Go Back   Vina Forums > Thư Viện Online > Kho Tàng Truyện > Truyện Tiểu Thuyết - Truyện Dài
Hỏi/Ðáp Thành Viên Lịch Tìm Kiếm Bài Trong Ngày Ðánh Dấu Ðã Ðọc

Trả lời
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
  #21  
Old 05-01-2005, 08:40 AM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Chương 21 - Mấy ngày trên đảo

Tôi đặt chân lên đảo mà lòng không khỏi bồi hồi. Nét giẫm thử chân lên mặt đất, hình như còn muốn xem đất có vững chắc không. Đấy là chúng tôi mới làm "hành khách của tàu Nau-ti-lúx" (theo lời thuyền trưởng Nê-mô) đúng hơn là làm tù của Nê-mô có hai tháng! Mấy phút sau, chúng tôi đã đi vào cách bờ biển một quãng bằng tầm súng bắn. Đất ở đây gần như hoàn toàn bằng đá vôi san hô. Một dải rừng tuyệt đẹp che khuất chân trời. Những cây cối khổng lồ cao hơn sáu mươi mét, có dây leo chằng chịt với nhau và đung đưa trước gió, tạo nên những chiếc võng thiên nhiên. Thảo vật ở đây rất phong phú. Nhưng chúng không làm cho Nét mê. Anh ta thích những cái thực tế hơn. Nét chú ý tới cây dừa, chọc mấy quả rụng xuống rồi bổ ra. Chúng tôi uống nước dừa, chén cùi dừa và thấy thú vị hơn các món ăn trên tàu Nau-ti-lúx nhiều.
-Tuyệt quá!
-Nét reo lên.
-Ngon tuyệt!
-Công-xây tán thành.
-Tôi nghĩ ông Nê-mô của ngài sẽ không cấm chúng ta mang một ít dừa xuống tàu?-Nét hỏi.
-Tôi cho rằng Nê-mô sẽ không cấm, -Tôi trả lời.
-Nhưng bản thân ông ta sẽ không đụng đến.
-Thế thì ông ta thiệt, -Công-xây nói.
-Càng tốt cho ta, ta càng được chén nhiều!
-Nét cãi lại.
-ông Nét ạ, chỉ xin ông một điều!
-Tôi bảo Nét khi thấy anh ta định chọc dừa ở cây thứ hai.
-Dừa là một thứ quả ngon, nhưng trước khi chất xuống thuyền, có lẽ ta nên xem trên đảo có thứ gì ích lợi hơn không? Rau tươi có lẽ cần cho kho thực phẩm trên tàu hơn.
-Giáo sư nói rất xác đáng.
-Công-xây tán thành.
-Tôi đề nghị dành chỗ cho ba loại thực phẩm: một chỗ chứa trái cây, một chỗ chứa rau tươi, còn chỗ thứ ba để chứa các muông thú săn được, mà hình như ở đây không có thì phải.
-Anh Công-xây ơi chớ nên tuyệt vọng! -Nét trả lời.
-Tóm lại, ta cần đi tiếp, -tôi nói, -nhưng phải cảnh giác đấy! Đảo này chắc không ai ở, nhưng dù sao vẫn có thể gặp những người đi săn không phải chỉ ham săn thú như chúng ta! Nét bỗng nhe răng và gầm lên.
-Sao thế anh Nét?
-Công-xây vội hỏi.
-Thú thật là tôi bắt đầu hiểu cái thú ăn thịt người.
-Anh Nét! Anh Nét! Anh nói gì vậy?
-Công-xây kêu lên.
-Té ra anh là kẻ ăn thịt người à? Sống trong một phòng với anh thật không an toàn chút nào cả. Có khi ngủ dậy đã thấy mình bị chén nửa người rồi cũng nên.
-Anh bạn Công-xây ơi, tôi yêu quý bạn, nhưng không cần thiết lắm thì cũng không chén thịt bạn đâu!
-Tôi nghi ngờ điều đó lắm!
-Công-xây trả lời.
-Thôi, chúng ta nên đi săn là hơn! Phải hạ ngay một con thú để thết anh chàng ăn thịt người này, nếu không, một buổi sớm nào đó giáo sư chỉ còn thấy xương của tôi thôi!
Chúng tôi vừa bông đùa như vậy vừa tiến sâu vào rừng cây rậm rạp, và trong khoảng hai tiếng đồng hồ đã đi từ đầu đến cuối rừng. Chúng tôi gặp may trong việc tìm kiếm thức ăn. Chúng tôi gặp một trong những loại cây có ích nhất của vùng nhiệt đới đã cung cấp cho tàu Nau-ti-lúx một thứ thực phẩm đang thiếu. Đó là cây mì, mọc rất nhiều trên đảo Ghê-bô-roa. Đặc biệt quý là loại quả mì không hạt mà người Ma-lai-xi-a gọi là ri-ma. Cây mì khác các loại cây khác ở chỗ có thân rất thẳng và nhẵn, cao tới mười hai mét. Tán cây tròn vành vạnh, lá to xếp thành nhiều tầng. Giữa đám lá sum sê là những quả tròn nặng trĩu, đường kính tới mười cen-ti-mét, vỏ xù xì. Thiên nhiên đã tặng cho những nước không có lúa mì loại cây có ích này. Nó không cần phải chăm sóc nhiều và ra quả suốt tám tháng trong năm. Nét Len rất quen thuộc loại quả này. Anh đã được ăn nhiều lần trong những chuyến đi biển và biết chế biến thành thức ăn rất ngon bổ. Nhìn thấy trái mì, anh đã ứa nước miếng. Nét nói:
-Thưa giáo sư, nếu không được nếm thứ quả này thì tôi chết mất!
-Thì ông cứ nếm đi, ông bạn Nét, cứ nếm thoải mái! Chúng ta lên đảo này là để nếm mỗi thứ một ít mà. ông bắt đầu đi! Nét nhóm bếp, chỉ mấy phút sau cây khô đã nổ lép bép. Trong khi đó, Công-xây và tôi lựa những quả mì chín nhất. Loại quả này không có hạt. Công-xây mang về hơn một chục quả, Nét xắt ra từng khoanh dày rồi đặt lên than hồng. Anh ta nói:
-Rồi ngài sẽ thấy loại bánh mì này ngon đến mức nào!
-Nhất là đã lâu không được thấy bánh mì, -Công-xây nói.
-Đây không phải là bánh mì thường, -Nét nói thêm, -mà là bánh ga-tô, vừa cho vào miệng là tan ra ngay! Thế giáo sư chưa được nếm bao giờ ạ?
-Chưa, ông Nét ạ.
-Thế thì xin ngài nếm cho, rất bổ, rất ngon. Nếu ngài không đòi hỏi suất nữa thì tôi không phải là thằng Nét, vua săn cá voi nữa! Mấy phút sau vỏ ngoài đã chín vàng. Bên trong là ruột trắng, giống hệt ruột bánh mì... Tôi ăn hết sức ngon miệng. Tôi nói:
-Đáng tiếc là khó bảo quản thứ quả này được lâu, nên theo tôi, có mang lên tàu cũng uổng công.
-Xin ngài!
-Nét Len phản đối.
-Ngài lý luận như một nhà sinh vật học, còn tôi thì lại hành động như một anh thợ bánh mì. Này Công-xây anh hãy lấy thật nhiều cho tôi, ta sẽ mang về tàu.
-Thế ông định bảo quản nó thế nào?
-Tôi sẽ biến nó thành bột chua. Khi cần tôi sẽ nướng thành bánh ở bếp dưới tàu. Mặc dù bánh sẽ có vị hơi chua, nhưng vẫn rất ngon.
-ông Nét ạ, nếu thế thì bánh mì của ông ngon quá rồi, chẳng mong gì hơn nữa...
-Thưa giáo sư, tuy vậy vẫn thiếu rau và quả.
-Thế thì ta đi tìm xem có không. Hái xong quả mì, chúng tôi tiếp tục đi "bổ sung thực đơn" của bữa trưa. Việc tìm kiếm của chúng tôi không đến nỗi uổng công. Tới gần giữa trưa, chúng tôi đã tìm được một số chuối và dứa rất to. Tuy việc hái quả này làm mất nhiều thì giờ, chúng tôi cũng không tiếc. Công-xây bám sát Nét. Nét đi đầu và lựa chọn rất khéo những trái cây ngon nhất để dự trữ.
-ông bạn Nét ơi, bây giờ chắc ông thỏa mãn rồi chứ?
-Công-xây hỏi.
-Hừm!
-Nét ầm ừ.
-Sao? ông vẫn chưa hài lòng à?
-Tất cả những thứ rau cỏ này không thể thay thế bữa trưa được. Đó chỉ là cái thêm thắt, cái tráng miệng sau bữa ăn thôi. Còn xúp đâu? Thịt rán đâu? Tôi nói:
-ông Nét hứa thết ta món sườn rán, nhưng rõ ràng đó là chuyện hoang đường trăm phần trăm. Nét trả lời:
-Thưa giáo sư, cuộc đi săn chưa kết thúc mà còn tiếp tục. Xin ngài ráng chờ chút nữa! Thế nào chúng ta cũng gặp một con chim hay một con thú nào đó, nếu không ở chỗ này thì ở chỗ khác...
-Nếu không hôm nay thì ngày mai, -Công-xây nói thêm, -nhưng cũng không nên đi quá xa bờ. Tôi đề nghị quay về tàu.
-Sao? Đã quay về rồi à?
-Nét la lên.
-Chúng ta phải có mặt ở tàu trước đêm nay, -tôi nói.
-Thế mấy giờ rồi?
-Nét hỏi.
-ít nhất là hai giờ, -Công-xây trả lời.
-Thời gian trên mặt đất sao trôi quá nhanh thế!
-Nét thở dài.
-Lên đường thôi!
-Công-xây nói. Chúng tôi quay về bằng đường rừng. Cả ba người đều "thồ" quá nặng. Năm giờ chiều, sau khi chất xuống thuyền tất cả những của quý, chúng tôi rời đảo và nửa tiếng sau thì tới tàu Nau-ti-lúx. Chẳng ai ra đón chúng tôi. Khối thép đồ sộ hình trụ ấy dường như trống rỗng. Tôi trút bỏ gánh nặng rồi về phòng riêng. ở đó đã bày sẵn bữa tối. †n xong, tôi đi ngủ. Hôm sau, mùng sáu tháng giêng, trên tàu không có gì thay đổi. Chẳng có một tiếng động, một dấu hiệu gì của sự sống. Chiếc xuồng bập bềnh cạnh tàu. Chúng tôi quyết định lại lên đảo Ghê-bô-roa. Nét Len hy vọng lần này đi săn sẽ kết quả hơn lần trước và muốn cầu may ở mé rừng bên kia. Chúng tôi lên đường lúc rạng đông. Gặp nước triều dâng, thuyền chẳng bao lâu đã tới bờ. Chúng tôi lên đảo và nghĩ rằng tốt nhất là nên tin vào bản năng của Nét và theo sát anh ta. Thế mà chúng tôi cũng mấy lần suýt mất hút anh bạn chân dài. Nét dẫn chúng tôi vào tít phía tây hòn đảo. Chúng tôi lội mấy bước rồi lên một khoảng đất bằng, xung quanh là rừng rất đẹp. Dọc những con suối nhỏ, có nhiều chim bói cá, nhưng thấy chúng tôi tới gần, chúng vội bay đi. Chắc những chú chim này đã nhiều lần gặp người nên đã có kinh nghiệm cần thiết. Vì vậy, tôi kết luận rằng nếu đảo này không có người ở thì vẫn có người từ nơi khác lui tới. Sau khi đi qua những đồng cỏ phì nhiêu, chúng tôi tới cửa một khu rừng non, từ đó vang ra tiếng chim hót và tiếng cánh vỗ rào rào.
-ở đây chỉ có chim thôi, -Công-xây nói.
-Nhưng có cả chim ăn thịt được!
-Nét trả lời.
-Anh bạn Nét ơi, khó lòng lắm, tôi chỉ thấy có giống vẹt thôi.
-Anh bạn Công-xây ơi, -Nét nghiêm trang trả lời, -một khi không có gì chén thì vẹt cũng có giá trị như gà lôi. Tôi nói:
-Tôi nghĩ nếu biết nấu nướng khéo thì vẹt cũng chén rất tốt. Thực vậy trong đám lá rậm rì có cả một thế giới vẹt sẵn sàng cất lên tiếng nói của người nếu có ai dạy. Chúng chuyền từ cành này sang cành khác và líu lo với các chú vẹt con đủ màu sắc. Qua một khu rừng thưa, chúng tôi ra một quãng trống, đôi chỗ có bụi rậm. ở đây tôi được thấy những con chim rất đẹp lông dài, có thể bay ngược gió. Chúng bay phóng khoáng, vẽ nên những đường vòng lượn duyên dáng trong không trung, nom thật vui mắt. Tôi nhận ngay ra chúng.
-Chim thiên đường! -Tôi reo lên.
-ông Nét, tôi trông mong vào sự khéo léo của ông và hy vọng ông sẽ bắt được ít nhất một con thuộc loại quý nhất của vùng nhiệt đới này.
-Thưa giáo sư, tôi sẽ cố, mặc dù tôi bắn không giỏi lắm. Người Ma-lai-xi-a thường bán chim thiên đường cho Trung Quốc. Họ bẫy chim bằng nhiều cách mà chúng tôi không áp dụng được. Khi thì họ đặt thòng lọng trên ngọn cây, nơi chim hay làm tổ, khi thì họ phết nhựa dính lên cành. Đôi khi họ rắc thuốc độc xuống các nguồn nước mà chim hay tới uống. Còn chúng tôi thì đành phải bắn khi chúng đang bay, mà bắn kiểu ấy thì rất khó trúng. Quả thực, chúng tôi đã lãng phí một số lớn đạn. Tới gần 11 giờ trưa, chúng tôi đi ngang qua dãy đồi thứ nhất ở trung tâm đảo và không hạ được con chim nào. Chúng tôi đã thấy đói bụng. Cánh đi săn chúng tôi hy vọng sẽ được săn nhiều, nhưng đã tính lầm. Nhưng kìa! Công-xây hạ luôn được hai con chim bằng hai phát súng, điều làm chính Công-xây cũng hết sức ngạc nhiên. Chúng tôi vội vặt lông và chất củi nướng. Trong khi đó Nét nướng quả mì. Thịt chim rất ngon, chúng tôi ăn chỉ còn lại ít xương.
-Thế nào ông Nét, bây giờ ông còn thèm gì nữa không?
-Tôi hỏi.
-Còn thèm thịt thú bốn chân nữa. Giống chim câu này chỉ để ăn qua loa cho nhờn mép tí thôi. Chưa hạ được một con bốn chân để làm món sườn nướng thì tôi chưa yên tâm!
-Có khó gì đâu! Chúng ta sẽ tiếp tục săn.
-Công-xây nói.
-Nhưng nên quay ra phía rừng gần bờ biển thì hơn. Công-xây nói đúng nên chúng tôi nghe theo anh ta. Một giờ sau, chúng tôi tới một rừng cây xa-gô rậm rạp. Những con rắn có lẽ không độc trườn dưới chân chúng tôi. Những con chim thiên đường cứ thấy chúng tôi là bay mất. Tôi đã hy vọng bắt một con mang về thì Công-xây đang đi trước bỗng cúi người xuống rồi phấn khởi reo lên. Anh ta quay lại tay xách một con chim thiên đường.
-Hoan hô Công-xây!
-Tôi nói.
-Giáo sư quá khen!
-Công-xây trả lời.
-Anh bạn thật là tài ba! Tay không mà bắt được chim.
-Nếu giáo sư nhìn kỹ hơn một chút thì sẽ thấy công lao của tôi không lớn lắm.
-Vì sao, Công-xây?
-Vì con chim bị say.
-Bị say à?
-Thưa giáo sư vâng. Nó ăn quá nhiều quả hồ đào nên say và bị bắt sống. Anh bạn Nét ơi, hãy xem đây! Sự thái quá đưa đến hậu quả tai hại thế này đây! Trong khi đó, tôi nghiên cứu con chim lạ. Công-xây không lầm. Con chim đã say vì ăn quả bồ đào và không bay được nữa. Khó khăn lắm nó mới cử động được đôi chân. Nhưng tôi chẳng lo lắng gì về điều đó để nó tỉnh lại dần. Con chim vừa bắt được thuộc loài đẹp nhất trong số tám loài chim thiên đường sống trên đảo Tân Ghi-nê và các đảo lân cận. Nó dài ba mươi cen-ti-mét, đầu tương đối nhỏ, hai mắt ở gần mỏ. Lông chim rất đẹp và có màu sắc hài hòa, mỏ vàng, chân và móng màu nâu thẫm, cánh màu nâu nhạt, cổ màu ngọc bích, bụng và ngực màu hạt dẻ thẫm... Tóm lại, đó là giống chim thần kỳ mà thổ dân gọi bằng cái tên rất nên thơ:
“Chim mặt trời". Tôi mong ước mang về Pa-ri một mẫu chim này để tặng vườn bách thảo.
-Đây là một con chim hiếm à?
-Nét hỏi. Là thợ săn anh ta không đánh giá chim muông cao lắm về mặt thẩm mỹ.
-Hết sức hiếm, ông bạn ạ, và chủ yếu là rất khó bắt sống nó. Ngay đến lông chim đã chết cũng có giá trị cao. Vì vậy, thổ dân thường làm tiêu bản giả, như người ta làm ngọc trai và kim cương giả.
-Sao?
-Công-xây ngạc nhiên.
-Người ta làm giả cả tiêu bản chim thiên đường nữa ư?
-Đúng.
-Giáo sư có biết họ làm thế nào không?
-Có chứ! Khi gió đông thổi thì bộ lông đuôi đẹp của chim rụng đi. Người ta đi nhặt những lông đó rồi gắn hoặc khâu nó vào đuôi một chú vẹt nào đó đã bị vặt trụi lông. Cuối cùng, họ dùng sơn quét kín đường khâu, lau bóng rồi chở những tác phẩm độc đáo của họ sang bán cho các viện bảo tàng châu Œu hay cho những người sưu tầm của lạ. Nét Len nói:
-Nếu chim có giả thì lông nó cũng thật. Tôi chẳng thấy vấn đề gì lớn lắm, vì người ta có mua chim về để quay đâu! Nhưng nếu mong ước có một con chim thiên đường đã được thực hiện thì nguyện vọng của anh chàng Nét vẫn chưa được thỏa mãn. Tuy vậy, lúc gần hai giờ, Nét gặp may, bắn được chú lợn rừng tuyệt vời. Thế là chúng tôi có thịt thú bốn chân thực sự rồi. Nét rất kiêu hãnh về thành tích này. Con lợn trúng đạn bị gục ngay. Nét làm lông và mổ rồi chặt sườn để nướng ăn bữa tối. Sau đó cuộc đi săn tiếp tục và một lát sau lại ghi "chiến công" của Nét và Công-xây. Hai anh chàng sục sạo các bụi rậm làm một bầy đại thử nhảy vọt ra. Nhưng chúng có chạy nhanh đến đâu cũng bị những viên đạn có điện bắn trúng.
-Thưa giáo sư!
-Nét nói oang oang trong cơn hăng.
-Món này mà ninh nhừ thì ngon tuyệt! Tàu Nau-ti-lúx sẽ có biết bao thực phẩm dự trữ. Hai! Ba! Năm con đã bị hạ! Giáo sư thử nghĩ xem, chỉ có chúng ta được chén số thịt này, còn cái quân ngu đần trên tàu thì đừng hòng động tới một miếng nhỏ! Tôi nghĩ bụng: trong lúc phấn khởi, Nét có thể sẽ diệt cả bầy đại thử nếu không mải tán chuyện! Hơn một chục con đại thử bị hạ thuộc loại nhỏ, thường sống ở hốc cây và lẩn trốn rất nhanh. Tuy nhỏ nhưng thịt chúng rất ngon. Chúng tôi hết sức hài lòng về kết quả cuộc đi săn. Anh chàng Nét đề nghị hôm sau trở lại hòn đảo tuyệt vời này và đi bắn tất cả những thú bốn chân ăn thịt được. Nhưng anh ta thường không tính đến những tình huống bất ngờ. Gần sáu giờ tối chúng tôi về tới gần bờ biển. Chiếc thuyền vẫn ở chỗ cũ. Cách bờ hai hải lý, tàu Nau-ti-lúx vẫn nổi lên như một dải đá ngầm giữa những làn sóng biển. Nét Len tranh thủ thời gian chuẩn bị bữa ăn. Anh ta quả là một tay nấu ăn có tài. Tôi thấy hình như mình cũng lây phải bệnh của Nét. Tôi cũng phấn chấn lên vì một miếng thịt nướng! Xin bạn đọc tha thứ cho tôi, cũng như tôi đã tha thứ cho Nét về cái nhược điểm ấy! Bữa ăn rất thịnh soạn. Món chim bồ câu, bột xa-gô, trái mì, độ sáu quả dứa và nước dừa càng làm chúng tôi sướng mê người.
-Nếu hôm nay chúng ta không trở về tàu Nau-ti-lúx thì sao nhỉ!
-Công-xây hỏi.
-Nếu chúng ta không bao giờ trở về tàu nữa thì sao nhỉ?
-Nét nói thêm. Lúc đó một hòn đá bỗng rơi ngay gần chỗ chúng tôi ngồi, và câu hỏi của Nét chẳng có ai trả lời.
__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #22  
Old 05-01-2005, 08:41 AM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Chương 22 - tiếng sét của thuyền trưởng Nê-mô


