|
#231
|
||||
|
||||
|
Lộc Đỉnh Ký
Hồi 234 Hạ THàNH KHÔNG MấT MộT TÊN QUÂN Bên ngoài quan ải, khắp nơi mọc đầy những cây tùng, cây sam. Cả một giải ven sông Ngạch Nhĩ Cổ Lạp chi chít rừng rậm. Cây cao ngất trời hàng trăm năm không biết bao nhiêu mà kể. Quân Thanh phát động không đầy nửa ngày đã đốn được mấy ngàn cây lớn. Binh sĩ trong quân có hơn trăm tên nguyên là thợ mộc được Ban phó tướng điều động khởi công. Hắn lựa thêm bốn, năm trăm quân khéo tay giúp việc chế tạo ống thụt ngay đêm hôm ấy. Chính Ban phó tướng làm một cây kiểu mẫu. Cây ống thụt này đường kính hai thước, dài hơn một trượng. Đầu ống thụt lắp khúc gỗ để nằm ngang. Sáu tên quân chia ra đứng hai bên nắm quai khúc gỗ này thụt ra thụt vào. ống thụt hút nước nóng vào rồi, Ban phó tướng hạ lệnh cho sáu tên quân hết sức xô đẩy khúc gỗ nằm ngang để bắn nước nóng ra xa được hai trăm bộ. Vi Tiểu Bảo coi diễn thử trầm trồ khen ngợi. Gã nói: - Cái này không phải là ống thụt mà là súng bắn nước. Gã ngẫm nghĩ nói tiếp: - Chúng ta phải dặt cho nó một cái tên, kêu bằng... Bạch Long thủy pháo. Gã lấy vàng bạc khao thưởng Ban phó tướng và quan binh chế tạo thủy pháo. Đồng thời gã đốc thúc binh tướng làm việc suốt ngày đêm. Đồ Nhĩ Bố Thanh thấy quan Thanh đã rút lui rồi quay trở lại, liền lên mặt thành quan sát. Hắn ngó thấy trong trại binh xếp từng đống gỗ rất lớn, nghĩ thầm: - Bọn man tử Trung Quốc đốn nhiều gỗ thế kia là để làm củi đốt lửa sưởi ấm. Chắc bọn chúng ở lại vây thành không rút lui nữa. Rồi hắn lẩm bẩm: - Hừ! Chỉ nửa tháng nữa là gió to tuyết dữ. Ta thử coi bọn ngươi có chịu nổi không? Dù các ngươi đốt bao nhiêu củi lửa cũng chẳng thể cản được âm phong hàn khí ở trong vòng địa ngục này tiết ra. Hắn trở về doanh trướng sai thân binh đốt lò lửa, rót thứ rượu mạnh La Sát ra uống, lại gọi hai thiếu nữ Trung Quốc bắt được từ trước vào trướng hầu rượu. Bên này bọn Bằng Xuân, Hà Hựu sai kỵ binh thu lượm nồi đồng, chảo gang của trăm họ để lại trong mấy dặm vuông vào một chỗ. Chúng lại sai binh sĩ đào đất làm bếp. Củi khô cùng băng tuyết xếp thành từng đống cao như những trái núi nhỏ. Bao nhiêu Bạch Long thủy pháo đều dùng cành cây che lấp để bọn quân La Sát khỏi phát giác. Đến ngày thứ chín, Ban phó tướng báo cáo đã chế tạo được ba ngàn Bạch Long thủy pháo. Hôm sau là ngày hoàng đạo, Vi Tiểu Bảo thăng trướng từ giờ mão. Gã nổi trống tụ tập chúng tướng rồi hạ lệnh khiêng hết thủy pháo đặt lên mặt lũy. Miệng súng nằm hướng vào thành Nhã Tát Khắc. Trong quân hiệu trống và tù và nổi lên inh ỏi. Súng nổ đoàng đoàng liền chín phát. Tướng sĩ các doanh trại nhất tề động thủ khuân băng tuyết bỏ vào nồi đồng chảo gang và đốt lửa đun lên. Đồ Nhĩ Bố Thanh đang trùm chăn ngủ kỹ chợt nghe ngoài thành pháo nổ rầm trời. Hắn hốt hoảng bổ dậy, vội vã mặc quần áo, bên ngoài khoác áo cừu, rồi lật đật lên mặt thành quan sát. Lúc này gió to tuyết dữ, bầu trời ảm đạm, Đồ Nhĩ Bố Thanh chỉ nhìn thấy lờ mời trên mặt tường lũy, quân Thanh đặt đầy những cây gỗ lớn mà không hiểu để làm gì? Đồ Nhĩ Bố Thanh còn đang nghi hoặc, bỗng nghe quân Thanh lớn tiếng reo hò, uy thế tựa trời long núi lở.Đột nhiên mấy ngàn cây gỗ lớn phun nước ra. Cả bốn mặt tám phương đều bắn nước vào thành. Đồ Nhĩ Bố Thanh cả kinh. Bỗng hắn thét lên một tiếng: - úi chao! Một làn nước nóng bắn trúng ngực hắn. Tiết trời lạnh quá. Nước nóng bắn tới nơi nhiệt lực đã giảm sút rất nhiều, nhưng Đồ Nhĩ Bố Thanh chân không đứng vững, lảo đảo người đi rồi ngã quay ra. Bọn thân binh đứng bên vội lại đỡ hắn dậy. Bốn mặt tiếng quân reo hò pha lẫn với tiếng ào ào lướt qua trên đầu bọn quân La Sát. Chúng ngửng mặt lên nhìn tưởng chừng đoàn Bạch Long đang phun tên nước vào thành. Chỉ trong khoảnh khắc, trên thành Nhã Tát Khắc bao phủ một làn mù mịt mờ do hơi nước gặp khí lạnh gây ra. Đồ Nhĩ Bố Thanh ruột rối như mớ bòng bong, trong lòng cực kỳ xao xuyến, hắn lớn tiếng la: - Bọn Man tử Trung Quốc lại dùng yêu pháp rồi! Hắn thấy nước từ trong cây lớn phun ra rất lấy làm kỳ và cho đây là bên quân Thanh thi triển yêu pháp, không còn nghi ngờ gì nữa. Trong lúc hoang mang, Đồ Nhĩ Bố Thanh hô lớn: - Các ngươi phải nổ súng, đừng để bọn Man tử Trung Quốc xông lên mặt thành. Nhưng từ hôm hắn bị Vi Tiểu Bảo lột trần truồng dong đi trên mặt thành ba vòng, uy tín hắn bị tổn thương rất nhiều. Trước kia, một khi hắn phát hiệu lệnh là bọn thuộc hạ đều tuân theo răm rắp, mà lần này chúng tỏ ra uể oải, lơ là. Có điều quân La Sát thấy Thanh binh vây thành đánh rát, chúng sợ thành vỡ tất không thoát chết mà phải cố sức phòng thủ. Lúc này chúng thấy tình thế biến đổi bất ngờ. Mấy nghìn thủy pháo bắn tên nước vào thành, bỏ chạy tán loạn, chẳng còn ai nhìn đến chủ tướng nữa.May mà quân Thanh chỉ bắn nước lên chứ không thừa cơ đánh thành. Binh tướng La Sát hoang mang một lúc, vừa bình tĩnh được một chút, lại thấy dưới đất nước đóng thành băng. Trên đầu từng cây cột nước như rót vào đổ xuống ầm ầm. Bao nhiêu đàn ông Trung Quốc ở trong thành Nhã Tát Khắc đã bị quân La Sát giết sạch sành sanh. Chúng chỉ lưu lại bọn phụ nữ ít tuổi làm doanh kỹ để chúng gian dâm thủ lạc. Ngoài bọn quân tướng La Sát trong thành chỉ có những quan văn do Mạc Tư Khoa phái đến, hoặc những giáo sĩ truyền giáo, hay những người thương mại đi theo trong quân để bán hàng. Bọn này nghĩ rằng cuộc Đông tiến là một dịp đại phát tài, nên rất nhiều quân trộm cắp trà trộn vào. Chỉ trong khoảnh khắc, người nào người nấy ướt như chuột lột. Ban đầu nước còn hơi ấm, nhưng sau một lúc áo ướt bắt đầu kết lại thành băng. Quân dân thấy vậy kinh hãi vô cùng, tới tấp cởi áo tụt giầy. Nên biết áo ướt một khi đóng thành băng là dính liền vào da thịt, mà ngón tay mọi người giá lạnh cứng đơ, không còn sức để cởi nữa. Dù có bạn giúp đỡ, cũng chỉ thọc tay vào xé rách áo quần mới lôi ra được. Như vậy vẫn nguy hiểm vô cùng. Nước đọng dưới đất đóng lại mỗi lúc một cao. Trên mặt đất bầy nhầy trơn như mỡ đổ. Bọn người La Sát tụt bỏ hết giầy dép, chỉ còn chân không dẫm lên băng giá lạnh thấu xương. Chúng không chịu nổi, hai chân nhảy lên như cào cào, miệng kêu la: - Lạnh đến chết người, lạnh đến chết người! Mọi người tới tấp chạy lên chỗ cao để tránh nước đọng. Có kẻ liều lĩnh bò lên nóc nhà. Bỗng trong đám đông, một người hô lớn: - Đầu hàng đi, đầu hàng đi! Nếu không đầu hàng là chết sạch đến nơi bây giờ.Đồ Nhĩ Bố Thanh mình khoác áo cừu, tay trái cầm dù. Hắn cưỡi trên lưng con ngựa lớn, đầu cao nghêu nghện, đi lại tuần tiều, vừa nghe tiếng hô •đầu hàng• liền nổi giận quát tháo: - Kẻ nào ở trong này làm náo loạn quân tâm? Bọn gian tế rồi! Phải bắn chết đi! Mọi người thấy hắn khoác áo da cừu chống được nước, trong mình vẫn ấm áp, mới đi lại diễu võ dương oai. Xung quanh hắn toàn là quân dân mình trần trùng trục bị khí lạnh hành hạ còn thiếu chết đi sống lại, ai cũng đem lòng căm phẫn. Giữa lúc ấy, một người cúi xuống lượm khối băng dưới đất, nhắm Đồ Nhĩ Bố Thanh liệng tới. Đồ Nhĩ Bố Thanh liền giơ súng lục lên bắn vào đám đông •đẹt đẹt• hai phát. Lập tức hai người ngã lăn ra chết. Những người đứng kế bên thấy thế càng cáu giận, đều lượm mảnh băng ném vào hắn loạn lên. Lại có người nhảy xổ tới lôi hắn xuống ngựa. Bọn vệ binh múa đao chém giết cũng không cản trở được. Đang khi náo loạn, một đội kỵ binh chạy tới, bọn loạn dân La Sát mới bị giải tán. Đồ Nhĩ Bố Thanh lồm cồm bò dậy. Giữa lúc ấy, trên đầu hai tia nước rót thẳng vào khiến toàn thân hắn ướt đầm. Hai chân nhảy loạn lên, Đồ Nhĩ Bố Thanh lớn tiếng thóa mạ, đồng thời bọn vệ binh giúp sức cởi áo tụt giầy. Quân Thanh bắn thủy pháo có lúc nước dựng lên như cây cột có luồng phun ra tản mát như thủy châu trên mặt thành, lại tựa hồ mưa rào đổ xuống. Có tia nước bắn lên cao, có tia bắn thấp hơn văng trúng vào người. Nên biết những thủy pháo này chế tạo một cách rất thô sơ. Có cây luồng lực đạo bắn đi xa, có cây xạ trình rất gần. Lại có nhiều cây chỉ bắn mấy lần ống súng đã bể nát làm bị thương khá nhiều "pháo thủ" bên Thanh.Ba nghìn cỗ thủy pháo bắn trong vòng hơn một giờ, đã có sáu bảy trăm cây bị hư hại. Mặt khác, việc đun băng tuyết tan thành nước nóng chậm hơn không đủ cung ứng cho thủy pháo. Về sau "đạn dược" tiếp ứng không kịp. Quân Thanh thấy tình trạng quân La Sát trong thành tất tưởi khốn đốn, chúng đứng trên mặt lũy reo hò như sấm dậy. Một số đông lại cất tiếng Nam giọng Bắc ca hát râm ran. Trong đám này có cả Vi Tiểu Bảo cử bài "Thập Bát mô"... một ta sờ, hai ta sờ... Bằng Xuân cùng các tướng lật đật trong việc chỉ huy đội pháo binh. Ban phó tướng cũng cực nhọc điều động bọn mộc tượng sửa chữa những cây pháo bị hư hoại. Đội binh sĩ phụ trách đun nước, gia sức cuốc băng bỏ vào chảo. Đội thủy binh khuân hết thùng lớn thùng nhỏ nước nóng đổ vào nòng súng. Nòng súng đầy nước rồi, đội pháo thủ ấn đầu súng cho miệng súng hướng lên rồi hô: - Một, hai, ba, bắn! Sáu tên pháo thủ liền đẩy mạnh phiến gỗ thụt bắn nước vào thành. Cuộc bắn tiếp tục hơn nửa giờ nữa, số thủy pháo mỗi lúc hư hại một nhiều. Nước nóng mỗi lúc một thiếu hụt thêm. Sau chỉ còn tám, chín trăm cỗ thủy pháo phát xạ. Dĩ nhiên uy lực giảm đi rất nhiều. Vi Tiểu Bảo đang cảm thấy trong lòng nao núng, bỗng cổng thành Nhã Tát Khắc mở rộng. Mấy trăm người La Sát mình trần như nhộng ào ào kéo ra, lớn miệng hô: - Đầu hàng, đầu hàng! Lúc này Tát Bố Tố, vết thương trên đầu đã lành được quá nửa liền dẫn một nghìn kỵ binh chạy lại hô: - Ai đầu hàng thì ngồi cả xuống đất!Người La Sát ngơ ngác nhìn nhau chẳng hiểu hắn nói gì. Một tên bá tổng trong đội quân Thanh liền ngồi xuống đất la lên: - Ngồi xuống! Ngồi xuống! Giữa lúc ấy, cổng thành đóng sập lại. Trên mặt thành từng loạt súng bắn xuống làm chết mấy chục người La Sát. Bọn người ra hàng thấy trên thành bắn súng xuống bỏ chạy tán loạn. Quân Thanh liền lái thủy pháo nhằm bắn vào binh tướng La Sát đứng trên mặt thành nổ súng. Bọn chúng hoảng sợ tới tấp nhảy xuống. Lúc này trong thành ngập nước đến hơn hai thước đã đóng thành băng. Nếu muốn toàn thành đầy nước để trở nên một tòa đại băng thành thì phải tiếp tục bắn nước lên hàng nửa tháng hay ít ra cũng phải mười ngày. Nhưng quân tướng La Sát đã không quần áo lại chẳng thể đốt lửa sưởi ấm, người nào người nấy bị rét cóng, toàn thân run bần bật như thằn lằn đứt đuôi, sắc mặt xanh xám. Mấy tên quân phải ôm nhau cho đỡ lạnh. Đồ Nhĩ Bố Thanh vẫn lớn tiếng quát tháo, đốc thúc binh tướng thủ thành, nhưng sĩ tốt ngoảnh mặt làm ngơ, không lý gì đến hắn. Đồ Nhĩ Bố Thanh tức quá giơ tay lên tát một tên quân. Tên quan quân này lùi lại né tránh. Đồ Nhĩ Bố Thanh rượt theo trượt chân té xuống. Một tên quân sĩ đứng bên liền đưa tay ra đẩy hắn xuống hố đầy nước đọng. Đồ Nhĩ Bố Thanh hết sức giẫy dụa để bò lên, nhưng chân tay lạnh cóng không sao lên được. Hắn lớn tiếng la: - Cứu ta! Cứu ta! Các binh tướng lờ đi như không nghe thấy, xúm quanh khối nước dương mắt lên nhìn hắn. Chẳng bao lâu, nước trong hố đóng thành băng vít chặt Đồ Nhĩ Bố Thanh thành một khối không nhúc nhích được. Nửa người trên hắn chìa ra ngoài hố, miệngthở hồng hộc. Từ ngực trở xuống chìm vào trong khối băng như người bị chôn sống. Các binh tướng La Sát chẳng ai bảo ai mà cùng chung một quan điểm, mở rộng cửa thành, hô lớn: - Đầu hàng, đầu hàng! Quân dân La Sát, ngoại trừ những người bị rét cóng không nhúc nhích được, hết thảy kéo ùa ra như đàn ong để xin đầu hàng. Vi Tiểu Bảo sung sướng như người phát điên. Gã khoa chân múa tay, miệng nói ba hoa. Hiệu lệnh của gã chẳng còn ra đường lối nào nữa. May ở chỗ những tướng lĩnh bên Thanh toàn là tay lão luyện trong quân trường, trải qua rất nhiều chiến trận. Miệng chúng lớn tiếng hô: - Xin tuân lệnh. Rồi tự ý xử trí với cuộc tiếp thu đầu hàng, cùng thi hành thủ tục tiếp thu, nhập thành, kiểm soát khí giới, thanh lý mọi việc cần thiết rất có phép tắc, thường khi ra ngoài hiệu lệnh của đại soái. Có điều trước khi bắn nước vào thành chỉ lo không đủ, mà bây giờ trái lại thấy nhiều quá. Công cuộc hóa băng, tiêu nước trong thành thật không phải chuyện dễ dàng, Lang Thản đốc thúc quan binh trước hết là dọn dẹp Tổng đốc phủ, mời Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ và quan Khâm sai vào ngồi. Kế đó hắn đi niêm phong những kho hỏa dược, súng ống, kim ngân và phái binh coi giữ. Hiện thời uy thế Thanh triều mới cường thịnh, kỷ luật trong quân rất nghiêm minh, chẳng ai dám tơ hào đụng chạm đến. Dĩ nhiên các quan lớn là bọn Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ càng thừa cơ phát tài. Tối hôm ấy thành nội thành ngoại giết trâu mổ cừu mở tiệc khánh chúc. Bọn Sách Ngạch Đồ hết lời tâng bốc Vi Tiểu Bảo, ca tụng Vi đại soái dụng binh như thần. Dù Tôn, Ngô phục sinh cũng không thể bì kịp.Viên Khâm sai theo hùa lên tiếng: - Chuyến này tiểu đệ dời khỏi kinh sư, đức Hoàng thượng ân cần nhắn nhủ Vi đại soái không nên làm tổn thương nhân mạng quá nhiều. Bữa nay Vi đại soái hạ thành khắc địch dĩ nhiên là một kỳ công, nhưng tuyệt ở chỗ chẳng cần động dụng đến đao thưng kiếm kích, cung tên hỏa khí. Bên thành không một ai chết trận. Trong một ngày trời phá đại địch, hạ thành trì, mà không hao tổn một chiến tướng, một tên quân thì tự cổ chí kim chỉ có một mình Vi đại soái làm được mà thôi. Tiểu đệ nhận thấy đây là công cuộc chẳng những tiền vô cổ nhân mà còn dám chắc hậu vô lai giả nữa. Vi Tiểu Bảo nhơn nhơn đắc ý lại càng ba hoa khoác lác. Gã đáp: - Muốn phá thành Nhã Tát Khắc sự thực không phải là việc khó, nhưng khó ở chỗ hoàng ân bát ngát, thương tiếc quân dân, mình phải giữ sao tránh được thương vong quá nhiều cho khỏi trái với tâm nguyện của Hoàng thượng. Vì thế mà tiểu đệ phải chờ tới bữa nay mới trù liệu xong kế hoạch, để Khâm sai đại thần thân hành chứng kiến: Bọn tiểu đệ vì Hoàng thượng ra sức phá giặc đoạt thành mà thành công không phải chuyện lạ. Cái khó là ở chỗ phải ngừa tuân thánh ý, thắng trận nhưng không giết người. Các tướng tuy biết gã khoe khoang khoác lác, nhưng sự thực thắng trận hạ thành mà không giết một người nào quả là một việc khó khăn hơn cả lên trời, nên ai cũng lẩm nhẩm gật đầu ra chiều rất khâm phục. Sách Ngạch Đồ nói: - Trước công cuộc hiện đại này, Sách mỗ chỉ có thể kết luận bằng một câu: Đây là hồng phúc của Hoàng thượng, kỳ tài của Vi đại soái. Vi Tiểu Bảo cười đáp: - Công cuộc bữa nay phải nói là từ trên xuống dưới, ai cũng đóng góp một phần công lao rất lớn. Tỷ như không được Khâm sai đại nhân và Sách đại nhân thân lâm trận thượng, ra sức đốc chiến thì bọn tiểu đệ làm sao thắng trận được dễ dàng? Khâm sai và Sách Ngạch Đồ nghe gã nói trong lòng khoan khoái lại vô cùng cảm kích. Lúc đối trận vừa rồi, hai vị văn quan này ẩn lánh ở đằng xa, chỉ sợ tênbay đạn lạc, làm gì có chuyện thân lâm trận thượng, gia sức đốc chiến? Nhưng Vi Tiểu Bảo đã tuyên bố như vậy là trong bản tâu báo tin thắng trận, họ cũng dự một phần công lớn trong vụ này. Người ta thường nói: "Rung rinh cỗ kiệu người khiêng người". Sách lễ cũng nói: "Có đi có lại mới toại lòng nhau". Vi Tiểu Bảo là một tay rất thạo nghề làm quan. Gã dâng Khâm sai một phần công lớn là được ơn mà chẳng thiệt gì cho mình. Chuyến này Khâm sai trở về Bắc Kinh, dĩ nhiên sẽ thổi phồng gã lên ở trước mặt Hoàng đế. Dù công lao gã chỉ đáng ba phần, lão cũng tăng lên mười phần. Còn những chuyện vượt ra ngoài vòng luật pháp ở trong quân, Khâm sai cùng Sách Ngạch Đồ dĩ nhiên bưng kín miệng bình. Mọi người ăn uống một lúc rồi, bộ hạ của Lâm Hưng Châu đưa bọn hàng binh La Sát vào báo cáo là chúng đã đào hố băng lôi Đồ Nhĩ Bố Thanh ra ngoài, hiện khiêng đến để dưới thềm. Lúc này Đồ Nhĩ Bố Thanh đã chết cóng từ lâu. Toàn thân hắn biến thành màu xanh xám. Vi Tiểu Bảo ngó thấy liền thở dài nói: - Cha này đặt cái tên xúi quá! Nếu hắn không phải là Đồ Nhĩ Bố Thanh mà là Đồ Nhĩ Bố Tài thì chẳng đến nỗi chết xanh chết xám thế này mà còn phát tài nữa. Gã lại sai người lấy quan tài gỗ để thu liệm Đồ Nhĩ Bố Thanh. Đêm hôm ấy Vi Tiểu Bảo ngủ với Song Nhi ở trong ngọa phòng tại phủ Tổng đốc. Nơi đây đã có lửa đỏ hồng, lại đủ chăn đoạn đệm gấm, đầy vẻ xuân tình. Ngày trước Vi Tiểu Bảo đã vào phòng này. Cựu địa trùng du, gã mở nắp rương ở cạnh giường lên coi thấy trong rương đựng toàn quân phục cùng súng ống. Song Nhi cười hỏi: - Phải chăng tướng công mở rương coi xem có Công chúa La Sát chui lên. Vi Tiểu Bảo cũng cười đáp: - Nàng là Công chúa Trung Quốc, so với Công chúa La Sát còn hay hơn nhiều.Song Nhi lại cười nói: - Đáng tiếc là Công chúa Trung Quốc của tướng công hiện ở Bắc Kinh chứ không có ở đây. Vi Tiểu Bảo hỏi: - Hảo Song Nhi! Bữa nay chúng ta có thể coi như "Đại công cáo thành" được không? Song Nhi mỉm cười, hai má đỏ hồng. Tuy thị cùng Vi Tiểu Bảo thành vợ thành chồng đã lâu ngày, nhưng nghe trượng phu nhắc câu "Đại công cáo thành" thị vẫn bẽn lẽn. Vi Tiểu Bảo giang tay ra ôm lưng thị. Hai người sóng vai ngồi ở cạnh giường. Gã nói: - Song Nhi giáp tấm địa đồ hao tổn rất nhiều tâm huyết. Nay chúng ta lại lấy được Lộc Đỉnh Sơn. Đức Hoàng thượng đã phong thành làm Lộc Đỉnh công, chắc ngài giao thành thành này quản thủ. Trong lòng đất dưới đây cất dấu số Kim ngân tài bảo. Chúng ta từ từ đào lên mà lấy. Ta phải đổi tên Vi Tiểu Bảo thành tên Vi Đa Bảo cho hợp. Song Nhi đáp: - Tướng công hiện đã có rất nhiều vàng bạc, tiêu xài không hết, lấy thêm châu báu cũng bằng vô dụng. Tiện thiếp tưởng cứ là Vi Tiểu Bảo hay hơn. Vi Tiểu Bảo khẽ hôn vào má thị, nói: - Đúng lắm, đúng lắm! Mấy bữa nay ta không quyết định được chủ ý. Nếu đào đất tìm châu báu e làm đứt long mạch nguy hại đến tính mạng tiểu Hoàng đế. Ngài là đại cữu tử mà trước nay đối đãi với ta rất tử tế. Nếu hành động của mình làm ngài chết oan thì yên tâm thế nào được? Nhưng không đào lên để lấy bảo vật thực cũng đáng tiếc. Bây giờ đành thế này vậy. Chúng ta tạm thời hoãn việc khai quật bảo tàng, chờ sau khi Hoàng thượng ngự giá thăng thiên mà chúng ta nghèo đói, khi ấy sẽ bắt đầu khai quật cũng chưa muộn... Gã vừa nói tới đây, bỗng thấy bức rèm lay động rồi trong rương gỗ bật lên những tiếng lạch cạch.Hai người đưa mắt ra hiệu với nhau, chăm chú nhìn xuống rương gỗ. Sau một lúc lâu không thấy động tĩnh gì nữa, Vi Tiểu Bảo khẽ vỗ tay ba cái. Song Nhi ra mở cửa phòng. Lập tức bốn tên thân binh chầu chực bên ngoài chạy vào khom lưng chờ lệnh. Vi Tiểu Bảo trỏ cái rương khẽ nói: - Trong đó có người. Bốn tên thân binh giật mình kinh hãi chạy lại mở nắp rương thì chỉ thấy bên trong xếp đầy quần áo. Vi Tiểu Bảo đánh tay ra hiệu. Bọn thân binh liền bốc quần áo bỏ ra ngoài, lật đáy rương lên ngó thấy huyệt động. Giữa lúc ấy, bỗng nghe tiếng nổ rùng rợn. Một cây súng từ trong huyệt thò lên. Một tên thân binh bật tiếng la: - úi chao! Vai gã trúng đạn, người ngả về phía sau. Song Nhi vội kéo Vi Tiểu Bảo đưa ra sau lưng để che chở cho gã. Vi Tiểu Bảo trỏ vào đống than lò lửa rồi đánh tay làm hiệu. Một tên thân binh liền tiến lại bưng lò than đổ xuống huyệt động. Trong động nổi lên những tiếng kêu rú bằng La Sát ngữ. Tiếp theo là tiếng ho sù sụ không ngớt. Vi Tiểu Bảo hô bằng tiếng La Sát: - Quẳng súng lên trước rồi hãy chui ra. Lập tức một cây súng lục từ trong huyệt động liệng ra. Tiếp theo một tên quân La Sát thò đầu lên. Một tên thân binh nắm tóc tên quân La Sát giật ngửa về phía sau. Một tên thân binh nữa chí đao vào cổ hắn.Hàm râu tên quân La Sát đang bị lửa cháy chưa tắt. Hắn đau quá thét lên be be, lồm cồm bò ra ngoài, trông rất thảm hại. Vi Tiểu Bảo hỏi: - ở dưới còn người nào không? Trong động có tiếng hô: - Còn một người. Đầu hàng, đầu hàng.
