Go Back   Vina Forums > Thư Viện Online > Kho Tàng Truyện > Truyện Kiếm Hiệp
Hỏi/Ðáp Thành Viên Lịch Tìm Kiếm Bài Trong Ngày Ðánh Dấu Ðã Ðọc

Trả lời
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
  #41  
Old 06-14-2005, 02:30 PM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Hồi 18

TÙ VÌ BẠN


Ngày xưa ở bên Tàu có huyện Đinh Hải, thuộc phủ Ninh Ba, tỉnh Triết Giang có quan kiểm sự tên Cao Khoa và quan Thị Lang tên Hạ Chánh là đôi bạn chí thân và ngụ cùng một làng.
Hai người thường qua lại nhà nhau, “khi chén rượu, khi cuộc cờ, khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên”, đàm đạo với nhau ra chiều tương đắc lắm.
Một bữa hạ Chánh sưa soạn sang nhà Cao Khoa sẩy thấy bạn đến chơi, nét mặt hớn hở.
Hạ Chách lật đật ra rước:
- Tôi định sang bên bác đây. Bữa nay bác có chi mà vui tươi vậy?
- Sang báo bác rõ nhà tôi đã có tin mừng và mời bác sang nhà chơi.
Hạ Chánh vỗ tay reo:
- Thiệt hả. Vậy thì tốt quá. Vợ tôi có tin vui và tôi đang sửa soạn sang nói để bác mừng cho thì bác đã sang.
Cao Khoa tươi cười đáp:
- Hay lắm, hay lắm. Bên tôi sẵn có tiệc rượu rồi, mời bác qua ăn mừng luông thể.
Tới nhà Cao Khoa đôi bạn nhập tiệc nâng ly mừng nhau rồi cùng ước hẹn nếu sau này đôi bên sanh con trai và con gái thì sẽ cho chúng kết hôn với nhau. Tiệc rượu “chỉ phúc giao hôn” (làm sui khi con còn trong bụng mẹ) kéo dài đến khuya mới tan.
Cuối năm ấy, vợ Hạ Chánh sanh con trai đặt tên là Hạ Xương Thời còn vợ Cao Khoa sanh con gái đặt tên là Quí Ngọc.
Hạ Chách cậy bà mai thay mặt nhà trai đem đôi kim thoa đến làm lễ vật nơi nhà gái. Cao Khoa vui vẻ thâu nhận rồi trao lại một cặp trâm ngọc để làm tin.Từ đó hai nhà đi lại với nhau càng thêm thắm thiết.
Sau Hạ Chách đổi về làm việc tại kinh thành. Tuy làm quan nhưng Hạ Chánh rất thanh liêm nên gia cảnh xem ra cũng thanh bạch lắm, trong khi ấy Cao Khoa khéo xoay xở nên ngày càng thêm giàu có.
Ít năm sau, Hạ Chánh lâm bạo bệnh và từ trần tại kinh đô. Được tin cấp báo, Cao Khoa vội lên phúng điếu sui gia. Khi biết gia cảnh bạn, Cao Khoa liền xuất tiền giúp đỡ vợ Hạ Chánh mới đem được xác chồng về xứ chôn cất.
Mấy năm sau, Cao Khoa đến tuổi về hưu. Vì giàu có nên ngày lại ngày ông ta chỉ ngao du sơn thủy, đi dưỡng tuổi già.
Nói về Hạ Xương Thời tuy nhà nghèo và cha mất sớm nhưng nhờ tư chất thông minh lại siêng năng chăm chỉ nên học hành ngày càng lấn tới, nổi tiếng khắp vùng.
Đến nănm Hạ xương Thời được mười sáu tuổi, Bà quả phụ Hạ Chánh cậy người mai tới nhà Cao Khoa hỏi cưới Quí Ngọc cho con trai.
Cao Khoa nghe xong, cười lớn mà rằng:
- Trước ta có hứa gả con Ngọc cho thằng Thời nhưng phàm việc cưới xin ph3i giữ cho đủ lễ để con gái ta khỏi hờn duyên tủi phận. Vậy ngươi há về nói với thằng thời so sắm cho đủ sáu lễ ta mới thuận gả con gái ta cho nó. Còn như nghèo túng không kham nổi, thì nên hồi đi là hơn rồi ta sẽ ban cho chút tiền bạc đặng đi kiếm vợ khác. Thôi ngươi về báo cho mẹ con nó hay. Ý ta đã nhất định rồi, đừng nài nỉ vô ích.
Người mai lủi thủi về thuật lại cho mẹ con Hạ Xương Thời nghe. Bà quả phụ Hạ Chánh thở dài, ứa lệ nhìn con.
Hạ Xương Thời kiếm lời an ủi mẹ già rồi từ đó, chỉ chăm lo dùi mài kinh sử.
Về phần Quí Ngọc được mẹ cho biết quyết định của cha, nàng đau khổ vô cùng, bèn vào can cha:
- Xin phụ thân chơ ùqua khắt khe, kẻo người ngoài cười chê cha con mình bội ước.
Cao Khoa gắt:
- Cứ đủ một trăm lượng bạc vàng sính lễ là ta cho mi theo nó còn không thì thôi. Đừng có nhiều lời.
Quí Ngọc òa lên khóc, rồi chạy vô phòng. Nữ tỳ Thu Hương kiếm lời an ủi cô chủ:
- Tiểu thơ cũng chẳng nên buồn rầu làm chi. Quan muốn tiểu thơ vào nhà quyền quí cao sang đặng sung sướng tấm thân. Nay phải từ hôn Hạ Xương thời, quan cũng biết là không phải đạo song vì thương tiểu thơ…
Quí Ngọc ngắt lời nữ tỳ:
- Như vậy cha mẹ ta sẽ mang tiếng tiếng là người bội ước. Vả lại, Hạ Xương Thời tuy nghèo song học giỏi lại điềm đạm dễ thương, diện mạo khôi ngô, tất sau này cũng mở mày mở mặt với thiên hạ được. Sự nghèo nàn của chàng nhất thời. Nếu ta không giúp đỡ chàng thì uổng mất một nhân tài. Em nghĩ sao.
Nữ tỳ Thu Hương đáp:
- Tiểu thơ nghĩ thế cũng phải hiềm một điều Hạ Công tử lấy đâu ra một trăm lạng bạc vàng dẫn lễ bây giờ?
Quí Ngọc nghĩ thế dài không đáp. Hồi lâu nàng lẩm bẩm:
- Ta đã có cách.
Nữ tỳ nghe không rõ mới hỏi lại:
- tiểu thơ dạy điều chi.
- Ta nói ta có cách rồi, miễn là cha ta dừng sớm nhận lời gả ta cho người khác là được.
Từ sau bữa đó, Quí Ngọc lén lấy trộm vàng của cha đem giấu vô phòng. Sợ bại lộ, lâu lâu nàng mới dám lấy chút ít, thành ra trong suốt một năm trường nàng mới gom góp được lối vài lượng quý kim.
Trong khi đó nàng vẫn sai nữ tỳ Thu Hương lén tới thăm hỏi Hạ Xương Thời để chàng thư sinh đừng thất vọng.
Nhưng tuyệt nhiên nàng không tiết lộ kế hoạch của nàng cho nữ tỳ hay biết.
Nói về công tử Hạ Xương Thời từ ngày bị Cao Khoa thách thức quá nhiều, chàng làm thinh luôn, không nghĩ tới việc lấy vợ nữa.
Nhờ mẹ chàng vất vả sớm hôm tần tảo quyết tâm nuôi con ăn học đến thành tài nên trong nhà cũng không đến nỗi túng thiếu lắm.
Hạ công tử suốt ngày quanh quẩn nơi thư phòng, đọc sách ngâm thơ, ít khi đi ra đến ngoài. Chàng chỉ có một người bạn tâm giao là Lý Thiện Phụ, bạn đồng môn, thường hay lui tới nhà chàng cùng chung học tập.
Thấm thoát đã ba thu kể từ ngày Cao Khoa có ý từ hôn Hạ công tử.
Thấy mẹ con Hạ Xương Thời im lặng đã lâu, nhiều gia đình khá giả lân la ngỏ ý hỏi xin Quiù Ngọc cho con trai họ. Và Cao Khoa cũng kén rể cho xong năm ấy.
Thấy nguy cơ đã gần kề, nàng Quí Ngọc hốt hoảng kêu nữ tỳ Thu Hương vô dặn nhỏ một hồi. Nghe xong, con Thu Hương trợn mắt lè lưỡi bảo Quí Ngọc:
- Tiểu thơ làm thế lỡ quan biết thì khốn cả hai chị em mình. Nhưng thôi em hết lòng giúp đỡ chị.
Nói đoạn nó lén sang thư phòng Hạ Xương Thời và bẩm rằng:
- Thưa công tử Cao lão gia chê công tử nghèo muốn từ hôn, nên cố ý đòi một trăm lượng bạc vàng làm sính lễ. Cô tôi không nỡ nên đã can gián lão gia nhiều phen mà chẳng được. Nay sắp có đám khác đến hỏi cô tôi. Vì vậy cô tôi đã góp nhặt được hơn môït trăm lượng bạc vàng biểu tôi qua mời công tử mai cuối canh một đến cổng sau dinh tư Cao lão gi vô Hoa đình lấy về đặng dẫn lễ cưới cô tôi. Xin công tử đừng sai hẹn. Tiện thiếp sẽ mặc quần áo trắng chờ công tử ở Hoa đình.
Hạ công tử cảm động đáp:
- Ta cảm phục lòng to61tcu3a Cao tiểu thơ. Vậy nàng về thưa lại, tối mai ta xin y hẹn.
Tỳ nữ của Thu Hương vừa ra khỏi phòng thì bạn của Hạ công tử là Lý Thiện Phu đến.
Lý Thiện Phu cười hề hề, nheo mắt hỏi bạn:
- Chà trông anh hớn hở quá ta. Chắc là vì người đẹp vừa đi ra đó chăng? Ai thế?
Hạ công tử đỏ mặt, lúng túng chưa biết trả lời ra sao thì Phụ đã hỏi dồn:
- Thôi mà, có điều vui mừng cứ cho anh em hay để chia vui chứ.
Hạ công tử thiệt thà thuật lại cho bạn nghe. Lý Thiện Phụ vốn là đứa gian ngoan, quỷ quyệt, liền tính kế phỗng tay trên số bạc một trăm lượng của Hạ công tử.
Hắn giả bộ vỗ tay reo:
- Anh có phước lắm đó. Được mỹ nhân lo cho đến thế là nhứt rồi. Mừng anh nhé.
Qua sáng sau, Lý Thiện Phụ tới mời công tử tối nay lúc lên đèn sang nhà hắn uống rượu chơi. Hạ công tử nhận lời liền.
Lý Thiện Phụ cả mừng, ra chợ sắm rượu thịt làm cơm. Trên đường về hắn ghé qua tiệm thuốc bắc mua một gói bột nhỏ chi đó rồi tất tả về nhà.
Tối lại, Hạ công tử khăn gói chỉnh tề đến nhà họ Lý.
Lý Thiện Phụ rót rượu mừng bạn. Hai người ăn uống cười đùa vui vẻ. Qua một tuần rượu, Phụ làm bộ chợt nhớ ra điều chi vỗ đùi bạn:
- Chút xíu quên mất. Có chai rượu quý, người ta cho từ lâu vẫn để dành nay có dịp vui mừng của anh không bỏ ra uống thì uổng quá.
Nói đoạn hắn cười hề hề đứng lên mở tủ lôi ra một hũ sành mầu da lươn đầy hai bát. Hắn lén bỏ chất bột trắng mua hồi sáng vô một bát rồi trao cho Hạ công tử và mời bạn cạn chén.
Hạ Xương Thời vô tình nốc thẳng một hơi.
Lát sau thuốc ngấm, họ Hạ phục bên mâm rượu ngủ vùi. Lý Thiện Phụ mỉm cười lẩm bẩm: “Thuốc mê này công hiệu thiệt. Thằng này còn lâu mới tỉnh lại được, dư thì giờ cho mình hành động”.
Nói rồi hắn châm thêm đèn và lo dọn dẹp tiệc rượu. Sau đó hắn đặt bạn nằm ngay ngắn trên giường nhưng không quên để thêm một chiếc gối nữa bên cạnh bạn.
Xong xuôi Lý Thiện Phụ sửa sang lại áo quần và đi đến nhà Cao lão gia. Lúc ấy đã cuối canh một (khoảng mười giờ tối).
Thấy cửa sau vườn hé mở, hắn lẻn vô và len qua các luống bông tới thẳng chỗ hẹn.
Hắn còn đang ngó quanh bỗng thấy một bóng tha thướt bước xuống thềm Hoa đình. Hắn phóng tới thì thấy một cô gái vận quần áo trắng tay cầm một gói lớn.
Nhờ được nghe Xương Thời thuật lại nên Lý Thiện Phụ bình tĩnh cất tiếng hỏi:
- Phải tỳ nữ Thu Hương của Cao tiểu thơ đó không?
Có tiếng đàn bà trong tréo đáp lại:
- Dạ tiện thiếp đây.
- Vậy mau đưa bạc cho ta.
- Ngươi không phải là Hạ công tử.
Lý Thiện Phụ giựt mình nhưng vẫn liều đáp:
- Chẳng phải ta thì còn ai nữa.
- Giọng nói không giống. Thôi để tiện thiếp vô hỏi lại tiểu thơ đã.
Nói rồi, thị nữ ôm gói bạc chạy tuốt về trình chủ:
- Tiểu thơ ơi! Kẻ đó đòi lấy gói bạc không phải lạ Hạ công tử.
Quí Ngọc đáp:
- Em thiệt là vô ý quá. Trời tối em phải xáp lại gần nhận diện cho trúng chớ đứng xa nghe giọng nói thì chắc sao đặng. Thôi em trở lại Hoa đình coi lại đi chớ để công tử mất công chờ đợi.
Thu Hương toan quay ra thì Cao tiểu thơ gọi giật lại:
- À này Thu Hương. Trao bạc xong em về phòng đi nghỉ, không cần trở lại đây nữa lỡ quan bắt gặp sợ nghe khó trả lời nghe.
Thị nữ “dạ” một tiếng rồi lủi vào vườn, trở lại chỗ hẹn.
Tới nơi, thấy bóng đen vẫn còn đứng đó, thị mạnh bạo tiến đến sát bên nhìn rồi nói:
- Ngươi không phải là Hạ công tử mà là kẻ gian rồi.
Thu Hương chưa dứt lời thì Lý Thiện Phụ đã vung tay đấm thiệt mạnh vào bụng thị nữ. Đứa tớ gái của cao tiểu thơ lăn ra chết tức thì, không kịp kêu một tiếng.
Lý Thiện Phụ cúi xuống lượm gói bạc rồi lần ra cửa chuồn êm. Về tới nhà, hắn giấu lẹ gói bạc một nơi rồi leo lên giường nằm nghỉ bên Hạ Xương Thời.
Tiếng trống cầm canh thong thả buông hai tiếng, Lý Thiện Phụ lẩm bẩm : “Cho tỉnh lại thì vừa” . Hắn lấy khăn thấm nước lạnh lau mặt Hạ Xương Thời.
Lát sau Hạ công tử mở mắt rồi nhỏm dậy, hốt hoảng bảo bạn:
- Đã tới canh hai chưa anh ? Tôi tính đi việc ấy kẻo người ta mất công chờ đợi.