Chúng tôi quay đầu nhìn về phía rừng. Tôi sửng sốt. Chẳng kịp đưa thìa lên miệng. Nét Len đang kết thúc công việc.
-Đá không phải từ trên trời rơi xuống, -Công-xây nói, -trừ thiên thạch. Hòn đá thứ hai tròn trặn làm chiếc thìa trong tay Công-xây rơi xuống, càng thêm trọng lượng cho nhận xét của anh ta. Chúng tôi bật dậy và đưa súng lên vai để chuẩn bị đẩy lùi cuộc tấn công.
-Có lẽ đá do khỉ ném, -Nét nói.
-Hình như vậy, -Công-xây trả lời, nhưng ngay sau đó anh ta hét lên:
-Thổ dân!
-Về xuồng mau!
-Tôi hô. Chúng tôi chạy như bay về phía bờ biển. Hành động của chúng tôi thật kịp thời. Phía bên phải, cách chúng tôi chừng một trăm mét, ở cửa khu rừng nhỏ xuất hiện chừng hai chục thổ dân trang bị cung tên. Chúng tôi còn cách bờ độ hai chục mét. Toán thổ dân đi từ từ nhưng rõ ràng có thái độ thù địch. Vì vậy đá và tên tới tấp bay đến! Mặc dù đang bị đe dọa nghiêm trọng, Nét vẫn không quên chỗ thực phẩm vừa kiếm được. Anh ta kẹp thịt lợn vào nách, còn tay thì xách con đại thử. Hai phút sau, chúng tôi tới bờ. Cho thực phẩm và vũ khí xuống thuyền, đẩy thuyền ra khỏi bờ và cầm lấy mũi chèo chỉ mất một phút đồng hồ. Xuồng ra cách bờ chưa tới bốn trăm mét thì có đến hơn một trăm thổ dân lội xuống nước đến ngực, vừa đuổi theo vừa kêu lên một cách man rợ và huơ tay đe dọa. Tôi không rời mắt khỏi tàu Nau-ti-lúx và hy vọng tiếng la hét của thổ dân sẽ khiến thủy thủ trên tàu chú ý. Nhưng không, trên boong chiếc tàu ngầm đồ sộ vẫn vắng lặng như tờ. Độ hai mươi phút sau, chúng tôi bước lên boong tàu. Nắp tàu để ngỏ. Chúng tôi buộc chắc thuyền rồi đi vào trong tàu. Từ phòng khách vọng ra tiếng đại phong cầm. Tôi vào. Thuyền trưởng Nê-mô đang cúi xuống các phím đàn và thả hồn trong thế giới âm thanh.
-Thuyền trưởng!
-Tôi gọi. Nê-mô không nghe thấy gì.
-Thuyền trưởng!
-Tôi chạm tay vào vai ông ta. Nê-mô giật mình quay lại:
-Giáo sư đấy ư! Đi săn có được nhiều không?
-Thưa thuyền trưởng, được rất nhiều. Nhưng chẳng may chúng tôi lại dẫn theo cả một bầy hai chân!
-Cái gì hai chân?
-Bọn man rợ!
-Man rợ à?
-Nê-mô nhắc lại bằng một giọng hài hước.
-Giáo sư ngạc nhiên khi đặt chân lên một nơi nào đó trên trái đất, ngài lại gặp những người man rợ à? Người man rợ thì ở đâu chẳng có? Những người ngài gọi là man rợ kém những người khác ở chỗ nào?...
-Nhưng thưa thuyền trưởng...
-Riêng tôi, thưa giáo sư, tôi gặp bọn man rợ ở khắp nơi.
-Nhưng nếu thuyền trưởng không muốn thấy họ trên tàu Nau-ti-lúx này thì có cần áp dụng những biện pháp phòng ngừa không?
-Giáo sư chớ lo, chẳng có gì phải phòng ngừa họ cả.
-Nhưng chúng rất đông.
-Thế ngài đếm được bao nhiêu?
-ít nhất là một trăm.
-Thưa ngài A-rô-nắc, -tay Nê-mô vẫn không rời khỏi phím đàn, -cứ cho tất cả dân ở Niu Ghê-nê này tập trung ở bờ, tàu Nau-ti-lúx cũng chẳng sợ gì. Những ngón tay của Nê-mô lướt trên phím đàn. Tôi nhận thấy ông ta chỉ bấm xuống những phím đen. Vì vậy, các giai điệu, có màu sắc hoàn toàn Xcốt-len. Nê-mô quên hẳn sự có mặt của tôi mà thả hồn vào cõi mộng. Tôi chẳng muốn quấy rầy ông ta nữa. Tôi lên boong. Đêm đã đến. ở độ vĩ này mặt trời thường lặn đột ngột và không có hoàng hôn. Đảo Ghê-bô-Roa đã nhòa đi trong sương mù phía xa. Nhưng những đống lửa còn cháy trên bờ chứng tỏ thổ dân chưa muốn giải tán. Tôi đứng một mình trên boong mấy tiếng liền, khi thì nhớ lại chuyện chạm trán với thổ dân nhưng không còn hoảng sợ nữa vì sự vững tin của thuyền trưởng đã truyền sang tôi -khi thì ngắm cảnh huy hoàng của đêm nhiệt đới. Tôi nhớ nước Pháp và dõi theo chòm sao hoàng đạo mấy giờ nữa sẽ lấp lánh trên bầu trời Tổ quốc tôi. Trăng mọc. Tôi nghĩ, vệ tinh trung thành và duyên dáng của hành tinh chúng ta hăm bốn tiếng đồng hồ nữa sẽ quay lại vùng biển này để dâng nước lên và nâng thuyền ra khỏi bãi san hô này. Đến gần nửa đêm, khi đã thấy rõ rằng trên những làn nước đen thẫm này cũng yên tĩnh như trong những khu rừng gần bờ, tôi xuống phòng riêng và ngủ một giấc ngon lành. Đêm trôi qua một cách êm ả. Chắc thổ dân Pa-poa hoảng sợ trước con quái vật đang nằm trên bãi san hô, nếu không, họ có thể dễ dàng lọt vào trong tàu. Chín giờ sáng mùng 8 tháng giêng tôi lên boong. Sương mù tan dần, và một lúc sau đảo hiện ra: thoạt tiên là dải bờ biển, sau đó là những ngọn núi cao. Thổ dân vẫn tụ tập trên bờ. Họ đông hơn hôm trước có tới năm, sáu trăm người. Những người gan dạ hơn lợi dụng lúc triều xuống, tiến cách chỗ tàu đỗ chừng gần bốn trăm mét. Tôi thấy rõ mặt họ. Đó là những người Pa-poa chính cống, thân hình lực lưỡng, trán rộng và thẳng đứng, mũi to nhưng không tẹt, răng trắng. Thật là một bộ lạc đẹp đẽ! Bộ tóc quăn hung đỏ rất trái ngược với nước da đen bóng. Rái tai xẻ đôi đeo những khuyên bằng xương xệ xuống. Nói chung họ không mặc quần áo. Tôi thấy mấy người đàn bà mặc váy đan bằng cỏ, che không kín đầu gối. Một số đàn ông đeo những chuỗi hạt trắng và đỏ ở cổ. Hầu hết đều trang bị cung tên và lá chắn, sau lưng đeo lưới đựng đầy đá tròn mà họ phóng đi rất trúng đích.
Một thủ lĩnh của họ tiến đến khá gần tàu và chăm chú quan sát. Muốn bắn hắn ta thật chẳng khó gì. Nhưng tôi cho rằng tốt hơn là nên đợi họ tấn công trước. Khi chạm trán với thổ dân thì nên tự vệ hơn là tấn công. Trong thời gian nước triều xuống, thổ dân cứ luẩn quẩn ở quanh tàu nhưng không tỏ vẻ thù địch gì. Họ lặp đi lặp lại từ "át xát" mà theo cử chỉ của họ, tôi hiểu rằng họ muốn mời tôi lên bờ, nhưng tôi từ chối. Đến 11 giờ trưa, khi triều bắt đầu dâng lên làm các mỏm đá san hô chìm xuống thì đám thổ dân quay lên bờ. Chắc họ từ các đảo lân cận, đúng hơn là từ đảo Pa-poa đến. Tuy vậy, chẳng thấy một chiếc thuyền độc mộc nào. Để giết thời gian, tôi nảy ra một ý kiến nạo vét dưới đáy biển một chút, vì ở đây rất nhiều sò ốc và tảo. Qua làn nước trong vắt, có thể nhìn thấu biển sâu. Vả lại, hôm nay là ngày cuối cùng tàu Nau-ti-lúx ở vùng biển này, vì theo lời thuyền trưởng Nê-mô, ngày mai khi triều lên, tàu Nau-ti-lúx sẽ quay ra khơi. Tôi gọi Công-xây mang đến cho tôi một cái gàu.
-Còn những thổ dân kia thì sao?
-Công-xây hỏi.
-Thưa giáo sư, hình như họ cũng không đến nỗi dữ tợn lắm.
-Nhưng họ ăn thịt người anh bạn ạ!
-Chắc họ ăn thịt người, nhưng có thể vẫn lương thiện.
-Thôi được, Công-xây ạ, cứ tạm cho ý kiến anh là đúng. Giả sử họ chén thịt tù binh một cách lương thiện, nhưng tôi vẫn không muốn bị thịt nên phải cảnh giác. Rõ ràng là thuyền trưởng Nê-mô không chuẩn bị những biện pháp đề phòng. Suốt hai tiếng đồng hồ, chúng tôi nạo vét đáy biển nhưng chẳng vớt được cái gì đáng kể... Tuy vậy, cuối cùng tôi bỗng vớ được một vật lạ của thiên nhiên, một vật hết sức hiếm. Đó là một vỏ ốc không xoắn từ phải sang trái như thường thấy, mà xoắn từ trái sang phải. Tôi và Công-xây đang mải ngắm cái vỏ ốc quý giá ấy và tôi đã nghĩ tới việc mang nó về viện bảo tàng Pa-ri thì một hòn đá bỗng rơi trúng con ốc làm nó vỡ nát trong tay Công-xây. Tôi hét lên. Công-xây vớ lấy khẩu súng của tôi, giơ lên ngắm vào người thổ dân đứng cách chỗ tôi chừng mười mét. Tôi lao tới chỗ Công-xây, nhưng anh ta đã bóp cò. Viên đạn có điện làm vỡ tan cái vòng đeo ở cổ tay người đó. Tôi kêu:
-Công-xây! Công-xây!
-Thưa giáo sư, ngài không thấy nó tấn công ta trước hay sao?
-Nhưng một con ốc không đáng để hại một người.
-Chà, quân ăn hại!
-Công-xây rít lên.
-Thà nó làm gãy vai mình đi còn hơn! Công-xây nói thành thực, nhưng tôi vẫn giữ vững ý kiến của mình. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi mà chúng tôi mải mê với cái vỏ ốc thì tình hình đã biến đổi. Độ hai chục chiếc thuyền độc mộc vây quanh tàu Nau-ti-lúx. Thuyền độc mộc của thổ dân vùng này là những thân cây đẽo, dài và hẹp, đi rất nhanh và vững vàng. Trên thuyền là những người mình trần đóng khố. Tôi không khỏi lo lắng khi thấy họ ngày càng lướt tới gần tàu.
Chắc dân Pa-poa đã quan hệ với người Œu nên khá quen thuộc tàu thuyền của họ. Nhưng còn "điếu xì gà" bằng thép dài, hơi nhô lên mặt nước, không cột buồm, không ống khói này thì sao? Nó chẳng hứa hẹn điều gì tốt lành cả! Vì vậy một thời gian họ không dám đến gần tàu. Nhưng thấy tàu đứng yên họ mạnh bạo dần và chờ thời cơ để "làm quen" với chúng tôi. Súng của chúng tôi bắn không kêu nên họ không sợ như những loại súng nổ to... Những chiếc thuyền độc mộc đã tới sát tàu và tên bắt đầu rơi như mưa bên boong.
-Quả là chúng bắn như mưa rào!
-Công-xây nói.
-Chẳng biết tên có tẩm thuốc độc không?
-Phải báo cho thuyền trưởng Nê-mô biết mới được, -tôi vừa nói vừa bước vào trong tàu. Tôi đi thẳng vào phòng khách. ở đó chẳng có ai. Tôi bèn gõ cửa phòng thuyền trưởng.
-Mời vào, -có tiếng trả lời phía sau cửa. Tôi bước vào. Thuyền trưởng đang bận tính toán, trên giấy toàn những dấu X và những công thức đại số phức tạp.
-Tôi đã làm phiền thuyền trưởng?
-Tôi hỏi một cách lịch sự.
-Thưa ngài, đúng vậy. Nhưng chắc ngài có lý do gì đó quan trọng lắm.
-Hết sức quan trọng! Thuyền của thổ dân đã bao vây tàu và mấy phút nữa chắc chúng ta sẽ phải chống lại cuộc tấn công của họ.
-à! Thuyền trưởng bình tĩnh nói.
-Họ đến bằng thuyền độc mộc à?
-Vâng.
-Được! Cần đóng nắp tàu lại.
-Tất nhiên! Tôi đến để báo ngài biết.
-Không có gì đơn giản hơn, -Nê-mô nói. Rồi Nê-mô bấm chuông điện ra lệnh cho thủy thủ.
-Thưa giáo sư, thế là xong. Xuồng đã được đặt vào chỗ cũ, nắp tàu đã đóng. Tôi chắc ngài không sợ các vị đó chọc thủng vỏ tàu mà ngay đạn đại bác trên chiếc tàu chiến của ngài cũng không làm gì nổi.
-Thưa thuyền trưởng, vấn đề không phải ở chỗ đó! Có một mối nguy khác.
-Mối nguy gì, thưa ngài?
-Ngày mai, cũng vào giờ này, ta lại phải mở nắp tàu để bơm không khí vào các bể chứa.
-Đúng vậy! Tàu chúng ta thở theo kiểu cá voi.
-Lúc đó bọn Pa-poa sẽ chiếm boong tàu! Ta làm thế nào để trừ được chúng?
-Giáo sư tin rằng họ sẽ trèo lên tàu?
-Tôi tin vậy.
-Được, cứ để họ trèo lên. Tôi thấy không có lý do gì cản trở họ. Dân Pa-poa thật đáng thương! Tôi không muốn việc mình đến thăm đảo Ghê-bô-roa lại làm một người nào của họ bị thiệt mạng! Nói chuyện xong, tôi muốn cáo từ, nhưng Nê-mô giữ tôi lại và mời tôi ngồi xuống bên cạnh. ông ta hỏi han tôi về những chuyến đi săn trên đảo và hình như không thể hiểu nổi sự thèm ăn thịt của Nét. Sau đó câu chuyện chuyển sang đề tài khác. Tuy Nê-mô không cởi mở hơn trước, nhưng tôi thấy ông ta có vẻ đáng yêu hơn. Chúng tôi đề cập tới tình hình tàu Nau-ti-lúx bị mắc cạn ở vùng biển, nơi tàu của Đuy-mông Đuyếc-vin suýt bị đắm. Nê-mô nói:
-ông Đuyếc-vin là một trong những người đi biển vĩ đại của nước ông và là một trong những nhà hàng hải thông thái nhất. ông ta thật bất hạnh! ông ta đã chế ngự được băng giá Nam cực, những bãi san hô ngầm của châu Đại dương, nhưng lại chết một cách vô nghĩa trong một tai nạn xe lửa! Nếu như con người cương nghị ấy có thời gian suy nghĩ trong những phút cuối cùng của đời mình thì giáo sư thử hình dung xem ông ta sẽ đau đớn đến mức nào? Nói những lời đó, Nê-mô không giấu được xúc động, và sự xúc động đó khiến ông ta đáng tôn kính.
-Những việc ông Đuyếc-vin làm trên mặt biển, -Nê-mô nói tiếp, -tôi đã làm lại dưới biển sâu, nhưng chính xác hơn và tốn ít công sức hơn. Tàu A-xtơ-rô-láp và Dê-lê trước kia luôn luôn phải chống chọi với bão biển, không thể sánh được với tàu Nau-ti-lúx
-một tòa nhà ngầm dưới nước, một phòng nghiên cứu thật yên tĩnh!
-Nhưng thưa thuyền trưởng, -tôi nói, -giữa tàu của Đuyếc-vin và tàu Nau-ti-lúx có một vài chỗ giống nhau.
-Thưa giáo sư, giống nhau ở chỗ nào?
-Cả ba tàu đều bị mắc cạn ở chỗ này!
-Thưa ngài, tàu Nau-ti-lúx không bị mắc cạn đâu, -Nê-mô lạnh lùng trả lời.
-Cấu tạo của nó cho phép ta có thể nghỉ ngơi thoải mái giữa biển. Và để thoát khỏi chỗ cạn này, tôi không phải quá mệt nhọc như ông Đuyếc-vin đâu. Tàu A-xtơ-rô-láp và Dê-lê suýt nữa thì chết ở eo biển này, còn tàu Nau-ti-lúx của tôi thì chẳng gặp một nguy hiểm gì. Ngày mai vào giờ đã định, nước triều dâng sẽ nhẹ nhàng nâng tàu lên và tàu sẽ chạy ra khơi.
-Thưa thuyền trưởng, tôi không nghi ngờ.
-Đêm mai, -Nê-mô kết luận, -đêm mai vào hai giờ bốn mươi phút, tàu Nau-ti-lúx sẽ nổi lên và ra khỏi eo biển này một cách vô sự. Nê-mô nói những lời đó một cách rất gay gắt rồi đứng dậy, gật đầu tỏ ý kết thúc câu chuyện. Tôi trở về phòng riêng của mình. Công-xây đang ở đó. Anh ta muốn biết kết quả cuộc gặp gỡ với Nê-mô thế nào.
-Bạn ơi, -tôi nói, -Nê-mô đã cười tôi khi tôi vừa đề cập tới chuyện thổ dân Pa-poa đe dọa tàu Nau-ti-lúx. Thôi được, chúng ta cứ trông cậy ở thuyền trưởng và chúc nhau ngủ ngon. Tôi nằm xuống nhưng ngủ không yên giấc. Vọng đến tai tôi những tiếng kêu điên dại của thổ dân đã ùa lên boong tàu. Thủy thủ vẫn im lìm như cũ. Họ chẳng hề lo lắng gì về sự có mặt của đám thổ dân trên tàu. Tôi thức dậy lúc sáu giờ sáng. Nắp tàu còn đóng kín. Đúng là dưỡng khí không được dự trữ thêm từ hôm qua. Tuy vậy, những bình dưỡng khí dự trữ được sử dụng kịp thời đã cung cấp mấy mét khối, làm không khí dễ thở hơn. Tôi làm việc trong phòng đến giữa trưa mà chẳng thấy bóng Nê-mô đâu. Cũng chẳng thấy một sự chuẩn bị nào cho tàu chạy. Đợi thêm một lát, tôi ra phòng khách. Đồng hồ chỉ hai giờ rưỡi. Mười phút nữa, nước triều sẽ lên tới mức cao nhất, và nếu thuyền trưởng Nê-mô tính toán không lầm thì tàu sẽ thoát khỏi chỗ cạn. Nếu không, nó sẽ phải nằm hàng tháng trên bãi san hô này. Kìa thân tàu đã bắt đầu rung chuyển, báo hiệu trước một sự giải phóng! Hai giờ ba mươi phút, thuyền trưởng bước vào phòng khách và nói:
-Chúng ta bắt đầu đi.
-Vâng!
-Tôi trả lời.
-Tôi đã ra lệnh mở nắp tàu.
-Thế còn bọn Pa-poa?
-Bọn Pa-poa à?
-Nê-mô hơi nhún vai.
-Nhỡ chúng lọt được vào trong tàu thì sao?
-Lọt vào bằng cách nào?
-Qua nắp tàu.
-Thưa ngài A-rô-nắc, -Nê-mô điềm tĩnh trả lời, -không phải bao giờ cũng vào được qua nắp tàu Nau-ti-lúx ngay khi nó mở. Tôi nhìn Nê-mô.
-Giáo sư không hiểu à?
-ông ta hỏi.
-Hoàn toàn không.
-Mời giáo sư theo tôi, rồi ngài sẽ hiểu hết. Chúng tôi tới cầu thang giữa. Nét Len và Công-xây đã có mặt ở đó và đang tò mò xem mấy thủy thủ mở nắp tàu. Những tiếng la hét từ boong tàu vọng xuống. Nắp tàu được lật ra phía ngoài... khoảng hai chục bộ mặt đáng sợ nhòm xuống. Nhưng người thổ dân thứ nhất chưa kịp nắm tay vào tay vịn cầu thang thì đã bị một sức mạnh vô hình hất ngửa ra phía sau. Người đó rú lên một cách man rợ và cắm đầu chạy. Khoảng một chục người khác định lao xuống cầu thang nhưng cũng chịu chung số phận đó. Công-xây khoái trá. Nét Len bị bản năng kích thích cũng lao tới cầu thang. Nhưng vừa chạm vào tay vịn, anh ta cũng bị hất ngửa ra phía sau.
-Đồ quỷ!
-Nét gầm lên.
-Tôi như bị sét đánh. Đến đây thì tôi đã hiểu hết. Những tay vịn ở cầu thang chính là những dây cáp có điện mạnh. Ai đụng vào đó cũng bị giật. Điện giật có thể chết người nếu Nê-mô cho chạy vào đó tất cả các ắc quy trên tàu! Tóm lại, giữa những kẻ đang tấn công và chúng tôi tựa như có một bức màn điện mà chẳng ai lọt qua được một cách an toàn. Những người Pa-poa hoảng sợ xô nhau chạy. Còn chúng tôi thì phải nín cười mà an ủi và xoa bóp cho Nét Len lúc đó đang chửi bới ầm ĩ. Một đợt sóng lớn bỗng nâng tàu Nau-ti-lúx lên khỏi bãi san hô! Lúc đó là hai giờ bốn mươi phút, đúng thời gian Nê-mô đã nói. Chân vịt bắt đầu quay với tốc độ ngày càng tăng. Chiếc tàu ngầm nổi lên mặt đại dương và ra khỏi eo biển Tô-rex nguy hiểm một cách bình yên vô sự.
__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #23  
Old 05-01-2005, 08:42 AM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Chương 23 - Cơn ngủ không thể giải thích được