__________________
![]() Hãy cười để liều lĩnh chấp nhận mình như một... người ngớ ngẩn. Hãy khóc để liều lĩnh chấp nhận mình như một người đa cảm. Hãy đến với người khác để liều lĩnh đón nhận sự mắc míu. Hãy phơi bày những cảm xúc để chấp nhận con người thật của chính mình. Hãy định đặt những ước mơ trước vầng mây để liều lĩnh đón nhận lời giễu cợt. Hãy yêu - bởi biết đâu không có tình yêu như thế trở lại lần thứ hai... Hãy dũng cảm đối mặt với những khó khăn và rồi liều lĩnh chấp nhận rủi ro.Nhưng những sự liều lĩnh ấy phải cần có bởi vì mối nguy hiểm nhất trong cuộc đời chính là không có sự liều lĩnh. Nếu ai không liều lĩnh, sẽ không có gì, không làm được gì và không là gì cả! |
|
#232
|
||||
|
||||
|
Lộc Đỉnh Ký
Hồi 235 NịNH KHÔNG PHảI ĐườNG Bị QUở TRáCH Vi Tiểu Bảo đáp: - Liệng súng lên đi! Cửa động lấp loáng ánh bạch quang. Một thanh mã đao quăng ra. Tiếp theo một vùng lửa cháy nhô lên. Nguyên tên quân La Sát này đầu tóc đang bị cháy đỏ hồng. Đội thân binh canh giữ ngoài cửa nghe tiếng đại soái ở trong phòng quát tháo liền có một bọn chạy vào. Bảy tám tên giữ lấy hai tên quân La Sát, dập tắt lửa cháy trên râu tóc bọn chúng rồi trói lại. Đột nhiên Vi Tiểu Bảo trỏ vào một tên quân La Sát hô: - Ô kìa! Ngươi là Vương Bát Tử Kê. Tên quân đó lộ vẻ vui mừng reo lên: - Dạ dạ! Trung Quốc tiểu hài đại nhân! Nô tài chính là Hoa Bá Tư Cơ. Một tên nữa cũng reo lên: - Trung Quốc tiểu hài đại nhân! Nô tài... là Tề Lạc Nặc Phu. Vi Tiểu Bảo chú ý nhìn hắn thấy hàm râu cháy xém tơi bời, mặt mũi chỗ đỏ chỗ sưng, nhưng sau gã cũng nhận ra liền đáp: - Phải rồi! Ngươi là Trư La Nọa Phu. Tề Lạc Nặc Phu cả mừng hô: - Đúng lắm, đúng lắm! Trung Quốc tiểu hài đại nhân! Nô tài là bạn cũ của đại nhân. Nguyên Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu là hai tên vệ sĩ của Tô Phi á Công chúa. Ngày trước chúng đã làm quen với Vi Tiểu Bảo ở thành Nhã Tát Khắc rồi lại cùng đi Mạc Tư Khoa. Hai tên vệ sĩ này hồi ở Liệp cung đã theo bọn lính súng làm phản lập được chút công lao. Khi Tô Phi á Công chúa lên nắm quyền quốc chính liền thăng quan cho bọn vệ sĩ hầu cận để đền công chúng đã tùy tùng và ra sức. Chuyến này có bốn tên vệ sĩ đi theo Đồ Nhĩ Bố Thanh trong cuộc Đông tiến và chúng đều làm Đội trưởng. Trong bọn một tên chết trận, một tên chết rét. Còn lại hai tên này gặp cơn binh biến, thành vỡ, lén lút chui xuống đường hầm định trốn ra ngoài thành, không ngờ cửa ra đã vít chặt. Hai tên hết đường tiến thoái rồi tung tích bị bại lộ. Ngày trước Vi Tiểu Bảo kêu chúng bằng Vương Bát Tử Kê và Trư La Nọa Phu (Nguyên Hoa Bá Tư Cơ đọc hơi giống Vương Bát Tử Kê nghĩa là gà chết khốn nạn, Tề Lạc Nặc Phu đọc tương tự Trư La Nọa Phu nghĩa là chó lợn hèn hạ. Vi Tiểu Bảo hô tên chúng như vậy cho dễ nhớ và cũng là để chế diễu chúng). Hai tên này đâu có hiểu được ý nghĩ của Vi Tiểu Bảo, chúng vui vẻ chịu liền, hễ gọi đến tên Vương Bát Tử Kê và Trư La Nọa Phu là chạy tới ngay. Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu nghe Công chúa kêu Vi Tiểu Bảo là "Trung Quốc tiểu hài", ban đầu chúng cũng xưng hô gã như vậy. Sau Vi Tiểu Bảo lập được công trạng, Công chúa phong tước cho gã. Bọn vệ sĩ mới kêu gã bằng "Trung Quốc tiểu hài đại nhân" để tỏ lòng tôn kính. Vi Tiểu Bảo hỏi rõ lai lịch rồi sai bọn thân binh cởi trói và lấy rượu thịt khoản đãi chúng. Bọn thân binh sợ dưới đường hầm còn có gian tế liền chui xuống soát hết một lượt, lại điều tra khắp mọi chỗ thì trong phòng ngoài đường hầm này không có địa đạo cùng ngõ ngách nào khác, chúng mới lui ra. Tên đội trưởng bọn thân binh sợ hãi vô cùng, luôn miệng xin tha tội. Hắn nghĩ rằng đây là cái may tầy đình... Nếu hai tên quân La Sát này chờ tới nửa đêm ở dưới đường hầm chui lên đâm chết Vi đại soái thì hắn sẽ bị toàn gia tru lục. Hôm sau Vi Tiểu Bảo kêu Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu ra hỏi thăm tình hình Tô Phi á Công chúa.Hai tên cho gã hay: Công chúa điện hạ nắm hết công việc triều chính. Vương công đại thần, tướng quân, chủ giáo trong toàn nước La Sát không ai dám chống cự nàng. Hai vị Sa hoàng còn nhỏ tuổi, nhất thiết đều nghe theo lời tỷ tỷ. Tề Lạc Nặc Phu còn nói: - Công chúa điện hạ vẫn tưởng nhớ Trung Quốc tiểu hài đại nhân. Điện hạ dặn bọn nô tài tới đây dò la tin tức của đại nhân và hễ gặp đại nhân thì mời qua Mạc Tư Khoa du ngoạn, điện hạ sẽ ban thưởng cho. Hoa Bá Tư Cơ nói: - Công chúa điện hạ chưa biết Trung Quốc tiểu hài đại nhân đem binh đến đây chinh phạt. Nếu không thì hai bên thân ái vui vẻ như tình bằng hữu. Cuộc chiến cũng không xảy ra nữa. Vi Tiểu Bảo nói: - Các ngươi nói nhăng nói càn để lừa gạt ta. Làm gì có chuyện Công chúa dặn dò như vậy? Hai tên liền thề sống thề chết là đã nói đúng sự thực, không nửa lời sai trái. Vi Tiểu Bảo nghĩ bụng: - Bản tâm Hoàng thượng muốn ta nghĩ cách giảng hoà cùng La Sát. Vậy ta bảo hai tên này về tâu lại với Tô Phi á Công chúa cũng chẳng hề gì. Gã nghĩ vậy liền nói: - Ta muốn gửi thư cho Công chúa các ngươi, nhưng không biết viết chữ ngoằn ngoèo như giun bò của nước La Sát, vậy các ngươi viết giùm ta. Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu ngơ ngác nhìn nhau ra chiều khó nghĩ. Cả hai tên này chỉ biết cưỡi ngựa bắn súng, còn chuyện viết chữ thì chẳng hiểu gì. Tề Lạc Nặc Phu đáp: - Trung Quốc tiểu hài đại nhân! Đại nhân muốn viết thư tình thì bọn nô tài không làm được. Để nô tài... đi kêu một vị giáo sĩ đến viết dùm cho. Vi Tiểu Bảo ưng ngay, sai chúng đi kiếm trong bọn người La Sát đã đầu hàng. Lát sau hai tên dẫn vào một vị giáo sĩ râu quai nón.Thời bấy giờ phần lớn quân nhân La Sát không biết chữ. Những giáo sĩ đi theo trong quân ngoài việc cầu đảo Thượng đế, khích lệ chiến sĩ, còn chức vụ trọng yếu là viết gia thư giùm cho các binh tướng. Vị giáo sĩ này người cao lớn lại vận quân phục của Thanh binh, áo quần chật hẹp như người đóng rọ rất tức cười. Giáo sĩ sợ run bần bật theo hai tên đội trưởng vào tham kiến Vi Tiểu Bảo. Y hô: - Cầu đức Thượng đế ban phước lành cho Trung Quốc đại tướng quân! Đại tước gia! Cầu chúc Trung Quốc đại tướng quân toàn gia an bảo. Vi Tiểu Bảo bảo y ngồi xuống rồi nói: - Ngươi viết cho ta một phong thư gửi đến Tô Phi á Công chúa. Giáo sĩ vâng dạ luôn miệng. Bọn thân binh đã lấy văn phòng tứ bảo để trên bàn. Giáo sĩ tay cầm bút lông, mở to giấy bản, viết chữ La Sát ngùng ngoèo. Y nhận ra cây bút lông mềm nhũn quá, nét chữ chỗ lớn chỗ nhỏ coi rất tức cười, nhưng y tuyệt nhiên không dám bình luận gì về bút mực Trung Quốc, chỉ sợ vị Trung Quốc tướng quân này nổi giận. Vi Tiểu Bảo nói: Ngươi theo lời ta đọc mà viết: - "Sau buổi chia tay, lúc nào ta cũng tưởng nhớ Công chúa, chỉ mong lấy được nàng làm vợ..." Giáo sĩ giật bắn người lên. Tay run rẩy, ngọn bút lông chấm xuống giấy một vết mực lớn. Tề Lạc Nặc Phu đứng bên cổ vũ giáo sĩ: - Vị Trung Quốc tiểu hài đại nhân này là người yêu của Tô Phi á Công chúa điện hạ. Công chúa điện hạ rất thương mến đại nhân. Điện hạ thường nói tình nhân Trung Quốc hay hơn tình nhân La Sát gấp trăm lần. Hắn muốn lấy lòng Vi Tiểu Bảo nên đã phóng đại ra như vậy.Vị giáo sĩ vâng dạ luôn miệng, đáp: - Phải rồi! Phải rồi! Hơn gấp trăm lần, hơn gấp trăm lần... Trong lòng hồi hộp, văn tứ trì trệ, nhưng y không dám dừng bút nghĩ ngợi, đành dùng những câu thường nhật đã viết giùm binh tướng La Sát gửi cho vợ con hoặc tình nhân ở cố hương và toàn là những câu tha thiết về thể xác. Nào là "Có gần gũi mới thỏa lòng", nào là "Đêm qua ta lại mộng thấy mình", nào là "Hôn mình muôn ngàn cái"...v.v Vi Tiểu Bảo thấy giáo sĩ cầm bút viết như gió cuốn, rất lấy làm thỏa mãn. Gã đọc tiếp: - "Quân La Sát của nàng chiếm đất Trung Quốc của ta và giết tróc trăm họ người Trung Quốc. Trung Quốc đại Hoàng đế tức giận vô cùng, phái ta đem quân đến đây để bắt hết bọn binh tướng của nàng xẻo từng miếng thịt nướng thành Hà Thư Ni Khắc..." Giáo sĩ lại giật mình kinh hãi, bất giác bật tiếng la: - Trời ơi! Rồi miệng hô: - Lạy đức Thượng đế! Lạy đức Thượng đế! Vi Tiểu Bảo đọc tiếp: - "Nhưng ta nể mặt Công chúa, tạm thời hãy để chúng đó, chưa xẻo thịt nướng chả. Nếu nàng ưng chịu từ nay trở đi không cho quân La Sát đến xâm phạm cương giới Thanh thì ta sẽ tha hết bọn chúng. Đồng thời Trung Quốc và nước La Sát vĩnh viễn thành tình bằng hữu. Bằng nàng không chịu nghe lời, ta sẽ phái binh đến giết cho kỳ hết đàn ông La Sát, nàng không còn nam nhân để ngủ chung nữa. Nếu nàng muốn ngủ chung với nam nhân thì khắp thiên hạ chỉ có đàn ông Trung Quốc mà thôi". Giáo sĩ rất lấy làm bất phục, bụng bảo dạ: - Trong thiên hạ ngoài đàn ông La Sát, bao nhiêu nước khác thiếu gì nam nhân, há phải riêng một Trung Quốc mới có? Câu này thật vô lý không thể viết vào được.Y lại nhận định viết thư lên Công chúa điện hạ, nhất thiết không thể hành văn một cách vô lễ. Y liền nhất quyết đổi mấy câu này vừa tỏ ra kính cẩn vừa đầy vẻ thân mật. Giáo sĩ tiên liệu vị tướng quân Trung Quốc này không biết chữ La Sát, tất chẳng khám phá ra nổi. Nhưng bản tính thận trọng, y sợ Vi Tiểu Bảo nhìn thấy chỗ sơ hở liền viết bằng chữ La Tinh. Thỉnh thoảng trên môi lại điểm một nụ cười. Vi Tiểu Bảo đọc tiếp: - "Nay ta sai Vương Bát Tử Kê và Trư La Nọa Phu đưa phong thư này đến tay nàng, lại tặng lễ vật cho nàng nữa. Nàng muốn làm tình nhân hay là kẻ thù của ta, cái đó tự nàng quyết định lấy" Giáo sĩ còn đem mấy câu sau cùng đổi thành lời văn rất kính cẩn. Y viết: - "Kẻ tiểu thần ở Trung Quốc lúc nào cũng nhớ đến ân thâm đức trọng của điện hạ. Nay kính cẩn dâng đồ cống vật để tỏ chút dạ trung thành. Tiểu thần còn sống ngày nào, năm nào cũng là kẻ thần hạ trung tâm bất nhị ngày ấy năm ấy của điện hạ. Tiểu thần chỉ mong lưỡng quốc hòa hợp. Những quân La Sát hiện còn ở Nhã Tát Khắc mà được trùng qui cố thủ đều là nhờ ơn đức cao dầy của điện hạ" Mấy câu sau cùng do tâm tư của giáo sĩ nghĩ ra. Y cho rằng vạn nhất cuộc nghị hòa của hai nước không thành thì y cùng bao nhiêu người La Sát đầu hàng tất phải chết vùi chết dập ở nơi tha hương đất khách, vĩnh viễn không mong gì trở về quê quán. Vi Tiểu Bảo chờ giáo sĩ viết xong, nói: - Hết rồi! Ngươi đọc lại cho ta nghe. Giáo sĩ hai tay cầm tờ giấy đứng nghiêm trang tuyên đọc. Những chỗ nào y thay đổi vẫn đọc theo ý của Vi Tiểu Bảo. Vi Tiểu Bảo hiểu biết tiếng La Sát chẳng được bao nhiêu, gã nghe giáo sĩ đọc lại chắc là không sai trật. Gã lại tiên liệu chẳng khi nào giáo sĩ dám tự ý thay đổi lời lẽ của mình. Vi Tiểu Bảo nghe giáo sĩ đọc xong, nói:- Hay lắm! Đoạn gã lấy ấn "Phủ Viễn đại tướng quân Vi" đóng dấu son vào. Thế là phong thư này thư tình chẳng ra thư tình, công văn chẳng ra công văn, nhưng cũng xong việc. Vi Tiểu Bảo cho giáo sĩ lui ra lĩnh thưởng. Gã lại sai vị sư gia trong doanh trại bỏ thư vào bao, ngoài đề bằng chữ Trung Quốc gửi cho Tô Phi á Công chúa. Sư gia mài mực thật đặc, dầm bút cho kỹ. Hàng đầu viết: - "Đại Thanh Quốc Lộc Đỉnh Công, Phủ Viễn Đại tướng quân Vi phụng thư". Hàng thứ hai viết: - "Nga La Tư Quốc Nhiếp chính nữ vương Tô Phi Hà Cố Luân trưởng Công chúa điện hạ". Nguyên hai chữ "La Sát" trong kinh Phật là một thứ quỷ dữ, nếu dùng để xưng hô nước Nga là có điều khinh mạn, nên trong văn thư kêu bằng "Nga La Tư". Sư gia lại nhận thấy ba chữ "Tô Phi á" không được thuần nhã và chữ "Phi" nghĩa là phất phơ khiến cho người ta tưởng đến câu "Phương thảo phi phi" nghĩa là cỏ thơm phất phơ, tựa hồ có ý chê toàn người nàng đầy những lông lá, nên y đổi là "Tô Phi Hà" (Phi Hà là ráng chiều bay). Y dùng điển cố trong câu "Lạc hà dữ cô tế tề thí" nghĩa là ráng chiều bay song song với chim trĩ. Lại có câu "Phi hà phát diện" tả cảnh đẹp ráng bay trước mặt. Còn "Cố Luân trưởng Công chúa" là một phong hiệu rất tôn quý của một vị Công chúa Thanh triều. Em gái Hoàng đế kêu bằng trưởng Công chúa. Con gái Hoàng đế là cười. Tô Phi á đã làm đến Nhiếp chính, lại là tỷ tỷ của hai vị Sa hoàng, dĩ nhiên nàng là Công chúa hàng đầu. Lại nghe Vi Tiểu Bảo cười nói: - Giữa ta và nàng Công chúa La Sát này đã có mối liên quan. Mấy năm chưa gặp, không hiểu tình trạng nàng hiện nay như thế nào?Tên sư gia liền viết vào mặt sau bao thư hai hàng chữ: - "Phù hòa Nhung Địch, quốc chi phước dã. Như nhạc chi họa vô sở bất tài. Thỉnh dữ tử lạc chi". Y nghĩ bụng: - Những câu này lấy trong sách Tả Truyện, nhưng La Sát là một nước Nhung Địch chưa chắc đã hiểu được những câu trong kinh truyện nước Trung Hoa. ý nghĩa ở hai câu song quan lại càng khó hơn. Thực ra chẳng những "Cố Luân trưởng Công chúa nước Nga La Tư" quyết chẳng thể nào hiểu được ý nghĩa sâu sắc về những chữ Trung Quốc này, mà cả đến "Đại Thanh quốc tam đẳng Lộc Đỉnh Công, Phủ Viễn đại tướng quân Vi Tiểu Bảo" thì ngoài ba chữ tên mình và hai chữ "Đại", "Tiểu" là gã mù tịt. Vi Tiểu Bảo thấy sư gia viết trên bao thư đầy những chữ là chữ, liền nói: - Đủ rồi! Đủ rồi! Ngươi viết chữ hay lắm! Hay hơn cả tên rậm râu nước La Sát. Gã lại dặn sư gia chuẩn bị một món lễ vật quý trọng mà là những đồ đã thu được ở trong thành Nhã Tát Khắc, chứ không tốn một đồng một chữ nào. Vi Tiểu Bảo kêu hai tên Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu đến, truyền cho chúng lựa lấy một trăm người trong bọn hàng binh La Sát để làm vệ đội và lập tức đăng trình về Mạc Tư Khoa đưa thư. Hai tên đội trưởng mừng như bắt được vàng, sì sụp lạy mãi không ngớt. Chúng lại kéo tay Vi Tiểu Bảo ra mà hôn vào lưng bàn tay gã rất lâu. Vi Tiểu Bảo bị hàm râu của hai tên đội trưởng xát vào lưng bàn tay ngứa ngáy không chịu được, gã bật lên tràng cười hơ hớ. Thành Nhã Tát Khắc nhỏ bé không đủ chỗ để cho đại quân đồn trú. Vi Tiểu Bảo liền cùng Khâm sai và Sách Ngạch Đồ thương nghị việc đóng quân. Gã phái Lang Thản, Lâm Hưng Châu lĩnh hai nghìn quân ở lại trong thành phòng thủ. Còn đại quân kéo xuống miền Nam chia ra đóng ở hai thành ái Huy và Hô Mã Nhi để chờ đợi thánh chỉ. Đồng thời phái kỵ binh chạy về Bắc Kinh báo tin thắng trận lên Hoàng đế.Lúc ra đi, Vi Tiểu Bảo căn dặn hai tướng Lang Thản và Lâm Hưng Châu không được đào giếng hay đào đường hầm trong thành Nhã Tát Khắc. Đại quân rầm rộ nhằm hướng Nam tiến phát. Vi Tiểu Bảo cung bọn Sách Ngạch Đồ, Bằng Xuân đóng ở ái Huy. Tát Bố Tố lãnh một cánh quân đóng ở Hô Mã Nhi. Vi Tiểu Bảo nhàn rỗi không có việc gì làm, chỉ uống rượu đánh bạc vui chơi, bất tất phải tường thuật. Gã sai hàng binh La Sát mặc quân phục Thanh binh và phái người dạy tiếng Trung Hoa, cần cho chúng thuộc lòng những câu "Nga hoàng vạn tuế, vạn tuế, vạn tuế"... "Trung Quốc Hoàng đế đức bì tứ hải, uy chấn tuyệt vực"... "Vạn tuế gia thần thánh văn võ, Hoàng ân hạo đăng"... "Thánh Thiên tử vạn thọ vô cương"... Đó toàn là những câu cầu chúc và phụng sự nhà Vua. Sau khi bọn hàng binh La Sát thuộc kỹ những câu này rồi, Vi Tiểu Bảo phái binh đưa chúng về Bắc Kinh và dặn chúng khi đi qua những đường phố tại kinh thành phải hô lớn những khẩu hiệu đã thuộc kỹ. Nhất là lúc vào triều kiến Vua Khang Hy càng phải hô thật lớn. Gã bảo chúng: Tên nào hô càng lớn, đức Hoàng thượng càng ban thưởng nhiều. Sau hơn một tháng, Vua Khang Hy ban chiếu thư đến khen ngợi nhiệt liệt các tướng sĩ xuất chinh. Vi Tiểu Bảo được thăng tước Nhị Đẳng Lộc Đỉnh Công. Kỳ dư các tướng sĩ đều được thăng thưởng. Viên Khâm sai truyền chỉ lại giao cho Vi Tiểu Bảo một cái hộp gỗ niêm phong sơn đỏ nói là của đức Hoàng thượng ngự tứ. Vi Tiểu Bảo dập đầu tạ ơn, mở hộp gỗ coi, gã không khỏi ngẩn người. Nguyên trong hộp gỗ đựng một cái bát ăn cơm bằng Hoàng kim, trong bát khắc bốn chữ "Gia quan tấn tước" phảng phất giống như cái bát mà Thi Lang đã tặng gã ngày trước. Có điều những hoa văn và tự tích bị sây sứt thì đã được tu bổ hoàn chỉnh.Vi Tiểu Bảo nhớ lại cái bát vàng này ngày trước để ở Bá Tước phủ trong hẻm Đông Mạo. Đêm hôm ấy, gã hoang mang chạy trốn không kịp đem theo. Sau khi ngẫm nghĩ hồi lâu, gã hiểu liền ra lý lẽ. Đêm hôm ấy chắc là sau khi nổ súng bắn vào Bá Tước Phủ, đội quân Tiền Phong Doanh nhặt nhạnh những đồ vật còn lại, cả những thứ bị sứt mẻ cũng kê vào thành đơn phúc trình Hoàng thượng. Cái bát vàng này tuy đã vỡ nhưng chưa đến nỗi tan tành. Nhà Vua liền sai thợ hàn gắn lại và bây giờ ban cho gã. Dĩ nhiên nhà Vua muốn nhắn nhủ gã: Cái bát vàng gã đã bị sứt mẻ một lần, phen này phải giữ gìn cẩn thận đừng để nó phải tan tành. Vi Tiểu Bảo nghĩ vậy rồi tự nhủ: - Tiểu Hoàng đế đã dùng nghĩa khí đối đãi với ta thì ta cũng phải có đi có lại, không đào hầm hố để khỏi tổn thương long mạch mà gây tai hại đến vận mạng của ngài. Qua mười mấy bữa nữa, Vua Khang Hy lại ban thượng dụ tới nơi. Lần này ngài nặng lời quở trách, phán rằng: Vi Tiểu Bảo có những hành động phá quấy vì gã bắt hàng binh La Sát hô khẩu hiệu "Vạn thọ vô cương" là một điều rất đáng buồn. Trong thượng dụ nói: - "Bậc nhân quân giữ việc chăn dắt nhân dân phải thể theo lòng trời, thương yêu bách tính". "La Sát tuy là nước Man Di, xa với vương hóa, nhưng dân tộc nước này cũng là người. Chúng đã quy thuận hàng phục, thì không thể khinh nhờn vũ nhục họ được". "Ngươi đã làm đại thần nên can gián quân thượng những điều tàn tệ, thi hành nhân chính tới muôn dân". "Nếu trẫm có ơn huệ với trăm họ thì dù chẳng sống lâu cũng là bậc minh quân. Bằng trẫm kiêu sa tàn bạo thì "Vạn thọ vô cương" chỉ tổ làm khổ thiên hạ". "Kẻ đại thần xu nịnh quân thượng, đưa chúa vào hành vi bất đức là tội nặng lắm. Ngươi phải nhớ mà răn mình".Chuyến này Vi Tiểu Bảo bợ đít ngựa mà lại vỗ vào chân để nó đá hộc máu mồm. Nếu ở địa vị người khác tất lấy vụ này làm lo âu, buồn bã. May ở chỗ gã là kẻ mặt dầy, vẫn chẳng quan tâm. Trước mặt quan Khâm sai truyền chỉ, gã tự mắng mình tội thật đáng chết, nhưng trong lòng lại tự nhủ: - Trong thiên hạ còn ai là người không ăn phỉnh? Nhất định vụ này bọn quân La Sát thốt lời Trung Quốc không được hoàn hảo, khiến tiểu Hoàng đế nghe chẳng ra sao nên mới bực mình. Gã liền kêu mấy tên sư gia đã dạy Hoa ngữ cho bọn quân La Sát đến thống mạ một hồi. Sau đó gã lại cùng bọn chúng mở cuộc đánh bạc. Gã gieo mấy bàn xúc xắc rồi là bao nhiêu lời huấn giới của Nhà Vua bay lên chín tầng mây hết. Thì giờ thấm thoát, đông qua xuân tới, Vi Tiểu Bảo ở thành ái Huy tuy được nhàn hạ, nhưng thường thường nhớ tới bọn A Kha, Mộc Kiếm Bình mấy người thê tử. Thỉnh thoảng gã lại sai thân binh đưa đồ về nhà. Sáu vị phu nhân cũng gửi ra y phục cùng phẩm vật. Ai cũng biết gã không hiểu chữ nghĩa nên không gửi gia thư mà chỉ dặn lời là trong nhà đều bình yên cả, mong mỏi Đại soái ca khúc khải hoàn về kinh cho sớm. Một hôm, có thượng dụ ban ra, khâm mạng cho Vi Tiểu Bảo và Sách Ngạch Đồ làm những đại thần trong cuộc nghị hòa để cùng sứ thần nước La Sát kiềm đính hòa ước. Trong kinh còn phái đến bốn nhân vật giúp đỡ công cuộc này là Hán quân Hoàng Kỳ Đô thống Đông Quốc Cương, Hộ quân thống lĩnh Mã Lạt, Thượng thư A Nhĩ Ni và Tả đô Ngự sử Mã Tề. Đông Quốc Cương tuyên đọc thượng dụ xong, lại lấy ra một đạo công văn đọc tiếp. Đạo công văn này là Quốc thư của hai vị Sa hoàng La Sát gửi lên Vua Khang Hy. Tờ quốc thư đã do hai vị truyền giáo sĩ người Hà Lan ở Bắc Kinh dịch ra Hán văn. Bức quốc thư như sau:"Cẩn phụng thượng: Đức Đại thánh Hoàng đế. Ngồi chơi hoa hạ, ảnh hưởng bao trùm hoàn vũ, hướng dẫn tôi hiền trong cuộc phân chia cương thổ, cai trị muôn dân. Trung Quốc gồm thâu Mãn Hán, oai danh lừng lẫy bốn Phương. Nguyên tiền triều A Liệt Khắc Tịch Mễ Hàn ở hạ quốc đã phái bọn Ni Quả Lai qua thiên triều mưu việc giao hảo cho hai nước. Kẻ sứ thần không am tường điển lễ Trung Quốc, cử chỉ có điều thô lỗ, ngữ ngôn lại thiếu văn hóa, đành trông vào đức độ khoan hồng của thượng quốc. Cả việc ca tụng Hoàng đế cũng không khỏi phạm vào thất thể, vì hạ quốc ở nơi hẻo lánh xa xăm, vương hóa khó bề phổ cập. May mà thượng quốc cũng không hạch tội. Ngày trước Hoàng đế đã gửi quốc thư, nhưng hạ quốc không ai biết chữ, chẳng hiểu thánh ý ra sao. Sau bọn Ni Quả Lai trở về, Hạ quốc hỏi ra mới biết thượng quốc chất vấn về vụ bọn Cán Đặc Mộc Nhĩ bôn đào qua hạ quốc. Trong quốc thư còn đề cập đến những việc quấy nhiễu biên thùy. Mới đây hạ quốc được tin Hoàng đế hưng binh đến vùng biên cảnh, khiến tình giao hảo hai bên bị tổn thất. Nếu dân gian hạ quốc ở chốn biên cương quả đã gây hấn làm càn thì thiên triều chỉ cần minh thị là hạ quốc bắt về nghiêm trị ngay, hà tất phải dấy động can qua? Nay hạ quốc phụng tiếp chiếu chỉ mới rõ đầu đuôi, liền hỏa tốc hạ lệnh cho tướng sĩ không được giao binh. Cung thỉnh thiên triều minh xét những tên nào đã gây họa loạn để hạ quốc đem ra chính pháp. Ngoài việc phái sứ thần quyết định biên giới, hạ quốc lại sai bọn Phật Nhi Ngưu Cao, Nghi Phiên, Pháp Nga La Ngõa mang thư đi suốt ngày đêm để dâng thượng quốc.Xin thiên triều rút cuộc bao vây Nhã Tát Khắc. Nếu còn xẩy chuyện lôi thôi, cứ phái sứ thần đưa thư hiểu dụ là hai nước vĩnh viễn giữ cuộc hòa mục. Một vị đại thần ở thượng quốc là Vi Tiểu Bảo các hạ năm trước có quen biết Hoàng tỷ ở hạ quốc là Nhiếp Chính Nữ Vương Tô Phi á điện hạ. Vi đại nhân lại tới kinh thành Mạc Tư Khoa giúp việc dẹp loạn lập nên công lớn ở hạ quốc. Đây thật là một ơn huệ của thượng quốc ban cho. Chúa tôi hạ quốc không bao giờ quên ơn đức này. Kính dâng trọng lễ trên Đại thánh Hoàng đế bệ hạ. Thứ nhì là trọng lễ phụng tặng Vi Tiểu Bảo đại thần các hạ, để tỏ lòng thành tín hòa mục của hạ quốc". Đông Quốc Cương đọc quốc thư rồi, sư gia liền đem những ý tứ trong thư giải thích cho Vi Tiểu Bảo cùng chúng tướng nghe. Đây là một thông lệ ở trong quân, vì những văn thư qua lại thường gặp chữ nghĩa sâu xa khó hiểu mà số đông binh tướng lại không biết chữ. Dù nhiều người đã đọc sách mấy năm, nhưng kiến thức vẫn còn kém cỏi. Những văn kiện trong quân quan hệ đến quân cơ đại sự, nếu xảy chuyện hiểu lầm sẽ đưa tới hậu quả cực kỳ nghiêm trọng. Vì thế mà quân chế nhà Mãn Thanh phải đặt sư gia vào việc giải thích văn thư. Đông Quốc Cương nói: - Vị Nhiếp Chính Nữ Vương La Sát vẫn nhớ mối tình cố cựu với Vi đại soái, đưa tặng rất nhiều lễ vật. Đức Hoàng thượng phải tiểu đệ đêm hết tới đây để giao lại cho đại soái thu nhận. Vi Tiểu Bảo chắp tay đáp: - Đa tạ, đa tạ! Gã nói tiếp: - Người La Sát không hiểu lễ tiết, chẳng nhún mình là lòng thành lễ bạc lại khoe khoang đồ lễ quý trọng. Phần lễ trọng nhất dâng lên Hoàng thượng, còn phần lễ trọng thứ hai gì đó đưa tặng tiểu đệ. Họ nói thế mà không sợ người ta cười cho. Đông Quốc Cương nói:- Vi đại soái phái quân giải bọn người đầu hàng nước La Sát về kinh thành, đức Hoàng thượng thân hành thẩm vấn. Ngài phát giác trong bọn tiểu tốt có một vị đại quan La Sát trà trộn vào... Vi Tiểu Bảo "ủa" lên một tiếng, nhảy bổ lên hỏi: - Có chuyện đó ư? Đông Quốc Cương đáp: - Người này thật giảo quyệt! Hắn trà trộn vào trong đám tiểu tốt, nhất thiết không động thanh sắc, hôm ấy Hoàng thượng thẩm vấn bọn người đầu hàng đã sai một vị giáo sĩ Hà Lan làm thông ngôn. Sau Hoàng thượng nói mấy câu Lạp Đinh (La Tinh) với giáo sĩ. Trong bọn người La Sát đầu hàng có một tên tiểu binh đột nhiên lộ vẻ khác lạ. Hoàng thượng liền hỏi có phải hắn hiểu tiếng Lạp Đinh không, nhưng hắn chỉ lắc đầu. Hoàng thượng lại dùng tiếng Lạp Đinh ra lệnh: •Đem tên tiểu binh này ra chém đầu!•. Hắn sợ hãi thất sắc, quỳ xuống năn nỉ xin tha và thú nhận có hiểu tiếng Lạp Đinh. Vi Tiểu Bảo hỏi: - Tiếng Lạp Đinh là thế nào? Có phải người La Sát khi lôi bọn tráng đinh đi vận tải quân nhu thì nói thứ tiếng này? Sao Hoàng thượng lại hiểu được ngôn ngữ đó? Đông Quốc Cương đáp: - Tiểu đệ cũng không hiểu đạo lý vụ này. Khi nào đại soái có dịp bái kiến Hoàng thượng khẽ dập đầu xin ngài giải thích cho. Vi Tiểu Bảo gật đầu hỏi: - Hoàng thượng xử trí với hắn ra sao? Đông Quốc Cương đáp: - Người đó không thể dấu diếm được, phải thổ lộ hết chân tình. Tên hắn là á Nhĩ Thanh Tư Cơ, làm Đô tổng quản hai thành Ni Bố Sở và Nhã Tát Khắc. Mọi người nghe nói không khỏi giật mình kinh hãi, bất giác •ủa• lên một tiếng.Vi Tiểu Bảo hỏi: - Thế ra chức quan của thằng cha đó lớn lắm ư? Đông Quốc Cương đáp: - Phải rồi! Những quan chức mà nước La Sát phái đến mặt Đông, địa vị hắn lớn hơn hết. Hôm thành Nhã Tát Khắc bị hạ, hắn cải trang làm tên tiểu tốt nên không ai nhận ra được. Vi Tiểu Bảo lắc đầu cười nói: - Ngày hạ thành Nhã Tát Khắc thì người La Sát từ Đại tướng cho đến tiểu tốt, từ quan lớn cho đến quan nhỏ, nhất thời đều bị lột trần như nhộng. Ngó lui ngó tới ai cũng như ai, trong mình chẳng còn tý gì để phân biệt. Như vậy thì vụ này không nhận ra tên đại quan La Sát này cũng không phải là lỗi ở bọn tiểu đệ. Chúng tướng nổi lên tràng cười ha hả. Mọi người liền thuật lại tình hình hôm đánh phá thành Nhã Tát Khắc cho Đông Quốc Cương nghe. Đông Quốc Cương cười nói: - Té ra là thế. Như vậy quả không trách ai được. Lão lại kể tiếp: - Đức Hoàng thượng phán: Vi Tiểu Bảo bắt được Đô tổng quản của nước La Sát trông coi hai thành Ni Bố Sở và Nhã Tát Khắc là một công trạng rất lớn. Đáng tiếc y tưởng người này cũng là tên tiểu tốt tầm thường. Y đã phạm vào tội làm việc hồ đồ, vậy công kia chuộc lại lỗi này là xong. Việc đó thành ra vô thưởng vô phạt. Vi Tiểu Bảo nói: - Đức Hoàng thượng cầm cân nảy mực rất đúng. ¥n điển của ngài khiến cho bọn nô tài chúng tôi muôn vàn cảm kích. Đông Quốc Cương nói: - Đức Hoàng thượng thẩm vấn á Nhĩ Thanh Tư Cơ liên tiếp sáu ngày liền. Chẳng những ngài biết hết về quân chính đại sự nước La Sát, mà cả việc phân chiacương vực, phong tục tập quán, thổ sản địa Phương ngài cũng hiểu rõ một cách tỷ mỷ. Đức Hoàng thượng của chúng ta quả được trời ban cho tài trí thông minh khác đời. Ngài chỉ biết qua thái độ của á Nhĩ Thanh Tư Cơ mà phát hiện ra chuyện bí mật. Lão nhìn Vi Tiểu Bảo vừa cười vừa nói tiếp: - Theo lời Vi đại soái thì á Nhĩ Thanh Tư Cơ lúc bị bắt cũng thân thể trần truồng như mọi người. Ai ngờ hắn vẫn dấu được văn kiện bí mật.