__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #42  
Old 06-14-2005, 02:31 PM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Tên phản bạn chặc lưỡi, làm bộ nói:
- Không dè tửu lượng của anh kém quá vậy. Rượu mới xoàng xoàng đã ngã gục. Thôi bây giờ mới qua canh hai, lúc này vắng vẻ anh đi càng tiện và cũng không trễ lắm đâu.
Hạ Xương Thời sửa lại khăn áo rồi cáo từ Lý Thiện Phụ mà đi đến nhà họ Cao.
Tới nơi thấy cửa vườn sau hé mở, Thời tiến thẳng tới chỗ hẹn. Thấy một bóng trắng nằm gục trên thềm Hoa đình, chàng đoán là Thu Hương liền cất tiếng gọi. Không thấy trả lời, chàng cho là thị ngủ quên liền đến gần lay gọi.
Thấy nó vẫn im lìm, chàng xem lại kỹ mới hay thi thể thị nữ đã lạnh ngắt. Hạ công tử hoảng sợ vùng bỏ chạy về nhà, trong bụng lo sợ vô cùng cho là cha vợ âm mưu hại mình, nhưng không mảy may nghi ngờ chi Lý Thiện Phụ cả.
Sáng sớm, Cao tiểu thơ chờ mãi không thấy nữ tỳ lên hầu mới kêu gia nhân biểu đi kiếm. Lát sau họ tìm thấy Thu Hương nằm chết cong queo ở ngoài vườn.
Thấy nữ tỳ vì mình mà bỏ mạng, Cao tiểu thơ liền vào thú thật với Cao Khoa:
- Thưa cha, tối qua con có sai nữ tỳ Thu Hương đem vàng bạc nữ trang ra cho Hạ Xương Thời để hắn làm lễ cưới con. Ai dè y sanh lòng lang thú đoạt quí vật rồi lại hạ sát nữ tỳ. Như vậy là không có ý cưới con.
Cao Khoa nổi giận rầy la con gái một hồi rồi làm đơn cáo với huyện quan đại ý như sau:
- Nguyên tên Hạ Xương Thời tuy là học trò nhưng lỗi đạo thánh hiền, hắn nghèo túng sanh lòng gian dụ dỗ tỳ nữ Thu Hương lấy trộm bạc vàng và nữ trang của gia đình tôi đem cho hắn. Được bạc rồi, y đang tâm sát hại con Thu Hương ngay trong vườn hoa nhà tôi để khỏi bị bại lộ. Xin quan chiếu phép nước nghiêm trị tên Hạ Xương Thời để làm gương răn dạy người đời.
Huyện quan tiếp đặng đơn liền cho lính đi bắt Hạ công tử đem về cho ông xét hỏi.
Họ Hạ bị bắt khi còn đan nằm nghỉ trong thư phòng.
Huyện quan hỏi:
- Mang danh là con quan Thị lang lại theo đòi bút nghiên sao anh chẳng biết giữ mình lại cướp của giết người làm ô danh cha mẹ.
Hạ công tử thưa:
- Xin quan minh xét cho. Tôi bị cha vợ phản phúc lập mưu làm hại để tiện bề từ hôn. Quả thiệt tôi oan.
Nhưng Hạ công tử không chịu tiết lộ chuyện Cao tiểu thơ sai Thu Hương mời đến Huê viên để trao bạc vàng dẫn cưới vì chàng cho là làm như vậy sẽ mất danh dự và phụ lòng tốt của vị hôn thê.
Huyện quan vốn cũng nể Hạ công tử là dòng dõi quan quyền nay lại nghe khai vậy mới cho mời Cao Khoa đến hỏi:
- Họ Hạ kêu rằng nay ông muốn từ hôn nên lập mưu hại anh ta. Vậy chớ sự thực thế nào phải khai cho thiệt.
- Nữ tỳ Thu Hương đêm trước đem bạc vàng cho hắn. Hai đứa hẹn nhau tại Huê đình làm nơ trao bạc. Chắc hắn muốn nuốt trọn không chia cho con Thu Hương nên giết đi cho khỏi bại lộ.
Huyện quan hỏi:
- Chớ ông có bằng chứng gì không?
- Có chứ. Việc Thu Hương đem bạc vàng cho Hạ Xương Thời,con gái tôi là Quí Ngọc có thấy. Nếu như Thời không đánh chết nữ tỳ thì tôi cũng bỏ qua, chẳng cáo làm chi. Còn điều hắn vu cho tôi mưu hại hắn để hồi hôn xét ra vô lý. Vì tôi có thù oán chi hắn mà phải tận tình đến mức giết một nhân mạng để hại hắn? Muốn từ hôn hắn, tôi có nhiều cách, hà tất phải làm vậy.
Huyện quan nghe có lý, xẵng giọng hỏi Hạ công tử:
- Thế nào có nhận tội không?
- Dạ, thưa tôi không hề giết Thu Hương. Họ Cao vu vạ cho tôi…
Cao Khoa ngắt lời:
- Hắn gian ngoan xin quan chớ tin lời hắn.
Huyện quan đáp:
- Việc đâu còn có đó. Lính đâu đi mời Cao tiểu thơ đến ta hỏi chuyện.
Lát sau Cao tiểu thơ đến trước công đường. Quan hỏi:
- Tình tiết nội vụ thế nào tiểu thơ phải chứng cho thiệt chớ có khai man mà bị hình phạt.
Cao tiểu thơ đáp:
- Thưa quan, vì có sự chỉ phúc giao hôn ngày trước nên tôi và Hạ công tử bị ràng buộc bởi lời hứa hôn đó. Thấy nhà vị hôn phu nghèo không đủ tiền dẫn cưới, tôi có góp nhặt được hơn một trăm lạng bạc vàng và sai nữ tỳ Thu Hương qua dặn họ Hạ tối qua tới sau vườn mà lấy. Sau khi lấy được bạc rồi họ Hạ lại đang tâm giết Thu Hương, mãi sáng ra, tôi mới hay biết.
Huyện quan hỏi:
- Theo ý tiểu thơ, vì sao mà Thu Hương bị giết?
- Có lẽ họ Hạ muốn cưỡng gian nữ tỳ của tôi nhưng nó chẳng chịu nên giết cho bõ ghét. Cũng có thể họ Hạ giận cha tôi đã từ hôn nên đánh chết con Thu Hương để gieo vạ cho cha tôi. Xin quan minh xét.
Huyện quan gật đầu nói:
- Lời nàng khai hợp lý lắm. Rồi ông trỏ Hạ công tử mà quát rằng:
- Quí Ngọc đối chứng những việc trước thì đúng còn việc nữ tỳ Thu Hương quả thực tôi không có làm. Chắc có tiền oan nghiệp chướng chi đây nên tôi mới bị cảnh này…
Quan huyện cắt lời:
- Sao lúc trước chối nay lại nhận?
- Tôi không hề nhận đã giết Thu Hương. Tôi chỉ nhận là nàng có sai nữ tỳ đến hẹn tôi đi lấy bạc…
- Thế sao không khai ngay lại chờ Cao tiểu thơ nói rồi mới nhận?
- Dạ… thưa… tôi không muốn nàng phải mang tiếng vì tôi.
Huyện quan la:
- Thôi ngươi chớ có nhiều lời. Chối quanh vô ích. Chẳng qua là nhà ngươi thấy chối không được nữa mới phải nhận chịu. Đúng là ngươi đã giết Thu Hương vì ngoài ngươi ra còn ai biết nữa? Ta lên án ngươi phải chịu tử hình còn về phần quí Ngọc con gái họ Cao, ta huỷ lời hứa hôn và cho phép đi lấy chồng khác. Lính đâu, đem Hạ Xương Thời hạ ngục cho ta.
Lính dạ rân Hạ công tử nhốt vào khu tử tội. Sau đó huyện quan chạy giấy về Thượng Ty xin xử tử. Thượng Ty hạ giảm xuống án tù.
Hạ công tử bị bạn phản, lâm vào vòng lao lý kể đã tới hai năm thì Bao Công tuần tra vừa tới huyện Đinh Hải.
Để biết rõ thực trạng của địa phương, Bao Công mặc giả làm anh lái buôn đi quan sát khắp nơi.
Huyện quan trông thấy tưởng kẻ gian phi liền sai lính bắt giam vào ngục. Bao Công chẳng nói chi cứ lặng lẽ vào ngồi với các tù nhân. Chờ cho quân coi ngục ra khỏi. Bao Công mới lên tiếng bảo đám tội nhơn:
- Tôi có biết đôi ba chữ đi làm công giữ sổ sách cho người ta, ai dè bị chủ vu cáo mà phải vào đây. Quan chưa xét xử. Tôi tính làm đơn khiếu oan nên có mang theo sẵn đồ viết đây. Như ai có điều chi oan ức cứ nói thiệt ra tôi làm dùm cho luôn thể.
Hạ công tử nghe nói liền đem việc mình tỏ ra. Bao Công ghi vào giấy, đóng ấn tín của mình bên dưới rồi kêu lính gác biểu đem ra trình quan.
Đọc xong, huyện quan sợ xanh mặt chạy vội vào ngục thất xá dài Bao Công mà xin lỗi. Bao Công cười nói: “Quan không có lỗi chi” rồi theo huyện quan về dinh thay y phục đại thần.
Lát sau. Bao Công đăng đường lấy hồ sơ Hạ Xương Thời ra coi lại rồi hỏi huyện quan:
- Thiệt tình quan vẫn tin Thời là thủ phạm giết nữ tỳ Thu Hương?
- Thưa Thượng quan, thiểm chức chắc chắn là y chứ không ai khác. Hắn chối dài mãi tới khi Cao tiểu thơ ra khai hắn mới chịu nhận.
- Họ Hạ không nhận đã giết thu Hương chỉ nhận có được Cao tiểu thơ cho nữ tỳ thu Hương đến hẹn đi lấy bạc thôi. À mà quan có hỏi Hạ Xương Thời coi y có đến chỗ hẹn không sao không thấy ghi vô biên bản?
- Dạ thưa… không. Vả lại thấy y lúng túng quá nên thiểm chức cho là có hỏi cũng vô ích, hắn sẽ tìm cách chối quanh.
- Quan có thấy lời khai của quan Kiểm Sự Cao Khoa cũng có vẻ lúng túng không?
- Thưa… kể ra thì cũng không được minh bạch lắm. Dường như ông ta cố che đậy việc con gái đưa bạc cho họ Hạ.
Bao Công gật đầu nói:
- Nếu không thể vì thế mà nghi oan cho cao Khoa đã hạ sát nữ tỳ để vu vạ cho Hạ Xương Thời thì cũng không nên vội kết tội họ Hạ. Ta không võ đoán là họ Hạ vô tội nhưng ta trách quan đã ngưng cuộc điều tra lại ở nửa chừng, khiến cho người ta có thể bị oan.
Suy nghĩ một lát, Bao Công nói tiếp:
- Bây giờ quan phải làm gấp bốn việc ta dặn đây: Thứ nhất là dẫn Hạ Xương Thời lên để ta hỏi lại, thứ hai là cho mời Cao tiểu thơ tới cho ta hỏi chuyện, thứ ba là cho mật điều tra đám gia nhân của Cao Khoa coi có đứa nào tự nhiên xin thôi hoặc có chi khác ý không, thứ bốn mật điều tra trong giới bạn học của Thời xem tánh nết ra sao và có ai có vẻ chi khác lạ chăng. Bốn việc này đáng lẽ quan phải làm rồi.
Nhưng thôi ta cũng miễn thứ cho vì quan còn trẻ, ít kinh nghiệm, vả lại việc này cũng khó. Quan khá lui ra và thi hành mau lẹ các điều ta dặn.
Lát sau, lính dẫn Hạ Công tử vô, Bao Công hỏi:
- Ngươi hãy thuật rõ lại mọi việc từ lúc Cao Khoa từ hôn khéo cho đến phút ngươi bị bắt. Có thế nào phải khai cho thiệt.
Hạ công tử nhất nhất thuật lại đầu đuôi câu chuyện đúng với sự thật nhất là lúc chàng vô vườn hoa họ Cao thế sự thể ra sao.
Họ Hạ vừa thuật xong thì lính vào bẩm có Cao tiểu thơ đến. Bao Công truyền cho Hạ công tử ra chờ bên ngoài để lát nữa ông còn xét hỏi thêm. Đoạn ông cho mời Cao tiểu thơ vô và hỏi liền:
- Tiểu thơ vẫn giữ vững lời khai năm trước chứ?
- Thưa, không có chi thay đổi. Chính Thời đã giết nữ tỳ Thu Hương.
- Vì sao?
- Vì anh ta không muốn lấy tôi nên đoạt bạc rồi hạ thủ nữ tỳ đăng gieo vạ cho cha tôi để trả thù vì đã bị cha tôi làm xấu mặt.
Bao Công lặng thinh một lát rồi đột ngột hỏi:
- Ngoài nữ tỳ Thu Hương còn có ai biết tiểu thơ hẹn Thời đến lấy bạc vàng nữ trang không?
- Thưa không.
- Tiểu thơ có nói chuyện với ai không?
- Không.
- Ngay cả với Cao lão gia cũng không?
- Dạ, cũng không.
- Tiểu thơ có tin là nữ tỳ Thu Hương tiết lộ câu chuyện cho một người khác ngoài Hạ Xương Thời không?
- Thưa tôi không tin. Nó là người kín tiếng và rất mựng trung thành.
- Thôi được, cho tiểu thơ về nhưng không được kể lại cho ai nghe các điều ta đã hỏi.
Quí Ngọc vái chào ra về.
Bao Công cho gọi Hạ công tử và hỏi rằng:
- Bữa nữ tỳ Thu Hương tới hẹn ngươi đi lấy bạc có ai biết không?
- Thưa không.
- Ngươi có tiết lộ cho ai không?
- Thưa có.
- Ai?
- Dạ, Lý Thiện Phụ, bạn đồng môn với tôi.
- Khi nghe nươi cho hay câu chuyện, thái độ của họ Lý ra sao?
- Anh ấy ngỏ lời mừng tôi.
- Ngươi có nghi hắn đã giết Thu Hương mà đoạt bạc rồi để tội cho ngươi không?
- Dạ, không.
Bao Công vẫn kiên nhẫn hỏi:
- Trước khi đến nhà họ Cao, ngươi có gặp lại Lý Thiện Phụ không?
- Dạ, có. Chiều đó anh ấy mời tôi uống rượu tại nhà anh nói là để mừng tôi.
- Rồi sao nữa?
- Tôi vì tửu lượng kém nên qua hai tuần rượu đã say gục xuống bên mâm ngủ vùi…
Bao Công ngắt lời:
- Ngủ lâu mau.
__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #43  
Old 06-14-2005, 02:32 PM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

- Dạ cũng khá. Khi nhập tiệc thì lên đèn, lúc tỉnh dậy đã sang canh hai.
- Lúc tỉnh dậy thấy Lý Thiện Phụ làm gì?
- Dạ thấy anh ấy cũng nằm nghỉ bên tôi.
- Nó thức hay ngủ.
- Dạ, thức.
- Nó nói chi?
- Dạ, anh chê tôi tửu lượng kém và bảo tôi đi bấy giờ thì vắng vẻ và còn kịp.
Hỏi tới đây, Bao Công ra lệnh cho lính dẫn Hạ công tử trở lại ngục thất. Đoạn ông nói với huyện quan mời hết học trò tại phủ Ninh Ba sáng mai đến huyện để ông khảo duyệt chữ nghĩa.
Sau đó ông kêu một thám tử thân tín cô dặn nhỏ một hồi.
Sáng sau mấy chục thư sinh trong toàn phủ đã tề tựu đông đủ.
Bao Công cho gọi tất cả vô rồi hỏi thăm sơ qua từng người một. Mãi mới tới phiên Lý Thiện Phụ. Bao Công nhận diện rồi hỏi qua người khác. Lát sau, ông ra bài phú cho mọi người cùng làm.
Đúng ngọ, Bao Công cho góp bài rồi truyền học trò mai sớm lại coi bảng.
Kết quả:Lý Thiện Phụ đậu đầu. Đám sĩ tử xúm lại mừng họ Lý cùng với Hạ Xương Thời và đôi ba người nữa vẫn được tiếng được giỏi.
Bao Công ngồi đối ẩm với huyện quan. Nhân bàn về trình độ học vấn của sĩ tử hàng huyện, huyện quan hỏi:
- Thượng quan thấy Lý Thiện Phụ học lực và tánh tình ra sao?
Sức học thì khá, còn về tánh tình thì ta định hỏi ý kiến quan đây.
- Dạ, hắn là người hiền lành, lương thiện.
Hai người đàm đạo tới đây thì viên thám tử thân tín của Bao Công vô bẩm rằng:
- Thưa đại quan, kẻ thuộc hạ xin nhắc đại quan mai về tỉnh tiếp người đến mai cho tiểu thơ.
Bao Công vui vẻ đáp:
- Tốt lắm, chút xíu ngươi không nhắc ta quên phức đi rồi.
Rồi ông quay lại bảo huyện quan:
- Nội trong ngày nay ta sẽ xét nốt mấy hồ sơ còn lại để mai lên đường về tỉnh sớm. Tối nay quan đặt tiệc mời thân hào nhân sĩ làng huyện và Lý Thiện Phụ tới dự trước là để ban khen họ Lý sau là khuyến khích sĩ tử trong vùng.
Bữa tiệc tiếp diễn trong bầu không khí tưng bừng, vẻ hân hoan hiện trên nét mặt mọi người riêng Lý Thiện Phụ thì lòng như mở hội.Lúc thấy Bao Công tới tuần tra, họ Lý đã hơi chột dạ vì nhớ tới lời đồn Thiết diện đại nhơn xử án như thần. Qua mấy bữa nghe ngóng, họ Lý không thấy ai nghi ngờ gì mình nay lại thấy Bao Công tiếp đãi niềm nở, trọng hậu, nên Phụ càng đắc ý, trong bụng có ý chê người đời đã phóng đại tài tra án của Bao Công. Theo họ Lý, đó cũng chỉ là một lối “rung cây nhát khỉ”.
Lại nói về Bao Công tuy nói chuyện với mọi người nhưng vẫn để ý dò xét Lý Thiện Phụ qua lời ăn, tiếng nói song ông không đả động gì đến vụ án Hạ xương Thời cả.
Qua sáng sau, Bao Công dậy sớm, sửa soạn về tỉnh. Trước khi lên đường, ông bảo huyện quan:
- Vụ án Hạ công tử, chưa có đầu mối chi rõ rệt.Quan cho điều tra kỹ lại về đám gia nhân họ Cao.
Về tỉnh lỵ được ít bữa. Bao Công viết thư xuống huyện tỏ ý khen ngợi Lý Thiện Phụ và nhờ huyện quan mời họ Lý lên tỉnh dự tiệc. Khắp huyện lấy làm hãnh diện và họ Lý cũng mừng rỡ lắm.
Chuyến đó Lý Thiện Phụ lên tỉnh được Bao Công tiếp đãi hậu hỹ và chuyện trò rất thân mật khiến họ Lý cảm động vô cùng càng tin là Bao Công không nghi ngờ gì mình cả.
Ít lâu sau Bao Công lại cho mời Lý Thiện Phụ lên dự tiệc, Khi rượu đã xoàng, Bao Công buồn rầu nói với họ Lý:
- Ta làm quan thanh liêm như thế nào, tất ngươi cũng đã nghe nói. Cửa nhà thanh bạch nay lại sắp cho con gái đi lấy chồng, không có tư trang nó sẽ tủi thân.
Bao Công ngưng một chút rồi thở dài nói tiếp:
- Phần ta cũng đau khổ vì không lo nổi cho con để nó phải thua bạn, kém em. Nỗi lòng không biết tỏ cùng ai, nay thấy ngươi học rộng tài cao, rồi ra thế nào cũng được bảng hổ đề danh, đường hoạn lộ thênh thang cử bước. Đem tâm sự kể ra cho ngươi, ta cũng hổ thẹn vô cùng.
Tới đây,Bao Công chậm rãi châm thêm rượu cho Lý Thiện Phụ và ngập ngừng nói:
- Ngươi là bạch diện thư sinh… còn ăn nhờ vào cha mẹ… dù có muốn cũng không thể giúp đỡ ta được. Vậy nếu biết ai có mượn tạm dùm ngày sau ta lo báo bổ xứng đáng cho ngươi. Thôi ngươi hãy cố giúp ta, được thì càng hay, bằng không được thì cũng thôi. Điều cần là đừng tiết lộ cho ai hay biết.
Lý Thiện Phụ vâng dạ rồi lui về. Dọc đường y tự hỏi:
- Có thể ông ta bày mẹo để bẫy mình chăng? Vô lý. Nếu ông ta nghi ngờ mình thì đâu có hậu đãi như thế. Vả lại chuyện cưới gả là chuyện có thiệt và có trước mà. Có lẽ ông ta nghèo thật. Chi bằng ta cứ lấy ngay nữ trang đã cướp được đem đến hiến cho ông ta để sau này được lợi là hơn. Tuy vậy cũng để vài ba bữa hãy đem dâng kẻo bao Công thấy lẹ quá sinh nghi.
Bốn ngày sau, Lý Thiện Phụ lên tỉnh yết kiến Bao Công mang theo một gói vải điều trong có trâm ngọc, trâm vàng của Cao tiểu thơ mà y đã đoạt được lúc trước, sau khi hạ sát nữ tỳ Thu Hương.
Bao Công cảm ơn Lý Thiện Phụ rồi vừa cười vừa nói
- Ngươi cứ yên tâm ra về. Ta sẽ trả công ngươi thích đáng.
Phụ đi khỏi. Bao Công xem xét đồ nữ trang rất kỹ rồi sai lính hoả bài cấp tốc đi đòi huyện quan đem trình hồ sơ vụ án nữ tỳ Thu Hương và áp giải Hạ Xương Thời lên luôn thể.
Lát sau huyện quan và toán lính giải Hạ công tử về tới Nha môn.
Bao Công truyền tạm giam Hạ Xương Thời vào lao thất rồi hỏi huyện quan:
- Theo chỗ quan biết thì gia cảnh Lý Thiện Phụ ra sao?
- Dạ, chỉ đủ ăn thôi.
- Y có bà con cô bác chi giàu lớn không?
- Dạ không.
Bao Công gật đầu nói:
- Ta nghi ngờ như vậy. Thôi được bây giờ quan cho đòi Quí Ngọc con Cao Khoa tới hầu gấp. Quan cho mời Lý Thiện Phụ đến huyện giả bộ đàm đạo văn chương thi phú, hễ ta cho kêu thì đưa y lên gặp ta ngay, chớ chậm trễ mà nó trốn mất.
Huyện quan tuân lệnh lui về. Hơn một tiếng đồng hồ sau lính hầu vào bẩm có Cao Quí Ngọc tuân lệnh đòi đã tới trước công môn.
Bao Công truyền cho vào. Vừa thấy mặt Cao tiểu thơ, Bao Công đã hỏi:
- Năm trước, trong gói bạc vàng châu báu nàng uỷ cho tỳ nữ Thu Hương đem trao lại Hạ Xương Thời, có những gì?
- Dạ thưa có đôi trâm ngọc đôi trâm vàng và mộ số thoi vàng, thoi bạc, tất cả trị giá hơn trăm lượng vàng.
- Liệu bây giờ nàng có nhận ra nữ trang bị mất không.
Vừa nói Bao Công vừa bầy các tài vật mà Lý Thiện Phụ dâng ông lúc nẫy.
Quí Ngọc cầm lên xem qua rồi nói, giọng quả quyết:
- Thưa Thượng quan, đúng đây là nữ trang của tôi rồi. Vì là đồ gia bảo có những đặc điểm riêng biệt nên tôi nhận ra ngay.
Bao Công cười đáp:
- Ta cũng nghĩ như vậy. Vả lại trên các món đồ đều có chữ “Cao” khắc rất nhỏ trên mặt trái, ai không để ý tất không thấy được.
Nói đoạn Bao Công viết mấy chữ rồi kêu lính hầu vô trao thư và dặn rằng:
- Ngươi khá đưa tiểu thư ra ngoài chờ lệnh và kêu lính hoả bài đem giấy này xuống quan huyện Đinh Hải ngay lập tức.
Huyện quan tiếp được công văn, lật đật mở ra coi thấy bao Công ra lệnh áp giải Lý Thiện Phụ lên tỉnh và cho mời Cao Khoa lên hầu luôn thể.
Lý Thiện Phụ thấy huyện quan sai lính áp giải y lên Nha của Bao Công thì chột dạ, lo lắng hỏi:
- Có chuyện gì vậy quan?
- Cái đó thì chờ mà hỏi Bao đại nhơn.
Lý Thiện Phụ hồi hộp bước vô công đường. Thấy Bao Công nhìn y bằng đôi mắt khác thường. Phụ đoán có chuyện chẳng lành.
Bao Công không hỏi Phụ vội ông quay ra bảo thơ lại cho dẫn quí Ngọc, Hạ Xương Thời và cao Khoa cùng vô hầu một lượt.
Lý Thiện Phụ lo sợ tim đập như trống làng, nhưng y cũng cố làm ra vẻ bình tĩnh.
Chờ cho Quí Ngọc, Hạ Công Tử và Cao Khoa đến trước án. Bao Công mới chậm rãi giơ các đồ nữ trang lên mà hỏi Lý Thiện Phụ:
- Những món này của nhà ngươi?
- Dạ phải.
Bao Công nhìn Quí Ngọc:
- Tiểu thơ thấy thế nào?
- Dạ thưa hắn nhận bậy. Những món này là đồ gia bảo của tôi bị mất trong đêm nữ tỳ Thu Hương bị hạ sát.
Lý Thiện Phụ thất kinh nhưng còn chối cãi:
- Đồ này của tôi mua năm nọ của khách qua đường sao tiểu thơ dám nhận bất tử vậy.
Hạ Công Tử chứng kiến từ nãy đến giờ, tới đây bỗng như chợt tỉnh giấc mơ, điểm ngay mặt Lý Thiện Phụ mà nói rằng:
- Ngươi chẳng mua của ai hết. Chính ngươi được ta quá thiệt thà cho biết buổi hẹn nên đã chuốc rượu cho ta say rồi lén đến Huê đình của Cao Lão gia, đánh chết nữ tỳ Thu Hương mà đoạt gói bảo vật quý kim.
Lý Thiện Phụ nghe nói hết hồn, chưa biết chống đỡ ra sao thì Bao Công đã hạ luôn một đòn chí tử:
- Cũng khá khen cho nhà ngươi khéo bầy ra mưu mô thâm độc, bỏ thuốc mê vô rượu để hại bạn. Khôn hồn thì nhận tội đi đừng để ta phải nhọc lòng tra khảo.
Lý Thiện Phụ cãi không lại đành phải công khai hết sự thật và chỉ chỗ giấu số vàng còn lại. Bao Công truyền lính đến ngay nhà Phụ tịch thâu tang vật .
Sau khi nghe Lý Thiện Phụ nhận tội lỗi, Cao Khoa hổ thẹn vô cùng, mặt cúi gầm, không dám nhìn Bao Công.
Bao Công hắng giọng rồi cất tiếng sang sảng phán rằng:
- Lý Thiện Phụ, mi tham lam gian trá dùng thuốc mê gạt người giữa tiệc, lại phạm tội cướp của giết người, mi đáng tội tử hình để làm gương răn phường tàn bạo. May mà ta điều tra ra nếu không thì Hạ Công tử đã bị hàm oan và chết mòn trong ngục thất còn chi. Việc ta gả con gái và việc ta nhờ mi quơ dùm vài món nữ trang để dùng vào lễ cưới cho con gái ta cũng như việc ta cho mi đậu đầu trong kỳ khảo hạch chẳng qua chỉ là mẹo để đưa dần mi vào bẫy của ta mà thôi.
Rồi quay sang phía Cao Khoa, Bao Công nói:
- Ông từng là phụ mẫu chi dân mà sao chẳng biết giữ ngũ thường lại tham sang phụ kẻ bần hàn, nuốt lời “chỉ phúc giao hôn” năm xưa, sự bội ước của ông thật đáng bị trừng phạt nhưng xét vì ông là dòng dõi quan quyền nên ta chiếu phép vua mà rộng tình dung thứ. Nhưng cũng răn ông tự hậu nên ăn ở cho phải đạo làm người: lấy nhân, nghĩa, lễ, tri, tín làm trọng.
Hướng về phíc Cao tiểu thơ và Hạ Xương Thời, Bao Công dịu giọng nói:
- Hạ công tử hiền hậu, thiệt thà, chỉ vì quá tin bạn mà mang hoạ vào thân. Nay xét ra công tử vô tội, nên ta truyền trả lại tự do. Về phần Cao tiểu thơ, ta có lời khen nàng tuy gặp nghịch cảnh mà vẫn không quên điều nghĩa, một dạ tiết trinh chẳng chịu ôm cầm thuyền khác. Nay ta xét hai trẻ vẫn xứng đáng với nhau nên ta truyền cho hai họ Hạ và Cao giao hôn với nhau đặng sớm cho hai trẻ kết duyên tần tấn.
Bao Công phán xong truyền tống giamLý Thiện Phụ vào khu tử tội đoạn ông giao trả nữ trang và gói bạc vàng (mà lính đã đi lấy đem về) cho Quí Ngọc rồi truyền cho nàng cùng phụ thân và vị hôn phu tự do ra về.
Sách cho chép rằng sau khi được tha về ít lâu. Hạ Công Tử thành hôn với Quí Ngọc. Cảm cái ơn đức cao dày của Bao Công, hai vợ chồng Hạ Xương Thời cho vẽ hình và tạc tượng Bao Công để sớm tối đèn nhang thờ phụng như bậc thần linh vậy.
Hạ Công Tử tiếp tục học hành vè sau thi đậu làm quan đến chức cấp sự. Hai vợ chồng sanh con cháu đầy đàn, tiền bạc danh vọng chứa chan. Suốt một đời, họ chuyên cưu mang giúp đỡ kẻ khốn cùng và rất ghét bọn sui gia và bằng hữu phi nghĩa. Thật là trời có mắt vậy.
__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #44  
Old 06-14-2005, 02:33 PM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Hồi 19