Hôm sau, mùng 10 tháng giêng, tàu Nau-ti-lúx ra khơi. Nó chạy với tốc độ ba mươi nhăm hải lý một giờ. Chân vịt quay nhanh đến nỗi tôi không thể tính được bao nhiêu vòng trong một phút. Nhưng khi tôi nhớ tới sức điện, cái sức mạnh thần kỳ chẳng những đẩy tàu chạy, sưởi ấm và chiếu sáng tàu mà còn bảo vệ tàu chống lại sự tấn công từ bên ngoài, biến tàu thành một vật bất khả xâm phạm. Và những ý nghĩ của tôi bất giác lại hướng về người đã tạo ra sức mạnh thần kỳ đó! Chúng tôi đi thẳng về hướng tây và ngày 11 tháng giêng vòng qua mũi Oét-xen. Đảo này rộng một ngàn sáu trăm hăm nhăm dặm vuông, do những tù trưởng Rát-giơ cai trị. Những tù trưởng này tự nhận là con trai của cá sấu, nói khác đi là xem mình thuộc loài thượng đẳng. Tổ tiên của họ -cá sấu -rất nhiều ở các con sông vùng này và được tôn sùng đặc biệt. Chúng được bảo vệ, chiều chuộng, cho ăn và được hiến dâng cả những cô gái đẹp. Rủi ro cho những thổ dân nào dám động tới con vật linh thiêng này! Nhưng tàu Nau-ti-lúx không chạm trán với chúng. Tàu chạy ngang qua đảo Ti-mo lúc giữa trưa, khi viên thuyền phó lên quan sát như thường lệ...
Đến đây, tàu Nau-ti-lúx hướng về phía tây nam và tiến vào ấn Độ Dương. Thuyền trưởng Nê-mô định đưa chúng tôi đến phương trời nào đây? ông ta có quay lại bờ biển châu á không? Hay ông ta đến bờ biển châu Œu? Chắc không! Kẻ đang trốn tránh những lục địa đông người đi về phía đó làm gì? Hay Nê-mô sẽ vòng qua mũi Hảo Vọng và mũi Hoóc? Liệu ông ta có dám cho tàu đi Nam Cực không? Hay ông ta lại quay về Thái Bình Dương mênh mông, nơi tàu Nau-ti-lúx có thể tha hồ vùng vẫy? Tương lai sẽ giải đáp những câu hỏi này! Ngày 14 tháng giêng, tàu đã ra tới giữa biển khơi. Nó chuyển sang tốc độ trung bình và theo lệnh thuyền trưởng, lúc thì lặn xuống sâu, lúc thì nổi lên mặt nước. Trong khi tàu chạy, Nê-mô tiến hành những cuộc đo nhiệt độ đại dương ở những độ sâu khác nhau. Tôi theo dõi việc nghiên cứu đó một cách hết sức thú vị. Nê-mô rất say 81 82 sưa với những thí nghiệm của mình. Tôi thường tự hỏi: ông ta nghiên cứu khoa học để làm gì? Để phục vụ loài người ư? Chắc không phải, vì sớm muộn những công trình nghiên cứu của ông ta cũng sẽ chết theo ông ta ở một vùng biển nào đó không được ghi trên bản đồ!... Tuy vậy, thuyền trưởng Nê-mô vẫn giới thiệu với tôi những số liệu thu được về kết quả nghiên cứu độ đậm đặc của nước ở những vùng biển chủ yếu nhất trên trái đất. Qua câu chuyện, tôi được biết Nê-mô không lảng tránh những vùng biển nhộn nhịp của châu Œu. Từ đó, tôi kết luận rằng sẽ có lúc
-chẳng biết sớm hay muộn
-chúng tôi sẽ tới gần bờ những lục địa văn minh hơn. Tôi nghĩ Nét Len chắc sẽ mừng lắm trước khả năng này. Tôi và thuyền trưởng Nê-mô có khi bỏ ra mấy ngày liền để nghiên cứu khoa học: xác định các độ sâu khác nhau của nước biển, xác định độ sâu của ánh sáng xuyên qua nước biển. Trong mọi trường hợp, Nê-mô đều tỏ ra có đầu óc sáng tạo lạ thường. Sau đó, ông ta lại biến mất và tôi lại trở về tình trạng cô đơn trên chiếc tàu ngầm của ông ta. Ngày 16 tháng giêng, tàu Nau-ti-lúx dường như chìm trong giấc ngủ say dưới mặt biển mấy mét. Các máy điện ngừng chạy, chân vịt ngừng quay, để mặc con tàu trôi theo dòng nước. Tôi đinh ninh rằng các thủy thủ đang bận chữa máy vì vừa qua tàu đã chạy quá nhanh. Cũng hôm đó, tôi và các bạn tôi được chứng kiến một hiện tượng kỳ lạ. Cánh cửa sắt ở phòng khách mở ra. Chiếc đèn pha không bật sáng. Bầu trời bị mây dông bao phủ đang chiếu ánh sáng yếu ớt xuống lớp nước trên cửa đại dương. Tôi đang ngắm nhìn vùng nước xung quanh và những con cá lớn bơi ngang qua tàu thì bỗng rơi vào một dải ánh sáng :Di lòa. Thoại tiên tôi tưởng rằng đèn pha vừa bật lên, nhưng khi nhìn kỹ hơn, tôi hiểu là mình đã lầm. Tàu Nau-ti-lúx bị dòng nước cuốn vào vùng nước sáng. ánh sáng đó do hằng hà sa số những cơ thể li ti dưới biển phát ra và càng được tăng lên khi gặp vỏ tàu bằng kim loại phản chiếu. Suốt mấy giờ liền, tàu chạy trong vùng nước đó. Chúng tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy những con cá lớn vùng vẫy trong đó! Trong ánh sáng sinh động ấy tung tăng những chú cá heo, những anh "hề" không biết mệt mỏi của biển cả, và loài cá kiếm -báo bão -dài tới ba mét, nhiều khi chạm kiếm vào ô cửa kính của tàu. Sau đó xuất hiện hàng trăm loài cá nhỏ. Có lẽ phía trên đại dương đang có dông, nhưng ở dưới sâu mấy mét này thì không cảm thấy gì. Tàu vẫn bệp bềnh giữa những làn sóng biển. Những cảnh kỳ diệu nối tiếp nhau hiện ra trước những con mắt kinh ngạc của chúng tôi. Cuộc sống trong chiếc tàu ngầm đối với chúng tôi hình như có vẻ tự nhiên và dễ chịu hơn trước nhiều. Chúng tôi bắt đầu quên rằng có một cuộc sống khác trên trái đất này. Nhưng một chuyện bất ngờ đã xảy ra kéo chúng tôi trở lại thực tế. Ngày 18 tháng giêng, tàu Nau-ti-lúx chạy ngang qua 105 độ kinh và 15 độ vĩ. Mây đen kéo đến, biển động.
Phong vũ biểu mấy ngày qua xuống dần, báo trước một cơn bão. Tôi lên boong đúng lúc viên thuyền phó đang quan sát chân trời. Tôi chờ ông ta nói lên câu nói thường lệ. Nhưng lần này ông ta lại nói một câu khác mà tôi cũng chẳng hiểu gì. Thuyền trưởng Nê-mô lập tức xuất hiện trên boong. ông ta đưa kính lên quan sát chân trời. Mấy phút liền ông ta chăm chú theo dõi một chấm đen ở phía xa. Sau đó, ông ta quay lại trao đổi mấy câu với thuyền phó. Thuyền phó tỏ vẻ rất xúc động tuy đã cố giữ bình tĩnh. Nê-mô tự chủ hơn. Chắc ông ta vừa phát biểu một ý kiến gì mà viên thuyền phó không tán thành. Tôi đoán như vậy là căn cứ vào giọng nói và cử chỉ của hai người. Tôi căng mắt nhìn về phía xa mù sương nhưng chẳng thấy gì. Chân trời vẫn hoang vắng. Thuyền trưởng Nê-mô đi đi lại lại trên boong và không nhìn về phía tôi. Bước chân Nê-mô vẫn chắc nịch nhưng có vẻ không đều đặn như lúc thường. Đôi khi ông ta dừng lại và khoanh tay trước ngực nhìn ra biển. ông ta tìm gì trong đại dương mênh mông này? Tàu Nau-ti-lúx còn cách bờ hàng trăm hải lý. Đến lượt viên thuyền phó đưa ống kính lên quan sát. ông ta bồn chồn, nôn nóng ra mặt, khác hẳn với thuyền trưởng. Câu chuyện khó hiểu này cũng sắp được sáng tỏ vì theo lệnh Nê-mô, máy móc trên tàu bắt đầu hoạt động khẩn trương. Viên thuyền phó lại lưu ý Nê-mô về một chấm đen phía chân trời. Nê-mô dừng lại rồi đưa ống kính về phía đó. ông ta quan sát rất lâu. Còn tôi vì bị kích thích ghê gớm bởi chuyện đó nên xuống phòng khách lấy một ống kính rất tốt mà tôi vẫn dùng rồi mang lên boong. Nhưng tôi chưa kịp đưa ống kính lên mắt thì nó đã bị giật ra khỏi tay tôi. Tôi quay lại. Trước mặt tôi là thuyền trưởng Nê-mô. Tôi không nhận ra ông ta nữa. Mặt ông ta biến dạng đi: hai mắt đỏ ngầu, lông mày nhíu lại, hai bàn tay nắm chặt, đầu rụt lại
-tất cả đều toát lên sự căm giận cao độ. Nê-mô không nhúc nhích! ống kính nằm lăn dưới sàn. Vì sao Nê-mô nổi giận? Hay ông ta cho rằng tôi đã khám phá ra điều bí mật mà với tư cách là tù nhân của tàu Nau-ti-lúx tôi không được đụng chạm tới? Không! Nê-mô không nổi giận vì tôi! Thậm chí ông ta chẳng nhìn tôi nữa. ông ta đăm đăm nhìn chân trời. Cuối cùng Nê-mô đã tự chủ được. Mặt ông ta trở lại lạnh lùng như lúc thường. ông ta trao đổi vài lời với viên thuyền phó. Rồi ông ta nói với tôi như ra lệnh:
-Ngài A-rô-nắc, ngài cần tuân theo điều kiện đã ràng buộc ngài với tôi.
-Thưa thuyền trưởng, điều kiện gì vậy?
-Ngài và hai người cùng đi phải ở trong phòng kín cho tới khi tôi thấy có thể phóng thích được các ngài. Tôi trả lời, mắt nhìn đăm đăm vào Nê-mô:
-ở đây ngài là chủ. Nhưng xin phép ngài cho hỏi một câu.
-Không hỏi gì hết, thưa ngài! Tranh cãi lúc này là vô ích. Tôi đành phục tùng. Tôi vào phòng của Nét Len và Công-xây báo cho họ biết ý định của thuyền trưởng. Các bạn thử hình dung xem mệnh lệnh đó đã gây ấn tượng thế nào đối với Nét! Nhưng còn đâu thì giờ để lý sự nữa! Bốn thủy thủ đã chờ chúng tôi ở cửa. Chúng tôi được đưa sang đúng cái phòng mà họ đã giam giữ chúng tôi ngày đầu tiên trên tàu Nau-ti-lúx. Nét Len định phản đối, nhưng cánh cửa đã sập lại.
-Thưa giáo sư, ngài có hiểu vì sao lại xảy ra chuyện này không?
-Công-xây hỏi. Tôi kể lại tất cả những điều đã thấy. Nét và Công-xây cũng ngạc nhiên như tôi và cũng chẳng đoán ra chuyện gì. Vẻ mặt giận dữ của thuyền trưởng vẫn ám ảnh đầu óc tôi. Tôi suy nghĩ mung lung và đề ra những giả thiết vớ vẩn. Tiếng reo của Nét kéo tôi ra khỏi sự suy nghĩ:
-Kìa, trên bàn có thức ăn sáng! Mệnh lệnh này chắc đã được thi hành lúc thuyền trưởng ra lệnh cho tàu phóng nhanh. Công-xây bảo tôi:
-Xin giáo sư cho phép tôi khuyên một điều.
-Anh bạn cứ nói.
-Giáo sư nên ăn sáng cho chắc dạ. Vì chưa biết sẽ xảy ra chuyện gì.
-Anh nói đúng.
-Chao ôi, người ta lại cho ăn món cá!
-Nét Len phàn nàn.
-Anh bạn Nét ơi, nếu không được ăn sáng thì sao hả anh? ý kiến của Công-xây làm Nét hết kêu ca. Chúng tôi ngồi vào bàn và ăn một cách lặng lẽ. Tôi ăn ít. Công-xây thì tự ép mình ăn đề phòng bất trắc. Còn Nét thì chẳng bỏ phí một chút nào! †n xong, chúng tôi tựa vào các góc phòng mà thiu thiu ngủ. Bóng đèn bán cầu tắt đi khiến chúng tôi chìm trong bóng tối. Nét thiếp đi ngay. Tôi ngạc nhiên vì Công-xây cũng vậy! Cái gì đã gây cho anh ta cơn ngủ bất ngờ ấy? Cả tôi nữa cũng bắt đầu buồn ngủ díp mắt. Tôi chống lại. Nhưng hai mí cứ trĩu xuống và khép lại. Tôi bắt đầu thấy ảo ảnh. Đúng là thức ăn vừa rồi có trộn lẫn thuốc ngủ! Chẳng lẽ Nê-mô đã nhốt chúng tôi vào phòng kín lại còn bắt chúng tôi dùng thuốc ngủ nữa sao? Tôi thu hết sức lực còn lại để chống chọi với cơn ngủ. Nhưng không nổi nữa rồi! Ngày càng khó thở hơn. Chân tay tôi bị lạnh cứng ra như bị liệt. Mi mắt nặng như chì khép chặt lại không sao mở ra được. Tôi thấy ác mộng. Nhưng mộng mị bỗng chấm dứt. Tôi ngất đi.
__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #24  
Old 05-01-2005, 08:42 AM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Chương 24 - Vương quốc san hô