__________________
![]() Hãy cười để liều lĩnh chấp nhận mình như một... người ngớ ngẩn. Hãy khóc để liều lĩnh chấp nhận mình như một người đa cảm. Hãy đến với người khác để liều lĩnh đón nhận sự mắc míu. Hãy phơi bày những cảm xúc để chấp nhận con người thật của chính mình. Hãy định đặt những ước mơ trước vầng mây để liều lĩnh đón nhận lời giễu cợt. Hãy yêu - bởi biết đâu không có tình yêu như thế trở lại lần thứ hai... Hãy dũng cảm đối mặt với những khó khăn và rồi liều lĩnh chấp nhận rủi ro.Nhưng những sự liều lĩnh ấy phải cần có bởi vì mối nguy hiểm nhất trong cuộc đời chính là không có sự liều lĩnh. Nếu ai không liều lĩnh, sẽ không có gì, không làm được gì và không là gì cả! |
|
#233
|
||||
|
||||
|
Lộc Đỉnh Ký
Hồi 236 TRAI LA SáT TOàN Là Đồ Bỏ Vi Tiểu Bảo tức mình thóa mạ: - Tổ bà nó! Thằng cha á Nhĩ Tử Kê gì đó quả là quỷ kế đa đoan. Lần sau còn gặp hắn phải xét kỹ mới được. Văn kiện bí mật hắn dấu ở chỗ nào? Đông Quốc Cương đáp: - Bọn người La Sát đầu hàng trước khi vào triều kiến Hoàng thượng dĩ nhiên đã bị bọn Ngự tiền thị vệ lục soát trong mình rất kỹ. Người ta moi móc cả trong túm râu, mớ tóc. Chúng còn phải tụt giầy cởi quần để thị vệ khám xét không sót một chỗ nào. bọn người Phiên bang lòng dạ hiểm sâu khôn lường! Chỉ sơ hở một chút để chúng mang lợi khí trong mình thì nguy hiểm vô cùng!... Lão dừng lại một chút rồi tiếp: - Tên á Nhĩ Thanh Tư Cơ này dĩ nhiên cũng bị lục soát như ai. Trong người hắn chẳng có vật gì. Nhưng đức Hoàng thượng rất tinh tế. Ngài thấy trên vai bên phải hắn cao gồ lên một chút. Thỉnh thoảng hắn lại liếc mắt nhìn vào chỗ đó. Hoàng thượng liền hỏi hắn: Trên cánh tay có vật gì. á Nhỉ Thanh Tư Cơ kéo tay áo lên. Cánh tay hắn buộc băng vải thật dày. Hắn nói là đã bị thương ở Nhã Tát Khắc. Vi Tiểu Bảo hỏi: - Hắn dấu văn kiện trên vai hay sao? Đông Quốc Cương kể tiếp: - Hoàng thượng bảo hắn tiến gần lại rồi bóp mạnh cánh tay hắn một cái. á Nhĩ Thanh Tư Cơ la lên một tiếng "úi chao!" nhưng tiếng la không lộ vẻ gì đau đớn... Vi Tiểu Bảo bật cười nói: - Thú thật! Tên quỷ La Sát này giả vờ bị thương rồi. Đông Quốc Cương nói: - Nhất định là thế, Hoàng thượng liền sai thị vệ cởi bỏ băng quấn trên cánh tay hắn ra. Lập tức mặt hắn tái mét, toàn thân run bần bật. Đông Quốc Cương nói tới đây, nhìn Vi Tiểu Bảo hỏi: - Vi đại soái! Đại soái thử đoán xem á Nhĩ Thanh Tư Cơ đã dấu vật gì dưới lần băng đó? Vi Tiểu Bảo đáp: - Khâm sai vừa nói trong người hắn có văn kiện bí mật, phải chăng là cái đó? Đông Quốc Cương vỗ tay cười nói: - Chính thị! Trách nào Hoàng thượng thường khen ngợi đại soái rất thông minh, quả nhiên đoán việc gì cũng trúng. á Nhĩ Thanh Tư Cơ dấu một văn kiện bí mật dưới lần băng tay kia. Văn kiện này là một đạo mật dụ của Sa hoàng nước La Sát hửi cho hắn. Đông Quốc Cương kể tiếp: - Hoàng thượng liền gọi giáo sĩ Hà lan dịch văn kiện đó ra Hán văn. Bản sao tiểu đệ có đem tới đây. Lão nói rồi lấy bản văn kia ra lớn tiếng đọc: - "Ngươi nên nói cho Hoàng đế Trung Quốc biết rằng:" "Nga Hoàng bệ hạ thống lĩnh toàn bộ Đại Nga La Tư, Tiểu Nga La Tư, Bạch Nga La Tư, độc tài đại quân chủ Hoàng đế cùng đại vương kiêm trị nhiều nước, quyền oai rất lớn bao trùm cả những nước xa xôi. Rất nhiều quân vương các nước đã được đặt dưới quyền thống trị tối cao của Đại Hoàng đế bệ hạ." "Vậy Hoàng đế Trung Quốc cũng nên cầu khẩn được lĩnh ơn huệ của Đại Hoàng đế bệ hạ như toàn bộ Đại Nga La Tư, Tiểu Nga La Tư, Bạch Nga La Tư. Đại Hoàng đế bệ hạ sẽ hết lòng bảo vệ cho Hoàng đế Trung Quốc được hưởng hoàng ân bát ngát và giữ cho địch nhân khỏi xâm phạm cương thổ. Hoàng đế Trung Quốc chỉ phải triều cống Đại quân chủ bệ hạ là vĩnh viễn bình yên vô sự" "Ngoài ra Đại Hoàng đế bệ hạ còn ưng chuẩn cho những thuộc quốc được doanh thương tự do ở Trung Quốc." "Ngược lại, Trung Quốc Hoàng đế cũng chuẩn cho sứ thần của Đại Hoàng đế bệ hạ được đi lại không bị cản trở.""Ngươi lấy thư phúc đáp của Hoàng đế Trung Quốc đưa về trình Đại Hoàng đế bệ hạ." Đông Quốc Cương cứ đọc một câu là Vi Tiểu Bảo lại mắng một tiếng: - Thối lắm! Lão đọc hết bản mật dụ, không hiểu Vi Tiểu Bảo đã mắng bao nhiêu câu "thối lắm!". Đông Quốc Cương lại nói: - Hoàng thượng phán rằng: Người La Sát dã tâm bồng bột, lại cực kỳ vô lễ! Vị Hoàng đế La Sát ra đạo mật dụ này là phụ thân của hai vị Sa hoàng hiện nay. Vị Hoàng đế kia đã chết rồi. Khi ấy họ chưa hiểu người Trung Quốc ta lợi hại nên mới coi thường. Nhưng hiện nay người La Sát đã nếm mùi đau khổ, chắc không dám càn rỡ như trước nữa. Có điều khi nghị hòa cùng chúng, ta cần phải vừa cương vừa nhu, chớ có khinh suất. Vi Tiểu Bảo nói: - Đúng thế! Hoàng thượng đã dặn dò như vậy thì chúng ta cứ việc tát vào mặt, đá đít bọn chúng. Đồng thời còn đập vai, sửa lưng chúng nữa. Đông Quốc Cương nói: - Vị nữ Nhiếp Chính Vương La Sát cũng giảo quyệt vô cùng! Y giả vờ không biết thành Nhã Tát Khắc đã bị chúng ta hạ rồi, nói là hạ lệnh cho binh tướng La Sát không được giao phong với quân ta. Nhưng y đã khôn lại không ngoan, trong quốc thư để lòi đuôi ở câu: Xin Hoàng thượng trả những người La Sát bị bắt về cho họ chính pháp. Vi Tiểu Bảo cười đáp: - Đâu có chuyện dễ dàng thế được? Y tặng cho tiểu đệ mấy tấm da điêu, vài viên bảo thạch mà bảo là trọng lễ thứ nhì để đòi thả quân binh của y mà được ư? Đông Quốc Cương nói:- Hoàng thượng dặn bảo: Người La Sát đã cầu hòa thì mình nghị hòa với họ cũng không sao, nhưng chúng ta phải đem đại quân đi để họ cùng ký điều ước "thành hạ chi minh". Vi Tiểu Bảo hỏi: - Thành hạ chi minh là cái gì? Đông Quốc Cương đáp: - Hai nước giao binh. Đại quân bên ta vây thành trì Phiên bang. Phiên bang xin hòa. Ta cùng họ ký hòa ước ở dưới chân thành. Cái đó kêu bằng "thành hạ chi minh". Phiên bang tuy không đầu hàng, nhưng thế là đã nhận thua. Vi Tiểu Bảo nói: - à thì ra thế. Thực tình chúng ta ra quân hạ Ni Bố Sở cũng chẳng khó gì. Đông Quốc Cương đáp: - Hoàng thượng phán bảo: Muốn thắng mấy trận nữa, kể ra mình đã nắm vững, nhưng La Sát là một nước lớn trên thế giới hiện nay, có rất nhiều nước nhỏ bị đặt dưới quyền thống trị. Nếu bọn họ thua xiểng liểng ở mặt Đông thì oai phong bị tổn thương rất lớn, khiến cho những nước nhỏ thuộc quyền bất phục. Trường hợp này mà xảy ra, tất La Sát phải kéo đại quân đến báo thùm gây nên nạn binh hỏa lâu dài, lại đưa đến nỗi cừu địch khó bề thu thập, chẳng biết bao giờ mới kết thúc... Lão dừng lại một chút rồi tiếp: - Đức Hoàng thượng đã thẩm vấn á Nhĩ Thanh Tư Cơ và biết rằng phía Tây nước La Sát có một nước lớn nữa là nước Thụy Điển. La Sát và Thụy Điển đang lâm vào tình trạng căng thẳng, chỉ va chạm thêm một chút là chiến tranh bùng nổ. Nếu La Sát bị cả hai mặt Đông Tây giáp công tất phải điên đầu. Chúng ta nhân cơ hội này ký hòa ước với La Sát là chiếm phần tiện nghi nhiều lắm. ít ra mình khỏi lo về mặt Bắc và giữ được thái bình hàng trăm năm. Vi Tiểu Bảo sau mấy trận đại thắng, những muốn thừa thế xông lên tấn công hạ thành Ni Bố Sở. Gã nghe nói Hoàng thượng thuận cho La Sát cầu hòa, không khỏi cụt hứng. Đây là quyết sách của Hoàng đế thì gã muốn "ngồi trong cái gì đểquyết thắng ra ngoài cái gì" cũng đành đình chỉ, vì chẳng khi nào kẻ vi thần dám chống lại mệnh lệnh của Nhà Vua. Rồi gã lại nghĩ: - Lão là mẫu cửu của Hoàng thượng, đồng thời cũng là mẫu cửu của cô vợ ta. Kể theo vai vế, lão là trưởng bối trên ta một bậc. Mặt khác lão là Nhất Đẳng Công, còn ta vừa mới được thăng Nhị Đẳng Công. Thế mà chuyến này đi nghị hòa với La Sát, Hoàng thượng lại phái lão làm phó cho ta, là ngài nể mặt ta lắm. Gã nghĩ tới chi tiết đó, trong lòng rất lấy làm đắc ý. Nguyên phụ thân của Đông Quốc Cương là Đông Đồ Lại. Đông Đồ Lại là phụ thân của Hiếu Khang Hoàng hậu, mẹ Vua Khang Hy, cũng dòng Hán tộc. Vì thế mà người ta nói huyết thống Vua Khang Hy nửa phần là Mãn, nửa phần là Hán. Hiện nay, Đông Đồ Lại chết rồi. Đông Quốc Cương tập ấm được phong làm Nhất Đẳng Công. Ngày trước Đông Đồ Lại lập được nhiều quân công lừng lẫy, oai danh rất lớn, nhưng Vi Tiểu Bảo nhận thấy lão rất dở. Gã lẩm bẩm: - Đồ Lại! Đồ Lại! Đồ Lại nghĩa là chỉ chực cãi cối. Cái đó thuyết minh hễ lão thua bạc là cãi cối. Đường đường một vị quốc trượng, sao lại chơi kiểu đó? Tối hôm ấy, sau bữa tiệc tiếp phong, các đại thần theo lời đề xướng của Vi Tiểu Bảo mở cuộc đánh bạc. Đông Quốc Cương thua bạc liền lấy ngân phiếu sáu trăm lạng ra trả đàng hoàng và thản nhiên như không, chẳng cãi cối chi hết. Vi Tiểu Bảo thấy lão chơi sòng phẳng, không giống phong độ của ông bố, gã không khỏi ngạc nhiên. Khi về phòng lên giường ngủ, gã chợt tỉnh ngộ, bụng bảo dạ: - Tên lão này là Đông Cốt Quang (Quốc Cương gã đọc trạnh thành Cốt Quang) đã chứng minh lão đánh bài thua mà vẫn quang minh lỗi lạc. Vậy đổ tính của lão rất tốt, ta nên kết bạn với lão. Hôm sau, Vi Tiểu Bảo cùng các đại thần thương nghị quốc sự. Các quan đều nói: Ta đã cùng đối phương sắp ký hòa ước "thành hạ chi minh" vậy nên dẫn đạiquân đến trước chờ họ tức là kế "dĩ dật đãi lao" (Mình nhàn rỗi đối với bên kia nhọc mệt). Vi Tiểu Bảo khen phải. Gã liền phát tướng lệnh cho hai cánh quân đống ở ái Huy và Hô Mã Nhĩ nhắm thành Ni Bố Sở tiến phát. Cuộc hội sư sẽ diễn ra ở dưới chân thành này. Hiện thời đã hết xuân sang hạ, băng rữa tuyết tan, khí trời ấm áp. Việc tiến quân rất phương tiện. Một hôm đại quân đi tới bờ sông Hải Lạp Nhĩ, đội tiên phong báo cáo có toán quân La Sát nhỏ xin ra mắt đại soái. Vi Tiểu Bảo truyền cho vào. Hai tên đội trưởng toán quân này là Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu. Vi Tiểu Bảo cả mừng nói: - Hay lắm! Hay lắm! Té ra là Vương Bát Tử Kê và Trư La Nọa Phu. Hai người khom lưng thi lễ xong, đệ trình bức thư phúc đáp của Tô Phi á Công chúa. Vị giáo sĩ La Sát vẫn còn lưu lại trong quân trướng để phòng khi có việc dùng đến. Vua Khang Hy cũng sai một giáo sĩ Hà Lan đến giúp việc trong công cuộc kiềm đính hòa ước. Vi Tiểu Bảo truyền cho cả hai vị giáo sĩ vào trong trướng để họ phiên dịch phúc thư của Công chúa. Giáo sĩ La Sát ngày trước đã thay đổi nguyên ý trong bức thư tình của Vi Tiểu Bảo, lúc này trong lòng rất là hồi hộp. Y chỉ sợ trong phúc thư của Công chúa sẽ lòi ra những điều không ăn khớp với bức thư kia. Y vội cầm lấy bức phúc thư coi hết một lượt, chẳng thấy chỗ nào đáng ngại mới yên lòng. Y liền đem văn tự La Sát trong thư dịch ra chữ La Tinh. Kế đó vị giáo sĩ Hà Lan lại dịch sang Hoa ngữ. Trong thư nói: Từ buổi chia tay ta hằng tưởng nhớ. Mong rằng sau khi ký hòa ước, Vi Tiểu Bảo qua Mạc Tư Khoa một chuyến để tự sự tình cố nhân. Vi Tiểu Bảođược quân thượng hai nước cùng có lòng sủng ái, vậy nên giải thích những chỗ hiểu lầm cho đôi bên, hầu tiêu trừ mọi xích mích, xây dựng nền hòa hảo muôn đời trong lưỡng quốc. Trong thư còn nói: - Trung Hoa và La Sát một nước ở mé Đông, một nước ở phương Tây đều là nước lớn nhất trên thế giới. Nếu lưỡng quốc liên minh là có thể bao trùm thiên hạ, chẳng còn quốc gia nào kháng cự được. Bằng nghị hòa bất thành, cuộc chiến tranh còn kéo dài, tất không tránh khỏi cả hai bên cùng bị kiệt quệ. Vì những lẽ trên, Tô Phi á Công chúa mong Vi Tiểu Bảo xúc tiến giúp vụ này cho thành tựu, dĩ nhiên gã lập công lớn ở Trung Quốc. Đồng thời nước La Sát cũng đền ơn trọng hậu. Công chúa lại xin Vi Tiểu Bảo tiến ngôn lên Hoàng đế Trung Quốc thỉnh cầu ngài buông tha những tướng sĩ La Sát bị bắt cho họ trở về đoàn tụ vui vẻ với gia đình. Giáo sĩ Hà Lan dịch thư xong, Vi Tiểu Bảo thấy Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu đưa mắt ra hiệu mấy lần. Gã biết là còn có biệt tình, liền cho hai vị giáo sĩ lui ra rồi hỏi: - Các ngươi còn điều chi muốn nói? Hoa Bá Tư Cơ nói: - Công chúa điện hạ dặn bọn tiểu nhân nói với Trung Quốc tiểu hài đại nhân là ngài vẫn tưởng nhớ đại nhân. Bọn đàn ông La Sát kém lắm, chỉ có Trung Quốc tiểu hài đại nhân là hay nhất thiên hạ. Ngài nhất định mời đại nhân qua Mạc Tư Khoa. Vi Tiểu Bảo hắng giọng một tiếng, nghĩ bụng: - Đây là mê thang của nước La Sát, ta không thể tin được. Tề Lạc Nặc Phu nói: - Công chúa điện hạ còn mấy việc nữa muốn nhờ Trung Quốc tiểu hài đại nhân lo dùm. Cái này là Công chúa điện hạ tặng cho đại nhân.Hắn nói rồi cời sợi giây đồng buộc trên cổ xuống. Đầu dưới sợi dây buộc một cái túi da. Hoa Bá Tư Cơ cũng cởi cái túi da ở trên cổ xuống. Đây chắc là hai người bạt thiệp trường đồ sợ xảy chuyện thất lạc mà phải dùng giây đồng buộc vào cổ. Miệng túi da khóa bằng khóa đồng. Hoa Bá Tư Cơ lại cởi chiếc chìa khóa ở giây lưng ra mở khóa đồng trên túi da của Tề Lạc Nặc Phu. Tề Lạc Nặc Phu cũng lấy chìa khóa mở túi da của Hoa Bá Tư Cơ. Hai người kính cẩn đặt túi da lên án trước mặt Vi Tiểu Bảo. Vi Tiểu Bảo cầm túi da đảo lộn nghe những tiếng loảng xoảng vang lên. Gã đổ ra mấy chục viên bảo thạch, màu sắc khác nhau coi rất ngoạn mục. Những viên bảo thạch này rất lớn và đủ thứ: Hồng bảo thạch, Lam bảo thạch, Lục bảo thạch, Hoàng bảo thạch. Còn cái túi da nữa trong đựng kim cương, toàn thạch và ngọc phỉ thúy. Trong lúc nhất thời, Vi Tiểu Bảo trông hoa cả mắt. ánh bảo quang tỏa ra khắp quân trướng. Châu báu đối với gã là thường, nhưng những viên bảo thạch vừa lớn vừa nhiều thế này thì gã chưa từng được thấy qua. Gã liền cười nói: - Công chúa đưa hậu lễ tặng ta thế này, ta nhận thế nào được? (Lời chú của tác giả: Theo bài lược khảo về cuộc mậu dịch sơ khởi giữa Trung Hoa và nước Nga của Lưu Tuyển Dân đăng trên Yên Kinh Học Báo số 25 thì Nga hoàng phái đại sứ là Quả La Văn sang Trung Quốc đàm phán về việc chia cương thổ và việc thông thương giữa hai nước. Dọc đường Đông du, Quả La Văn lại tiếp được mật dụ của Nga hoàng trịnh trọng chỉ thị: Nếu cuộc đàm phán về cuộc giao thương với Trung Quốc mà thắng lợi thì dù có phải nhường thành Nhã Tát Khắc cho Trung Quốc cũng được, miễn làđừng để tổn thương đến uy danh Nga hoàng. Sứ giả còn bí mật đưa lễ vật đút lót đại biểu Trung Quốc.) Hoa Bá Tư Cơ nói: - Công chúa điện hạ còn dặn tiểu nhân trình Trung Quốc tiểu hài đại nhân là nếu làm xong đại sự, Công chúa điện hạ sẽ tặng lễ vật quý trọng. Ngoài ra còn lựa mỹ nữ của mười nước là Đại Nga La Tư, Tiểu Nga La Tư, Bạch Nga La Tư, Kha Tát Khắc, Thát Đát, Thụy Điển, Ba Tư, Ba Lan, Lập Đào Uyển, Đan Mạch mỗi nước một cô, cô nào cô ấy đều nhỏ tuổi xinh đẹp và toàn là xử nữ chứ không phải quả phụ đưa đến tặng cho Trung Quốc tiểu hài đại nhân. Vi Tiểu Bảo cười khanh khách đáp: - Hiện ta đã có bảy cô vợ mà mình ứng phó chưa được chu đáo, nếu lại thêm mỹ nữ mười nước thì cái mạng của Trung Quốc tiểu hài đại nhân này đến phải ô hô ai tai mất! Hoa Bá Tư Cơ vội nói: - Không phải đâu! Không phải đâu. Mười vị xử nữ xinh đẹp này, Công chúa điện hạ chuẩn bị cả rồi. Chính mắt bọn tiểu nhân đã trông thấy, cô nào tướng mạo cũng như bông mai côi, da mỡ như sữa bò, tiếng nói như dạ oanh. Vi Tiểu Bảo trống ngực đánh thình thình hỏi: - Công chúa điện hạ muốn ta làm việc gì? Tề Lạc Nặc Phu đáp: - Việc thứ nhất là hai nước hòa hiếu, hoạch định cương giới một cách công bằng. Từ nay trở đi không xảy cuộc giao binh nữa. Vi Tiểu Bảo tự nhủ: - ý kiến của Hoàng đế cũng muốn như vậy. Việc này có thể làm được. Nhưng gã chau mày hỏi: - Phía Tây nước La Sát các ngươi có một nước Thụy... Thụy gì đó đã phái sứ giả đến yêu cầu Trung Quốc chúng ta đồng thời ra quân giáp công La Sát cả hai mặt Đông và Tây để chia đôi giang sơn của các ngươi. Khi đó thì những gì Đại NgaLa Tư, Tiểu Nga La Tư, bất dại bất diểu Trung Nga La Tư, Hắc Nga La Tư, Bạch Nga La Tư, Ngũ Hoa Thập Sắc Nga La Tư chẳng thiếu gì giai nhân mỹ nữ, muốn bao nhiêu có bấy nhiêu, chẳng cần phải Công chúa điện hạ của các ngươi đưa tặng nữa. Huống chi mỗi thứ chỉ đưa tặng có một cô là keo kiệt quá! Hai tên đội trưởng La Sát nghe Vi Tiểu Bảo nói vậy không khỏi giật mình kinh hãi. Hồi ấy, Quốc Vương nước Thụy Điển là Lý đệ thập bát mới lên ngôi là một vị anh quân niên thiếu, chỉnh đốn quân cơ, sửa sang võ bị, có ý muốn khởi binh đánh La Sát. Bọn văn võ đại thần ở triều đình Mạc Tư Khoa đều lấy làm lo lắng, vì ngày ngày cho đại đội binh mã không ngớt kéo qua mặt Đông. Chẳng ngờ Thụy Điển lại toan tính đến việc liên minh với Trung Quốc. La Sát tuy cường thịnh, nhưng hai mặt trước sau đều thụ địch thì đại cuộc tất lâm nguy. Vi Tiểu Bảo nhìn mặt Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu biết là mình đánh đòn gió đã sinh hiệu lực, liền nói tiếp: - Nhưng giữa ta và Công chúa điện hạ là chỗ hảo bằng hữu tâm đầu ý hợp thì khi nào còn nhận lời đề nghị của bọn man tử nước Thụy gì gì đó? Hiện giờ Trung Quốc Hoàng đế chưa quyết định chủ ý, nếu quả nước La Sát thành tâm cầu hòa thì ta đuổi sứ giả nước Thụy gì đó về. Hai tên đội trưởng cả mừng vội đáp: - Nước La Sát rất mực chân thành, tuyệt chẳng có điều chi giả dối. Xin Trung Quốc tiểu hài đại nhân đuổi ngay sứ giả Thụy Điển về nước, hay chặt đầu hắn đi càng tốt. Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói: - Việc chặt đầu sứ giả thì không được đâu. Huống chi hắn lại đưa tặng ta rất nhiều kim cương bảo thạch và mỹ nữ mười mấy nước thì làm sao chém chết hắn cho đành? Có đúng thế không? Hai tên đội trưởng luôn miệng khen phải. Chúng nghĩ thầm: - Té ra nước Thụy Điển cố ý giao hảo với Trung Quốc. Họ thả vỏ quít trước rồi ăn mắm rươi sau. Thủ đoạn của họ còn sáng nước hơn mình.Rồi chúng tự nhủ: - May mà gã Trung Quốc tiểu hài đại nhân này giao hảo với Công chúa nhà mình, không thì vụ này thật nát bét, khó bề vãn hồi được. Vi Tiểu Bảo lại hỏi: - Công chúa còn muốn ta làm việc gì nữa? Hoa Bá Tư Cơ mỉm cười đáp: - Công chúa điện hạ chân thành mời Trung Quốc tiểu hài đại nhân tới điện Cẩm Linh thành Mạc Tư Khoa để cùng bàn việc trong tẩm thất. Vi Tiểu Bảo bật tiếng cười khành khạch bụng bảo dạ: - Đây lại là món mê thang của La Sát hay gọi tắt là La Sát thang cho tiện, La Sát thang ăn được nhưng không thể tin được. Gã cười nói: - Té ra bọn đàn ông La Sát toàn là đồ bỏ. Tề Lạc Nặc Phu mỉm cười đáp: - Chẳng phải đàn ông La Sát toàn là đồ vô dụng, nhưng Công chúa điện hạ đặc biệt tưởng niệm Trung Quốc tiểu hài đại nhân. Vi Tiểu Bảo lẩm bẩm: - Lại thêm một chén La Sát thang nữa. Gã liền hỏi: - Chỉ có vậy thôi, không còn việc gì nữa chứ? Hoa Bá Tư Cơ đáp: - Công chúa thỉnh cầu Trung Quốc Hoàng đế bệ hạ chuẩn cho các nhà buôn hai nước được đi lại tự do thông thương. Tề Lạc Nặc Phu nói theo: - Một khi thương nhân hai nước đi lại thường xuyên, Công chúa thời thường có thể viết thư, đưa lễ gửi sang cho đại nhân.Vi Tiểu Bảo mắng thầm: - Con mẹ nó! Lại thêm một chén La Sát thang nữa. Gã liền hỏi: - Ngươi nói thế thì hai nước giao thương là làm việc riêng cho Công chúa hay sao? Tề Lạc Nặc Phu đáp: - Dạ dạ! Hoàn toàn vì Trung Quốc tiểu hài đại nhân. Vi Tiểu Bảo nói: - Hiện giờ ta không còn là trẻ nít, các ngươi không được xưng hô Trung Quốc tiểu hài gì gì đó. Hai tên liền khom lưng hô: - Dạ dạ! Trung Quốc đại nhân các hạ. Vi Tiểu Bảo mỉm cười đáp: - Được rồi! Các ngươi hãy lui về nghỉ ngơi. Bọn ta sẽ đến Ni Bố Sở. Các ngươi cùng theo đi là xong. Hai tên kinh hãi đưa mắt nhìn nhau tự hỏi: - Đại quân Trung Quốc kéo đến Ni Bố Sở làm gì? Chẳng lẽ họ lại đánh thành? Vi Tiểu Bảo nói tiếp: - Các ngươi cứ yên lòng. Ta đã nhận lời với Công chúa là hai nước hòa hiếu, không còn chuyện giao tranh nữa. Hai tên khom lưng nói: - Đa ta Trung Quốc tiểu... à quên... đại nhân các hạ. Hoa Bá Tư Cơ lại nói: - Công chúa nghe nói những cầu ở Trung Quốc xây cất rất hay. Bất luận trường giang đại hà đều dùng đá lớn để bắc cầu. Phía dưới không cần thạch trụ, kiều đôn. Công chúa đem lòng yêu mến Trung Quốc đại nhân các hạ, nên ưu thíchcả những cái gì của Trung Quốc. Điện hạ xin đại nhân phái mấy tên thợ giỏi chuyên nghiệp bắc cầu qua Mạc Tư Khoa để dựng mấy tòa thạch kiểu thuần kỳ. Hàng ngày Công chúa điện hạ ra chơi thạch kiều Trung Quốc, đi lại tản bộ trên cầu cũng như hàng ngày được thấy mặt đại nhân các hạ. Vi Tiểu Bảo lẩm bẩm: - La Sát thang đưa hết chén này đến chén khác, ta mà ăn mãi vào tất phải ộc ra mất. Tại sao Công chúa La Sát lại đặc biệt thẩm mỹ những tòa thạch kiều của Trung Quốc? Trong vụ này tất có điều chi ngoắt ngoéo. Ta không thể để mắc vào cạm bẫy của hồ ly tinh nước La Sát. Gã liền đáp: - Công chúa mà tưởng niệm ta cũng bất tất phải bắc cầu đá cho tốn nhiều công trình. Ta tặng nàng mấy tấm chăn bông và gối đầu ở Trung Quốc là đủ. Khi nàng ngủ cứ ôm chăn và gối của ta thì cũng như nàng ngủ chung với Trung Quốc đại nhân các hạ. Hai tên đội trưởng La Sát đưa mắt nhìn nhau, vẻ mặt đều ra chiều bẽn lẽn. Tề Lạc Nặc Phu ngập ngừng nói: - Cái đó... dường như... Hoa Bá Tư Cơ đầu óc linh hoạt hơn, liền đỡ lời: - Chủ ý của đại nhân các hạ rất cao minh. Chăn gối Trung Quốc do bọn tiểu nhân đưa về để Công chúa điện hạ không ôm Trung Quốc đại nhân các hạ thì ôm chăn gối Trung Quốc cũng hay rồi. Có điều chăn gối chỉ được mấy năm là rách nát, chẳng thể kiên cố bằng cầu đá. Vậy xin đại nhân phái mấy kỹ sư qua dựng thạch kiều mới là tuyệt diệu. Vi Tiểu Bảo nghe giọng lưỡi hai tên đội trưởng La Sát rất tha thiết về việc phái kỹ sư đi bắc cầu, liền nghi là chúng có âm mưu ngụy kế. Gã chưa hiểu thời bấy giờ kỹ thuật bắc cầu của Trung Quốc đứng vào bậc nhất thiên hạ. Người ngoại quốc đến Trung Hoa thấy những cây thạch kiều hùng vĩ đều tấm tắc khen là kỳ dị. Ai cũng tán thưởng không ngớt. Họ tự hỏi:- Những cây thạch kiều ở đáy dưới không có cột chống mà sao bắc qua sông được? Thật là thần diệu khôn lường! Người La Sát cũng mong học được phương pháp bắc cầu bằng cách này, vì họ rất ca ngợi môn kỹ thuật về khoa học của Trung Quốc mà thôi, chứ chẳng có âm mưu nào khác. (Lời chú của tác giả: "Năm Khang Hy thứ 15 những Nga phái Tư Ba Tháp Lôi (N. G. Spatinary) làm khâm sai, đem theo những chuyên gia về bảo thạch, chuyên gia về dược tài đến Bắc Kinh, đưa ra mấy khoản yêu cầu. Trong những khoản này có một điều xin chuẩn cho nước Nga được mượn kỹ sư bắc cầu của Trung Hoa. Viên Khâm sai La Sát vì không chịu quỳ xuống dập đầu trước mặt Hoàng đế Trung Quốc nên bị Thanh đình đuổi về nước.") Vi Tiểu Bảo bụng bảo dạ: - Những tên này đòi hỏi hết điều nọ đến điều kia. Chúng càng đòi hỏi, ta càng không chịu ưng thuận. Gã liền nói: - Ta biết rồi. Các ngươi hãy lui ra. Hai tên đội trưởng không dám nói gì nữa. Chúng thi lễ rồi rút lui. Đại quân lên đường tiến về phía Tây, một hôm đến gần thành Ni Bố Sở. Khâm sai đại thần nước La Sát là Phi Yến Đa La được tin báo đại quân bên Thanh kéo đến không khỏi giật mình kinh hãi. Y vội viết thư sang xin quân Thanh đồn trú ở ngoài rồi y lập tức đến tương hội. Vi Tiểu Bảo đáp: - Bất tất phải khách sáo. Cứ để bọn ta đến chào khách là được. Quân Thanh rầm rầm rộ rộ kéo đến tận chân thành Ni Bố Sở. Bọn Bằng Xuân, Tát Bố Tố, Mã Lạt chia lấy ba đội nhân mã đi quanh giữ ba mặt Bắc, Tây, Nam thành Ni Bố Sở, đóng trên những yếu đạo để ngăn chặn đườngrút lui của quân La Sát trong thành, lại cản trở cả đường viện binh của quân tiếp viện từ mặt Tây kéo đến. Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ cùng bọn Đông Quốc Cương thống lĩnh trung quân đồn trú ở ngoài thành phía Đông. Trung quân bắn pháo thay phiên. Bốn mặt cũng nổi hiệu súng vang rền. Các đại thần và quan quân La Sát trong thành Ni Bố Sở thấy quân Thanh tập hợp đông như kiến, khí thế rất là hùng dũng, không khỏi khiếp sợ. Phi Yến Đa La liền sắp sửa lễ vật phái người đưa đến doanh trướng quân Thanh và đệ thư lên khâm sai đại thần Trung Quốc. Trong thư nói: Hoàng đế hai nước đã quyết định bãi binh nghị hòa, vậy cuộc hội ngộ này chuyên về việc kiềm đính hòa ước. Quân đội hai bên không nên gần nhau quá để tránh khỏi xảy cuộc xung đột bất ngờ, có thể đưa đến chỗ tổn thương tình giao hảo giữa hai nước. Vi Tiểu Bảo cùng các đại thần thương nghị, đều nói: Trung Hoa là thượng quốc không xử sự ngang trái, cần giữ điều tiên lễ hậu binh. Vi Tiểu Bảo liền hạ lệnh lui binh mấy dặm, đồn trú ở phía Đông sông Thân Nhĩ Khắc. Đồng thời gã ra lệnh cho ba cánh quân đóng ở ba mặt Bắc, Tây, Nam cũng rút vào trong núi chờ đợi. Phi Yến Đa La thấy quân Thanh triệt thoái mới hơi yên dạ. Y lại viết văn thư đưa ra bốn điều kiện về cuộc tương hội. Điều thứ nhất: Cuộc hội kiến diễn ra tại khu vực giữa thành Ni Bố Sở và sông Thập Nhĩ Khắc. Điều thứ hai: Ngày hội kiến, Khâm sai hai nước đều đêm bốn chục tùy viên. Điều thứ ba: Hai nước đều giàn hàng năm trăm quân. Quân Nga sắp hàng ở dưới chân thành. Quân Thanh sắp hàng ở bờ sông. Điều thứ tư: Hai nước đều đem kèm đội vệ binh gồm hai trăm sáu chục người. Ngoài đao kiếm, vệ binh không được mang một thứ vũ khí nào khác. Sở dĩ bên La Sát phải đưa bốn điều đề nghị này vì uy thế quân Thanh rất lớn mà quân Nga ít người. Nếu không hạn chế nhân số thì bên Nga lâm vào tình thếhạ phong. Mặt khác võ khí quân La Sát lợi hại hơn quân Thanh mà không hạn chế khí giới thì quân Nga lại chiếm thế thượng phong, chắc đối phương không chịu. Vì vậy, họ đề nghị trước là khôn và quy định vệ binh chỉ được mang theo đao kiếm. Vi Tiểu Bảo sau khi thương nghị với các đại thần, nhận thấy đề nghị này có thể theo được, liền tiếp nhận ngay. Ngay đêm hôm ấy, Vi Tiểu Bảo phái thân binh dựng doanh trướng để làm hội sở. Sáng sớm hôm sau, bọn Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương dẫn hai trăm sáu chục tên quân đằng bài đến hội sở. Bỗng thấy cử thành Ni Bố Sở mở rộng, hơn hai trăm quân kỵ Kha Tát Khắc đều cầm trường đao hộ vệ cho quan viên La Sát đến hội sở. Đội kỵ binh này người cao ngựa lớn, oai phong lẫm liệt. Còn quân đằng bài bên Thanh đều là bộ binh, coi về ngoài không hùng dũng bằng quân La Sát.
__________________
![]() Hãy cười để liều lĩnh chấp nhận mình như một... người ngớ ngẩn. Hãy khóc để liều lĩnh chấp nhận mình như một người đa cảm. Hãy đến với người khác để liều lĩnh đón nhận sự mắc míu. Hãy phơi bày những cảm xúc để chấp nhận con người thật của chính mình. Hãy định đặt những ước mơ trước vầng mây để liều lĩnh đón nhận lời giễu cợt. Hãy yêu - bởi biết đâu không có tình yêu như thế trở lại lần thứ hai... Hãy dũng cảm đối mặt với những khó khăn và rồi liều lĩnh chấp nhận rủi ro.Nhưng những sự liều lĩnh ấy phải cần có bởi vì mối nguy hiểm nhất trong cuộc đời chính là không có sự liều lĩnh. Nếu ai không liều lĩnh, sẽ không có gì, không làm được gì và không là gì cả! |
|
#234
|
||||
|
||||
|
Lộc Đỉnh Ký
Hồi 237 LầN ĐầU TIÊN NếM MóN TRUNG HOA Đông Quốc Cương cất tiếng thóa mạ: - Tổ bà nó! Bọn quỷ La Sát thật là xảo quyệt! Mới bước đầu mình đã mắc hợm. Chúng bảo mỗi bên đem đi hai trăm sáu chục tên vệ binh, mình quên không hỏi kỵ binh hay bộ binh. Bây giờ chúng đem đoàn kỵ binh thành ra hơn mình hai trăm sáu chục con ngựa. Sách Ngạch Đồ nói: - Vụ này nhắc nhở chúng ta phải rất thận trọng, mỗi khi giao dịch với bọn quỷ La Sát chớ có sơ hở. Mình chỉ bất cẩn một chút là mắc lừa chúng. Trong khi hai người đang nói chuyện thì bọn quan binh La Sát đã gần tới trước mặt. Đông Quốc Cương nói: - Chúng ta tuân chiếu lời phán bảo của Hoàng thượng thì việc gì cũng phải theo lễ nghĩa Trung Hoa là thượng quốc. Vậy chúng ta xuống ngựa đi. Vi Tiểu Bảo hô: - Phải lắm! Hết thảy mọi người phải xuống ngựa! Quan quân nghe lệnh nhất tề hạ mã, chắp tay đứng nghiêm chỉnh. Khâm sai Phi Yến Đa La thấy vậy cũng hạ lệnh cho quan viên La Sát xuống ngựa, khom lưng hành lễ. Hai bên đều tiến gần vào nhau. Phi Yến Đa La hô: - Khâm sai nước Nga La Tư là Phi Yến Đa La vâng mệnh Sa hoàng kính chúc Đại Thanh quốc Hoàng đế thánh thể an khang. Vi Tiểu Bảo bắt chước hắn, đáp lại: - Khâm sai Đại Thanh quốc là Vi Tiểu Bảo vâng mệnh Hoàng thượng kính chúc Sa hoàng nước La Sát thánh thể an khang. Gã lại thêm một câu: - Và chúc Nhiếp Chính Nữ Vương Tô Phi á Công chúa xinh đẹp, bình yên. Phi Yến Đa La mỉm cười nghĩ bụng: - Đại Thanh Hoàng đế chúc Công chúa bên ta xinh đẹp, bình yên thì thật là một câu ly kỳ cổ quái, song Công chúa nghe thấy tất lấy làm hoan hỷ. Hai bên đưa ra những câu chúc tụng, có điều Vi Tiểu Bảo nghe tiếng La Sát câu được câu chăng, mà gã nói càng văn phạm đảo diên, từ cú lệch lạc. May chỉ là những lời khách sáo, chẳng có gì quan hệ. Vi Tiểu Bảo thấy quan viên La Sát đứng nghiêm trang kính cẩn nghe lời, lễ mạo cũng chu đáo, nhưng hai trăm sáu chục tên quân kỵ Kha Tát Khắc vẫn ngang nhiên cưỡi trên lưng ngựa, tay cầm trường đao xếp thành đội ngũ. Chúng ngồi trên cao trông xuống, phảng phất có vẻ uy hiếp. Gã càng nhìn càng tức, liền hỏi: - Đội vệ binh bên quý quốc rất vô lễ! Chúng tham kiến Trung Quốc đại nhân các hạ mà sao không xuống ngựa? Phi Yến Đa La đáp: - Theo luật lệ của tệ quốc thì kỵ binh đang ở trong đội ngũ dù tham kiến Sa Hoàng bệ hạ cũng không phải xuống ngựa. Vi Tiểu Bảo nói: - Đây là đất Trung Quốc. Đã đến Trung Quốc là phải theo luật lệ Trung Quốc. Phi Yến Đa La lắc đầu đáp: - Xin lỗi Trung Quốc đại nhân các hạ! Các hạ lầm rồi. Chỗ này là lãnh thổ của Sa Hoàng nước Nga La Tư, chứ không phải đất Trung Quốc. Vi Tiểu Bảo cãi: - Đây hiển nhiên là đất Trung Quốc, các vị đến cưỡng chiếm mà thôi. Phi Yến Đa La đáp:- Xin lỗi các hạ. Trung Quốc Khâm sai đại thần các hạ lầm rồi đó. Đây là lãnh thổ Sa Hoàng nước Nga. Thành Ni Bố Sở do người Nga La Tư dựng lên. Cuộc hội đàm lần này nguyên là để phân chia ranh giới hai nước, nên chỗ đất này thuộc về Trung Quốc hay thuộc về Nga Quốc phân định cho rõ là một điều trọng yếu. Khâm sai đại thần hai nước vừa gặp mặt, chưa kịp vào trướng mở cuộc đàm phán đã xảy chuyện tranh chấp. Vi Tiểu Bảo nói: - Người La Sát các vị đắp thành lên đất Trung Quốc rồi tự nhận là lãnh thổ của mình mà được ư? Trong thiên hạ sao lại có chuyện kỳ thế? Phi Yến Đa La cãi: - Chỗ này nhất định là lãnh thổ nước Nga. Người Nga La Tư xây thành ở đây, người Trung Quốc không xây thành đắp lũy đủ chứng minh là đất nước Nga. Bây giờ Trung Quốc đại thần các hạ bảo là đất Trung Quốc thì có gì làm chứng cứ không? Thực ra một giải Ni Bố Sở trước nay chẳng có gì ước thúc. Nó là chỗ biên thùy hai nước Trung, Nga nhưng chưa vạch rõ cương giới. Nó thuộc về Trung Quốc hay thuộc về nước Nga, chẳng ai có bằng chứng đưa ra. Vi Tiểu Bảo nghe đối phương hỏi đến chứng cứ không khỏi tắc họng. Gã muốn cưỡng biện, khốn nỗi gã không thông suốt từ ngữ La Sát. Ngay những câu đối đáp tầm thường đã cảm thấy khó khăn thì làm sao đủ tiếng để trình bày biện bác được? Gã nói ẩu: - Đây là đất Trung Quốc, chẳng thiếu gì chứng cứ. Rồi gã dùng tiếng Dương Châu thóa mạ: - Con mẹ quân chó đẻ! Ta nguyền rủa tổ tôn mười tám đời bọn quỷ La Sát các ngươi. Gã thốt câu này rồi tiếp đến những lời thô tục tuôn ra như nước chảy, thao thao bất tuyệt, thóa mạ cao tổ mẫu, tằng tổ mẫu rồi đến tổ mẫu, mẫu thân, tỷ muội,ngoại bà, di má, cô mẫu nhà Phi Yến Đa La. Gã chửi tưới hạt sen, chửi vung xích :D Bao nhiêu đàn bà nhà họ Phi nước La Sát gã chửi tuốt chẳng tha một ai. Các quan viên cả hai bên Trung, Nga thấy Khâm sai đại thần Trung Quốc nổi lôi đình đều băn khoăn kinh hãi. Có điều gã mồm năm miệng mười đưa ra từng tràng như pháo nổ liên thanh, đừng nói Phi Yến Đa La chẳng hiểu gì mà cả quan viên Trung Quốc cùng thông dịch viên hai bên cũng lờ mờ. Nên biết những câu chửi rủa của Vi Tiểu Bảo này toàn là lời thô tục đê hèn trong đám dân quê ở Dương Châu. Ngay những vị thân sĩ, thục nữ người Dương Châu cũng chưa chắc đã hiểu được mấy phần. Bọn Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương, hoặc là người Bát Kỳ, hoặc là võ quan ở phương Bắc từ lâu thì còn lý hội làm sao được? Vi Tiểu Bảo thóa mạ hồi lâu đã tiết hận, trong lòng khoan khoái. Gã không nhịn được lại nổi lên tràng cười khanh khách. Phi Yến Đa La ban đầu tuy không hiểu ngữ ngôn của gã, nhưng coi vẻ mặt cùng nghe giọng nói cũng đoán là gã đang nổi giận. Sau lại thấy gã đột nhiên cười rộ không khỏi ngơ ngác, cất tiếng hỏi: - Xin hỏi quý sứ đưa ra trường thiên đại luận đó để chỉ giáo điều gì? Ngôn từ của quý sứ sâu xa và huyền diệu, mà tệ nhân lại học thức thô sơ, kiến văn hủ lậu, khó bề thông tình đạt lý. Xin quý sứ nói chậm chạp từng câu một, để tệ nhân lãnh giáo. Vi Tiểu Bảo đáp: - Bản sứ vừa nói quý sứ không hiểu đạo lý gì hết. Bản sứ muốn quý tổ mẫu đến đây làm người bạn lòng và làm bà vợ. Phi Yến Đa La mỉm cười đáp: - Tổ mẫu của tệ nhân là người đẹp nổi danh ở thành Mạc Tư Khoa. Lão nhân gia là con gái của Bỉ Đắc Lạc Phu Tư Cơ Bá tước. Té ra Trung Quốc đại nhân các hạ cũng biết tiếng tệ tổ mẫu. Tệ nhân thực lấy làm vinh hạnh vô cùng! Đáng tiếc tệ tổ mẫu đã chết trước đây ba mươi tám năm. Vi Tiểu Bảo nói:- Thế thì bản sứ muốn giao du thân mật với lệnh mẫu để lấy bà làm vợ. Phi Yến Đa La nở mày nở mặt, càng lộ vẻ hoan hỷ đáp: - Má má của tệ nhân là con nhà danh môn vọng tộc ở thành Cơ Phụ. Nước da người vừa trắng vừa