RƯỢU VÀO, CỦA RA


Ngày xưa, tại một huyện Nhơn Hòa thuộc phủ Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang bên Tàu, có vợ chồng thương gia họ Sài, tiền bạc rất nhiều mà ruộng nương cũng lắm. Họ Sài có hai con trai tên là Sài Thắng mười tám tuổi và Sài Tổ mười sáu tuổi.
Thắng và Tổ không thoát khỏi tục lệ tảo hôn hồi đó nên cả hai đều đã lập gia đình, tuy vẫn ngày ngày cắp sách đến trường học chữ thánh hiền.
Hai anh em nhà ấy hiền lành, thiệt thà lại lấy được vợ nết na, thuần tục, nên chi cảnh nhà rất là đầm ấm yên vui.
Về sự học, Sài Thắng có phần kém em nhiều. Sài lão gia dư biết nên từ lâu ông có ý muốn cho con cả xếp bút nghiên bỏ đường hoạn lộ bước qua thương trường. Nhưng vì Sài bà can gián nhiều phen nên ông lần lữa mãi đến nay mới nhất định bắt Sài Thắng thôi học đặng kế nghiệp ông.
Quen như mọi lần, Sài bà nói:
- Nó mới mười tám tuổi đầu, buôn chi mà bán chi cho đặng. Thôi ông cứ để nó đi học.
Sài ông gạt phắt:
- Tôi đã để nó đi học thêm ba bốn năm rồi. Như vậy nó dư đủ chữ nghĩa để giao dịch giấy tờ, sổ sách làm ăn.
- Ông làm thế không sợ con nó oán mình thương đứa này ghét đứa nọ.
- Đâu có. Phận làm cha mẹ, con nào chẳng là con. Bà đừng nghĩ là tôi ghét bỏ gì thằng Thắng đâu. Nó tối dạ, học mãi chẳng thông, mình phải lo hướng nó sang nghành thực nghiệp làm ăn thì hơn.
- Thì ông thư thả vài năm cũng được, nhà ta giàu có cần chi bắt con sớm vất vả. Nó còn trẻ mà.
- Bà nói chẳng đáo lý chút nào. Aida1m chắc mình có của trọn đời? Vả lại để nó quá lớn thì nó lại càng thêm đau khổ về sự dở dang của nó. Nếu định cho nó doanh thương thì nên cho ra đụng chạm với đời vào tuổi mười tám cũng không sớm gì, hơn nữa tôi sẽ cho người đi theo hầu nó thì lo gì. Cho dù nó có thất bại những lần đầu càng thêm kinh nghiệm có sao?
Sài bà thở dài đáp:
- Cái đó tùy ông. Nhưng ông liệu lời chỉ bảo cho con nó hiểu. Tôi thiết tưởng mình không nên nói đến sự học hành kém cỏi của nó.
Sài ông cả cười:
- Bà không phải lo điều đó. Tôi đã có cách nói cho nó thuận chớ. Khi nào tôi lại làm cho nó mất sự tự tin đi chớ. Ai mà dại vậy.
Mấy bữa sau, Sài ông kêu Sài Thắng đến mà bảo rằng:
- Nhà ta tuy giàu sang nhưng vẫn lo lắng vô cùng. Lo là vì làm ra tiền thì khó mà tiêu mòn đi thì dễ. Cổ nhân có câu “miệng ăn núi lở”. Nay ta và mẹ con đều già rồi, tất nhiên hết lộc, sự buôn bán chẳng lanh lợi như xưa. Ta thấy đời nay lớp thanh niên như con hay ỷ vào cha mẹ có chức quyền địa vị hay tiền bạc mà ưa mặc đẹp, ăn ngon, kiêu căng, lãng phí mà không biết rằng bạc tiền là do ông cha phải cực nhọc làm ra, đâu phải tự nhiên mà có. Ta biết con là người khí phách, có khiếu về doanh thương lại muốn tự lập không khi nào lại bắt chước bọn ỷ lại vào cha mẹ. Với sự học của con, ta thấy đủ để con có thể bướn sang thương trường mà không sợ sau này bị chê cười là hàng trọc phú. Vậy ta định cho con đi buôn bán nơi xa đặng thâu nhập kinh nghiệm, trong một thời gian, trước khi về ở hẳn nhà thay ta quán xuyến mọi việc làm ăn. Con nghĩ có hạp ý con không?
Sài Thắng thưa:
- Cha dạy rất phải. Con xin tuân lời. Hiềm một nỗi, cha mẹ nay tuổi đã cao, mà em con còn nhỏ nay đã ra đi, vì thế lòng con áy náy.
Sài ông chậm rãi đáp:
- Con hiếu đễ thế cũng phải. Nếu con biết thương cha mẹ, thời con nên sớm hun đúc ý chí tự lập, tự cường để ta khỏi phải lo lắng. Còn việc ở nhà d9a4co1 vợ con và vợ chồng Sài Tổ là đủ rồi.
- Con xin tuân lời cha. Xin chabiếtcon cần phải đi xứ nào trước?
- Hiện nay phủ Khai Phong ở miệt Đông Kinh đang khan vải, trong khi phủ Hàng Châu ta có vải nhiều. Vậy con đem vốn buôn vải Hàng Châu qua phủ Khai Phong bán lại, hẳn là phải được lời. Con cứ đi lối dăm bảy tháng hay một năm hãy về cũng được.
Sài bà đau khổ hỏi chồng:
- Ông xem vùng con nó sắp đi tới, có yên không?
Sài ông cười hề hề đáp:
- Làm gì mà chẳng yên. Phủ hàng Châu là vùng ta đây gồm toàn dân làm ăn lương thiện còn phủ Khai Phong là nơi Bao Đại nhơn đang trị nhậm. Quãng đường giữa hai phủ rất là yên ổn, người ta đi như đi chợ. Bà đừng lo lắng hão huyền cho con nó sợ.
Nói đoạn ông quay ra bảo Sài Thắng:
- Thôi con sửa soạn cuối tuần trăng này đi thì vừa. Tasẽ cho một gia nhân mạnh khoẻ và trung tín theo hầu. Con phải biết tin cậy nó nhiều kinh nghiệm biết chọn hàng và trả giá.
Hạ tuần tháng ấy, Sài Thắng cùng một gia nhân, mang tiền bạc dạo khắp phủ Hàng Châu mua được ba gánh vải đem về nhà.
Sài ông liền bảo con đem các vải mua được cho ông coi. Ông dạy cho con cách phân biệt các loại hàng, chỉ vẽ cho con cách xem nhãn hiệu, đo ni tấc các súc vải vóc cùng cách tính giá bán sỉ và lẻ. Ông bắt con lặp đi lặp lại cho đến thuộc lòng mới nghe. Cẩn thận hơn nữa, ông lại bắt con ghi dấu các hiệu hàng và vô sổ đầy đủ.
Sau mấy bữa nghỉ ngơi, Sài Thắng cùng gia nhân áp tải đám mã phu chở hàng qua bán bên phủ Khai Phong. Bữa Sài Thắng lên đường, Sài bà và vợ Thắng là Lương thị khóc như mưa. Sài Thắng bồi hồi tấc dạ, dùng dằng chẳng dứt mà đi cho đặng. Sài ông thấy vậy chống gậy trúc đi ra quát mắng om sòm. Hai người đàn bà ngưng tiếng khóc nép bên hiên nhà nhìn chồng con ra đi. Vì là lần đầu tiên xa nhà nên sài Thắng chân bước đi mà mặt còn nghoảnh lại, mối sầu tràn ngập tâm hồn.
Anh gia nhân vốn là người từng trải, tìm mọi cách gợi chuyện để cậu chủ vui với cảnh vật bên đường mà vơi bớt mỗi buồn xa nhà.
Mấy bữa đầu, Sài Thắng còn biếng ăn, ít nói nhưng qua vài ngày sau bản tính hiếu động của tuổi thanh niên như sống lại trong lòng người trai trẻ. Chàng say sưa ngắm cảnh đẹp và thấy đời sống giang hồ, rầy đây mai đó cũng có cái thú riêng của nó.
Gia nhân thấy vậy thì mừng lắm nhưng lại sợ chủ mải vui quên việc làm ăn nên thỉnh thoảng lại lựa lời đem chuyện buôn bán ra bàn.
Hai thầy trò và toán mã phu chở hàng ngày đi đêm nghỉ, thấm thoát được gần một tháng mới tới phủ Khai Phong.
Họ theo phía cửa Đông đi vào phố phủ và ghé nghỉ tại nhà ngủ của Tử thâm.
Hai thầy trò xếp ba gánh vải vô phòng ngủ rồi thay quần áo lên nhà trên nói chuyện với chủ tiệm Tử Thâm.
Qua tuần nước, chủ tiệm hỏi sài Thắng:
- Cậu từ đâu lại mang hàng vải chi lên bán vậy?
- Tôi đem vải vóc tơ lụa ở Hàng Châu lên.
- Chà, thế thì gặp dịp quá. Vải Hàng Châu rất ăn khách lại đang khan hiếm. Ai mách nước cho cậu vậy?
- Cha tôi.
- Cậu mới đi buôn lần đầu sao?
- Dạ phải.
Chủ tiệm chăm chú nhìn Sài Thắng và anh gia nhân đứng hầu hồi lâu rồi có lẽ vì tính tọc mạch tự nhiên của nghề nghiệp thúc đẩy, ông ta có ý muốn “sát hạch” Sài Thắng nên hỏi:
- Chắc cậu rành rẽ về mặt hàng này lắm nhỉ.
Sài Thắng khiêm tốn đáp:
- Dạ cũng biết tạm đủ mà thôi.
Nói đoạn chàng sai gia nhân về phòng lấy mẫu hàng đem lên.
Chàng giải thích cặn kẽ đặc tính của từng loại hàng một: thứ này mỏng nhưng chắc sợi, thứ kia dày hơn nhưng không được mịn lắm, thứ này kém thứ kia về ni tấc nhưng lại hơn về màu lâu phai v.v… chàng cũng lại nói rõ sản phẩm đặc biệt của mỗi phường dệt cùng ý nghĩa các nhãn hiệu.
Chủ tiệm Tử Thâm yên lặng ngồi nghe, thỉnh thoảng lại gật đầu tán thưởng. Sài Thắng dứt lời, Tử Thâm đứng dậy vỗ vai chàng và nói:
- Tôi không hề quen biết cha cậu nhưng qua các lời cậu vừa trình bày, tôi cũng đoán cha cậu phải là một tay buôn có hạng lắm. Thiệt là hổ phụ sinh hổ tử.
Trong khi gia nhân thu xếp hàng đem cất vô phòng, Sài Thắng hỏi thăm chủ tiệm về nhân văn địa lý của phủ Khai Phong.
Tử Thâm nói:
- Đất vùng này phì nhiêu, dân phủ này giàu có và co chân khoa bảng cũng nhiều. Từ ngày Bao Đại nhơn trị nhậm phủ này, dân chúng sống yên ổn làm ăn lại càng sung túc.
- Thế còn Thiết diện đại nhơn ở phủ Khai Phong là ai mà nghe đồn xử án như thần vậy?
Tử Thâm cả cười đáp:
- Thiết diện đại nhơn hay Bao Công là hai danh hiệu để chỉ quan phủ nơi này… (rồi y hạ thấp giọng nói tiếp) … tục danh của ngài, là Bao Chửng. Thôi tôi có việc phải ra ngoài một chút, cậu có đi dạo cảnh xem phố xá thì cứ đi. Ở đây nghiêm lắm, không sợ mất mát đồ vật đâu.
Hai thầy trò Sài Thắng thong thả đi dạo khắp phố phường. Xem mãi không chán mắt. Phủ Hàng Châu đã là đẹp mà còn thu phủ Khai Phong nhiều.
Qua Nha của Bao Công, hai người lén nhìn vô. Bỗng Sài Thắng bảo nhỏ gia nhân:
- Không biết mặt mũi ông ta ra sao mà thiên hạ gọi là Thiết Diện.
- Nghĩa là sao cậu?
- Thiết Diện là mặt sắt, chắc là mặt ông ta đen sì.
- Người gì mà cổ quái vậy cậu?
- Aáy dị nhân, dị tài mà. Ông ta xử đoán như thần. Ước gì mình có việc vào đây nhìn tận mặt cho rõ thực hư.
Gia nhân trợn mắt, lè lưỡi:
- Thôi con van cậu. Mong chi ba cái điều đó. sui lắm đa, cậu. Cậu đói bụng chưa, ta ghé tiệm ăn là vừa.
Sài Thắng gật đầu. Hai thầy trò ghé tiệm dùng cơm chiều rồi lại dắt nhau đi dạo phố mãi tới khuya mới trở về nhà trọ.
Xem mãi cũng hết. Rong chơi mấy bữa rồi cũng chán. Bữa nay Sài Thắng cùng gia nhân ở nhà đem hàng vải ra sắp xếp lại để ba ngày nữa đem ra phiên chợ bán.
Hai người bày la liệt vải vóc ra đầy hai giường. Giữa lúc ấy có tên Hạ Nhựt Hạo ở gần đó đi qua nhìn thấy ngốt của, sanh lòng tham muốn lấy trộm hết.
Hắn rình suốt ngày hôm đó không thấy hai người đi ra phố như mọi bận. Đêm ấy đôi ba lần hắn toan lẻn vô ăn trộm mà chẳng xong vì sài thắng và gia nhân rất tỉnh ngủ, hơi động dạng một chút là cất tiếng hỏi liền.
Hạ Nhựt Hạo lẩm bẩm:
- Bữa nay chưa được, bữa mai được biết đâu? Nó có bán hết vải này cũng còn phải vài tháng là ít.
Nghĩ vậy hắn quyết tâm rình rập, chờ cơ hội thuận tiện.
Qua sáng sau, Sài Thắng và gia nhân định bụng nghỉ vì còn hai bữa nữa đã tới phiên chợ, nên không đi đâu chơi cả.
Nằm chán lại ngồi, ngồi chán lại nằm, thét một hồi Sài Thắng thấy nỗi nhớ nhà tràn ngập tâm hồn. Nỗi buồn xa quê hương càng dâng lên mãnh liệt khi nắng chiều thoi thóp trên ngọn cây cau trong sân nhà trọ. Tiếng chim sào sạc gọi nhau về tổ ấm càng khiến cho chàng trai trẻ sót sa tất dạ.
Sau cái thở dài não ruột chàng bảo gia nhân:
- Chú ra phố mua rượu và đồ nhậu về ăn chơi. Có phải bữa nay trời trở lạnh không chú?
- Trời mới cuối thu mà cậu đã kêu lạnh. Hay là cậu đau? Để tôi kiếm thuốc cho cậu uống, chớ uống rượu vô làm trọng bệnh thì khốn.
Không muốn cho gia nhân biết ý định của chàng mượn rượu giải sầu, Sài Thắng gượng cười nói tránh đi:
- Có đau đâu mà phải thuốc men. Tôi không quen dãi nắng dầm sương như chú nên thấy lạnh, chớ có gì đâu. Thôi chú mau đi kiếm rượu về mình nhậu chơi.
- Cậu muốn thế, tôi cũng chiều cậu. Nhưng cậu không quen uống rượu mà tôi thì tử lượng kém lắm thôi để tôi lên nhà mua lại của chủ quán hai ly nhỏ cũng đủ, khỏi phải ra phố. Còn đồ nhậu tôi có sẵn rồi.
- Không nên làm phiền người ta. Chú cứ đi mua một hũ rượu ngon về đây, chẳng uống hết thì để dành uống dần có sao.
Anh gia nhân thấy chủ nói vậy, đành phải ra phố mua một hũ rượu đem về.
Rồi chủ và tớ ngồi cùng mâm nhắm rượu vui vẻ lắm. Được thứ rượu tốtcàng uống càng ngọt giọng, không say ngay nên hai người vui miệng uống tràn. Một tuần, hai tuần rồi ba, bốn tuần… thét một hồi cả hai đều say khướt. Sài Thắng phục ngay xuống bên mâm rượu ngủ vùi. Anh gia nhân tuy đã lảo đảo song còn cố gắng thu dọn được tiệc rượu rồi mới lăn ra ngủ, ngáy ầm ầm như sấm. Nhưng anh ta chỉ cài cửa sơ sài chớ không chặn cẩn thận như thường lệ.