Đến sáng tôi tỉnh dậy, đầu óc tỉnh táo. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy mình nằm trên giường trong phòng riêng. Chắc Nét và Công-xây cũng được khiêng về phòng riêng của họ. Họ cũng không thể biết chuyện gì xảy ra đêm qua hơn tôi. Chỉ còn hy vọng một sự tình cờ nào đó trong tương lai sẽ làm sáng tỏ câu chuyện bí ẩn này. Tôi muốn thở hít không khí trong lành. Nhưng không biết có ra ngoài được không, cửa phòng có bị khóa không? Tôi đẩy cửa. Cửa không bị khóa. Tôi theo hành lang hẹp đi về phía thang. Nắp tàu hôm trước đóng kín, nay đã mở. Tôi lên boong. Nét Len và Công-xây đã đợi tôi ở đó. Tôi hỏi họ đêm qua thế nào, nhưng họ chẳng nhớ gì. Hôm qua họ bị thiếp đi đến sáng nay mới tỉnh dậy, và rất ngạc nhiên thấy mình nằm trong phòng riêng! Tàu Nau-ti-lúx vẫn im lìm và bí ẩn như trước. Nó đang chạy giữa biển khơi với tốc độ vừa phải. Trên tàu chẳng thấy một sự thay đổi nào. Nét Len uổng công quan sát chân trời. Đại dương vắng lặng. Nét chẳng thấy một cánh buồm nào, một dải đất nào. Gió tây thổi mạnh. Con tàu bập bềnh trên sóng. Sau khi dự trữ không khí, tàu lại lặn xuống sâu độ mười lăm mét. Khi cần tàu có thể dễ dàng nổi lên mặt nước. Hôm đó, 19 tháng giêng, khác với lệ thường, tàu nhiều lần nổi lên lặn xuống.
Và cứ mỗi lần nổi lên, viên thuyền phó lại lên boong và nói câu nói quen thuộc. Thuyền trưởng Nê-mô không xuất hiện. Trong số thủy thủ, hôm đó tôi chỉ thấy người phục vụ vẫn lặng lẽ cho chúng tôi ăn uống một cách chu đáo. Khoảng hai giờ chiều, tôi đang ngồi chỉnh lý lại những ghi chép của mình thì thuyền trưởng Nê-mô vào. Tôi chào ông ta. Nê-mô gật đầu chào lại. Tôi tiếp tục công việc và thầm hy vọng rằng Nê-mô sẽ nói tới những việc xảy ra đêm qua. Nhưng ông ta chẳng nói gì. Tôi nhìn Nê-mô. ông ta có vẻ mệt mỏi, hai mắt đỏ ngầu chứng tỏ đã thức trắng đêm. Một nỗi buồn sâu sắc và sự đau khổ thực sự đã in dấu trên khuôn mặt cương nghị của Nê-mô. ông ta đi đi lại lại trong phòng, ngồi xuống đi-văng rồi lại đứng dậy cầm lấy một cuốn sách nào đó rồi lại ném xuống, đến xem các máy móc nhưng không ghi chép gì như mọi khi. Hình như Nê-mô đang xúc động lắm. Cuối cùng Nê-mô hỏi tôi:
-Ngài A-rô-nắc, ngài là bác sĩ phải không? Tôi bị hỏi bất ngờ nên lúng túng và im lặng nhìn Nê-mô.
-Ngài là bác sĩ phải không?
-Nê-mô nhắc lại.
-Nhiều người đồng sự với ngài như Gra-xi-ô-lê, Mô-canh, Tăng-đông vân vân đều có học y.
-Vâng, tôi đã từng làm bác sĩ. Trước khi làm việc ở Viện bảo tàng, tôi đã nhiều năm làm bác sĩ điều trị ở bệnh viện.
-Thế thì tốt lắm!
Câu trả lời của tôi làm Nê-mô rất hài lòng. Nhưng tôi không biết ông ta định nói gì thêm nên chờ hỏi tiếp, định bụng sẽ tùy theo tình hình cụ thể mà trả lời. Nê-mô nói:
-Ngài A-rô-nắc, một thủy thủ của tôi đang cần được chữa chạy. Ngài có thể khám cho anh ta được không!
-Trên tàu có người ốm ạ?
-Vâng.
-Tôi sẵn sàng phục vụ ngài. Thú thật là tim tôi đập thình thịch. Tự nhiên tôi liên hệ việc người thủy thủ bị ốm với sự việc đêm qua. Nê-mô dẫn tôi về phía lái rồi mở cửa một căn phòng cạnh phòng thủy thủ. Một người đàn ông trạc bốn mươi tuổi có khuôn mặt cương nghị của người Anh, nằm trên giường. Tôi tới gần giường. Đó là một người bị thương chứ không phải là người ốm. Đầu anh ta quấn băng bê bết máu, đặt trên gối. Anh ta nhìn tôi trừng trừng. Khi tôi tháo băng ra, anh ta không hề nói một lời. Vết thương thật khủng khiếp. Sọ bị một vật nhọn đâm thủng một lỗ sâu hoắm, phòi cả óc ra. Nạn nhân thở rất khó khăn. Đôi lúc mặt bị méo hẳn đi. Tôi bắt mạch. Tim đập không đều, mạch thỉnh thoảng bị mất. Chân tay bắt đầu lạnh dần. Nạn nhân đang hấp hối, không có gì cứu vãn nổi! Tôi lấy bông băng mới băng lại vết thương rồi sửa lại gối cho ngay ngắn. Tôi quay lại hỏi Nê-mô:
-Vết thương này do vật gì gây ra.
-Vật gì gây ra mà chẳng vậy, thưa ngài!
-Nê-mô tránh không trả lời thẳng.
-Vì rung chuyển quá mạnh nên tay đòn của máy bị gãy và văng vào đầu người này. Ngài thấy nạn nhân thế nào? Tôi lưỡng lự.
-Ngài có thể nói được vì người này không biết tiếng Pháp. Tôi nhìn nạn nhân một lần nữa rồi nói:
-Độ hai tiếng nữa người này sẽ chết.
-Không gì có thể cứu sống anh ta nữa ư?
-Không! Bàn tay Nê-mô nắm chặt lại, nước mắt trào ra. Tôi không tưởng tượng được rằng Nê-mô có thể khóc. Tôi đứng bên cạnh nạn nhân mấy phút. ánh điện lạnh lùng càng tăng thêm sắc mặt nhợt nhạt và sớm nhăn nheo của anh ta. Chắc anh ta đã chịu gian khổ, thiếu thốn nhiều . Tôi chờ xem điều bí mật của cuộc đời anh ta có được mở ra qua những lời trăng trối cuối cùng không.
-Ngài A-rô-nắc, ngài có thể về, -Nê-mô nói. Tôi để Nê-mô ở lại một mình bên giường của người hấp hối.
Tôi trở về phòng mà lòng hết sức xúc động trước cảnh tượng vừa qua. Linh cảm u buồn làm tôi bồn chồn suốt ngày. Đêm tôi cũng không yên giấc. Tôi nghe thấy mãi tiếng thở dài não ruột, tiếng cầu kinh. Rạng sáng hôm sau tôi lên boong. Thuyền trưởng đã ở đó. Thấy tôi, ông ta bước tới:
-Thưa giáo sư, hôm nay ngài có muốn tham gia một chuyến đi chơi ngầm dưới biển không?
-Đi cùng với Nét và Công-xây ạ?
-Nếu họ muốn.
-Thưa thuyền trưởng, chúng tôi sẵn sàng.
-Nếu vậy, mời ngài mặc đồ lặn vào. Nê-mô chẳng hề nói một lời về nạn nhân đang hấp hối hoặc đã chết! Tôi tìm Nét và Công-xây báo cho họ biết lời mời của thuyền trưởng. Công-xây rất mừng và Nét lần này cũng vui vẻ nhận lời cùng đi. Chúng tôi mặc đồ lặn, đeo bình dưỡng khí và đèn điện, và đúng tám giờ rưỡi sáng thì lên đường. Cánh cửa được mở rộng. Chúng tôi, đứng đầu là thuyền trưởng Nê-mô có mười hai thủy thủ hộ tống, bước xuống đáy biển rải đá ở độ sâu mười mét. Đáy biển ấn Độ Dương khác xa đáy biển Thái Bình Dương mà tôi đã được thấy trong chuyến dạo chơi dưới đáy biển lần đầu. ở đây không có cát và những bãi bằng, cũng chẳng có tảo. Tôi nhận ra ngay một thế giới thần kỳ. Đó là "vương quốc" san hô! Cảnh vật đẹp mắt không bút nào tả xiết! Vì sao chúng tôi không thể trao đổi được cảm tưởng với nhau nhỉ? Vì sao chúng tôi lại bị gò bó trong cái vỏ bằng sắt và bằng kính kín mít như thế này? Vì sao tiếng nói không thoát ra ngoài được? Vì sao chúng tôi không thể sống trong khoảng nước mênh mông này như cá, hay hơn nữa như loài lưỡng thể sống thoải mái cả trên cạn cả dưới nước? Thuyền trưởng Nê-mô dừng lại. Chúng tôi cũng dừng lại. Nhìn về phía sau chúng tôi thấy các thủy thủ đứng thành hình vòng cung sau thuyền trưởng. Tôi nhận ra một vật dài dài mà bốn người đang vác trên vai. Chúng tôi đứng giữa một bãi rộng có rừng cây bao quanh. Dưới ánh đèn điện, trên nền đất in những bóng khổng lồ. Xung quanh tối đen như mực. Nét Len và Công-xây đứng cạnh tôi.
Chúng tôi chờ xem sao. Tôi bỗng thoáng có ý nghĩ là sẽ được chứng kiến một cảnh tượng đặc biệt. Đưa mắt nhìn quanh, tôi thấy đây đó có những gò nhỏ phủ một lớp đá vôi và được bàn tay con người sắp đặt theo một trật tự rõ ràng. Giữa bãi trống, trên một chỗ cao, có một chữ thập bằng san hô đỏ. Theo hiệu của thuyền trưởng, một thủy thủ tiến lên phía trước, rút chiếc cuốc chim cài ở thắt lưng ra và bắt đầu đào một cái hố cách chữ thập khoảng một mét. Tôi hiểu cả rồi! Đây là nghĩa trang, cái hố đang đào đó là huyệt, còn vật dài dài kia là xác người vừa chết đêm qua! Thuyền trưởng Nê-mô và các thủy thủ đang chôn bạn mình ở nghĩa trang dưới đáy đại dương này! Tôi chưa từng bị xúc động như vậy bao giờ! Tôi chưa thấy tình cảm mình bị bối rối như vậy bao giờ! Tôi không muốn tin vào mắt mình nữa! Huyệt đào khá chậm. Bầy cá hoảng sợ chạy ra bốn phía. Tôi thấy tiếng sắt chạm xuống nền đá vôi và lửa toé ra ở đầu cuốc chim. Cái huyệt ngày càng dài và rộng hơn, chẳng bao lâu đã đủ để đặt người xuống. Cái xác liệm vải trắng được khiêng tới và hạ xuống huyệt đầy nước. Thuyền trưởng Nê-mô và các thủy thủ, tay khoanh trước ngực, quỳ xuống. Còn ba chúng tôi thì chỉ đứng cúi đầu. Huyệt được lấp đầy đất đá và đắp lên không cao lắm. Đắp xong mộ, Nê-mô và những người cùng đi quỳ một chân xuống và giơ tay lên để vĩnh biệt lần cuối cùng... Sau đó đám tang quay trở về... Phía xa thấp thoáng ánh đèn. Chúng tôi hướng theo ngọn lửa soi đường đó và một giờ sau thì bước lên tàu Nau-ti-lúx. Thay quần áo xong, tôi lên boong và ngồi xuống cạnh chiếc đèn pha. Tôi đắm mình trong những ý nghĩ u buồn. Một lát sau thuyền trưởng Nê-mô tới. Tôi đứng dậy hỏi:
-Như tôi đã nói, người đó tắt thở lúc nửa đêm, phải không ạ?
-Thưa ngài vâng.
-Và bây giờ thì người đó đang yên nghỉ trong nghĩa trang san hô bên cạnh những người bạn mình phải không ạ?
-Vâng, và bị mọi người lãng quên, trừ chúng tôi! Thuyền trưởng Nê-mô lấy tay che mặt, cố ghìm lại tiếng nức nở, nhưng vô hiệu. Sau đó, ông ta trấn tĩnh và nói:
-ở dưới đó, ở độ sâu mấy chục mét dưới đáy biển là nghĩa trang của chúng tôi!
-Thưa thuyền trưởng, những người chết của ngài ở dưới đó được yên nghỉ mãi mãi. Cá mập chẳng làm gì được họ!
-Vâng, thưa ngài, cả cá mập, cả con người cũng chẳng làm gì được họ!
__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #25  
Old 05-01-2005, 08:43 AM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Chương 25 - ấn Độ Dương

Đến đây bắt đầu phần thứ hai của cuộc hành trình ngầm dưới biển của chúng tôi. Phần thứ nhất kết thúc bằng cảnh tượng xúc động dưới nghĩa trang san hô, để lại cho tôi một ấn tượng sâu sắc. Như vậy, chẳng phải chỉ cuộc sống của thuyền trưởng Nê-mô trôi qua giữa lòng đại dương mênh mông, mà cả cái chết, ông ta cũng chuẩn bị ở dưới đáy biển sâu! ở đó không một quái vật nào có thể quấy rối giấc ngủ cuối cùng của những người chủ tàu Nau-ti-lúx, những người gắn bó với nhau lúc sống cũng như lúc chết, những người "không ai có thể động tới được", như Nê-mô đã nói. Giả thiết Công-xây đề ra không làm tôi thỏa mãn. Anh ta cho Nê-mô là một trong số những nhà bác học vì bị hắt hủi nên tỏ vẻ khinh bạc đối với mọi người, hoặc là một thiên tài bất đắc chí nên từ bỏ những cám dỗ trần tục mà lui về ẩn náu trong biển cả, môi trường gần gũi với tâm hồn phóng khoáng của ông ta. Theo tôi, cách giải thích như vậy chỉ đúng một mặt của bản chất Nê-mô. Bí mật của đêm nọ là chuyện gì vậy? Vì sao họ phải giam giữ chúng tôi? Vì sao họ cho chúng tôi uống thuốc ngủ? Vì sao Nê-mô lại giật phắt chiếc ống nhòm, khi tôi chưa kịp đưa lên nhìn chân trời? Và người thủy thủ bị tử thương trong trường hợp hết sức bí hiểm kia? Tất cả những câu hỏi đó khiến tôi phải suy nghĩ. Không! Thuyền trưởng Nê-mô không phải chỉ trốn tránh mọi người! Chiếc tàu đáng sợ của ông ta có lẽ không chỉ là nơi ẩn náu của một người yêu tự do, mà còn là một vũ khí phục thù khủng khiếp! Đó chỉ là những phỏng đoán, chỉ là ánh sáng le lói trong đêm tối dày đặc. Tôi buộc phải ghi chép các sự kiện theo thứ tự của chúng. Chẳng có gì ràng buộc chúng tôi với thuyền trưởng Nê-mô cả. ông ta biết rằng chạy trốn khỏi tàu Nau-ti-lúx là một điều không tưởng. Nê-mô chẳng cần chúng tôi phải thề bồi cam đoan gì. Chúng tôi là người bị giam, là tù nhân mà người ta gọi lịch sự là khách. Tuy vậy, Nét vẫn không mất hy vọng giành lại tự do. Có thời cơ thuận lợi là anh ta chuồn ngay. Tất nhiên tôi cũng theo gương anh ta. Nhưng dù sao tôi cũng ân hận sẽ phải mang theo cả những bí mật mà thuyền trưởng Nê-mô đã tin mà cho tôi biết. Cuối cùng con người ấy đáng căm ghét hay đáng khâm phục? Con người ấy là nạn nhân hay đao phủ? Thực lòng tôi cũng muốn, trước khi vĩnh biệt Nê-mô, làm một chuyến du lịch vòng quanh thế giới mà phần đầu đã hoàn thành một cách tuyệt mỹ! Tôi muốn được thấy hết những kỳ quan đang ẩn mình dưới các đại dương. Tôi muốn đi sâu vào những điều bí ẩn nhất, thậm chí dám hy sinh tính mạng để thỏa mãn nhu cầu tìm hiểu những cái chưa biết! Cho tới nay tôi đã khám phá ra điều gì? Chưa được hoặc gần như chưa được điều gì, vì chúng tôi mới đi được sáu ngàn dặm dưới Thái Bình Dương...
Trưa ngày 21 tháng giêng năm 1868, viên thuyền phó lại lên boong xác định độ nghiêng của mặt trời như thường lệ. Tôi cũng lên boong châm lửa hút xì gà và theo dõi việc làm của ông ta. Rõ ràng ông ta không biết tí tiếng Pháp nào. Tôi cố ý nói lên mấy nhận xét để ông ta phản ứng lại nếu ông ta nghe, hiểu. Nhưng ông ta vẫn bình thản và lặng thinh. Trong khi viên thuyền phó đang quan sát thì có một thủy thủ lên boong. Đó chính là anh chàng lực lưỡng đã theo chúng tôi trong chuyến đi chơi ngầm ở đảo Crét-xpô. Anh ta lau kính đèn pha... Tàu Nau-ti-lúx chuẩn bị lặn. Tôi vội chui xuống phòng khách. Nắp tàu đóng lại và tàu bắt đầu chạy về hướng tây. Chúng tôi đi trong ấn Độ Dương mênh mông, năm trăm năm mươi triệu héc-ta, nước trong vắt, đến nỗi nếu nhìn từ trên xuống thì có thể bị :Dng mặt. Tàu phần lớn lặn sâu từ một trăm đến hai trăm mét trong mấy ngày liền. ở địa vị tôi có lẽ ai cũng cho cuộc hành trình này là mệt mỏi và đơn điệu. Nhưng vì tôi say mê biển nên không còn thì giờ để mệt mỏi và để buồn. Mỗi ngày dạo chơi trên boong tàu lộng gió biển khơi và ngắm nhìn những của báu dưới đáy biển, qua ô cửa phòng khách, đọc sách trong thư viện của thuyền trưởng và ghi nhật ký đi đường -tất cả những việc đó đã choán hết thời gian của tôi. Tình hình sức khỏe của chúng tôi rất tốt, khẩu phần thức ăn trên tàu khá đầy đủ. Tôi có thể chẳng cần món "cải thiện" gì của Nét Len. Ngoài ra, nhiệt độ trên tàu rất dễ chịu, nên đến sổ mũi cũng chẳng có. Đã mấy hôm nay chúng tôi gặp vô số chim biển, trong số đó có những con to có thể bay xa và dọc đường hạ cánh xuống nghỉ trên ngọn sóng, như chim báo bão. Loài chim này rất đẹp, tuy tiếng nó kêu giống tiếng lừa. Còn về cá thì chúng tôi luôn luôn phải trằm trồ ngạc nhiên khi đi sâu vào những bí mật của chúng dưới đáy nước. Tôi phát hiện ra nhiều loài cá mà tôi chưa từng gặp trong môi trường tự nhiên. Từ 21 đến 23 tháng giêng, tàu Nau-ti-lúx chạy với tốc độ hai trăm năm mươi dặm một ngày. Nói khác đi, nó chạy năm trăm bốn mươi hải lý trong hăm bốn tiếng đồng hồ nghĩa là hăm hai hải lý một giờ. Chúng tôi chỉ quan sát được những con cá bơi theo tàu và lọt vào vệt sáng của đèn pha trên tàu. Nhưng vì tàu chạy nhanh nên đàn cá bơi theo cứ thưa dần và chỉ một số ít mới chạy đua thêm được với tàu một thời gian ngắn nữa. Sau khi chạy ngang qua đảo Ki-linh, một hòn đảo san hô không người ở, tàu hướng về phía tây-bắc tới mỏm cực nam của bán đảo ấn Độ. Hôm ấy Nét Len bảo tôi:
-Đó là những nước văn minh! Thưa giáo sư, ở ấn Độ có đường cái rải nhựa và đường sắt, có những thành phố đẹp đẽ. Đi đâu cũng gặp người đồng hương! Thế nào đã đến lúc chúng ta chia tay với thuyền trưởng Nê-mô chưa, thưa giáo sư?
-Không, không, ông Nét ạ!
-Tôi trả lời rất cương quyết.
-Thôi cứ để mặc trời đất, như cánh thủy thủ các ông thường nói. Tàu Nau-ti-lúx đang hướng về các lục địa, đang tiến gần bờ biển châu Œu. Cứ để nó đưa ta tới đó, rồi ta sẽ tùy tình hình cụ thể mà định liệu. Nhưng tôi nghĩ thuyền trưởng Nê-mô sẽ không cho ta lên bờ săn bắn như ở rừng Niu Ghi-nê đâu!
-Nhưng thưa ngài, cần gì đợi ông ta cho phép? Tôi không trả lời Nét và chẳng muốn tranh luận làm gì. Trong thâm tâm, tôi muốn trải qua mọi thử thánh của số phận đã đẩy tôi lên tàu Nau-ti-lúx. Tàu chạy chậm lại nhưng luôn luôn đổi hướng đi và lặn xuống rất sâu. Nhiệt độ những lớp nước dưới cố định là +4o. Tôi thấy ở những lớp nước trên, gần bờ, bao giờ nhiệt độ cũng thấp hơn ngoài biển khơi. Ngày 25 tháng giêng, đại dương hoàn toàn vắng lặng. Tàu Nau-ti-lúx suốt ngày chạy trên mặt nước, cánh quạt làm nước bắn lên trắng xóa. Thật dễ lầm với một con cá voi khổng lồ! Tôi ở trên boong ba phần tư thời gian trong ngày. Tôi nhìn biển. Chân trời hoang vắng. Nhưng khoảng bốn giờ chiều thì xuất hiện một chiếc tàu ở phía tây. Chúng tôi nhìn thấy nó, nhưng nó không thể nhìn thấy chúng tôi, vì tàu Nau-ti-lúx chỉ hơi nhô khỏi mặt nước. Tôi nghĩ tàu này thuộc công ty tàu biển chạy đường Xây-lan
-Xít-ni có ghé qua Men-buốc... Hôm sau, 26 tháng giêng, chúng tôi vượt qua xích đạo và vào vùng biển Bắc bán cầu. Một đàn cá mập đáng sợ đi "hộ tống" tàu. Nhưng một lát sau tàu tăng tốc độ, bỏ rơi những con cá mập hung hăng nhất. Khoảng bảy giờ tối, tàu nổi lên mặt nước và chạy trên biển sữa. Biển xanh mênh mông biến thành màu trắng đục. Có phải vì ánh trăng không? Không! Trăng non mới được hai ngày và lúc đó chưa nhô khỏi chân trời. So với màu sữa của biển cả thì bầu trời sao hình như đen thẫm lại. Công-xây không tin ở mắt mình và yêu cầu giải thích nguyên nhân của hiện tượng kỳ lạ đó. Cũng may mà tôi có thể làm được việc này. Tôi nói:
-Đó gọi là biển sữa. Những vùng biển rộng lớn trắng như sữa là hiện tượng thường gặp ở độ vĩ này.
-Nhưng giáo sư có giải thích được nguyên nhân của hiện tượng đó không ạ? Nước biển thực ra đâu có biến thành sữa?
-Tất nhiên là không, anh bạn ạ! Màu sữa của nước làm anh ngạc nhiên chính là do hàng tỉ tỉ sinh vật hết sức nhỏ, không màu phát ra ánh sáng, dày bằng bề dày sợi tóc và dài bằng một phần năm milimét. Các sinh vật này kết vào nhau và tạo thành từng mảng rộng vài dặm.
-Vài dặm cơ ạ!
-Công-xây sửng sốt.
-Đúng, anh bạn ạ! Và anh chớ uổng công tính đếm chúng làm gì cho mệt! Nếu tôi không lầm, một số người đi biển đã gặp những biển sữa rộng hơn bốn mươi dặm. Tôi chẳng biết Công-xây có nghe lời tôi khuyên không, nhưng anh ta lặng im suy nghĩ. Chắc Công-xây đang tính toán xem có bao nhiêu con trong diện tích bốn mươi dặm vuông nếu mỗi con chỉ dài một phần năm milimét. Còn tôi thì tiếp tục quan sát hiện tượng kỳ lạ ấy. Tới gần nửa đêm, biển trở lại màu xanh bình thường. Nhưng ở phía sau tàu, bầu trời phản ánh sáng màu trắng của nước tựa như hắt lại ánh sáng của bắc cực quang.
__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #26  
Old 05-01-2005, 08:44 AM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Chương 26 - đề nghị mới của thuyền trưởng Nê-mô