non. Người biết làm thơ chữ Pháp. ở thành Mạc Tư Khoa chẳng thiếu gì bậc vương công, tướng quân rất sùng bái người. ở tệ quốc còn có một vị đại thi nhân đã làm mấy chục bài thơ tán dương sắc đẹp của tệ má má. Hiện nay tuy người đã ba mươi sáu tuổi nhưng tướng mạo còn non trẻ chỉ bằng một thiếu phụ dưới ba mươi. Trung Quốc đại nhân các hạ mai đây có dịp qua Mạc Tư Khoa, tệ nhân nhất định giới thiệu đại nhân các hạ với má má. Việc kết hôn thì đại nhân rằng không được, còn làm bạn tâm tình thì có thể. Nguyên theo phong tục Tây dương thì ai có mẫu thân hoặc thê tử xinh đẹp được người tán tụng, chẳng những họ không lấy thế làm hỗn xược, trái lại họ cho là một điều rất vinh hạnh và khoan khoái hơn cả ca tụng chính họ. Vi Tiểu Bảo không hiểu phong tục Tây dương, lại cho là Phi Yến Đa La sợ mình, có ý muốn bái mình làm cha hờ, mới chịu phụng hiến thân mẫu. Gã sướng quá, bao nhiêu lửa giận tiêu tan hết, liền cười đáp: - Hay lắm! Hay lắm! Sau này nếu quả bản sứ có dịp qua Mạc Tư Khoa nhất định sẽ vào làm thượng khách của quý phủ. Gã dắt tay Phi Yến Đa La đi vào doanh trướng. Bọn tùy tùng hai bên liền theo sau tiến vào. Bọn Vi Tiểu Bảo ngồi ở đằng Đông. Bọn Phi Yến Đa La ngồi ở mé Tây. Phi Yến Đa La lên tiếng: - Nhiếp Chính Nữ Vương Công chúa điện hạ bên tệ quốc đã dặn bảo cuộc hòa đàm chuyến này để hoạch định cương giới. Tệ quốc hết sức thành ý, mong hai bên giữ mực công bằng, đừng ai lấn át đối phương. Vì vậy tệ quốc đề nghị lấy sông Hắc Long Giang làm giới hạn cho hai nước. Mặt Nam sông này là Trung Quốc. Mặt Bắc thuộc về Nga La Tư. Sau khi cương giới đã hoạch định, quân Nga La Tư không được qua sông tràn xuống phía Nam. Quân Trung Quốc cũng không được qua sông tiến lên miền Bắc.Vi Tiểu Bảo hỏi: - Thành Nhã Tát Khắc ở Giang Nam hay Giang Bắc? Phi Yến Đa La đáp: - Nhã Tát Khắc ở Giang Bắc. Thành này do người La Sát xây đắp. Cái đó chứng tỏ mặt Bắc sông Hắc Long Giang đều là lãnh thổ của nước Nga. Vi Tiểu Bảo nghe nói lại nổi cơn tức giận hỏi: - Trong thành Nhã Tát Khắc có một trái núi nhỏ. Các hạ có biết tên trái núi này là gì không? Phi Yến Đa La quay lại hỏi tùy viên rồi đáp: - Trái núi đó kêu bằng Cao Trợ Lược Sơn. Vi Tiểu Bảo hiểu được tiếng La Sát, Cao Trợ Lược tức là con hươu, liền nói: - Người Trung Quốc kêu bằng Lộc Đỉnh Sơn. Rồi gã hỏi: - Quý sứ có biết bản sứ được phong tước vị gì không? Phi Yến Đa La đáp: - Các hạ là Lộc Đỉnh Công. Nếu nói bằng tiếng La Sát tức là Cao Trợ Lược Sơn Công tước. Vi Tiểu Bảo nói: - Thế là các hạ còn có lòng muốn lấn át bản sứ. Các hạ đã biết rõ bản sứ là Lộc Đỉnh Công sao còn cưỡng chiếm Lộc Đỉnh Sơn của bản sứ? Phải chăng các hạ bảo bản sứ không phải là Công tước? Phi Yến Đa La đáp: - Không không! Tệ nhân quyết chẳng có ý đó. Vi Tiểu Bảo lại hỏi: - Tước hiệu của các hạ là gì? Phi Yến Đa La đáp:- Tệ nhân là Mạc Nặc Sa Phạt Hầu tước. Vi Tiểu Bảo nói: - Hay lắm! Vậy thì Lạc Nặc Sa Phạt thuộc về lãnh thổ Trung Quốc. Phi Yến Đa La giật mình kinh hãi rồi mỉm cười nói: - ấp phong của tệ nhân Lạc Nặc Sa Phạt còn ở phía Tây Mạc Tư Khoa, cách xa Trung Quốc vạn dặm, sao lại thuộc về lãnh thổ Trung Quốc được? Vi Tiểu Bảo hỏi: - Quý sứ bảo ấp phong của mình kêu bằng Lão Miêu Lạp Thi Pháp... Phi Yến Đa La sửa lại: - Lạc Nặc Sa Phạt. Vi Tiểu Bảo không lý gì đến hắn, tiếp tục câu hỏi: - Từ thành Bắc Kinh bên bản sứ tới Lão Miêu Lạp Thi Pháp cộng bao nhiêu dặm đường? Phi Yến Đa La đáp: - Từ Lạc Nặc Sa Phạt đến Mạc Tư Khoa đã hơn trăm dặm, phải đi mất bốn ngày. Từ Mạc Tư Khoa tới Bắc Kinh phải đi ba tháng nữa. Vi Tiểu Bảo nói: - Nếu vậy từ Bắc Kinh đến Lão Miêu Lạp Thi Pháp phải đi mất ba tháng lẻ năm ngày. Lộ trình xa quá nhỉ? Phi Yến Đa La đáp: - Xa lắm! Xa lắm! Vi Tiểu Bảo nói: - Đường đất đã xa như vậy thì Lão Miêu Lạp Thi Pháp dĩ nhiên không phải là lãnh thổ Trung Quốc. Phi Yến Đa La đáp: - Công gia nói đúng lắm!Vi Tiểu Bảo nâng chung rượu lên nói: - Mời quý sứ xơi rượu. Người La Sát quý rượu như tính mạng. Chung rượu đặt ở trước mặt Phi Yến Đa La đã lâu, mùi thơm tho xông lên mũi hắn từng hồi, nhưng chủ nhân chưa nâng chung, hắn không dám thiện tiện uống trước. Bây giờ Phi Yến Đa La thấy Vi Tiểu Bảo nâng chung, hắn mừng quá cầm chung rượu uống một hơi cạn sạch. Bọn tùy viên bên Thanh lại rót rượu vào chung cho hắn rồi lấy đồ nhắm trong hộp ra và toàn là những món do đầu bếp nổi tiếng ở Bắc Kinh nấu nướng. Thời bấy giờ nước La Sát mới được khai hóa, nên cách ăn mặc hãy còn thô sơ. Về sau Bỉ Đắc đại đế lớn lên, đoạt lại quyền hành ở tay tỷ tỷ là Tô Phi á Công chúa rồi giam nàng vào ni am. Bỉ Đắc đại đế từ đó mới thâu nhập phần lớn văn hóa Tây Âu. Hồi nước La Sát giao thiệp với Vi Tiểu Bảo, nhất thiết khí vật, chế độ, văn hóa đều kém Trung Quốc nhiều. Về cách nấu nướng thì cho tới ngày nay La Sát so với Trung Quốc vẫn còn cách xa vạn dặm. Đây là lần đầu tiên Phi Yến Đa La được nếm những thức ăn tuyệt hảo của nước Trung Hoa ở ngoài thành Ni Bố Sở, dĩ nhiên hắn phải trợn mắt há miệng, cơ hồ muốn nuốt luôn cả cái lưỡi của mình vào bụng. Vi Tiểu Bảo bồi tiếp Phi Yến Đa La nếm đủ các món ăn và giải thích cho hắn nghe vây cá là thế nào? Yến sào là gì? Chân vịt làm thế nào cho thành món trân quý? Gan gà chế hóa làm sao cho thành món tối hảo trong bữa ăn?... Phi Yến Đa La ăn ngon miệng quá vui mừng khôn xiết, khen không ngớt miệng. Vi Tiểu Bảo lại hỏi: - Quý sứ dời thành Mạc Tư Khoa ngày nào? Phi Yến Đa La đáp: - Tệ nhân vâng chỉ dụ của Công chúa điện hạ ngày 12 tháng 4 ở thành Mạc Tư Khoa ra đi.Vi Tiểu Bảo nói: - Hay lắm! Quý sứ cạn chung này đi! Đông Công gia ở bên bản sứ tửu lượng cũng khá lắm. Hai vị hãy đối ẩm mấy chung. Đông Quốc Cương liền kính tửu Phi Yến Đa La, đối ẩm ba chung. Vi Tiểu Bảo hỏi: - Phải chăng quý sứ mới tới Ni Bố Sở trong tháng này? Phi Yến Đa La đáp: - Tệ nhân đến đây ngày rằm tháng bảy. Vi Tiểu Bảo nói: - ồ! Quý sứ ra đi ngày 12 tháng 4 đến đây ngày rằm tháng bẩy, tức là mất hơn ba tháng lộ trình. Phi Yến Đa La đáp: - Dạ. Đi mất hơn ba tháng là may nhờ tiết trời ấm áp, dọc đường không bị điều gì khó khăn cản trở. Vi Tiểu Bảo nói: - Phen này quý sứ nói thật đi! Chịu thừa nhận thành Ni Bố Sở không phải ở trên đất nước La Sát. Phi Yến Đa La uống rượu mười mấy chung rượu, đã ngà ngà say. Hắn nghe Vi Tiểu Bảo nói vậy ngạc nhiên hỏi: - Tệ nhân... tệ nhân có thừa nhận hồi nào đâu? Vi Tiểu Bảo cười đáp: - Từ Bắc Kinh đến Lão Miêu Lạp Thi Pháp đi mất hơn ba tháng, lộ trình xa quá, nên Lão Miêu Lạp Thi Pháp không phải đất Trung Quốc. Từ Mạc Tư Khoa đến Ni Bố Sở, quý sứ cũng phải đi hơn ba tháng, tức là đường đất chẳng gần gũi gì. Cái đó chứng tỏ Ni Bố Sở dĩ nhiên không phải là đất nước La Sát. Phi Yến Đa La dương to cặp mắt. Trong lúc nhất thời không biết nói sao. Hắn ngẩn người ra hồi lâu mới đáp:- Nước Nga La Tư bên tệ nhân đất rộng bao la, không phải như những nước khác. Vi Tiểu Bảo nói: - Nước Đại Thanh bên bản sứ phạm vi cũng không nhỏ hẹp. Phi Yến Đa La cười gượng đáp: - Trung Quốc đại nhân khéo nói giỡn. Hai vụ đó... không thể... nghị luận giống nhau... Vi Tiểu Bảo nói: - Nếu quý sứ nhất định bảo Ni Bố Sở là lãnh thổ nước La Sát thì chúng ta làm một cuộc trao đổi. Bản sứ tới Mạc Tư Khoa xin Công chúa điện hạ phong quý sứ làm Ni Bố Sở Bá tước, và phong bản sứ làm Lão Miêu Lạp Thi Pháp Công tước. Thành Lão Miêu Lạp Thi Pháp được kể là đất Trung Quốc. Phi Yến Đa La đỏ mặt lên đáp: - Cái đó... nhất định không được... Trong lòng hồi hộp, hắn nghĩ bụng: - Công chúa là tình nhân của gã, nếu lúc đầu gối tay ấp nàng bị gã cho ăn thuốc mê mà ưng thuận cuộc trao đổi thì thật là nét bét. Lạc Nặc Sa Phạt là ấp phong tổ truyền của ta, sản vật rất phong phú. Nếu Công chúa cải phong cho ta đến Ni Bố Sở là một nơi khí hậu rét mướt, dân cư thưa thớt, thì có khác gì giết ta không? Huống chi ta đang làm Hầu tước mà lại cải phong làm Ni Bố Sở Bá tước thì ra bị giáng cấp hay sao? Hắn nghĩ tới điểm này, bất giác nét mặt lộ ra rất khó coi. Vi Tiểu Bảo cười nói: - Tâm địa của quý sứ tệ hại quá chừng! Quý sứ đã muốn chiếm cứ cả thành Nhã Tát Khắc là đất phong của bản sứ, khi đó bản sứ không còn là Lộc Đỉnh Công thì bản sứ biết làm thế nào? Đành là làm Lão Miêu Lạp Thi Pháp Công tước vậy. Tuy ấp phong của quý sứ mang cái tên cứt mèo, cứt chó gì đó thật khó nghe, bản sứ cũng cam chịu vậy.Phi Yến Đa La tính thầm trong bụng: - Gã là người Trung Quốc mà muốn chiếm thành Lạc Nặc Sa Phạt của ta quyết không thể được, nhưng gã đã được phong tước ở nước La Sát mà lại mưu lấy ấp phong của ta tất không khỏi rắc rối cho ta. May ở chỗ Công chúa đã dặn có thể lui cương giới về đến Ni Bố Sở. Sự thực chúng ta cũng không cần đòi Nhã Tát Khắc. Thành Nhã Tát Khắc đã bị bọn họ hạ rồi mà bảo họ rút lui, dĩ nhiên họ không chịu. Gã tính vậy liền lộ vẻ tươi cười đáp: - Thành Nhã Tát Khắc đã là ấp phong của đại nhân, thì bọn tệ nhân xin thoái nhượng một bước. Hai nước vẫn lẫy sông Hắc Long Giang làm giới hạn, nhưng thành Nhã Tát Khắc và phạm vi chung quanh thành này trong vòng mười dặm thuộc về lãnh thổ Trung Quốc. Đây là bọn tệ nhân hoàn toàn nể mặt quý sứ và đã làm một cuộc nhượng bộ rất lớn rồi đó. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm: - Bọn ngươi thua trận mà còn lên mặt như vậy. Nếu trận đánh vừa rồi quân La Sát các ngươi thắng thì đại nhân rằng các ngươi đòi cả thành Bắc Kinh cũng là lãnh thổ của các ngươi nữa. Gã nghĩ vậy liền hỏi: - Chúng ta đã trải qua một trận giao phong. Không hiểu các vị thắng hay là bản sứ thắng? Phi Yến Đa La chau mày đáp: - Đó mới là cuộc đụng độ nhỏ bé, chưa đáng kể ai thắng ai bại. Công chúa điện hạ bên tệ quốc đã ra nghiêm lệnh không cho tướng sĩ được chính thức giao phong để duy trì hòa hiếu giữa hai nước. Vì thế lúc quân đội quý quốc tấn công, tướng sĩ bên tệ quốc không phản kích. Nếu cuộc giao binh thật sự diễn ra thì cục diện sẽ khác hẳn. Vi Tiểu Bảo nghe nói cả giận hỏi: - Té ra quân La Sát đã nổ súng mà chưa kể là phản kích ư? Phi Yến Đa La đáp:- Đây bất quá là tướng La Sát hành động để bảo vệ lãnh thổ cho bản quốc chứ không phải phản kích. Nếu người La Sát đánh trận thực sự thì chẳng khi nào chỉ thủ chứ không công. Một khi cuộc đại chiến xảy ra giữa hai nước thì đội hỏa thương thủ La Sát và đội kỵ binh kha Tát Khắc đã đến tấn công thành Bắc Kinh rồi. Vi Tiểu Bảo tức quá mắng thầm: - Tổ bà nó! Bọn quỷ sứ lông lá các ngươi chuyên nói khoác để hăm người. ta mà sợ các ngươi hăm dọa thì sẽ theo họ ngươi mà làm con ngươi. Ta chẳng phải Vi Tiểu Bảo nữa mà là Tiểu Bảo Phi Yến Đa La. Gã đến thành Mạc Tư Khoa đã biết tập quán của người La Sát đặt tên trước họ. Phi Yến Đa La là họ chứ không phải tên. Gã liền nói: - Vậy thì hay lắm! Thưa Hầu tước đại nhân đáng kính đáng sợ! Hầu tước đại nhân có biết trong lòng bản sứ mong mỏi điều gì nhất không? Phi Yến Đa La đáp: - Tệ nhân không rõ. Xin đại nhân chỉ giáo. Vi Tiểu Bảo nói: - Hiện nay bản sứ mới là Công tước, trong bụng chỉ mong mỏi được gia quan tấn tước thăng làm quận vương hay thân vương. Phi Yến Đa La nghĩ bụng: - Gia quan tấn tước thì ai mà chẳng muốn? Hắn mỉm cười đáp: - Công tước đại nhân tinh minh mẫn cán lại được Hoàng đế quý quốc đem lòng tin yêu sủng ái thì chỉ lập tiếp mấy vụ công lao là nhất định sẽ thăng đến quận vương, thân vương chẳng còn nghi ngờ gì nữa. Tệ nhân chân thành kính chúc đại nhân sớm đặng thành công. Vi Tiểu Bảo khẽ nói:- Vụ này cần được Bá tước đại nhân giúp đỡ, nếu không thì chẳng còn cơ hội nào khác. Phi Yến Đa La ngạc nhiên hỏi: - Dĩ nhiên tệ nhân hết sức, nhưng chưa hiểu tệ nhân giúp đại nhân bằng cách nào? Vi Tiểu Bảo cúi xuống ghé vào tai Phi Yến Đa La khẽ nói: - Theo lề luật nước Đại Thanh bên bản sứ thì chỉ khi nào đánh trận đại thắng, lập nhiều quân công mới được phong vương. Nhưng hiện giờ trong nước thái bình vô sự, bao nhiêu quân phản nghịch đã bị dẹp tan. Phải chờ hai ba chục năm nữa đại nhân rằng cũng chưa chắc đã xẩy chiến tranh. Như vậy việc phong vương của bản sứ khó quá... Gã dừng lại một chút rồi tiếp: - Vậy việc phân chia cương giới, nghị định hòa ước này, rất mong quý sứ đừng nhượng bộ chút gì. Hay hơn là quý sứ phái binh khiêu chiến với tệ quốc, giết chết một hai vị đại thần bên bản sứ. Hai nước chúng ta xẩy cuộc đại chiến rồi, quý sứ phái đội hỏa thương thủ La Sát và đội kỵ binh Kha Tát Khắc đến tấn công thành Bắc Kinh, bản quốc sẽ cùng Thụy Điển liên minh phái binh đến đánh Mạc Tư Khoa. Có đánh nhau cái bụi mịt mù, trời sầu đất thảm, máu chảy thành sông thì cuộc phong vương của bản sứ mới mong thành tựu. Đây là một điều bản sứ ký thác ở nơi quý sứ. Xin quý sứ hết lòng giúp cho. Quý sứ nói gì xin hạ thấp giọng xuống, đừng để người ngoài nghe thấy.
__________________
![]() Hãy cười để liều lĩnh chấp nhận mình như một... người ngớ ngẩn. Hãy khóc để liều lĩnh chấp nhận mình như một người đa cảm. Hãy đến với người khác để liều lĩnh đón nhận sự mắc míu. Hãy phơi bày những cảm xúc để chấp nhận con người thật của chính mình. Hãy định đặt những ước mơ trước vầng mây để liều lĩnh đón nhận lời giễu cợt. Hãy yêu - bởi biết đâu không có tình yêu như thế trở lại lần thứ hai... Hãy dũng cảm đối mặt với những khó khăn và rồi liều lĩnh chấp nhận rủi ro.Nhưng những sự liều lĩnh ấy phải cần có bởi vì mối nguy hiểm nhất trong cuộc đời chính là không có sự liều lĩnh. Nếu ai không liều lĩnh, sẽ không có gì, không làm được gì và không là gì cả! |
|
#235
|
||||
|
||||
|
Lộc Đỉnh Ký
Hồi 238 [ize=24]Cuộc Đàm Phán Phân Chia Cương Giới[/size] Phi Yến Đa La càng nghe càng kinh hãi, nghĩ thầm: - Gã thiếu niên này lớn mật làm càn. Vì mong được phong vương, gã không quản gây cuộc chiến tranh giữa hai nước. Trận đánh này rồi ai thắng ai bại tuy không thể biết trước, nhưng hiện giờ bên họ đông người mà ta ít, lực lượng hai bên chênh lệch quá xa thì cái thua thiệt trước mắt nhất định mình phải hứng chịu. Hắn càng nghĩ càng hối hận là đã huênh hoang hăm dọa nói những gì dẫn đội hỏa thương La Sát và đội kỵ binh Kha Tát Khắc đến đánh thành Bắc Kinh, ai ngờ gã thiếu niên lại cho là sự thực. Chẳng những gã không sợ mà còn hoan hỷ vô cùng. Phi Yến Đa La thấy mình đã trót khéo quá hóa vụng, nhưng nếu để lộ vẻ khiếp nhược thì không khỏi bị đối phương khinh nhờn. Trong lúc nhất thời, hắn không biết làm thế nào, đâm ra luống cuống. Vi Tiểu Bảo lại nói: - Mạc Tư Khoa cách đây xa quá. Quân Đại Thanh kéo đến tấn công thực ra cũng chẳng nắm chắc được phần thắng. Nếu bại trận, Hoàng đế còn thống trách bản sứ... Phi Yến Đa La nghe chừng có cơ xoay chuyển, hắn lộ vẻ vui mừng vội nói: - Dạ dạ! Tệ nhân kính cẩn khuyên can đại nhân đừng mạo hiểm là hơn. Vi Tiểu Bảo đáp: - Bản sứ chỉ muốn lập công để được phong vương chứ không muốn diệt nước La Sát. Đất đai bên quý quốc rất rộng, nhất định bản sứ không đủ bản lãnh để trừ diệt. Phi Yến Đa La luôn miệng khen phải. Vi Tiểu Bảo khẽ nói: - Bây giờ chúng ta đành làm thế này. Quý sứ phát binh đi đánh Bắc Kinh. Bản sứ phát binh đánh Ni Bố Sở. Anh em mình đường ai nấy đi. Đánh được Bắc Kinh là công lao của quý sứ. Hạ được Ni Bố Sở là công lao của bản sứ. Quý sứ thử tính xem có phải kế này tuyệt diệu không? Phi Yến Đa La ngấm ngầm kêu khổ. Trong tay hắn chỉ có hơn hai nghìn nhân mã, muốn phản công lấy lại Nhã Tát Khắc cũng chưa đủ lực lượng, còn nói chi đến chuyện đi đánh Bắc Kinh? Hắn nghĩ bụng: - Nếu mình không nhận lỗi thì gã thiếu niên này lộng giả thành chân cũng chưa biết chừng. Hắn liền nhăn nhó cười nói: - Xin Công tước đại nhân bất tất phải quan tâm. Vừa rồi tệ nhân bảo kéo đội hỏa thương thủ và đội kỵ binh Kha Tát Khắc đến đánh thành Bắc Kinh chỉ là câu chuyện hồ đồ chứ không phải sự thực. Tệ nhân đã đưa ra ý kiến lầm lẫn, bây giờ xin thu về. Vi Tiểu Bảo hỏi: - Quý sứ đã tuyên bố rồi còn thu về sao được? Phi Yến Đa La đáp: - Tệ nhân xin Công tước đại nhân vì tình mà quên câu chuyện này đi. Vi Tiểu Bảo cười khanh khách hỏi: - Quý sứ nói vậy thì ra bãi việc dẫn quân La Sát đến đánh Bắc Kinh hay sao? Phi Yến Đa La đáp: - Không đi đâu. Nhất định là không đi. Vi Tiểu Bảo hỏi: - Các vị còn muốn cưỡng chiếm thành Nhã Tát Khắc của bản sứ nữa hay thôi? Phi Yến Đa La lắc đầu đáp:- Không có đâu. Không có đâu. Vi Tiểu Bảo hỏi: - Cả thành Ni Bố Sở các vị cũng không được đụng đến chứ? Phi Yến Đa La sửng sốt đáp: - Thành Ni Bố Sở này là lãnh thổ của Sa Hoàng bên tệ quốc. Xin Công tước đại nhân lượng cho. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm: - Người ta thường nói: •Bạn hàng nói thách, khách mua giá cao•. Ta mà đòi hắn lấy thành Ni Bố Sở, nhất định là không được rồi. Vậy ta thử đòi từ chân thành Ni Bố Sở lăn về phía Tây xem sao? Gã liền hỏi: - Cuộc nghị hòa của chúng ta phen này nhất định phải cho công bằng, đừng lừa già dối trẻ, không để ai thua thiệt. Phải vậy không? Phi Yến Đa La đáp: - Đúng thế. Hai nước cùng chân thành hoạch định cương giới, dựng nên nền hòa bình vĩnh cửu. Vi Tiểu Bảo nói: - Thế là hay lắm! Nếu biên giới cắt gần thành Mạc Tư Khoa quá thì người La Sát phải thiệt thòi. Ngược lại, gần Bắc Kinh qua thì người Trung Quốc thua thiệt. Cách hay nhất là chia biên giới quãng giữa, theo phép •Nhị nhất thiêm tác ngũ•. Phi Yến Đa La hỏi: - Nhị nhất thiêm tác ngũ là thế nào? Vi Tiểu Bảo hỏi lại: - Phải chăng từ Mạc Tư Khoa đến Bắc Kinh lộ trình mất ước hơn ba tháng? Phi Yến Đa La đáp: - Phải rồi. Vi Tiểu Bảo hỏi:- Ba tháng chia đôi là bao nhiêu ngày? Phi Yến Đa La không hiểu ý gã, cũng đáp: - Một nửa là tháng rưỡi. Vi Tiểu Bảo hỏi: - Vậy chúng ta khỏi cần đàm thoại nữa. Bên nào về kinh thành bên ấy. Các vị từ Mạc Tư Khoa đi sang phía Đông. Bọn bản sứ xuất phát từ Bắc Kinh, tiến về phía Tây. Hai bên cùng đi một tháng rưỡi rồi đụng đầu nhau, phải không? Phi Yến Đa La đáp: Đúng thế! Nhưng chưa hiểu đại nhân làm như vậy với dụng ý gì? Vi Tiểu Bảo đáp: - Đó là cách chia ranh giới công bình nhất. Chỗ hai bên giáp nhau dùng làm biên thùy của hai nước. Các vị không chiếm phần tiện nghi mà bên bản sứ cũng chẳng dành phần hơn. Bên bản sứ thắng trận vừa rồi coi như bỏ đi. Đã là hảo bằng hữu với nhau, việc mua bán lại cần sòng phẳng. Phi Yến Đa La mặt mũi đỏ bừng, miệng ấp úng: - Cái đó... cái đó... Rồi hắn đứng lên. Vi Tiểu Bảo cười hỏi: - Quý sứ cũng nhận thấy phương pháp này là rất công bình phải không? Phi Yến Đa La xua tay lia lịa đáp: - Không, không! Nhất định là không được! Phân chia địa giới như vậy há chẳng là đem nửa phần đất nước Nga La Tư cắt cho quý quốc? Vi Tiểu Bảo hỏi: - Có đâu mà một nửa? Phía Tây Mạc Tư Khoa quý quốc còn rất nhiều đất đai, phần ấy khỏi phải dùng phép "Nhị nhất thiềm tác ngũ" cắt cho Trung Quốc nữa. Hà tất quý sứ còn khách sáo như vậy? Phi Yến Đa La tức quá, râu tóc dựng đứng cả lên hồi lâu mới nói:- Công tước đại nhân! Nếu đại nhân thành tâm nghị hòa thì nên đưa ra chủ trương thông tình đạt lý. Cách này... là cắt lấy nửa phần lãnh thổ của tệ quốc. Thật là... thật là khinh người thái quá! Hắn vừa nói vừa thở hồng hộc, đặt đít đánh bình một cái ngồi xuống, làm ghế rung động vang lên những tiếng lách cách. Vi Tiểu Bảo khẽ hỏi: - Nói tình thực với quý sứ thì nghị hòa hay phân chia cương giới chẳng có chi thú vị. Chúng ta hãy đánh nhau một trận đã. Quý sứ bảo có nên không? Phi Yến Đa La vẫn chưa hết thở hồng hộc, phẫn nộ cơ hồ nhịn không nổi, những muốn đập bàn đứng lên quát lớn: - Đánh nhau thì đánh nhau chứ sợ gì? Nhưng hắn nghĩ tới nếu xảy cuộc chiến tranh, hậu quả sẽ cực kỳ nghiêm trọng! Bên mình tuyệt không hy vọng thủ thắng. Hắn đành ráng nhịn, lẳng lặng không nói gì. Vi Tiểu Bảo đột nhiên vỗ tay xuống bàn, cười nói: - Có rồi, có rồi! Bản sứ còn một biện pháp khác rất công bằng. Gã luồn tay vào bọc móc ra hai con xúc xắc, ghé miệng vào thổi một hơi rồi liệng xuống bàn nói: - Quý sứ đã không muốn đánh nhau, lại không thích dùng phép •Nhị nhất thiêm tác ngũ•. Vậy chúng ta gieo xúc xắc... Gã dừng lại một chút rồi tiếp: - Từ Bắc Kinh tới Mạc Tư Khoa hãy kể là một vạn dặm đường. Chúng ta chia làm mười phần. Mỗi phần một ngàn dặm. Chúng ta liệng xúc xắc xuống mười bàn, mỗi bàn đặt cuộc ngàn dặm quốc gia. Nếu quý sứ thắng cả mười bàn thì giải đất từ đây cho đến chân thành Bắc Kinh thuộc về nước La Sát. Phi Yến Đa La đằng hắng một tiếng rồi hỏi: - Thế nhỡ tệ nhân thua cả mười bàn thì sao? Vi Tiểu Bảo cười nói:- Có lẽ để quý sứ tự nói ra hay hơn. Phi Yến Đa La hỏi: - Chẳng lẽ giang sơn muôn dặm của tệ quốc về mé Đông thành Mạc Tư Khoa lại thuộc hết về Trung Quốc? Vi Tiểu Bảo đáp: - Bản sứ đoán vận khí của quý sứ không đến nỗi xúi quẩy như ngài nghĩ. Đâu có lý nào không ăn một bàn? Quý sứ chỉ thắng được một bàn là giữ được nghìn dặm lãnh thổ, hai bàn được hai nghìn dặm. ¡n đến bốn bàn là chiếm phần tiện nghi rồi. Phi Yến Đa La hỏi: - Sao như thế lại chiếm tiện nghi? Từ Mạc Tư Khoa đi về phía Đông đến Bắc Kinh đa phần là đất của nước Nga. Bảy nghìn dặm, tám nghìn dặm là thuộc về lãnh thổ Nga Quốc. Hai bên tranh luận hồi lâu. Giáo sĩ phiên dịch đứng bên khẽ dịch sang Trung Quốc thoại. Bọn Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương nghe ngóng, ban đầu còn tưởng Phi Yến Đa La ngang ngạnh vô lý, đòi lấy sông Hắc Long Giang làm giới hạn, uy hiếp tỉnh Liêu Đông của Trung Quốc. Thế thì Mãn Châu là nơi phát tích gây dựng nghiệp rồng cũng để bọn di dịch uy hiếp hay sao? Trong lòng bọn họ đều cực kỳ phẫn nộ. Sau họ nghe Vi Tiểu Bảo kéo dằng kéo dọ. Nào là trao đổi ấp phong, nào là dùng phép Nhị nhất thiêm tác ngũ, nào là gieo xúc xắc để hoạch định cương giới, mỗi bàn ăn nghìn dặm thổ địa, họ mới biết là gã nói nhăng nói càn, đối phương quyết chẳng ưng thuận. Nhưng họ thấy Phi Yến Đa La khí thế chùn nhụt, lại nghe Vi Tiểu Bảo nói chỉ ham đánh trận lập công để mong cắt đất phong vương. Còn sứ thần nước Nga hiển nhiên ngoài mặt hung hăng mà trong lòng mềm nhũn không dám đối lời. Ai nấy đều nghĩ bụng:Người La Sát ngang ngược dã man, quả nhiên danh bất hư truyền. Nếu đàm phán một cách nghiêm chỉnh với chúng là mình bị kém thế. Đức Hoàng thượng phái Vi Công tước chủ trương hòa nghị, quả là có tài dùng người một cách rất sáng suốt. Bọn quỷ phiên bang là hạng người dã man, chỉ có Vi Công gia bất học vô thuật nhưng đủ điều dân dã lưu manh mới dư bản lĩnh đối phó với chúng. Thật là vỏ quít dày gặp móng tay nhọn. Nên biết bọn Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương lên mặt đại thần, tuy bề ngoài họ tỏ ra cực kỳ lễ độ cung kính đối với Vi Tiểu Bảo, mà thực ra trong lòng coi gã rất tầm thường. Họ đều cho Vi Tiểu Bảo bất quá là thằng hề được Hoàng thượng sủng ái làm nên quan lớn. Hành động cùng ngôn từ bình nhật của gã biểu lộ xấu xa hèn hạ mà chính gã không biết xấu hổ. Họ còn đinh ninh chuyến này gã đụng chạm với sứ thần ngoại quốc tất để ngoại bang cười cho và làm mất thể diện của Quốc gia. Ngờ đâu đức Hoàng thượng liệu tài bổ chức, thu dụng gã vào việc trọng đại này thật xứng đáng. Giả tỷ Hoàng thượng không sai phái một nhân vật chuyên nói chuyện trò bậy và cãi chầy cãi cối là Vi Tiểu Bảo vào công cuộc hòa đàm, thì trong các văn võ đại thần đầy rẫy chốn triều đường, thực không tìm được nhân vật thứ hai nào làm nổi. Các đại thần càng nghe càng khâm phục và càng tôn sùng đức Hoàng thượng anh minh tài trí, chúng thần chẳng ai bì kịp. Sách Ngạch Đồ nghe tới đây đột nhiên xen vào: - Mạc Tư Khoa nguyên trước cũng là đất của Trung Quốc. Phi Yến Đa La giật mình kinh hãi nghĩ bụng: - Thằng lỏi kia giở giọng thiên hô bách sát đã đành. Sao cả lão già này cũng nhắm mắt nói mò như tuồng vô sỉ? Hắn bảo thành Mạc Tư Khoa của nước mình là đất Trung Quốc mới thật là kỳ? Lại nghe Sách Ngạch Đồ nói:- Theo lời quý sứ thì người La Sát tạm thời chiếm cứ nơi nào là nơi ấy cũng thuộc lãnh thổ La Sát hay sao? Phi Yến Đa La đáp: - Như vậy cũng còn có lý. Quý sứ nói là Mạc Tư Khoa thuộc đất Trung Quốc thì, hà hà... tức cười đến nẻ ruột. Sách Ngạch Đồ nói: - Nhân dân La Sát gồm nhiều chủng tộc: Đại Nga La Tư, Tiểu Nga La Tư, Bạch Nga La Tư, lại còn Kha Tát Khắc, Thát Đát gì gì nữa cũng đều là người La Sát? Phi Yến Đa La đáp: - Nhất định là thế. Đất đai tệ quốc rộng bát ngát, nhân dân dưới quyền thống trị cũng nhiều lắm. Sách Ngạch Đồ nói: - Trăm họ bên tệ quốc cũng gồm rất nhiều chủng tộc: Người Hán có, người Mông có, người Mãn có, người Miêu có, người Hồi có, người Tạng có... Phi Yến Đa La đáp: - Chính thế! Nga La Tư là nước lớn. Trung Quốc cũng là nước lớn. Hai nước chúng ta là nước lớn nhất trong những nước lớn. Sách Ngạch Đồ nói: - Chuyến này quý sứ đem đội vệ binh đi, dường như toàn là kỵ binh Kha Tát Khắc? Phi Yến Đa La mỉm cười đáp: - Kỵ binh Kha Tát Khắc nổi tiếng anh hùng vô địch. Có thể họ là những dũng sĩ lợi hại nhất thiên hạ. Sách Ngạch Đồ hỏi: - Kỵ binh Kha Tát Khắc còn lợi hại hơn cả người Nga La Tư nữa ư? Phi Yến Đa La đáp:- Câu chuyện không phải như vậy. Người Kha Tát Khắc là trăm họ của nước La Sát, người Nga La Tư cũng là trăm họ trong nước La Sát, chẳng có gì phân biệt. Tỷ như người Mãn Châu cũng là bách tính của Trung Quốc, người Mông, người Hán... cũng là bách tính của Trung Quốc, chẳng có gì phân biệt. Sách Ngạch Đồ gật đầu nói: - Thế thì phải rồi. Vì vậy mà thành Mạc Tư Khoa cũng là lãnh thổ của Trung Quốc. Vi Tiểu Bảo nghe hai người nói tới đây, còn chưa rõ chỗ dụng ý của Sách Ngạch Đồ. Gã biết đích Mạc Tư Khoa cách đây xa hàng vạn dặm, quyết chẳng phải lãnh thổ Trung Quốc, nhưng nghe lý thuyết của Sách Ngạch Đồ thì dường như có chứng cứ. Còn Phi Yến Đa La trán nổi gân xanh, sắc mặt lúc xám lại, lúc đỏ bừng. Hiển nhiên trong lòng hắn tức giận như phát điên, gã liền xen vào: - Mạc Tư Khoa thuộc đất Trung Quốc là đúng lắm, tuyệt không sai lầm. Đức Hoàng đế Trung Quốc khoan hồng đại lượng cho các vị mượn ở đã lâu. Bản sứ tưởng bây giờ nên trả lại là phải, đừng bắt chước kiểu Lưu Bị tá Kinh Châu rồi muốn chiếm cứ vĩnh viễn, chẳng bao giờ hoàn lại. Dĩ nhiên Phi Yến Đa La chẳng hiểu tích Lưu Bị tá Kinh Châu ý nghĩa thế nào, mà chỉ biết bọn Man tử Trung Quốc này không hiểu đạo lý, ăn nói hoàn toàn khác hẳn người văn minh. Hắn cười lạt nói móc: - Trước kia tệ nhân nghe nói đến lịch sử Trung Quốc và tưởng là người Trung Quốc học vấn sâu rộng. Không ngờ... ha ha... toàn nói những chuyện mù tịt chẳng có chứng cứ gì. Sách Ngạch Đồ đáp: - Quý sứ là một đại thần nước La Sát, dù chẳng có học vấn gì mấy, nhưng ít ra cũng biết lịch sử nước La Sát chứ? Phi Yến Đa La đáp: - Lịch sử bên tệ quốc đều có sách vở chứng minh rõ ràng, quyết chẳng khi nào căn cứ vào những lời loạn thuyết của kẻ bạ đâu nói đấy. Sách Ngạch Đồ nói:- Thế thì hay lắm! Trước kia Trung Quốc có một vị Hoàng đế tên gọi Thành Cát Tư Hãn... Phi Yến Đa La vừa nghe đến bốn chữ Thành Cát Tư Hãn, bất giác la lên một tiếng: - ái chà! Hắn than thầm: - Hỏng bét, hỏng bét! Sao ta lại hồ đồ đến thế, quên khuấy cả việc lớn đó? Sách Ngạch Đồ nói tiếp: - Vị Thành Cát Tư Hãn này, bên Trung Quốc kêu bằng Nguyên Thái Tổ, vì ngài là Hoàng đế dựng ra cơ nghiệp nhà Nguyên ở Trung Quốc. Ngài là người Mông Cổ. Quý sứ vừa nói: Người Mãn Châu, người Mông Cổ hay người Hán đều là người Trung Quốc chẳng có gì phân biệt. Lão dừng lại một chút rồi tiếp: - Ngày ấy đạo kỵ binh Mông Cổ lên đường chinh Tây đã cùng quân La Sát đánh mấy trận lớn. Lịch sử quý quốc có chép rõ ràng. Quyết chẳng phải loạn thuyết của kẻ bạ đâu nói đấy. Không hiểu trong mấy trận đó người Trung Quốc thắng hay người La Sát thắng? Phi Yến Đa La lặng thinh, hồi lâu mới đáp: - Người Mông Cổ thắng. Sách Ngạch Đồ hỏi vặn: - Người Mông Cổ có phải là người Trung Quốc không? Phi Yến Đa La đành phải gật đầu. Vi Tiểu Bảo hoàn toàn không hiểu ngày trước đã có vụ này. Gã vừa nghe nói bất giác nở mặt nở mày, lên tiếng: - Người Trung Quốc mà đánh với người La Sát thì người La Sát tất phải thất bại không còn nghi ngờ gì nữa. Bản lĩnh của các vị còn kém một bậc. Lần sau có đánh nhau, bên bản sứ chỉ dùng một tay đánh nhau cũng đủ. Nếu không thế thì lực lượng hai bên chênh lệch nhau quá, cuộc chiến đấu chẳng còn thú vị nữa.Phi Yến Đa La tức quá trợn mắt lên nhìn, miệng lẩm bẩm: - Nếu không phải Công chúa điện hạ ban nghiêm lệnh lần này chỉ cho hòa chứ không cho đánh, thì gã buông lời nhục mạ người La Sát ta thế này, ta quyết đấu với gã một phen. Vi Tiểu Bảo cười ha hả hỏi Sách Ngạch Đồ: - Sách đại ca! Ngày trước Thành Cát Tư Hãn đánh bại quân La Sát sự tích thế nào? Đại ca kể lại nghe chơi. Sách Ngạch Đồ đáp: - Hồi đó Thành Cát Tư Hãn phái hai đội quân đi chinh Tây, mỗi đội một vạn người, cộng là hai vạn nhân mã mà đánh cho mười mấy vạn quân La Sát phải thua chạy thất điên bát đảo. Lão dừng lại một chút rồi tiếp: - Sau đó bên xứ Mông Cổ của chúng ta lại sản xuất một vị đại anh hùng tên gọi Bạt Đô, Bạt Đô thống lĩnh quân đội đánh binh tướng La Sát đến tơi bời hoa lá chiếm tòa thành Cơ Phụ rất lớn của nước La Sát rồi chiếm thành Mạc Tư Khoa. Thế vẫn chưa hết, quân ta còn tràn đến Ba Lan, Hung Gia Lợi, vượt sông Đa Não Hà (Danube). Sau đó mấy trăm năm, vương công quý tộc người La Sát đều thích nghe chuyện người Trung Quốc. Hồi ấy vị anh hùng Mông Cổ bên tệ quốc đóng ở trong trướng bồng dát vàng. Đại Công tước ở Mạc Tư Khoa thường thường đến dập đầu lạy người Trung Quốc. Người Trung Quốc muốn đá đít là đá đít, muốn tát tai là tát tai. Người La Sát chỉ cười hề hề, lại reo hò "đánh hay quá!". Nếu không thế thì chẳng thể làm đến tước Công. Vi Tiểu Bảo nghe nói cặp lông mày dương lên như nhảy múa, gã không ngớt vỗ bàn hô: - Hay thật! Hay thật! Té ra thành Mạc Tư Khoa ngày trước quả thuộc về Trung Quốc. (Lời chú của tác giả: Đại tướng Mông Cổ là Bạt Đô tấn công vây hãm Mạc Tư Khoa và Cơ Phụ vào năm 1238. Từ năm 1240 đến 1480, người Mông Cổ thống trị nước Nga La Tư đất cát bao la trong hai trăm bốn mươi năm, đã dựng lên tòa "Kim trướng Hãn Quốc".Trong pho Đại anh bách liệu toàn thư ở mục "Nga La Tư" có ghi chép: Những vương tử phong Công tước ở thành Mạc Tư Khoa phải đến triều kiến Hoàng kim trướng của Mông Cổ Khả Hãn tại thành Tát Lai ở cửa sông Phục Nhĩ Gia để tiếp thụ phong hiệu. Bọn họ thường nhẫn nại chịu đựng những điều khổ nhục. Nhưng sau khi làm lễ triều bái trở về Mạc Tư Khoa họ có thể thu thuế người Thát Đát và lấn át những tiểu bang chư hầu lân cận.) Phi Yến Đa La sắc mặt lúc xanh xám lúc trắng bợt. Những điều thuật lại của Sách Ngạch Đồ theo đúng sử sách, quyết không giả trá. Có điều người La Sát trước nay không nhận người Mông Cổ là người Trung Quốc. Trong lúc nhất thời, Phi Yến Đa La không nhớ tới thành Mạc Tư Khoa trước kia đã thuộc quyền thống trị của người Mông Cổ một quãng thời gian khá lâu. Hiện nay Mông Cổ thuộc về Trung Quốc. Do đó mà suy luận thì bảo thành Mạc Tư Khoa thuộc về Trung Quốc cũng không phải là lời nói hàm hồ. Vi Tiểu Bảo nói: - Hầu tước các hạ! Bản chức nhận thấy việc hoạch định biên giới chúng ta bất tất phải đàm phán nữa. Xin các hạ trở về hỏi lại Công chúa bao giờ quý quốc sẽ đem thành Mạc Tư Khoa và thành Cơ Phụ hoàn lại Trung Quốc. Bản sứ cũng trở về Bắc Kinh lấy da bò và Hoàng kim để dựng Hoàng kim trướng bên bờ sông Phục Nhĩ Gia chờ Tô Phi á Công chúa đến ngủ. Ha ha! Ha ha! Phi Yến Đa La nghe tới đây không thể nhịn được nữa, hắn đứng phắt dậy xông ra ngoài trướng. Lại nghe hắn tức giận gầm lên như sấm và lớn tiếng quát tháo để truyền mệnh lệnh. Kế đó tiếng vó ngựa dồn dập vang lên. Mấy trăm con ngựa nhất tề xông tới. Vi Tiểu Bảo giật mình kinh hãi la lên: - Trời ơi! Quân mao tặc muốn đánh nhau. Chúng ta phải trốn cho lẹ. Đông Quốc Cương trải qua chiến trận đã nhiều, nét mặt vẫn bình tĩnh. Lão nói:- Vi Công gia bất tất phải hoang mang. Chúng muốn đánh thì đánh. Chẳng lẽ bọn ta lại sợ chúng sao? Phía ngoài doanh trướng, hai trăm sáu chục tên kỵ binh Kha Tát Khắc hò reo rầm trời. Vi Tiểu Bảo sợ quá toàn thân run bần bật. Gã cúi đầu chui vào gầm bàn. Đông Quốc Cương và Sách Ngạch Đồ ngơ ngác nhìn nhau, trong bụng cũng hơi hoang mang. Cửa trướng mở ra, một tướng rảo bước tiến vào. Chính là Hồng Triều thống lĩnh đội quân đằng bài. Hồng Triều lớn tiếng hô: - Khải bẩm đại soái!... Nhưng hắn không nhìn thấy đại soái đâu. Vi Tiểu Bảo nằm dưới gầm bàn lên tiếng: - Ta... ta... ta ở đây. Anh em... mau mau trốn đi. Hồng Triều cúi xuống gầm bàn nhìn Vi đại soái nói: - Khải bẩm đại soái! Quân La Sát thanh thế hùng dũng. Chúng ta chẳng thể khiếp nhược. Muốn làm con con mẹ nó thì làm. Vi Tiểu Bảo nghe lời nói dũng cảm, liền trấn tĩnh tâm thần. Gã ở dưới gầm bàn bò ra. Vừa rồi sự việc xẩy đến đột ngột, gã hoang mang chui vào gầm bàn, nhưng thực ra không phải gã khiếp đảm sợ chết. Vi Tiểu Bảo vỗ ngực đáp: - Phải lắm! Tổ bà nó muốn làm gì thì làm! Lão gia phải thân tiến sĩ tốt, dũng... dũng...Dũng quản tam quân, nhưng gã quên mất. Gã dắt tay Hồng Triều chạy ra ngoài trướng.