Lại nói về Hạ Nhựt Hạo, vẫn rình mò bên ngoài, thấy vậy soạn đồ nghề rồi chờ đến nửa đêm, nhà nhà đều ngủ say mới lần ra nhà trọ, lén tới phòng Sài Thắng cậy cửa chun vô khuôn sạch cả ba gánh vải chất bên bụi chuối sau hè rồi chuyển dần về nhà, tới canh tư thì hoàn tất mà chẳng ai hay biết gì.
Sáng sau Sài Thắng tỉnh rượu thấy cửa mở toang, nhìn sang giường bên thấy gia nhân vẫn nằm ngủ say mới giật mình chồm dậy thì than ôi ba gánh vải đã không cánh mà bay.


__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #45  
Old 06-14-2005, 02:33 PM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Sài Thắng tái mặt trong khi anh gia nhân vừa khóc vừa nói:
- Lỗi tại tôi không cản ngăn cậu nên mới ra cớ sự này. Biết nói làm sao với sài lão gia đây.
Rồi y toan đấm ngực, miệng mếu máo:
- Quân phản chủ là tôi. Quân phản chủ là tôi.
Sài Thắng thở dài vỗ vai người đày tớ trung thành và bảo:
- Thôi, chú chẳng nên phiền muộn làm chi. Việc đã lỡ rồi. Hối cũng bất cập mà than vãn cũng chẳng ích gì. Ráng đi tìm kiếm lại là hơn.
Nói đoạn Sài Thắng xăm xăm bước lên nhà trên, gọi củ quán Tử Thâm ra mà hỏi rằng:
- Tại sao hồi hôm ông lại thừa dịp tôi say rượu mà lấy trộm hết ba gánh vải của tôi?
Tử Thâm ngạc nhiên đáp:
Cậu nói chi kỳ lạ vậy. Ai lấy trộm vải, mà cậu mất trộm hồi nào tôi đâu có hay biết gì.
- Ông là chủ quán, tôi trọ ở nhà ông, nay tôi mất hàng, lỗi ở nơi ôn không trông nom. Nếu ông không kiếm ra, thì phải thường cho tôi.
- Tôi không lấy sao bắt tôi thường.
- Ông xúi người ta trộm hàng của tôi.
- Trời ơi, tôi là chủ tiệm lấy khách là căn bản cơm áo lẽ nào lại xúi người khác trộm đồ của cậu thì còn ai tới lưi nhà trọ này nữa.
- Mặc ông, tôi ở trọ nhà ông mà mất đồ, ông có lỗi.
- Tôi không có lỗi chi cả.
Sài Thắng tức quáhét lớn:
- Ông có lỗi.
Chủ tiệm Tử Thâm bực mình la lại:
- Đừng có nói hàm hồ. Ta không lấy trộm, ta không có lỗi chi cả.
Đôi bên lời qua tiếng lại mỗi lúc một găng. Sau cùng sài Thắng túm ngay lấy Tử Thâm đẩy ra đường, miệng nói lớn:
- Lên quan, Lên Bao Công đại nhơn phân xử.
Tử Thâm giằng co một lúc rồi cũng thuận lên nhờ Bao Công đem đèn trờisoi xét.
Tới Nha của Bao Công, cả hai kéo nhau vào xin phân xử.
Thơ lại vô bẩn, Bao Công truyền cho dẫn Sài Thắng là nguyên đơn vô trình bày tự sự.
Nghe xong, Bao Công lắc đầu nói:
- Ngươi là người có học, ta không cần phải dài dòng. Phàm muốn bắt người ta vì tội trộm phải có tang chứng mới có lý mà đoán ra. Nay không có tang chứng biết đâu mà đoán cho đặng?
- Xin Thượng quan cứ bắt giữ Tử Thâm để xét hỏi. Tôi chắc là y chớ chẳng còn ai nữa.
- Không được. Không bằng chứng sao ta bắt giữ y được. Ta chỉ có thể xét hỏi cả nhà ngươi lẫn cả Tử Thâm rồi sau sẽ hay.
Nói đoạn, ông sai lính kêu Tử Thâm vô nha hỏi rằng:
- Ngươi là chủ quán Tử Thâm?
- Dạ phải.
- Ngươi đã cho Sài Thắng trọ sao lại trộm hàng của khách để hắn phải đi cáo với ta.
- Tôi không lấy chi của hắn cả. Hắn mất hồi nào tôi đâu có hay. Nhà trọ khách ra vô tấp nập, y có của mà chẳng giữ, mất ráng chịu chớ tôi nào có lỗi gì?
Sài Thắng cãi:
- Thưa thượng quan, chính hắn lấy trộm vải tôi, người lạ làm sao vô nhà trọ được.
Tử Thâm vẫn quả quyết là, không lấy. Đôi bên cãi lộn trước mặt Bao Công.
Bao Công nổi giận mắng cả hai rằng:
- Hay cho các ngươi dám đem nhau tới trước mặt ta mà đấu khẩu. Việc thế nào đã có ta phân xử, sao dám làm ồn ào như vậy. Bây giờ y cũng cho là có lý. Ta tạm giữ cả hai lại xem thực hư thế nào đã.
Nói đoạn ông truyền lính dẫn hai người xuống trại giam rồi sai thám tử đi điều tra.
Sau ba ngày dò la, các thám tử chịu, không tìm ra được manh mối vụ trộm.
Bao Công bất lực lắm. Buổi chiều đó Bao Công trở về nhà riêng ở sau công đường, nét mặt không vui. Đi ngang gian nhà trái thấy quan bà đang ngồi dệt vải. Bao Công ghé vô cầm tấm vải đã dệt xong xem một lát rồi chậc lưỡi nói:
- Thiệt là nan giải.
Quan bà ngưng tay dệt hỏi chồng:
- Quan nói sao?
- Ta gặp một vụ ăn trộm vải mà không tra ra được thủ phạm vì không có bằng chứng chi cả. Thiệt là nan giải.
- Người mất vải từ đâu lại?
- Từ phủ Hàng Châu.
- Thế lại càng khó nữa. Vì một ngày các phường dệt Hàng Châu dệt biết bao nhiêu là vải và cũng biết bao nhiêu người buôn vải từ Hàng Châu qua đây bán.
- Ta cũng biết vậy. Rắc rối hơn nữa là theo thông lệ kẻ lái buôn vải nào cũng có quyền bôi bỏ nhãn hiệu của người lái buôn trước rồi áp dấu của mình vô. Như vậy thì còn biết đằng nào mà lần ra nữa.
- Trừ khi kẻ mất vải có nhớ được cả đến thước tấc của mỗi cây vải bị mất…
- Phải, nhưng với điều kiện là phải bắt y nguyên cả tấm hay là trọn ba gánh vải.
Phố phủ này rộng lớn có cả trăm tiệm vải chẳng lẽ khi không vô cớ khám xét hết nhà người ta. Vả lại tên trộm vải cũng chẳng dại gì mà bán tháo cả một lúc tới ba gánh vải. Thế nào hắn cũng bán dần dần từng gánh một. Ta chắc là kẻ trộm vải phải là người trong giới buôn vải. Mà như thế lại càng khó tìm ra nữa. Vì họ đông tới cả trăm người và đi về luôn luôn, biết nghi ai mà bắt?
Nói đoạn Bao Công chắp tay sau lưng lững thững đi ra vườn hoa, nét mặt đăm chiêu.
Quan bà nhìn theo, lắc đầu ái ngại.
Bao Công suy nghĩ suốt đêm đó. Sáng sau ông đăng đường sớm kêu hai thám tử Trương Long và Triệu Hổ lên mà phán rằng:
Vùng này đã từ lâu không xảy ra trộm cướp. Nay Sài Thắng từ xa đến lại xảy ra vụ mất trộm vải. Vụ này phải ra ra bằng được, và lại phải dùng mẹo mới xong. Vậy hai người khá làm theo lời ta dặn đây.
Rồi Bao Công dặn nhỏ hai thám tử một hồi. Cả hai nhận lệnh, vái chào lui ra.
Liền sau đó Bao Công cho dẫn Sài Thắng và Tử Thâm tới trước công đường rồi làm mặt giận, la lối Sài Thắng rằng:
- Ta cho điều tra đã ba ngày rồi không tìm ra manh mối chi cả.
Sài Thắng xót của, nài nỉ:
- Xin quan thương tình giúp cho.
Bao Công cau mày đáp:
- Bộ nhà ngươi tưởng ta không muốn tra cho ra sao? Ngặt một điều không thấy chi thì biết phán đoán làm sao.
Nói đoạn ông sai lính đuổi cả hai về.
Hai người đi khỏi, Bao Công kêu hai thám tử Trương Long, Triệu Hổ vô hỏi rằng:
- Có kiếm được vật ta dặn không?
- Thưa, có. Chúng tôi chờ đến sáng mai sẽ khởi sự.
Bao Công gật đầu đáp:
- Tốt lắm, cứ làm như thế ta đã bảo nghe.
Hai thám tử dạ rân rồi đi rồi lui ra.
Lại nói về Hạ Nhựt Hạo, lấy được vải của sài Thắng đem về tơi nhà ở ngoai ô liền lập tức bôi nhãn hiệu của các phường dệt ở Hàng châu cùng dấu hiệu của họ Sài đi, đoạn hắn mở túi lấy con dấu của hắn vị vô các súc vải (thì ra hắn cũng là một tay buôn vải nhưng kiêm… đạo tặc).
Xong đâu đấy hắn giấu hàng kín một chỗ rồi đi nghe ngóng tình hình.
Thấy Bao Công thả cả Tử Thâm lẫn Sài Thắng ra. Hạ Nhựt Hạo trà trộn vào đám người hiếu kỳ bu quanh cả hai mà hỏi thăm.
Nghe nói Bao Công tuyên bố chịu, không tìm ra thủ phạm, Hạ Nhựt Hạo cả mừng lủi mau về nhà, lấy một phần vải vào gánh tính đem vô phố phủ bán cho tiệm quen, ngay sáng ấy.
Vợ Hạo can chồng:
- Thiếp nghĩ chàng nên để thư thả rồi hãy đem bán. Nhỡ Bao đại nhơn truy ra thì khốn.
Hạo nhún vai nói:
- Nàng chỉ hay lo xa, Bao Công chịu không tra ra thủ phạm và đuổi cả Sài Thắng lẫn Tử Thâm về rồi.
- Thiếp sợ lắm, chàng ơi! Bao đại nơn mưu kế như thần. Chàng bán gấp thế này thế nào cũng mắc mẹo ông ta mất thôi.
- Ta đã nói không sao mà. Ta hỏi nàng chớ Sài Thắng mấ trộm vải có gì làm bằng chứng là Hạ Nhựt Hạo này lấy không? Dẽ thường khắp bàn dân thiên hạ này chỉ một mình Sài Thắng biết buôn vải ở Hàng Châu về đất Khai Phong này bán sao? Thế còn ta, từ trước đến nay ta không thường buôn vải về bán cho các tiệm quen trong thành đây là gì?
Vợ Hạo vẫn e ngại:
- Thiếp vẫn thấy rờn rợn thế nào ấy. Thiệt là khó nói quá.
- Nàng thấy sao?
- Thiếp có linh cảm chàng sẽ bị bắt…
- Thôi đi bà, đừng có dại miệng. Rõ bụng dạ đàn bà có khác. Thôi để yên cho tôi đi.
Hạ Nhựt Hạo vừa nói vừa cột lại gánh vải cho chắc. Vợ Hạo chưa chịu thôi, ngập ngừng hỏi chồng.
- Thế … Thế còn đống vải vóc trong kia… Lỡ có ai biết mách với quan thì chàng trả lời làm sao?
- thì ta trả lời là vải của ta chớ sao nữa. Trên vải có in dấu nhà rồi còn lo chi?
- Chàng ôi, lỡ quan quân dò hỏi biết là từ bao lâu nay, lực vợ chồng ta chỉ có đủ tiền buôn một gánh thôi, còn hai gánh kia tiền đâu ra mà buôn, thì biết trả lời làm sao?
Hạ Nhựt cười bảo vợ:
- Nàng nói có lý. Thôi để ta giấu hai gánh vải còn lại đi nơi khác.
Nói rồi hắn cùng vợ lén đem hết hai gánh vải ra giấu trong cây rơm ở sau nhà, rồi cột chó dữ ở gần cho canh gác. Vì Hạ Nhựt Hạo ở vùng ngoại ô phủ Khai Phong nên nhà nọ cách nhà kia khá xa lại thêm bị che khuất bởi vườn cây rộng lớn nên lân bang không ai biết việc làm của hắn.
Trở vào nhà, Hạo bảo vợ:
- Làm vậy cho nàng bớt lo ngại chứ thực ra Bao Công chẳng có lý do gì khám xét nhà ta cả.
Nói đoạn, hắn quẩy gánh vải vào thành bán cho tiệm Uông Thành là chỗ bạn hàng quen biết lâu năm.
Thâu xong bạc, Hạo tất tả về nhà, giơ túi bạc và bảo vợ rằng:
- Nàng thấy chưa? Bạc đây nè. Ở nhà có quan quân đến hỏi gì không?
Vợ Hạo cười xoà không đáp. Chiều đó hai vợ chồng giết chồng ăn mừng.
Sáng sau, trong khi vợ chồng Hạ Nhựt Hạo còn đang hoan hỉ tính chuyện khuếch trương sự làm ăn buôn bán thì tại nhân Nha của Bao Công, viên cai lính lệ cũng đang kiểm điểm hai toán công sai.
Sau khi dặn dò cặn kẽ, viên cai ra lệnh cho các toán lính lên đường. Toán thứ nhất đi khắp hang cùng ngõ hẻm trong phố phủ Khai Phong rao cho dân chúng biết rằng: “Sáng nay quan sẽ cho khảo bia đá trước sân Nha để lấy lại ba gánh vải cho Sài Thắng”.
Mọi người lấy làm lạ rủ nhau lũ lượt kéo đến trước Nha coi sự thể ra sao. Tới nơi họ thấy một toán lính (toán thứ hai) đang ì ạch khiêng tấm bia đá lớn bỏ hoang trên bãi cỏ gần đó về.
Cửa Nha mở rộng, phía trong sân một toán lính gươm giáo sáng loà đứng thành hình cánh cung, lưng quay ra cửa, mặt trông vào chiếc án thư bày trước thềm công đường. Sau bàn có kê chiếc ghế phủ da cọp. Đó là nơi lát nữa Bao Công sẽ ra ngồi xử án.
Toán công sai khiêng tấm bia đá đặt giữa sân, trước án thư rồi xếp mấy bó roi song bên cạnh.
Lát sau một hồi trống nổi lên vang dậy. Bao Cong từ trong công đường uy nghi lẫm liệt bước xuống thềm đến ngồi trước án thư. Thơ lại khúm núm đặt bút nghiên và chồng hồ sơ lên bàn rồi lui về chắp tay đứng hầu sau lưng Bao Công.
Thấy trước cửa Nha chỉ loáng thoáng có vài người đi qua liếc mắt dòm vào, Bao Công liền kêu viên thơ lại già đến bên và dặn rằng:
- Ngươi ra bảo lính canh lui vô hết trong sân và mở thật rộng cửa Nha ra. Sau đó, ngươi bảo Trương và Triệu Hổ lẻn ra ngoài trà trộn trong đám người hiếu kỳ. Hễ nghe thấy trong này có tiếng chiêng trống và binh sĩ reo hò thì hai người cứ đến đứng trước cửa Nha mà dòm vào. Chừng nào thấy quá đông thì nhích dần lên và vô hẳn trong sân Nha giả bộ để coi cho rõ. Đến khi ta vỗ tay ra hiệu, hai thám tử sẽ từ từ rút ra ngoài và bảo lính đóng cửa Nha lại.
Nói tới đây, Bao Công ngưng lại nhìn viên thơ lại già một lúc, rồi như muốn thử tài viên thuộc hạ, ông chậm rãi hỏi:
- Ngươi có đoán ra mục đích của ta không?
- Thưa có…
- Có thì nói đi.
- Dạ, nếu kẻ thuộc hạ này đoán không lầm thì quan cho là tên trộm vải của Sài Thắng phải ở trong đám người sẽ vô sân Nha.
- Vì sao?
- Thưa, tên trộm vải tự biết y là thủ phạm mà không bị bắt nay thấy quan khảo cái bia là vật vô tri vô giác đẻ mong tra ra hắn thì thật là là đời lắm vậy. Nếu người khác tò mò một phần thì hắn sẽ tò mò tới mười phần. Nhưng…
- Nhưng sao?
- Nhưng nếu hắn không đến thì quan tính sao? Và nếu hắn có đến thì quan làm sao tra ra hắn được?
Bao Công cười đáp: -Cái đó thì… hạ hồi phân giải. Thôi ngươi khá đi lo công việc cho rồi
Viên thơ lại quay ra, Bao Công vuốt râu, lẩm bẩm:
- Ta có cách rồi. Tuy nhiên ta cũng chịu bó tay nếu gặp phải tên trộm gian ngoan, không mắc vào bẫy của ta. Vụ Sài Thắng mật vải này lẽ ra có thể bỏ qua vì không tìm thấy manh mối chi cả. Bây giờ đây dù có lập đến kế này nhưng cũng trông nhờ ở sự tình cờ bắt được đầu mối mà thôi. Biết đâu trời lại chẳng run rủi cho ta tìm ra tên trộm.
Lát sau viên thơ lại trở lại bên Bao Công và bẩm rằng:
- Thưa quan, mọi sự đã sắp đặt xong.
__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #46  
Old 06-14-2005, 02:34 PM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Bao Công gật đầu và ắng giọng quát lớn:
- Lính đâu, hãy đánh cho tên Bia đáng ghét kia hai mươi roi cho ta.
Một chú lính dạ thật lớn rồi bước tới rút roi song quật đủ hai mươi roi vào tấm bia giữa tiếng chiêng trống đổ hồi và tiếng quân lính reo hò ầm ĩ.
Thấy không có lính gác lại thấy Trương Long và Triệu Hổ (mặc giả làm lái buôn) đứng chình ình trước cửa Nha mà dòm vô, Đám người hiếu kỳ hùa nhau kéo đến mỗi lúc một đông.
Bao Công giả bộ cúi xuống coi lại hồ sơ một lát rồi ngửng lên thét vang như sấm:
- Tên Bia này to gan thực. Lính đâu đánh cho nó hai mươi roi nữa.
Lại một chú lính khác tiến ra lấy roi song đập đủ hai mươi roi vào tấm bia. Chiêng trống và tiếng reo hò của quân lính lại nổi lên như sóng cồn.
Hai thám tử của Bao Công bước tuốt vô trong sân Nha. Đám người ào vô theo. Phút chốc sân Nha đầy nhóc người xem Bao Công khảo bia để tra ra kẻ trộm vải của Sài Thắng.
Bao Công cứ tái diễn mãi tấn tuồng tra bia đá tới lần thư tư thì ông vỗ tay làm hiệu. Nhanh như cắt bọn lính gác đóng ập cửa Nha lại và ra lệnh cho dân chúng phải đứng yên tại chỗ. Bao Công kêu lính dẫn bốn người đứng ở hàng đầu tới trước án như cho ông xét hỏi.
Bốn người ríu rít tuân lờ, Bao Công giả làm mặt giận, vỗ bàn, la rằng:
- Ta đang xét xử, cớ sao các ngươi dám dắt những người kia vô đây làm mất trật tự? Tội các ngươi đáng đánh đòn, nhưng ta làm phước tha cho nhưng phải chịu phạt theo lối khác, chịu không?
Cả bốn dạ rân đáp:
- Xin chịu.
Bao Công gật đầu phán rằng:
- Tốt lắm. Bây giờ bốn người hãy khai tên họ địa chỉ cho thơ lại rồi sau đó sẽ ra thu xếp với đám người đứng ở góc sân kia, coi xem ai bán gì thì phải nộp phạt bằng vật ấy: Thịt phạt thịt, vải phạt vải, gạo phạt gạo, bốn người liệu phải thâu phạt cho đủ rồi đem đến. Hiểu chưa.
- Dạ hiểu.
- Vậy thì mau ra cắt nghĩa cho những người kia rồi an phận nấy lo đem đến nộp phật cho đủ. Bốn người sẽõ tự đứng ra ghi tên tuổi địa chỉ của người nạp phạt cùng số loại hàng nạp. Thôi các ngươi đi lo ciệc cho xong đi.
Bốn người vái dài Bao Công rồi đi về phía cuối sân Nha loan tin cho mọi người hay trong khi Bao Công từ từ đứng dậy lui vô bên trong công đường.
Chừng một tiếng đồng hồ sau, họ thâu đủ số phạt, không sót một ai và đem trình Bao Công.
Bao Công xem qua các món thấy có mấy tấm vải liền sai lính để riêng ra đoạn ông kêu bốn người đại diện vô mà hỏi rằng:
- Trong bốn người có ai buôn bán vải lụakhông?
- Dạ không?
- Thế có bà con, cô bác hay bạn hữu làm chi nghề đó không?
- Thưa, cũng không.
- Khai cho thiệt nghe, chớ có dấu quanh mà ta tra ra thì bị tội nặng nghe.
- Dạ, chúng tôi khai thiệt.
- Tốt lắm. Bây giờ ta tạm giữ lại ba tấm vải mai sẽ hoàn lại, còn các món khác các ngươi đem về trả hết lại cho người ta.
Bốn người vừa lãnh đồ đem ra khỏi Nha thì Bao Công kêu ngay lính xuống nhà dưới nói với quan bà cho mượn vài ba cây vải nhà dệt đem lên để cùng với đống vải nộp phạt. Đoạn ông sai lính hoả bài đi đòi Sài Thắng và Tử Thâm đến hầu gấp.
Bao Công lấy tấm vải mà quan bà dệt ra và hỏi Sài Thắng:
- Phải vải này của ngươi bị mất không?
- Dạ không. Vải này chẳng phải của tôi.
Bao Công lại chìa tấm vải khác ra hỏi, Sài Thắng cũng không nhận. Tới lần thứ năm, nhìn một tấm vải nộp phạt, Sài Thắng coi kỹ một lát rồi reo lên:
- Thưa quan, vải này đúng là của tôi, sao quan tìm ra?
Bao Công đòi lại tấm vải rồi chậm rãi hỏi Sài Thắng:
- Có chắc không?
- Dạ chắc lắm.
- Nhãn hiệu khác mà sao dám là chắc?
- Tên trộm đã bôi bỏ nhãn hiệu cũ xong đúng là vải của tôi bị mất trộm. Xin quan lật lại mặt trái, nơi mép trên có ghi chữ “bát” và chữ “tam” nhỏ li ti. Đây là cây vải thứ tám trong loại vải thứ ba chúng tôi buôn từ Hàng Châu qua đây để bán. Tôi xin đọc ra đây thước tấc mỗi cây, xin quan cho đo lại, nếu không đúng, tôi xin chịu tội.



