Go Back   Vina Forums > Câu Lạc Bộ Giao Lưu > Nhịp Đập Trái Tim > Nghệ Thuật Sống
Hỏi/Ðáp Thành Viên Lịch Tìm Kiếm Bài Trong Ngày Ðánh Dấu Ðã Ðọc

Trả lời
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
  #41  
Old 11-21-2008, 09:05 AM
Miss_KhanhHa's Avatar
Miss_KhanhHa Miss_KhanhHa is offline
ZzTrung_HazZ
 
Tham gia ngày: Aug 2008
Bài gởi: 1,036
Send a message via Yahoo to Miss_KhanhHa Send a message via Skype™ to Miss_KhanhHa
Default

54.Câu Chuyện "Triêu Tam Mộ Tứ"
(Sáng Ba Chiều Bốn)



Nước Tống có một người giỏi nghề nuôi khỉ vượn. Lão biết tâm lý loài khỉ và loài khỉ cũng biết lão. Số lương thực của bầy khỉ bắt đầu vơi, lão bèn hạn chế thức ăn của chúng. Lão nói:

- Từ nay các ngươi ăn buổi sáng ba hạt dẻ, chiều ăn bốn hạt nhé?

Bầy khỉ khọt khẹt tỏ vẻ tức giận. Lão lật đật nói:

- Thôi, thôi! Vậy thì các ngươi buổi sáng ăn bốn hạt, buổi chiều ăn ba hạt!

Bấy giờ bầy khỉ vui vẻ!

Lời Bàn:

Qua chuyện này Trang Tử bàn: "Danh và Thực chẳng thay đổi gì thế mà lũ khỉ ấy giận và vui khác hẳn. đó là vì tác dụng chủ quan của chúng. Do vậy, Thánh nhân vì sự hòa mà phải nói đến thị phi, nhưng rốt cuộc rồi cũng quy vào cái lẽ tự nhiên".

Cũng việc này, Liệt Tử bàn: "Đối với loài động vật ta có thể dùng trí thông minh lung lạc chúng. Đạo lý ấy cũng giống như thánh nhân dùng trí tuệ lung lạc người ngụ Thực chất không có gì thay đổi, nhưng kết quả có thể làm chúng giận dữ hay vui mừng, hai cách khác nhau!"

Với chúng ta ngày nay câu chuyện đó vẫn còn dùng được. Trong cuộc bán quảng cáo hay tiếp thị, người ta ít khi mua một lần hai món như nhau, nhưng nghe nói "mua một cái sẽ được tặng một cái", thì người ta mua ào ào, mặc dù có thể phải trả tiền hai cái.


55.Thuật Bách Chiến Bách Thắng



Bàng Quyên dẫn quân đi đánh Hàn có Thái Tử Ngụy Thân đi theo. Ra khỏi biên giới, có một người áo vải tên là Tư Sinh vào yết kiến Thái tử nói:

- Thái tử đem quân đi đánh Hàn, tôi có thuật bách chiến bách thắng, Thái tử có muốn dùng không?

Thái tử nói:

- Nên nghe lắm!

Tử Sinh nói:

- Thái tử đánh Hàn có thắng thì Thái tử vẫn là Thái tử, ngôi không thể cao hơn được nữa, giàu cũng ngang với ngôi vương là cùng. Nếu bại thì cái sở hữu của Thái tử không còn gì cả. Do vậy mà tôi gọi là cái thuật bách chiến bách thắng!

Thái Tử nói:

- Tôi sẽ nghe lời tiên sinh mà quay quân về!

Tử Sinh nói:

- Không chắc Thái tử sẽ quay về được. Bởi vì những người chung quanh Thái tử sẽ dựa vào Thái tử mà ăn theo!

Tư Sinh lui ra. Thái tử hạ lệnh ban sư! Bàng Quyên chạy đến nói:

- Đại Vương đem quân đội giao cho Thái tử, chưa đánh sao đã vội lui? Lui về cũng bị chúa công bắt tội ngang với bại trận, sao bằng đánh?

Thái tử đành cho quân đi tới.

Lời Bàn:

Ngụy đánh Hàn lần này là do ý kiến của Bàng Quyên đề bạt. Trong chuyến đi này có Thái Tử Thân. Không rõ tự ý Thái tử xin đi hay cũng do sự sắp đặt của Bàng Quyên? Dù sao Thái Tử xuất quân vẫn có sự đồng ý của Ngụy Vương. Lời Tử Sinh thuyết phục Thái tử là nghiêm túc. Chẳng những nó đúng về mặt nhân bản, nó còn đúng theo cương vị Thái tử nữa. Câu then chốt là: "Không chắc Thái tử đã quay về được. Bởi vì những người chung quanh Thái tử đều dựa vào Thái tử mà ăn theo".

Kết quả đúng như lời Tử Sinh nói, Thái tử muốn quay về bị Bàng Quyên ngăn lại. Trong chiến tranh có vô số người lợi dụng mồ hôi và xương máu của chiến sĩ để tư lợi. Ngôi cao như Thái tử vẫn không thoát khỏi guồng máy khổng lồ của chiến tranh do bọn trục lợi điều khiển, làm mất hết ý nghĩa thuần túy của quốc gia.

Trận này Bàng Quyên bị giết, Thái tử Thân bị cầm tù, rồi sau cũng tự sát.


__________________


Trả Lời Với Trích Dẫn
  #42  
Old 11-21-2008, 09:10 AM
Miss_KhanhHa's Avatar
Miss_KhanhHa Miss_KhanhHa is offline
ZzTrung_HazZ
 
Tham gia ngày: Aug 2008
Bài gởi: 1,036
Send a message via Yahoo to Miss_KhanhHa Send a message via Skype™ to Miss_KhanhHa
Default

56.Khi Ông Vua Muốn Làm Thánh Hiền




Vua nước Yên là Khoái đắm say tửu sắc, dùng Tử Chi làm Tướng quốc. Tử Chi to con, tướng mạo uy nghi, thấy Khoái bỏ bê triều chính nên có ý muốn tiếm ngôi. Tử Chi kết bè phái với những kẻ có thế lực trong triều như anh em Tô Đại, Tô Lệ, Lộc Mao Thọ. Bọn chúng nịnh Tử Chi và gọi Tử Chi là "người hiền".

Một hôm Yên Khoái hỏi Tô Đại:

- Tề có bậc hiền tài là Mạnh thường Quân, liệu Tề có làm bá chủ được không?

