (che dấu, bỏ qua cái xấu, biểu dương, khen ngợi điều tốt của người khác) của cổ nhân khó thi hành biết chừng nào! Tại sao? Tại lòng tự ái của chúng ta quá nặng, thường tin rằng dìm được người ta là đem được mình lên, chê cái dở của người tức là đem được cái hay của mình ra… Thật không gì vụng về bằng! Khiến nên, ở đời, trong sự giao tế hằng ngày, gây cho ta không biết bao nhiêu khốc hại. Như vậy, ta có thể thấy tất cả bí quyết của nghệ thuật cư xử có thể gồm trong hai nguyên tắc quan trọng: 1. Chớ chạm vào lòng tự ái của ai cả. 2. Ẩn ác dương thiện. Nguyên tắc thứ nhất thuộc về tiêu cực; còn nguyên tắc thứ hai thuộc về tích cực. Cả hai không phải là những câu châm ngôn chỉ sự khôn dại cho người đời mà thôi, mà thật ra nó là câu nói của lòng Nhân, hay ít ra, của lòng yêu chuộng Công Bình. Người xưa há không có bảo: “Kỷ sở bất dục, vật ư thi nhân” sao? Cái gì mình không muốn người làm cho mình, thì đừng làm cho kẻ khác. Có ai là người muốn bị người ta chạm đến lòng tự ái của mình không? Thế sao mình lại thích lấn áp người trong lời nói để người ta phải đỏ mặt, tía tai cho cam. “Làm cho người ta cùng lý đến phải ngậm miệng, đỏ mặt, toát mồ hôi, mình tuy hả lòng thật, nhưng đấy là người nông nổi khắt khe làm sao…”. Thế là bất công, mà cũng là bất nhân nữa… Nhưng rồi, hả lòng được một ít mà lắm khi còn di hại cho mình đến thảm khốc cũng không chừng… Thế thì đâu phải chỉ bất công, bất nhân mà lại còn bất trí nữa là khác. |
#15
|
||||
|
||||
![]() Cái cười của thánh nhân
Ngày xưa Phật cùng các đệ tử đi qua một khu rừng, vừa đến một mé sông... thấy có một đạo sĩ du già ngôi ở cội cây... Phật hỏi: - Ông ở đây bao lâu và đã tu chứng được gì? Đạo sĩ nói: - Tôi tu đã bốn mươi năm và đã có được phép khinh thân, đi qua con sông mà không cần đến ghe xuồng gì cả! Nói xong, đạo sĩ niệm chú, nhún mình bay là là trên mặt nước và vượt qua sông nhẹ như chiếc lá... trước những cặp mắt vô cùng thán phục của các đệ tử Phật. Phật mỉm cười, nói với đạo sĩ: - Tưởng gì lạ lùng, chứ để đi qua con sông mà phải tốn công tu luyện đến bốn mươi năm, thật phí công uổng sức vô ích quá! Chỉ với đồng tiền nhỏ bé này, người đưa đò sẽ đưa chúng ta qua sông một cách rất là dễ dàng. |
#16
|
||||
|
||||
![]() Nhân và Trí
Thầy trò Khổng Tử bỏ nước Lỗ lưu vong ra nước ngoài. Một hôm Khổng Tử gọi Tử Cống (một trong 72 học trò hiền của Khổng Tử) hỏi: - Theo con, thế nào là người nhân, thế nào là người trí? Tử Cống suy nghĩ một lát rồi đáp: - Thưa thầy, người nhân là người biết thương người; người trí là người hiểu người. Khổng Tử khen "hay". Rồi kêu Tăng Tử vào hỏi lại câu trên. Tăng Tử suy nghĩ một hồi rồi đáp: - Thưa thầy, người nhân là người biết thương mình; người trí là người tự biết mình. Khổng Tử chịu quá! Đoạn ông gọi Tử Lộ vào hỏi: - Theo con, thế nào là người nhân, thế nào là người trí? Tử Lộ thưa: - Theo con, người nhân là