Nghe xong, Bao Công truyền thơ lại, đo lại thấy đúng như lời khai của Sài Thắng, không sai một phân.
Ông trỏ những cây vải còn lại biểu sài Thắng coi còn tấm nào của y nữa không. Sài Thắng xem mọt lượt rồi trả lời:
- Thưa quan chỉ có một cây vải ấy mà thôi.
Bao Công truyền lính đưa Sài Thắng và Tử Thâm ra sân chờ lệnh ông sai người đi kêu bốn người dân lúc trước đến hầu gấp.
Bao Công trỏ tấm vải của Sài Thắng và hỏi bốn người rằng:
- Tấm vải này do ai nộp phạt đây?
- Dạ, của chủ tiệm Uông Thành.
- Có đúng không?
- Thưa đúng lắm. Tất cả chỉ có ba tiệm vải đi coi thì bị phạt. Tấm vải quan vừa hỏi đó là tấm trắng nhất của tiệm Uông Thành. Còn hai tấm kia khác mầu và xấu hơn.
Bao Công dạy lính công sai đi bắt chủ tiệm Uông Thành về Nha xét hỏi:
- Phải tấm vải này của nhà ngươi không?
- Dạ phải.
- Nhà ngươi đi Hàng Châu buôn về sao?
- Thưa không, xưa nay tôi chỉ mua lại của các lái buôn thôi.
- Cây vải này mua của ai?
- Dạ, của người lái tên là Hạ Nhựt Hạo.
- Mua nhiều ít và lâu mau rồi?
- Dạ, mua một gánh, mới bữa qua thôi.
- Nhà ngươi có biết vải này là của Sài Thắng bị mất trộm không?
- Thưa không, thường ngày tiệm tôi mua đi bán lại cũng nhiều. Vả lại Hạ Nhựt Hạo với tôi là chỗ bạn hàng lâu năm.
Bao Công suy nghĩ một lát rồi vuốt râu hỏi tiếp:
- Những chuyến trước… Tên Hạo có buôn về nhiều như vậy không?
- Y vẫn thường buôn về một gánh, từ mấy năm nay rồi.
- Ngươi biết địa chỉ của Hạ Nhựt Hạo chớ?
- Dạ biết. Trước đây tôi có ghé qua nhà y đôi ba lần dự ti65c.
Bao Công trỏ Uông Thành mà bảo viên thơ lại già rằng:
- Nhà ngươi hãy lấy lính đi cùng với người này lại tiệm đem chỗ vải y đã mua được đem về Nha cho ta.Sau đó ngươi lại dẫn lính đi cùng anh ta bắt Hạ Nhựt Hạo và lục soát kỹ nhà tên Hạo xem sự thể ra sao.
Viên thơ lại tuân lời điểm một toán lính và lên đường tức tốc.
Lại nói về Hạ Nhựt Hạo vì ở ngoại ô nên không hay biết gì về các sự xẩy ra ở thành cả nên vẫn đắc chí ngồi nhà nhậu nhẹt, tính chuyện tương lai cùng vợ.
Lúc rượu đã xoàng xoàng, Hạ Nhựt Hạo bảo vợ:
- Bây giờ, nàng hãy giúp ta đem hai gánh vải giấu nơi cây rơm sau vườn vào nhà, kẻo để lâu hư hết.
Vợ Hạo can:
- Thiếp nghĩ chàng nên để qua vài bữa nghe ngóng ra sao cho chắc ăn đã đừng nên hấp tấp. Thiếp vẫn thấy… thế nào ấy.
Hạo gắt:
- Còn gì nữa mà không chắc ăn. Nàng chỉ hay lo quẩn, lo quanh.
Vợ Hạo thấy chồng gắt, vội đấu dịu:
- Thì chắc ăn rồi, thiếp có nói sao. Nhưng thôi đề chiều nay lấy vào cũng chẳng muộn gì. Chàng hãy nhậu tiếp đi cho vui vẻ đã.
Hạo hài lòng, cười hề đáp:
- Ờ nói vậy nghe xuông tai hơn…
Hắn chưa dứt lời xẩy có con trai lớn của người bạn ở đầu xóm hớt hải chạy xồng xộc vào nhà, vừa thở vừa nói rằng:
- Bác Hạo ơi, các quân lính trên Nha về bắt bác kia kìa. Họ sắp vô tới nơi đó, bác.
Nói rồi, thằng bé lủi nhanh như cắt ra cửa và chạy mất dạng.
Vợ Hạo mặt tái mét, run rẩy bảo chồng:
- Đấy, thiếp nói có sao đâu.
Hạ Nhựt Hạo tuy có chột dạ nhưng vẫn cố bình tĩnh bảo vợ:
- Nàng đừng có hốt hoảng cứ làm mặt thản nhiên như không để mặc ta đối phó. Nếu họ có xét nhà và hạch hỏi cứ khai là đờn bà không hay biết gì cả.
Nói đoạn Hạo ung dung ngồi nhắm rượu.
Khi quân lính và chủ tiệm Uông Thành ập vô nhà thì Hạo giả bộ ngạc nhiên hỏi:
- Kìa bác Uông Thành đi đâu mà có quân lính theo rầm rộ vậy?
Chủ tiệm Uông Thành không dám trả lời chỉ đưa mắt nhìn viên thơ lại. Người này nạt nộ Hạo rằng:
- Ngươi lấy trộm ba gánh vải của Sài Thắng rồi đem bán cho tiệm Uông Thành hết một gánh. Biết điều thì nhận tội và nộp trả hai gánh còn lại ngay đi.
Hạo cứng cỏi chỉ maặt Uông Thành nói:
- Hay cho anh này, khi không vu vạ cho người ta.
Nào ai lấy trộm vải của Sài Thắng? Dễ thường tới mấu năm nay tôi cũng bán vải ăn trộm cho anh ấy hẳn!
Chủ tiệm Uông Thành chưa biết trả lời ra sao thì viên thơ lại đã quát lớn:
- Việc thế nào đã có bao Đại nhơn phân xử. Lính đâu xét nhà tên này cho ta.
Vợ Hạo nghe vậy thất kinh đưa mắt nhìn chồng rồi nhìn về phía cây rơm sau vườn. Hạo trừng mắt nhìn vợ. Vợ Hạo cúi mặt nhìn xuống đất, tay hơi run run. Nhưng may quân lính không ai để ý đến mụ cả, chỉ hối nhau đi lục soát khắp nhà Hạo. Dĩ nhiên là họ không thấy gì cả.
Viên thơ lại bực tức hô hai lính công sai ra kiếm sau vườn. Con chó mực cột gần cây rơm cất tiếng sủa rầm ĩ. Hai chú kli1nh đến gần cây rơm ngó quanh một lúc rồi bảo nhau:
- Thôi vô cho được việc, đứa nào dại mà giấu vải ngoài vườn cho mưa nắng làm hư đi sao:
Thế là cả hai kéo nhau trở vô nhà và lắc đầu nói với viên thơ lại:
- Ngoài vườn cũng chẳng có gì lạ cả.
Viên thơ lại quay rabảo Hạ Nhựt Hạo:
- Thôi được anh theo tôi về trình qan.
- Tôi làm gì mà bắt tôi.
- Thì lệnh quan, trên bảo đưa anh về Nha thì cứ phải tuân theo đã.
Hạo đành phải theo quân lính lên đường…
Trước mặt Bao Công, Hạo vẫn chối dài. Bao Công bình tĩnh hỏi:
- Nhà ngươi qua Hàng Châu buôn chuyến vải này lâu mau?
Hạo lúng túng đáp liền:
- Dạ cách đây một tuần.
Mọi lần trước đi về mấy bữa thì đem bán cho tiệm Uông Thành?
- Dạ lối đôi ba bữa.
- Sao kỳ này chậm bán vậy.
Hạo lúng túng đáp:
- Dạ …. Vì đau.
Bao Công nhanh ý nhận ra ngay sự thiếu thành thật của Hạ Nhựt Hạo nên quát lớn:
- Nói láo. Mi không ra khỏi làng từ hai tuần nay. Lính đâu vật nó ra đánh mười roi cho ta.
Hạo bị đòn chịu không thấu đành thú nhận lấy trộm ba gánh vải của sài Thắng.
Bao Công hỏi:
- Còn hai gánh vải dấu ở đâu?
- Dạ, trong cây rơm ở sau vườn.
Bao Công trợn mắt quát viên thơ lại:
- Đồ ăn hại, bảo xét nhà nó cũng không xét kỹ.
Nói rồi ông sai lính đi lấy chỗ vải đem về Nha.
Sài Thắng nhận là ba gánh vải của mình. Bao Công quở mắng sài Thắng:
- Lần này ta tha cho nhà ngươi. Lần sau không nên hồ đồ gán tội cho người ngay nữa nghe.
Nếu không tra ra có phải là oan cho Tử Thâm không?
Sài Thắng và Tử Thâm vái tạ Bao Công rồi vui vẻ chia nhau gánh vải ra về.
Còn Hạ Nhựt Hạo bị bao Công kết án đày đi xứ xa.

__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #47  
Old 06-14-2005, 02:34 PM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Hồi 20

