|
|
|
#1
|
|||
|
|||
|
TÌM ĐÂU
Nguyễn Khánh Chân Về đây nhặt lại ánh trăng thâu Tìm chút dư âm nhuộm nôĩ sâù Tri kỉ chàng ơi thôi luyến tiếc Cố nhân người hỡi chớ buồn đau Se làn gió rét hôn lên tóc Đếm giọt mưa ngâu rụng xuống đầu Nguyệt tỏ , nguyệt mờ , rôì nguyệt lặn Dật dờ cánh nhạn biết tìm đâu???? |
|
#2
|
|||
|
|||
|
BÓNG MẸ
Nguyễn Khánh Chân Chập chùng hoa cát vẽ tranh đời Xen dáng mẹ hiền sợi nắng rơi Tần tảo áo cơm khi đủ thiếu Nhọc nhằn quang gánh lúc đầy vơi Tháng ngày chăm bẳm con khôn lớn Sương gió loay hoay mẹ rã rời Quay quắt dấu chân hằn dõi cát Chiều in bóng mẹ đậm khung trời |
|
#3
|
|||
|
|||
|
TỰ VỊNH CÁI GẠT TÀN THUỐC
Nguyễn Khánh Chân Một thẻo giang sơn ta trấn giữa Đỉnh đầu nghi ngút khói hương lay Bốn phương quy tụ tình huynh đệ Tám hướng gom về nghĩa trúc mai Tâm sự tha nhân khôn loạn tỉnh Nỗi niềm nhân thế mặc nhiên say Vòng tay hóa giải bao phiền muộn Ôm mảnh tình chung hóa khói bay |
|
#4
|
|||
|
|||
|
TÌNH PHU QUÉT RÁC
Nguyễn Khánh Chân Xào xạc gió xuân đùa lá rụng Đèn không hắt bóng gợi sầu thêm Lom khom phố vắng người phu quét Nghiêng ngả đường khuya tiếng chổi mềm Ai đó đắm chìm trong giấc mộng Riêng mình lặng lẽ thức ru đêm Ngày mơ chiều xuống - đêm mơ sáng Đợi dáng bình minh - đợi nắng lên |
|
#5
|
|||
|
|||
|
ĐỘC ẨM
Nguyễn Khánh Chân Bạn hữu ngàn phương sưởi ấm lòng Vui buồn muôn sự chút tình không Ảo tình vương vấn đời chinh phụ Duyên mộng đeo mang phận má hồng Lữ khách mải mê nơi cuối bến Tha nhân mòn mỏi khuất ven sông Nghêu ngao vài chữ tình chưa vẹn Thưởng lãm vần thơ chén rượu nồng |
|
#6
|
|||
|
|||
|
NHỚ XUÂN XƯA
Nguyễn Khánh Chân Đón xuân này lại nhớ xuân xưa Chốn cũ người đâu cảnh thiếu thừa Ngắm cội mai già bên suối vắng Nâng cành hoa dại góc rừng thưa Trời xanh lơ lững vần mây lướt Núi đỏ đong đưa ngọn gió đùa Nhặt cánh hoa vàng nghe tết đến Bâng khuâng nhớ mẹ khúc giao mùa |
|
#7
|
|||
|
|||
|
NGÀY ĐÓ
Nguyễn Khánh Chân Ngày đó thương ai đợi nắng mơ Hoàng hôn hiu hắt bóng ơ hờ Liu riu con nước ròng hờ hững Líu ríu lục bình tím ngẫn ngơ Ngây ngất mây chiều dâng nỗi nhớ Tái tê sợi gió gợi bơ vơ Lang thang đếm bước trên hè phố Vạn nẻo đường tình một giấc mơ |
|
#8
|
|||
|
|||
|
NÀNG XUÂN HUẾ
Nguyễn Khánh Chân Nhẹ bước xuân về dáng ngẩn ngơ Một trời non nước phủ sương mờ Sông hương văng vẳng câu hò lỡ Núi ngự âm vang khúc sáo chờ Thành Cổ ngàn năm lưu sử sách Cố Đô muôn thuở khắc hồn thơ Trời cao xanh ngắt nàng xuân Huế Đinh hợi thắm hồng xứ mộng mơ |
|
#9
|
||||
|
||||
|
Cảm ơn Anh KhanhChan đã post những bài này. Đây là tài liệu rất tốt để chúng tôi được tham khảo thêm trong học tập. Chân thành cảm ơn anh đã chia sẽ.
__________________
Em về, lũng nhớ, sầu non
Để tôi mộng lớn mộng con vật vờ ![]() ![]() |
|
#10
|
|||
|
|||
|
Vài nhận định về cách đối câu trong thơ Đường Luật.