Đại đáp:

- Không được, vì vua Tề dùng Mạnh Thường Quân không chuyên.

Khoái nói:

- Rất tiếc quả nhân không có Mạnh thường Quân, nếu có thì dùng khó gì?

Đại nói:

- Tướng quốc Tử Chi có kém gì Mạnh thường Quân?

Yên Vương Khoái nghe vậy liền cho Tử Chi rộng quyền trong việc triều chính. Sau đó Khoái kêu Lộc Mao Thọ hỏi:

- Các bậc hiền tài ngày trước rất nhiều, sao họ chỉ ca ngợi Nghiêu Thuấn mà thôi?

Thọ nói:

- Nghiêu, Thuấn biết nhường ngôi cho người hiền chứ không nhừng ngôi cho con. Vũ cũng nhường ngôi cho Ích là người hiền nhưng lại không phế Thái tử. Nên khi Vũ mất, Thái tử Khải cướp của Ích. Bởi đó đời sau cho Vũ kém đức hơn Nghiêu Thuấn!

Yên Khoái cao hứng nói:

- Quả nhân muốn truyền ngôi cho Tử Chi, có nên không?

Thọ đáp liền:

- Nếu đại vương làm được như vậy thì đức đâu khác gì Nghiêu Thuấn.

Yên Khoái họp quần thần lại, tuyên bố truất Thái tử Bình, truyền ngôi cho Tử Chi!. Tử Chi giả nhún nhường đôi phen cho hợp với nghi lễ, rồi nhận ngôi, làm lễ tế cáo thiên dịa, mặc áo cổn, đội mũ miện, cầm ngọc khuê, ngoảnh mặt về Nam xưng Cộ Quả không chút ngượng.

Còn Khoái thì đứng cùng bầy tôi quay mặt về hướng bắc mà bái triều rồi dọn ra ở Biệt cung. Ba tên, Đại, Lệ, Thọ, được phong Thượng Khanh. Tướng quân Thị Bị nổi giận kéo quân bản bộ đánh Tử Chi có dân chúng ào ạt tham gia. Hai bên cầm cự nhau đến mười ngày, số thương vong đến vài vạn. Cuồi cùng Thị Bị bị giết.

Lộc Mao Thọ nói với Tử Chi:

- Thị Bị nổi loạn là bởi Thái tử Bình.

Tử Chi cho bắt Thái tử. Quách Ngỗi đem Bình đi trốn.

Nhân cơ hội đó, Tề đem quân đánh Yên lấy cớ là dẹp loạn Tử Chi, nên dân Yên tham gia, Tử Chi và bọn Đại, Lệ, Thọ đều bị giết, Yên Khoái tự tử, Tề chiếm đóng luôn nước Yên không chịu trả.

Lời Bàn:

Đời vẫn có câu: "Nhập nô xuất chủ" (khi vào ở là đầy tớ, khi bước ra là chủ nhà) nó có ý nghĩa trên phương diện tu thân. Chẳng hạn, bạn vào học một nghề nào đó, lúc đó bạn trong vai trỏ là người học trò, hoặc con em, hoặc người làm công, giúp việc. Khi bạn học thành tài, thì cũng có quyền mở hãng, xưởng như ai. Đó là ý nghĩa của "nhập nô xuất chủ".

Yên Vương Khoái bị con tửu sắc hành hạ, muốn tỏ ra mình có một "phong cách dị thường", cho nên đã làm một việc đáng gọi là kim cổ kỳ quái! Khoái muốn làm bá chủ chư hầu thì không được, tác phong lẫn tài cán đều tầm thường, nên ông đành bỏ ngôi vương để đi làm... Thánh Hiền! Khoái có thể coi ngôi vị không ra gì, nhưng không thể coi lăng miếu, xã tắc, dân chúng coi không ra gì! Và phẩm chất thánh hiền không đơn giản như Khoái hoang tưởng. Thánh hiền là là bậc trí tuệ, còn Khoái là người hôn ám. Khoái không phân biệt được chánh tà để đám con buôn lường gạt, thì làm sao nói chuyện thánh hiề kia chứ?

Hai tên Tô Đại, Tô Lệ là em của Tô Tần, là những tên du thuyết, nói chuyện phải trái một cách đảo điên, tráo trở lật lọng. Trong sách Ngũ Đố (5 thứ sâu mọt: Bọn du thuyết, bọn thích khách, bọn ăn bám, bọn con buôn, bọn chuyên làm hàng giả mạo), Hàn Phi chửi bọn du thuyết: "Bọn sâu mọt là bọn sâu mọt đục khoét xã hội, những tên ngụy nho trá hình hiền giả". Lộc Mao Thọ cũng là tên vô sỉ, ăn cơm phật làm việc cho ma! Còn Tử Chi thì sao? Hắn là một thứ hồ ly rụng đuôi. Nhưng không trách hắn. Hắn thấy Yên Khoái hèn quá, nên hắn nuôi mộng soán ngôi. Việc soán ngôi trong thiên hạ không đếm hết. Chỉ trách hắn một điều, trước đây hắn tự xưng là người hiền để dụ thiên hạ mà cướp ngôi. Kẻ kia đã nhường ngôi một cách danh ngôn chính thuận, hắn lại không có chính sách an dân, để nước Yên không yên, tất nhiên hắn và gia tộc hắn phải đền tội.

Trên đây là một Bi Hài Kịch của lịch sử.


57.Con Chim Hoang Dã



Sách Nam Hoa Kinh của Trang Tử viết: "Những con chim trĩ hoang dã sống bên đầm lầy, cứ mười bước mổ mồi một lần, dù cuộc sống khó nhọc mà không đủ no, thế nhưng chúng không hề mong muốn được nuôi trong lồng. Sống trong lồng tuy khỏe hơn nhưng chẳng vui vẻ gì".

Lời Bàn:

Không riêng gì loài chim, mọi vật trong thiên nhiên đều thích bay nhảy riêng cõi của mình. Câu ví: "Cá chậu chim lồng" là chiû sự mất tự dọ Đoạn văn này mang tính chất đạo tính. Cái gì trái với tự nhiên đều là sự ràng buộc. Trang Tử chủ trương: Tự nhiên chính là tự do.
__________________


Trả Lời Với Trích Dẫn
  #43  
Old 11-21-2008, 09:18 AM
Miss_KhanhHa's Avatar
Miss_KhanhHa Miss_KhanhHa is offline
ZzTrung_HazZ
 
Tham gia ngày: Aug 2008
Bài gởi: 1,036
Send a message via Yahoo to Miss_KhanhHa Send a message via Skype™ to Miss_KhanhHa
Default

58. Cây Vô Dụng


Có một mộc sư tên Thạch đi qua vùng Khúc Viên của Tề thấy một cây lịch to lớn trước miếu thổ thần. Bóng râm của nó có thể che hết ngàn con bò, cây cao đến đỉnh núi, cành no có thể khoét thành thuyền độc mộc, thân lớn trăm ôm, người ta bu lại coi đông như chợ, thế mà Thạch vẫn cắm đầu đi thẳng.