Giữa trưa ngày 28 tháng giêng, tàu Nau-ti-lúx nổi lên mặt nước và trông thấy đất liền cách tàu tám hải lý về phía tây. Ngay sau khi xác định được tọa độ, tôi xuống phòng khách tìm địa điểm đó trên bản đồ và thấy rằng mình đang ở gần bờ biển Xây-lan, hòn đảo nằm ở gần cực nam bán đảo ấn Độ. Tôi vào thư viện tìm xem có cuốn sách nào nói cặn kẽ về đảo Xây-lan, hòn đảo được coi như phì nhiêu nhất của trái đất này không. Tôi tìm thấy tác phẩm của Xi-rơ nhan đề "Xây-lan và người Xin-ga-le". Quay về phòng khách, trước hết tôi làm quen với những số liệu thống kê nói về Xây-lan. Đảo này nằm giữa 5055’ và 9049’ độ vĩ bắc và 79042’ và 8204’ độ kinh đông. Từ bắc xuống nam, đảo dài hai trăm bảy nhăm hải lý, từ đông sang tây rộng một trăm năm mươi hải lý; diện tích đảo là hai vạn bốn ngàn bốn trăm bốn tám hải lý vuông, nói cách khác đi là gần bằng diện tích Iếc-lan. Lúc đó thuyền trưởng Nê-mô và thuyền phó vào phòng khách. Nê-mô nhìn bản đồ rồi quay lại bảo tôi:
-Đảo Xây-lan nổi tiếng về nghề mò ngọc trai. Ngài A-rô-nắc, ngài có đến xem nơi mò ngọc không?
-Thưa thuyền trưởng, xin sẵn sàng.
-Được cũng dễ thu xếp thôi. Thế này nhé: chúng ta sẽ tới chỗ đó nhưng không thấy thợ mò ngọc đâu. Mùa ngọc chưa bắt đầu. Nhưng không sao. Tôi sẽ ra lệnh cho tàu hướng về vịnh Ma-na và ta sẽ tới đó đêm nay. Nê-mô nói mấy lời với thuyền phó. ông này ra khỏi phòng khách. Một lát sau, tàu Nau-ti-lúx bắt đầu lặn xuống. Kim đồng hồ chỉ độ sâu mười mét. Tôi cúi xuống bản đồ để tìm vịnh Ma-na. Tôi thấy nó ở vĩ tuyến 9, gần bờ biển tây bắc Xây-lan. Muốn tới đó, phải đi vòng hết bờ biển phía tây Xây-lan. Thuyền trưởng Nê-mô nói:
-Thưa giáo sư người ta mò ngọc trai ở vịnh Ben-gan, ở biển ấn Độ, biển Trung Quốc và Nhật Bản, ở biển Nam Mỹ, ở vịnh Pa-na-ma, vịnh Ca-li-pho-ni-a, nhưng những vùng mò ngọc trai chủ yếu tập trung ở Xây-lan. Đúng là chúng ta tới đó quá sớm! Thợ mò ngọc xuất hiện ở vịnh Ma-na sớm nhất là vào tháng ba. Lúc đó ở đây tập trung tới ba trăm thuyền làm cái nghề có lãi nhất này trong ba mươi ngày. Trên mỗi thuyền có mười người chèo và mười thợ lặn. Thợ lặn làm việc theo hai kíp. Khi lặn xuống sâu mười hai mét, họ kẹp vào giữa hai chân một hòn đá nặng. Tới độ 103 104 sâu cần thiết, họ buông hòn đá ra để người trên thuyền kéo đá lên.
-Thế nghĩa là người ta vẫn dùng cách mò ngọc cổ xưa nhất?
-Đáng tiếc là vẫn dùng, -Nê-mô trả lời, -mặc dù những nơi có ngọc đó thuộc một nước có nền công nghiệp lớn nhất là nước Anh.
-Tôi vẫn cảm thấy rằng bộ đồ lặn đã được cải tiến của ngài có thể giúp ích nhiều cho họ trong việc này.
-Vâng! Những người mò ngọc khốn khổ không thể ở lâu dưới nước được. Tôi biết một số thợ mò ngọc đã ở dưới nước 57 giây, những người dai sức nhất có thể lặn lâu tới 87 giây. Nhưng những người đó rất hiếm, và cứ mỗi lần lặn xong thì nước ở tai và mũi trào ra có hòa lẫn máu. Trong thời gian ngắn ngủi đó họ phải kịp cho vào rọ những con trai có ngọc vừa mò được! Thợ lặn thường không thọ. Họ rất sớm suy sụp, mắt kém đi, thân thể bị lở loét và thường hay chết dưới nước vì chảy máu não.
-Vâng, -tôi nói, -đó là một nghề buồn thảm. Và tất cả cũng chỉ nhằm thỏa mãn tính cầu kỳ của phụ nữ. Nhưng xin thuyền trưởng cho biết, một thuyền như vậy có thể mò được bao nhiêu trai một ngày?
-Khoảng từ bốn vạn đến năm vạn con. Người ta còn nói năm 1814 chính phủ Anh đã đứng ra tổ chức mò ngọc, chỉ trong hai mươi ngày thợ lặn đã mò được bảy mươi sáu triệu con trai.
-ít nhất thì lao động của người thợ lặn cũng được trả giá cao chứ ạ?
-Tôi hỏi.
-Thưa giáo sư, rất thấp. ở Pa-na-ma mỗi tuần họ kiếm được không quá một đô-la. Thường họ chỉ được trả một xu mỗi con trai có ngọc. Mà còn biết bao nhiêu con không có ngọc!
-Một xu thôi ư? Thật là bất công! Thật là ghê tởm!
-Giáo sư và hai người cùng đi sẽ thăm vịnh Ma-na. Và nếu may mắn gặp một người thợ lặn nào đó đến mò trai sớm thì ngài sẽ được làm quen với kỹ thuật của họ.
-Thưa thuyền trưởng, vâng.
-Thế giáo sư có sợ cá mập không?
-Cá mập ạ? Câu hỏi đó đối với tôi có vẻ thừa.
-Thế giáo sư có ý kiến gì về cá mập?
-Nê-mô hỏi gặng.
-Thưa thuyền trưởng, xin thú thực rằng tôi chưa thật quen với loài cá này.
-Thế mà chúng tôi đã quen với chúng. Rồi ngài cũng sẽ quen thôi. Chúng ta sẽ trang bị vũ khí và nếu có thể, sẽ đi săn cá mập một chuyến. Săn cá mập hết sức thú vị. Xin hẹn giáo sư đến mai. Giáo sư hãy chuẩn bị lên đường thật sớm. Nê-mô nói những lời đó bằng một giọng bình thản rồi ra khỏi phòng khách. Nếu người ta mời bạn đi săn gấu ở vùng núi Thụy-sĩ, bạn có thể nói:
“Tuyệt lắm! Mai sẽ đi!" Nếu bạn được mời đi săn sư tử ở thung lũng át-lax và săn hổ ở rừng rậm ấn Độ, bạn có thể nói:
“A! Ta sẽ đi ngay!"
Nhưng nếu bạn được mời đi săn cá mập dưới biển sâu thì chắc bạn phải suy nghĩ nhiều trước khi nhận lời. Còn tôi, tôi đã lấy tay lau trán lấm tấm mấy giọt mồ hôi lạnh. Tôi nghĩ bụng:
“Phải nghĩ cho kỹ. Chớ vội. Đi săn ở khu rừng ngầm gần đảo Crét-xpô là một chuyện, còn dò dẫm dưới đáy biển mà không biết lúc nào chạm trán với cá mập lại là chuyện khác hẳn! Tôi được biết ở đôi nơi, đặc biệt là ở vùng đảo An-đa-man, những người da đen thường xông thẳng vào cá mập, một tay cầm dao găm, còn tay kia cầm thòng lọng. Nhưng tôi cũng được biết là trong cuộc chiến đấu tay đôi với cá mập, nhiều người gan góc đó đã về chầu tổ tiên! Tôi hình dung ra cá mập, cái mồm to tướng với nhiều dãy răng có thể cắn đứt đôi người. Tôi đã cảm thấy đau ở thắt lưng. Tôi không chịu nổi cái giọng bình thản của Nê-mô đã dùng để mời tôi đi săn! Vấn đề đâu có phải là lảng tránh một con cầy, con cáo nào đó trong rừng. Tôi nghĩ:
“Được! Tất nhiên Công-xây sẽ từ chối không tham gia cuộc đi săn này!" Thế là tôi sẽ có cớ không đi cùng Nê-mô. Còn về Nét thì thú thực là tôi không tin ở sự chín chắn của anh ta. Sự nguy hiểm, dù lớn đến đâu, bao giờ cũng hấp dẫn cái bản chất hay gây gổ của Nét. Tôi cầm lấy cuốn sách của Xi-rơ, nhưng chỉ lật từng tờ như một cái máy. Giữa những dòng chữ hiện lên những cái mồm cá mập ngoác rộng. Nhưng lúc đó Công-xây và Nét vào. Hai người đều tươi tỉnh. Họ chẳng biết chuyện gì đang chờ đợi họ. Nét nói:
-Thưa giáo sư, thực thà mà nói, thuyền trưởng Nê-mô của ngài đã đề nghị chúng ta một việc rất đáng hoan nghênh.
-à, thế ra các bạn đã biết...
-Thưa giáo sư, -Công-xây trả lời, -thuyền trưởng Nê-mô mời chúng tôi cùng giáo sư đi thăm những nơi mò ngọc trai nổi tiếng của Xây-lan. ông ta hết sức lịch thiệp và tỏ ra là một người quân tử.
-Nê-mô không nói gì nữa à?
-Thưa giáo sư, không, -Nét trả lời, -ông ta chỉ nói là đã mời ngài tham gia cuộc dạo chơi dưới biển này.
-Đúng vậy. Nhưng ông ta không đả động đến một chuyện...
-Thưa giáo sư, chẳng có chuyện gì cả. Ngài có đi với chúng tôi không ạ?
-Tôi... tất nhiên rồi! Tôi thấy ông Nét đã mê cái món dạo chơi dưới đáy biển rồi đấy!
-Vâng! Rất thú vị, rất thú vị ạ!
-Và nguy hiểm nữa!
-Tôi thêm.
-Nguy hiểm gì?
-Nét trả lời.
-Đó chỉ là một cuộc dạo chơi đơn giản thôi! Rõ ràng thuyền trưởng Nê-mô thấy không cần phải gợi cho các bạn tôi nghĩ tới cá mập. Tôi hoảng hốt nhìn hai người, tựa như họ đã bị cụt mất chân, hoặc tay rồi. Tôi có nên báo cho họ biết trước nỗi hiểm nguy sắp tới không? Tất nhiên là nên. Nhưng tôi chẳng biết thế nào.
-Giáo sư có thể kể cho chúng tôi nghe chi tiết hơn về cách mò ngọc trai không ạ? Tôi hỏi:
-Về cách mò trai hay về những chuyện ngẫu nhiên liên quan tới việc mò trai?
-Tất nhiên là về cách mò trai!
-Nét nói.
-Trước khi lên đường, cần biết sẽ theo hướng nào chứ...
-Thế thì mời các bạn ngồi xuống, tôi sẽ kể các bạn nghe tất cả những điều tôi biết về nghề mò trai có ngọc qua cuốn sách của Xi-rơ. Nét và Công-xây ngồi xuống đi-văng. Nét hỏi ngay:
-Thưa giáo sư, thế ngọc trai là gì?
-Đối với nhà thơ, ngọc trai là hạt lệ của biển cả. Đối với các dân tộc phương đông, đó là hạt sương sớm đã hóa đá. Đối với phụ nữ, đó là viên đá quý hình bồ dục màu xanh óng ánh mà họ đeo ở cổ, ở tay, ở tai như một thứ trang sức. Đối với nhà hóa học, đó là kết hợp của muối fotfat và canxi cácbonat. Cuối cùng, đối với nhà tự nhiên học, nó chỉ là một cái u hình cầu màu xanh nằm trong mô ác mềm của một số nhuyễn thể...
-Thế có trường hợp nào một con trai chứa nhiều ngọc không ạ?
-Công-xây hỏi.
-Có chứ, anh bạn. Người ta kể là đã thấy một trăm năm mươi con cá mập trong một viên ngọc, tuy tôi không tin lắm.
-Một trăm rưởi con cá mập à?
-Nét sửng sốt.
-Tôi nói là "cá mập" ư?
-Tôi lúng túng.
-Tôi muốn nói là một trăm rưởi hạt ngọc ấy. Cá mập dính dáng gì đến chuyện này!
-Giá trị của viên ngọc tùy thuộc ở độ to nhỏ của nó phải không ạ?
-Công-xây hỏi.
-Chẳng những tùy thuộc vào độ to nhỏ mà còn tùy thuộc ở hình dáng, màu sắc, ở độ sáng của ngọc...
-Phân loại ngọc chắc là một việc khó khăn và mất thì giờ.
-Nét nói.
-Chẳng khó lắm đâu, ông bạn ạ! Người ta dùng sàng để phân loại. Có cả thảy mười một loại sàng. Đầu tiên người ta dùng sàng thưa có từ hai mươi đến tám mươi lỗ. Những viên ngọc còn lại trên sàng được xếp loại một. Loại sàng có từ một trăm đến tám trăm lỗ cho ta ngọc loại hai. Loại sàng có từ chín trăm đến một nghìn lỗ cho ta ngọc loại ba.
-Họ khôn thật!
-Công-xây nói.
-Tôi thấy họ đã phân loại ngọc một cách máy móc. Thưa giáo sư, ngài có biết việc khai thác các vùng biển có ngọc đem lại lợi nhuận bao nhiêu không ạ?
-Theo sách của Xi-rơ, những vùng biển có ngọc của Xây-lan hằng năm đem lại ba triệu con cá mập.
-Ba triệu quan chứ ạ!
-Công-xây nói.
-ừ, ừ, ba triệu quan!
-Tôi chữa lại.
-Tôi nghe nói có mấy viên ngọc quý đắt tiền lắm phải không ạ?
-Đúng vậy. Người ta kể lại rằng, Xê-da đã biếu Xéc-vi-li-a viên ngọc giá một trăm hai mươi ngàn phrăng! Nhưng tôi nghĩ chẳng ông vua nào có viên ngọc lớn bằng viên ngọc của thuyền trưởng Nê-mô.
-Viên này ạ?
-Công-xây chỉ vào viên ngọc đặt trong hộp kính.
-Tôi đánh giá nó hai triệu phrăng đấy! Thế mà Nê-mô chỉ cần cúi xuống một chút là nhặt được.
-Biết đâu ngày mai đi chơi ta chẳng nhặt được một viên như thế.
-Hy vọng gì!
-Công-xây nghi ngờ.
-Sao lại không?
-Trên tàu Nau-ti-lúx này thì có tiền triệu để làm gì?
-Đúng là trên tàu thì chẳng cần, nhưng... ở chỗ khác...
-ở chỗ khác à?
-Công-xây lắc đầu.
-ông Nét nói đúng.
-Tôi nhận xét.
-Nếu sau này ta mang về châu Œu hay châu Mỹ một viên ngọc giá mấy triệu thì những chuyện ta kể càng có trọng lượng hơn và dễ tin hơn. Công-xây hỏi thêm:
-Nghề mò ngọc có nguy hiểm không ạ?
-Không!
-Tôi trả lời ngay.
-Đặc biệt là nếu áp dụng một số biện pháp đề phòng.
-Nghề đó thì có gì là nguy hiểm? Chỉ uống mấy hụm nước mặn là cùng chứ gì!
-Nét nói.
-ông nói rất đúng!
-Tôi cố nói bằng cái giọng bình thản của Nê-mô.
-à ông Nét này, ông có sợ cá mập không?
-Tôi ấy à? Tôi là thợ săn cá nhà nghề! Tôi coi khinh chúng!
-Vấn đề không phải là đứng trên tàu câu cá mập, kéo nó lên boong, lấy rìu chặt đứt đuôi, mổ bụng moi tim rồi lại quẳng xác xuống biển đâu!
-Nghĩa là phải xuống nước chứ gì?
-Đúng đấy!
-Sợ quái gì! Thế súng săn của tôi để làm chi? Thưa giáo sư, cá mập là giống cá vụng về. Muốn đớp ngài, nó phải ngửa bụng lên. Lúc đó... Nét nói chữ "đớp" bằng một giọng khiến tôi lạnh ớn xương sống.
-Thế còn anh, anh nghĩ thế nào về cá mập, Công-xây?
-Tôi xin nói thành thực với giáo sư thế này: nếu giáo sư quyết định đi săn cá mập thì tôi, người đầy tớ trung thành của giáo sư, sao có thể không đi theo được?
__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #27  
Old 05-01-2005, 08:44 AM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Chương 27 - viên ngọc giá mười triệu