người làm sao cho người khác thương được mình; còn người trí là người làm sao cho người khác hiểu được mình!... Khổng Tử rất đỗi ngạc nhiên, ngửa mặt khen rằng: - Bất ngờ thay!... LỜI BÀN: Cùng một cân hỏi nhưng ba câu trả lời hoàn toàn khác nhau, đây thật là điều thú vị và bất ngờ. Nhưng ta thường thấy việc đời không khác nào một dòng sông, có lúc từ trên cao đổ ào ào xuống vực sâu, có lúc trườn mình, len lách qua hẻm núi, có lúc thênh thang lặng tờ giữa bình nguyên... thiên hình vạn trạng. Nhưng mỗi dạng trạng đều phù hợp với mỗi hoàn cảnh. Bởi không bao giờ trời mưa lụt mà sông cạn, trời nắng hạn mà nước sông dâng. Núi dựng bạt ngàn dòng sông không thể không uốn mình lượn theo thế núi. Con người cũng thế. Có lúc ta vì người và người vì ta, có lúc ta vì ta, và người vì người, theo hoàn cảnh mà hành sự. Như thế mới không lỗi. Trong toán học cũng có những vấn đề như trong nhân sinh. Trước đây 2300 năm, nhà Toán học Hi Lạp, Eulide phát biểu: - "Từ một điểm ngoài đường thẳng, ta chỉ vẽ được một và chỉ một đường thẳng song song với đường thẳng đã cho"! Ai muốn học toán lên cao bắt buộc phải chấp nhận lời yêu cầu này. Vì đây là một điều hiển nhiên. Thế mà ở Anh, Remann lại phát biểu: - "Từ một điểm ngoài đường thẳng, ta không vẽ được một đường thẳng nào song song với đường thẳng cho trước"! Chưa hết! Sau đó nhà toán học Laubatchewsky lại phát biểu: - "Từ một điểm nằm ngoài đường thẳng, ta có thể vẽ được vô số đường thẳng song song với đường thẳng cho trước"! Thế có trái ngược không? Hai định đề sau đây phải là sai (vìsai đâu là định đề!), ở toán cao cấp người ta vẫn dùng nó. Tất nhiên muốn dùng nó phải tùy theo điều kiện. Người ta thường nói, "chân lý ở bên này Pyrréneés, sang bên kia trở thành nghịch lý". Đúng hay không đúng còn tùy theo hoàn cảnh. Qua câu hỏi nhân trí của Khổng Tử, Ngũ tử Tư ở nước Ngô (người cùng thời với Khổng Tử) nói: - Không thương mình làm sao thương được người ngoài? Không thương người làm sao người thương ta? Môn đồ của Khổng Tử chỉ "chẻ tư sợi tóc nhân nghĩa" (ý nói phiến diện) mà thôi! Nhân và Trí ít nhiều gì vốn đã có sẵn trong mỗi người, chỉ sử dụng có hợp lúc không thôi! Do đó bất kỳ việc gì, đúng hay sai, công hay tội chúng ta khó mà đem nhận xét chủ quan ra để phán xét được. Bởi việc hành xử của tha nhân còn tùy thuộc hoàn cảnh của họ lúc đó. |
#17
|
||||
|
||||
![]() Hãy khen tặng trước khi góp ý
Hồi Calvin Coolidge còn làm Tổng thống Hoa Kỳ, một người bạn tôi được mời lại Nhà Trắng, bước vào phòng ông vừa đúng lúc ông nói với cô thư ký của ông: "Chiếc áo cô bận hôm nay thật đẹp... Cô có duyên lắm...". Tổng thống vốn ít nói. Chưa bao giờ người ta nghe ông khen những người giúp việc như vậy. Câu nói đó có tác động thật lạ lùng, thật bất ngờ, tới nỗi cô thư ký thẹn thùng đỏ mặt lên. Tổng thống Coolidge nói tiếp: "Lời tôi khen đó, cô đừng lấy làm tự phụ lắm; tôi