Bọn đệ tử nhìn chán rồi mới đuổi theo Thạch. Một đứa nói:

- Từ khi con vác búa theo thầy đến nay chưa hề thấy cây nào lớn đẹp như vậy, thế mà thầy không thèm nhìn là sao?

Mộc sư nói:

- Thôi, thôi! Đó là cây vô dụng, ta còn lạ gì? Dùng nó làm thuyền thì đắm, làm quan tài thì mau mục, làm khí cụ thì mau hỏng, làm cửa thì nó hay tiết ra chất dầu rất nhớp, làm cột kèo rui mè thì lắm mối mọt. Vì vậy nó mới sống lâu và cao như thế!

Học trò hỏi:

- Nhưng sao nó lại mọc ở chỗ tế tự?

Mộc sư nói:

- Cây ấy bất quá chỉ gởi mình ở nơi cúng tế để những kẻ ngu dốt khỏi chửi nó vô dụng. Không mọc ở chỗ miếu thì dễ bị những kẻ phá đi, nhưng cách bảo toàn nó có khác gì con người? Lấy sự lý đời này ra để chứng minh có lẽ là khác xa lắm!...

Lời Bàn:

Đoạn văn này cổ nhân muốn nêu lên sự khác biệt giữa cái hữu dụng và vô dụng. Không phải vô dụng là... vô dụng, mà có cái đại dụng trong cái vô dụng đó. Trang Tử nói: "Những cây táo, lê, quýt, cam, bưởi... , khi quả chín đều bị bẻ hái đi cho đến khi tàn lụi. Đó chính là tài năng mà tự làm khổ cả đời, sống không hết tuổi, mà chết yểu. Ta chẳng có chỗ nào hữu dụng nên mới sống lâu". Xét lại câu: "Cây ấy bất quá chỉ gởi mình nơi cúng tế để những kẻ ngu dốt khỏi chửi nó vô dụng", tác giả ngầm nói những kẻ bất tài, có thân thế với quan cũng chen chân lấn bước vào chốn miếu đường, để qua mắt mọi người, giống như Lỗ Trọng Liên đã chửi Bình Nguyên Quân Triệu Thắng trước đây. Tác giả phân biệt ba loại cây vô dụng:

a) Cây vô dụng sống ngoài thiên nhiên thì sống lâu. Sự sống lâu đó là đáng quý vì nó hợp lẽ tự nhiên.

b) Cây vô dụng mà sống gần làng xóm thì dễ bị người ta quấy phá, đốn bỏ để phong cảnh quanh nhã. Theo ý tưởng này thì Dương Vương Minh (triết gia thời Minh) nói:

"Cây kia trổ lá xanh xanh,

Thân ta biết thế đừng sinh ra đời".

c) Cây vô dụng mọc nơi đền miếu, là có ý lợi dụng lòng mê tín của người ngu (không dám đốn vì sợ quỷ thần quở), kiếp của nó là sống gởi (chỉ cho những kẻ bất tài mà bu bám).

Rốt cuộc, ý cả bài quy lại, làm người không nên tranh danh đoạt lợi, muốn khỏe thân thì phải an tĩnh và sống vào vị trí thích hợp của mình, mới có thể thọ mà không bị tai tiếng.



59.Cuộc Tranh Luận Giữa Người Hai chân Và Người Một Chân

Thân Đồ Gia bị cụt chân cùng với Trịnh Tử Sản là học trò của Bá Hôn Vô Nhân. Tử Sản nói với Thân Đồ Gia:

- Nếu phải ra ngoài, thì hoặc là ông ra, hoặc là tôi ra!

Hôm sau hai người đang ngồi học, Tử Sản hỏi:

- Bây giờ tôi sắp ra ngoài, ông ở lại được không? Hơn nữa, ông nhìn thấy quan đang chấp chính mà sao không tránh mặt, ông ngang hàng với quan chấp chính ư?

Thân Đồ Gia nói:

- Trong các môn đệ của thầy Bá Hôn lại có quan chấp chính sao? Ông cho rằng địa vị Ông cao (Tử Sản là Tể tướng của Trịnh), nhưng tôi nghe câu "gương chỉ sáng khi không có bụi bám, người sống lâu với bậc hiền giả thì không phạm lỗi lầm". Hiện tại điều ông đang mong cầu là học đạo đức ở thầy, mà thốt những lời như thế chẳng là lỗi lầm lắm ư?

Tử Sản nói:

- Ông đã ra nông nỗi này (chỉ việc cụt một chân) mà còn muốn tranh thiện với Nghiêu! Hãy xét lại đức hạnh của mình thử, có đủ cảnh tỉnh ta chăng?

Thân Đồ Gia đáp:

- Ngụy trang để che đậy tội lỗi của mình rồi tự cho rằng mình không đáng phạm tội chặt chân, hạng người như thế nhiều lắm! Người không ngụy trang che đậy tội lỗi của mình, thà bị chặt chân, ít lắm! Ý thức được tự nhiên đó chỉ có hạng đạo đức mới làm được. Bước vào ngay làn tên của Hậu Nghệ mà không trúng tên, đó chính là chỗ của mệnh. Người có đủ hai chân cười người không đủ chân, hạng người ấy hằng hà. Việc ông nói với ta như thế ta rất tức giận, nhưng nơi đây là chỗ ở của thầy, nên ta hết giận mà bỏ về. Không biẹ61t thầy đã dùng đạo gì mà dạy ta được thế (hết giận). Ta theo học thầy đã mười chín năm, thầy chưa bao giờ thấy ta cụt chân. Hiện nay ta thấy ông lấy tu dưỡng đạo đức giao du với nhau, ông lại chê khinh ta thân thể khuyết tật, chẳng phải là sai sao?

Tử Sản cả thẹn lấp liếm:

- Thôi thôi!... Ông không cần nói nữa!