Đêm đã tới. Tôi đi ngủ nhưng cứ chập chờn mãi vì bị hình ảnh cá mập ám ảnh. Bốn giờ sáng hôm sau, người thủy thủ do thuyền trưởng Nê-mô cử đến phục vụ tôi, đánh thức tôi dậy. Tôi vội mặc quần áo rồi ra phòng khách. Thuyền trưởng Nê-mô đang chờ tôi ở đó. ông ta hỏi:
-Ngài A-rô-nắc, ngài đã sẵn sàng rồi chứ?
-Vâng, tôi đã sẵn sàng.
-Xin ngài theo tôi.
-Còn những người cùng đi với tôi?
-Họ đã được báo trước và đang chờ ngài.
-Chúng ta mặc đồ lặn chứ ạ?
-Chưa mặc bây giờ. Tôi không muốn cho tàu Nau-ti-lúx vào gần bờ quá, nên đã ra lệnh chuẩn bị xuồng để tới chỗ bãi cát nông của vịnh Ma-na còn cách đây khá xa.
Như thế chúng ta sẽ rút ngắn được quãng đường phải lội khá nhiều. Đồ lặn đã được đưa xuống xuồng, chúng ta chỉ mặc vào trước khi lặn xuống nước. Nê-mô dẫn tôi đến cầu thang trung tâm. Nét và Công-xây đã chờ tôi ở đó. Cả hai người đều hân hoan về cuộc "du ngoạn vui vẻ" sắp tới. Năm thủy thủ ngồi trong xuồng sẵn sàng chèo lái. Trời chưa sáng. Những vì sao thưa thớt lấp lánh giữa những đám mây bao phủ bầu trời. Tôi đưa mắt tìm đất liền nhưng chỉ thấy một dải sương mờ chạy dài ba phần tư chân trời, từ tây-nam đến tây-bắc. Tàu Nau-ti-lúx đêm qua chạy dọc bờ biển phía tây Xây-lan, giờ đây đang ở gần cửa vịnh giữa bờ biển Xây-lan và đảo Ma-na. Nơi đó, dưới những lớp nước sâu là những mỏm đá ngầm, những kho trai có ngọc vô tận rộng gần hai mươi dặm. Thuyền trưởng Nê-mô, Công-xây, Nét Len và tôi ngồi ở phía sau. Một thủy thủ cầm lái, còn bốn người kia chèo. Xuồng từ từ đi về hướng nam. Tôi thấy mỗi động tác chèo cách nhau mười giây, như cách chèo xuồng của hải quân...
Chúng tôi im lặng. Đến năm giờ rưỡi, khi bắt đầu bình minh thì chân trời hiện lên rõ hơn hình một dải núi. Chúng tôi chỉ còn cách đảo năm hải lý. Biển vắng, không một bóng thuyền. Thuyền trưởng Nê-mô nói đúng: chúng tôi tới đây trước mùa mò ngọc. Đến sáu giờ sáng, trời đột ngột sáng rõ. Đó là đặc điểm của những nước nhiệt đới, nơi rạng đông và hoàng hôn đều rất ngắn ngủi. Giờ đây tôi đã nhìn thấy rõ đảo, thậm chí cả những bóng cây thưa thớt trên bờ. Chiếc xuồng đang tiến gần đảo Ma-na. Thuyền trưởng Nê-mô đứng dậy và bắt đầu chăm chú quan sát phía xa. Theo hiệu của Nê-mô, chiếc xuồng thả neo nhưng chỉ mất không hơn một mét dây, vì nước ở đây cạn. Nê-mô bảo tôi:
-Ngài A-rô-nắc, chúng ta đến nơi rồi. Ngài có thấy cái vịnh kín này không? Một tháng nữa ở đây sẽ tập trung rất nhiều tàu thuyền, và hàng ngàn thợ lặn gan dạ sẽ lặn xuống đáy biển! Vịnh này thật là lý tưởng đối với nghề mò ngọc. Vịnh được núi chắn những cơn gió mạnh và biển ở đây không nổi sóng: đó là điều kiện hết sức thuận lợi cho thợ lặn. Thôi bây giờ chúng ta mặc đồ lặn vào và bắt đầu cuộc tham quan!
Tôi không trả lời. Một thủy thủ giúp tôi mặc bộ đồ lặn nặng nề vào người. Thuyền trưởng Nê-mô, Nét và Công-xây cũng làm như tôi. Không một thủy thủ nào đi theo chúng tôi trong chuyến tham quan đặc biệt này. Người ta đeo vào lưng chúng tôi những bình chứa khí nén nhưng không nói gì tới máy Rum-coóc-phơ. Trước khi đội mũ lặn vào đầu, tôi nhắc thuyền trưởng về điều này. Nê-mô trả lời:
-Không cần tới máy đó. Chúng ta không lặn xuống sâu, mà ở chỗ nông thì chỉ cần ánh sáng mặt trời là đủ. Hơn nữa, bật đèn điện ở vùng này là rất nguy hiểm. ánh sáng điện có thể làm cho loài cá dữ kéo tới. Trong khi Nê-mô nói, tôi quay về phía Công-xây và Nét Len. Nhưng họ đã đội mũ vào và không nghe thấy gì nữa. Tôi hỏi Nê-mô câu cuối cùng:
-Thế vũ khí của chúng ta đâu? Súng của chúng ta đâu?
-Súng à? Cần gì súng? Người miền núi đi săn gấu chỉ cần một con dao găm thôi mà! Lưỡi dao thép đâu có kém đạn chì? Đây là một con dao rất tốt, ngài hãy dắt vào thắt lưng rồi chúng ta lên đường.
Tôi nhìn Nét và Công-xây. Họ cũng được vũ trang như tôi và Nê-mô. Nét còn đeo thêm một cái mũi lao nhọn mà anh ta mang theo khi rời tàu Nau-ti-lúx. Một phút sau, các thủy thủ lần lượt thả chúng tôi xuống nước. ở độ sâu không quá một mét rưỡi, chân chúng tôi đã chạm cát. Thuyền trưởng Nê-mô lấy tay ra hiệu. Chúng tôi theo ông ta xuống một sườn dốc thoai thoải. Một lát sau, chúng tôi xuống tới một hố sâu khá rộng. Những ý nghĩ đang đè nặng lên tôi bỗng tan mất. Tôi thấy trong lòng bình tĩnh lạ thường. Tôi yên tâm vì thấy vận động được thoải mái và sững sờ trước cảnh tượng diệu kỳ. Những tia sáng mặt trời rọi qua làn nước trong vắt, chiếu sáng cả đáy biển. Những con trai nhỏ nhất cũng nhìn thấy rõ. Mười phút sau, chúng tôi tới độ sâu năm mét. Đáy biển ngày càng bằng phẳng hơn... Độ bảy giờ sáng chúng tôi tới bãi cát nông, nơi có hàng triệu con trai đang sinh sản. Thuyền trưởng Nê-mô cho tôi xem nơi tập trung trai có ngọc ấy. Tôi hiểu rằng kho trai đó là vô tận vì sức sáng tạo của thiên nhiên vẫn lớn hơn bản năng phá hoại của con người. Nét Len vốn có bản năng phá hoại ấy nên vội lựa chọn những con trai đẹp nhất và nhét đầy túi lưới đeo ở thắt lưng. Nhưng chúng tôi không dừng lại lâu ở đây vì phải đi theo Nê-mô là người có vẻ thông thạo con đường này. Đáy vịnh dâng cao rõ rệt, và đôi khi bàn tay tôi giơ lên thò ra khỏi mặt nước. Trước mắt chúng tôi bỗng hiện ra một cái hang rộng được tạo nên trong một mỏm đá rất đẹp mắt có nhiều loài cây cỏ dưới biển phủ ngoài... Thuyền trưởng Nê-mô vào hang. Chúng tôi vào theo. Tôi thích ứng rất nhanh với bóng tối trong hang. Nê-mô dẫn chúng tôi vào sâu thế này làm gì nhỉ?
Sau khi lần xuống một bờ khá dốc, chúng tôi tới một chỗ trông tựa cái giếng. Tới đây Nê-mô dừng lại và chỉ cho chúng tôi xem một vật mà tôi chưa nhận ra ngay là cái gì. Đó là một con trai to lạ thường, đường kính khoảng hai mét, lớn hơn con trai ở phòng khách tàu Nau-ti-lúx. Tôi tới gần con vật kỳ lạ ấy. Theo tôi, nó phải nặng tới ba trăm ki-lô-gam, trong đó ít nhất có mười lăm ki-lô-gam thịt. Thuyền trưởng Nê-mô chắc hẳn đã biết rõ con trai này và không phải lần đầu tiên vào hang này! Tôi nghĩ rằng ông ta dẫn chúng tôi đến đây chỉ là để cho xem cái vật lạ đó của thiên nhiên. Nhưng tôi đã lầm. Nê-mô có lý do riêng của mình: ông ta muốn biết tình trạng của con trai đó ra sao. Vỏ trai đang hé mở. Nê-mô tới gần rồi nhét con dao găm vào giữa hai vỏ để nó không ngậm lại được. Sau đó, ông ta lấy tay nâng mép ngoài có tua viền của áo trai lên. Giữa những nếp gấp hình lá có một viên ngọc to bằng quả dừa. Một viên ngọc rất tròn và trong sáng tuyệt vời! Một vật vô giá! Trong lúc quá tò mò tôi đưa tay ra để chộp lấy hòn ngọc và xem nó nặng bao nhiêu! Nhưng Nê-mô ra hiệu cho tôi ngừng lại rồi rút ngay con dao ra khỏi vỏ trai. Thế là con trai ngậm ngay vỏ lại. Tôi hiểu ý định của Nê-mô rồi. ông ta để viên ngọc lại dưới áo của con trai là để tạo cho khả năng lớn dần lên. Mỗi năm những chất tiết ra lại bồi thêm những lớp đồng tâm cho viên ngọc. Chỉ có Nê-mô mới biết cái hang có viên ngọc kỳ diệu này. Chỉ có ông ta biết nuôi dưỡng nó để sau này mang nó về phòng bảo tàng tuyệt vời của mình. Cũng có thể Nê-mô bắt chước người Trung Quốc hay người ấn Độ, tự tạo nên sự phát triển của viên ngọc bằng cách đặt vào áo con trai một vật rắn, bằng kim loại hình cầu chẳng hạn, để trai tiết ra chất ngọc phủ ngoài. So sánh viên ngọc này với những viên tôi đã thấy và những viên đã có trong bộ sưu tập của Nê-mô, tôi đánh giá nó ít nhất mười triệu phrăng. Đó là viên ngọc do thiên nhiên sáng tạo ra chứ không phải là một vật xa xỉ! Vả lại, có cái tai phụ nữ nào chịu nổi sức nặng của viên ngọc này? Sau khi xem viên ngọc quý, thuyền trưởng Nê-mô ra khỏi hang. Đoàn tham quan chúng tôi ở vùng nước chưa bị dân mò ngọc làm vẩn đục này, lại tiếp tục đi. Mười phút sau, Nê-mô bỗng dừng lại. Tôi tưởng ông ta muốn quay về. Nhưng không! Nê-mô lấy tay ra hiệu cho chúng tôi nấp vào khe đá rồi chỉ cho xem một chấm đen dưới nước. Tôi chăm chú nhìn. Cách tôi năm mét, có một bóng đen thấp thoáng và đang chìm xuống đáy. ý nghĩ hốt hoảng về cá mập thoáng hiện trong óc tôi. Nhưng tôi đã lầm: lần này không phải là loài cá dữ. Đó là một người, một người còn sống, một người ấn Độ nghèo khổ đến mò ngọc sớm hơn lệ thường.
Anh ta liên tục lặn xuống rồi lại ngoi lên. Khi lặn, anh ta kẹp một viên đá giữa hai chân, viên đá này có dây buộc phía sau thuyền. Đó là tất cả đồ lặn của anh ta. Xuống sâu khoảng năm mét, anh ta buông hòn đá ra, quỳ xuống rồi nhặt vội những con trai quanh đó nhét vào túi lưới buộc ở thắt lưng. Sau đó, anh ta ngoi lên mặt nước, đổ trai vào thuyền rồi lại bắt đầu những động tác nói trên trong khoảng ba mươi giây. Anh ta không thấy chúng tôi đang nấp sau mỏm đá. Vả lại, anh ta sao có thể tưởng tượng được rằng có những con người, những sinh vật giống hệt anh ta đang ở cạnh và quan sát từng hành động nhỏ của anh ta, không bỏ sót một chi tiết nào? Anh ta ngoi lên lặn xuống nhiều lần, mỗi lần chỉ mang lên được không quá một con trai vì trai bám vào đất rất chặt. Và trong số trai mà anh ta phải liều thân để lấy, biết bao con trong ruột chẳng có gì! Tôi chăm chú theo dõi anh ta. Anh ta lặn xuống ngoi lên trong từng khoảng thời gian đều đặn, và suốt nửa tiếng đồng hồ không gặp một nguy hiểm gì. Tôi đã bắt đầu chán cái việc quan sát ấy thì người thợ lặn đang ở tư thế quỳ bỗng né sang một bên, bật dậy và tìm cách ngoi lên mặt nước. Tôi đã hiểu vì sao anh ta hoảng sợ. Một bóng đen khổng lồ lướt qua đầu người thợ lặn bất hạnh ấy. Đó là một con cá mập hết sức lớn đang lao tới anh ta, hai mắt đỏ ngầu, miệng há hốc. Tôi hoảng quá, đờ cả người ra. Con cá háu ăn quẫy mạnh và lao thẳng tới người thợ lặn. Anh ta nhảy sang một bên và tránh được hàm răng nhọn của con cá, nhưng bị đuôi cá mập đập mạnh vào ngực ngã lăn ra. Tất cả những việc đó diễn ra trong nháy mắt. Con cá mập thoạt tiên hơi ngập ngừng một chút, nhưng sau đó lật ngửa ra để lao tới cắn đứt đôi người. Đến đây, thuyền trưởng Nê-mô đứng cạnh tôi rút dao găm ra rồi tiến lên chiến đấu tay đôi với con cá dữ. Con cá đang ở tư thế sẵn sàng sát hại người ấn Độ bất hạnh thì chợt chú ý tới đối thủ mới. Nó lật sấp lại rồi xông tới chỗ thuyền trưởng Nê-mô. Nê-mô hơi ngửa mình về phía sau rồi hết sức bình tĩnh chờ con cá đến gần. Khi nó đã tới sát, Nê-mô vô cùng khéo léo nhảy sang một bên tránh đòn, rồi cắm phập con dao găm vào bụng cá, ngập tới chuôi. Cuộc chiến đấu quyết liệt bắt đầu.
Con cá nổi khùng. Máu từ vết thương vọt ra như suối. Nước biển nhuộm màu đỏ thẫm khiến tôi chẳng còn nhìn thấy gì. Một lát sau, khi chỗ nước nhuốm máu bị cuốn trôi đi, tôi mới thấy thuyền trưởng Nê-mô dũng cảm đang bám chặt vào vây con cá mà đâm liên tiếp vào bụng nó. Nhưng ông ta không có khả năng đánh một đòn quyết định, nghĩa là đâm trúng tim kẻ thù! Con cá mập bị tử thương oằn mình lại và quẫy đuôi rất mạnh khiến tôi đứng không vững nữa. Tôi muốn xông tới giúp thuyền trưởng. Nhưng vì quá khiếp sợ, nên tôi đờ người ra không bước lên được bước nào. Tôi thấy tình hình hai bên tham chiến đã thay đổi, Nê-mô bị thân hình to lớn của con cá xô ngã lộn nhào. Tính mạng Nê-mô đang như treo trên sợi tóc thì Nét Len nhanh như cắt xông tới và phóng lao nhọn vào con cá.
Nước biển lại nhuốm đỏ màu máu. Con cá điên cuồng lồng lộn làm cuộn lên từng đợt sóng lớn. Nét Len đã giáng một đòn trí mạng. Con cá hấp hối, quằn quại. Công-xây thì bị sóng xô ngã. Nét Len giúp thuyền trưởng thoát khỏi thân con cá đang đè lên người. Nê-mô không bị thương. ông đứng dậy, chạy về phía người ấn Độ, cắt dây thừng buộc người đó với hòn đá rồi ôm người đó bơi lên mặt biển. Chúng tôi cũng bơi lên theo Nê-mô và mấy giây sau đã tới chiếc thuyền của người bị nạn. Trước hết, Nê-mô tìm cách làm cho người này hồi tỉnh. Tôi không tin Nê-mô sẽ cứu được anh ta sống. Anh ta chỉ ở dưới nước một thời gian ngắn, nhưng đuôi cá đập mạnh có thể giết chết anh ta! May thay, nhờ những biện pháp kiên quyết của Nê-mô và Công-xây, người bị nạn dần dần tỉnh lại. Anh ta mở mắt. Các bạn có thể hình dung được là anh ta đã ngạc nhiên, thậm chí hoảng sợ thế nào khi thấy bốn cái đầu bằng đồng đang cúi xuống anh ta! Nhưng anh ta không thể tưởng tượng được rằng Nê-mô rút ra một túi ngọc trai rồi giúi vào tay mình! Anh thợ lặn nghèo khổ đưa bàn tay run rẩy ra nhận tặng phẩm dịêu kỳ của người chủ biển cả. Cái nhìn hoảng sợ chứng tỏ anh ta không biết những sinh vật kỳ lạ đã cứu sinh mạng và cho mình châu báu kia là ai. Theo hiệu thuyền trưởng, chúng tôi trở lại bãi ngọc và sau nửa tiếng đồng hồ đi trên con đường quen thuộc thì về tới chiếc xuồng đang nhả neo chờ. Chúng tôi lên xuồng và được các thủy thủ giúp tháo bỏ những cái mũ đồng nặng nề ra. Câu nói đầu tiên của thuyền trưởng Nê-mô là dành cho Nét Len:
-ông Nét, xin cảm ơn ông!
-Thưa thuyền trưởng, có gì mà cảm ơn! Tôi đã chịu ơn ngài nhiều. Nê-mô hơi mỉm cười và chẳng ai nói gì thêm nữa.
-Quay xuồng về tàu!
-Nê-mô ra lệnh. Chiếc xuồng lướt trên sóng. Mấy phút sau, chúng tôi gặp xác con cá mập nổi lên mặt biển. Nhìn viền đen ở vây cá, tôi nhận ra đó là loại cá mập ăn thịt người rất đáng sợ ở ấn Độ Dương. Nó dài gần tám mét. Cái mồm rộng hoác chiếm một phần ba thân. Đó là con cá đã trưởng thành vì có sáu hàng răng ở hàm trên. Khi tôi đang xem xác con cá thì có khoảng hơn mười con cá mập khác nổi lên quanh xuồng. Chúng chẳng chú ý gì tới chúng tôi mà lăn xả vào xâu xé con cá bị chết. Đến tám giờ rưỡi, chúng tôi bước lên tàu Nau-ti-lúx. Những ý nghĩ của tôi dần dần quay lại chuyến thăm quan vừa rồi ở vịnh Ma-na. Tôi thán phục lòng quả cảm tuyệt vời của thuyền trưởng Nê-mô mà chính tôi đã chứng kiến! Tôi hiểu rằng Nê-mô có thể hy sinh thân mình để cứu một người của cái xã hội mà ông ta đã từ bỏ! Dù con người bí hiểm đó có nói gì về mình thì ông ta cũng không thể hủy diệt được lòng thương người trong tim mình được.
Tôi nói với Nê-mô ý nghĩ đó. ông ta trả lời tôi, giọng xúc động:
-Thưa giáo sư, đó là một người ấn Độ, một đại diện của quần chúng bị áp bức; mà tôi thì sẽ là người bảo vệ cho họ đến hơi thở cuối cùng!
__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #28  
Old 05-01-2005, 08:54 AM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Chương 28 - Biển đỏ