Có những ý kiến cho rằng 2 cặp câu 3,4 và 5,6 của thơ Đường Luật phải đối một cách tuyệt đối, nghĩa là từng chữ câu trên thuộc tự loại nào thì chữ cùng vị trí trong câu dưới cũng phải đúng tự loại đó. Nhiều tác giả chú trọng quá nhiều vào hình thức đối của thơ Đường nên gò từng chữ miễn sao cho đúng luật hiểu theo cái nhìn chật hẹp, nên viết những câu đối thật chặt chẽ về hình thức mà trống rỗng về nội dung cũng như gượng ép trong cách dùng chữ. Họ có thể cho những câu như sau là hay vì chỉnh trong vấn đề đối: Chàng trai trước cửa đứng lau xe Cô gái sau sân ngồi rửa bát Đối trong thơ Đường Luật là đối ý trước tiên rồi mới đến đối tự loại. Và đối từng cụm từ chứ không phải từng chữ. Ý tưởng nghèo nàn, chữ dùng thô thiển thì dù có đối chỉnh cách mấy cũng không có chút giá trị nào, loại Đường Luật nặng về hình thức này giống như 1 chiếc hộp gỗ thật vuông vức thật thẳng góc cạnh nhưng gỗ là gỗ tạp và chứa đựng trong lòng nó nội dung nghèo nàn. Sao bằng được một chiếc hộp gỗ góc cạnh có thể không thẳng hoàn toàn nhưng là gỗ quý và chứa đựng món hay vật lạ. Ngay cả trước đây hơn một thế kỷ các nhà Nho nổi tiếng như Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến sống trong thời đại từ chương, gò bó về luật thơ, đi thi chỉ cần sai một chút là hỏng mà cụ đậu đầu cả 3 kỳ thi Hương, Hội và Đình. Bậc Trạng Nguyên như thế mà còn không cố chấp về luật đối trong thơ ĐL thì chúng ta trong quan niệm phóng khoáng ngày nay lại cố bám vào từng chữ hay sao. Có khi còn bắt lỗi là trạng từ chỉ thời gian không đi với trạng từ chỉ không gian, 1 câu là câu hỏi thì câu kia cũng phải là câu hỏi. Sau đây là các thí dụ của bất chấp luật đối cứng ngắc của Yên Đổ Nguyễn Khuyến, ông bất chấp chứ không phải ông không biết luật. Thu Vịnh Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao, Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. Nước biếc trông như tầng khói phủ Song thưa để mặc ánh trăng vào. Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái, Một tiếng trên không ngỗng nước nào ? Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. Với những ý kiến chấp nê thì năm ngoái, không đối với nước nào ? "flower of yesteryear" không đối với "goose of which country"? Thu Điếu Ao thu lạnh lẽo nước trong veo, Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Sóng biếc theo làn hơi gợn tí, Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo. Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt, Ngõ trúc quanh co khách vắng teo, Tựa gối, buông cần lâu chẳng được. Cá đâu đớp động dưới chân bèo. Nếu hơi trong danh từ kép (làn hơi) thì khác với sẽ là trạng từ, còn nếu hơi là trạng từ để đối thì chữ làn đứng trơ trọi. Rõ ràng ở đây là đấu ý, đối cả câu chứ không phải từng chữ. Tự Thuật Tháng ngày thấm thoát tựa chim bay, Ông ngẫm mình ông, nghĩ cũng hay. Tóc bạc bao giờ không biết nhỉ ? Răng long ngày trước hãy còn đây. Câu thơ được chửa, thưa rằng được, Chén rượu say rồi, nói chửa say. Kẻ ở trên đời lo lắng cả, Nghĩ ra ông sợ cái ông này. Tương tự như thế ngay cả 2 cụm từ màu xanh ở trên cũng không cùng tự loại đừng nói gì từng chữ trong nó. Vịnh Tiến Sĩ Giấy Rõ chú hoa man (1) khéo vẽ trò, Bỡn ông mà lại dứ thằng cu. Mày râu mặt đó chừng bao tuổi, Giấy má nhà bay đáng mấy xu ? Bán tiếng mua danh thây lũ trẻ, Bảng vàng bia đá vẫn nghìn thu. Hỏi ai muốn ước cho con cháu, Nghĩ lại đời xưa mấy kiếp tu. Ví dụ này càng cho thấy cái "không đối" theo như những lập trường cố chấp, Bán và mua trong câu trên là động từ còn Bảng và bia là danh từ; ngay cả tiếng và danh là