Lời Bàn:

Nội dung bài này nói: Thân Đồ Gia là người cụt chân nhưng tâm phúc mãn, còn Tử Sản thân tuy lành lặn nhưng tâm bị khuyết tật.

Theo sử, ta biết Tử Sản tên là Công Tôn Kiều là người liêm khiết thông minh, làm Tể tướng của Trịnh vang danh bốn phương. Sử gia Tư Mã Thiên viết: "Tử Sản làm Tể tướng ở Trịnh dân không thể dối". Nhưng Tử Sản ảnh hưởng học thuyết Chu Công Cơ Đán nên các ông Trang Tử, Liệt Tử có ý bài xích. Tuy vậy cuộc đối thoại giữa Thân Đồ Gia với Tử Sản, tacứ xem là chuyện có thật để rút nơi đó một bài học kinh nghiệm về phép xử thế.

Tàn tật là một điều không may mắn, người lành lặn không nên chê bai, nếu không có dịp an ủi họ thì cũng đối xử với họ một cách bình thường. Tục ngữ ta có câu: "Bảy mươi chưa què, đừng khoe rằng lành".

Tử sản cùng học chung một thầy với Thân Đồ Gia, sợ hai người cùng đi ra, đi vào thì người ngoài hiểu rằng hai người cùng đẳng cấp với nhau. tử sản sợ mất thể diện. Đã vậy Tử Sản còn giới thiệu mình là quan chấp chính (Tể tướng), nếu quả vậy đó là một sự lố bịch. Thân Đồ Gia nói: "Ngụy trang để che đậy tội lỗi của mình rồi tự cho rằng mình không đáng phạm tội chặt chân, hạng người như thế nhiều lắm".

Nếu cứ vạch lá tìm sâu thì dẫu có thánh nhân cũng không tránh khỏi tội, biết vậy cớ sao cứ hạch sách người tả Thân Đồ Gia nói: "Ta theo học thầy 19 năm, thầy chưa bao giờ thấy tôi cụt chân". Đây là cây then chốt! Thầy Bá Hôn Vô Nhân là người đã đạt đến cái đức toàn mỹ: Kh6ng phân biệt người và ta, không phân biệt cái lớp bì bên ngoài, bởi vậy ông ta không thấy sự khuyết tật của cơ thể. Câu then chốt trên đây, để giải thích câu: "... ta rất tức nhưng đây là chỗ của thầy, nên ta hết giận mà bỏ về. Không biết thầy lấy đạo gì để dạy ta được thế". Ý của Gia muốn nói, không thèm nhìn cái lỗi của họ mà giận.

Bài này có thể bổ túc cho bài: "Bình Nguyên Quân với người què", nhưng có một ý nghĩa cao siêu hơn vì nó đi vào Đạo học.
__________________


Trả Lời Với Trích Dẫn
  #44  
Old 11-21-2008, 09:20 AM
Miss_KhanhHa's Avatar
Miss_KhanhHa Miss_KhanhHa is offline
ZzTrung_HazZ
 
Tham gia ngày: Aug 2008
Bài gởi: 1,036
Send a message via Yahoo to Miss_KhanhHa Send a message via Skype™ to Miss_KhanhHa
Default

60.Bài Học Ngụ Ngôn: Trái Với Tự Nhiên



Vị vua ở biển nam là Thúc, vị vua ở biển bắc là Hốt. Hai vị đế vương này thường gặp nhau ở trên đất của vua Hỗn độn. Hỗn độn tiếp đãi họ hết sức tử tế, nên Thúc và Hốt bàn nhau tìm cách báo đáp lại lòng tốt của Hỗn Độn.

Mọi người nói:

- Con người có thất khiếu (7 lỗ) đó là: hai mắt để nhìn, hai tai để nghe, hai lỗ mũi để thở và một miệng để ăn. Duy chỉ hoàng đế Hỗn Độn không có khiếu nào. Chúng ta nên đục lỗ cho ổng đi!

Người kia nói:

- Phải đó!

Rồi mỗi ngày hai ông đè Hỗn Độn ra đục một lỗ để làm khiếu. Đục đến ngày thứ bảy thì Hỗn độn chết mất!

Lời Bàn:

Bài ngụ ngôn này rất u mặc. Hai ông vua biển Nam, biển Bắc đều có lòng tốt, nhưng lòng tốt không đúng chỗ hóa ra làm hại người. Một sinh vật nào sống trong môi trường nào thì thích hợp với môi trường đó. Trên phần đầu của loài người đang có hai thất khiếu, nếu ta lần lượt bịt kín đi, người ấy sẽ chết ngay lập tức. Trong trường hợp ngược lại của Hỗn Độn cũng vậy.

Cũng cần nói thêm: Theo đạo học, Hỗn Độn là một thời đại Hồng Hoang của thuở mới khai thiên lập địa, lúc ấy vạn vật chưa có, hai khí âm dương còn hỗn độn là một. Và Một ấy lại trở về với uyên nguyên Thái Cực. Nếu có ông vua Hỗn Độn nào đó, thì ông vua ấy dĩ nhiên vô khiếu. Khi bày ra chuyện vua Bắc, vua Nam (tượng trưng cho Âm Dương, tức là đất trời đã phân biệt), thì vua Hỗn độn không còn hợp thời nữa. Dẫu đục khiếu hay không đục khiếu, Hỗn Độn cũng vẫn giã biệt.



61.Ta Cũng Muốn Lê Cái Đuôi Trong Bùn


Trang Tử câu cá bên sông Bộc, vua Sở nghe Trang là bậc đại hiền, liền phái hai đại phu đến mời ông về giúp việc cho nước Sở.

Trang Tử vẫn ôm cái cần câu không quay lại, nói:

- Ta nghe nước Sở có một con rùa thần chết đã ba ngàn năm nay, vua Sở bọc điều bọc xác nó đặt trong tráp cất ở miếu đường.. Chẳng lẽ con rùa ấy muốn chết để lưu thân xác lại cho người ta thờ ư? Hay là nó muốn sống để lê cái đuôi trong bùn thích hơn?

Hai vị đại phu đều đáp:

- Thà sống lê cái đuôi trong bùn thích hơn!

Trang Tử nói:

- Ta đây cũng muốn lê cái đuôi trong bùn!