Trưa ngày 29 tháng giêng, đảo Xây-lan khuất sau chân trời, tàu Nau-ti-lúx chạy với tốc độ hai mươi hải lý một giờ. Thế là từ khi rời biển Nhật Bản tới nay, chúng tôi đã vượt một vạn sáu ngàn hai trăm hai mươi hải lý hay bảy ngàn năm trăm dặm. Hôm sau, 30 tháng giêng, khi tàu nổi lên thì chẳng còn thấy một hòn đảo nào. Tàu hướng về phía tây-bắc, về phía vịnh ạ-man nằm giữa bán đảo A-ra-bi-a và bán đảo ấn Độ: và là cửa vào vịnh Ba Tư. Đây thật là một vịnh kín, không có lối ra biển. Thuyền trưởng Nê-mô định đưa chúng tôi đi đâu? Tôi không thể biết được. Trả lời như vậy không làm Nét thoả mãn.
-ông Nét ạ, đường chúng ta đi tùy thuộc ý muốn của thuyền trưởng.
-ý muốn của thuyền trưởng không đưa chúng ta đi xa được đâu. Vịnh Ba Tư không có lối ra nào khác. Nếu ta vào thì phải đi ra bằng đường cũ.
-Thì sao! Sau khi vào vịnh Ba Tư, nếu tàu Nau-ti-lúx muốn đến thăm biển Đỏ thì có thể sử dụng vịnh Báp-en Man-đép bất kỳ lúc nào.
-Thưa giáo sư, nhưng biển Đỏ, cũng như vịnh Ba Tư, chẳng có lối ra nào khác! Kênh Xuy-ê chưa đào xong. Vả lại, nếu có đào xong thì một chiếc tàu cần giữ bí mật như tàu của ta liệu có dám đi vào kênh đào có nhiều đập nước như vậy không? Tóm lại, biển Đỏ không phải là con đường đưa chúng ta về châu Âu.
-Nhưng tôi có nói là chúng ta đang về châu Âu đâu.
-Thế giáo sư dự kiến thế nào?
-Tôi cho rằng, sau khi thăm vùng biển A-ra-bi-a và Ai Cập, tàu Nau-ti-lúx sẽ trở lại ấn Độ Dương, hoặc qua eo Mô-dăm-bích, hoặc qua quần đảo Ma-xca-ren và sẽ tới mũi Hảo Vọng.
-Vâng, tới mũi Hảo Vọng rồi sao nữa!
-Nét kiên trì hỏi.
-Vòng qua mũi Hảo Vọng, chúng ta sẽ ra Đại Tây Dương. Chúng ta chưa đến vùng biển đó bao giờ. Này ông Nét, chẳng lẽ ông đã ngán cái kiểu đi ngầm dưới biển này rồi à? Còn tôi, nếu chuyến du lịch thú vị này đột nhiên chấm dứt thì tôi sẽ rất buồn. Chẳng phải ai cũng được may mắn như chúng ta đâu!
-Nhưng xin giáo sư chớ quên rằng chúng ta bị cầm tù trên tàu Nau-ti-lúx đã được ba tháng.
-ông Nét à, tôi chẳng muốn nhớ chuyện đó làm gì! Trên tàu này tôi chẳng tính ngày tính giờ làm gì!
-Nhưng rồi sẽ kết thúc ra sao?
-Sẽ có lúc phải kết thúc thôi! Nhưng chúng ta bất lực trong việc làm cho nó kết thúc nhanh, và mọi cuộc tranh cãi về vấn đề này đều vô ích. Nếu ông bảo tôi:
“Đã có thời cơ chạy trốn rồi đấy!" thì tôi sẽ thảo luận ngay với ông về chuyện ấy. Nhưng thời cơ chưa tới và tôi thành thật nghĩ rằng thuyền trưởng Nê-mô không dám vào vùng biển châu Âu đâu. Nét Len kết thúc câu chuyện bằng một câu độc thoại:
“Cái gì cũng đẹp vô cùng. Nhưng tôi nghĩ, trong cảnh tù đày này thì chẳng có gì đáng vui cả!" Suốt bốn ngày, tới mùng 3 tháng 2, tàu Nau-ti-lúx chạy trong vịnh ạ-man ở các tốc độ và độ sâu khác nhau. Hình như nó đang phân vân trong việc chọn đường đi. Tàu ra khỏi vịnh ạ-man và tới ngày mùng 5 tháng 2 thì vào vịnh A-đen, nơi đây nước của ấn Độ Dương hòa với nước biển Đỏ. Ngày mùng 6 tháng 2, tàu Nau-ti-lúx nhìn thấy thành phố A-đen xây dựng trên những mỏm đá nhô ra biển. Tôi tưởng Nê-mô cho tàu chạy tới đây thì quay lại. Nhưng tôi đã lầm. Hôm sau, mùng 7 tháng 2, tàu tiến vào eo biển Báp-en Man-đép, tiếng A-rập có nghĩa là "Cửa nước mắt". Eo này rộng hai mươi hải lý và chỉ dài năm mươi hai ki-lô-mét. Tàu Nau-ti-lúx chạy thật nhanh chỉ mất một tiếng đồng hồ là vượt qua. Đến trưa tàu vào tới biển Đỏ. Biển Đỏ! Chưa bao giờ có mưa rào trên biển này. Không một con sông lớn nào đổ vào biển này! Hằng năm nước bốc hơi làm mực nước ở đây tụt xuống một mét rưỡi! Biển Đỏ dài hai ngàn sáu trăm ki-lô-mét và rộng trung bình hai trăm bốn mươi ki-lô-mét. Thời cổ đại đây là một đường mậu dịch quốc tế chủ yếu.
Tôi không muốn tìm nguyên nhân đã thúc đẩy thuyền trưởng Nê-mô nhưng tôi chẳng thắc mắc gì khi được đến đây. Tàu chạy ở tốc độ trung bình, khi thì nổi, khi thì lặn xuống sâu để tránh gặp các tàu thuyền khác. Thế là tôi được quan sát biển này cả trên mặt nước, cả dưới sâu. Tàu Nau-ti-lúx tiến gần bờ biển châu Phi, nơi có nhiều vực thẳm. ở đó dưới các lớp nước trong như pha lê, qua ô cửa kính, chúng tôi ngắm nhìn những đám san hô ngầm được những tấm thảm bằng tảo phủ ngoài. Cảnh tượng đó thật khó phai mờ trong trí nhớ! Ngày 9 tháng 2, tàu Nau-ti-lúx tới quãng rộng nhất của biển Đỏ. Trưa hôm đó, sau khi xác định tọa độ, thuyền trưởng lên boong, nơi tôi đang đứng. Tôi định lợi dụng cơ hội này để thăm dò ý đồ sắp tới của Nê-mô. Thấy tôi, Nê-mô bước đến ngay, mời tôi hút xì gà rồi hỏi:
-Thế nào, giáo sư có thích biển Đỏ không? Ngài có quan sát được những kỳ quan ẩn náu dưới sâu không?
-Thưa thuyền trưởng, tất nhiên là có! Tàu Nau-ti-lúx quả là hết sức thích hợp với việc quan sát những kỳ quan đó. Thật là một chiếc tàu thông minh!
-Vâng, thưa ngài, con tàu rất thông minh, dũng cảm và an toàn! Nó chẳng sợ gì bão táp thường hoành hành ở biển Đỏ, cùng những luồng nước mạnh và những dải đá ngầm ở đây.
-Biển Đỏ được xem là một trong những vùng biển nguy hiểm nhất, và nếu tôi không lầm, thì từ thời cổ đại nó đã nổi tiếng chẳng lành.
-Thưa ngài, đúng vậy! Những nhà sử học Hy Lạp và La Mã nhận xét về nó rất tiêu cực. Theo họ, vô số tàu thuyền đã bị đắm vì vấp phải những dải cát nổi và chẳng một thuyền trưởng nào dám cho tàu chạy ban đêm ở biển này. ..
-Rõ ràng là các nhà sử học đó không được đi tàu Nau-ti-lúx.
-Tôi nói.
-Tất nhiên!
-Thuyền trưởng mỉm cười.
-Song trong lĩnh vực đóng tàu, những người đương thời với chúng ta cũng chẳng tiến xa hơn người cổ đại bao nhiêu. Phải mất mấy thế kỷ con người mới phát minh ra máy hơi nước! Chẳng biết một trăm năm sau có xuất hiện được một chiếc Nau-ti-lúx thứ hai không?
-Thuyền trưởng nói rất đúng. Chiếc tàu của ngài tiến trước thời cổ đại cả một thế kỷ, nếu không nói là hàng thế kỷ! Thật đáng tiếc, phát minh này sẽ mất đi cùng với người sáng tạo ra nó. Nê-mô im lặng không trả lời. Tôi nói tiếp:
-Thưa thuyền trưởng, chắc ngài đã nghiên cứu rất kỹ biển này. Xin ngài cho biết vì sao lại gọi là biển Đỏ?
-Về vấn đề này có nhiều cách giải thích khác nhau. Nhưng theo tôi, tên biển Đỏ là từ chữ Do Thái "Edom" mà ra. Người xưa căn cứ vào màu nước mà đặt tên cho biển này.
-Nhưng tôi chẳng thấy nó có màu sắc gì đặc biệt cả. Nước ở đây cũng như nước những biển khác trong xanh mà chẳng đỏ chút nào.
-Đúng vậy! Nhưng vào sâu trong vịnh, ngài sẽ thấy một hiện tượng lạ. Một lần ở vũng To-rơ, tôi được thấy nước biển tựa như trước mắt tôi là một hồ máu.
-Vì sao lại có hiện tượng ấy? Có phải vì những loài tảo đỏ li ti không?
-Đúng vậy! Đó là kết quả bài tiết của một loài tảo rất nhỏ. Muốn phủ kín một milimét vuông, cần có bốn vạn đơn vị. Có thể ngài sẽ được quan sát hiện tượng đó khi tàu vào vũng To-rơ.
-Thưa thuyền trưởng, chắc không phải lần đầu ngài cho tàu Nau-ti-lúx vào biển Đỏ?
-Vâng, không phải lần đầu!... Tiếc rằng tôi không thể cho ngài xem kênh đào Xuy-ê, nhưng ngày kia, khi tàu vào Địa Trung Hải, ngài sẽ được thấy con đê dài ở Po Xa-ít.
-Vào Địa Trung Hải ạ?
-Tôi sửng sốt.
-Vâng! Giáo sư ngạc nhiên ạ?
-Vâng, tôi ngạc nhiên vì ngày kia chúng ta đã tới Địa Trung Hải rồi!
-Đúng vậy!
-Thưa thuyền trưởng, tôi ngạc nhiên thật, mặc dù đi trên tàu Nau-ti-lúx thì chẳng nên ngạc nhiên về điều gì nữa.
-Nhưng giáo sư ngạc nhiên về điều gì vậy?
-Tàu Nau-ti-lúx phải chạy với tốc độ thế nào để có thể trong một ngày đưa chúng tôi vòng theo lục địa châu Phi qua mũi Hảo Vọng rồi vào Địa Trung Hải?
-Ai bảo ngài là chúng ta sẽ đi vòng châu Phi qua mũi Hảo Vọng?
-Nếu tàu Nau-ti-lúx không chạy trên cạn, hay bay qua eo đất Xuy-ê.
-... Hay là chạy ngầm dưới eo đất đó!
-Dưới eo đất đó, thưa ngài?
-Tất nhiên, -Nê-mô bình thản trả lời
-Thiên nhiên từ lâu đã tạo nên dưới eo ấy cái mà con người đang làm trên mặt đất.
-Sao? Chẳng lẽ lại có một lối đi ngầm?
-Vâng, có một lối đi ngầm mà tôi gọi là đường ngầm A-ra-bi-a.
-Nhưng eo Xuy-ê là do cát phù sa bồi lên.
-ở trên là cát, nhưng ở dưới sâu 5
-10 mét bắt đầu có lớp đá hoa cương rất rắn chắc.
-Ngài phát hiện ra con đường ngầm đó một cách ngẫu nhiên ạ?
-Tôi ngày càng sửng sốt.
-Thưa giáo sư, vừa ngẫu nhiên, vừa có tính toán.
-Thưa thuyền trưởng, tôi nghe ngài nói mà không tin ở tai mình nữa.
-Đó là chuyện thường tình thôi! Đường ngầm đó chẳng những có thật mà còn dùng làm đường giao thông được. Tôi đã cho tàu chạy qua đó nhiều lần. Nếu không thì tôi chẳng dám vào cái biển kín này làm gì.
-Thưa thuyền trưởng, có lẽ tôi hơi đường đột, nhưng xin hỏi ngài làm sao phát hiện ra con đường ngầm đó?
-Thưa giáo sư, giữa những người gắn bó với nhau mãi mãi thì có điều gì phải giữ kín nữa! Tôi làm ra vẻ không hiểu câu nói bóng gió ấy và chờ Nê-mô trả lời.
-Thưa giáo sư, -Nê-mô giải thích, -tính tò mò của nhà tự nhiên học gợi ý cho tôi rằng ở dưới eo đất Xuy-ê hẳn có một đường ngầm chưa ai biết. Tôi thấy biển Đỏ và Địa Trung Hải đều có những loài cá giống hệt nhau. Xác định được điều đó, tôi tự hỏi liệu có một lối thông nhau giữa hai biển không? Nếu có, thì vì mực nước ở biển Đỏ cao hơn nên luồng nước sẽ bắt nguồn từ đó chứ không phải từ Địa Trung Hải. Để kiểm tra xem có đúng không, tôi bắt nhiều loài cá khác nhau ở vùng biển gần Xuy-ê, đeo vào đuôi mỗi con một chiếc vòng bằng đồng rồi thả xuống nước. Mấy tháng sau, ở bờ biển Xi-ri, một số cá đeo vòng đó bị sa lưới. Lối đi ngầm giữa hai biển đã được chứng minh. Tôi lao vào tìm lối đi đó rồi liều cho tàu chạy vào. Giáo sư sắp được đi qua đường ngầm A-ra-bi-a của tôi đó.
__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #29  
Old 05-01-2005, 08:55 AM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Chương 29 - Đường ngầm A-ra-bi-a

Ngay hôm đó tôi kể lại cho Công-xây và Nét Len về cuộc nói chuyện giữa tôi và thuyền trưởng Nê-mô mà tôi chắc họ sẽ thích thú. Khi tôi nói hai ngày nữa tàu sẽ tới Địa Trung Hải thì Công-xây vỗ tay, còn Nét nhún vai nói:
-Đường ngầm à? Đường nối liền hai biển à? Chưa nghe ai nói bao giờ!
-Anh bạn Nét ơi, -Công-xây trả lời, -thế trước kia anh bạn có được nghe nói về tàu Nau-ti-lúx không? Không! Thế mà nó vẫn tồn tại. Vậy anh đừng nhún vai làm chi vô ích và đừng viện cớ chưa nghe thấy ai nói mà phủ nhận tồn tại của sự vật.
-Được, rồi xem!
-Nét lắc đầu phản đối.
-Mà nếu con đường ngầm mà Nê-mô nói là có thật thì còn gì bằng nữa. Cầu trời phù hộ cho Nê-mô đưa được chúng ta sang Địa Trung Hải! Chiều tối hôm đó, tàu Nau-ti-lúx nổi lên mặt nước gần bờ biển A-ra-bi-a. Phía xa là thành phố Gít-đa, một trung tâm buôn bán quan trọng của nhiều nước như Ai Cập, Xi-ri, Thổ Nhĩ Kỳ và ấn Độ. Một lát sau, bóng tối trùm lên thành phố và tàu Nau-ti-lúx vội lặn xuống làn nước lấp lánh như lân tinh. Hôm sau, mùng mười tháng hai, xuất hiện những chiếc tàu chạy ngược chiều. Tàu Nau-ti-lúx lại lặn xuống. Nhưng đến giữa trưa, lúc cần xác định tọa độ, biển vắng lặng, tàu lại nổi lên mặt nước. Tôi cùng Nét và Công-xây lên boong. Dải bờ biển ẩn hiện trong sương mù phía đông. Chúng tôi đang tựa vào đáy xuồng và nói chuyện phiếm thì Nét bỗng chỉ vào một chấm đen trên mặt biển rồi hỏi:
-Giáo sư có nhìn thấy gì không?
-Chẳng thấy gì cả! ông cũng biết mắt tôi chẳng lấy gì làm tinh lắm.
-Giáo sư hãy nhìn kỹ xem. Phía trước mặt chúng ta đấy. Tôi chăm chú nhìn rồi nói:
-Đúng là trên mặt biển có một vật gì đen và dài đang chuyển động.
-Lại một tàu Nau-ti-lúx nữa!
-Công-xây nói.
-Đâu phải!
-Nét phản đối.
-Nếu tôi không lầm thì đó là một động vật. Chẳng lẽ ở biển Đỏ lại có cá voi?
-Công-xây hỏi.
-Có, anh bạn ạ, -Tôi trả lời.
-Thỉnh thoảng người ta cũng gặp cá voi ở vùng biển này.
-Nhưng đây không phải là cá voi, -Nét vẫn không rời mắt khỏi chấm đen.
-Cá voi thì tôi quen thuộc lắm. Tôi nhận ra chúng từ xa.
-Chúng ta hãy kiên nhẫn.
-Công-xây nói.
-Tàu đang chạy về phía đó. Chỉ một lát nữa ta sẽ biết nó là cái gì. Tàu còn cách vật đen đen đó một hải lý. Vật đó giống phần trên của một dải đá ngầm. Nhưng nó là cái gì thì tôi chưa thể xác định được. Công-xây bỗng reo lên:
-A! Bò nước! Một chú bò nước thực sự! Bò nước! Đúng là chúng ta đã gặp một con thuộc họ bò nước mà truyền thuyết đã biến thành một động vật biển hoang đường nửa cá nửa phụ nữ.
-Không phải bò nước đâu mà là một động vật khác thỉnh thoảng còn thấy ở biển Đỏ. Đó là con đuy-gông, thuộc họ bò nước. Nét Len sẵn sàng chiến đấu. Mắt anh ta rực lửa. Anh thợ săn cá voi này đang đợi thời cơ để nhảy xuống biển quyết chiến với con vật! Anh ta nói giọng run run vì xúc động:
-ại, tôi chưa từng được "đánh" những con như thế này bao giờ! Cả con người Nét thể hiện trong câu nói đó. Vừa lúc ấy, thuyền trưởng Nê-mô lên boong. ông ta nhìn thấy ngay con đuy-gông, thông cảm với sự xúc động của Nét và hỏi anh ta:
-Nếu trong tay ông có súng thì có lẽ ông chẳng chịu để yên đâu nhỉ?
-Thưa thuyền trưởng đúng vậy.
-Và có lẽ ông không từ chối nếu được trở lại làm thợ săn cá voi trong một ngày đâu nhỉ?
-Vâng, sao lại từ chối ạ!
-Thế thì được, ông hãy cố gắng nhé!
-Xin cảm ơn thuyền trưởng!
-Mắt Nét Len sáng ngời.
-Nhưng ông chớ bắn trượt nhé! Nếu trượt thì thiệt cho ông đó!
-Chẳng lẽ đuy-gông lại nguy hiểm đến thế cơ ạ?
-Tôi hỏi Nê-mô mà chẳng chú ý tới Nét đang nhún vai.
-Trong vài trường hợp, nó khá nguy hiểm.
-Nê-mô trả lời.
-Đôi khi nó xông thẳng tới kẻ thù rồi lật úp thuyền. Nhưng ông Nét thì chẳng có gì phải sợ nó vì có đôi mắt rất tinh và hai cánh tay vững chắc. Tôi chỉ mong ông đừng để nó thoát vì thịt nó rất ngon. Nê-mô vừa dứt lời thì bảy thủy thủ đã lặng lẽ lên boong. Một người mang chiếc lao buộc vào sợi dây, giống như loại lao vẫn dùng bắn cá voi. Họ tháo xuống rồi hạ xuống nước. Sáu người chèo, một người cầm lái. Nét, Công-xây và tôi ngồi ở phía sau.
-Thuyền trưởng có cùng đi không ạ?
-Tôi hỏi.
-Thưa ngài, không. Xin chúc các ngài thành công!
Xuồng bơi về phía con đuy-gông đang ở cách chúng tôi hai hải lý. Khi còn cách mấy trăm mét thì xuồng đi chậm lại. Nét Len cầm lao đứng ở mũi. Như ta đã biết, lao săn cá voi thường được buộc dây rất dài và dễ tháo ra khi con cá lặn xuống sâu. Nhưng ở đây sợi dây chỉ dài không quá hai chục mét, đầu kia buộc vào một chiếc thùng rỗng để báo hiệu con cá bị thương đang nằm ở chỗ nào dưới biển. Tôi nhỏm dậy và chăm chú nhìn đối thủ của Nét. Con đuy-gông này thật đồ sộ: nó dài ít nhất bảy mét và nằm im không nhúc nhích. Hình như nó đang ngủ. Chiếc xuồng lặng lẽ tới cách con cá chừng sáu mét. Tôi bật dậy. Nét Len hơi ngả người ra phía sau rồi phóng lao. Lao bay vút đi. Con đuy-gông biến mất. Mũi lao này phóng đi rất mạnh nhưng rơi xuống nước.
-Khổ quá! Trượt rồi!
-Nét phát điên.
-Trượt đâu?
-Tôi nói.
-Nó bị thương rồi, có vệt máu trên mặt nước kia.
Con đuy-gông thỉnh thoảng lại nổi lên để thở. Rõ ràng vết thương chưa làm nó kiệt sức, vì nó còn bơi rất nhanh. Chiếc xuồng lướt theo vết con cá. Đôi lúc chúng tôi đuổi gần kịp và Nét đã chuẩn bị phóng lao nhưng nó lại lặn xuống ngay. Các bạn có thể hình dung được rằng Nét đã cáu kỉnh, giận dữ đến mức nào! Còn tôi thì thất vọng vì con đuy-gông đã phá vỡ mưu kế của chúng tôi. Chúng tôi rượt theo nó suốt một tiếng đồng hồ. Bỗng nó có ý định trả thù những người đuổi bắt, nó quay lại và xông thẳng tới chiếc xuồng. Hành động của con đuy-gông không lọt qua mắt Nét Len. Anh ta hô lên:
-Coi chừng! Người cầm lái nói mấy lời bằng thổ ngữ khó hiểu chắc là ra lệnh cho các thủy thủ khác cảnh giác. Tới cách xuồng chừng hơn mười mét, con cá hít không khí vào qua hai lỗ mũi rất rộng rồi lại tiếp tục lao tới. Chúng tôi không kịp tránh đòn. Chiếc xuồng tròng trành. Nước ùa vào, chúng tôi phải tát ngay ra, nhưng nhờ sự khéo léo của người lái mà xuồng không bị lật úp. Nét Len phóng lao liên tiếp vào con vật khổng lồ. Nó bèn đội thuyền lên khỏi mặt biển tựa như con sư tử tung con dê lên trời. Chúng tôi xô vào nhau. Tôi không biết sự thể sẽ diễn ra thế nào nếu như Nét không phóng lao trúng tim con cá. Con đuy-gông lặn xuống nhưng chỉ một lát sau xác nó bị lật ngửa, nổi bềnh lên mặt biển. Chúng tôi liền lôi nó về tàu Nau-ti-lúx. Con đuy-gông nặng năm tấn. Việc mổ cá được tiến hành dưới sự hướng dẫn của Nét. Hôm ấy, người phục vụ dọn cho chúng tôi món cá đuy-gông được đầu bếp trên tàu nấu rất khéo. Theo tôi, cá này ăn ngon hơn thịt bò. Hôm sau, 11 tháng 2, tàu từ từ chạy vào vùng Xuy-ê. Tôi thấy càng gần Xuy-ê nước biển Đỏ càng bớt mặn.
Tàu vượt qua eo Gu-ban rồi vào vịnh Xuy-ê. Đến sáu giờ, tàu chạy ngang qua thành phố To-rơ nằm sâu trong vũng biển có sắc nước đo đỏ như thuyền trưởng Nê-mô đã quan sát. Đêm đã tới. Cảnh tịch mịch chỉ thỉnh thoảng bị phá vỡ bởi tiếng kêu của bồ nông hay một loài chim đêm nào khác, bởi tiếng sóng vỗ bờ hay tiếng còi tàu phía xa. Từ tám đến chín giờ, tàu chạy dưới mặt biển chừng vài mét. Theo sự tính toán của tôi, tàu đang ở gần eo đất Xuy-ê. Qua ô cửa phòng khách, tôi nhìn thấy chân các mỏm đá gần bờ được đèn pha trên tàu rọi sáng. Tôi cảm thấy eo biển hẹp dần lại. Chín giờ mười lăm phút, tàu nổi lên mặt nước. Tôi vội chạy lên boong vì nóng lòng muốn được vào ngay con đường ngầm của thuyền trưởng Nê-mô. Tôi tranh thủ hít thở không khí trong lành ban đêm. Một lúc sau, cách chúng tôi một hải lý, có ánh lửa thấp thoáng sau làn sương đêm.
-Đó là hải đăng nổi, -có tiếng người nói sau lưng tôi. Tôi quay lại thì thấy thuyền trưởng. Nê-mô nói tiếp:
-Đó là hải đăng nổi Xuy-ê. Chúng ta sắp tới cửa đường ngầm.
-Thưa thuyền trưởng, có lẽ vào đường ngầm cũng không dễ?
-Tôi hỏi.
-Vâng, tất nhiên không dễ. Vì vậy tôi phải lên phòng hoa tiêu để tự tay lái tàu. Và bây giờ xin mời giáo sư xuống phòng vì tàu sắp lặn và sẽ chỉ nổi lên khi vượt qua hết đường ngầm. Tôi đi theo thuyền trưởng. Các ô cửa đóng lại. Các bể chứa được bơm đầy nước. Tàu lặn xuống sâu mười mét. Tôi định về phòng riêng thì Nê-mô ngăn lại:
-Giáo sư có muốn lên phòng hoa tiêu với tôi không?
-Thế thì còn gì bằng nữa ạ!
-Ta đi thôi! ở đó ngài sẽ được thấy tất cả những gì có thể thấy được trong chặng đường ngầm dưới biển và dưới mặt đất này. Phòng hoa tiêu của tàu Nau-ti-lúx hình vuông mỗi bề gần hai mét. ở chính giữa là tay lái, xung quanh lắp kính cho phép người lái nhìn được cả bốn phía. Trong phòng tối om, nhưng một phút sau tôi nhận ra bóng người hoa tiêu hai tay đang cầm lái. Biển được chiếu đèn pha ở phía sau rọi sáng trưng.
-Nào, bây giờ ta hãy tìm cửa vào đường ngầm. Phòng hoa tiêu được nối với buồng lái bằng dây điện, giúp thuyền trưởng có thể vừa trực tiếp lái tàu, vừa điều khiển tốc độ của tàu. Nê-mô ấn nút, chân vịt liền quay chậm lại. Tôi lặng nhìn bức tường đá hoa cương dựng đứng. Tàu chạy dọc bức tường đó suốt một tiếng đồng hồ. Thuyền trưởng Nê-mô không rời mắt khỏi chiếc địa bàn. Theo hiệu của thuyền trưởng, người lái tàu thay đổi hướng tàu chạy từng phút. Đúng mười giờ mười lăm phút, thuyền trưởng bắt đầu đích thân cầm lái. Một hành lang rộng, sâu thẳm và ngoằn ngoèo đang hiện ra trước mắt chúng tôi. Tàu Nau-ti-lúx dũng cảm đi vào dưới vòm cuốn tối đen của hành lang đó. ở mạn tàu bên kia, có tiếng ào ào khác thường. Đó là nước biển Đỏ đang theo đường ngầm đổ vào Địa Trung Hải. Con tàu theo dòng nước lao đi như mũi tên, mặc dù máy móc trên tàu đã làm việc hết sức để giảm tốc độ bằng cách cho chân vịt quay ngược lại. Tim tôi đập thình thịch. Bất giác tôi đưa tay lên ngực. Đến mười giờ ba mươi lăm phút, thuyền trưởng Nê-mô trao tay lái cho hoa tiêu rồi bảo tôi:
-Địa Trung Hải rồi đó! Tàu Nau-ti-lúx bị nước cuốn qua eo Xuy-ê mất không đầy hai mươi phút.
__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #30  
Old 05-01-2005, 08:56 AM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Chương 30 - Quần đảo hy Lạp