__________________
![]() Hãy cười để liều lĩnh chấp nhận mình như một... người ngớ ngẩn. Hãy khóc để liều lĩnh chấp nhận mình như một người đa cảm. Hãy đến với người khác để liều lĩnh đón nhận sự mắc míu. Hãy phơi bày những cảm xúc để chấp nhận con người thật của chính mình. Hãy định đặt những ước mơ trước vầng mây để liều lĩnh đón nhận lời giễu cợt. Hãy yêu - bởi biết đâu không có tình yêu như thế trở lại lần thứ hai... Hãy dũng cảm đối mặt với những khó khăn và rồi liều lĩnh chấp nhận rủi ro.Nhưng những sự liều lĩnh ấy phải cần có bởi vì mối nguy hiểm nhất trong cuộc đời chính là không có sự liều lĩnh. Nếu ai không liều lĩnh, sẽ không có gì, không làm được gì và không là gì cả! |
|
#236
|
||||
|
||||
|
Lộc Đỉnh Ký
Hồi 239 Triều Đình Đại Kế Chủ Hòa Bình Vi Tiểu Bảo vừa ra đến cửa doanh trướng, liền ngó thấy hai trăm sáu mươi tên kỵ binh Kha Tát Khắc trường đao tuốt trần, đưa lên cao. Chúng cưỡi toàn tuấn mã bao vây trướng hồng đang diễu võ dương oai đi vòng quanh chạy rất mau. Phi Yến Đa La hạ lệnh một tiếng đoàn kỵ binh chạy ra xa. Chúng xếp thành đội ngũ đứng ngoài hai trăm trượng. Cứ hai mươi sáu tên là một hàng. Cả trước sau cộng thành mười hàng. Hàng ngũ rất chỉnh tề. Đột nhiên chúng lớn tiếng reo hò lao rất mau về phía Vi Tiểu Bảo. Vi Tiểu Bảo la lên: - Má ơi là má ơi! Gã toan chạy vào trướng, nhưng lại nghĩ: - Bọn quỷ La Sát đã muốn giết ta thì ta có vào trướng cũng bị chúng lôi ra lại càng thêm nhục. Mặt xám như tro tàn, người run bần bật, gã đứng yên không nhúc nhích. Hồng Triều hô: - Đằng bài thủ! Chuẩn bị bảo vệ đại soái! Tiến lên. Hai trăm sáu mươi quân đằng bài đồng thanh hô: - Tuân lệnh! Rồi chúng rầm rộ chạy tới đứng ở phía trước Vi Tiểu Bảo cùng các đại thần. Vi Tiểu Bảo rút đao trủy thủ ở ống giầy ra tự nhủ: - Nếu bọn quỷ La Sát thực sự nổi tính man rợ, tất xảy một trường chiến đấu ác liệt, ta không thể phế bỏ điều nghĩa khí. Gã liền mạnh dạn tiến ra đứng ở phía trước Sách Ngạch Đồ. Miệng gã hô: - Sách đại ca đừng sợ. Đã có tiểu đệ bảo vệ cho đại ca. Sách Ngạch Đồ là một văn quan, lão sợ quá chẳng còn hồn vía nào nữa, ấp úng đáp: - Tiểu huynh... hoàn toàn... trông cậy vào huynh đệ. Mười hàng kỵ binh Kha Tát Khắc xông tới rất lẹ. Khi chúng còn cách đội quân Thanh chừng năm sáu trượng thì tên đội trưởng đi trước vung trường đao chém dứ một đòn. Hắn quát to một tiếng. Đoàn kỵ binh lập tức dừng ngựa. Hai trăm sáu chục con tuấn mã đều dừng bước lại. Tên đội trưởng lại hô một tiếng. Bọn kỵ binh rẽ ra chia làm hai toán. Một trăm ba chục tên quay về phía Bắc, một trăm ba chục tên quay về hướng Nam. Chúng chạy ra mấy chục trượng quây lại thành vòng tròn và đứng cách xa trướng hồng ngoài hai trăm trượng. Đội ngũ vẫn tề chỉnh, không rối loạn chút nào. Hai trăm sáu chục tên cưỡi hai trăm sáu mươi con ngựa đều răm rắp như một người cưỡi một ngựa. Quả nhiên chúng đã được huấn luyện rất tinh thục. Phi Yến Đa La nổi lên tràng cười khanh khách, lớn tiếng hỏi: - Công tước đại nhân! Đại nhân coi đội quân La Sát bên tệ quốc thế nào? Vi Tiểu Bảo bây giờ mới hiểu hắn bất quá muốn khoa trương quân đội để thị uy. Trong lòng tức giận gã la lên: - Đúng là một lũ khỉ làm trò, nếu đem dùng vào việc đánh trận thì toàn là đồ vô dụng. Phi Yến Đa La tức giận hô: - Chúng ta lại xông vào! Miệng hắn lẩm bẩm: - Lần này thử coi gã có chạy trốn không? Hắn hô tiếp: - Hãy lột hết nón đội trên đầu binh sĩ Trung Quốc! Đội trưởng trong đội kỵ binh Kha Tát Khắc lại hô hiệu lệnh. Hai trăm sáu mươi tên quân kỵ liền xông vào. Vi Tiểu Bảo quát:- Chém vào chân ngựa bọn chúng! Hồng Triều hô: - Xin tuân lệnh. Chặt chân ngựa, đừng giết người. Tiếng vó ngựa rầm rầm như sấm nổ. Hai trăm sáu chục con ngựa chạy tới mỗi lúc một gần. Những thanh trường đao dưới ánh mặt trời lấp loáng có ánh sáng. Đoàn kỵ mã chỉ còn cách ba chục trượng... hai chục trượng... mười trượng... vẫn chưa dừng bước. Khi còn cách bốn, năm trượng, Hồng Triều hô: - Cổn Đường đao! Tiến lên! Hai trăm sáu chục tên đằng bài thủ nhảy vọt lại, lăn mình dưới đất xông vào. Hai trăm sáu chục tên quân này đều do Lâm Hưng Châu thân hành rèn dậy môn Địa Đường đao pháp rất thuần thục. Chúng dùng lá mộc bằng giây leo để hộ vệ, không hở ra chút đao quang nào. Quân kỵ binh Kha Tát Khắc đột nhiên thấy Thanh binh lăn mình dưới đất rất lấy làm kinh dị. Bọn thủ quân ở Nhã Tát Khắc đã nếm mùi đau khổ của bọn đằng bài thủ, nhưng kẻ thì chết rồi, kẻ thì bị bắt. Cánh thủ quân hoàn toàn tan vỡ. Đội kỵ binh Kha Tát Khắc này mới từ Mạc Tư Khoa hộ tống Phi Yến Đa La trong cuộc công du. Trước nay chúng chưa được chứng kiến phép đánh trận của đằng bài binh, đều cho là bên địch ngu xuẩn quá mới lăn mình dưới đất. Chúng có bị ngựa xéo chết cũng không trách ai được. Chỉ trong chớp mắt hàng đầu đội kỵ binh đã đụng phải quân đằng bài. Đột nhiên tiếng ngựa thét vang, tới tấp ngã lăn ra. Quân đằng bài vung lợi đao lên. Cứ mỗi đao là chém đứt một đôi chân ngựa. Đã có đằng bài hộ thân, chúng lăn xả vào đâm chém. Quân La Sát la ó vang trời pha lẫn với tiếng ngựa thét. Đội đằng bài đã lăn vào tới hàng thứ mười bên địch và chém đứt một trăm bảy, tám chục đôi chân ngựa rồi xếp hàng ở phía sau đội kỵ binh Kha Tát Khắc.Có đến quá phần nửa quân Kha Tát Khắc bị ngã xuống còn mấy chục tên liền quay ngựa chạy trốn. Thế là đội quân tan vỡ. Hồng Triều dẫn đội đằng bài binh chạy về thật mau đứng xếp hàng trước Vi Tiểu Bảo. Toàn đội hai trăm sáu chục người chỉ có mười mấy người bị ngựa dẫm lên hay đá bị thương, nhưng thương thế rất nhẹ. Chúng vẫn nhịn đau đớn và đứng nguyên trong hàng ngũ. Hai trăm sáu chục tên kỵ binh Kha Tát Khắc, một số bị ngựa đè lên, nằm dưới đất rên rỉ kêu la, một số phóng ngựa chạy tán loạn ra tận đằng xa. Còn phần lớn đứng xuống đất, chân tay luống cuống. Bọn kỵ binh này suốt đời kỵ mã, có ngồi trên lưng ngựa mới phát huy được tài kiêu dũng. Một khi hai chân đứng xuống đất là chẳng khác gì cá mất nước, không còn chỗ nương tựa để vùng vẫy. Vi Tiểu Bảo hô: - Chia quân lấy phân nửa bao vây đại quan La Sát! Hồng Triều truyền hiệu lệnh ra. Một trăm quân đằng bài liền kéo đến bao vây bọn Phi Yến Đa La và bọn đại quan La Sát hơn chục người. Một trăm thanh đại đao tổ hợp thành một vòng tròn đao. Mũi đao hướng vào phía trong. Chỉ cần hô một tiếng hiệu lệnh là cả trăm thanh đại đao nhất tề phóng vào. Bọn Phi Yến Đa La sẽ lập tức bị đâm nát ra như tương. Mấy tên chánh phó đội trưởng đoàn kỵ binh Kha Tát Khắc thấy tình trạng này vội chạy lại lớn tiếng la: - Đừng có giết người! Đừng có giết người! Vi Tiểu Bảo quay lại nhìn Song Nhi hiện cải trang làm thân binh , ra lệnh: - Lại điểm huyệt chúng đi! Song Nhi dạ một tiếng tung mình vọt tới sau lưng tên đội trưởng kỵ binh Kha Tát Khắc, thị điểm huyệt vào huyệt đạo sau lưng hắn, rồi lại điểm huyệt tên phó đội trưởng. Một tên tiểu đội trưởng thò tay vào bọc rút súng lục ra quát: - Không được nhúc nhích!Song Nhi chụp một tên quân La Sát đứng bên để che đỡ phía trước. Thị đẩy gã tiến lên mấy bước. Tên tiểu đội trưởng kia không dám nổ súng, lại la lên: - Không được nhúc nhích! Song Nhi chụp tên La Sát đó nhấc bổng lên liệng tới. Tên tiểu đội trưởng giật mình kinh hãi nghiêng mình né tránh. Song Nhi thừa cơ nhảy lại điểm vào những huyệt dạo trước ngực và sau lưng gã rồi đoạt lấy khẩu súng lục trong tay đối phương. Thị trỏ súng lên trời bắn chỉ thiên đánh •đoàng• một tiếng: Vi Tiểu Bảo hô lớn: - Hay lắm! Hai bên đã hứa không được đem theo hỏa khí. Bọn quỷ La Sát các ngươi không kể gì đến chữ tín. Gã tiến lại mấy bước nhìn Phi Yến Đa La nói: - Này! Đại nhân bảo bọn thủ hạ liệng binh khí trong tay đi, xuống ngựa hết, xếp thành hàng ngũ. Tên nào còn dắt hỏa khí trong mình phải lôi ra hết. Phi Yến Đa La nhận thấy mình không thể nào kháng cự được đành nghe theo lời Vi Tiểu Bảo truyền lệnh xuống. Bọn kỵ binh Kha Tát Khắc đành liệng đao kiếm rồi xuống ngựa, xếp thành đội ngũ. Vi Tiểu Bảo lại sai một trăm sáu chục tên đằng bài thủ bao vây bốn mặt ra sục tìm trong mình bọn quân La Sát. Chúng lấy được hơn hai trăm tám chục khẩu súng lục vì trong đoàn kỵ binh hai trăm sáu mươi người, nhưng một số đem theo hai khẩu. Bọn quân La Sát ở dưới chân thành Ni Bố Sở ngó thấy tình thế xảy biến cố liền từ từ tiến ra. Mé Đông quân Thanh cũng lập tức tiến vào. Hai bên cách nhau mấy trăm bước thì dừng lại dàn trận đối lập.Đoàn quân La Sát thấy chủ soái bị vây đành ngấm ngầm kêu khổ, không dám tự động. Vi Tiểu Bảo hỏi Phi Yến Đa La: - Hầu tước đại nhân! Đại nhân cho đem nhiều hỏa khí đến làm gì vậy? Phi Yến Đa La cúi đầu đáp: - Xin lỗi Công tước đại nhân! Bọn vệ binh thủ hạ của tệ nhân không theo mệnh lệnh, ngầm đeo hỏa khí. Tệ nhân sẽ trọng phạt bọn chúng. Vi Tiểu Bảo hô: - Đằng bài thủ! Các ngươi cởi hết y phục ra để họ coi có ngầm dấu hỏa khí không? Hai trăm sáu chục tên đằng bài thủ bỏ lá mộc xuống. Tay mặt giơ đại đao lên cao để đề phòng đối phương hành động bất trắc. Chúng dùng tay trái để cởi áo. Mọi người cởi áo rồi, mình trần trùng trục, nhảy lên mấy cái. Quả nhiên không một ai đeo súng. Phi Yến Đa La trong lòng hổ thẹn, cúi đầu xuống không dám nói gì. Vi Tiểu Bảo lại lớn tiếng: - Bọn người La Sát mặt dầy không thủ tín, chẳng thể tin được. Lột quần áo bọn chúng ra khám kỹ lại xem có còn hỏa khí không? Phi Yến Đa La kinh hãi vội nói: - Công tước đại nhân! Xin đại nhân rộng ơn cho. Đại nhân... đại nhân... mà lột quần tệ nhân, thì tệ nhân... đành chịu tự sát... Vi Tiểu Bảo đáp: - Cái gì thì được, còn việc cởi quần thì không thể khoan miễn. Phi Yến Đa La năn nỉ: - Xin đại nhân khoan thứ cho một lần. Nhất thiết mọi điều gì khác, tệ nhân đều xin tuân theo ý kiến của đại nhân. Vi Tiểu Bảo hỏi:- Vừa rồi đội kỵ binh của Hầu tước đại nhân xông lại làm cho bản sứ khiếp quá phải chui vào gầm bàn, như thế còn chi là thể diện của Công tước đại nhân? Vụ này Hầu tước đại nhân tính sao đây? Phi Yến Đa La mắng thầm: - Cái đó tự ngươi nhát gan, ta biết làm thế nào? Nhưng ngoài miệng hắn đáp: Tệ nhân xin nguyện ý bồi thường những sự tổn thất của đại nhân. Vi Tiểu Bảo trong lòng hoan hỷ nghĩ thầm Đến lúc làm tiền được rồi đây. Nhưng trong lúc nhất thời gã nghĩ không ra bắt đối phương bồi thường bằng cách nào, liền hạ lệnh: - Hãy cắt đai quần từ đại quan cho đến tiểu binh La Sát. Bọn đằng bài thủ hô lớn: - Xin tuân lệnh! Chúng giơ đao lên thò vào sau lưng bọn người La Sát, quay lưỡi ra ngoài kéo một cái. Lập tức đai lưng bị đứt liền. Bọn người La Sát từ Phi Yến Đa La trở xuống chẳng một ai là không sợ hết hồn, hai tay giữ chặt cạp quần chỉ sợ tụt mất. Vi Tiểu Bảo nổi lên tràng cười khanh khách ra lệnh: - áp giải bọn người La Sát, nổi hiệu đắc thắng đưa về doanh trướng. Lúc này quan binh La Sát ai cũng chỉ lo tụt quần, tuyệt không dám kháng cự, riu ríu theo bọn Thanh binh giữ nguyên đội ngũ đi về phía Đông. Đông Quốc Cương cười nói: - Trí kế của Vi đại soái quả là thần diệu. Ai cũng phải khâm phục. Chỉ trong khoảnh khắc mà •Cột• được hai tay của hết thảy ba trăm quan binh La Sát. Vi Tiểu Bảo cười đáp:- Bọn nam nhân La Sát sợ nhất là bị tụt quần. Trái lại, bọn nữ nhân không ngán vụ đó. Thế có lạ không? Bọn Đông Quốc Cương híp mắt lại mà cười một cách mê ly. Đoàn người và đại quân hội họp rồi, đoàn quân Thanh đẩy hơn hai trăm cỗ súng lớn ra, bỏ áo súng đi, miệng súng chĩa về phía quân La Sát. Thời bấy giờ tuy hỏa khí nước La Sát đã lợi hại lắm, nhưng ở phía Đông cũng không đem đến nhiều bằng Vua Khang Hy đã chuẩn bị cho một cuộc đại chiến. Có đến phân nửa súng ống được điều động cho trận tuyến Ni Bố Sở. Bất luận về binh lực hay hỏa khí bên quân Thanh cũng nhiều hơn gấp mấy lần. Cánh quân La Sát đột nhiên ngó thấy rất nhiều súng lớn, đều ngơ ngác nhìn nhau, lộ vẻ cực kỳ khiếp sợ. Các tướng thống lĩnh quân đội vội truyền lệnh đóng cổng thành lại. Nhưng quân Thanh cũng không đánh thành. Lúc này đội trưởng, phó đội trưởng và một tên tiểu đội trưởng đoàn kỵ binh Kha Tát Khắc đã bị Song Nhi điểm huyệt không nhúc nhích được. Ba tên này đứng ở chỗ đất trống coi chẳng khác gì nhưng pho tượng gỗ. Các binh tướng La Sát hối hả chạy vào thành, chưa kịp lưu tâm đến. Bây giờ đứng trên mặt thành nó thấy đều lấy làm kinh dị, nhưng chẳng ai dám chạy ra cứu viện. Sau chừng nửa giờ họ thấy ba người vẫn đứng trơ không nhúc nhích, một đội kỵ binh Kha Tát Khắc mở cửa thành đến cứu. Nhưng đội kỵ binh này mới đi được hơn mười trượng, bỗng nghe quân Thanh nổ mấy phát súng lớn. Tướng thủ thành vội nổi hiệu lui quân. Đội kỵ binh Kha Tát Khắc lại lật đật quay về. Chúng sợ quân Thanh kéo đến thì cả đội quân đi cứu viện cũng bị vây hãm. Quân hai bên cách nhau đến mấy trượng. ở đằng xa ngó thấy ba người đứng không nhúc nhích, tư thế rất quái dị rất lấy làm kỳ, bỗng nghe quân Thanh nổi lên tràng cười ho hố, hết thảy La Sát binh càng kinh hãi hơn.Vi Tiểu Bảo đưa bọn Phi Yến Đa La vào trong doanh trướng. Chủ khách an tọa rồi, bọn thân binh bưng trà ra mời. Vi Tiểu Bảo chỉ cười hì hì chứ không nói gì. Phi Yến Đa La tức giận lên tiếng: - Công tước đại nhân! Đại nhân đừng đem tệ nhân ra làm trò cười nữa. Đại nhân muốn giết thì giết quách đi cho rồi! Vi Tiểu Bảo cười đáp: - Bản sứ cùng Hầu tước đại nhân là chỗ bạn hữu, sao lại giết nhau được? Bây giờ chúng ta lại bàn đến chuyện phân chia cương giới. Gã cho là lúc này các đại thần bên đối phương đã lọt vào tay mình thì bất luận mình đưa ra điều khoản gì, họ cũng khó lòng chống lại. Không ngờ Phi Yến Đa La là một quân nhân xuất thân bản tính rất quật cường. Hắn ngang nhiên đáp: - Tệ nhân là tù binh của đại nhân, không còn là sứ thần ngang hàng để thương nghị việc hoạch định cương giới nữa. Tệ nhân đã ở dưới sự uy hiếp của đại nhân thì điều khoản gì cũng không thể đàm phán được. Dù đàm phán thành tựu, kiềm chữ rồi, cũng coi là vô hiệu. Vi Tiểu Bảo hỏi: - Sao lại vô hiệu? Phi Yến Đa La đáp: - Nhất thiết mọi điều khoản đều do đại nhân định đoạt thì còn đàm phán cái gì? Đại nhân không thể bức bách tệ nhân đàm phán được? Vi Tiểu Bảo hỏi: - Sao lại không bức bách đại nhân đàm phán được? Phi Yến Đa La đáp: - Nói tóm lại là tệ nhân không chịu khuất phục. Đại nhân vung đao chém hay nổ súng bắn chết tệ nhân thì cứ việc động thủ đi!Vi Tiểu Bảo cười hỏi: - Nếu bản sứ kêu người lột trần Hầu tước thì sao? Phi Yến Đa La tức giận đến cùng cực, đứng phắt dậy quát: - Ngươi... Hắn vừa nói được tiếng ngươi, đột nhiên quần tụt xuống, vội đưa tay nắm lấy. Nguyên đai quần hắn đã bị đứt. Lúc ngồi trên ghế, không cần để tay giữ cạp quần. Trong cơn thịnh nộ, hắn đứng phắt dậy, quên mất vụ này. May mà hắn còn cứu vãn kịp thời, chưa đến nỗi hở hang làm cho xấu mặt. Các đại quan và bọn tùy tùng bên Thanh ở trong trướng không sao nhịn được đều nổi lên tràng cười rộ. Phi Yến Đa La tức giận đến sắc mặt lợt lạt mà hai tay vẫn phải nắm giữ cạp quần, bộ dạng coi rất tức tưởi. Hắn toan đưa ra những lời khích ngang khẳng khái một phen cho bõ tức. Khốn nỗi hai tay còn bận việc, không thể chỉ trỏ vung múa cho thêm uy thế. Hắn muốn hiên ngang cũng chỉ đến được hạn độ nào mà thôi. Phi Yến Đa La hắng giọng mấy tiếng, ngồi xuống nói: - Ta là Khâm sứ của Sa Hoàng bệ hạ nước La Sát, ngươi không làm nhục ta được. Bậc đại trượng phu thà chết chứ không chịu nhục. Vi Tiểu Bảo đáp: - Hầu tước đại nhân cứ yên lòng. Bản sứ không làm nhục đâu. Chúng ta hãy hòa hảo mở lại cuộc đàm phán phân chia cương giới. Phi Yến Đa La móc túi lấy khăn bịt cửa miệng buộc quanh ra sau gáy để tỏ ý không lên tiếng về cuộc hòa đàm. Vi Tiểu Bảo sai thân binh đem rượu ngon nhắm tốt bày lên bàn. Gã rót rượu ra chung, cười nói: - Mời đại nhân! Đại nhân bất tất phải khách sáo. Phi Yến Đa La ngửi thấy mùi rượu thơm ngát không nhịn được, cởi khăn tay, nâng chung lên uống.Vi Tiểu Bảo cười hỏi: - Hầu tước đại nhân lại dùng đến miệng ư? Phi Yến Đa La uống rượu ăn thịt, vẫn không trả lời, tỏ ra dùng miệng để ăn uống chứ không để nói. Vi Tiểu Bảo tiếp tục khuyên mời. Gã nghĩ bụng cho hắn uống say hoặc giả làm cho hắn phải khuất phục. Không ngờ Phi Yến Đa La uống mười mấy chung rồi, cầm khăn lau miệng xong bịt lại buộc chằng ra sau như trước. Vi Tiểu Bảo thấy tình trạng này không khỏi bật cười. Gã sai thân binh dẫn hắn vào hậu trướng nằm nghỉ và ra lệnh canh giữ nghiêm mật. Vi Tiểu Bảo cùng bọn Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương ngồi lại bàn cách đối phó. Đông Quốc Cương nói: - Thằng cha này quật cường như vậy, hắn kiên quyết không chịu cùng chúng ta mở cuộc hòa đàm mà chịu tha hắn về thì thật chẳng cam tâm chút nào. Sách Ngạch Đồ hiến kế: - Hãy giam giữ hắn mươi ngày hay nửa tháng, mỗi bữa làm thịt mấy tên quỷ La Sát trước mặt hắn, thử xem hắn có quật cường mãi không? Đông Quốc Cương đáp: - Nếu chúng ta bức bách quá, hắn tự tử thì thật rầy rà! Chúng ta dùng võ lực bắt đại thần của đối phương ép việc nghị hòa, không chừng Hoàng thượng còn gia tội bọn mình nữa. Sách Ngạch Đồ gật đầu nói: - Đông Công gia nói thế là phải. Mình cứ một mực dùng cương cũng không được. Các đại thần thương nghị hồi lâu vẫn chưa tìm ra diệu sách.Bữa nay bắt được Phi Yến Đa La tuy là một phen thắng trận, nhưng không hợp với chủ ý của Vua Khang Hy trong cuộc mưu hòa, mà còn phản bội đại kế của triều đình. Nếu không khéo xử lý sẽ phạm vào trọng tội vi chỉ. Sau các đại thần đều khuyên Vi Tiểu Bảo nên buông tha Phi Yến Đa La. Vi Tiểu Bảo đáp: - Được rồi! Chúng ta hãy giữ hắn lại một đêm, sáng mai sẽ thả về cũng chưa muộn. Gã vào tẩm trướng bước lui rồi lại bước tới để suy nghĩ kế hoạch, đột nhiên gã lẩm bẩm: - Bữa trước ta đã theo bài học của Gia Cát Lượng phóng hỏa đốt hang Bàn Xà và đại thắng ở Nhã Tát Khắc. Nay ta lại học Chu Du chơi Tưởng Cán ở Hội Quần Anh. Gã tính toán hồi lâu sắp đặt kế hoạch rồi trở ra quân trướng. Vi Tiểu Bảo truyền thân binh đi mời vị giáo sĩ Hà Lan tới để dặn dò mật kế. Gã lại sai người kêu Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu vào trướng khẽ dặn làm như thế, như thế... Gã còn gọi bốn tướng và đội trưởng đội thân binh vào bảo làm như vậy như vậy... Mọi người lãnh mạng lui ra. Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nắc Phu tuy biết vụ này cực kỳ ngoắt ngoéo, nhưng ngó thấy bốn tên thân binh tay cầm đại đao lăm lăm đứng ở phía sau dĩ nhiên chúng chỉ còn cách vâng dạ luôn miệng, không dám phản bội. Phi Yến Đa La nằm nghỉ trên giường trong hậu trướng, những luồng tư tưởng nổi lên như sóng cồn. Lúc thì kinh hãi, lúc lại hối hả, hắn trằn trọc không sao ngủ được. Bỗng nghe tiếng ngáy như sấm ở ngoài cửa trướng. Ba tên lính canh đều là thân binh ngủ say cả rồi. Phi Yến Đa La nghĩ bụng:- Ta đã lọt vào tay bọn Man tử Trung Quốc mà không chịu những điều khoản của chúng đưa ra, tất khó bề thoát thân. Sáng mai tên tiểu quỷ kia không chừng nổi nóng vung đao chém giết mình, há chẳng oan uổng ru? May mà trời còn thương: Ba tên quân canh ngủ cả rồi. Chi bằng ta mạo hiểm trốn đi. Hắn liền rón rén ngồi dậy, cởi sợi dây da đeo trên vai xuống để thắt lưng cho khỏi tụt quần. Phi Yến Đa La cất bước nhẹ nhàng lần về phía cửa trướng, vẫn thấy ba tên thân binh tựa vào cột trướng ngủ say. Hắn vươn tay ra sau lưng một tên thân binh định rút lấy thanh bội đao. Ngón tay hắn sắp đụng vào đốc đao thì đột nhiên tên thân binh này ngáp dài một cái. Phi Yến Đa La giật mình kinh hãi, vội rụt tay về. Sau một lúc, hắn không thấy động tĩnh gì, lại toan cử động rút bội đao của tên thân binh khác. Giữa lúc ấy tên thân binh kia vươn vai một cái, miệng nói mấy câu mơ ngủ. Phi Yến Đa La không dám chần chừ, rón rén bước ra cửa trướng, mừng thầm ba tên thân binh đều không phát giác. Phi Yến Đa La ra ngoài trướng rồi, đứng thu mình trong bóng tối. Bỗng thấy bên ngoài có bọn vệ binh tay cầm đèn lồng, tay cầm đơn đao đi tuần tiễu. Phi Yến Đa La đảo mắt nhìn quanh thấy ba mặt Bắc, Đông, Nam đều có quân lính đi tuần, chỉ một mặt Tây là tối mò, dường như không người. Hắn liền từ từ cất bước tiến về phía đó. Mỗi khi thấy đội quân tuần phòng tới gần, hắn lại co mình đứng nép vào sau trướng bồng. May mà dọc đường đi về phía Tây, hắn được bình yên vô sự. Phi Yến Đa La vừa đến phía sau tòa đại trướng, đột nhiên mé Tây có đội tuần tiễu đi tới, hắn vội ẩn vào sau trướng. Phi Yến Đa La đột nhiên vẳng nghe trong trướng có người nói chuyện mà nói bằng tiếng La Sát.