VỤ ÁN CÁI CHỔI


Xưa, tại quận Hà Nam Huyện Hà Chiêu bên tàu, có hai anh em họ Huỳnh, Huỳnh sĩ Lương là anh, em là Huỳnh Sĩ Mỹ.
Năm Sĩ Lương mười sáu xuân xanh và Sĩ Mỹ mới mười bố thì Huỳnh bà rồi đến Huỳnh ông lần lượt cưỡi hạc quy tiên, cách nhau chưa đầy một năm.
Bữa cất đám Huỳnh ông trời sầu đất thảm, mưa lai rai từ sớm tới chiều không dứt hột khiến ông già bà cả trong làng càng thêm xót thương cho hai mái đầu xanh.
Dân làng chẳng ai bảo ai, tìm mọi cách giúp đỡ anh em họ Huỳnh. Nhưng với ai Sĩ Lương cũng lễ phép khước từ và nói:
- Nhờ trời, ba má cháu quy tiên có để lại cho anh em cháu ít tài sản. Cháu sẽ cố gắng gây dựng lại cơ đồ, và nuôi em cháu. Chừng nào thất bại, cháu xin cô bác giúp đỡ sau.
Mọi người chẳng biết nói sao đành yên lặng ra về, lòng không khỏi khâm phục chàng trai trẻ có chí khí hiên ngang, có đầu óc tự cường.
Sau khi lo cho cha mồ yên mả đẹp, Sĩ Lương ngày ngày dắt trâu ra đồng tiếp tục công việc đồng áng trên mảnh ruộng do cha để lại. Còn Sĩ Mỹ ở lại nhà, lo cơm nước, nấu cám, băm bèo nuôi đôi lợn, thế cho Sĩ Lương. (công việc này do Sĩ Lương cáng đáng từ lúc Huỳnh bà qua đời).
Nhờ Huỳnh ông, lúc sanh tiền, khéo lo xa, chỉ dạy cho việc cấy cày nên nay Sĩ Lương cũng không bỡ ngỡ lắm.
Năm ấy, nhờ trời, vụ lúa được mùa, lại thêm dân làng sẵn có cảm tình với Sĩ Lương bảo nahu giúp đỡ bằng cách mua lại thóc với giá cao, nên Sĩ Lương có được một số vốn khá để tiếp tục làm ăn.
Thấm thoát đã tới kỳ giỗ đầu Huỳnh ông. Bữa đó, trên đường đi thăm một cha về, Sĩ Lương bảo em:
- Em cố gắng chăm nom việc nhà. Hôm nọ em mải chơi để heo đói, anh có rầy la em và em có ý giận hờn anh, như thế là không phải.
Sĩ Mỹ vẫn lặng lẽ đi bên anh.
- Em nên biết rằng lúc cha còn sống, anh cũng đã nhiều lần oán cha trách mẹ bắt anh phải bớt rong chơi mà tập làm việc cho quen. Từ lúc mẹ cha đều khuất núi, anh mới nhận thấy là anh đã lầm. Càng nghĩ lại, anh thấy thương cha nhớ mẹ. Giả tỉ các người không răn dạy anh thì chúng ta đâu có ngày nay. Phải trách mắng em, lòng anh đâu có vui sướng gì…
Sĩ Mỹ ôm lấy anh khóc nức nở, như muốn tạ lỗi mà chẳng nói lên lời, Sĩ Lương biết ý, vỗ về em mà rằng:
- Nay em đã hiểu ra, anh rất mừng. Thôi em nín đi.
Từ bữa đó, hai anh em càng thương yêu nhau hơn và Sĩ Mỹ không bao giờ dám trái lời anh.
Ba năm sau, mãn tang cha, Sĩ Lương nay đã mười chín tuổi được bà con cô bác mến thương làm mai hết đám này tới đám khác.
Nhưng Sĩ Lương cương quyết chối từ mà rằng:
- Cô bác có lòng thương muốn gây dựng cho cháu, cháu rất đội ơn, hiềm một nỗi em cháu còn nhỏ dại. Nay cháu lập gia đình tất nó lủi thủi một mình một bóng, nghĩ mà tội nghiệp…
Ông chú Sĩ Lương xua tay nói:
- Chú có khuyên anh lấy vợ mà ruồng bỏ em đâu. Anh có vợ thì vợ anh nó đỡ đần, nhà thêm người, thêm chân thêm tay, em anh có rảnh tay làm việc đồng áng chung với anh có hơn không?
Sĩ Lương chẳng chịu:
- Ôi thôi, khổ thân nó chú ơi…
Bà cô Sĩ Lương đáp:
- Thằng này lạ thiệt. Không biết lo thân, ở già mãi sao?
Sĩ Lương cười xoà:
- Cô bác thư thả cho cháu “ở giá” vài năm nữa, chờ em cháu lớn khôn, cháu lo cho nó xong rồi sẽ tính đến chuyệ cháu cũng chẳng muộn nào.
Giữ đúng lời hứa, đến năm Sĩ Mỹ hai mươi tuổi, Sĩ Lương nhờ người mai mối hỏi nàng Trương Nguyệt Anh làm vợ cho Sĩ Mỹ. Về nhà chồng ít lâu, nàng Nguyệt Anh tỏ ra rất đảm đang, hiền hậu, đoan trang và rất mực thương chồng kính anh, khiến ahi anh em họ Huỳnh rất đẹp lòng.
Hai Năm sau, Sĩ Lương cũng kết duyên tần tấn với nàng Lý Thị. Trước cảnh anh em họ Huỳnh thương nhau như thể chân tay, hai chị em dâu cũng :Dng trở nên thân thiết với nhau.
Xem ra thì Lý thị nhan sắc có phần thua kém Nguyệt Anh và lại vụng về, không chăm bằng em dâu. Thành thử bao nhiêu công việc do Nguyệt Anh lãnh đủ. Có lần Nguyệt Anh than phiền với Sĩ Mỹ thì bị chồng mắng cho một trận nên thân. Từ đó nàng khôn giám suy bì, ganh tỵ với chị dâu nữa.
Sĩ Lương thấy vợ ỷ mình phận trên có ý làm biếng nên một bữa nhân lúc cùng Sĩ Mỹ đi làm đồng mới bàn với em rằng:
- Anh em ta bây giờ còn ở chung với nhau nhưng mai sau có con cái, nhà cửa chật hẹp tất phải ở riêng mỗi người một nơi. Anh không muốn vợ anh lười biếng quen thân nên anh định từ nay công việc trong nhà đều bắt Lý thị và Nguyệt Anh phân công đảm nhiệm. Chẳng hay ý em thế nào?
- Em chịu ơn anh đã nhiều nay vợ em có phải cực nhọc cũng chẳng có chi mà phàn màn. Xin anh đừng nghĩ vậy, mà đau lòng em.
- Em hiểu lầm anh rồi. Anh đâu có định thử lòng em. Nếu em muốn giúp lại anh thì em nên chiều theo ý anh.
- Anh dạy sao em xin tuân lời.
Thế là ngay chiều đó, lúc đi làm về, Sĩ Lương gọi vợ và em dâu lên bảo hai người từ nay phải san sẻ đồng đều mọi công việc trong nhà. Chàng nói tiếp:
- Ngay cả đến việc dễ nhất là việc quét nhà, hai người cũng phải chia nhau, mỗi người quét một ngày.
Cả hai vâng dạ tuân theo. Anh em họ Huỳnh lấy làm mừng lắm. Nhưng họ có ngờ đâu, chính vì sự phân công ấy mà tai hoạ đổ xuống gia đình họ.
Số là Lý thị đã vụng lại lười, bất kỳ việc gì tới phiên thị làm cũng không được chu đáo, hoàn bị bằng Nguyệt Anh.
Sĩ Lương biết vậy và chàng thực lòng muốn dạy vợ nên thỉnh thoảng có hay khuyên bảo Lý thị. Ả này vốn vẫn ghen tài, ố sắc Nguyệt Anh,
Lòng ghen nung nấu tâm can, Lý thị để ý rình mò nhưng không thấy chi cả. Như người khác thì cũng thôi nhưng gặp phải Lý thị tánh tình nông nổi lại thêm bị sự vụng về của chồng làm nàng cứ hiểu lầm mãi, nên y thị càng ngày càng tin rằng Sĩ Lương và Nguyệt Anh có tình ý với nhau. Thị lẩm bẩm:
- Đúng là anh chị mê nhau rồi. Một là họ chưa đi sâu vào vòng tội lỗi. Hai làhọ khéo che đậy, giấu giếm. Để thủng thẳng mình bắt được bằng chứng sẽ làm cho ra nhẽ.
Trong khi Lý thị để tâm theo dõi mọi cử chỉ, lời ăn tiếng nói của chồng và em dâu thì hai người này vô tình, không hay biết gì. Vì thực ra cả hai đều đàng hoàng, đối xử với nhau trong vòng lễ giáo, chẳng bợn chút tà tâm.
Cách đó mấy tháng sau, một sáng tinh mơ, bên nhà Lý thị cho người sang kêu nàng về gấp để đi thăm bà dì đau nặng.
Cả nhà còn đang ngủ, trừ có Nguyệt Anh đã dậy và đang sửa soạn quét nhà vì bữa nay tới phiên của nàng.
Nghe tin chẳng lành, Nguyệt Anh vội chạy vô nhà gõ cửa buồng vợ chồng Sĩ Lương cấp báo cho chị dâu hay.
Vì trời trở lạnh dữ dội từ mấy bữa nay nên Lý thị có ý chần chừ, phần vì nàng tính chờ có mặt trời ấm áp sẽ đi, phần vì nàng cũng hơi mệt mỏi bởi cái bào thai được hơn 2 tháng.
Sĩ Lương vốn trọng điều nhân nghĩa, thấy vậy liền khuyên vợ:
- Chắc là cấp kíp lắm, bên nhà mới cho gọi như vậy. thôi nàng cũng nên lên đường ngay đi, lỡ chậm về đến nơi dì có mệnh hệ nào thì mình ân hận suốt đời và họ hàng biết được tất sẽ cười chê.
Lý thị nghe có lý vội thu xếp đi liền. Lúc chia tay nhau ở cổng nhà, Sĩ Lương bảo vợ:
- Nàng cho ta gởi lời thăm dì và ba má nghe. Nếu có điều chi nàng hãy cho người về cấp báo, ta sang ngay.
Đoạn Sĩ Lươn âu yếm nhìn vợ nói tiếp:
- Nàng cứ thủng thẳng mà đi không nên hấp tấp cho thêm mệt mỏi. Từ đây về nhà mất lối hai tiếng, nàng cứ ở lại chơi bên nhà, mai về cho thong thả.
Lý thị thấy Nguyệt Anh đang nhanh nhẹn quét sân. Thị nở một nụ cười khó hiểu và chậm rãi trả lời chồng:
- Để thiếp coi xem sao đã. Có lẽ thiếp xin chàngở chơi bên nhà dăm bữa nữa cũng nên.
Sĩ Lương vô tình, cười đáp:
- Tùy nàng. Từ ngày xuất giá nàng về nhà lần đầu, muốn nán lại vài ngày cho ba má và các em mừng, cũng được. Nhưng chớ đi quá lâu, ta sốt ruột nghe.
Lý thị gật đầu theo người anh họ ra đi.
Nói về Nguyệt Anh thu dọn xong sân trước nàng quay xuống bếp nấu cơm, và lo cho đàn lợn và bầy gà ăn sáng. Được cái dạo này lúa tháng mười sắp trổ bông nên công việc đồng áng thư thái đôi chút, chồng nàng và anh chồng không phải ra::145ơ7::62ng từ sớm.
Khi mặt trời lên được một lát Nguyệt anh mới kêu anh em họ Huỳnh dậy ăn lưng chén cơm lót lòng.
Nàng hỏi nhỏ chồng:
- Trưa và tối nay chàng muốn ăn cơm có những món gì?
- Bữa qua nghe nói anh chị Lương muốn ăn cá mà không mua được đó. Nàng liệu ra chợ coi có thì mua về.
- Chị Lương có ăn cơm chiều ở nhà không chàng?
- Không nghe nói. Sao nàng không hỏi thẳng chị ấy lúc nãy?
- Tiếp không kịp hỏi vì chị mắc nói chuyện với anh.
- Ta chắc chị ấy không ở bên ấy lâu đâu. Nàng cứ coi như chị có về ăn cơm chiều.
Vừa ngồi vào mâm cơm, Sĩ Lương bảo em:
- Bữa nay em đi thăm ruộng một mình nghe. Anh chạy loanh quanh một lát rồi còn phải về nhà, nhỡ bên nhạc gia có qua kêu về chuyện bà dì đau nặng không.
- Được, anh yên trí ở nhà, mình em cũng đủ rồi.
Cơm nước xong, Sĩ Mỹ đội nón ra đồng. Lát sau Nguyệt Anh lên xin phép anh chồng chạy ra chợ mua thức ăn về làm cơm trưa và chìeu.
Chặp sau, Nguyệt Anh trở về, tay xách con cá lóc lớn. Sĩ Lương dặn em dâu chàng lên xóm trên giúp ông tư hoạn heo, nếu bên nhà Lý thị sang kiếm thì lên đó mà kêu.
Sĩ Lương đi khỏi. Nguyệt Anh bắt đầu dọn trong nhà. Sau khi dọn buồng vợ chồng nàng Nguyệt anh qua bên phòng anh chồng rồi ra quét nhà khách.
Nàng hốt rác bỏ vào cái giỏ rác nhỏ đem ra đổ nơi gốc cây mãng cầu sau vườn. Nàng đập chổi và giỏ rác sạch sẽ và toan đem đựng góc bếp như thường lệ. Bỗng có tiếng trẻ sơ sanh ở nhà bên khóc vang lên. Nguyệt anh đứng sững lại vuốt bụng thở dài, miệng lẩm bẩm:
- Kiếp mình muộn mằn mãi chẳng có con. Nghĩ cũng tội nghiệp cho chị Sĩ Lương đang thai nghén lại được tin chẳng lành phải vất vả đi về. Chiều nay chị về tới, sáng mai lại đến phiên chị quét nhà. Hay là mình mang chổi và giỏ rác dựng nơi buồng chị ấy để mai chị khỏi mất công xuống bếp kiếm.
Nói đoạn, Nguyệt Anh đem chổi và giỏ rác đựng trong phòng vợ chồng Sĩ lương.
Nàng vừa quay thì chẳng biết bay từ đâulại, đến đâu ngay trên nóc nha2va2 buông mấy tiếng “quạ, quạ” lạnh lẽo và buồn thảm.
Nguyệt Anh bắt rùng mình. Nàng chạy vội ra sân, vớ hòn đất ném lên mái nhà miệng chửu rủa con quạ ầm ĩ: “Cút ngay! Cút ngay! Phỉ thui! Phỉ thui!”.
Con quạ bay vọt lên cao, lượn một vòng trên sân nhà, cố buông thêm một tiếng “quạ” dài lê thê rồi mới chịu bay đi mất dạng.
Nguyệt Anh mặt tái mét lẩm bẩm:
- Điều chẳng lành. Không biết có chuyện chi đây.
Trưa đó hai anh em họ Huỳnh về nhà ăn cơm. Họ vừa dùng bữa xong anh bẩy con người bác ruột của Sĩ Lương và Sĩ Mỹ tới.
Sĩ Lương chạy ra đón chào:
- Kìa, anh bẩy, anh sang kiếm bọn em có chuyện chi vậy?
- À, sáng mai bên tôi cất nóc nhà mới, bác biểu một anh sang giúp dùm. Không biết hai anh có bận chi không?
Sĩ Lương sốt sắng đáp:
- Dạo này cũng rảnh rang đôi chút. Vả lại bác đã kêu thì dù có bận mấy cũng phải đi gấp chớ, Mỹ à, em ở nhà để anh qua bên đó nghe. Anh bẩy, liệu mấy bữa rồi đặng tôi tính coi phải đem quần áo chi đó theo không?
- Chừng ba bữa mới rồi anh à.
Sĩ Mỹ chợt nhớ ra vụ dì Lý thị đau liền bảo Sĩ Lương:
- Anh đi sao tiện. Lỡ bên nhạc gia kêu về chuyện bà dì thì khó lòng quá. Thôi để em đi cho.
- Ờ nhỉ, chút xíu anh quên mất. Vậy em sửa soạn sang ngay kẻo bác ấy trông.
Sĩ Mỹ đi khỏi, Sĩ Lương cũng lấy nón sang nhà bác Tư ở xóm trên xem con lợn hoạn sáng nay có biến chứng gì không.
Tới xế chiều Lương trở về nhà, nhắc theo người bạn về nhậu chơi. Chờ anh chồng rửa chân tay xong, Nguyệt Anh mới hỏi:
- Thưa anh, chị có ăn cơm nhà không?
- Bây giờ sắp tối rồi mà chị chưa về, chắc là còn ở lại chơi bên đó.
- Thưa anh đã dùng cơm chưa để dọn?
- Ờ thì dọn lên ăn phức cho rồi.
Nguyệt Anh bưng cơm lên chờ anh chồng và khách ăn xong mới dọn xuống bếp ngồi ăn một mình. Nàng thu dọn xong xuôi thì trời nhá nhem tối. Trên nhà có tiếng Sĩ Lương kêu nàng đem chai dầu phộng lên châm đèn.
Nguyệt Anh chạy vội lên. Sĩ Lương đang đứng chờ bên án thư, ông khách đã về rồi.
Vì cạn dầu nên ngọn đèn thoi thóp như muốn tắt.
Nguyệt Anh đặt chai dầu lên án thư gần chỗ anh chồng thì bên ngoài có tiếng chó sủa. Nguyệt Anh chạy ra thì vừa lúc ấy Lý thị ở ngoài bước vô nhà.
Nguyệt Anh reo lên:
- Kìa chị đã về.
Rồi nàng chạy toan đỡ dùm bọc đồ cho chị dâu thì Lý thị đã lạnh lùng gạt tay nàng ra.
Sĩ Lương đang mải châm dầu vào dĩa cất tiếng hỏi mà không ngẩng đầu lên:
- Tưởng mai nàng mới về chớ. Dì có sao không?
Có lẽ vì tính đa nghi lại hay ghen nên Lý thị đáp giọng bực tức:
- Dì không sao. Bộ mong tôi không về sao?
Sĩ Lương ngạc nhiên về câu trả lời của vợ nhưng chàng cho là vợ bị mệt mỏi nên không chấp. Chàng vui vẻ hỏi vợ:
- Thế đã cơm chưa?
Lý thị đáp một tiếng “chưa”cộc lốc rồi đi thẳng vào phòng.
Nguyệt Anh nghe vậy liềnpho1ng xuống bếp dọn cơm bưng lên.
Sĩ Lương cũng đốt thêm hai dãi đèn dâu. Căn nhàn sáng choang. Lý thị vô đến phòng thấy cây chổi và giỏ rác để ở góc nhà. Thị nhìn xuống chổi chán rồi lại nhìn lên giường ngủ của hai vợ chồng.
Lý thị vất mạnh chiếc nón xuống đất, nhíu đôi lông mày, lẩm bẩm:
- Hôm nay đến lượt nó quét nhà…lạ thiệt tạo sao nó không dựng chổi và giỏ rác dưới bếp như mọi lần, khi quét xong? Chắc là nó đang quét nhà thì chồng mình gọi vô phòng này để gian dâm. Chừng sau đó ả quên đem đồ này về chớ gì.


__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #48  
Old 06-14-2005, 02:35 PM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Tay vân vê cán chổi, lòng bừng bừng lửa ghen, Lý thị rít giọng nói một mình:
- Hừ quân này gớm thiệt. Rồi sẽ biết tay ta.
Thị vừa nói tới đây thì có tiếng guốc đàn bà đi tới cửa phòng rồi tiếng Nguyệt Anh vang lên.
- Mời chị ra dùng cơm. Em đã dọn lên rồi đó.
Lý thị gắt:
- Cứ để đấy. Làm gì mà hối dữ vậy.
Nguyệt Anh tiu nghỉu lủi xuống bếp tiếp tục nốt công việc.
Lát sau vợ Sĩ Lương lầm lì ra ngồi vào mâm xới cơm ăn. Sĩ Lương toan gợi chuyện nhưng thấy nét mặt vợ khó đăm đăm nên lại thôi. Một chú mối trách tặc lưỡi một hồi như than phiền bầu không khí nặng nề khó thở. Sĩ Lương ngáp dài một cái rồi cất giọng nói bâng quơ:
- Chà bữa nay mệt quá ta.
Lý thị hằn học nhìn chồng, cố gằn cơn ghen…. Bỗng thị với lấy chai rượu đế rót đầy chén rồi nốc thẳng một hơi.
Sĩ Lương lẳng lặng nhìn vợ mà không nói chi cả. Thỉnh thoảng Lý thị cũng có uống rượu, nhưng chút đỉnh thôi. Hôm nay chàng không hiểu sao vợ uống hơi nhiều. Vì mệt, có lẽ. Chàng nghĩ vậy.
Lý thị uể oải đụng đũa vào đĩa cá ồi lại thôi. Thị chan canh cá dấm vào bát, nuốt vội lưng chén cơm rồi hầm hầm đứng dậy đi thẳng vô buồng.
Vừa đặt lưng xuống giường thị đã ngồi nhổm dậy như bị lửa đốt. Thị bực mình nhìn chiếc chiếu hoa trải giường….
Bên ngoài có tiếng bát đĩa lạch cạch. Nguyệt Anh đang thu dọn mâm cơm. Rồi thì yên lặng. Bỗng từ xa vẳng lại tiếng sáo nhà ai. Người nghệ sĩ vô danh nào đó đang đi bài lưu thuỷ, Sĩ Lương cất tiếng khàn khàn ca theo. Lý thị nhẩy phắt xuống đất, xỏ chân vào guốc, rồi đẩy cửa phòng ra khoang ngoài.
Thị đến bên chồng và nói:
- Đắc ý lắm nhỉ. Đi vô cho tôi hỏi một chút.
Sĩ Lương ngạc nhiên nhìn vợ. Chưa bao giờ chàng nghe vợ ăn nói như vậy. Hai người nhìn nhau trừng trừng. Lý thị quay phắt đi về phòng. Sĩ Lương nhìn dáng điệu nặng nề của người vợ đang mang thai rồi chàng nén giận, chậm chạp đứng dậy theo chân vợ.
Vừa bước vô tới phòng, Sĩ Lương đã bị vợ xẵng giọng hạch hỏi:
- Hôm nay ở nhà làm gì, phải khai cho thiệt.
Sĩ Lương tức mình đáp cụt ngủn:
- Chẳng làm gì hết!
- Hừ, hôm nay lấy em dâu rồi sao còn chối?
- Này đừng có nói bậy. Uống cho lắm rượu vào để rồi nói như mẹ điên ấy.
Lý thị mặt đỏ gay sấn sổ n1oi:
- Đứa nào điên? Có mi lấy em dâu mới là điên.
Sĩ Lương giận tím mặt, mắng rằng:
- Lục súc! Chứng cớ đâu mà ghen bậy đổ tội cho ta câm mồm ngay không ta đập cho mất mạng bây giờ.
Lý thị chồm lên la lớn:
- Đồ vô liêm sỉ! Đã loạn luân còn lớn miệng nói phách. Nếu không gì với nhau sao khi không dựng chổi và giỏ rác ở đây.
Nó đang quét nhà thì dắt nó vô làm chuyện đồi ại rồi quên luôn ở đây. Chứng cớ đấy chứ còn đâu.
Sĩ Lương quát:
- Người ta đem vô hồi nào, ta đâu có biết.
Vả lại ta đi vắng suốt ngày, mi nói bậy không sợ người ta chê cười à.
Nguyệt Anh ở nhà dưới nghe vậy chạy lên toan phân trần… Nàng chưa lên tới nhà trên thì đã nghe tiếng vợ chồng Sĩ Lương đánh nhau kịch liệt.
Nguyệt Anh lật đật chạy tới cửa phòng anh chồng. Vừa lúc ấy Sĩ Lương hét to một tiếng đẩy mạnh cô vợ té lăn cù ra đất rồi vớ ngay cái chổi đánh Lý thị một trận tơi bời.
Nguyệt Anh thất kinh ù té chạy về phòng đóng sầm cửa lại.
Sĩ Lương đánh vợ chán tayrồi mới quăng cây chổi xuống đất và bỏ ra ngồi phía sân trước.
Lý thị bị đòn, la khóc, chửi bới ầm ĩ. Chửi rủa chồng đã nư rồi, thị réo Nguyệt Anh lên mà nguyền rủa, sỉ nhục.
Đôi ba lần, vợ Sĩ Mỹ toan mở cửa đi ra kiếm cách phân trần nhưng nàng lại ngại chị dâu đang cơn ghen nói quàng xiên thì càng xấu hổ thêm.
Nàng đành bưng mặt khóc ròng.
Bên ngoài, Lý thị vẫn cứ xa xả gọi tên nàng lên mà thoá mạ.
Quá uất ức Nguyệt Anh liền lấy dây lưng bằng vải treo cổ lên xà nhà mà tự vẫn chết.
Qua sáng hôm sau, Lý thị hả hơi men, trở lại lo công việc như thường lệ. Có lẽ thị cũng nhận thấy tối qua thị qu1a lăng loàn, cho nên thị cũng hơi ngượng ngùng.
Thị có ý trông Nguyệt Anh mà không thấy. Lúc nấu cơm xong. Lý thị mới lên nhà kiếm em dâu. Vừa đẩy cửa vô phòng Nguyệt Anh, thị đã la thất thanh gọi chồng.
Sĩ Lương lật đật chạy vào biểu vợ giúp một tay hạ xác em dâu xuống.
Lý thị hấp tấp hỏi chồng:
- Còn sống không?
Sĩ Lương lắc đầu.
Nguyệt Anh mắt mở trừng trừng mặt sưng tím lưỡi lè ra ngoài, Lý thị sợ run người.
Chừng lúc chồng bồng Nguyệt Anh đặt lên giường, Lý thị ại thấy cơn ghen sôi sục. Hị ghen cả với người đã chết. Sự tự vẫn của em dâu càng khiến Lý thị nghi ngờ:
- Nếu chẳng gian dâm với chồng ta, cớ sao nó lại tự tử? Chắc là đúng rồi, nên nó quá xấu hổ mà liều thân.
Lý thị lẩm bẩm đi theo chồng ra ngoài. Sĩ Lương thẫn thờ ngồi xuống ghế rít một hơi thuốc lào.
Rồi chàng thay áo đội nón đi kiếm bác tư ở xóm trên, nhờ qua kêu Sĩ Mỹ về gấp tiện đường chàng ghé mấy nhà lân bang mời sang giúp việc ma chay, nhân thể coi xem họ có hay biết gì về chuyện Lý thị ghen nhau với Nguyệt Anh không.
Ai cũng ngạc nhiên hỏi:
- Vợ Sĩ Mỹ bịnh hồi nào mà qua đời mau vậy? Bữa qua còn thấy đi chợ mà!
Sĩ Lương mắt đỏ hoe, giọng buồn rầu đáp:
Vợ Sĩ Mỹ thắt cổ tự tử hồi đêm, sáng nay vợ chồng tôi mới biết thì quá muộn rồi.
- Trời, tội nghiệp. Vì sao nàng lại làm vậy. Bên nhà yên ấm có chuyện gì đâu.
Sĩ Lương ngập ngừng nói:
- Tôi… tôi cũng không biết nữa. Nói rồi chàng tất tả về nhà. Vừa thấy mặt chồng, Lý thị lo lắng hỏi:
Có ai biết chuyện cãi lộn nhà mình đâm qua không?
- Dường như không.
- Thiệt không?
- Có thể lắm. Vì nhà ở gần sông, lại cách xa nhà khác.
- Vậy thì may rồi.
- Chưa chắc. Thế nào Sĩ Mỹ cũng hỏi về lý do tại sao Nguyệt Anh tự tử. Biết trảû lời ra sao.
- Nếu không ai hay chuyện cãi lộn hồi hôm thì cứ trả lời không rõ lý do vợ y tự vẫn chớ còn gì nữa.
Lý thị vừa nói đến đây thì nghe lối xóm rủ nhau kéo đến hỏi thăm đầy nhà.
Người ta tỏ vẻ tiếc thương người quá cố, rồi mỗi người đưa ra một giả thuyết về cái chết của Nguyệt Anh nhưng tuyệt nhiên không ai hay biết gì về chuyện Lý thị ghen tuông cả.
Rút cuộc ai cũng trông Sĩ Mỹ về.
Tới gần trưa, Sĩ Mỹ về tới.
Chàng chạy bổ về phòng lật mảnh giấy che mặt vợ ra rồi đứng lặng hồi lâu, sự đau khổ hiện lên nét mặt.
Một dòng máu ứ từ miệng Nguyệt Anh ra, từ từ chảy xuống cổ. Sĩ Mỹ cố vuốt mắt cho vợ nhưng cặp mắt thất thần vẫn hé mở…
Ông chú Sĩ Mỹ (mà mọi người thường kêu là cụ Bá) khẽ kéo tay chàng rồi nói:
- Thôi anh ạ, chị ấy đã chết rồi không làm sống lại được. Anh nên ra ngoài nầy kẻo tử khí nặng nề.
Sĩ Mỹ theo chú đi ra. Chàng thẫn thờ ngồi xuống ghế đối diện với anh. Lý thị vi chạy lại đứng sau lưng chồng. Sĩ Mỹ buồn rầu hỏi anh:
- Vì đâu mà nhà em ra nông nỗi này?
- Anh không biết vì sao thím ấy lại liều thân như vậy. Sáng nay dậy mới hay là thím tự tử từ đêm.
- Ở nhà có chuyện chi không anh?
- Chẳng có chuyện chi.
Một người bà con đứng bên hỏi Sĩ Mỹ:
- Anh có làm điều chi cho chị ấy uất ức không?
- Không. Tới trưa hôm qua, lúc tôi theo anh bảy qua bên giúp bác cất nhà, tôi thấy nhà tôi vẫn vui vẻ lắm. Nếu có điều chi… chắc là ở nhà.
Lý thị vội cãi:
- Aáy chú chớ nói vậu mà để tiếng cho vợ chồng tôi. Tôi đi vắng từ sáng đến tối mới về, còn nhà tôi thì đối xử với chú thím như bát nước đầy, ai cũng biết đấy.
Nói rồi Lý thị bưng mặt khóc hu hu, miệng kể lễ:
- Ơùi thím Mỹ ơi, thím chết đã đành an phận thím nhưng để khổ cho vợ chồng tôi. Bây giờ tới lượt chú ấy dổ vạ cho chúng tôi. Thí ra người ta trả ơn chồng tôi là thế đấy…ới thím Mỹ ơi!…