Lời Bàn:

Trang Tử có cuộcsống đầy thiên nhiên và u mặc. Ông sống vào hạ bán thế kỷ thứ tư đầu thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên. Ông trước tác bộ Nam Hoa Kinh, một tác phẩm triết lý thiên về Đạo học nhưng lại là một tác phẩm văn chương tuyệt vời. Với cái tài mẫn tiệp ấy, ông ra làm quan nước nào mà chẳng được? Thế nhưng ông không muốn câu thúc, hàm danh khoái lợi là thói đua đòi của thế tục. Xưa nay có nhiều người ra làm quan bị thất sủng, khi cái họa xảy đến, than: "Biết vầy ta không thèm làm quá!"

Sử nói: "Đại đế Alexandre Le Grand (người cùng thời Trang tử) người Hy Lạp kéo quân đi đánh xứ Ba Tư, trên đường đi gặp nhà hiền triết Diogène, Alexandre dừng quân lại chào nhà hiền triết. Lúc ấy vào buổi sáng Alexandrre đứng về hướng đông, Diogène đứng phía Tây. Alexandre nói:

- Hiền sư Diogène! Ngài muốn gì ta ban cho?

Diogène bình thản nói:

- Ta muốn đứng ngoài ánh sáng mặt trời!

Câu của Diogène Câu nói của Diogènenói rất nhiều nghĩa và sâu sắc. Ta biết Alexandre tướng mạo đang đứng về phía đông che mất ánh sáng mặt trời ban mai, nên Diogène đuổi khéo Alexandre đi! Nghĩa thứ hai, Diogène không hề thích làm quan, "ta muốn đứng ngoài ánh sáng mặt trời", là ông ta muốn nói cuộc sống tự do tự tại. Các triết gia và sử gia đời rau cho rằng Diogène có nhiều điểm tương đồng với Trang Tử và Diogène là lãnh tụ của phái Cynismẹ Tư tưởng thoát tục và tự tại của những nhà tư tưởng, những triết gia dù Đông hay Tây cổ hay kim đều vĩ đại.

__________________


Trả Lời Với Trích Dẫn
  #45  
Old 11-21-2008, 09:22 AM
Miss_KhanhHa's Avatar
Miss_KhanhHa Miss_KhanhHa is offline
ZzTrung_HazZ
 
Tham gia ngày: Aug 2008
Bài gởi: 1,036
Send a message via Yahoo to Miss_KhanhHa Send a message via Skype™ to Miss_KhanhHa
Default

62.Chim Ác Dọa Chim Uyên Sồ



Huệ Tử làm Tướng quốc nước Lương (Ngụy). Trang Tử muốn qua thăm. Có người nói với Huệ Tử:

- Trang Tử đến đây là có ý muốn thay ông làm Tướng quốc đó!

Huệ Tử hoảng sợ cho lùng xét trong thành ba đêm, ba ngày.

Trang Tử đến gặp nói với Huệ Tử:

- Ở phương Nam có loài chim tên là Uyên Sồ, ông có biết không? Uyên Sồ phát xuất từ từ biển nam bay sang biển bắc, không phải là cây ngô đồng không đậu, không phải quả luyện (một loại quả rất thanh khiết) không ăn, không phải suối nước ngọt không uống. Bấy giờ có con chim Ác đang rửa xác con chuột thì nó thấy chim Uyên Sồ bay qua, ngẩng đầu nhìn Uyên Sồ, kêu một tiếng "quác" giận dữ (vì sợ Uyên Sồ giành mất mồi). Nay ông định đem cái chức vị Tướng quốc của nước Lương ra kêu "quác" dọa tôi đấy ư?

Lời Bàn:

Việc này không biết có hay không, không thấy bộ chánh sử nào nói. Văn của Trang Tử rất u mặc, viết toàn những chuyện hư cấu, có có không không, không biết đâu mà lần; hai làng ở trên hai con ốc đánh nhau; chim Bằng to lớn bay cao chín vạn dặm; Cá Côn lớn bằng cái biển... ! Chim Uyên Sồ là tác giả tự ví mình, biển nam, biển Bắc chỉ cho Tống và Ngụy. Tống là quê hương của tác giả ở phía Nam nước Ngụy. Chim Ác chỉ Huệ Vương, con chuột già chỉ cho chức vị Tể tướng...

Sau khi thiết lập một số hình ảnh tỷ giảo, tác giả phong bút ví von.bấy giờ người ta tranh giành tước vị không khác gì như bạn hàng trả giá cá tôm! Tôn Tẫn, Bàng Quyên, Điền Kỵ, Trâu Kỵ (đồng thời với tác giả) ở Ngụy, ở Tề; Nghiêm Toại, Hiệp Lũy ở Hàn... Có lẽ tác giả lấy mình và Huệ tử ra để chửi bọn chính khách bấy giờ. Và cũng có thể tác giả gửi lại cho hậu thế một nụ cười bí hiểm, mỉa mai và thâm trầm rất... hài hước.



63.Tần Thủy Hoàng Tìm Thuốc Trường Sinh



Năm 221 trước Công Nguyên nhà Tần đại Tống, Tần Vương Chính xưng Thủy Hoàng Đế (Vị Hoàng Đế đầu tiên). Tần Thủy Hoàng cho xây Ly Cung, Hoàn Lăng, A Phòng cực kỳ tốn kém.

Một buổi hội triều có một thuật sĩ nổi tiếng là Lưu Sinh bước ra nói:

- Thần nghe, Chân nhân là một vị ttu hành đắc đạo, trướng sinh bất lão, họ vào lửa không cháy, vào nước không cháy, có thể cưỡi mây cưỡi gió mà đi trong không khí như chim. Những vị ấy đều có thuốc quý, uống vào có thể sống đến ngàn, muôn tuổi!

Tần Thủy Hoàng cảm thấy sung sướng nói:

- Từ nay trẫm tự xưng là "Chân Nhân". Có ai vì trẫm mà đi tìm thuốc trường sinh bất lão không?

Tống Vô Kỵ tâu:

- Thần có người bạn tên Từ Phúc, thường qua lại chốn Bồng Lai, biết được Chân nhân ở đâu. Nếu "Chân nhân" tin dùng, thần sẽ tiến cữ người ấy.

Vua Tần cả mừng sai mời Vô Kỵ đi mời T ừ Phúc, Phúc vào yết kiến vua, Thủy Hoàng nói:

- Trẫm nghe ngươi biết chốn Bồng Lai, hãy nói sơ việc ấy ta nghe.