__________________
![]() Hãy cười để liều lĩnh chấp nhận mình như một... người ngớ ngẩn. Hãy khóc để liều lĩnh chấp nhận mình như một người đa cảm. Hãy đến với người khác để liều lĩnh đón nhận sự mắc míu. Hãy phơi bày những cảm xúc để chấp nhận con người thật của chính mình. Hãy định đặt những ước mơ trước vầng mây để liều lĩnh đón nhận lời giễu cợt. Hãy yêu - bởi biết đâu không có tình yêu như thế trở lại lần thứ hai... Hãy dũng cảm đối mặt với những khó khăn và rồi liều lĩnh chấp nhận rủi ro.Nhưng những sự liều lĩnh ấy phải cần có bởi vì mối nguy hiểm nhất trong cuộc đời chính là không có sự liều lĩnh. Nếu ai không liều lĩnh, sẽ không có gì, không làm được gì và không là gì cả! |
|
#237
|
||||
|
||||
|
Lộc Đỉnh Ký
Hồi 241 Mao Thập Bát Công Khai Thóa Mạ Vi Tiểu Bảo nghe Sách Ngạch Đồ nói vậy cả mừng nghĩ bụng: - Tưởng gì chứ viết chữ "Tiểu" thì lão gia coi như trò đùa. Gã liền cầm bút khuyên bên trái một vòng tròn, lại khuyên bên phải một vòng tròn. Sau cùng mới vạch một đường thẳng vào giữa. Sách Ngạch Đồ mỉm cười nói: - Được rồi! Vi đại nhân viết hay quá! Vi Tiểu Bảo ngoẹo đầu ngắm nghía chữ "Tiểu" một lúc rồi ngửa mặt lên trời cười rộ. Sách Ngạch Đồ lấy làm kỳ hỏi: - Vi đại soái cười gì vậy? Vi Tiểu Bảo cười đáp: - Sách đại nhân coi chữ này có giống một con chim sẻ và hai quả trứng không? Các đại thần bên Thanh không nhịn được nổi lên tràng cười khanh khách. Cả bọn tùy tùng cùng thân binh cũng bưng miệng phì cười. Phi Yến Đà La chẳng hiểu bọn họ cười gì, chỉ dương mắt lên mà nhìn. Vi Tiểu Bảo kiềm tự vào cả bốn bản điều ước. Trên bản bằng La Sát văn gã vạch chữ lớn gấp bội. Tiếp theo bọn Phi Yến Đà La, Sách Ngạch Đồ và các phó sứ bên Nga đều kiềm tự. Bản điều ước thứ nhất giữa hai nước Trung- Nga thế là hoàn thành. Nó cũng là bản điều ước đầu tiên Trung Quốc ký kết với nước ngoài. Vụ này do Vua Khang Hy trù liệu kế hoạch rất chu đáo lại xuất toàn lực để thực hành, cùng phái những nhân viên rất đắc lực dựng lên điều ước phân chia cương giới và gọi tắt là điều ước Ni Bố Sở. Trung Quốc không bị thua thiệt chút nào. Điều ước Ni Bố Sở quy định dùng ngọn Hưng An ở mặt bắc làm bờ cõi. Thế là toàn bộ tỉnh A Mục Nhĩ và tỉnh Tân Hải của Liên Xô thuộc vào lãnh thổ Trung Quốc. Phương Đông và phương Đông Nam lãnh thổ Trung Quốc ra đến tận biển. Trước cuộc hòa đàm khu vực này không thuộc vào nước nào. Chỗ Trung Quốc chiếm lấy đó cũng không phải đất La Sát, nhưng nước La Sát đã đắp thành, thực dân. Sau khi kiềm đính hiệp ước bọn thực dân bắt buộc phải rút về. Đó là thắng lợi về quân sự cũng như về ngoại giao của Trung Quốc. Theo điều ước thì một diện tích đất gần tám chục dặm vuông Anh được sát nhập vào Trung Quốc, tức là một phần đất lớn gấp đôi mấy tỉnh miền Đông Bắc hiện nay. Điều ước này lập xong còn khiến cho biên giới phía Đông Bắc Trung Quốc được an ninh hơn một trăm năm chục năm rồi. Cuộc đông xâm của người La Sát bị cản trở, dã tâm xâm lược cũng giảm bớt. Sau các triều đại Khang Hy, Ung Chính, Càn Long nhà Mãn Thanh ký điều ước với nước ngoài đều bị thất quyền mất đất. Hùng phong cùng uy quyền quốc gia về sau chẳng còn thời kỳ nào được hưng thịnh bằng hồi vua Khang Hy trị vì và Vi Tiểu Bảo tham dự quốc chính. (Lời tác giả: Chữ kiềm của Vi Tiểu Bảo trên điều ước rất cổ quái không nhận ra được. Những sử gia đời sau của hai nước Trung- Nga chỉ biết Sách Ngạch Đồ và Phi Yến Đa La kiềm thư. Nhà khảo cổ Quách Mạc Nhược hiểu biết Giáp cốt văn tự cũng không hiểu chữ "Tiểu" kiềm trên điều ước Ni Bố Sở, khiến đại danh của Vi Tiểu Bảo phải mai một. Những sử sách đời sau đều nói những nhân vật kiềm tự điều ước Ni Bố Sở là Sách Ngạch Đồ và Phi Yến Đà La. Từ cổ chí kim, những người biết đến Vi Tiểu Bảo chỉ có độc giả "Lộc Đỉnh Ký" mà thôi. Pho sách này thuật lại việc kiểm đính và nội dung điều ước Ni Bố Sở,trừ phần liên quan đến Vi Tiểu Bảo để bổ sung chỗ thiếu sót, còn ngoài ra đều căn cứ vào lịch sử để ghi chép. Theo tập quán thời bấy giờ, hai bên kiềm ký điều ước rồi đồng thời nổ súng tuyên thệ với trời tuân thủ nghiêm minh. Bên Thanh có hơn hai trăm cỗ đại pháo đặt ở ngoại thành Ni Bố Sở. Cả bốn mặt Đông Nam Tây Bắc đồng thời phát xạ. Súng nổ chấn động một vùng. Bên Nga chỉ có hơn mười cỗ, tiếng súng thưa thớt. Thế cường nhược chênh lệch nhau không biết đến đâu mà kẻ.) Phi Yến Đà La tự nhủ: - May quá! Nếu hòa nghị bất thành, xẩy cuộc đánh nhau thì thành Ni Bố Sở bị bắn đến tan tành. Sứ thần hai nước đều đưa tặng lễ vật cho nhau. Phi Yến Đà La tặng bọn Vi Tiểu Bảo đồng hồ, thiên lý kính, ngân khí, áo da điêu, đao kiếm... Vi Tiểu Bảo tặng đối phương lừa ngựa, yên cương, chén vàng, quần áo, lụa là. Ngoài ra, mỗi người còn được một cái đai lưng dát vàng để bồi thường lại đai quần bị quân Thanh cắt đứt. Tối hôm ấy tại hội sở mở đại yến khánh hạ hòa ước thành công. Phi Yến Đà La vẫn băn khoăn lo lắng, không hiểu những toán quân Thanh kéo đi công tập Mạc Tư Khoa đã triệu hồi chưa. Hắn không ngớt đưa ra ngôn ngữ thăm dò, nhưng Vi Tiểu Bảo vẫn lờ đi như không hiểu. Sau hai bữa, Phi Yến Đà La được tin báo có đại đội quân Thanh từ mé Tây kéo đến, hắn lên mặt thành dùng Thiên lý kính nhìn ra xa, quả thấy từng đội Thanh binh từ mặt Tây đi tới, qua sông Ni Bố Sở đóng lại ở phía Đông. Phi Yến Đà La cả mừng. Hắn yên trí đây là những toán Thanh binh định đi Tây xâm đã được triệu hồi. Hắn có biết đâu đại đội quân Thanh này nguyên trước hạ trại đóng ở ngoài hai trăm dặm về phía tây thành Ni Bố Sở. Họ đã được lệnh từ trước, nếu nghe tiếng súng lớn nổ liền nhổ trại từ từ kéo về.Lại qua mấy bữa, thợ đá dựng bia trên biên giới. Văn tự trong bia điêu khắc rất hoàn chỉnh gồm năm thứ chữ là: Mãn văn, Hán văn, Mông văn, La Tinh văn và La Sát văn. Những tấm bia cương giới chia ra dựng ở đông ngạn sông Cách Nhĩ Tất Tề, nam ngạn sông Ngạch Nhĩ Cổ Lạp, cùng các nơi Đông Bắc dãy núi Uy Y Khắc A Lâm Đại Sơn. Trong văn bia viết rõ hai nước dùng sông Cách Nhĩ Tất Tề làm biên giới. Thượng lưu sông này có khu đất cỏ cây không mọc được tên gọi là Đại Hưng An ra đến biển. Bao nhiêu sông ngòi ở phía Nam núi này chảy vào sông Hắc Long Giang đều thuộc về Trung Quốc. Những sông ngòi phía Bắc dãy núi đều thuộc nước Nga La Tư. Trong bia còn ghi rõ: - Sông Ngạch Nhĩ Cổ Lạp chảy vào Hắc Long Giang dùng làm địa giới. Nam ngạn sông này thuộc về Trung Quốc, Bắc ngạn thuộc về Nga La Tư. ở cửa sông Mi Nặc Nhĩ Khánh thuộc Nam ngạn có nhà cửa của người Nga La Tư phải rời qua Bắc ngạn. Văn bia còn viết rõ: - Nhân dân Nga La Tư cùng mọi sự vật ở Nhã Tát Khắc phải triệt thoái về Sát Hãn Hàn. Văn bia lại nói rõ: - Những nhà săn bắn cấm hẳn không được vượt qua biên giới. Nếu có người tụ tập đem theo khí giới săn bắn giết người cướp của mà bắt được là chính pháp liền, không thể vì những chuyện nhỏ nhặt làm hư đại sự. Hai nước Trung- Nga hòa hiếu với nhau, đừng để xảy cuộc tranh chấp. Khâm sai hai nước lại phái bộ thuộc khám xét địa hình không còn chỗ nào lầm lẫn, mới dựng bia lên. Những chỗ dựng bia này đáng lý để phân cương giới giữa hai nước muôn năm không thay đổi, nhưng hơn trăm năm sau, nước Nga thừa cơ Trung Quốc suy nhược,tầm gửi lấn cành, không kể gì đến chuyện phân cương giới ngày trước, thôn tính một vùng đất rộng rất phì nhiêu của Trung Quốc. Những người đọc sử về sau phải chép miệng thở dài mà than rằng: - ¦ớc gì được vua Khang Hy và Vi Tiểu Bảo ở dưới âm cung sống lại để khôi phục cố thổ của nhà nước bị bọn người La Sát lang sói chiếm đoạt. Dựng bia xong rồi, khâm sai hai nước thi lễ từ biệt, chia đường trở về kinh thành phục mạng. Vi Tiểu Bảo gọi Hoa Bá Tử Cơ và Tề Lạc Nặc Phu vào kiểm nhận lễ vật để đưa về trình Tô Phi á Công chúa. Trong món lễ này có cả chăn gấm gối thêu. Nơi đây là đất hoang vu, không thể mua được những vật đó, đều lấy của Song Nhi. Vi Tiểu Bảo cười nói: - Nếu Công chúa thực sự tưởng nhớ ta thì cứ ôm chăn gối này mà ngủ. Hoa Bá Tử Cơ đáp: Tình ý của Công chúa điện hạ đối với đại nhân các hạ khác nào thiên trường địa cửu mà chăn gối chẳng được bao lâu sẽ rách nát. Xin đại nhân phái mấy tên kỹ sư qua Mạc Tư Khoa xây mấy tòa thạch kiều thì vĩnh viễn không bao giờ hư nát được. Vi Tiểu Bảo cười đáp: - Ta đã nghĩ đến điểm này rồi, hai người bất tất phải lắm miệng. Gã sai thân binh khiêng một cái rương vào. Cái rương này dài bảy thước, rộng bốn thước giống hệt một cỗ quan tài. Tám tên thân binh dùng đòn khiêng tới, tỏ ra rất trầm trọng.Ngoài rương đóng đai sắt rất thận trọng lại niêm phong kiềm dấu. Vi Tiểu Bảo nói: - Món lễ vật này rất quan trọng chứ không phải tầm thường. Các ngươi bảo vệ cho cẩn thận đừng để tổn hại. Công chúa trông thấy rồi nhất định vô cùnghoan hỷ, vì đây là món nhân tình vĩnh viễn như thiên trường địa cửu. Nó cũng bền vững chẳng kém gì những cầu đá ở Trung Quốc. Hai tên đội trưởng La Sát không dám hỏi nhiều, lãnh rương gỗ ra đi. Cái rương gỗ này nặng tới ngàn cân mà đưa từ Ni Bố Sở về đến Mạc Tư Khoa đường xa muôn dặm thật là vất vả. Tô Phi á nhận được rương mở coi thì ra một pho thạch tượng khỏa thân của Vi Tiểu Bảo. Pho tượng lộ nụ cười rất linh động như người sống. Nguyên Vi Tiểu Bảo lúc kêu thợ đá khắc bia, đồng thời sai họ suốt đêm ngày tạc thành pho tượng này. Gã lại nhờ giáo sĩ Hà Lan viết câu •Ta vĩnh viễn yêu nàng• bằng tiếng La Sát, để khắc vào trước ngực tượng đá. Tô Phi á Công chúa vừa ngó thấy thật là dở cười dở khóc. Nàng nghĩ tới tiểu hài ở Trung Quốc cực kỳ cổ quái tinh ma, bọn nam tử La Sát không thể bì kịp. Bất giác nàng nẩy mối tình ý triền miên, tâm thần bay xa muôn dặm. Pho tượng đá này cất ở điện Cẩm Linh. Sau Bỉ Đắc đại đế phát động cuộc chính biến, đuổi Tô Phi á Công chúa ra khỏi cung vị, đồng thời đập tan nát pho tượng đá. Chỉ còn bộ phận tàn hủy được binh sĩ đem ra bỏ ở ngoài thành. Bọn phụ nữ dốt nát ở nước La Sát thường hay đến lạy lục để cầu sinh con đẻ cái và người ta đồn đại là rất linh nghiệm. Nhắc lại Vi Tiểu Bảo mở cờ gióng trống khải hoàn trở về Bắc Kinh. Tình hình kiểm đính hòa ước chia biên giới đã có bản tâu gửi về từ trước dâng lên vua Khang Hy. Đại quân chưa về tới ngoài thành Bắc Kinh, các đại thần trong triều đã chờ sẵn ở cửa thành để nghênh tiếp. Vi Tiểu Bảo dẫn bọn Đông Quốc Cương, Sách Ngạch Đồ, Bằng Xuân, Tát Bố Tố, Lang Thản, Lâm Hưng Châu vào triều kiến vua Khang Hy. Nhà vua dùng lời lẽ ôn nhu khen thưởng, lại hạ chiếu thăng chức cho Vi Tiểu Bảo làm Nhất đẳng Lộc Đỉnh Công. Bọn Đông Quốc Cương, Sách Ngạch Đồ cùng tướng sĩ quan quân đều được thăng thưởng.Vi Tiểu Bảo nhơn nhơn đắc ý ra khỏi Hoàng cung. Các quan tiền hô hậu ủng đưa gã về phủ. Bỗng nghe bên đường phố lớn có tiếng người hô: - Vi Tiểu Bảo! Ngươi là một tên cẩu tặc vong ân bội nghĩa! Đoàn người nghe tiếng kêu réo thóa mạ đều giật mình kinh hãi. Vi Tiểu Bảo nghe thanh âm quen thuộc ngoảnh đầu nhìn ra thấy một gã đại hán từ trong thềm nhà chạy xuống đường lớn trỏ tay vào mặt gã, ngoác miệng chửi bới: - Vi Tiểu Bảo! Mi là một tên tiểu tặc đáng tội ngàn đao phân thây. Đường đường là người Hán, mi lại đi đầu hàng nhà Mãn Thanh, làm tẩu cẩu cho quân Thát Đát. Mi làm cho sư phụ của mi phải uổng mạng, lại sát hại bao nhiêu hảo huynh đệ. Nay mi được Hoàng đế Thát Đát phong đến công hầu, vinh hoa phú quý, mi càng nhơn nhơn đắc ý! Tổ bà nó! Lão gia phải dùng gươm trắng đao hồng đâm con mẹ nó tên tiểu tặc mấy chục nhát, thử xem mi còn làm Ô Quy Công, Giáp Ngư Công được nữa không? Đại hán này mình trần trùng trục, ngực đầy lông lá đen sì, mày rậm mắt to, thái độ rất hung dữ. Hắn chính là Mao Thập Bát, ngày trước đã dẫn dắt Vi Tiểu Bảo đến Bắc Kinh. Vi Tiểu Bảo còn đang ngơ ngác thì mấy chục tên thân binh đã bao vây đại hán. Mao Thập Bát rút thanh đoản đao ở trong mình ra toan chống cự. Mấy vị Đô thống, Đề đốc cùng võ tướng nhất tề động thủ đoạt lấy đoản đao ở trong tay Mao Thập Bát rồi vật hắn ra trói lại. Mao Thập Bát tiếp tục mắng chửi không ngớt miệng: - Tên tiểu tặc Vi Tiểu Bảo kia! Ngày trước lão gia đưa mi tới Bắc Kinh thật là lầm to, thật là tội lỗi! Lão gia đã mang tội với Trần Cận Nam Tổng đà chúa, lại ân hận với các anh hùng hảo hán trong Thiên Địa Hội. Bữa nay lão gia không muốn sống nữa, vạch mặt chỉ tên cho thiên hạ biết Vi Tiểu Bảo nhà mi là đứa cẩu tặcbán bạn cầu vinh, vong ơn phụ nghĩa, chỉ mong thăng quan phát tài, cam phận nô tài làm chó săn cho Hoàng đế Thát Đát. Các quan binh vả miệng mà hắn vẫn thóa mạ không ngớt. Tiếp đó, một tên võ quan rút khăn tay nhét vào miệng Mao Thập Bát. Mao Thập Bát không nói lên thành tiếng được, miệng vẫn ú ớ chắc là hắn còn chửi bới. Sách Ngạch Đồ cười hỏi: - Không hiểu thằng khùng này ở đâu nhảy bổ ra? Vi Công gia giao cho Sách mỗ đem hắn về phủ Thuận Thiên mở cuộc thẩm vấn. Chúng ta hãy bỏ mặc hắn không lý gì đến, kéo về quý phủ uống rượu nghe hát đã. Vi Tiểu Bảo đáp: - Hay lắm! Hay lắm! Tiểu đệ đang định mời Sách huynh cùng các vị đến tệ phủ chơi. Gã khẽ dặn thân binh: - Các ngươi đưa hắn về phủ coi giữ cẩn thận, nhưng đừng làm khó dễ gì hắn cả. Hãy lấy rượu thịt cho hắn uống. Lát nữa ta sẽ thân hành thẩm vấn. Hôm ấy, trong phủ Lộc Đỉnh Công mở yến tiệc lớn thết đãi văn võ bá quan. Các quan viên theo đi đánh Nhã Tát Khắc và dự cuộc hòa đàm Ni Bố Sở mồm năm miệng mười, nói phun bọt rãi thuật lại những sự đã qua: Nào Vi đại soái thần cơ diệu toán không sót mảy may. Nào ra kỳ mưa hạ thành Nhã Tát Khắc. Nào dùng kế •Chu Du - Quần Anh hội hý Tưởng Cán• khiến cho khâm sai La Sát sợ mất mật không dám ho he gì nữa, chỉ mong được kiềm điều ước phân chia cương giới cho lẹ. Trong khi thuật sự, dĩ nhiên họ còn thêm mắm thêm muối cho câu chuyện trở nên thần hồ kỳ thần. Họ ví Vi Tiểu Bảo khác nào Gia Cát Lượng phục sinh, Lưu Bá Ôn tái thế. Bá quan cũng tuôn ra những lời nịnh nọt chẳng thiếu câu gì. Nhưng sự thực, trong thâm tâm họ cũng công nhận Vi Công gia sở dĩ được Hoàng thượng sủng áiquả có chân tài. Trước kia họ vẫn coi gã không vào đâu thì nay đã nẩy lòng kính trọng. Tan tiệc, Vi Tiểu Bảo vào thư phòng lại bày rượu thịt mời Mao Thập Bát làm lễ tương kiến. Gã sợ hắn nổi tính thô bạo, liền bảo Tô Thuyên và Song Nhi ăn mặc giả làm kẻ thân tùy đứng bên thị phụng. Thân binh giải Mao Thập Bát vào. Vi Tiểu Bảo niềm nở đứng dậy nghinh tiếp, miệng chào: - Mao đại ca! Lâu nay không được gặp. Đại ca bình yên chứ? Mao Thập Bát tức giận trợn mắt lên hỏi: - Ta làm sao mà không bình yên? Từ ngày ta quen biết tên tiểu tặc rất đỗi bực mình! Nguyên trước ta bình yên rồi sau biến thành không yên tâm được nữa. Vi Tiểu Bảo cười nói: - Mao đại ca hãy thủng thẳng ngồi chơi để tiểu đệ kính mới ba chung rượu cho hả hơi đã. Tiểu đệ có chỗ nào đắc tội với Mao đại ca thì đại ca uống rượu rồi hãy thóa mạ cũng chưa muộn. Mao Thập Bát sấn sổ bước lại quát: - Ta đánh chết mi trước rồi hãy uống rượu. Hắn giơ nắm tay lớn bằng cái bát đánh nhằm vào mặt Vi Tiểu Bảo đến •vù• một tiếng. Tô Thuyên lặng mình một cái chụp lấy cổ tay Mao Thập Bát, khẽ vặn một vòng. Tay mặt mụ vỗ vai hắn hai cái. Mao Thập Bát liền cảm thấy nửa người trên tê chồn, không tự chủ được nữa phải ngồi xuống ghế. Hắn vừa kinh hãi vừa tức giận, vận kình nhẩy bổ lên thóa mạ: - Tiểu tặc!... Tô Thuyên đứng ở sau lưng hắn, đưa tay nắm lấy hai huyệt kiên trinh ở bả vai hắn rồi từ từ đè xuống.Mao Thập Bát không kháng cự được chút nào, đành chịu ngồi xuống ghế. Mao Thập Bát thân thể cao lớn, ít ra gấp hai người Tô Thuyên, nhưng võ công mụ rất cao thâm nên kiềm chế hắn một cách dễ dàng. Mao Thập Bát khác nào người bị cột chân tay đành riu ríu ngồi xuống. Mao Thập Bát lại càng tức giận, lớn tiếng: Bữa nay lão gia đã thóa mạ mi là Hán gian ngoài đường phố thì không tính đến chuyện sống chết nữa rồi, còn mi hết thẩy người thiên hạ đều biết là một đứa đê hèn vô sỉ giết thầy, lừa bạn... Vi Tiểu Bảo cãi: - Mao đại ca! Tiểu đệ vâng lệnh Hoàng thượng đi đối phó với quỉ La Sát chứ không phải để sát hại người Hán chúng ta, sao lại bảo là Hán gian được? Mao Thập Bát quát hỏi: - Thế thì sao mi... lại sát hại sư phụ Trần Cận Nam? Vi Tiểu Bảo vội đáp: - Tiểu đệ sát hại gia sư bao giờ? Hiển nhiên gia sư bị tên tiểu tử Trịnh Khắc Sảng giết chết. Mao Thập Bát nói: - Bây giờ mi còn cãi được ư? Con mẹ nó! Trong thánh chỉ của Hoàng đế nói quá rõ rồi! Vi Tiểu Bảo thất kinh hỏi: - Sao?... Trong thánh chỉ của Hoàng thượng sao lại bảo tiểu đệ sát hại sư phụ? Gã bâng khuâng quay lại nhìn Tô Thuyên. Tô Thuyên nói: - Bữa trước Hoàng thượng thăng tướng công lên chức Nhất đẳng Lộc Đỉnh Công đã ban tờ cáo trạng tuyên dương công lao của tướng công. Bản cáo trạng này không hiểu ai viết, trong có đoạn:- "Tiến cử lương tài, dẹp bình Ngô nghịch, thu Đài Loan vào bản đồ Trung Quốc." "Cầm quân xuất chinh hạ thành Nhã Tát Khắc, trương quốc oai ở cõi ngoài." Mụ nói tiếp: - Những cái đó đều đúng hết. Nhưng lại có hai câu: "Chém bọn nghịch thủ Thiên Địa Hội là Trần Cận Nam, Phong Tế Trung khiến mối họa hoạn trong nước liền bị dập tắt. Phỉ đồ, loạn đảng phải thay mặt đổi lòng." Là không đúng sự thực hoàn toàn. Vi Tiểu Bảo chau mày hỏi: - Cái gì thay mặt đổi lòng? Câu này ý nghĩa làm sao? Cáo trạng nói tướng công bắt được bọn Trần Cận Nam, Phong Tế Trung giết rồi, mọi người trong Thiên Địa Hội sợ quá không dám tạo phản nữa. Vi Tiểu Bảo nhảy bổ lên, lớn tiếng la: - Làm gì có chuyện đó? Thế này chẳng là vu oan cho người ta ư? Tô Thuyên từ từ lắc đầu đáp: - Chúng ta giết Phong Tế Trung, thánh chỉ nói thế là đúng, chỉ thừa ba chữ Trần Cận Nam. Vi Tiểu Bảo ấp úng hỏi: - Trần Cận Nam là ân sư, sao ta lại... gia hại? Đạo thánh chỉ này... của Hoàng thượng. Hỡi ôi! Người thấy thánh chỉ, sao không bảo ta? Tô Thuyên đáp: - Bọn tiểu nhân đã thương lượng với nhau là trong thánh chỉ thừa ba chữ "Trần Cận Nam", khi tướng công ngó tới, nhất định không được vui lòng. "Bọn tiểu nhân" mà mụ nói đây là trỏ vào bảy vị phu nhân. Bảy vị đã cùng nhau thương lượng về bản cáo trạng. Vi Tiểu Bảo liếc mắt nhìn Song Nhi. Thị lẩm nhẩm gật đầu.Vi Tiểu Bảo lại nói: - Mao đại ca ơi! Đích thực không phải tiểu đệ sát hại gia sư. Còn Phong Tế Trung là tên bạn đồ ở Thiên Địa Hội. hắn ngấm ngầm... thông phong báo tin với Hoàng đế... Mao Thập Bát cười lạt ngắt lời: - Vậy mi là hảo nhân chăng? Vi Tiểu Bảo ngồi thừ ra đáp: - Tiểu đệ phải vào phân thuyết với Hoàng thượng, xin ngài đổi lại... đổi lại... Gã nói luôn ba lần "đổi lại" nhưng biết là nhà Vua quyết chẳng khi nào vì thánh chỉ dư ba chữ "Trần Cận Nam" mà đổi lại thượng dụ. Gã tự hỏi: - Không hiểu tên cẩu tặc nào đã tâu Hoàng thượng là ta sát hại sư phụ? Hoàng thượng coi hành động này là trung tâm với ngài. Nhưng ... nhưng Vi Tiểu Bảo này còn làm người được nữa chăng? Trong lòng nóng nảy, đột nhiên gã ọe một tiếng rồi khóc òa lên. Miệng la: - Mao đại ca! Tô tỷ tỷ! Hảo Song Nhi! Tiểu đệ không sát hại sư phụ. Ba người thấy gã đột nhiên khóc rống lên đều giật mình kinh hãi. Tô Thuyên vội đến bên nắm lấy vai gã cất giọng ôn nhu nói: - Trịnh Khắc Sảng hạ sát lệnh sư ở Thông Cật đảo. Bọn tiện thiếp đều nhìn thấy cả. Mụ nói rồi lấy khăn tay ra lau nước mắt cho gã. Mao Thập Bát bây giờ mới biết tên thân binh võ nghệ cao cường này té ra là một người đàn bà, trong lòng rất đỗi ngạc nhiên. Vi Tiểu Bảo chợt nghĩ tới điều gì liền nói: - Mao đại ca! Tên tiểu tử Trịnh Khắc Sảng hiện nay cũng ở Bắc Kinh. Chúng ta đến đối chất, chắc hắn không dám chối cái. Phải rồi! Phải rồi! Chúng ta đi ngay bây giờ... Gã nói tới đây, bỗng nghe ngoài cửa có thân binh lớn tiếng hô:- Thánh chỉ đã tới! Ngự tiền thị vệ Đa tổng quản phụng sắc tuyên đọc thánh chỉ. Vi Tiểu Bảo đứng dậy ra cửa nghênh tiếp thì thấy Đa Long đang cười hề hề tiến lại. Vi Tiểu Bảo quỳ xuống hướng mặt về phía Bắc dập đầu chúc cầu thánh thể an khang. Đa Long chờ gã lạy xong mới nói: - Hoàng thượng phán bảo phải sai đưa tên phản nghịch thóa mạ ngoài đường phố vào cung để ngài thân hành tra hỏi.
