#21
|
|||
|
|||
邊詞 五原春色舊來遲 二月垂楊未掛絲 即今河畔冰開日 正是長安花落時 張敬忠 Biên Từ *** Ngũ Nguyên xuân sắc cựu lai trì Nhị nguyệt thùy dương vị quải ti Tức kim hà bạn băng khai nhật Chính thị Trường An hoa lạc thì. *** Trương Kính Trung Dich nghĩa: lời từ biên ải) (ở Ngũ Nguyên xuân sắc xưa nay vẫn đến trễ) (tháng hai rồi mà thùy dương vẫn chưa buông tơ) (bữa nay băng bên bờ sông bắt đầu tan) (cũng là lúc hoa ở Trường An đang rơi rụng) ***** Lời Từ Biên Ải *** Xuân tới Ngũ Nguyên quá muộn màng Tháng hai dương liễu vắng tơ vương Ven sông băng đã tan rồi đấy Hoa chốn Trường An rụng ngập đường. *** Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú |
#22
|
|||
|
|||
別董大 拾里黃雲白日曛 北風吹雁雪紛紛 莫愁前路無知己 天下何人不識君 高適 Biệt Đổng Đại * Thập lý hoàng vân bạch nhật huân Bắc phong xuy nhạn tuyết phân phân Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ Thiên hạ hà nhân bất thức quân. * Cao Thích Dich nghĩa * (tiễn Đổng Đại) (đám mây vàng dài cả chục dặm, mặt trời rực rỡ) (gió bấc thổi nhạn bay đi, tuyết rơi lả tả) (đừng buồn trên đường đi không có bạn tri kỷ) (vì dưới gầm trời này ai mà chẳng biết ông) ******* Tiễn Đổng Đại *** Bầu trời rực rỡ mây vàng Nhạn bay, tuyết đổ mênh mang khắp vùng Ngại gì thiếu bạn đi cùng Đại danh họ Đổng ai không mến tài. *** Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú |
#23
|
|||
|
|||
別湖上亭 好是春風沽上亭 柳條藤蔓繫離情 黃鶯住久渾相識 欲別頻啼四五聲 戎昱 Biệt Hồ Thượng Đình * Hảo thị xuân phong hồ thượng đình Liễu điều đằng mạn hệ ly tình Hoàng oanh trú cửu hồn tương thức Dục biệt tần đề tứ ngủ thanh. * Nhung Dục giả từ đình trên hồ) (gió xuân ở đình trên hồ mát mẻ thay) (cây leo và cành liễu quấn quít không rời) (ở đây lâu chim hoàng oanh quen mặt) (khi giã từ nó hót 4, 5 tiếng) ******* Giã Từ Đình Trên Hồ * Bài 1 Giữa đình hồ làn gió xuân thoảng nhẹ Đám dây leo quấn thân liễu không rời Chim hoàng oanh lưu luyến khách ghé chơi Giọng thánh thót hót líu lo tiễn bước Bài 2 Gió xuân thoảng nhẹ hồ Đình Dây leo quấn liễu sợ tình biệt ly Dù quen bao cảnh tới, đi Tiếng oanh thánh thót sầu bi tiễn người *** Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú |
#24
|
|||
|
|||
別房太尉墓 他鄉復行役 駐馬別孤墳 近淚無乾土 低空有斷雲 對棋陪謝傅 把劍覓徐君 惟見林花落 鶯啼送客聞 杜甫 Biệt Phòng Thái Úy Mộ *** Tha hương phục hành dịch Trú mã biệt cô phần Cận lệ vô can thổ Đê không hữu đoạn vân Đối kỳ bồi Tạ Truyện Bả kiếm mịch Từ Quân Duy kiến lâm hoa lạc Oanh đề tống khách văn Đỗ Phủ *** Dich nghia: (giã từ mộ quan Thái úy họ Phòng) (lại đi công tác xứ người) (dừng ngựa chào từ biệt ngôi mộ chơ vơ) (lệ rơi ướt đất) (cuối chân trời có đám mây lẻ tẻ) (người từng