Phúc tâu:

- Trong biển Bột Hải ở bắc nước Tề cũ có ba ngọn núi thần, cây ngọc lá vàng, loan xòe phụng múa, những vị Chân nhân thường lui tới nơi đó. Tên gọi ba ngọn núi đó là Bồng Lai, Phương Tượng, Doanh Châu. Thuốc tiên ở nơi ấy.

- Ta phải làm sao để lấy được tthuốc trường sinh?

Từ Phúc tâu:

- Trường sinh là môn thuốc quý, ítt ai cầu mà được. Bệ hạ muốn tìm, phải đóng 10 chiếc thuyền lớn, trong tàu có 5 hạng thợ, chọn 500 đồng nam, 500 đồng nữ, phòng có lúc dùng đến họ. Thần sẽ vì bệ hạ mà đi tìm.

Tần Thủy Hoàng cả mừng làm theo đúng lời dặn của Từ Phúc. Từ Phúc hướng dẫn đoàn người lên đường... Mãi đến nữa năm mà không có tin tức gì Từ Phúc...

Lời Bàn:

Tần Thủy Hoàng là ông vua bạo ngược nhất nhân loại, cũng là một hoàng đế kiệt xuất của Trung Hoa. Khi ông thống nhất xong lục địa Trung Hoa, ông không "phong hầu kiến địa" cho ai cả.

Vị hoàng đế nào cũng có tham vọng sống lâu. Tần Thủy Hoàng rất tin bọn phương sĩ. Thuật luyện kim đan (còn gọi là linh đan, hay đan) của họ thường có kết quả ngược lại. Vì trong đan hầu hết có thủy ngân. Về sau, y sư Lý Thời trân trong "Ban thảo Cương Mục" có nói: "Thủy ngân là một chất độc, uống vào loét ruột, mục xương". Nhiều ông vua cả tin linh đan mà chết sớm.

Thuốc trường sinh là ước mơ không nguôi của loài người. Nhưng người ta có thể kéo dài sự sống mà không thể ngăn được sự chết. Xưa nay các vật thể có dạng trạng thái đều có sự thay đổi. Tần Thủy Hoàng đã hoang tưởng. Một ông vua hùng lược và sáng suốt như ông vẫn không tránh được sự hoang tưởng. Những Quảnh thành tử, Bành Tổ... Chỉ là sự hoang đường!

Từ Phúc đi tìm thuốc trường sinh mà đem theo 500 cặp đồng nam, đồng nữ, lại có đủ hạng thợ, xem ra đó là một sự mưu tính lâu dài. Những quần đảo trên biển đông như Nhật Bản, Bành Hồ,... không chừng là nơi trú ngụ của họ. Nơi ấy chính là cõi tiên, một miền đất hứa. Năm trăm cặp nam nữ ngày sau sẽ là 500 gia đình tạo dựng thành một làng, rồi lớn dần thành một phủ... Nơi ấy họ tránh được cảnh máu đổ thây phơi. Họ làm cuộc sinh tồn, sinh con cái trong cảnh nhân gian. Đó là chân nghĩa của thuốc quý dành cho con người. Và đó là... Chân nhân.
__________________



thay đổi nội dung bởi: Miss_KhanhHa, 11-21-2008 lúc 09:24 AM.
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #46  
Old 11-21-2008, 09:26 AM
Miss_KhanhHa's Avatar
Miss_KhanhHa Miss_KhanhHa is offline
ZzTrung_HazZ
 
Tham gia ngày: Aug 2008
Bài gởi: 1,036
Send a message via Yahoo to Miss_KhanhHa Send a message via Skype™ to Miss_KhanhHa
Default

64.Vong Tần Giả Hồ Dã


Ngày qua tháng lại, Từ Phúc đi quá lâu, cả năm trời mà không nghe tin tức gì. Vua Tần bụng nóng như lửa đốt liền kêu Lưu Sinh bảo:

- Trước đây ngươi khoe với ta từng biết Chân nhân. Ngươi và Tống Vô Kỵ bảo tấu cho Từ Phúc. Từ Phúc đi đến nay không có âm hao gì. Ngươi phải đi tìm hắn, nếu không được thì ngươi phải đi tìm cho được Chân nhân. Nếu không ngươi đừng gặp ta nữa!

Mặt Lưu Sinh cắt không còn giọt máu, lãnh lệnh ra đi.

Giữa trời nước mênh mông không biết tìm đâu cho ra Từ Phúc. Một hôm Sinh đến địa phận Thái Hoa thấy một người hình dạng cổ quái ngồi trên tảng đá, Sinh động tâm bước tới vái chào. Quái nhân hỏi:

- Có việc gì vậy?

Sinh thưa:

- Tiểu sinh vâng lời vua Tần đi tìm thuốc trường sinh. Dám xin tiên sinh dạy giúp một lời!

Quái nhân cười rộ, nói:

- Thủy Hoàng là một bạo chúa lại muốn sống lâu sao? Con người ta sống chết ở trời, sao vua Tần lại có ý ngông cuồng như thế. Làm gì có thuốc trường sinh bất tử?

Lưu Sinh cầu khẩn:

- Tiểu sinh là người phàm mắt thịt óc não ngu muội. Tiên sinh có cách nào cứu giúp tiểu sinh.

Quái nhân một thoáng suy nghĩ, nói:

- Ta cho ngươi vật này.

Nói rồi ông bước vào động lấy quyển sách đưa cho Lưu Sinh, nói:

- Hãy đưa cho vua Tần xem quyển sách này trong đó có nói đến lẽ sinh tồn vong.

Lưu Sinh xem lại, sách có tên "Thiên Lục Bí Quyết". Sinh muốn hỏi lại một vài điều chưa rõ, nhưng quái nhân đã vào cõi nhập định. Sinh đem sách về dâng cho vua Tần rồi thuật lại cho mọi việc. Nhà vua mở xem, thấy sách viết theo lối "khoa đẩu". Vua không đọc được, bèn sai Thừa tướng Lý Tư đọc. Lý Tư đọc và giảng cho vua nghe, lời trong sách huyền nhiệm khó hiểu, đại ý nói về sự biến dịch của trời đất. Ngoài ra còn có câu: "Vong Tần giả, Hồ dã" (kẻ làm mất nhà Tần là Hồ).

Tần Thủy Hoàng thất kinh nói:

- Cứ như sách, thì rợ Hồ sẽ xâm lược nước Tần ta!

Vua Tần lo sợ, liền sai Đại tướng Mông Điềm đem 30 vạn quân đi đánh hung Nô, lại còn bắt thêm 80 vạn dân đi xây Vạn lý trường thành!