__________________
![]() Hãy cười để liều lĩnh chấp nhận mình như một... người ngớ ngẩn. Hãy khóc để liều lĩnh chấp nhận mình như một người đa cảm. Hãy đến với người khác để liều lĩnh đón nhận sự mắc míu. Hãy phơi bày những cảm xúc để chấp nhận con người thật của chính mình. Hãy định đặt những ước mơ trước vầng mây để liều lĩnh đón nhận lời giễu cợt. Hãy yêu - bởi biết đâu không có tình yêu như thế trở lại lần thứ hai... Hãy dũng cảm đối mặt với những khó khăn và rồi liều lĩnh chấp nhận rủi ro.Nhưng những sự liều lĩnh ấy phải cần có bởi vì mối nguy hiểm nhất trong cuộc đời chính là không có sự liều lĩnh. Nếu ai không liều lĩnh, sẽ không có gì, không làm được gì và không là gì cả! |
|
#238
|
||||
|
||||
|
Lộc Đỉnh Ký
Hồi 242 Phùng Tích Phạm Hăm Dâng Cáo Trạng Vi Tiểu Bảo run lên ấp úng nói: - Người... người đó ư? Tiểu đệ bắt hắn đem về thẩm vấn kỹ càng thì ra.. thì ra một tên khùng. Hắn nói nhăng nói càn toàn những chuyện trời ơi đất hỡi chẳng ra đâu vào đâu, nên không ích gì hết. Tiểu đệ sai đánh một trận nhừ đòn rồi tha cho hắn đi. Sao... sao Hoàng thượng lại biết chuyện này? Thật ra cũng chẳng có chi quan hệ... Mao Thập Bát nghe tới đây không nhịn được nữa, đập bàn "binh binh" luôn mấy cái, chén bát rớt xuống đất bể loảng xoảng. Hắn lên tiếng thóa mạ: - Vi Tiểu Bảo! Con mẹ nó! Ai là thằng khùng? Bữa nay người chửi bới Hoàng đế Thát Đát ở ngoài đường phố chính là lão gia. Lão gia đã không sợ muôn đao ngàn kiếm phân thây, chẳng lẽ lại sợ con mẹ nó Hoàng đế Thát Đát? Vi Tiểu Bảo ngấm ngầm kêu khổ. Gã chỉ mong gạt được vua Khang Hy cùng Đa Long rồi buông tha Mao Thập Bát. Ngờ đâu họ Mao lại không hiểu gã có ý bênh vực hắn. Mao Thập Bát đã công nhiên thóa mạ Hoàng thượng thì dù hắn có mười tám cái đầu cũng không giữ nổi một cái. Đa Long buông nhẹ tiếng thở dài, nhìn Vi Tiểu Bảo nói: - Vi huynh đệ! Huynh đệ đối với bạn hữu giang hồ thật là con người đầy nghĩa khí, Tiểu huynh khâm phục lắm. Vụ này huynh đệ đã hết lòng hết sức là nhân cùng nghĩa tận. Chúng ta đi thôi. Mao Thập Bát rảo bước ra cửa, đột nhiên quay lại nhổ một bãi nước nọt vào mặt Vi Tiểu Bảo. Vi Tiểu Bảo đang mãi nghĩ kế, vô tình không kịp né tránh. Bãi nước bọt nhổ trúng vào giữa mặt. Mấy tên thân binh rút yêu đao ra xông vào gần Mao Thập Bát. Vi Tiểu Bảo xua tay nói: - Vụ này coi như bỏ đi, đừng làm khó dễ y nữa. Bọn thuộc hạ của Đa Long dẫn tới liền lấy khóa tay ra còng Mao Thập Bát lại. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm: - Hoàng thượng mà thân hành thẩm vấn Mai đại ca thì Ngài chưa hỏi được ba câu, tất đã sai lôi y ra chém đầu. Ta phải vào ra mắt Hoàng thượng lập tức. Bất luận bằng một giá nào cũng phải tìm cách cứu y cho bằng được. Gã nhìn Đa Long nói: - Tiểu đệ muốn vào bái kiến Hoàng thượng, tâu rõ nội tình, không nên cho hán tử thô lỗ này vào trước mặt long nhân để hắn gây chuyện với Hoàng thượng. Đoàn người kéo vào tới Hoàng cung, Vi Tiểu Bảo nghe nói Hoàng thượng đang ngồi trong Ngự thư phòng, liền xin vào ra mắt. Vua Khang Hy truyền cho vào. Vi Tiểu Bảo dập đầu làm lễ rồi đứng dậy. Đức Vua phán hỏi: - Người thóa mạ ngươi lại thóa mạ cả ta bữa nay ở ngoài đường phố phải chăng là hảo bằng hữu của ngươi? Vi Tiểu Bảo tâu: - Minh kiến của Hoàng thượng xét soi muôn dặm, chẳng có việc gì là thánh thượng phải đoán đến lần thứ hai. Nhà Vua hỏi: - Hắn cũng là người trong Thiên Địa Hội ư? Vi Tiểu Bảo tâu: - Y không chính thức vào hội, nhưng quen biết nhiều người trong tổ chức này mà lại rất khâm phục sư phụ của nô tài. Y nghe nói trong thánh chỉ của Hoàngthượng minh thị rõ r ệt là nô tài đã hạ sát sư phụ, tức quá không nhịn được, nên thống mạ nô tài một trận đáo để. Vua Khang Hy mỉm cười hỏi: - Có phải ngươi đã tuyên bố chặt đứt mối liên hệ với Thiên Địa Hội, không bao giờ lai vãng với bọn họ nữa? Vi Tiểu Bảo tâu: - Dạ! Lần này nô tài đi đánh bọn quỷ La Sát không đem theo một người nào trong Thiên Địa Hội. Nhà Vua hỏi: - Rồi đây nếu có bạn cũ ở Thiên Địa Hội đến kiếm ngươi thì ngươi xử sự như thế nào? Vi Tiểu Bảo tâu: - Nô tài quyết lánh mặt để tránh mọi điều bất tiện. Đức Vua gật đầu phán: - Trong cáo trạng ta đã hạ bút thêm hai tên Trần Cận Nam và Phong Tế Trung vào là đỡ cho ngươi được nhiều điều phiền phức. Tiểu Quế Tử! Một người không thể đứng trên hai thuyền. Ngươi đã hết lòng trung với ta, nhất tâm lo lắng công việc triều đình thì chẳng thể để Thiên Địa Hội dính líu vào được. Bằng ngươi quyết tâm làm hương chủ hay Tổng đà chúa ở Thiên Địa Hội là phải quyết chí phản ta. Vi Tiểu Bảo giật bắn người lên, quỳ xuống dập đầu tâu: - Nô tài nhất quyết không làm việc tạo phản. Hồi nhỏ tuổi nô tài chưa hiểu đạo lý có khi hành động hồ đồ, nhưng hiện nay đã hiểu sâu sắc đại nghĩa, thay mặt đổi lòng, hoàn toàn khác trước. Đức Vua gật đầu cười nói: - Thế thì hay lắm! Gã điên khùng bữa nay thóa mạ ở ngoài đường phố, ta giao cho ngươi sáng mai đem ra hành quyết và do ngươi giám trảm. Vi Tiểu Bảo dập đầu tâu:- Xin Hoàng thượng minh giám cho. Nô tài đến được Bắc Kinh làm thần t ử Hoàng thượng hoàn toàn do người này. ¥n ấy nô tài chưa đền đáp được, nay nô tài lớn mật thỉnh cầu Hoàng thượng đại xá cho y. Dù nô tài có phải bỏ hết công lao trong cuộc đi đánh bọn quỷ La Sát vừa rồi cũng cam lòng. Nô tài xin lùi lại làm Lộc Đỉnh hầu. Vua Khang Hy nghiêm sắc mặt hỏi: - Ngươi coi việc triều đình phong tước là trò đùa chăng? Ngươi được thăng thưởng lên hàng Nhất đẳng Lộc Đỉnh công là ơn điển của ta. Thế mà ngươi đem tước lộc phong cáo ra trả giá thì ngươi thật là lớn mật. Vi Tiểu Bảo dập đầu binh binh tâu: - Nếu Hoàng thượng coi đây là việc trả giá, nô tài cũng đành chịu. Lui xuống Lộc Đỉnh hầu mà chưa được thì xin lui đến Thông Cật bá, hay Thông Cật tử cũng không sao. Nhà Vua định hăm gã một phen cho gã biết luật lệ triều đình, không ngờ gã là kẻ tiểu nhân sinh trưởng ở nơi quê mùa. Tuy gã đã làm đến Nhất đẳng công, Đại tướng quân mà tính vô lại chưa thay đổi một chút nào. Nhà Vua vừa tức mình lại vừa buồn cười, quát bảo: - Con mẹ nó! Đứng lên đi! Vi Tiểu Bảo dập đầu lần nữa rồi đứng dậy Vua Khang Hy ngửng mặt lên nói: - Tổ bà nó! Lão gia mà mặc cả với ngươi thì ngươi xin lão gia nhiêu dung cho tên phản nghịch đó, phải đem cái thủ cấp của ngươi đánh đổi lấy cái đầu của hắn. Vi Tiểu Bảo mặt buồn rười rượi tâu: - Cuộc trả giá của Hoàng thượng dữ quá! Xin Hoàng thượng nới cho một chút. Nhà Vua đáp: - Được rồi! Ta chịu nhượng bộ ngươi một bước. Không cắt đầu ngươi thì cắt quả trứng để ngươi vào làm thái giám trong cung thật sự.Vi Tiểu Bảo năn nỉ: - Xin Hoàng thượng nới thêm cho. Nhà Vua đáp: - Không nới hơn được nữa. Ngươi không đi giết hắn tức là bất trung với ta. Còn ngươi đã trung trinh là trung trinh, bất trung là bất trung, làm gì có chuyện trả giá? Vi Tiểu Bảo tâu: - Nô tài đối với Hoàng thượng giữ vẹn lòng trung, đối với bạn bè coi nặng chữ nghĩa, đối với song thân hết lòng hiếu thảo, đối với thê tử một dạ từ ái... Nhà Vua cười khanh khách ngắt lời: - Ngươi nói vậy thì ra gồm đủ trung hiếu tiết nghĩa, bề nào cũng toàn vẹn. Hay lắm! Giỏi lắm! Đáng phục. Sáng mai cũng vào giờ này ngươi đem một cái thủ cấp vào đây ra mắt ta. Nếu không có thủ cấp của tên phản nghịch thì là thủ cấp của ngươi. Vi Tiểu Bảo không sao được đành ôm đầu lui ra. Đức Vua thấy gã ra đến cửa lại hỏi: - Tiểu Quế Tử! Ngươi có muốn trốn nữa không? Vi Tiểu Bảo tâu: - Lần này thì nô tài không dám trốn. Nô tài về nhà nằm vắt tay lên trán suy nghĩ cách nào làm cho Hoàng thượng vui dạ, lại giữ được nghĩa khí với bạn, mà cái đầu của nô tài vẫn bền vững. Vua Khang Hy cười nói: - Hay lắm! Lâu nay ta không thấy mặt Kiến Ninh Công chúa, rất tưởng nhớ y, đã sai đi đón y vào cung. Nhà Vua ngừng lại một chút rồi tiếp: - Còn sáu vị phu nhân của ngươi cũng theo Công chúa tiến cung triều kiến Thái hậu. Thái hậu phán rằng công lao của ngươi không phải là nhỏ, ngài muốn thưởng cho cả phu nhân và con cái ngươi.Vi Tiểu Bảo tâu: - Đa tạ ơn điển của Thái hậu cùng Hoàng thượng. Nô tài dù tan xương nát thịt cũng không đủ báo đền. Gã lùi ra hai bước, không nhịn được còn quay đầu lại tâu: - Tâu Hoàng thượng! Nô tài đã nói là Hoàng thượng là đức Phật Như Lai, nô tài là Tôn Ngộ Không thì muốn nhảy nhót thế nào cũng không ra khỏi lòng bàn tay Hoàng thượng được. Nhà Vua mỉm cười đáp: - Ngươi thần thông quảng đại bất tất phải khách sáo. Vi Tiểu Bảo ra khỏi cửa thư phòng, bất giác thở dài nghĩ bụng: - Hoàng thượng bắt giữ cả bảy mụ vợ cùng ba đứa con của ta thì dù ta có lớn mật trốn đi, cũng không thể bỏ được. Gã đang đi trên dãy hành lang, Đa Long lại đón vừa cười vừa nói: - Vi huynh đệ! Thái hậu triệu kiến các vị phu nhân cùng Công tử và Tiểu thư, chắc là ban thưởng rất nhiều. Tiểu huynh có lời cung hỷ. Vi Tiểu Bảo chắp tay đáp: - Đa ta đại ca! Đa Long mỉm cười nói: - Trước khi huynh đệ dẫn quân xuất chinh có dặn tiểu huynh đòi nợ cho thì nay đã đòi được bảy tám phần với những ngân phiếu cộng hai trăm sáu mươi mấy vạn lạng. Huynh đệ về phủ rồi tiểu huynh đưa sang. Vi Tiểu Bảo cười đáp: - Đại ca đòi được nhiều như vậy quả nhiên bản lãnh phi thường. Gã hằn học nói tiếp: - Tên tiểu tử Trịnh Khắc Sảng sát hại gia sư, khiến cho tiểu đệ đến nay hãy còn điên đầu. Tổ bà nó! Bữa nay tiểu đệ bị kẻ điên khùng thóa mạ ở ngoài đường phố cũng là do mối họa của Trịnh Khắc Sảng gây ra.Gã càng nói càng tức rồi bảo Đa Long: - Đa đại ca! Xin đại ca đem nhiều thủ hạ để chúng ta đến đòi nữa. Đa Long nghe gã nói tới vụ đến đòi nợ ở Trịnh phủ là một sự hoan lạc nhất của lão. Đã có Phủ viễn Đại tướng quân, Nhất đẳng Lộc Đỉnh công Vi Công gia hậu thuẫn, lão tha hồ mà ngang tàng, không còn úy kỵ gì nữa. Lão liền ưng chịu ngay. Đa Long dặn ngự tiền thị vệ phó tổng quản ở lại trong cung chầu chực rồi dẫn một trăm tên thị vệ đưa Vi Tiểu Bảo đến Trịnh phủ. Trịnh Khắc Sảng tuy cũng được phong công tước, nhưng so với công tước của Vi Tiểu Bảo thật khác nhau một trời một vực, vì một đằng là phiên vương phản nghịch, một đằng là đại công thần, đại hồng nhân trước giá Hoàng đế. Cũng là phủ Công tước nhưng thanh thế chẳng giống nhau chút nào. Tấm biển trên cổng lớn viết bốn chữ "Hải Trừng Công Phủ" nhưng là chữ đen, làm sao bằng được bốn chữ "Lộc Đỉnh Công Phủ" của Vi Tiểu Bảo khắc bằng chữ vàng? Vi Tiểu Bảo thấy thế, trong lòng đã mấy phần hoan hỷ, miệng nói: - Chiêu bài của tên tiểu tử này đâu có bằng được biển chữ vàng của ta. Bọn thị vệ thường đến Hải Trừng Công Phủ đòi nợ hai ba ngày một lần nên đã quen thuộc, không cần người gác cổng thông báo, chúng đi vào tự nhiên. Vi Tiểu Bảo ngồi giữa đại sảnh, Đa Long ngồi một bên. Trịnh Khắc Sảng nghe báo có Phủ viễn Đại tướng quân Vi Tiểu Bảo tới nơi, bất giác chân tay luống cuống, vì gã là đệ nhất khắc tinh của hắn trên đời này, nhưng hắn không dám tránh mặt, phải vội vã thay mặc công phục chạy ra nghênh tiếp. Hắn tiến đến trước mặt Vi Tiểu Bảo chắp tay thi lễ, miệng hô: - Vi đại soái! Vi Tiểu Bảo không thèm đứng dậy, vẫn ngồi bệ vệ, ngửa mặt lên trời khịt mũi một tiếng rồi nhìn Đa Long hỏi:- Đa đại ca! Tên tiểu tử Trịnh Khắc Sảng thật là vô lễ! Chúng ta đến đây hàng nửa ngày mà hắn không hỏi gì đến. Phải chăng hắn coi bọn chúng ta không vào đâu? Đa Long đáp: - Đúng thế! Giết người thì phải đền mạng, thiếu nợ thì phải trả tiền. Dù có rụt đầu rụt cổ như con rùa đen, rút cục vẫn không trốn tránh được. Trịnh Khắc Sảng tức giận đến cực điểm, nhưng phải cúi đầu luồn xuống mái nhà, vì hai người trước mặt hắn thì một người là Đại tướng quân trong tay giữ binh quyền, một người là Ngự tiền thị vệ Đô tổng quản. Còn hắn chẳng có quyền thế gì, đã là hàng thần lơ láo lại còn bị hiềm nghi. Tuy hắn tước vị tôn vinh mà thực ra ở vào tình trạng không bằng kẻ dân thường. Trịnh Khắc Sảng cố gắng nhẫn nại, hắng giọng một tiếng rồi hô: - Vi đại soái! Đa tổng quản! Hai vị mạnh giỏi a? Vi Tiểu Bảo từ từ cúi đầu xuống, ngó thấy trước mặt có một lão già khom lưng đứng đó. Đầu tóc lão đã hoa dâm, dung mạo cực kỳ tiều tụy. Gã nhìn kỹ thì người này tuổi chưa già, nhưng mặt buồn rười rượi, da mặt nhăn nheo. Túp râu dưới cằm cũng đã đốm bạc. Vi Tiểu Bảo chú ý nhìn lại, chẳng phải Trịnh Khắc Sảng thì còn là ai nữa? Mới mấy năm, gã chưa nhìn thấy mặt, mà nay tưởng chừng hắn đã già đi đến hai, ba chục tuổi. Ban đầu Vi Tiểu Bảo rất lấy làm kỳ, nhưng rồi gã hiểu ngay vì mấy năm nay hắn đau khổ nhiều quá thành ra :Dng già. Vi Tiểu Bảo không khỏi sinh lòng lân mẫn, nhưng gã nghĩ tới năm trước Trịnh Khắc Sảng đâm chết Trần Cận Nam ở Thông Cật đảo, nộ khí lại xông lên óc. Gã cười lạt hỏi: - Ngươi là ai? Trịnh Khắc Sảng đáp: - Tại hạ là Trịnh Khắc Sảng. Sao Vi đại soái không nhận ra?Vi Tiểu Bảo lắc đầu hỏi lại: - Trịnh Khắc Sảng nào? Trịnh Khắc Sảng đang làm Diên Bình Vương ở Đài Loan kia mà? Sao lại đến Bắc Kinh? Chắc ngươi giả mạo rồi. Trịnh Khắc Sảng đáp: - Tại hạ quy thuận Đại Thanh, chịu ơn của Hoàng thượng đã được hưởng tước lộc. Vi Tiểu Bảo nói: - ủa! Té ra là thế. Ngày trước các hạ ở Đài Loan nói khoác nói lác bảo đánh tới Bắc Kinh, bắt lấy Hoàng thượng, muốn sao được vậy. Những câu đó không kể đến nữa ư? Trịnh Khắc Sảng ớn lạnh xương sống, lưng toát mồ hôi, bụng bảo dạ: - Gã muốn buộc tội cho ta nên bịa đặt ra những câu này. Hoàng thượng lại nghe theo lời gã, quyết chẳng chịu tin ta. Từ ngày Đa Long dẫn bọn Ngự tiền thị vệ và quân sĩ Kiêu Kỵ Doanh đến quấy nhiễu không ngớt, Trịnh Khắc Sảng thật là lo buồn khổ sở, một ngày đằng đẵng xem bằng ba thu. Sản nghiệp của hắn khá lớn ở Đài Loan bán đi đem đến đây thì mười phần có đến tám, chín đã bị bọn chúng hạch xách lấy mất rồi, vì món tiền hơn hai trăm vạn lạng bạc lớn quá. Cả châu báu cùng đồ trang sức bán hết cũng không đủ trả nợ. Trong lòng hắn hối hận vô cùng. Nếu hắn biết trước thế này thì quyết chẳng đầu hàng Thanh triều. Trịnh Khắc Sảng còn cho là lúc Thi Lang đến đánh, nếu hắn dẫn quân cố sức tử chiến, chưa chắc đã bị thất bại. Dù không thắng thì liều mạng mà chết ngay trước trận cho khỏi tủi hổ với tổ phụ ở dưới suối vàng, lại không đến nỗi phải vô cùng khổ nhục như ngày nay. Vi Tiểu Bảo nói: - Đa đại ca! Trịnh vương gia đây ngày trước oai phong tứ diện, lẫm liệt tám phương. Mới đây tiểu đệ còn nghe nói có người đến tiếp rước Vương gia về Đài Loan, lên ngôi vương vị trở lại. Rồi gã hỏi Trịnh Khắc Sảng:- Trịnh Vương gia! Người đến đón tiếp Vương gia là ai vậy? Tiểu đệ muốn điều tra cho biết rõ đặng tâu lên Thánh thương. Trịnh Khắc Sảng cất tiếng run run đáp: - Vi đại soái! Xin đại soái nương tay cho tại hạ được nhờ. Câu chuyện mà đại soái vừa nói đó... hoàn toàn... không đúng sự thật... Vi Tiểu Bảo ngắt lời: - Ô hay! Thế này thì kỳ thật! Gã quay lại hỏi Đa Long: - Đa đại ca! Có phải hôm qua chúng ta túm được một tên bạn đồ không? Tên lớn tiếng thóa mạ Hoàng thượng rồi chửi bới tiểu đệ. Hắn nói là bộ thuộc cũ của Trịnh vương gia... Gã dừng lại một chút rồi nói tiếp: - Tên đó còn bảo Trịnh Vương gia ở Bắc Kinh bị người ta khinh thường, nên đến báo thù cho y, và giết hết những gì Mãn Thanh, Thát Đát. Trịnh Khắc Sảng nghe tới đây đứng không vững được nữa, quỳ hai gối xuống, cất giọng run run năn nỉ: - Xin Vi đại soái tha mạng cho! Tiểu nhân trước kia đắc tội với đại soái thật đáng muôn thác. Nhưng lão nhân gia đại nhân đại lượng, mở cho tiểu nhân một đường sinh lộ. Tiểu nhân cầu khẩn Hoàng thiên bảo hựu cho lão nhân gia công hầu vạn đại. Vi Tiểu Bảo cười lạt hỏi: - Ngày trước các hạ lúc hạ sát sư phụ ta có nghĩ tới bữa nay không? Đột nhiên một người từ hậu đường rảo bước tiến ra. Người này cao mà gầy, vẻ mặt rất tinh anh. Lão chính là Nhất kiếm vô huyết Phùng Tích Phạm. Phùng Tích Phạm sấn vào bên Trịnh Khắc Sảng, kéo hắn đứng dậy rồi nhìn Vi Tiểu Bảo nói:- Vụ giết Trần Cận Nam ngày trước hoàn toàn là chủ ý của tại hạ, chẳng liên quan gì đến Trịnh Công gia. Các hạ muốn báo thù cho sư phụ thì cứ việc hỏi tại hạ là xong. Vi Tiểu Bảo trước nay vẫn đem lòng úy kỵ Phùng Tích Phạm, bây giờ thấy lão hùng hùng hổ hổ, bất giác toàn thân gã co rúm lại ngồi trong ghế. Gã ấp úng hỏi: - Các hạ... muốn đánh người chăng? Đa Long cũng nhảy bổ lên hô: - Quân bay đâu? Lập tức mười mấy tên thị vệ kéo ùa vào. Vi Tiểu Bảo thấy bên mình đông người thế mạnh mới yên lòng, gã lớn tiếng hô: - Những người này ở kinh sư lớn mật hành hung. Hãy bắt lấy hắn! Bốn tên thị vệ đồng thời vươn tay nắm lấy cánh tay Phùng Tích Phạm. Phùng Tích Phạm vẫn không kháng cự, dõng dạc nói: - Bọn tại hạ đã quy hàng triều đình., Hoàng thượng phong Trịnh Công gia làm Hải Trừng công, lại phong tại hạ làm Trung Thành bá, kim khẩu của Hoàng thượng đã tuyên bố, bao nhiêu chuyện cũ đều bỏ đi hết quyết không hỏi tới. Vi đại soái! Đại nhân mượn việc công để báo tư thù, đổ oan cho người ngay. Bọn tại hạ phải đến giãi bày trước Hoàng thượng. Vi Tiểu Bảo cười lạt đáp: - Phùng đại nhân là người ngay, là hảo nhân! Ha ha! Bữa nay tại hạ mới được nghe nói lần đầu Nhất kiếm vô huyết Phùng Tích Phạm Phùng đại nhân là một đại hảo nhân. Phùng Tích Phạm nói: - Bọn Phùng mỗ từ ngày đến Bắc Kinh, yên phận thủ thường, chưa từng giao thiệp với một người nào, nhất là không tơ hào dám vi phạm vương pháp. Những vị thị vệ đại nhân không ngớt đến đây xòe tay đòi tiền khiến bọn tại hạ phải khuynh gia bại sản để ứng phó, nhưng những cái đó cũng không đáng kể. Nay Vi đại soáilại muốn bịa chuy ện để khép tội bọn tại hạ, Đức Hoàng thượng sáng soi muôn dặm, e rằng không phải chuyện đại nhân muốn ghép tội cho ai cũng được. Lão là người có đởm lược lại có kiến thức chứ không ngu ngốc như Trịnh Khắc Sảng. Lão nói năng cứng rắn một hồi khiến cho Vi Tiểu Bảo trong lúc nhất thời khó bề biện bác. Gã nghĩ thầm: - Hai người này tuy là hàng nhân ở Đài Loan, nhưng đã được triều đình phong tước, dĩ nhiên khó mà lấn áp. Nếu mình muốn phản tọa bọn họ thì đức Hoàng thượng chỉ hỏi mấy câu là lập tức biết rõ ngọn ngành. Hoàng thượng mà điều tra được mình có ý báo thù cho sư phụ, nhất định khép tội. Lòng gã nhũn ra rồi, nhưng ngoài miệng vẫn cứng, gã hỏi: - Hôm qua bọn ta bắt được tên phản nghịch. Chính hắn cung xưng thừa nhận là đến rước Trịnh vương gia về Đài Loan, chẳng lẽ còn giả được ư? Phùng Tích Phạm đáp: - Hạng người đó tùy tiện nói càn tin thế nào được? Xin Vi đại soái đưa người đó đến đây. Bọn tại hạ sẽ cùng hắn lên hình bộ đối chất. Vi Tiểu Bảo hỏi: - Phùng đại nhân muốn đối chất ư? Thế thì hay lắm! Thế là tuyệt diệu! Gã quay sang hỏi Trịnh Khắc Sảng: - Trịnh vương gia! Chỗ tiền mà vương gia thiếu tại hạ đến bao giờ mới thanh toán? Phùng Tích Phạm nghe Vi Tiểu Bảo đánh trống lảng, lại quan hình đoán sắc đoán ra gã sợ Hoàng thượng hay biết vụ này. Lão nghĩ bụng: - Cơ sự đã như vậy ta phải đánh bạo đưa ra trước Hoàng đế. Hoàng đế tuy nhỏ tuổi nhưng rất đỗi anh minh nhất định ngài phân biệt được ai phải ai trái ai gian ai ngay. Nếu ta không nhân cơ hội này làm cho ra lẽ thì rồi đây còn phải phiền lụy vô cùng! Gã tiểu tử họ Vi này bức bách chúng ta đến bước đường cùng, không thể nhượng bộ được nữa. Gã dồn bọn ta vào chân tường thì ta quyết liều với hắn một phen rồi ra sao thì ra.Quyết định chủ ý rồi, lão nói: - Vi đại soái! Đa tổng quản! Bọn tại hạ phải làm cáo trạng. Vi Tiểu Bảo giật bắn người lên, bụng bảo dạ: - Hắn mà đưa cáo trạng đến Hoàng đế thì thật rầy rà cho mình. Nhưng ta chẳng thể tỏ ra khiếp nhược. Gã liền đáp: - Hay lắm! Các vị huynh đệ! Bắt cả họ Trịnh này đưa đi! Đa Long không khỏi ngần ngừ, Trịnh Khắc Sảng đã được phong công tước, đến đòi tiền hắn thì không sao, nhưng muốn bắt hắn mà chẳng có chỉ dụ của triều đình thì không được. Lão liền khẽ đáp: - Vi đại soái! Chúng ta hãy tâu Hoàng thượng trước rồi hãy bắt người. Trịnh Khắc Sảng yên tâm được một chút, liền hỏi: - Tại hạ có phạm tội gì đâu mà các vị lại muốn bắt tại hạ?
__________________
![]() Hãy cười để liều lĩnh chấp nhận mình như một... người ngớ ngẩn. Hãy khóc để liều lĩnh chấp nhận mình như một người đa cảm. Hãy đến với người khác để liều lĩnh đón nhận sự mắc míu. Hãy phơi bày những cảm xúc để chấp nhận con người thật của chính mình. Hãy định đặt những ước mơ trước vầng mây để liều lĩnh đón nhận lời giễu cợt. Hãy yêu - bởi biết đâu không có tình yêu như thế trở lại lần thứ hai... Hãy dũng cảm đối mặt với những khó khăn và rồi liều lĩnh chấp nhận rủi ro.Nhưng những sự liều lĩnh ấy phải cần có bởi vì mối nguy hiểm nhất trong cuộc đời chính là không có sự liều lĩnh. Nếu ai không liều lĩnh, sẽ không có gì, không làm được gì và không là gì cả! |
|
#239
|
||||
|
||||
|
Lộc Đỉnh Ký
Hồi 243 Giận Lão Phùng Lo Mưu Tẩy Oán Vi Tiểu Bảo liền thuận gió dương buồm đáp: - Vương gia có phạm tội hay không bây giờ chưa thể biết được. Có điều Vương gia còn thiếu nợ tại hạ chưa thanh toán xong thì tính sao đây? Vương gia định trả tiền hay là đi theo tại hạ? Trịnh Khắc Sảng nghe chừng có thể khỏi bị bắt liền nói ngay: - Tại hạ xin trả tiền! Tại hạ xin trả tiền! Hắn vội tiến vào nội đường lấy một tập ngân phiếu. Đồng thời hai tên gia đinh bưng ra một cái mâm đựng kim ngân và đồ trang sức. Trịnh Khắc Sảng nói: - Vi đại soái! Ty chức dốc hết cả hòm xiểng mới được chừng tám, chín vạn lạng bạc. Hiện giờ thực tình không đào đâu ra được nữa. Vi Tiểu Bảo hỏi: - Không đào đâu ra được nữa ư? Tiểu đệ không tin như vậy. Vương gia đưa tiểu đệ vào tìm kiếm xem sao. Trịnh Khắc Sảng ngập ngừng đáp: - Cái đó... cái đó... có điều không tiện. Phùng Tích Phạm tức quá lớn tiếng: - Bọn tại hạ không phạm vương pháp mà Vi đại soái đòi khám xét trong nhà thì có Thánh chỉ hay văn thư của Hình bộ đại đường không? Vi Tiểu Bảo cười đáp: - Đây không phải là chuyện khám nhà. Nhưng Trịnh vương gia bảo không đào đâu ra được một phân bạc nào nữa, tại hạ nhận thấy Vương gia còn có tiền bạc, e rằng y đem vàng bạc châu báu cất dấu trong bí thất, không chừng còn đao thương võ khí, áo long bào long cổn gì cũng nên. Trong lúc nhất thời y không kiếm thấy, nên bọn tại hạ vào kiếm dùm. Trịnh Khắc Sảng nói: - Khi nào tại hạ dám dấu... long bào long cổn gì gì đâu? Hơn nữa ty chức mới là công tước, vậy chẳng khi nào dám nhận hai chữ "Vương gia" mà đại soái xưng hô. Ty chức xin đại soái miễn cách xưng hô đó. Vi Tiểu Bảo nhìn Đa Long nói: - Đa đại ca! Xin đại ca kiểm điểm xem chỗ đó cộng được bao nhiêu? Đa Long và hai tên thị vệ kiểm ngân phiếu rồi đáp: - Tập ngân phiếu cộng được năm vạn bốn nghìn ba trăm lạng bạc. Còn một ít đồ nữ trang thì Đa mỗ không biết thế nào mà đánh giá. Vi Tiểu Bảo thò tay vào món trang sức đảo lộn mấy cái, cầm một cành kim phụng thoa giơ lên làm bộ giật mình kinh hãi hỏi: - Trời ơi! Đa đại ca! Sự vật này phạm cấm điều. Đức Hoàng thượng là rồng. Chính cung nương nương là phụng. Sao... sao Vương phi của Trịnh vương gia cũng xài Kim phụng thoa? Phùng Tích Phạm tức giận lại lớn tiếng: - Vi đại soái! Đại soái bới lông tìm vết để ghép chúng ta vào vòng tội lỗi. Bữa nay Phùng mỗ đành phải liều mạng với đại soái. Vàng bạc cùng đồ trang sức trong các tiệm ở khắp thiên hạ còn tiệm nào không có những cành thoa hình chim phượng? Nữ quyến ở các nhà quan lại trong thành Bắc Kinh còn ai không cài kim phụng thoa? Vi Tiểu Bảo nói: - Té ra Phùng đại nhân đã coi hết nữ quyến các nhà quan tư ở thành Bắc Kinh. ồ! Vậy Phùng đại nhân bảo các vị thái thái cùng tiểu thư nhà ai đẹp nhất? Gã tặc lưỡi mấy tiếng nói tiếp: - Thật là lợi hại! Thật là ghê gớm! Được coi nữ quyến hết mọi nhà quyền quý trong thành thì nhãn phước không ai bì kịp! Vương phi của Khang Thân vương, tiểuthư ái nữ của quan Binh bộ Thượng thư Minh Châu, Phùng đại nhân cũng nhìn thấy rồi chứ? Phùng Tích Phạm tức quá không nói nên lời mà trong lòng quả cũng khiếp sợ. Lão biết gã thiếu niên này giao du thân mật với hết các nhà quyền quý đồng triều. Nếu gã thêm dầu thêm mỡ đồn đại vụ này ra ngoài thì thật phiền cho lão. Trịnh Khắc Sảng không ngớt khom lưng xá dài nói: - Vi đại nhân! Nhất thiết xin đại nhân bảo toàn cho. Ty chức năn nỉ đại nhân dung tình. Vi Tiểu Bảo thấy mình nói mấy câu khiến cho Phùng Tích Phạm khiếp sợ không dám lên tiếng nữa. Gã cười ha hả bảo Đa Long: - Đa đại ca! Thể diện của tiểu đệ còn kém đại ca xa lắm. Đa đại ca đòi nợ được hơn hai trăm vạn lạng bạc, mà chính tiểu đệ thân hành xuất mã lại chỉ được một chút thế này. Trịnh Khắc Sảng đáp: - Thực tình trong nhà ty chức không còn chút gì nữa, quyết chẳng khi nào... dám quịt nợ. Vi Tiểu Bảo nói: - Chúng ta về thôi! Chừng mười ngày hay nửa tháng, người nhà Trịnh vương gia ở Đài Loan sẽ vận chuyển vàng bạc đến, chúng ta lại tới đòi. Gã nói rồi đứng dậy ra khỏi sảnh đường. Phùng Tích Phạm nghe giọng Vi Tiểu Bảo thấy câu nào gã cũng cố ý vu hãm Trịnh Khắc Sảng vào việc mưu đồ phản loạn và vẫn liên kết với bộ hạ cũ ở Đài Loan. Đây là một trọng tội đưa đến chỗ diệt tộc. Nếu không biện minh thì suốt đời bị uy hiếp, khó lòng làm người được. Lão liền dõng dạc nói: - Bọn Phùng mỗ luôn luôn giữ đạo công bằng, tuân theo phép nước, chẳng bao giờ dám bước lệch lạc ra ngoài khuôn phép. Bữa nay Vi đại soái cùng Đa tổng quản đã nói những gì ở đây, bọn Phùng mỗ phải nhất nhất tâu bày lên đứcHoàng thượng. Nếu không thì vòm trời tuy rộng bát ngát mà bọn tại hạ không còn đất đứng. Vi Tiểu Bảo cười hỏi: - Các vị muốn đất đứng ư? Có chứ, có chứ! Trịnh vương gia! Phùng tướng quân! Các vị trở về Đài Loan, há chẳng là một khu vực rất lớn để các vị đặt chân? Hai vị đang thương nghị về việc tìm đất đứng, vậy bọn tại hạ không dám quấy nhiễu nữa. Rồi gã dắt tay Đa Long băng băng đi ra cửa. Vi Tiểu Bảo về đến phủ, lập tức truyền mở tiệc rượu, mời đoàn thị vệ ăn uống. Đa Long sai thủ hạ đem bốn chiếc rương vào mở ra, trong đựng toàn bạc vàng châu báu và một tập ngân phiếu. Lão cười nói: - Đòi nợ mấy tháng trời khiến cho gia sản của tên tiểu tử Trịnh Khắc Sảng mất quá nửa vào chỗ này. Vi huynh đệ! Huynh đệ kiểm điểm lại rồi thu nhận lấy. Vi Tiểu Bảo lấy tập ngân phiếu ước chừng mười mấy vạn lạng đưa ra nói: - Tên cẩu tặc này sát hại gia sư, nhưng hắn được Hoàng thượng phong cho tước vị, mối thù của tiểu đệ không thể trả được. Đa tạ đại ca cùng chúng vị huynh đệ chỉnh hắn một phen thê thảm, khiến tiểu đệ cũng hả lòng. Gia sư không có gia quyến, số bạc này chẳng dùng làm gì. Tiểu đệ trích một phần cho người đến Đài Loan xây cất một ngôi từ đường lớn để thờ phụng ân sư. Còn bao nhiêu xin đại ca và chúng vị huynh đệ chia nhau. Đa Long xua tay lia lịa đáp: - Không được đâu! Không được đâu! Đây là tiền Trịnh Khắc Sảng thiếu nợ huynh đệ. Hàng ngày huynh đệ sai mấy tên thân binh đến gõ cửa nhà hắn đòi nợ, dĩ nhiên hắn phải trả. Bọn tiểu huynh làm giúp huynh đệ một việc nhỏ mọn phỏng có chi đáng kể? Chúng ta đã là người một nhà, khi nào còn lấy tiền của huynh đệ? Vi Tiểu Bảo cười nói:- Chẳng dấu gì đại ca: Sản nghiệp của tiểu đệ rất dư giả, tha hồ xài không hết. Đã là hảo bằng hữu thì có tiền cùng xài, sao còn nói đến chuyện riêng tây? Đa Long nhất định không chịu thu nhận. Hai người tranh luận đến đỏ mặt tía tai. Sau cùng bọn thị vệ phải lấy một trăm vạn lạng bạc gọi là thảo trái phí. Còn bao nhiêu Đa Long thân hành đem vào nội đường ở Vi phủ. Cả những thị vệ thường trực ở trong cung cũng được chia phần, mỗi người mấy ngàn lạng. Bọn thị vệ sung sướng hoan hô nhiệt liệt. Cơm no rượu say rồi, chúng mở bàn bài cẩu và bàn xúc xắc đánh ngay ở nhà đại sảnh trong phủ Công tước. Mọi người đánh bạc cho đến canh hai, Vi Tiểu Bảo nhìn Đa Long nói: - Đa đại ca! Tiểu đệ còn muốn phiền đại ca giúp cho một việc. Đa Long đang hồi vận đỏ, trong lòng khoan khoái, cười đáp: - Được rồi! Bất luận việc gì, huynh đệ cứ cho hay là được. Nhưng lão chợt nhớ tới điều gì, nói tiếp: - Chỉ có một điều chẳng thể làm xong là tên hán tử điên khùng chửi bới ngoài đường phố, Hoàng thượng đã truyền cho tiểu huynh phải phòng thủ nghiêm mật để sáng mai đưa ra pháp trước hành hình, do huynh đệ làm giám trảm. Nếu tiểu huynh vị tình riêng mà buông tha hắn, tất Hoàng thượng sai chém đầu mình. Vi Tiểu Bảo quả nhiên định ủy thác lão về vụ này, ngờ đâu lão đã chặn đầu trước... gã nghĩ bụng: - Đức Hoàng thượng thần cơ diệu toán, việc gì cũng tiên liệu được. Mình chịu bỏ ra một trăm vạn lạng bạc để mua mạng sống cho Mao đại ca mà không xong. Trong lòng căm hận, gã lại muốn đến nhà Trịnh Khắc Sảng đòi nợ, nhưng nghĩ tới tình trạng suy đồi của hắn và đã hành hạ, vũ nhục hắn đến cùng cực. Nếu còn đi uy hiếp một kẻ khốn cùng sao phải đấng anh hùng? Trong lòng xoay chuyển ý nghĩ, ngoài miệng gã đáp:- Về vụ hán tử điên khùng, Hoàng thượng đã thân hành dặn bảo, tiểu đệ dù lớn mật đến đâu cũng chẳng dám buông tha y. Gã dừng lại một chút rồi tiếp: - Bữa nay chúng ta đến đòi nợ Trịnh Khắc Sảng như vậy là đủ rồi. Chỉ còn tên thủ hạ của hắn là Phùng Tích Phạm. Con mẹ nó! Thằng cha này đáo để thật! Chúng ta đều bị nó khinh khi. Cái giận này tiểu đệ không nuốt trôi được. Mấy tên thị vệ đứng bên nghe Vi Tiểu Bảo nói vậy liền đồng thanh phụ họa: - Bọn tiểu nhân bữa nay thấy cử động cùng lời nói của lão Phùng cũng tức đầy ruột. Vi đại soái bất tất phải phiền lòng. Để bọn tiểu nhân sấn đến nhà lão hỏi tội. Lão bất quá là một tên bại tướng đầu hàng mà dám sinh cường ở giữa thành Bắc Kinh này thì bọn tiểu nhân chẳng hóa ra vô dụng? Bọn thị vệ càng nói càng hậm hực, những muốn đến Bá tước phủ ngay lập tức để hành hung Phùng Tích Phạm. Vi Tiểu Bảo đáp: - Chúng ta có đi làm tội con rùa đó thì không nên ra mặt để các quan hay biết. Lỡ ra họ làm bản tấu lên Hoàng thượng thì thanh danh của Ngự tiền thị vệ không khỏi bị tổn thương. Đa Long cũng nói theo: - Đúng lắm! Đúng lắm! Huynh đệ lo xa như thế là phải. Vi Tiểu Bảo lại nói: - Đa đại ca cũng đừng xuất mã, xin Trương đại ca và Triệu đại ca, hai vị dẫn anh em đi. Gã quay lại nhìn Trương Khang Niên và Triệu Tề Hiền dặn: - Các vị mạo xưng là thủ hạ của Thái đô thống ở Tiền Phong doanh nói là có công vụ khẩn cấp mời con rùa Phùng Tích Phạm đến thương nghị. Lão con rùa dù có sinh dạ hoài nghi cũng vẫn phải đi. Hai vị đưa hắn đến nửa đường rồi xích tay khóa chân lại, dùng vải đen bịt mắt lão, cả miệng cũng nhét hạt thị vào. Hai vị đưa lão ra phía đông thành rồi lại quanh sang phía tây, đi vòng vèo một lúc, sau cùnghãy đưa tới đây. Đến lúc đó các huynh đệ đánh lão một trận nhừ đòn, lột hết quần áo rồi đưa đến bỏ trên giường di thái thái của Thái đô thống. Bọn thị vệ nghe gã nói tới đây không nhịn được phải phì cười và đều khen là diệu kế. Bọn Ngự tiền thị vệ và bọn quan binh Tiền Phong doanh trước nay vốn có chuyện bất hòa, chạm trán nhau thường gây cuộc ẩu đả. Đa Long và Thái đô thống tranh đấu ra mặt cũng có, ngấm ngầm cũng có, nhưng thủy chung trong bảy, tám năm trời chẳng ai làm gì được ai. Đa Long lại càng khoan khoái, xen vào: - Lão Thái sợ vợ quá. Lão lấy tỳ thiếp mà không dám đưa về nhà. Mới đây lại cưới đệ bát phòng di thái để ở hẻm Điềm Thủy. Ban đêm lão thái cũng không dám đến đó ngủ. Chúng ta mà đem Phùng Tích Phạm lột hết quần áo đến bỏ trên giường tân di thái của lão thì lão tức đến bể mật. Dù lão có nghi ngờ bọn ta dở trò quỷ nhưng anh em đừng ai tiết lộ phong thanh, lão vẫn chẳng làm gì được. Bọn thị vệ liền bỏ hết huy hiệu thị vệ trên người ra. Chúng hể hả kéo nhau đi ngay. Vi Tiểu Bảo cùng Đa Long ngồi ở sảnh đường uống rượu chờ đợi. Vi Tiểu Bảo lại sai thân binh chia thành từng tốp ra ngoài do thám. Lát sau có tin về báo: - Đoàn thị vệ đã đến trước Trung Thành bá phủ gọi cửa xin ra mắt. Phùng Tích Phạm thân hành ra đón tiếp, mời mọi người vào uống trà. Trương Khang Niên cho lão hay là vâng lệnh Thái đô thống đến thương nghị tức khắc vì có tin báo quân tình khẩn cấp ở Đài Loan. Phùng Tích Phạm lên kiệu đi ngay. Anh em thị vệ đưa hắn ra phía tây thành và đã khóa tay xích chân lão rồi, lại bắt hết bọn tùy tùng của lão. Đoàn người đi về phía bắc, gặp bọn lính canh của phủ Cửu môn đề đốc chặn hỏi. Triệu Tề Hiền lớn tiếng đáp:- Đây là đội Tiền Phong doanh. Phùng Tích Phạm trong kiệu nhất định cũng nghe rõ. Đoàn người đang đi về phủ này. Sau khoảng thời gian cháy tàn nén hương, đoàn thị vệ áp giải Phùng Tích Phạm đến. Trương Khang Niên lớn tiếng hô: - Khải bẩm Thái đô thống! Đã giải phạm quan Phùng Tích Phạm về đây. Vi Tiểu Bảo nắm tay lại thành quyền ra hiệu đánh đi. Bọn thị vệ lớn tiếng la: - Phạm quan Phùng Tích Phạm thông đồng với bọn phản nghịch, âm mưu bất pháp. Thái đô thống ra lệnh khảo đả! Phùng Tích Phạm võ công cao cường lại là người cơ cảnh. Ngay lúc bọn thị vệ mạo xưng là quan binh Tiền Phong doanh đến mời, lão đã nhìn ra có chỗ không đúng. Nếu lão muốn trốn thoát thì bọn thị vệ tuy đông người nhưng nhất quyết không thể bắt được. Song sau khi đầu hàng được phong bá tước, lão đinh ninh dù đối phương cố ý hãm hại, nhưng đức Hoàng thượng anh minh sẽ phân rõ gian ngay. Nếu hắn trốn chạy cho thoát thân thì không khỏi mang tiếng sợ tội nên mới trốn tránh và từ đây bao nhiêu tước lộc vinh hiển đều trôi theo dòng nước. Lão nghĩ vậy nên chẳng kháng cự gì hết. Phùng Tích Phạm vì tham đồ phú quý mà để mình là một tay cao thủ võ lâm đương thời cho bọn thị vệ đánh đến thừa sống chí chết. Vi Tiểu Bảo nhìn lão mũi đổ máu tươi, nội thương trầm trọng, cảm thấy khoan khoái trong lòng vì mối thù giết sư phụ coi như đã trả được phân nửa. Gã sợ tiếp tục đánh nữa có khi chết người, liền xua tay ra hiệu cho thị vệ dừng lại. Gã lại sai thân binh lột hết quần áo Phùng Tích Phạm, dùng một tấm chiếu quấn lấy người lão. Lúc này Phùng Tích Phạm chỉ còn thoi thóp thở, không biết gì nữa.Đa Long cười nói: - Bây giờ đưa đến nhà Bát di thái mà bỏ. Triệu Tề Hiền cười nói: - Hay hơn nữa là lột trần cả Bát di thái của lão Thái rồi cột hai người vào với nhau. Bọn thị vệ khoái trá reo lên: - Hay tuyệt! Đa Long muốn được coi Bát di thái của Thái đô thống thân thể lõa lồ, liền cười nói: Lần này để ta đi hướng dẫn anh em. Mấy người khiêng Phùng Tích Phạm lên toan xuất phát thì đột nhiên hai tên thân binh chạy vào trước mặt Vi Tiểu Bảo báo cáo: - Khải bẩm đại soái! Ngoại trạch của Thái đô thống trong hẻm Điềm Thủy hiện đang xẩy cuộc náo loạn đánh nhau đến trời long đất lở. Mọi người đều giật mình kinh hãi, tự hỏi: - Sao lại tiết lộ phong thanh để Thái đô thống biết mà phòng bị? Vụ này hỏng bét rồi. Vi Tiểu Bảo hỏi: - Những ai đánh lộn? Một tên thân binh đáp: - Bọn tiểu nhân tám tên vâng tướng lệnh của đại soái đến do thám mặt trước mặt sau hẻm Điềm Thủy bỗng thấy một đội nương tử quân chừng ba, bốn chục người... Vi Tiểu Bảo chau mày ngắt lời: - Nương tử quân là cái gì? Tên thân binh đáp:- Trình đại soái: Đội người này toàn là nữ nhân bàn chân to tướng. Người thì cầm Cán miến côn kẻ thì dùng Tẩy y bổng. Lại có người cầm dóng cửa, đòn gánh xông vào ngoại trạch của Thái đô thống đánh loạn xà ngầu. Họ lôi bọn tiểu cô nương rất xinh đẹp ra rồi dùng bì tiễn quất lấy quất để. Vi Tiểu Bảo và Đa Long nhìn nhau kinh hãi chẳng hiểu nguyên nhân ra làm sao. Vi Tiểu Bảo giục: - Đi do thám nữa xem sao. Hai tên thân binh dạ một tiếng toan chạy ra cửa thì toán do thám thứ hai chạy về báo: - Bẩm đại soái! Thái đô thống cưỡi khoái mã đã đến hẻm Điềm Thủy. Quần áo lão mặc không chỉnh tề, một chân xỏ giầy một chân không. Người thống lĩnh đội nương tử quân đến đánh hẻm Điềm Thủy chính là Thái đô thống phu nhân. Mọi người nghe nói phá lên cười. Tên thân binh nói tới đây, chính hắn cũng không nhịn được phải rũ ra mà cười, sau mới nói tiếp: - Vị thái thái đó nắm lấy Thái đô thống tát hai cái vào mặt rồi lại đá thêm một cước, coi khiếp quá! Thái đô thống phải khom lưng xá dài năn nỉ: - "Thái thái hãy bớt giận! Thái thái hãy bớt giận!" Vi Tiểu Bảo và bọn thị về cười hô hố. Hai người biết Thái đô thống phu nhân nổi cơn ghen nên đến đánh ngoại trạch của lão. Đa Long khoa chân múa tay nói: - Có thế mới đáng đời lão Thái. Vi Tiểu Bảo chợt động tâm cơ nói: - Đa đại ca! Đại ca thống lãnh nhân mã đến giàn xếp đi. Thế là từ nay đại ca nắm được tóc lão Thái và đội Tiền Phong doanh của lão cũng không dám đối nghịch với bọn Ngự tiền thị vệ chúng ta nữa.Đa Long nghe Vi Tiểu Bảo nhắc nhở mừng quá, đưa tay lên gõ vào trán mình đánh "cốp" một tiếng rồi cười nói: - Tiểu huynh thật là hồ đồ. Gặp cơ hội tốt này sao không chụp lấy? Anh em ơi! Chúng ta đi coi nhiệt náo. Lão thống lãnh đoàn thị vệ chạy thẳng đến hẻm Điềm Thủy. Vi Tiểu Bảo thấy Phùng Tích Phạm nằm thẳng cẳng dưới đất bụng bảo dạ: Đã đến thế này thì ta phải nghĩ cách khác để xử trí lão con rùa. Hai tay chắp để sau lưng, gã bước lui rồi lại bước tới trong sảnh đường, lẩm bẩm một mình: - Trời sáng là ta phải đi giết Mao đại ca. Biết làm thế nào để cứu mạng y? Cướp pháp trường ở Đại Danh phủ thì không được rồi. Pháp trường, pháp trường... Đột nhiên gã tới tuồng tích "Pháp trường hoán tử", bất giác bụng bảo dạ: - Phải rồi! Tiết Cương gây nên tai vạ, toàn gia bị xử trảm. Có lão già râu bạc là Từ gì đó đem con mình ra pháp trường đổi lấy tên Tiết gì đó... Vi Tiểu Bảo coi hát rất nhiều, tuy gã không nhớ tên những vai trò, nhưng tuồng tích lại nhớ rất rõ. Sau khi nghĩ tới tấn "Pháp trường hoán tử" gã liền tưởng nhớ đến vở tuồng "Sưu cô cứu cô". Trong thiên cố sự này có người râu đen tên gọi Trình Anh đem con mình ra đổi lấy con chủ. Lão để con mình chết đặng cứu mạng cho tiểu chủ nhân. Rồi gã tự nhủ: - Cái này không được. May mà Mao đại ca ra ngoài lứa tuổi với con ta, không thì ta phải đem Hổ Đầu, Đồng Trùy ra pháp trường để chịu chết đặng đổi lấy Mao đại ca. Nói vậy thì nói, tình bằng hữu tuy thâm trọng, nhưng sự tình này chắc ta không dám mà cũng không phải làm. Hay lắm! Hay lắm! Gã vung cước đá vào Phùng Tích Phạm một đòn khá nặng, rồi nói:- Vận khí lão còn khá lắm! Vi đại soái thu lão làm con hờ. Vi đại soái không bỏ được con ruột để đem đổi mạng. Còn con hờ thì tha hồ. Gã liền gọi đội trưởng thân binh vào dặn dò mật kế. Gã thưởng cho hắn một ngàn lạng bạc và giao một ngàn lạng bạc để hắn chia cho những thân binh cộng sự trong vụ này. Tên đội trưởng khom lưng tạ ơn nói: - Xin đại soái cứ yên tâm. Nhất thiết tiểu nhân làm được ổn thỏa, quyết không lầm lỡ. Vi Tiểu Bảo an bài xong đâu đấy rồi đi vào nội đường. Bảy vị phu nhân cùng con trai con gái đều được Thái hậu triệu vào cung. Trong nhà vắng ngắt, Vi Tiểu Bảo để nguyên áo nằm xuống giường nghỉ. Chẳng bao lâu trời đã sáng rõ. Vào khoảng giờ thìn, trong cung có chỉ dụ đưa ra nói: - "Giang dương đại đạo là Mao Thập Bát đại nghịch vô đạo, nhục mạ đại thần phải đem hành quyết". "Phái Phủ Viễn đại tướng quân, Nhất đẳng Lộc Đỉnh Công Vi Tiểu Bảo làm giám trảm". Vi Tiểu Bảo tiếp thượng dụ xong ra ngoài cửa phủ điểm thân binh. Bỗng thấy Đa Long dẫn mấy chục tên ngự tiền thị vệ áp giải Mao Thập Bát tới nơi. Mao Thập Bát mũi sưng, mắt tím, mặt đầy những máu. Hiển nhiên hắn đã phải chịu khổ hình, nhưng thái độ rất quật cường. Hắn vừa thấy Vi Tiểu Bảo lại lớn tiếng thóa mạ: - Vi Tiểu Bảo! Mi là một tên hán gian vô liêm sỉ. Bữa nay lão gia phải ra pháp trường chịu chém mà ngươi làm giám trảm quan. Lão gia chết chẳng có chi oan uổng. Ai bảo lão gia ngày trước đui mắt vào ổ điếm ở Dương Châu dắt tên tiểu hán gian đưa tới Bắc Kinh?Bọn thân binh lớn tiếng quát tháo. Nhưng Mao Thập Bát vẫn chửi bới một thêm hung dữ. Vi Tiểu Bảo lờ đi như không nghe thấy và không lý gì đến Mao Thập Bát. Gã quay lại hỏi Đa Long: - Tình hình lão Thái ra làm sao? Đa Long cười đáp: - Đêm qua tiểu huynh tới nơi thì lão Thái bị phu nhân cào cho mặt đầy vết máu. Lão vừa ngó thấy tiểu huynh thì bẽn lẽn quá chừng!... Vi Tiểu Bảo hỏi: - Lão có nói gì không? Đa Long đáp: - Lão chưa kịp nói thì tiểu huynh đến can khéo để lão khỏi hổ thẹn, đồng thời khuyên giải phu nhân của lão, tiểu huynh còn đưa Bát di thái về nhà để y bầu bạn với hai ả tiểu thiếp của tiểu huynh. Thế là lão Thái thiên ân vạn tạ, cảm kích tiểu huynh không biết đến đâu mà kể. Vi Tiểu Bảo cười hỏi: - Dung mạo vị Bát di thái đó thế nào? Đa Long chĩa ngón tay cái lên đáp: - Hà hà! Thật không còn chê vào đâu được.