Mấy bà mấy cô ngồi quanh cũng cất tiếng khóc theo. Cụ Bá đứng phắt dậy trỏ Lý thị mà la rằng:
- Chị này hay nhỉ. Đã phát tan đâu mà khóc lóc lôi thôi. Và các bà này nữa, im cả.
Mọi người nín bặt, chỉ con vài tiếng sụt sịt nhỏ rồi tắt hẳn.
Cụ Bá dõng dạc nói:
- thôi anh Lương đứng lên đi lo công việc đi, còn anh Mỹ liệu làm đơn trình quan mà xin phép chôn cất chứ để đấy à.
Sĩ Mỹ cũng như anh trước có theo học trường làng nên cũng biết đôi chút chữ nghĩa liền làm đơn kể rõ Nguyệt Anh tự tử chết nhưng không biết vì lý do gì.
Huyện quan tiếp đơn xem xong liền cho đòi vợ chồng sĩ Lương đến hầu.
Ông hỏi Sĩ Lương:
- Bữa qua Sĩ Mỹ đi vắng, chỉ có hai vợ chồng ngươi ở nhà vậy chớ ngươi có biết vì sao Nguyệt Anh tự tử không?
- Dạ… thưa không rõ.
- Hừ, vô lý. Thói thường người ta tự tử là vì có điều chi uất ức không minh oan, giãi bày ra được, hai là vì quá xấu hổ, ba là vì bịnh hoạn thất vọng chán đơi và…
Nghe huyện quan nói vậy Sĩ Lương chột dạ lo lắng, đưa mắt nhìn Lý thị. Huyện quan tinh mắt nhận thấy liền quát to:
- Sĩ Lương, có thế nào phải khai cho thiệt, chớ giấu quanh mà mang lụy. Vì cớ gì Nguyệt Anh tự vẫn?
Sĩ Lương lúng túng đáp liều:
- Dạ, thưa…Nguyệt Anh mắc đau bụng không thuốc chữa, đau quá thì tự tử.
Huyện quan chưa kịp nói chi thì Sĩ Mỹ đã nói:
- Thưa quan, tôi không tin. Không thuốc thì kêu người đi kiếm, việc chi phải tự tử.
Lý thị chen vô:
- Chú vắng nhà, thím mắc cỡ không kêu ai. Chừng đến lúc vợ chồng tôi hay thì thím giận hờn cho chúng tôi không thương thím nên tự vẫn. Tánh thím nóng như lửa ấy.
Sĩ Mỹ không chịu cãi:
- Điều chị nói khó tin quá. Trước hết là vợ tôi tánh tình thuần huận, không nóng nẩy như chị nói không biết vợ tôi tự tử vì lý do gì.
Hướng về phía huyện quan, Sĩ Mỹ nói:
- Thưa quan, trong vụ này có uẩn khúc chi đây. Xin quan minh xét để vợ tôi được ngậm cười nơi chín suối.
Huyện quan gật đầu phán:
- Ta nghĩ cũng như vậy. Lính đâu, lôi hai vợ chồng tê này ra tra tấn cho ta.
Bọn lính “dạ” ran xúm lại lấy roi đánh hai vợ chồng Sĩ Lương túi bụi.
Lý thị chịu đòn không thấu vừa khóc vừa la lên:
- Xin ngừng tay, tôi xin khai thiệt.
Huyện quan truyền lính rãn ra. Lý thị mếu máo thuật lại câu chuyện ghen trong đêm qua rồi kết luận:
- Vì thấy nhà quét sạch sẽ và chổi cùng giỏ rác trống dựng trong buồng nên tôi nghi hai người có bậy bạ với nhau, trong lúc tôi và Sĩ Mỹ vắng nhà. Dọ đó tôi có gây lộn với chồng tôi rồi chồng tôi đánh đập tôi. Tôi tức giận có réo Nguyệt Anh lên mà thoá mạ còn sự y tự tử thì quả tình tôi không hiểu vì sao cả! Chắc là hai người có thông dâm nên thị xấu hổ mà liều thân.
Huyện quan vỗ án la:
- Sĩ Lương, mi có nghe rõ lới khai của vợ mi đó không?
- Dạ…thưa có.

__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #49  
Old 06-14-2005, 02:36 PM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

- Mi có nhận đã thông dâm với em dâu không?
- Dạ…. Thưa không…
- Thế ai để chổi vàgiỏ rác trong phòng vợ chồng mi?
- Có lẽ, là Nguyệt Anh, vì bữa đó tới phiên thị quét nhà.
- Tại sao thị không cất dưới bếp như mọi lần lại đem để trong phòng mi.
- Dạ… thưa cái đó thì tôi không hiểu nổi.
- Thôi mi đừng chối nữa vô ích, chỉ có mi và Nguyệt Anh ở nhà. Chắc là nó đang quét nhà thì mi gọi vô làm chuyện đồi bại. Nó tiện tay mang luôn cả chổi và giỏ rác vô,chừng sau bỏ quên lại và Lý thị bắt được bằng chứng này mới nổi cơn ghen. Phải không?
- Dạ… thưa oan cho tôi. Bữa đó tôi vắng nhà gần hết ngày. Vả lại nếu Nguyệt Anh bị tôi kêu lúc đang quét nhà, tất nhiên nhà và giỏ rác đâu có sạch được như thế .Hơn nữa khi vợ và em tôi đi khỏi, thì Nguyệt Anh đi chợ luôn. Kịp tới khi em dâu về tôi lại đi lên nhà bác tư xóm trên ngay để hoạn heo…
Huyện quan bựa mình ngắt lời Sĩ Lương.
- Tên này gớm thiệt. Dám cãi lý với ta. Dù em dâu mi chưa quét nhà xong hay đang quét nhà hoặc quét nhà đã xong thì mi kêu vô phòng, điều đó không quan hệ. Điểm đáng nói là cớ sao có chôi và giỏ rác để trong phòng mi.
Ngưng một lát. Huyện quan nói tiếp:
- Đích thị là y có thông dâm với Nguyệt Anh nên y thị sợ bị bại lộ mới tự tử. Mi sẽ bị chém đầu về tội lấu em dâu. Lính đâu, đem tên này hạ ngục cho ta, chờ ngày đền tội hạ ngục cho ta, chờ ngày đền tội còn Sĩ Mỹ và Lý thị được thong thả ra lo về việc ma chay cho Nguyệt Anh.
Hai người vái tạ huyện quan rồi lui khỏi công đường.
Sau đó huyện quan đệ đơn lên Thượng Ty xin cho trảm quyết Sĩ Lương để làm gương cho kẻ khác.
Ngày tháng lặng lẽ qua. Sĩ Lương bị giam chờ lệnh Thượng Ty, đã được hơn một năm, xảy bữa đó Bao Công đi tuần án các nơi, ghé tới huyện hà Chiêu.
Theo thường lệ, sau khi hỏi huyện quan về dân tình sở tại Bao Công truyền đem hồ sơ các vụ án còn lòng vòng ra coi lại.
Tới vụ Nguyệt Anh, bao Công đọc xong biên bản, liền cho mời quan huyện vô phòng nói chuyện.
Bao Công chậm rãi hỏi:
- Theo quan thì tại sao Nguyệt Anh tự tử.
- Thưa thượng quan, y thị thông dâm với anh chồng nay bại lộ, quá xấu hổ nên tự tử?
- Căn cứ vào đâu mà quan quả quyết như vậy?
- Dạ, bằng chứng hiển nhiên là chổi và giỏ rác để trong phòng Sĩ Lương.
- Có bao giờ quan nghĩ rằng Nguyệt Anh có thể vì bị hiểu lầm nên uất ức mà tự tử không?
- Dạ, thưa không.Thượng quan cho là y thị tình ngay lý gian?
Ta mới đặt một giả thiết, chớ chưa quả quyết là như vậy. À biên bản có ghi quan cho rằng việc Sĩ Lương kêu Nguyệt Anh vô buồng trước, đang hay sau khi quét nhà không quan hệ, phải không?
- Dạ phải, thưa tượng quan có chi sai lầm?
- Chính đấy là điểm quan trọng. Mặt khác, quan có cho điều tra về Sĩ Lương khai lên xóm trên hoạn heo nhà ông Tư không?
- Thưa không!
- Chà, sao sơ suất quá vậy. Bây giờ ông cho đòi tên tư đến hỏi cho rõ. À luông tiện ông cũng hỏi Sĩ Mỹ và Lý thị về giờ giấc đi về của họ bữa đó ra sao rồi trình gấp cho tôi nghe.


Huyện quan tuân lệnh lui ra. Hồi lâu sau ông đem nạp Bao Công tờ trình đầy đủ về các điểm trên đây.
Bao Công coi qua rồi bảo:
- Bây giờ đã xế chiều rồi, mai sáng quan cho đòi nội bọn lên ta xét hỏi lại một lượt.
Qua sáng sau, Bao Công đăng đường cho kêu lần lượt: Bác Tư, Sĩ Mỹ, Lý thị vô hỏi về giờ giấc đi về và công việc làm cua họ trong ngày đó. Đoạn ông dạy họ ra chờ ngoài sân rồi cho áp giải Sĩ Lương lên.
Ông nhìn Sĩ Lương hồi lâu mới cất tiếng hỏi rằng:
- Ngươi sẽ bị chém đầu về tội thông gian với em dâu. Vậy ngươi nghĩ sao?
- Thưa thượng quan, chét thì ai cũng có ngày phải chết, bằng cách này hay cách khác. Nhưng tôi không khỏi đau lòng vì bị chết một cách oan uổng, chết mà bị ô danh, chết nhục nhã.
Ngạc nhiên vì câu trả lời của anh nông dân nên Bao Công tò mò hỏi:
- Trước kia ngươi có học hành gì không?
- Dạ thưa hồi nhỏ tôi có được cha mẹ cho đi học ít lâu.
Bao Công liền hỏi thăm gia cảnh Sĩ Lương và giờ giấc đi về của chàng cùng các sự việc xảy ra trước và sau khi Nguyệt Anh tự tử.
Sĩ Lương thiệt tình khai hết.
Nghe xong, Bao Công trỏ đống hồ sơ nói:
- Về vụ Nguyệt Anh này, Lý thị khai rõ tội loạn luân của ngươi, còn kêu oan cho đặng?
Sĩ Lương bình tĩnh đáp:
- Thưa, quả tình là oan. Tôi vô phước lấy phải người vợ hay ghen bậy. Vì nó mà tôi nhơ danh, Nguyệt Anh nhơ tiết và em ruột tôi ngờ vực tôi. Ba điều oan tầy trời như vậy, sao thượng quan bảo tôi không oan cho đành.
- Để ta coi lại xem sao.
Nói đoạn Bao Công truyền lính gọi Lý thị vô và hỏi:
- Thị khai chồng thị gian dâm với em dâu và trưng bằng cớ là cây chổi và giỏ rác đựng trong phòng phải không?
- Dạ phải.
- Lúc ngươi về nhà đã được quét dọn sạch sẽ chưa?
- Dạ thưa trong ngoài đều sạch sẽ.
- Thế giỏ rác và cây chổi ra sao?
- Dạ dựng trong phòng vợ chồng tôi.
- Biết rồi, ý ta muốn hỏi chổi có sạch và giỏ có còn rác không?
- Thưa chổi và giỏ đều sạch. Rác đã đổ hết rồi.
- Chắc đúng như vậy không?
- Dạ đúng vì tôi rất chú ý đến hai vật đó lúc vô phòng. Hơn nữa chính chồng tôi trong lúc xô xác với tôi, đã đá trúng giỏ rác và cầm chổi đánh tôi túi bụi.
- Ý thị muốn nói là hai vật đó đã được Nguyệt anh đập sạch sẽ trước khi dựng vô phòng nếu không thì lúc chồng thị đá giỏ, tất rác đã vung cùng nhàvà lúc chồng chị quơ chổi đánh thị thì thị đã bị dơ bẩn nếu chổi không sạch. Phải vậy không?
- Dạ phải.
- Bao Công quát lớn:
- Nếu như vậy thì mi đáng tội chết rồi.
Lý thị xanh mặt, run rẩy thưa:
- hưa thượng quan, tôi nào có tội chi. Nguyệt Anh tự tử là tại ý thị chớ đâu phải tại tôi.
- Mi hãy vểnh tai mà nghe cho rõ đây. Giỏ rác đã đổ, nhà đã quét sạch sẽ thế thì rõ ràng Nguyệt Anh đem chổi và giỏ rác qua dựng bên phòng mi để mi khỏi mất công đi kiếm. Nó thương mi mà làm vậy chớ đâu phải tại nó gian dâm với chồng mi rồi bỏ quên ở đó.
Bao Công ngưng một chút rồi cao giọng phán tiếp rằng:
- Nếu chồn mi kéo Nguyệt Anh vô phòng khi nó lên thu dọn thì nhà chưa thể quét sạch được. Trái lại nếu nó quét sạch rồi chồng mi mới kéo vô phòng thì giỏ rác tất chưa kịp đổ. Còn nếu nó quét sạch rồi và cũng đổ rác rến xon xuôi thì chồng mi mới kêu nó lên và kéo nó vô phòng thì chẳng lẽ nó đem theo cả chổi lẫn giỏ rác ngờ ngờ làm chi? Nay giỏ chổi để vô buồng một chỗ, sau khiquét tước xong, thiệt đã quá rõ ràng là Nguyệt Anh có ý để sẵn cho mi khỏi phải tìm kiếm, đâu phải vì gian dâm.
Vả lại, xét theo giờ giấc đi về của mọi người, ta thấy từ sau lúc mi ra đi, tới lúc mi quay về nhà, Sĩ Lương cũng không có ở nhà, thì làm sao thông dâm với em dâu cho đặng.
Còn về việc Nguyệt Anh tự tử, ta chắc là y uất ức vì tình ngay mà lý gian, cãi chẳng lại nên liều mình để trỏ tiết trinh. Chắc chắn không phải là thông dâm với anh chồng rồi sợ bại lo mà tự vẫn.
Rồi Bao Công trỏ mặt Lý thị mà mắng rằng:
- Cũng tại mi ghen bậy lại vu vạ cho Nguyệt Anh đến nỗi người ta uất ức mà ự tử. Rồi cũng vì mi mà Sĩ Mỹ nghi nờ vợ, em nghi anh, chồn mi lâm vào còng lao lý chút xíu bay đầu về một tội do mi tưởng tượng. Ta xét mi đáng tội tử hình.
Lý thị nghe vậy thất kinh sụp xuống lạy Bao Công rồi vừa khóc vừa thưa rằng:
- Xin thượng quan tha cho tội chết. Tôi đàn bà ngu dại, nông nổi nên ghen bậy thành ra mang tội.
Sĩ Lương cũng cất tiếng xin dùm vợ:
- Thưa thượng quan, tôi tự xét cũng có lỗi phần nào trong vụ này vì thực ra tôi không biết răn dạy vợ và kém sự giải thích phân minh. Xin đại quan ngó lại, vì đứa con thơ của tôi mà tha tội chết cho mẹ nó.
Sĩ Lương vừa dứt lời thì Sĩ Mỹ cũng chắp tay xá dài Bao Công và thưa rằng:
- Thưa thượng quan, nhờ ơn trời xoi xét, vợ tôi đã được giải oan. Tài xử án của đại quan đã phục hồi danh dự cho vợ tôi, cho anh tôi và cả tôi nữa. Lý thị đáng tội thật nhưng xét vì y thị nông nổi và vì hoàn cảnh gia đình nên cúi xin đại quan dung tha cho y thị.
Bao Công suy nghĩ một lát rồi phán rằng:
- Lẽ raLý thị phải bị chém đầu về tội vu cáo đến nỗi người ta phải chết. Nay xét vì y thị còn trẻ lại nông nổi quá ghen vả lại đã có lời nài xin của chồng và em chồng nên ta cũng khoan dung phạt tù y thị mà thôi.
Phán rồi Bao Công truyền hạ ngục Lý thị và trả tự do cho Sĩ Lương.