Lời Bàn:

Dĩ nhiên đám Từ Phúc như chim trời cá nước biền biệt trời mây tìm đâu cho rả Đoàn người đi tìm thuốc trường sinh không về. Tần Thủy Hoàng bắt Lưu Sinh đi tìm cho được Từ Phúc, nếu không tìm ra, thì phải tìm cho được Chân nhân! Hỡi ơi!... Nếu Chân nhân có thực thì đời nào đến ông vua bạo ngược? Cũng may Lưu Sinh tìm được vị "Dị nhân" cho một quyển "bí quyết" trong đó có câu sấm: Vong tần giả, Hồ dã. Năm chữ này khiến vua Tần lo sợ mà xây Vạn Lý Trường Thành. Bức Trường thành này trước đây thời chiến quốc, Yên, Triệu đã xây từ Miên huyện Cam Túc chạy đến Liêu Đông (Trường thành này dài trên 4000km, cao từ 15 m tới 30 m, rộng từ 12 tới 20 m, không phải hoàn toàn do công của Tần Thủy Hoàng. Sau này, Tấn, Bắc Ngụy, Đường, Minh đều có xây thêm). Người chết ở bên hào Vạn Lý Trường Thành cả chục vạn! Với năm chữ đó, khiến cho diện mạo chính trị của nhà Tần cũng thay đổi hết sức to lớn.

Sự thất bại trong việc tìm thuốc trường sinh để Lý Tư có cớ phỉ báng Nho học, để không có học sĩ nào tâu trình những việc của họ Lý làm. Kết quả Tần Thủy Hoàng ra lệnh đốt hết sách vở có từ trước đến đương thời (trừ sách thuốc, sách canh nông và sách bói toán). Cấm ngặt sự trước tác. Chỉ có 70 vị bác sĩ nhà Tần mới có quyền tác trước. Ai vi phạm sẽ bị tự tử. Lý Tư còn tâu lên vua Tần cho chôn sống hơn 460 nho sinh, nhữg người bị tình nghi có liên quan đến việc "tìm thuốc trường sinh", làm sách phỉ báng chế độ, xúi giục dân chúng nổi loạn...

Năm chữ "Vong Tần giả, Hồ dã" mà vua Tần hiểu là nước Tần mất do Hồ, đã khiến chiến tranh Tần, Hồ kéo dài ngót 10 năm, xương trắng phơi đấy trên khắp thung lũng, bên dưới chiến hào Vạn Lý.

Nhưng "Vong Tần giả, Hồ dã" đã khiến vua Tần phải hiểu nghĩa một cách lệch lạc như vậy là do Lý Tư cắt nghĩa! Lý Tư là kẻ khát máu, là một tay dùng chiến tranh để trục lợi. Thử hỏi Hồ dân số bao nhiêu? Văn minh Hồ là là những gì? Thủ đô ở đâu? Tần bấy giờ là một đế quốc to lớn phía nam đến tận Nhật Nam (Quãng Bình Hà Tĩnh ngày nay), phía Bắc đến Mông Cổ, phía Tây đến Tây Tạng. Dân số toàn lục địa Trung Hoa thời đó trên 50 triệu, can gì bị Hồ với dân số chưa đầy một triệu tiêu diệt?

Nếu có ai đặt ngược lại vấn đề, tại sao Mông Cổ lại có cơ hội đè bẹp Trung Hoa? Hai bối cảnh ấy khác nhau. Vì nhà Tống kể từ Huy Tôn trở đi, vua tới quan đều hèn nên bị thống thuộc vào Liêu Kim. Còn Mông Cổ lo thống nhất các bộ lạc, xong, lần lượt thôn tính các nước Trung Á, Tây Á, Đông Âu, quay lại đánh Liêu Kim, rồi mới thôn tính nhà Tống, chương trình ấy hết đời Thành Cát Tư Hãn vẫn chưa xong. Và Thành Cát Tư Hãn là một Đại Hãn hùng tài đại lược từ Tần đến 5 thế kỷ sau Hồ đã làm được những gì? Sách lược của Lý Tư đã làm hao tổn nhân mạng và của cải. Có Vạn Lý Trường Thành đó tại sao đời Đông Tấn có nạn "Ngũ Hồ loạn Hoa"? Tại sao đời Nam Tống có nạn quân Mông? Nếu quân lực của Hồ hùng cường thì chồng lên 10 Vạn Lý Trường Thành, người Hồ vẫn vượt qua như thường!

Sau này ta mới biết rằng, năm chữ "Vong Tần Giả, Hồ dã" có nghĩa rất rõ là: "Kẻ làm mất nước Tần chính là Hồ Hợi" Thừa tướng Lý Tư có tài, nhưng ông cũng là người rất đa đoan quỷ quyệt, một tay trục lợi thứ thiệt. Đại sứ gia Tư Mã Thiên nói: "Tần Thủy Hoàng đến cùng Lương Sơn, đứng trên núi nhìn xuống thấy đoàn xe đi săn của Thừa tướng đến ngàn cỗ, quân kỵ rất đông, vua rất không bằng lòng... sau đó có kẻ thóc mách lại cho Lý Tư, Lý bèn bớt lại... Vua Tần ra lệnh cho giết những kẻ đó!"

"Vong Tần giả, Hồ dã" đó là câu sấm đã biết. Biết nhưng có tránh được không? Trước đây nhà thao lược Ngô Khởi nói: "Giữ nước cốt ở Đức chứ không dựa vào núi sống hiểm trở". Tần có ải Hàm Cốc, "một người giữ muôn người khó qua", cớ sao lại mất nước? Cả triều đình nước Tần đều là những kẻ bạo ngược: Tần Thủy Hoàng, Hồ Hợi (Tần Nhị Thế), Lý Tư, Triệu Cao, Diêm Nhạc, Triệu Thường... Là những kẻ bạo ngược. Khi nhà Tần thống nhất thiên hạ 221 trước Công Nguyên, cho đến khi chấm dứt nhà Tần 206 trước Công Nguyên vỏn vẹn có 15 năm so với nhà Chu 870 năm thì đủ biết cái đức của nhà Tần không có! Đáng để tang cho giấc mộng của Tần Thủy Hoàng! Ông ta nói: "Ta là hoàng đế đầu tiên, con ta sẽ là Nhị Thế, cháu ta là Tam Thế... truyền mãi mãi vạn thế".
__________________