__________________
![]() Hãy cười để liều lĩnh chấp nhận mình như một... người ngớ ngẩn. Hãy khóc để liều lĩnh chấp nhận mình như một người đa cảm. Hãy đến với người khác để liều lĩnh đón nhận sự mắc míu. Hãy phơi bày những cảm xúc để chấp nhận con người thật của chính mình. Hãy định đặt những ước mơ trước vầng mây để liều lĩnh đón nhận lời giễu cợt. Hãy yêu - bởi biết đâu không có tình yêu như thế trở lại lần thứ hai... Hãy dũng cảm đối mặt với những khó khăn và rồi liều lĩnh chấp nhận rủi ro.Nhưng những sự liều lĩnh ấy phải cần có bởi vì mối nguy hiểm nhất trong cuộc đời chính là không có sự liều lĩnh. Nếu ai không liều lĩnh, sẽ không có gì, không làm được gì và không là gì cả! |
|
#240
|
||||
|
||||
|
Lộc Đỉnh Ký
Hồi 245 Nghe Vua Phán Tiểu Bảo Kinh Hồn Vi Tiểu Bảo thở dài nói: - Đúng thế! Gã tự nhủ: - Đã khó khăn như vậy thì chúng ta nên thôi đi, đừng tính chuyện phản Thanh phục Minh nữa. Phàn Cương nói: - Hoàng đế Thát Đát tuy nhỏ tuổi mà cực kỳ tinh minh mẫn cán, lại biết thu phục nhân tâm, lấy lòng trăm họ. Bách tính trong thiên hạ đối với Tiền triều đã nhạt dần. Nếu còn lằng nhằng mấy năm nữa thì e rằng bọn Thát Đát giữ giang sơn ổn định quá rồi. Vi Tiểu Bảo lại thở dài đáp: - Đúng thế! Gã nghĩ thầm: - Tiểu Hoàng đế giữ vững giang sơn cũng chẳng có gì là không hay. Phàn Cương nói: - Vi hương chủ được tiểu Hoàng đế rất sủng ái mà lại hết lòng tin cẩn. Toàn thể anh em muốn xin Vi hương chủ dự định kế hoạch, đưa mọi người trà trộn vào cung đâm chết Hoàng đế Thát Đát. Vi Tiểu Bảo giật mình kinh hãi đáp: - Cái đó... cái đó không làm được rồi... Phàn Cương hỏi: - Xin hỏi Vi hương chủ: Cái khó ở trong vụ này ở chỗ nào? Vi Tiểu Bảo đáp: - Trong Hoàng cung phòng thủ rất nghiêm mật. Ngoài một số đông thị vệ lại còn nào Kiêu Kỵ Doanh, nào là Tiền Phong doanh, nào là Hộ quân doanh, nào là Hỏa khí doanh, nào là Kiện nhuệ doanh, nào là Hổ thương doanh... nhất nhất đều gia tâm bảo giá. Ngay một đoàn thị vệ cũng đã chia ra làm Ngự tiền thị vệ, Càn thanh môn thị vệ, Tam kỳ thị vệ. Vậy mà muốn hành thích Hoàng đế thì thật khó khăn hơn cả lên trời. Quần hùng nghe gã cự tuyệt đã không bằng lòng, lại nghe giọng lưỡi xưng hô một điều Hoàng thượng, hai điều Hoàng đế, rất mực nô lệ, mọi người càng lộ vẻ giận dữ. Phàn Cương liếc mắt nhìn quần hung rồi ngó Vi Tiểu Bảo nói: - Vi hương chủ! Việc hành thích Hoàng đế Thát Đát dĩ nhiên cực kỳ khó khăn, nhưng do đích thân Hương chủ cầm đầu đại cuộc thì cũng không đến nỗi tuyệt vô hy vọng thành công. Anh em thuộc hạ tiến cung rồi, chẳng một ai cầu sống sót để trở ra, nhưng bất luận trường hợp nào cũng ráng bảo vệ cho Hương chủ được bình yên. Hương chủ đã lập rất nhiều công lớn cho bản hội. Thực tình mười mấy vạn anh em không được một người bằng Hương chủ. Giữa Thiên Địa Hội và bọn Thát Đát Mãn Thanh đã thành thế chẳng đội trời chung. Từ đây cuộc hưng thịnh của bản hội và đại nghiệp phản Thanh phục Minh chỉ còn trông cậy vào Vi hương chủ gánh lấy trọng trách. Vi Tiểu Bảo lắc đầu đáp: - Vụ này tiểu đệ nhất quyết không làm nổi. Hoàng thượng sai tiểu đệ trừ diệt Thiên Địa Hội, tiểu đệ không chịu làm. Đó là giữ điều nghĩa khí. Các vị ca ca bảo tiểu đệ hành thích Hoàng đế, tiểu đệ không làm cũng là giữ điều nghĩa khí. Huyền Trinh tức giận hỏi: - Hương chủ là người Hán sao lại đi giữ nghĩa khí với Hoàng đế Thát Đát? Như vậy chẳng hóa ra Hương chủ là... Hán... Y toan thóa mạ hắn là Hán gian, song y lại nín nhịn. Phàn Cương nói:- Vụ này quan hệ cực kỳ trọng đại, Vi hương chủ khó mà phúc đáp ngay được đó là lẽ thường. Bọn thuộc hạ xin Hương chủ nghĩ kỹ lại rồi sẽ cho bọn thuộc hạ biết sau. Vi Tiểu Bảo đáp ngay: - Được rồi! Được rồi! Để tiểu đệ nghĩ lại xem sao đã. Từ Thiên Xuyên thấy gã chẳng có chút chi thành thực, liền nói thêm: - Anh em chỉ mong Vi hương chủ nhớ tới di chúc của cố Tổng đà chúa, đừng quên thảm họa của kẻ vong quốc. Đã là người Hán quyết không làm nô lệ cho bọn Thát Đát. Vi Tiểu Bảo lại đáp: - Đúng! Đúng! Cái đó thì không thể quên được. Quần hùng đều biết gã nói câu này không phải tự đáy lòng phát ra, đều lẳng lặng. Vi Tiểu Bảo nhìn người kia ngó người nọ cười hỏi: - Các vị ca ca! Sao các vị lại không nói nữa? Quần hùng vẫn không lên tiếng. Vi Tiểu Bảo thấy cụt hứng, chẳng khác ngồi trên đống gai, liền nói: - Vậy bữa nay chúng ta hãy tạm chia tay. Tiểu đệ về nghĩ kỹ lại rồi sẽ cùng các vị đại ca thương lượng. Dứt lời gã đứng lên. Quần hùng tiễn chân ra đến đầu ngõ rồi kính cẩn hành lễ từ biệt. Vi Tiểu Bảo về phủ ngồi trong thư phòng phát ngán. Chiều hôm ấy có thánh chỉ tuyên triệu Vi Tiểu Bảo vào Ngự thư phòng triều kiến Hoàng thượng. Nhà Vua vừa ngó thấy Vi Tiểu Bảo, hỏi ngay: - Phùng Tích Phạm đột nhiên mất tích, vụ này đầu đuôi ra làm sao? Vi Tiểu Bảo giật mình kinh hãi nghĩ thầm:- Sao Hoàng thượng lại hỏi ta về vụ này? Gã liền đáp: - Tâu Hoàng thượng! Đêm hôm xảy ra vụ thất tung Phùng Tích Phạm nô tài cùng Đa tổng quản và bọn Ngự tiền thị vệ ở với nhau một chỗ. Sau nghe nói Thái đô thống ở Tiền Phong doanh phái người đến mời Phùng Tích Phạm. Nô tài không hiểu sao Phùng Tích Phạm lại mất biến. Y là một người ở Đài Loan đầu hàng, hành tung rất cổ quái. Không chừng y ngấm ngầm vận động mưu đồ chuyện bất pháp. Nô tài sẽ điều tra cẩn thận vụ này. Vua Khang Hy mỉm cười nói: - Hay lắm! Phùng Tích Phạm lạc lõng nơi đâu, ta giao cho ngươi điều tra rõ rệt rồi về báo cáo ngay. Ta đã chuẩn cho người Đài Loan đầu hàng đều được hộ vệ chu đáo mà hắn đột nhiên mất tích một cách hồ đồ là ta thất tín với thiên hạ. Vi Tiểu Bảo trán toát mồ hôi, tự hỏi: - Lời Hoàng thượng đầy vẻ nghiêm trọng, chẳng lẽ Ngài biết ta giết Phùng Tích Phạm? Gã vội đáp: - Dạ, dạ! Nhà Vua lại hỏi: - Sáng nay ngươi đến chơi trong ngõ Ngân Hạnh có vui vẻ không? Vi Tiểu Bảo sửng sốt hỏi lại: - Tâu Hoàng thượng! Ngõ Ngân Hạnh nào? Rồi gã nhớ tới nơi trú chân của quần hùng Thiên Địa Hội ở trong ngỏ hẻm, ngoài đầu ngõ có hai cây Ngân Hạnh lớn, và gã đoán chắc là ngõ hẻm đó rồi. Hoàng đế đã biết cả tên ngõ hẻm thì còn điều gì giấu ngài được nữa? Gã sợ quá, toàn thân toát mồ hôi lạnh ngắt. Hai chân nhũn ra, gã quỳ mọp xuống, dập đầu tâu: - Thánh thượng nhìn xa muôn dặm, hiểu hết mọi sự trên thế gian. Dù sao nô tài thủy chung một dạ trung quân.Vua Khang Hy thở dài nói: - Bọn phản tặc đó bức bách ngươi gia hại ta mà ngươi nhất định không chịu. Kể ra ngươi quả đã trọng điều nghĩa khí, nhưng... nhưng... Tiểu Quế Tử! Ngươi định chơi hai mang suốt đời được chăng? Vi Tiểu Bảo dập đầu binh binh tâu: - Xin Hoàng thượng xét soi. Nô tài nhất quyết không làm Tổng đà chúa Thiên Địa Hội, Hoàng thượng bất tất phải quan tâm điều đó. Nhà Vua lại thở dài, ngửng mặt lên, ngơ ngẩn xuất thần một lúc rồi thủng thẳng hỏi: - Ta làm Hoàng đế Trung Quốc, tuy chẳng thể kịp Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang gì gì, nhưng về việc thương yêu trăm họ, chăm lo trị nước so với các Hoàng đế Minh triều trước đây đã có vị nào hơn ta? Hiện nay đã dẹp xong loạn Tam Phiên, lấy lại đảo Đài Loan. Nước La Sát cũng không dám xâm phạm bờ cõi nữa. Từ đây sắp tới thiên hạ thái bình trăm họ an cư lạc nghiệp. Vậy mà bọn phản tặc ở Thiên Địa Hội đòi quy phục họ Chu ở Minh triều, chẳng lẽ trăm họ dưới quyền cai trị của họ Chu được hưởng hạnh phúc hơn ngày nay? Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm: - Cái đó thì ta không thể biết được. Ngoài miệng gã đáp: - Nô tài thường được nghe nhân dân có câu hát: •Từ ngày Chu đế ra đời, mười năm đói kém đến ngoài chín năm• hiện nay mưa hòa gió thuận, quốc thái dân an. Đức Hoàng thượng là Điểu Sấng Dủy Thang, Chu Hoàng đế bì thế nào được? Vua Khang Hy mỉm cười nói: - Ngươi đứng dậy đi! Nhà Vua đứng lên đi lui đi tới trong thư phòng một lúc rồi nói: - Phụ hoàng ta là người Mãn Thanh, nhưng Hiếu Khang Hoàng hậu mẫu thân ta, là người Hán. Vậy dòng máu trong mình ta cũng thuộc về Hán tộc. Ta đối với trăm họ khắp thiên hạ coi đều bằng nhau, quyết chẳng tơ hào thiên lệch người Hán hay người Mãn. Sao bọn chúng căm hận ta hoài, đòi giết ta cho bằng được?Vi Tiểu Bảo tâu: - Bọn người phản nghịch vô đạo rất đỗi hồ đồ, chẳng bõ cho Hoàng thượng phải quan tâm. Vua Khang Hy gục gặc cái đầu, nét mặt không khỏi lộ vẻ thê lương. Sau một lúc lâu, ngài lại nói: - Người Mãn Châu có kẻ hay người dở, người Hán cũng có kẻ dở người hay. Hạng người tồi bại ở đời nhiều quá giết không hết được. Ta mong cảm hóa họ đi vào đường chính mà cảm thấy mình không đủ bản lĩnh. Hỡi ơi! Làm Hoàng đế thật là khó quá! Ngài nhìn Vi Tiểu Bảo một lúc rồi bảo gã: - Ngươi đi đi! Vi Tiểu Bảo lại dập đầu từ biệt rồi lui ra khỏi Hoàng cung. Gã cảm thấy toàn thân mát lạnh, vì vừa rồi gã sợ quá toàn thân ướt đẫm mồ hôi. áo trong áo ngoài đều thấm nước. Vi Tiểu Bảo ra khỏi cửa cung thở phào một cái, bụng bảo dạ: - Trong anh em Thiên Địa Hội lại có quân gian tế trà trộn vào. Đã hạ sát một tên Phong Tế Trung, thì tên khác lại mọc ra liền. Nếu không làm sao đức Hoàng thượng lại biết cả quần hào yêu cầu ta hành thích Ngài? Nhưng tên gian tế này là ai? Gã về phủ ngồi ngẫm nghĩ hồi lâu mà chẳng tìm ra được manh mối chi hết. Gã lại tự hỏi: - Hoàng thượng giao cho ta trọng trách điều tra vụ Phùng Tích Phạm lạc lõng nơi đâu. Coi thái độ Ngài, dường như có ý hoài nghi ta nhúng tay vào vụ này, nhưng Ngài chưa có chứng cớ chuẩn đích mà thôi. Ta biết làm cách nào để lấp liếm cho yên chuyện? Gã nghĩ lui nghĩ tới không ra được kế gì, trong lòng rất là phiền muộn. Vi Tiểu Bảo lại nhớ đến ngày trước gã cùng Vua Khang Hy trò chuyện cười đùa, cả hai người cùng khoan khoái trong lòng mà hối tiếc.Bây giờ hai người mỗi ngày một lớn tuổi. Hoàng thượng mỗi ngày một oai nghiêm. Còn gã cũng không dám nói nhăng nói càn. Gã tự hỏi: - Cái chức Phủ Viễn Đại tướng quân cùng Nhất đẳng Lộc Đỉnh công mình làm chẳng thấy hứng thú gì, thực không bằng hồi còn nhỏ ở Lệ Xuân viện lại được ung dung khoái lạc. Gã nghĩ tiếp: - Anh em Thiên Địa Hội bức bách ta hành thích Hoàng thượng. Mặt khác Hoàng thượng lại bức bách ta diệt trừ Thiên Địa Hội, Ngài còn hỏi: •Tiểu Quế Tử! Ngươi định chơi hai mang suốt đời được chăng?• Con mẹ nó! Lão gia không làm nữa. Cái gì cũng không làm. Trong lòng gã nghĩ đến năm chữ •Cái gì cũng không làm• gã cảm thấy trong lòng thư thái bất giác thò tay vào bọc móc lấy quân xúc xắc liệng xuống bàn. Vi Tiểu Bảo vừa liệng xúc xắc vừa hô: - Không làm gì là hay rồi. Gieo thử một quẻ cho ra Mãn Đường Hồng. Bốn con xúc xắc chạy lọc cọc rồi ngả ra ba điểm hồng hướng lên trời. Còn con thứ tư lại thành lục điểm. Thế là đen quá rồi, đen không thể nào đen hơn được nữa. Lúc gã reo xúc xắc đã ráng làm cho cả bốn con ngả xuống theo ý mình mà không được. Gã tức mình chửi luôn một câu: - Con mẹ nó! Gã lại lượm xúc xắc lên gieo lại. Nhưng lần nào cũng chưa được như ý. Mãi đến lần thứ tám mới thành Mãn Đường Hồng. Vi Tiểu Bảo mừng rỡ nói: - Té ra ông Trời muốn ta phải làm cho Hoàng thượng bẩy việc lớn rồi mới nghỉ được. Gã lẩm nhẩm tính:- Bẩy việc lớn ta làm đủ rồi. Việc đầu tiên là giết Ngao Bái. Việc thứ hai là cứu mạng lão Hoàng đế. Việc thứ ba là cứu giá Hoàng thượng ở Ngũ Đài Sơn. Việc thứ tư là cứu Thái hậu. Việc thứ năm là giết mụ điếm già. Việc thứ sáu là phá hủy Thần Long giáo. Việc thứ bảy là bắt Ngô ứng Hùng. Việc thứ tám là tiến cử bọn Trương Dũng, Triệu Lương Đống... phá Ngô Tam Quế. Việc thứ chín đánh Nhã Khắc Tát... nhiều quá rồi, nhiều quá rồi. Còn việc nhỏ không kể. Nguyên việc lớn vừa đúng bẩy, không nhiều mà cũng không ít. Gã tự nhủ: - Những việc nhỏ kể làm quái gì? Những việc đáng kể bảy vụ là đủ rồi. Nói tóm lại lão gia không làm nữa. Chẳng làm quan cũng không tạo phản, nhưng lão gia đi làm gì bây giờ? Gã nghĩ lui nghĩ tới nhận thấy trở về Dương Châu là khoan khoái hơn hết. Vi Tiểu Bảo nghĩ tới chuyện trở về Dương Châu, bất giác trong lòng cao hứng, lớn tiếng gọi: - Người nhà đâu? Hai tên thân binh chạy vào. Gã sai lấy rượu nhắm tự mình rót uống. Gã vừa uống rượu vừa tính toán dùng cách gì cho khỏi hậu hoạn. Cần nhất là nhà Vua không sai người đến bắt, Thiên Địa Hội cũng không tìm đến bức bách mình phải theo họ tạo phản. Gã tính cả đến việc trong bảy vị phu nhân thì sáu vị chịu nghe lời gã. Nhưng bảo Công chúa theo gã đến Dương Châu thì dù vui vẻ đến đâu, nàng cũng nhất định không chịu. Gã muốn mở kỹ viện ở Dương Châu, lại e Tô Thuyên, A Kha, Phương Di, ba người không nghe theo. Rồi gã tự nhủ: - Thôi được! Rồi ta sẽ tính dần, tới đâu hay tới đó. Lão gia đã có sản nghiệp mấy trăm vạn lạng bạc, chẳng mở kỹ viện cũng không chết đói. Có điều mình chưa tìm được hướng đi nào cho khoan khoái mà thôi.Tối hôm ấy trong phủ mở gia yến. Bảy vị phu nhân thấy Vi Tiểu Bảo cười nói huênh hoang ra chiều rất cao hứng, trái với những ngày gần đây gã mặt buồn rười rượi. Bảy vị đồng thanh hỏi: Chuyện gì mà vui thế? Vi Tiểu Bảo mỉm cười đáp: - Thiên cơ bất khả lộ. Công chúa hỏi: - Hoàng đế ca ca lại thăng quan cho phải không? Tăng Nhu hỏi: - Chắc đánh bạc được lớn! Câu chuyện Thiên Địa Hội hết phiền phức rồi ư? A Kha nói: - Thôi lại thấy cô nào nhà người ta coi vừa mắt muốn lấy làm phu nhân phòng thứ tám rồi. Vi Tiểu Bảo chỉ lắc đầu. Sau gã thấy các phu nhân hỏi gắt quá, đành đáp: - Ta không muốn nói, nhưng các vị nhất định hỏi cho ra, ta đành phải nói vậy. Bảy vị phu nhân dừng lại lắng tai nghe. Vi Tiểu Bảo nghiêm nghị nói: - Ta làm quan lớn lại phong đến tước công mà một chữ không biết thì còn ra thể thống gì nữa. Bắt đầu từ mai ta muốn đọc sách làm văn, đi thi đỗ Trạng Nguyên rồi làm Hàn lâm. Bảy vị phu nhân ngơ ngác nhìn nhau, nhưng chỉ một lát lại phá lên cười. Ai cũng biết đức phu quân giết người phóng hỏa, trộm cắp lừa gạt việc gì cũng làm được. Trong thiên hạ chỉ có việc duy nhất gã không làm nổi là đọc sách để biết chữ.Sáng sơm hôm sau, quan phủ Thuận Thiên đến bái yết, nói là vâng chỉ dụ của Thượng quan được biết đức Hoàng thượng đã ủy thác việc tra cứu vụ Trung Thành bá Phùng Tích Phạm thất tung cho Vi công gia, nên y đến phủ để chờ sai khiến. Vi Tiểu Bảo chau mày hỏi: - ở nha môn phủ Thuận Thiên rất đông công sai, bổ khoái, những ngày gần đây đã điều tra được manh mối gì chưa? Tri phủ đáp: - Bẩm đại soái! Vụ Phùng bá tước thất tung sự tình rất ngoắt ngoéo! Ty chức mấy ngày liền đôn đốc sai bọn sai dịch minh tra ám phỏng mà chưa được manh mối chi hết, nên trong lòng nóng nẩy vô cùng. Bữa nay được tin Hoàng thượng đặc phái Vi công gia chủ trương, ty chức vui mừng quá độ, tưởng chừng được thăng quan liền ba cấp cũng không băng. Y dừng lại một chút rồi tiếp: - Vi công gia là một bậc đại thần anh minh mẫn cán đệ nhất tại triều đình. Công gia lên ngựa săn sóc ba quân, xuống ngựa săn sóc dân tình. Bất luận việc gì nhiêu khê đến đâu đã lọt vào tay Công gia là lập tức được giải quyết một cách ổn thỏa. Bọn nha môn của ty chức được tin này cũng cực kỳ hể hả. Chúng nói là nay có Công gia chủ trương khác nào chúng được ẩn mình dưới cây cao bóng cả. Vi Công gia đã xuất mã thì đến bọn quỷ La Sát còn phải chạy tơi bời. Lo gì không tìm ra manh mối vụ Phùng Bá tước? Vi Tiểu Bảo nghe tri phủ xiểm nịnh cũng lọt tai, mà thực ra y đổ trách nhiệm lên đầu gã. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm: - Không hiểu thi thể Phùng Tích Phạm hiện giờ chúng dấu ở đâu? Đêm nay ta phải dùng Hóa thi phấn để làm cho tiêu tan, không để họ nắm được chuôi. Ta chỉ cần làm mất hết chứng cứ là chẳng ai đổ tội lên đầu mình được. Đáng lý ta phải nghĩ tới việc làm tiêu tan thi thể từ trước, nhưng mấy bữa nay bận quá quên khuấy đi mất. Viên tri phủ lại nói:- Hàng này Trung Thành bá phu nhân phái người đến nha môn của ty chức ngồi lỳ suốt ngày không chịu trở về. Họ quyết đòi người cho bằng được. Ty chức thật khó bề đối phó. Y ngừng lại một chút rồi tiếp: - Hôm qua Phùng phủ lại có người đến báo án trình về việc một ả tiểu thiếp của Trung Thành Bá tên gọi Lan Hương, theo một tên mã phu đi trốn rồi. Mụ cuốn gói khá nhiều vàng bạc và đồ trang sức. Nếu Trung Thành Bá không về nhà thì e rằng bọn cơ thiếp tỳ bộc sẽ bỏ đi hết, trong nhà chẳng còn một ai. Vi Tiểu Bảo hắng giọng đáp: - Không hiểu Phùng Tích Phạm lăn lóc ở chỗ phong lưu đàng điếm nào mà kín thế? Phủ đài hãy phái nhiều nhân lực đến các ổ ăn chơi điều tra kỹ càng lại. Hắn ham mê cờ bạc trai gái không thèm trở về nhà thì có bị vợ nhỏ bỏ đi theo kẻ khác cũng là đáng kiếp. Viên tri phủ nói: - Dạ dạ! Theo lẽ ra Phùng bá tước có đi thăm thú những nơi liễu ngõ hoa tường thì trong bấy nhiêu ngày cũng nên trở về một lần mới phải. Vi Tiểu Bảo đáp: - Cái đó khó nói lắm, Phùng Tích Phạm là con quỷ háo sắc chứ chẳng phải hạng người chính nhân quân tử như phủ tôn đâu. Phủ tôn có lần đến những nơi lầu hồng gác tía cũng chỉ một ngày hay nửa đêm là đã trở về trình diện rồi. Tri phủ cười nói: - Ty chức không dám! Ty chức không dám! Giữa lúc ấy Trung Thành bá phu nhân sai người anh em của mụ đưa đồ lễ đến và nói là kính cẩn dập đầu trước Vi Công gia để tạ ơn Công gia ra sức điều tra vụ án này. Vi Tiểu Bảo dặn thân binh đừng cho họ vào và không nhận lễ vật. Thân binh lại vào báo:- Bẩm đại soái! Người nhà họ Phùng cực kỳ vô lễ. Lúc ra đi hắn không ngớt cười lạt, nói những gì oan oan tương báo, có thù trả thù. Tên thân binh nói tiếp: - Gia nhân ở Phùng phủ còn bảo đức Hoàng thượng biết chuyện này rồi. Thế nào cũng điều tra ra gốc ngọn. Đừng ai hòng lấy tay che mặt trời, bịt mắt thánh minh thiên tử. Bẩm đại soái! Hắn dám đến đây ngang tàng thì thật là lớn mật! Tiểu nhân muốn tát cho hắn mấy cái bạt tai. Bữa trước có chuyện đổi người ở ngoài pháp trường, tên thân binh này cũng tham dự vào vụ đó, bây giờ nghe giọng lưỡi của người nhà Phùng phủ đầy vẻ gay go, dường như đã đoán ra nội tình, hắn không khỏi ớn da gà. Vi Tiểu Bảo có tật giật mình, nghe thân binh nói bất giác biến sắc tự hỏi: - Vụ này thật là rắc rối! Không khéo sẽ bị vỡ lở. Con bà nó! Phùng Tích Phạm chính lão gia giết chết rồi. Chẳng lẽ lão gia lại sợ mụ vợ con tử quỷ hay sao? Đột nhiên, gã tìm ra được quyết định, nét mặt hớn hở tươi cười. Gã đứng dậy nói: - Quý phủ hãy ngồi chơi chờ bản tước một lát. Gã vào nội đường gọi đội trưởng thân binh đến dặn dò cứ thế, cứ thế mà làm. Đội trưởng lãnh mạng đi ngay. Vi Tiểu Bảo trở ra đại sảnh nói: - Hoàng thượng phái bản tước làm việc này. Chúng ta là phận nô tài phải tận tâm kiệt lực để báo đáp quân thượng. Bây giờ hãy đến Phùng phủ khám nghiệm. Viên tri phủ ngạc nhiên nghĩ bụng: - Trung Thành Bá mất tích rồi. Trong nhà lão còn gì mà khám xét? Nhưng ngoài miệng y vâng dạ liên thanh. Vi Tiểu Bảo lại nói:- Vụ án này cực kỳ bí ẩn. Chúng ta hãy bắt tất cả già trẻ lớn bé nhà họ Phùng thẩm vấn, không chừng sẽ điều tra được manh mối. Tri phủ đáp: - Dạ! Công gia dạy rất phải. Ty chức ngu muội thủy chung không hề nghĩ tới điểm đó. Thực ra cái chức tri phủ nhỏ bé khi nào dám đến Trung Thành bá phủ mở cuộc điều tra. Đồng thời ở nha môn phủ Thuận Thiên từ trên xuống dưới ai cũng biết Phùng Tích Phạm là kẻ tử thù của Phủ Viễn Đại tướng quân Vi Công gia. Họ còn đoán chừng Phùng Tích Phạm thất tung, mười phần có đến tám chín là Vi Công gia đã phái người sát hại. Vi Công gia là nhân vật sáng giá nhất tại triều đình hiện nay thì còn ai dám đụng vào? Những người lãnh trách nhiệm tra án không dám dậm chân chỉ mong kéo dài thời gian chẳng bao giờ kết liễu. Viên tri phủ bụng bảo dạ: - Vi Công gia đã giết Phùng bá tước còn muốn đến làm khó dễ người nhà lão. Phùng phu nhân thật không biết điều. Mụ phái người đến Công phủ nói nhăng nói càn, trách nào Vi Công gia chẳng tức giận? Vi Tiểu Bảo cùng tri phủ Thuận Thiên lên ngồi kiệu lớn có tiền hô hậu ủng dẹp đường từ từ tiến về phía Trung Thành bá phủ. Mấy trăm tên thân binh bao vây xung quanh Phùng gia. Vi Tiểu Bảo tiến vào phủ, tên đội trưởng thân binh liền đến trước mặt bẩm: - Trình đại soái! Trong phủ Phùng gia cả nam lẫn nữ cộng được bảy mươi chín người, hiện đang ngồi ở Tây sảnh chờ đại soái thẩm vấn.
__________________
![]() Hãy cười để liều lĩnh chấp nhận mình như một... người ngớ ngẩn. Hãy khóc để liều lĩnh chấp nhận mình như một người đa cảm. Hãy đến với người khác để liều lĩnh đón nhận sự mắc míu. Hãy phơi bày những cảm xúc để chấp nhận con người thật của chính mình. Hãy định đặt những ước mơ trước vầng mây để liều lĩnh đón nhận lời giễu cợt. Hãy yêu - bởi biết đâu không có tình yêu như thế trở lại lần thứ hai... Hãy dũng cảm đối mặt với những khó khăn và rồi liều lĩnh chấp nhận rủi ro.Nhưng những sự liều lĩnh ấy phải cần có bởi vì mối nguy hiểm nhất trong cuộc đời chính là không có sự liều lĩnh. Nếu ai không liều lĩnh, sẽ không có gì, không làm được gì và không là gì cả! |
![]() |
| Ðiều Chỉnh | |
| Xếp Bài | |
|
|