Rạng sáng hôm sau, 12 tháng 2, tàu Nau-ti-lúx nổi lên mặt nước. Tôi chạy lên boong. ở chân trời phía nam, hiện lên hình dáng của thành phố Pê-lu-đi-om cổ kính. Gần 7 giờ sáng Nét Len và Công-xây cũng lên boong. Hai người bạn cố tri ngủ một mạch suốt đêm, chẳng quan tâm chút nào tới chiến công của tàu Nau-ti-lúx cả.
-Thưa nhà tự nhiên học, -Nét hỏi tôi bằng một giọng hài hước, -Địa Trung Hải đâu ạ?
-Chúng ta đang ở Địa Trung Hải rồi đó, ông bạn ạ.
-Chà chà! Thế là đêm qua...
-Đêm qua trong ít phút chúng ta đã vượt qua eo đất hiểm.
-Tôi không tin, -Nét trả lời.
-Không tin sao được, ông Nét!
-Tôi phản đối.
-Bờ biển thấp ở phía nam kia là bờ biển Ai Cập đó! Nét vẫn bướng bỉnh chưa tin. Tôi bảo Nét:
-ông hãy nghe tôi. Thuyền trưởng đã cho tôi vinh dự được lên phòng hoa tiêu xem con đường ngầm. ông ta tự tay lái tàu qua cái hành lang hẹp đó.
-Nghe thấy chưa, anh Nét?
-Công-xây hỏi.
-ông Nét ạ, -tôi nói tiếp, -mắt ông rất tinh. ông có thể phân biệt một cách dễ dàng con đê chạy dài ra biển của cảng Po Xa-ít. Nét chăm chú nhìn rồi nói:
-Giáo sư nói đúng, còn thuyền trưởng của ngài quả là tài năng kiệt xuất. Chúng ta đang ở Địa Trung Hải thật. Bây giờ, nếu có thể, ta hãy bàn việc riêng một chút, nhưng chớ để ai nghe trộm.
Tôi hiểu rõ ý đồ của Nét và nghĩ bụng:
“Dẫu sao cũng nên bàn bạc với anh ta vì anh ta muốn thế". Thế là ba chúng tôi ngồi xuống gần đèn pha. Tôi nói:
-ông muốn nói gì thì nói đi, ông Nét. Tôi nghe đây.
-Thế này nhé. Chúng ta đang ở châu Âu. Trước khi Nê-mô có ý định cho tàu lặn xuống đáy biển Bắc cực hay quay lại châu Đại dương, ta phải chuồn khỏi tàu này! Thú thực là cuộc thảo luận với Nét về chuyện đó làm tôi lúng túng. Tôi không hề muốn gò bó Công-xây và Nét nhưng cũng chẳng có chút nguyện vọng nào chia tay với thuyền trưởng Nê-mô. Nhờ Nê-mô, nhờ con tàu của Nê-mô mà hằng ngày tôi bổ sung cho mình biết bao kiến thức về hải dương học, tôi viết lại cuốn sách của mình nói về những bí mật dưới đáy đại dương ở ngay trong lòng biển. Liệu tôi còn dịp được quan sát những kỳ quan ẩn giấu dưới đại dương không! Tất nhiên là không! Tôi không thể chấp nhận ý nghĩ rằng phải rời khỏi tàu Nau-ti-lúx mà chưa hoàn thành công trình nghiên cứu biển của chúng tôi.
-ông bạn Nét ạ, -tôi nói, -ông hãy trả lời tôi một cách thẳng thắn nhé. Chẳng lẽ trên tàu Nau-ti-lúx lại buồn sao? ông ân hận rằng số phận đã đẩy ông đến với thuyền trưởng Nê-mô à? Nét không trả lời ngay. Anh ta khoanh tay trước ngực rồi nói:
-Thực tình, tôi chẳng ân hận gì về việc được làm một chuyến đi chơi ngầm dưới biển. Tôi sẽ nhớ lại chuyến đi này một cách thú vị, nhưng cũng phải cho nó kết thúc chứ! Đấy, ý kiến của tôi là như vậy.
-Nó sẽ kết thúc, ông Nét ạ!
-Kết thúc ở đâu và bao giờ?
-ở đâu thì tôi không biết. Bao giờ, tôi không thể nói được, nhưng tôi nghĩ chuyến đi này sẽ kết thúc khi tất cả những vùng biển đã mở ra trước chúng ta mọi bí mật của mình. ở đời này cái gì chẳng có kết thúc!
-Tôi đồng ý với giáo sư, -Công-xây nói.
-Có lẽ sau khi đi khắp các biển trên trái đất, thuyền trưởng Nê-mô sẽ phóng thích tất cả ba người chúng ta.
-Phóng thích à?
-Nét nói như quát.
-Tống cổ đi thì đúng hơn!
-Hãy khoan, ông Nét!
-Tôi nói.
-Chúng ta chẳng có gì phải sợ hãi thuyền trưởng, tuy vậy tôi cũng không đồng ý với Công-xây nghĩ rằng Nê-mô sẽ cho phép chúng ta loan tin ra khắp thế giới về chiếc tàu Nau-ti-lúx.
-Vậy ngài hy vọng vào cái gì?
-Nét hỏi.
-Tôi hy vọng trong tương lai tình hình sẽ thuận lợi hơn. Bây giờ, hay sáu tháng nữa cũng vậy thôi, phải không?
-Sao lại "cũng vậy thôi"?
-Nét mỉa mai.
-Xin giáo sư cho biết sáu tháng sau chúng ta sẽ ở đâu?
-Có thể là vẫn ở chỗ này, có thể là ở Trung Quốc. ông cũng biết tàu Nau-ti-lúx chạy rất nhanh. Nó vượt đại dương như én bay trên trời, hay tàu nhanh chạy trên lục địa!
Nó chẳng sợ gì các vùng biển châu Âu. Ai dám cam đoan rằng nó sẽ không đến gần bờ biển nước Pháp, nước Anh hay nước Mỹ, nơi mà những điều kiện chạy trốn sẽ còn thuận lợi hơn?
-Thưa ngài A-rô-nắc, -Nét trả lời, những lý lẽ của ngài ngược lại với lẽ phải. Ngài nói toàn chuyện tương lai:
“Chúng ta sẽ ở đây, chúng ta sẽ ở đó!". Còn tôi thì nói chuyện hiện tại:
“Chúng ta đang ở đây, phải lợi dụng ngay thời cơ này!". Lô-gich của Nét làm lập trường của tôi nghiêng ngả. Tôi cảm thấy mình bị thua vì đuối lý.
-Thưa giáo sư, -Nét nói tiếp, -giả sử ngay bây giờ thuyền trưởng Nê-mô yêu cầu chúng ta rời khỏi tàu Nau-ti-lúx, ngài có chấp nhận yêu cầu đó không?
-Tôi không biết.
-Nếu Nê-mô nói rằng sẽ không yêu cầu lần thứ hai nữa thì ngài tính sao? Tôi im lặng.
-Anh Công-xây tính sao? Công-xây bình thản trả lời:
-Công-xây thì không có ý kiến gì. Đối với anh ta thì thế nào cũng xong. Anh ta sống độc thân như chủ của anh ta, như bạn của anh ta. Chẳng ai mong đợi anh ta ở quê hương cả. Rất tiếc là trong vấn đề tranh luận này, không thể trông đợi gì ở anh ta được. ở đây chỉ có hai bên là giáo sư và Nét Len thôi. Anh ta sẵn sàng đứng làm trọng tài. Tôi bất giác mỉm cười khi nghe những lời khôi hài của Công-xây. Còn Nét trong thâm tâm chắc rất hài lòng vì đã loại ra được một đối thủ. Nét nói:
-Thưa giáo sư, nếu Công-xây không tham gia cuộc tranh luận này thì chỉ có tôi và ngài giải quyết vấn đề này. Tôi đã nói hết ý kiến và ngài cũng đã nghe hết. Thế bây giờ ngài thấy thế nào? Đành phải có ý kiến dứt khoát vì tôi không chịu nổi sự quanh co:
-ông bạn Nét ạ, tôi xin trả lời thế này. ông nói đúng, những lý lẽ của tôi không có trọng lượng bằng lý lẽ của ông. Thuyền trưởng Nê-mô không bao giờ tự nguyện thả chúng ta, không nên hy vọng gì vào điều đó. Vì bản năng tự vệ mà Nê-mô sẽ không trả lại tự do cho chúng ta. Nhưng cũng chính vì bản năng tự vệ mà khi có thời cơ là ta phải rời bỏ tàu Nau-ti-lúx ngay.
-Ngài nói thật là chí lý!
-Nhưng còn một điều nữa là phải đợi cơ hội thật thuận lợi. Đã hành động là phải thành công. Nếu thất bại là đi đứt! Nê-mô không bao giờ tha thứ cho ta đâu!
-Thưa giáo sư, vâng. Nhưng ý kiến của ngài quá chung chung. Vấn đề là thế này: nếu có thời cơ thuận lợi là phải chộp lấy ngay, phải không ạ?
-Đồng ý. Bây giờ ông hãy nói rõ thế nào là thời cơ thuận lợi.
-Giả sử có một đêm nào đó tối trời, tàu chạy gần bờ biển châu Âu... thời cơ thuận lợi là đó.
-Thế ông định bơi vào bờ à?
-Tất nhiên, tôi sẽ gắng bơi nếu tàu chạy trên mặt biển, còn nếu nó lặn xuống...
-Thì sao?
-Thì tôi sẽ cố chiếm cái xuồng. Tôi biết cách lấy nó rồi. Tên hoa tiêu trong phòng lái sẽ chẳng thấy ta chạy trốn đâu.
-Thế thì ông hãy đợi thời cơ! Nhưng ông chớ quên rằng nếu thất bại là nguy đấy.
-Thưa ngài, tôi sẽ không quên.
-ông Nét, bây giờ ông có muốn nghe ý kiến của tôi về kế hoạch của ông không?
-Xin giáo sư cứ nói.
-Tôi nghĩ rằng
-tôi không nói là "hy vọng rằng"
-sẽ không có thời cơ thuận lợi như vậy đâu.
-Vì sao?
-Vì thuyền trưởng Nê-mô nhìn sự việc rất tỉnh táo và tất nhiên sẽ đề phòng chúng ta, đặc biệt là khi gần bờ biển châu Âu.
-Tôi tán thành ý kiến của giáo sư, -Công-xây nói.
-Rồi xem!
-Nét lắc đầu.
-ông Nét ạ, -tôi nói thêm.
-Chúng ta kết thúc câu chuyện này ở đây. Tuyệt đối không nên nói gì nữa! Hôm nào ông định chạy trốn thì báo trước cho chúng tôi biết, chúng tôi sẽ theo ông. Tôi hoàn toàn trông cậy vào ông.
Thế là kết thúc câu chuyện giữa ba chúng tôi, câu chuyện gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng sau này. Thật đau buồn cho Nét, những sự kiện xảy ra đã khẳng định ý kiến của tôi là đúng. Chẳng biết vì Nê-mô không tin chúng tôi hay vì ông ta tránh gặp các tàu thuyền ở Địa Trung Hải mà tàu Nau-ti-lúx phần lớn chạy ngầm dưới nước và cách xa bờ. Đôi khi tàu chỉ hơi nhô khỏi mặt nước, nhưng thường là lặn xuống khá sâu. Giữa quần đảo Hy Lạp và Tiểu á, tàu lặn xuống hai ngàn mét mà chưa chạm đáy. Tối hôm sau, 14 tháng 2, gặp thuyền trưởng Nê-mô ở phòng khách, tôi cảm thấy ông ta có nhiều điều tư lự không vui. Trái với lệ thường, Nê-mô ra lệnh mở rộng cả hai ô cửa sổ rồi vừa đi đi lại lại giữa hai ô cửa đó vừa chăm chú nhìn vào khoảng nước mênh mông. Việc làm đó có ý nghĩa gì? Thôi mặc ông ta, tôi quay ra nghiên cứu các loài cá đang tung tăng ngoài ô cửa. Tôi đang ngắm nhìn không chán mắt những kỳ quan của đáy biển thì một hiện tượng bỗng làm tôi giật mình. Có một người, một người thợ lặn xuất hiện, lưng đeo túi da. Đó không phải là một cái xác không hồn trôi theo dòng nước mà là một người còn sống đang bơi bằng đôi tay rất khỏe. Thỉnh thoảng anh ta ngoi lên mặt nước để thở rồi lại lặn xuống. Tôi quay về phía thuyền trưởng Nê-mô và kêu lên, xúc động:
-Có người sắp chết đuối! Phải cứu ngay! Phải cứu bằng mọi giá! Nê-mô chạy bổ tới ô cửa. Người đó bơi lại, áp mặt vào tấm kính và nhìn chúng tôi. Tôi hết sức ngạc nhiên khi thấy Nê-mô lấy tay ra hiệu cho người đó. Người đó gật đầu trả lời rồi ngoi lên đi mất.
-Giáo sư đừng lo!
-Nê-mô nói.
-Đó là anh Ni-cô-la ở mũi biển Ma-ta-pan, biệt hiệu là "Cá". Anh ta nổi tiếng khắp vùng đảo ấy về tài bơi lặn. Ni-cô-la sống dưới nước nhiều hơn trên cạn! Anh ta thường bơi từ đảo này sang đảo khác.
-Thuyền trưởng biết anh ta ạ?
-Sao tôi lại không biết? Nói đoạn, Nê-mô bước tới chiếc tủ kê bên trái ô cửa. Gần tủ là một cái hòm bịt sắt, trên nắp có tấm biển nhỏ bằng đồng ghi phương châm của tàu Nau-ti-lúx: Mobilis in mobile Không đếm xỉa đến sự có mặt của tôi, Nê-mô mở tủ trong chứa đầy vàng thoi. Thứ kim loại quý đó lấy từ đâu ra? Và sao nhiều vậy? Nê-mô định dùng vàng để làm gì? Tôi chẳng nói một lời và trố mắt nhìn. Nê-mô lấy từng thoi vàng ra rồi xếp ngay ngắn vào hòm tới khi đầy ắp. Theo tôi, số vàng ấy phải nặng hơn một tấn, nói cách khác là bằng khoảng năm triệu phrăng. Nê-mô đậy nắp hòm lại rồi viết địa chỉ hình như bằng tiếng Hy Lạp lên trên. Sau đó, Nê-mô ấn nút điện có dây chạy xuống phòng thủy thủ. Bốn thủy thủ chạy tới và khá vất vả mới khiêng được hòm ra khỏi phòng khách. Thuyền trưởng quay lại hỏi tôi:
-Giáo sư nói gì vậy?
-Thưa thuyền trưởng, tôi chẳng nói gì.
-Thế thì xin chúc ngài ngủ ngon. Nói xong, Nê-mô bước ra khỏi phòng khách. Tôi quay về phòng riêng và cố gắng ngủ. Tôi rất thắc mắc về thái độ của thuyền trưởng. Giữa sự xuất hiện của người thợ lặn và cái hòm chứa đầy vàng có mối quan hệ gì? Một lúc sau, tàu Nau-ti-lúx từ lớp nước sâu nổi lên mặt biển. Tôi thấy tiếng chân lịch kịch trên boong. Người ta đang tháo xuồng ra và hạ xuống nước. Chiếc xuồng khẽ chạm vào thân tàu. Sau đó im lặng hẳn. Hai tiếng đồng hồ trôi qua. Lại có tiếng chân thình thịch trên boong tàu. Xuồng được kéo lên. Tàu lại lặn. Thế là vàng đã được đưa tới địa chỉ, nhưng cụ thể là tới nơi nào trên lục địa này? Ai là người liên lạc của thuyền trưởng Nê-mô? Hôm sau, tôi trao đổi cảm tưởng đêm vừa rồi với Công-xây và Nét. Họ cũng ngạc nhiên chẳng kém gì tôi.
-Nê-mô lấy ở đâu ra nhiều vàng như vậy?
-Nét hỏi. Biết trả lời thế nào? †n sáng xong, tôi đến phòng khách làm việc. Tôi soạn lại những ghi chép của mình đến năm giờ. Tôi bỗng thấy nóng bức nên bỏ áo ngoài ra. Sao nóng thế này? Tàu đã cách xa vùng nhiệt đới và đang chạy dưới biển sâu, nơi nhiệt độ thấp. Đồng hồ chỉ độ sâu mười tám mét dưới mặt biển. ở độ sâu ấy, dù áp lực nước có tăng cũng chẳng có tác động gì. Tôi tiếp tục làm việc, nhưng nhiệt độ xung quanh tăng lên một cách đáng sợ. Tôi nghĩ bụng:
“Hay là tàu bị cháy?".
Tôi đang định ra khỏi phòng khách thì thuyền trưởng Nê-mô xuất hiện ở ngưỡng cửa. ông ta bước tới chỗ đặt nhiệt kế, nhìn cột thủy ngân rồi bảo tôi:
-Bốn mươi hai độ!
-Vâng, nóng quá!
-Tôi trả lời.
-Nếu nhiệt độ còn tăng lên nữa thì chúng ta sẽ bị chín nhừ ra.
-Thưa giáo sư, nếu ta không muốn thì nhiệt độ sẽ không tăng nữa.
-Ngài có khả năng điều khiển cả nhiệt độ nữa à?
-Không phải! Nhưng tôi có thể ra khỏi cái lò lửa này.
-Đây là nhiệt độ của môi trường bên ngoài ạ?
-Tất nhiên! Tàu đang chạy trong nước sôi.
-Sao lại thế được!
-Tôi sửng sốt.
-Giáo sư hãy xem đây. ạ cửa ngoài mở ra khiến tôi trông thấy những ngọn sóng trắng xóa nổi lên quanh tàu. Từng đám hơi lưu huỳnh lan ra trong nước sôi sùng sục như trong chảo. Tôi vừa chạm tay vào ô kính thì phải rụt ngay lại vì nó nóng giãy.
-Chúng ta đang ở đâu vậy?
-Tôi hỏi.
-Đang ở quần đảo Xan-tô-rin, -Nê-mô trả lời.
-Tôi muốn để ngài xem núi lửa ngầm. Đó là một hiện tượng kỳ lạ!
-Tôi tưởng quá trình hình thành những đảo mới đã chấm dứt rồi.
-Trong lĩnh vực núi lửa thì quá trình hình thành đó không bao giờ chấm dứt. Ngọn lửa trong lòng đất hoạt động liên tục. Nếu ở Thái Bình Dương san hô có thể tạo nên các lục địa thì ở vùng biển này núi lửa cũng đóng vai trò như vậy. Ngài hãy nhìn xem hoạt động đó ở dưới biển sâu sôi nổi như thế nào! Tôi bước tới ô cửa. Tàu Nau-ti-lúx đứng tại chỗ. Không khí nóng bức khôn tả. Nước từ màu trắng đã chuyển thành màu đỏ. Dù cửa đóng rất kín, hơi lưu huỳnh ngột ngạt vẫn lọt vào phòng khách, và ô ngoài cửa thỉnh thoảng lại bùng lên những ngọn lửa đỏ rực làm mờ cả ánh sáng của chiếc đèn pha. Người tôi đẫm mồ hôi và thiếu không khí để thở. Tôi cảm thấy sắp bị chín nhừ, nên bảo Nê-mô:
-Ta không nên ở lâu trong cái chảo nước sôi này làm gì.
-Vâng, ở mãi đây cũng nguy hiểm, -Nê-mô bình thản trả lời. Theo lệnh Nê-mô, tàu Nau-ti-lúx chạy ngay ra khỏi vùng nước đó. Mười lăm phút sau, tàu nổi lên mặt biển. Chúng tôi được thở hít không khí trong lành một cách thỏa thích. Tôi nghĩ bụng:
“Nếu Nét chọn vùng biển lửa vừa rồi làm nơi bỏ trốn thì chúng tôi chẳng còn ai sống sót". Hôm sau, 16 tháng 2, tàu Nau-ti-lúx vòng qua mũi Ma-ta-pan rồi ra khơi, từ biệt quần đảo Hy Lạp.
__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời


Ðiều Chỉnh
Xếp Bài

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
Bạn không được quyền gởi bài
Bạn không được quyền gởi trả lời
Bạn không được quyền gởi kèm file
Bạn không được quyền sửa bài

vB code đang Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển đến


Múi giờ GMT. Hiện tại là 06:51 PM.


Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2025, Jelsoft Enterprises Ltd.