chỉ muốn làm vui lòng cô thôi... Từ nay tôi muốn khi đánh máy, cô để ý tới những dấu chấm câu hơn chút nữa". Phương pháp đó tuy kém kín đáo, nhưng tâm lý thật sâu sắc. Sau khi được nghe lời khen rồi, ta thấy những lời trách không khó chịu lắm. Người thợ cắt tóc, thoa xà bông thật kỹ rồi mới cạo râu. Vậy, muốn cải thiện người mà không làm cho người đó phật ý, giận dữ, bạn hãy: Bắt đầu câu chuyện bằng cách tặng người đó vài lời khen thành thật. |
#18
|
||||
|
||||
![]() Hậu Sinh Khả Úy
Bấy giờ Lã Bất Vi đang làm Thừa tướng ở Tần, đang hợp với Yên để đánh Triệu. Yên sai Thái tử Yên vào Tần làm con tin, và xin Tần một tướng giỏi qua Yên để cầm quân. Lã Bất Vi liền cử Đại tướng Trương Đường qua Yên. Con đường qua Yên buộc phải qua Triệu, Trương Đường sợ Triệu giết mình nên từ chối. Lã Bất Vi đích thân đến dinh Trương Đường thuyết phục, Trương Đường vẫn không đi. Lã Bất Vi buồn bực ra về. Cam La là môn hạ của Lã Bất Vi lúc đó mới 12 tuổi, mặt như dồi phấn, môi đỏ như son, đón Lã Bất Vi, hỏi: - Thừa tướng có việc gì mà buồn vậy? Lã Bất Vi đang bực mình, trợn mắt hét: - Trẻ con biết gì mà hỏi? Cam La bình tĩnh nói: - Đã là môn hạ của ngài, tôi phải chia sẻ buồn vui với ngài chứ! Lã Bất Vi nghe vậy liền nói: - Tần và Yên mới giao hiếu với nhau. Yên đã gửi Thái tử vào Tần. Tần đã cử Trương Đường sang Yên làm tướng. Đường sợ Triệu nên không đi. Cam La cười: - Đó là chuyện nhỏ! Sao không nói sớm để tôi nói cho! Lã Bất Vi nổi giận hét: - Cút! Cút gấp! Ta đã đích thân mời hắn mà hắn còn chưa đi, huống gì là ngươi? Con nít gì mà lớn lối? Cút! Cam La cười cười: - Thừa tướng chớ khinh người. Chừng nào tôi nói không xong thì hãy làm tội. Nói rồi Cam La qua yết kiến Trương Đường. - Công của ngài so với Vũ An quân Bạch Khởi (Bạch Khởi là danh tướng của Tần, đã từng chôn sống 45 vận quân Triệu trong một đêm) như thế nào? - Ta không bằng. Cam la nói tiếp: - Ứng hầu Phạm Thư so với Thừa tướng, ai quyền hơn? - Thừa tướng. Cam La nói: - Ấy mà, Ứng hầu sai Vũ An Quân Bạch Khởi đi đánh Triệu, Bạch Khởi không chịu đi, cuối cùng phải chịu chết, huống gì hôm nay đến ngài? Trương Đường cả sợ nói: - Xin tiểu tiên sinh cứu tôi với! ... Cam La về nói với Lã Bất Vi: - Trương tướng chạy đi rồi! Bây giờ ngài tâu với vua, cho tôi qua thuyết Triệu cắt đất cho Tần. Lã Bất Vi mới biết Cam La có tài, liền tâu với vua Tần phong chức Thượng Khanh và sai Cam La đi thuyết vua Triệu. Vua Triệu thấy sứ giả là một đứa bé lên mười, lòng lấy làm ngạc nhiên. Cam La hỏi: - Đại Vương có nghe Thái tử Yên Đan qua Tần làm con tin không? Triệu Vương đáp: - Nghe! - Và có nghe Trương Đường qua Yên làm tướng không? - Nghe! Cam La nói: - Thái tử Yên vào Tần là Yên không gạt Tần. Trương Đường làm tướng Yên là tần không gạt Yên. Tần và Yên không gạt nhau đi đánh Triệu tất nguy. Nay đại vương cắt cho Tần 5 thành thì Tần không giao thiệp với Yên nữa, mà