đánh cờ với Tạ Truyện) (từng luận kiếm với Từ Quân) (nay ta chỉ thấy hoa rừng rơi) (và nghe chim oanh hót tiễn khách) Ghi chú: Tất cả các nhân vật họ Phòng, Tạ Truyện, Từ Quân đều là người đương thời với Đỗ Phủ. ******* Giã Từ Mộ Quan Thái Úy Họ Phòng *** Bước công du chốn xa mờ Lỏng cương từ tạ nấm mồ lẻ loi Đầm đìa nườc mắt tuôn rơi Mây vương lác đác cuối trời xa xa Đã cùng Tạ Truyện đánh cờ Từ Quân luận kiếm lúc xưa tưng bừng Giờ đây hoa rụng ngập rừng Nghe oanh tiễn bước cõi lòng ngổn ngang. *** Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú |
#25
|
|||
|
|||
別盧秦卿 知有前期在 難分此夜中 無將故人酒 不及石尤風 司空署 Biệt Lư Tần Khanh *** Tri hữu tiền kỳ tại Nan phân thử dạ trung Vô tương cố nhân tửu Bất cập Thạch Vưu phong Tư Không Thự * Ghi chú: Thạch Vưu Phong, điển tích dài dòng, ý chỉ thứ gió có thể ngăn trở người ra đi. ******* Tiễn Biệt Lư Tần Khanh *** Bài 1 Biết rằng người phải ra đi Tình sâu nghĩa nặng phân ly được nào Tiễn người chẳng chuốc rượu đào Thạch Vưu gió cũng chẳng sao giữ người. * Bài 2 Đành rằng cũng phải chia tay Biệt ly ray rứt sầu này khó nguôi Tạ từ không chén ly bôi Người đi chẳng quản gió trời Thạch Vưu. *** Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú |
#26
|
|||
|
|||
涪江泛舟 送韋班歸京 追餞同舟日 傷春一水間 飄零為客久 衰老羨君還 花雜重重樹 雲輕處處山 天涯故人少 更益鬢毛斑 杜甫 Bồi Giang Phiếm Chu Tống Vi Ban Quy Kinh Truy tiễn đồng chu nhật Thương xuân nhất thủy giang Phiêu linh vi khách cửu Suy lão tiện quân hoàn Hoa tạp trùng trùng thụ Vân khinh xứ xứ san Thiên nhai cố nhân thiểu Cánh ích mấn mao ban * Đỗ Phủ * Dich nghĩa (theo thuyền trên sông Bồi đưa tiễn Vi Ban trở về kinh đô) (ngày tiễn chân ông về kinh trên cùng thuyền) (trên con sông u buồn này) (tôi là kẻ phiêu dạt đã lâu) (đến lúc già yếu vui mừng được gặp lại ông) (bên bờ cây cối rậm rạp trổ đầy bông) (mây bay nhè nhẹ nơi núi non trùng điệp) (nơi phương trời này bạn bè thiếu vắng) (càng làm cho râu tóc bạc phơ thêm) ***** Trên Sông Bồi Đưa Vi Ban Về Kinh *** Bài 1 Ngày trên thuyền tiễn bác Sông xuân cảnh u sầu Bao năm trời lưu lạc Lúc già mừng gặp nhau … Hoa trên cây lớp lớp Đỉnh núi mây giăng giăng Xa nhà thiếu tri kỷ Tóc bạc càng mau tăng Bài 2 Ngồi thuyền đưa tiễn bác trên sông Mặt nước trời xuân thật não nùng Luân lạc lâu rồi thân viễn khách Về già gặp lại thú không cùng ……….. Sặc sỡ mầu hoa, lớp lớp cây Mây sầu trên đỉnh núi giăng đầy Nơi xa nào dễ tìm tri kỷ Mái tóc ngày càng trắng như mây *** Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú |
#27
|
|||
|
|||