LỜI BÀN
Huyện quan khi thẩm vấn nôi vụ đã nói ngay rằng:
- Thói thường người ta tự tử một là có điều chi uất ức không minh oan phơi bày ra được, hay là vì quá xấu hổ, ba là bị binh hoạn thất vọng chán đời.
Trong ba nguyên nhân đưa đến việc tự tử của người ta, thì nguyên nhân thứ ba phải loại bỏ trong nội vụ bởi lẽ Nguyệt nh chẳng phải là kẻ chán đời bệnh hoạn và thất vọng, trái lại là một thiếu phụ lạc quan yêu đời, còn lại hai nguyên nhân, hyện quan không do dự để phỏng đoán rằng Nguyệt Anh đã tự tử vì nguyên nhân thứ hai: quá xấu hổ vì thông gian với anh chồng. Tội loạn luân ngay trong pháp chế kim thời khi luật pháp và luân lý chỉ là một. Vì thế huyện quan khi hướng cuộc điều tra về tội thông gian, ra lệnh hạ ngục Sĩ Lương và báo trước cho nghi phạm biết: “mi sẽ bị chém đầu về tội lấy em dâu” cũng không có chi đáng ngạc nhiên.
Nhưng ông thẩm phán thượng thẩm Bao Công không suy luận như ông thẩm phán sơ thẩm huyện quan. Bao Công cho rằng Nguyệt Anh tự tử do nguyên nhân thứ nhất: có điều chi uất ức không minh oan giải bày ra được. Thế nên cuộc điều tra thượng thẩm lại hướng vào việc tìm lý do của sự uất ức khiến nạn nhân phải kết lieui cuộc đời, hay nói khác đi hướng về tội búc tử, để tìm thủ phạm này, Bao Công đã có định ý ông phán:
Còn về Nguyệt Anh tự tử ta chắc Y thị uất ức vì tình ngay mà lý gian cãi không lại nên liều mình để tỏ triết trinh chớ không phải vì thông dâm với anh chồng rồi sợ bại lộ mà tự vẫn”
Nghĩ như thế rồi, Bao Công phải thử lại bài toán bằng một chứng minh cụ thể để loại trừ một cách chắc chắn giả thuyết thông dâm. Và tới đây Bao Công mới dựa vào những chi tiết về cái chổi và giỏ rác để suy luận một cách thần tình. Cách suy luận của Bao Công khiến ta liên tưởng tới cách suy luận độc đáo của Sherlock Holmès một nhân sự nổi tiếng trong các tiểu thuyết trinh thám Anh Cát Lợi (cho nên hậu sinh chưa hẳn đã là hơn được cổ nhân) Do sự suy luận, giả thuyết thông dâm bị gat bỏ vĩnh viễn. Vậy thì, Bao Công chỉ việc trỏ mặt Lý thị mà mắng rằng:
“Cũng tại vì mi ghen bậy, lại vu vạ cho Nguyệt Anh đến đỗi người ta uất ức mà tự tử” Thế mà cái ghen bậy này, cái sự vu vạ này cộng thêm với sự tự vẫn của nạn nhân hội đầy đủ điều kiện của tội bức tử (nếu Nguyệt Anh chỉ vì xấu hổ, hối hận mà tự tử thì Lý thị chẳng có tội này. Và kẻ ra khám (Sĩ Lương) người vào khám (Lý thị) cũng là nhờ biệt tài suy luận của ông thẩm phán. Sự thẩm án của Bao Công còn đáng khen ở chỗ khỏi dùng đến cực hình tra tấn như huyện quan mà sự thật vẫn được phơi bày, một lần nữa lại thấy: Bạo tàn chưa phải là thượng sách.
__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #50  
Old 06-14-2005, 02:37 PM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Hồi 21

GIANG NGẠN HẮC LONG


Đất Tây Hộ bên Tàu, có người Trìng Vĩnh ỷ cha mẹ có chút của cải, nên tuy hắn còn trẻ mà đã ham cờ bạc rượu chè, ưa rong chơi hơn là làm việc.
Cha mẹ răn dạy nhiều lần mà chẳng được, hắn vẫn chứng nào tật ấy. Tới khi song thân lần lượt cưỡi hạc quy tiên, hắn hết chỗ nương tựa, mới cuống cuồng lo lập thân.
Tính tới tính lui, hắn không biết làm gì để sống bây giờ. Muốn làm thầy thì chữ không đủ. Tính xoay làm thợ thì chẳng cò chuyên môn. Cũng muốn đi buôn nhưng buôn nhỏ thì hắn chê là vất vả ít lời, mà buôn lớn thì không đủ vốn. Thật là nan giải. Hắn bèn đến vấn kế mấy tên sâu rượu và đệ tử của thần đổ bác. Trong bọn có một tên râu rậm cười ngất rồi bảo Trình Vĩnh:
- Cái chuyện đó dễ ợt mà anh phải băn khoăn lo lắng, trông tức cười quá. Mất chầu rượu cho cả bọn thì ta mách nước cho. Chịu không?
Mấy tên khác khoái trí hoan nghênh ầm ĩ.
Trình Vĩng cũng sốt sắng đáp:
- Chịu chớ! Nói đi, nói đi!
Tên râu rậm chậm rãi hỏi Vĩnh:
- Hiện giờ anh có số vốn là bao nhiêu?
- Tôi thì chẳng có đồng nào. Còn về của cải cha mẹ để lại, thì tiền mặt không có, nhưng có ba đám ruộng và một căn nhà.
- Vậy cũng tạm đủ với cái nghề ta sẽ chỉ cho anh. Gần đây có một bến đò, khách qua lại đông lắm, thường không có chỗ trọ. Vậy anh hãy bán ruộng và nhà đi tới đó mà mở tiệm ngủ ắt phải sống được. Ta xem ra chỉ có nghề đó hợp với khả năng anh thôi.
Mọi người đều khen là phải. Thế là ít lâu sau, Trình Vĩnh bán hết ruộng nhà đem tiền lên mở nhà ngủ nơi bờ sông.
Vốn lười lại quen chạy dông nên hắn bực bội lắm vì cứ phải cầm chân ở nhà lo hết khách nọ đến khách kia. Cuối cùng, hắn mướn một người tài phú tên là Trương Vạn trông nom thế cho hắn, để được rảnh rang. Hắn bắt tài phú lập sổ sách phân minh ghi tên họ khách trọ cùng các khoản tiền thâu xuất của nhà ngủ, mà muốn khuếch trương tất nhiên cần có thêm vốn.
Để giải quyết vấn đề này, hắn ngấp nghé mấy cô gái nhà giàu tính lấy làm vợ, nhưng chẳng ai chịu cả. Đối với hắn lẽ sống chỉ thu gọn vào có một chữ: “tiền”, phải, tiền thật nhiều, bất cứ bằng cách nào cũng được.
Một khi đã có định kiến như vậy, dĩ nhiên là hắn rình cơ hội để thực hiện ý muốn.
Và cơ hội ấy đã đến cho hắn.
Chiều hôm đó Vĩnh trở về tiệm ngủ sau khi rượu đã xoàng xoàng. Lúc đi ngang qua dãy phòng trọ, hắn bỗng đứng phắt lại, miệng lẩm bẩm:
- Hình như mìng vừa nghe thấy tiếng khua bạc lanh canh ở đâu đây.
Hắn lắng tai nghe một lát rồi nhẹ nhàng tiến đến căn phòng cuối, ghé mắt vào khe mắt dòm vô.
Trên chiếc giường gỗ kê ở góc nphòng, một ông thầy chùa, quần áo nâu sồng, đang kiểm lại một túi bạc đầy.
Trình Vĩng lẩm bẩm: “chà lắm bạc quá. Phen này ta giàu to rồi”. Đoạn hắn lùi lại rồi bước mạnh tới, đẩy cửa vô phòng nhà sư và lớn tiếng nói:
- Nhà chùa đem bạc đi đâu mà lắm thế. Thầy tên chi, ở đâu tới vậy?
- A di đà Phật, tôi là Tiểu Giang Long vâng lệnh sư thầy của tôi đem một trăm lượng bạc của thập phương cúng giàng về xây chùa mới.
- Sao thầy không đi thẳng lại ghé đây làm chi?
- Gần tết nên đò không chịu đi xa thành ra phải đi từng chặng ngắn, biết sao bây giờ. Mai tôi lại ra đón đò khác đi tiếp.
- Thầy đi như vầy… một mình hay là còn ai nữa?
- Không, tôi đi có một mình thôi. Sư thầy tôi đã về trước rồi.
Trình Vĩnh mắt long lanh nhìn túi bạc, miệng giả bộ nói với nhà chùa:
- Thầy nên coi chừng. May tôi là chủ trọ biết thầy lắm bạc thì không sao, chớ kẻ khác dòm thấy có thể động lòng tham tìm cách hại thầy để cướp đó. Vậy thầy nên đề phòng rủi ro, chớ để ai biết thầy có bạc nhé. Cửa phòng này không có chốt cài bên trong nhưng thầy cứ yên tâm vì khi đã biết thầy có bạc thì tôi có bổn phận trông nom cho thầy.
Sãi Giang Long nghe vậy vội vã thu hết bạc vào túi vải rồi giấu xuống gầm giường miệng không ngớt cám ơn Trình vĩnh.
Tên chủ trọ khoác tay đáp:
“Có chi mà ơn với huệ” rồi hắn mỉm cười lui ra.
Rời phòng Sài Giang Long, Trình Vĩnh đi ra phía trước tiệm ngủ kiếm tài phú Trương Vạn và hỏi rằng:
- Tối nay được mấy khách trọ?
- Chỉ có một mạng thôi là ông thầy chùa.
- Uûa có ba người đến bữa qua đi rồi sao?
- Đi từ sáng nay rồi.
- Thiệt sao.
Trương Vạn mở tủ lấy cuốn nhật ký lật trang ghi bữa nay và nói với chủ:
- Ông coi tôi có vô sổ đàng hoàng, đâu dám làm điều bậy bạ.
Trình Vĩnh mắt nhìn xuống sổ miệng đọc:
- Ngày hai sáu tháng mười hai, ba khác đến một đàn ông là Nguyễn Tạo, hai đàn bà là Vương thị và Phan thị. Ngày hai bảy tháng chạp sáng ba khách nữa qua đi, chiều một khách đến là Sãi Giang Long. Thâu vô tiền trọ… Trình Vĩnh đọc đến đây gập sổ vào và nói:
- Lời ghi rành mạch đầy đủ, sổ sách lại đóng tốt thế này, để cả mấy chục năm cũng chưa hư. Anh thiệt là cẩn thận và hơi kỹ quá đó. Thôi được lắm rồi.
Trương Vạn thấy chủ khen cười đáp:
- Đã không sổ sách thì thôi, chớ đã làm thì phải cho đàng hoàng chớ, chẳng những để ông coi mà còn khi quan quân hỏi đến biết đâu. Tôi chọn mua thứ sổ tốt để lưu giữ lâu được. Cứ mỗi năm lại làm một cuốn. Cuốn này là “đệ nhất niên”. Tết ra mở cuốn “đệ nhị niên” và cứ thế tiếp tục mãi.
- Bộ anh tính lưu nên vạn đại sổ này sao? Chỗ đâu mà để.
- Mỗi năm một cuốn nhật ký nhỏ này, cứ hết năm thì khoá sổ cất cô tủ, qua một năm mới lại mở cuốn khác, như thế thì ba chục năm cũng chỉ mới có ba mươi cuốn sổ nhỏ, một ngăn tủ dư sức chứa đựng.
- Coi bộ anh có óc tổ chức lắm. Ta rất mừng có được người giúp việc chăm chỉ tài ba như anh. Nếu thêm vốn khuếch trương chắc chắn ta sẽ ngày càng phát đạt.
- Tôi cũng mong như vậy.
- Thôi bây giờ anh thu dọn giấy tờ rồi ra phố mua rượu về nhậu tất niên chơi.
À mai anh cũng lo sang sửa trang hoàng lại nhà cửa để ăn tết. Cứ như thông lệ thì từ bữa hai ba tháng chạp trở đi cho tới ngoài khai hạ nhà trọ không có khách phải không?
- Thưa phải. Trừ khi có việc cấp bách còn thì ngày tết ai chẳng ở nhà du xuân!
Nói đoạn trương vạn tất tả đi ra phố. Lát sau y trở về thì thấy Trình Vĩnh đã châm đèn sáng choang, dọn sẵn bàn tiệc.
Trước khi ngồi vào mâm, Trình Vĩnh làm như chợt nhớ ra điều chi liền bảo tài phú:
- À này, anh vô hỏi Sãi Giang Long đã thụ trai chưa?
Thày ấy có cho biết là đã thụ trai trước khi tới nhà trọ vì biết thường thì chỉ tới nhà trọ mà không có lo cơm.
- Tuy thế anh ũng nên vô hỏi qua nhà chùa có cần chi khác không và luôn tiện đi đóng các cửa ngõ lại.
Lát sau, anh tài phú trở lại nói:
- Nhà chùa đáp không cần chi. Phần tôi đã đóng xong các cửa rồi.
Hai người nhập tiệc và trình vĩnh cố ý ép Trương Vạn uống hết chén này tới chén khác, trong khi hắn chỉ uống cầm chừng mà thôi.
Tới lúc mãn tiệc thì trương Vạn đã say khướt, đi không vững, Trình Vĩnh phải dìu vô giường. Vạn nằm ngủ mê man như người chết.
Sau đó, Trình Vĩnh cứ để bàn rượu y nguyên và lui về phòng riêng đóng cửa lại rồi lôi từ phía sau tủ ra một cây đoản đao, lưỡi bén vô cùng. Hắn vung tay chém thử mấy nhát vào không khí rôi đặt đoản đao xuống bàn, tắt đèn, leo lên giường nằm chờ canh khuya sẽ ra tay.
Canh một rồi canh hai lặng lẽ trôi qua, khi tiếng trống khô khan và cộc lốc từ xa vọng lại báo hiệu đã sang canh ba, Trình Vĩnh vùng dậy xách đoản đao, khẽ mở cửa buồng, lén đi về phía phòng Sãi Giang Long.
Hắn ghé mắt dòm qua khe cửa. Trên án thư, ngọn đèn dầu lạc còn leo lét cháy. Trên giường, Sãi Giang Long nằm quay mặt vào vách ngủ say, tiếng thở đều đều nổi lên.
Tên chủ trọ bất lương đẩy cửa nhẩy tới bên giường, miệng quát:
- Giang Long, đưa bạc đây không thì ta giết.
Sãi Giang Long giật mình choàng dậy, chưa kịp trở tay đã bị Trình Vĩnh vung đoản đao đâm chết liền.
Thi hành xong thủ đoạn dã man, tên chủ trọ lấy mền quấn chặt vết thương của nạn nhân cho máu khỏi chảy lan ra ngoài. Đoạn hắn ôm xác nhà chùa bỏ xuống nền đất, rồi kéo chiếc giường ra. Hắn nắm túi bạc xách lên đem về phòng bỏ vô rương khoá lại.
Sau đó hắn ra vườn lấy mai thuổng vào và ra công đào huyệt chôn ngay Sãi Giang Long ở dưới gầm giường. Đến lúc gà gáy lần đầu thì Trình Vĩnh cũng hoàn tất mọi việc. Hắn khêu đèn cho sáng thêm, kiểm soát lại một lượt. Hắn xoa tay tự bảo:
- Yên trí lớn. Khó mà tìm thấy vết tích gì.
Hắn ra ao sau nhà rửa sạch đoản đao cùng mặt mũi chân tay rồi lén trở về phòng nằm nghỉ. Hắn cố tình để cửa sau nhà hé mở.
Qua sáng sau, anh tài phú Trương Vạn tỉnh rượu trở dậy thấy cửa sau mở liền nhào vô phòng Sãi Giang Long thấy bỏ không thì hốt hoảng chạy tới đập cửa phòng gọi Trình Vĩnh , Vĩnh làm ra vẻ ngủ mệt, ú ớ một lát mới dậy mở cửa. Hắn giả bộ gắt tài phú:
- Anh thử coi kỹ trong phòng này xem có gì khác lạ không?
Trương Vạn lật chiếu, mở tủ dòm gầm giường, nhìn khắp mọi nơi nhưng không thấy gì “khác lạ” cả.
Vĩnh mừng lắm liền lôi Vạn ra vườn xem xét, cũng không có chi khác lạ cả. Lúc bấy giờ hắn mới bảo viên thuộc hạ:
- Ta chắc là Sãi Giang Long không có tiền trả trọ nên lẻn đi từ sớm. Thôi lần đầu ta tha cho ngươi, tự hậu phải cẩn thận nghe.
Trương Vạn cám ơn chủ rối rít.
Trình Vĩnh chờ ít ngày không nghe ai nói đến sãi Giang Long cả, mới tính kế sử dụng số bạc cướp được.
Vốn là đứa khôn ngoan, mưu mẹo, Vĩnh giả bộ đi làm ăn xa, trong một năm.
Trước khi lên đường vào đầu tháng giêng, Vĩnh trao cho tài phú lối năm lượng bạc nói là vay được.
Tới khi trở về chốn cũ, để che mắt thiên hạ, hắn kheo trúng nhiều mánh lớn trong lúc buôn ba nơi khác. Rồi hắn mới xuất chỗ bạc lấy của Sãi Giang Long mua thêm đất, khuếch trương tiệm ngủ, tậu ruộng cho cấy rẽ và buôn bán thêm. Chẳng bao lâu hắn trở nên một tay cự phú trong vùng.
Tài phú trương làm không xuể việc, phải mướn thêm người phụ giúp.
Ai cũng khen Trình Vĩnh và không mảy may nghi ngờ gì về hành động bất lương của hắn năm xưa. Những người thiệt thà còn lấy Trình Vĩnh ra làm gương răn dạy con cái. Nhiều nhà khá giả gọi gả con cho hắn.
Thế là chưa đầy hai năm sau ngày Sãi Giang Long bị giết, Trình Vĩngh nghiễm nhiên trở thành phú ông và cưới con gái Hứa nhị là Hứa thị về làm vợ. Năm sau, Hứa thị sẽ lâm bồn vào hạ tuền tháng chạp tứ là từ ngày hai mươi trở đi. Vĩnh nghe nói mừng lắm bảo vợ:
- Nếu vậy thì hay lắm. Thường lệ nhà trọ đã bớt khách từ sau ngày hai ba tháng chạp, khi ông táo lên chầu trời. Ta sẽ có thì giờ rảnh rang đôi chút, lo cho mẹ con nàng.
Thấm thoát đã gần tới ngày Hứa thị khai hoa mãn nguyệt, Trình Vĩnh sai người thu dọn một phòng riêng cho vợ, tại trái Đông, mới cất sau nhà trọ, cách một cái sân rộng.
Ngày hai mươi tháng chạp mọi sự được chuẩn bị xong xuôi, chờ đón đứa con đầu lòng của phú gia Trình Vĩnh. Một ngày rồi hai, ba ngày kế tiếp trôi qua, tới sáng hai bảy tết cũng không thấy Hứa thị có triệu chứng sắp lâm bồn.
Cô mụ cho là tính lộn ngày, có lẽ phải chờ ra giêng. Thế là tới trưa hai bảy tết, lệnh “báo động” được bãi bỏ. Cô mụ ra về. Tối lại, Trình Vĩnh và tài phú Trương Vạn bỏ đi dự tiệc tất niên với bạn bè, hẹn khuya mới về, vì khách trọ chẳng có người nào. Ở nhà chỉ còn một mình Hứa thị với lũ gia nhân. Cơm tối xong, vợ trình Vĩnh kêu người làm đem đèn theo thị lên nhà ngủ cũ soát lại cửa ngõ. Mới xem xong một phòng, bỗn dưng Hứa thị thấy đau bụng dữ dội. Thị hô nữ tỳ dìu về phòng ở trái Đông.


__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời


Ðiều Chỉnh
Xếp Bài

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
Bạn không được quyền gởi bài
Bạn không được quyền gởi trả lời
Bạn không được quyền gởi kèm file
Bạn không được quyền sửa bài

vB code đang Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển đến


Múi giờ GMT. Hiện tại là 07:37 PM.


Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2025, Jelsoft Enterprises Ltd.