giao hiếu với Triệu, nhân đó mà đánh Yên, Triệu sẽ được một số đất. Vua Triệu nghe lời. Lời Bàn: Ngày xưa làm vua không có quy chế về tuổi tác. Lã Vọng ra giúp Chu Văn Vương lúc 80 tuổi. Nhà thơ Vương Bột đời Đường làm chức "Thái tử Thiếu Phó" (thầy dạy Thái tử) lúc 11 tuổi lúc đến 14 tuổi bị cách chức vì Bột làm bài phú "Đá gà". Lí Bí đời đường Minh hoàng vào cung dạy Thái tử Hanh khi chưa tới 11 tuổi. Đêm đêm thầy trò ôm nhau ngủ như hai đứa trẻ. Điều đáng nói ở đây, uy quyền và mưu trí như Lã Bất Vi sai Trương Đường làm tướng nước Yên mà Đường không đi, ta thấy Cam La là người có tài. Càng phục cậu bé Cam La hơn nữa khi Cam La qua thuyết vua Triệu nạp thành. Chỉ tiếc là, năm sau (13 tuổi) Cam La đã qua đời. Dù sao Cam La cũng nổi danh là một thần đồng. |
#19
|
||||
|
||||
![]() MỘT VẾ ĐỐI LÀM THÔNG ĐƯỜNG ĐÓN DÂU
Nguyễn Hàm Ninh (1808 - 1867) là một nhà thơ nổi tiếng của đất Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình cũ. Từ nhỏ ông đã được xem là một thần đồng. Lớn lên, với tài văn thơ, ông trở thành người bạn tâm đắc của Cao Bá Quát và Tùng Thiện Vương, nổi tiếng một thời ở kinh đô Huế. Ở vùng Quảng Trạch, ông là bậc kì tài, có lắm người kính nể, nhưng cũng không ít kẻ ghét ghen. Từ bọn li dịch ở địa phương cho đến quan nha ở trên huyện, có nhiều kẻ ấm ức, muốn tìm cơ hội để "hạ bệ" ông, nhưng chưa một lần chúng thắng cuộc. Những người mộ tài ông cũng cố tìm dịp để thử tài, khẳng định thêm một lần nữa lòng tin yêu và ngưỡng mộ của họ là đúng đắn. Ngày ấy, có một chàng trai làng Trung Ái (nay là Trung Thuần) cưới một cô vợ người làng Phan Long (tức là Ba Đồn). Trung Ái là quê của Nguyễn Hàm Ninh, còn Phan Long là phố huyện, có lắm học trò giỏi. Người Phan Long biết trong đám người đi đón dâu có cả Nguyễn Hàm Ninh. Họ liền bày một hương án chắn ngang đường vào làng, đoạn ở đầu cầu Kênh Kịa. Trên hương án có đặt một vế câu đối nôm, với điều kiện nếu họ nhà trai không đối được thì nhất định không cho qua cầu đón dâu về. Vế ra là : Chân dậm, tay mò bỏn hói Kịa. Bỏn là cá thờn bơn, mình dẹp như lá đa, có nhiều ở con ngòi nước mặn (người miền Trung gọi là hói) chảy dưới cầu Kênh Kịa. Từ cái ý thực ấy nẩy sinh cái ý lỡm, ám chỉ việc người con trai về đất này tìm vợ. Đám người đi đón dâu còn lại ở đầu cầu, ngơ ngác, lúng túng nhìn nhau, chưa biết xử trí thế nào thì Nguyễn Hàm Ninh vượt lên, ứng khẩu tức thì : Má kề, miệng ngậm bống Khe Giang. Vế đối hợp cả ý thực lẫn ý lỡm. Khe Giang là con suối lớn chảy qua phía cuối làng Trung Ái, có nhiều cá bống nước ngọt. Còn ý lỡm đối lại cũng rất đạt, nói bóng gió chỉ việc người con gái về lấy chồng ở đất Khe Giang. Hai vế của câu đối thật là đẹp, đẹp lời, đẹp ý và đẹp cả tình người. Dĩ nhiên sau đó người Phan Long vội vàng dẹp hương án, để họ nhà trai tiếp tục cái công việc trọng đại của họ là rước dâu về. Người vui sướng nhất sau sự việc nói trên đương nhiên là cô dâu và chú rể. Sau họ là hàng trăm hàng ngàn người mến mộ văn chương phục tài Nguyễn Hàm Ninh, mê say một thể loại văn học đặc sắc của dân tộc. Chỉ tiếc một điều là vế ra của câu đối này là ai, đến nay vẫn chưa rõ !. |