陪族叔刑部 侍郎曄及中 書賈舍人至 遊洞庭 洞庭湖西秋月煇 瀟湘江北早鴻飛 醉客滿船歌白紵 不知霜露入秋衣 李白 Bồi Tộc Thúc Hình Bộ Thị Lang Hoa Cập Trung Thư Giả Xá Nhân Chí Du Động Đình * Động Đình hồ tây thu nguyệt huy Tiêu Tương giang bắc tảo hồng phi Túy khách mãn thuyền ca “Bạch Trữ” Bất tri sương lộ nhập thu y Lý Bạch * Dich Nghia: (theo chú ruột là Hoa làm quan Hình Bộ Thị Lang cùng quan trực thuộc là Giả Chí đi chơi hồ Động Đình) (trăng thu vằng vặc phía tây hồ Động Đình) (chim hồng bay sớm về phía bắc sông Tiêu Tương) (khách trên thuyền say mèm, ca bài “Bạch Trữ”) (khách trên thuyền say mèm, ca bài “Bạch Trữ”) Ghi chú: Bạch trữ, có nghĩa là vải thô màu trắng. Bài ca “Bạch Trữ” có ý cảm thưong dân nghèo. ******* Đi Chơi Hồ Động Đình * Tây Động Đình lung linh bóng nguyệt Bắc Tiêu Tương ríu rít chim về Khách say “Bạch Trữ” hoan mê Chẳng màng sương móc vương nhòe áo thu * Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú |
#28
|
|||
|
|||
陪鄭廣文遊 何將軍山林 不識南塘路 今知第五橋 名園依綠水 野竹上青霄 谷口舊相得 濠梁同見招 平生為幽興 未惜馬蹄遙 杜甫 Bồi Trịnh Quảng Văn Du Hà Tướng Quân Sơn Lâm Bất thức Nam Đường lộ Kim tri Đệ ngũ kiều Danh viên y lục thủy Dã trúc thướng thanh tiêu Cốc Khẩu cựu tương đắc Hào Lương đồng kiến chiêu Bình sinh vị u hứng Vị tích mã đề diêu. Đỗ Phủ Dịch nghĩa: (theo Trịnh Quảng Văn dạo chơi vùng rừng núi của Tướng quân họ Hà) (không rành đường xá ở Nam Đường) (nay mới biết đây là cây cầu số 5) (khu vườn nổi tiếng bên dòng nước biếc) (trúc đồng nội vươn lên tận trời xanh) (kia Cốc Khẩu là nơi ưa thích cũ) (đây Hào Lương là nơi ta cùng gặp gỡ) (thườngngày chỉ thích nhàn nhã) (nay chả tiếc vó ngựa in khá xa) Vãn Cảnh Nơi Hà Tướng Quân Bài 1 Nam Đường chưa dịp ghé qua chơi Giờ lối cầu Năm đã biết rồi Đẹp quá cảnh vườn bên nước biếc Trúc đồng nghiêng ngả giữa mây trôi ....... Cốc Khẩu chốn xưa lúc tuổi xuân Hào Lương nơi gặp gỡ bao lần Tháng năm tìm thú vui thanh thản Chẳng ngại đường xa, ngựa đỡ chân Bài 2 Lúc xưa chưa biết lối Nam Đường Giờ cầu Đệ Ngũ đã đi ngang Cảnh vườn đẹp quá bên dòng nước Cao ngất trời mây đám trúc đồng ............. Cốc khẩu là nơi xưa mến thương Gặp nhau chốn ấy đất Hào Lương Quanh năm trong thú vui nhàn tản Chẳng quản xa xôi, ngựa đỡ đường * Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú |
#29
|
|||
|
|||
裴晉公 四朝憂國鬢如絲 龍馬情神海鶴姿 天上玉書傳詔夜 陣前金甲受降時 曾經庾亮三秋月 下盡羊曇兩路椇 惆悵舊堂扃綠野 夕陽無限鳥歸遲 李郢 Bùi Tấn Công Tứ triều ưu quốc mấn như ti Long mã tinh thần hải hạc tư Thiên thượng ngọc thư truyền chiếu dạ Trận tiền kim giáp thu hàng thì Tằng kinh Dữu Lượng tam thu nguyệt Hạ tận Dương Đàm nhị lộ kỳ Trù trướng cựu đường quynh Lục Dã Tịch dương vô hạn điểu quy trì Lý Sính *** Dich Nghĩa: (quanTấn quốc công họ Bùi) (lo