danh từ cũng không đối với vàng và đá là tĩnh từ. Nhưng đối là đối cả ý, cả câu chứ làm sao mà Nguyễn Khuyến không biết luật được. Cái luật mà người ta khăng khăng bám vào chỉ là cái cố chấp vô lối thôi. Dĩ nhiên là nếu mình muốn đối tuyệt đối thì cũng không sao, nhưng mang lập trường đó mà phê bình thơ người khác một cách hàm hồ thì thật là thiển cận biết bao. Ở đây không phải là người không làm nổi câu đối nên nguỵ biện, chỉ là thấy những người học được một số luật rồi bám vào đó coi như là kinh điển tuyệt đối đúng là biết một mà chẳng biết hai. Chính họ là những người hay sửa sai và chê bai người khác là làm thơ sai luật vì đối không chỉnh. Không phải chỉ mình Nguyễn Khuyến mới "thất luật", 2 câu sau đây của Tú Xương cũng sẽ không làm vừa lòng các vị bảo hoàng hơn vua: Chí cha chí chát khua giày dép, Ðen thủi đen thui cũng lụa là. Khua là động từ có đi với cũng là trạng từ không? Thưa được vì đối ý, đối câu mà hay thì từng chữ một không cần đúng. Ra đường đáng giá người trinh thục Trong bụng sao mà những gió trăng, Người và những trong con mắt của người cố chấp thì chắc chắn là không đối rồi. Và hãy đọc Nguyễn công Trứ Tự cao Trời đất cho ta một cái tài Giắt lưng dành để tháng ngày chơi Dở duyên với rượu khôn từng chén Trót nợ làm thơ phải thuộc bài Cờ sẵn bàn son xe ngựa đó Ðàn còn phiếm trúc tính tình đây Ai say ai tỉnh ai thua được Ta mặc ta mà ai mặc ai Nguyễn Công Trứ Cả hai cặp 3,4 và 5,6 đều không đối từng chữ . Nếu khăng khăng thì hoá Nguyễn công Trứ không biết luật sao ?, "từng chén" chắc chắn không đối với "thuộc bài" và "xe ngựa" không cùng tự loại với "tính tình" , đó là chưa kể "với" versus "làm" . Nhà Nho như Nguyễn công Trứ há lại phạm 3 lần lỗi trong bốn câu hay sao ? Hay là bài thơ nổi tiếng của vua Lê Thánh Tông Đề Miếu Bà Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương, Miếu ai như miếu vợ chàng Trương. Ngọn đèn dầu tắt đừng nghe trẻ, Làn nước chi cho lụy đến nàng. Chứng quả có đôi vầng nhật nguyệt, Giải oan chi mượn đến đàn tràng. Qua đây mới biết nguồn cơn ấy, Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng... Chúng ta thấy rõ ràng là trong hai cặp đối nhau, không phải tất cả các chữ cùng vị trí đều cùng tự loại cả, (tắt / cho), (đừng / lụy) , (nghe / đến) , (đôi / mượn), (vầng / đến) ngay cả (nhật nguyệt / đàn tràng) hay (trẻ / nàng) đều không đối theo quan niệm cứng ngắt hẹp hòi. Nếu bắt lỗi thì 4 câu của vua Lê Thánh Tông trong bài thơ truyền tụng lại đã phạm 6 lỗi. Nhà vua là người uyên bác lại đứng đầu một thi đàn chẳng lẽ không biết luật. Những sự phóng khoáng không để bị quy luật hạn hẹp của sự đối gò bó mình được thấy trong rất nhiều nhà thơ cổ xưa và hiện đại. Những người hay phán xét thơ người khác qua lăng kính đó thì chỉ tìm xem đối từng chữ mà không thấy được những vần thơ có giá trị. Tóm lại đối là 1 khía cạnh hình thức của thơ ĐL, mà ý tưởng vần điệu và từ ngữ là những khía cạnh khác. Đáng giá một bài thơ ĐL không phải là trước tiên nhìn coi từng chữ có đúng tự loại hay không mà là âm điệu có êm đềm thánh thót hay trầm bỗng, ý tưởng đặc sắc và từ ngữ trong sáng hay độc đáo và nhất là cả bài thơ có để lại cho người đọc một ấn tượng một rung động nào không, chứ không lẽ Ban ngày chó sủa trên đầu phố Buổi tối mèo kêu dưới cuối phường ngày/tối chó/mèo sủa/kêu trên/dưới phố/phường lại là đối tuyệt hảo hay sao? Phạm Doanh -----------------------http://forum.datviet.com/forum/showthread.php?t=24469--------------------------------------------------------- |
![]() |
| Ðiều Chỉnh | |
| Xếp Bài | |
|
|