#20
|
||||
|
||||
![]() Nhân Đạo Hay Bất Đạo
Người dân ở Hàm Đan (Kinh đô nước Triệu) có tục: Cứ ngày mồng một đầu năm họ mang chim Ban Cưu đến bán cho Triệu Giản Tử. Triệu Giản Tử vui mừng thưởng tiền bạc cho họ rất nhiều. Có người chất vấn Giản Tử: - Ngài mua chim Ban Cưu làm gì? Giản Tử nói: - Ngày đầu năm ta thích phóng sinh để thể hiện cái ân đức của ta. Người kia nói: - Mọi người biết ngài hay phóng sinh chim nên mới tranh nhau đi bắt chim, như vậy chim Ban Cưu chết vào ngày ấy rất nhiều. Nếu ngài thật muốn cho chim sống sao không lệch cho mọi người đừng bắt chúng? Chứ như bắt rồi mới phóng sinh e rằng ân đức này không bù đắp nổi tội ác này. Triệu Giản Tử khen: - Ông nói đúng lắm! Từ đó ông không mua chim vào ngày đầu năm nữa. Lời Bàn: Triệu Giản Tử ở vào đầu thời kỳ chiến quốc (giữa thế kỷ thứ V trước Công Nguyên), thời này Phật giáo chưa du nhập vào Trung Hoa, nên việc phóng sinh có lẽ ảnh hưởng ở Đạo giáo. Sở dĩ có những cuộc phóng sinh là vì họ tôn trọng quyền sống của loài vật. Mọi sinh vật đều có quyền sống như nhau. Nhưng tại sao chỉ phóng sinh chim Ban Cưu mà thôi? Lý ra Giản Tử phải phóng sinh hết tất cả các loài chim. Nghề săn bắt chim để ăn thịt cũng là một nghề sinh sống của người xưa nên khó mà cấm họ. Có thể dùng triết lý nào đó để giảng giải cho họ biết rằng: Không nên giết những con vật hiền lành và vô hại như chim, thỏ, nai, rùa ... để đước phúc đức. Thời cổ vua Nghiêu đi săn, trước khi bủa lưới thì vái: "Con nào có cánh thì cao bay, con nào có chân thì mau chạy, chớ có vào lưới ta" Tục lệ đó rất phổ biến ở Triều Thành Thang (nhà Thương), nên mới có thành ngữ "mở lưới thành Thang" (phóng sinh để lấy đức). Quy định phóng sinh phải chọn ngày mồng một đầu năm, rõ ràng đó là hại chim. nếu có lòng nhân từ cũng không thể gặp đâu mua đó, tiền đâu mà mua cho? Cũng không thể mua tượng trưng để mà thả, làm gương cho người khác noi theo. Sự phóng sinh chim là lòng tốt, nhưng làm cách nào để người ta khỏi bắt chim đó mới là việc ân đức. Ngày nay, lễ phóng sinh thường vào những ngày Phật Đản, Lễ Vu Lan, Thích Ca thành đạo, Phập Nhập Niết Bàn, Thượng Nguyên, Hạ Nguyên ... những ngày đó người ta bán chim, thú rất nhiều và rất đắt. Có lẽ đến ngày đó các loài chim thú chết rất nhiều. Phóng sinh là một tập tục tốt giúp cho con người giảm bớt đi tính dã man. Nhưng có chuyện phóng sinh thì có sự săn bắt chim thú để bán. Không phóng sinh thì người ta vẫn bắt chim thú (làm nhu cầu thực phẩm) đều đều như mọi ngày. Khó mà bàn đến một phương pháp hoàn hảo. Thôi thì ... tùy theo "căn cơ và duyên cơ của chúng sinh". |
![]() |
Ðiều Chỉnh | |
Xếp Bài | |
|
|