việc nước trải bốn triều vua tóc bạc như tơ) (tinh thần như ngựa rồng, cốt cách như hạc biển) (nhớ đêm vua ban chiếu phong chức) (nhớ lúc mặc giáp vàng nhận giặc đầu hàng) (giúp nước lâu hơn Dữu Lượng ba năm) (mưu lược cao hơn Dương Đàm hai nước) (lòng buồn trước Lục Dã xưa, nay đóng kín) (nắng chiều bao la, chim chậm chạp bay về) *** Ghi chú: Bùi Tấn Công: đời Đường Hiến Tông, Bùi Độ nhờ công dẹp giặc Hoài tây, được phong quan Trung thư lệnh, tướcTấn Quốc Công. Khi về hưu, ông cất một biệt thự ở Đông Đô (Lạc Dương) đặt tên là Lục Dã Đường. Dữu Lượng: người đời Tấn, cũng được phong quan Trung thư lệnh, nổi tiếng về phong cách và lễ tiết. Dương Đàm: người đời Tấn, giỏi cơ mưu quân sự. ***** Quan Quốc Công Họ Bùi *** Lo quốc sự bốn triều đầu bạc trắng Tinh thần cao tựa hạc biển, rồng trời Còn đâu khi vua chiếu ngọc thưởng người Hay giữa trận áo giáp vàng trị giặc Hơn Dữu Lượng trên ba năm giúp nước Mưu họ Dương cao hơn hẳn hai chiêu Lục Dã Đường giờ cửa đóng quạnh hiu Chiều ngả bóng, chim la đà về tổ Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú |
#30
|
|||
|
|||
閣夜 歲暮陰陽催短景 天涯霜雪霽寒宵 五更鼓角聲悲壯 三峽星河影動搖 野哭千家聞戰伐 夷歌數處起漁樵 臥龍躍馬終黃土 人事音書漫寂寥 杜甫 Các Dạ * Tuế mộ âm dương thôi đoản cảnh Thiên nhai sương tuyết tế hàn tiêu Ngũ canh cổ giác thanh bi tráng Tam giáp tinh hà ảnh động dao Dã khốc thiên gia văn chiến phạt Di ca sổ xứ khởi ngư tiều Ngọa long dược mã chung hoàng thổ Nhân sự âm thư mãn tịch liêu. Đỗ Phủ Dịch nghĩa (đêm Tây Các) (ngày cuối năm qua mau) (những ngày lạnh ở góc trời này đã ngưng tuyết) (suốt đêm tiếng trống, tiếng tù và bi ai, hùng tráng) (làm rung động cả dải ngân hà ở vùng Tam Giáp) (tin giao tranh làm ngàn nhà than khóc) (dân chài và tiều phu đâu đó vẫn ca hát nghêu ngao) (Khổng Minh, Công Tôn Thuật cũng ra đất vàng) (việc đời, thư tín tất cả đều vắng lặng) *** Ghi chú: Tây Các là một xã thuộc huyện Phụng Tiết, tỉnh Tứ Xuyên, nơi có nhiều di tích nổi tiếng như Bát Trận Đồ của Khổng Minh. Bạch Đế thành của Công Tôn Thuật.... Ngọa long: con rồng nằm, chỉ Không Minh, quân sư của Lưu Bị, thời Tam Quốc. Dược mã: con ngựa nhảy, chỉ Công Tôn Thuật, người nổi lên chiếm đất Thục rồi xưng đế, lúc Vương Mãng cướp ngôi nhà Tây Hán. *** Đêm Nơi Tây Các * Năm tàn vầng thái ngủ mê Chốn đây tuyết lạnh tan đi hết rồi Suốt đêm kèn trống liên hồi Bóng ngân hà vỡ tả tơi mặt hồ Chiến chinh lời oán vô bờ Đó đây tiếng hát ngu ngơ ngư tiều Khổng, Công thì cũng xanh rêu Tin thư mờ mịt, tịch liêu vô cùng. * Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú |
Ðiều Chỉnh | |
Xếp Bài | |
|
|