Trả Lời Với Trích Dẫn
  #47  
Old 11-21-2008, 09:29 AM
Miss_KhanhHa's Avatar
Miss_KhanhHa Miss_KhanhHa is offline
ZzTrung_HazZ
 
Tham gia ngày: Aug 2008
Bài gởi: 1,036
Send a message via Yahoo to Miss_KhanhHa Send a message via Skype™ to Miss_KhanhHa
Default

65.Trương Lương Thích Khách Tần Thủy Hoàng

Trương Lương người nước Hàn, tự là Tử Phòng, tổ tiên năm đời là khanh tướng. Nước Hàn mất, Lương ôm hận bỏ nhà đi, liên kết với những kẻ sĩ trong thiên hạ. Lương đi về Đông đến yết kiến Thượng Hải Quân nhờ giới thiệu cho một dũng sĩ. Dũng sĩ có tên là Lương Hải Biên. Lương và Biên tỏ chí hướng cho nhau, Lương nói:

- Tần Thủy Hoàng là ông vua bạo ngược, khiến trăm họ lầm than. Tần Thủy Hoàng đã tiêu diệt nước tôi, lòng tôi căm hận bời bời. Nếu dũng sĩ giúp tôi mà giết bạo Tần sẽ được lưu danh muôn đời!

Lê Hải Biên bằng lòng.

Trương Lương tự mình đi thám thính, biết vua Tần đi về đông qua vùng bãi cát Bác Lăng, Lương báo cho Lê Hải Biên biết. Biên nấp bên gò chờ xa giá vua Tần đi qua...

Tiếng trống vang dội, long xa ló dạng, Hải biên cầm chặt quả chùy nặng ngót trăm cân đứng đợi. Xe qua cạnh gò, Hải Biên tung chùy vào xe bể nát, tất nhiên không có vua Tần bên trong xe này! Bọn vệ sĩ bắt được Lê Hải Biên. Vua Tần tra hỏi, Lê Hải Biên mắng chửi vua Tần một hồi rồi đập đầu tự sát. Vua Tần cho tra xét người chủ mưu gắt gao. Trương Lương cả sợ chạy trốn qua Hạ Bì...

Lời Bàn:

Trước đây Thái tử Đan nhờ Kinh Kha đi thích khách bạo Tần vì sợ Tần thôn tính nước mình. Kinh Kha vì kiếm thuật không thông nên sự việc bất thành. Kế đến Cao Tiệm Ly (bạn Kinh Kha) vào Hàm Dương hát dạo, lập kế gần vua Tần. Ly dùng ống sáo trúc đổ chì (cho nặng) đập vào đầu vua Tần nhưng hụt, vì lúc ấy mắt Ly đã mù (tự hủy để được gần vua Tần). Bây giờ đến Trương Lương. Trương Lương ám sát vua Tần để trả thù cho nước Hàn. Mục đích của Trương Lương và Đan giống nhau, là quyết giết vua Tần, nhưng chí hướng khác nhau. Đan giết vua Tần vì hận Tần giam Đan, không chịu thả về Yên, đồng thời giết được vua Tần là trừ được cái họa hung họa cho thiên hạ, ngăn chặn làn sóng xâm lăng của Tần sắp tràn vào bờ cõi nước Yên! Chí hướng ấy thật là cao cả. Còn hiện tại, Tần Thủy Hoàng đã thâu gom sáu nước, chứ không riêng gì nước Hàn. Đọc lịch sử ta thấy, Tần Thủy Hoàng lấy được nước thiên tử Chu 255 trước Công Nguyên thì đích thân vua Hàn vào Hàm Đan chúc mừng, đó là cái đốn nhục của ngàn đời. Nhà Chu mất đáng ra vua Hàn phải để tang mới đúng đạo thần tử. Từ đó khi mỗi ông vua Tần qua đời thì vua Hàn lại vào Hàm Dương để trở và "xưng thần" với Tần. Lý ra Trương Lương phải nguyền rủa nước mình mới phải. Điều Lương nói Lê Hải Biên: "Tần Thủy Hoàng đã tiêu diệt nước tôi, lòng tôi căm hận bời bời. Nếy tráng sĩ giúp tôi mà giết bạo Tần sẽ được lưu danh muôn thưở" Ngôn ngữ ấy có vẻ hùng tráng lắm, nhưng đó là câu sáo rỗng. Vì Tần bây giờ là công địch của sáu nước. Người nào cũng có quyền giết Tần chứ không riêng gì Trương Lương. Tình trạng này ai giúp ai, chỉ giúp nhau để đạt mục đích "lưu danh muôn thưở", cái bả hư danh ấy... Cũ rích! Trương Lương nói như vậy là tự cho mình có nghĩa khí. Thật ra Trương Lương có thói xem thiên hạ là công cụ của mình. (xin xem bộ Nhân Vật Hán Sở của Ngô Nguyên Phi). Lương có bổn phận đi do thám Tần Thủy Hoàng nhưng do thám không xong. Vua Tần biết thiên hạ muốn giết, thì đời nào ông chịu ngồi trên "long xa phụng táng" một cách hớ hênh như vậy? Tần Thủy Hoàng và Trương Lương cùng trạc tuổi nhau. Suy ra mưu trí vua Tần cao xa hơn Lương nhiều lắm.Dù sao việc Trương Lương thích khách Tần Thủy Hoàng cũng gây một tiếng vang lớn trong thiên hạ, và cũng chứng tỏ được chí khí bất khuất của mình.


66.Một Quyết Tâm


Đại phu nước Sở là Bạch Công Thắng (cháu nội của Sở Bình Vương) suốt ngày chỉ suy nghĩ đến việc giết Tử Tây (tên Thân, con thứ của Sở Bình Vương, chú của Thắng) và đánh Trịnh. Ông ta đứng suốt buổi sáng ngẩn người, bất động đến nỗi cây roi ngựa cầm trên tay trở ngược, cái đầu nhọn đâm vào cằm máu chảy xuống đất mà Thắng không hay!

Người nước Trịnh nghe chuyện ấy bảo:

- Máu mình chảy xuống mà còn quên, thì còn gì mà không quên?

Nên có thể nói, người tập trung ý chí cao độ dẫu có vấp vào cây, có va vào đá, có lăn xuống hố... Cũng không hề biết.

Lời Bàn:

Đoạn văn này cũng có chút đạo khí, vì nói đến ý chí gần đến chỗ tuyệt đối. Nhân gian không có gì là tuyệt đối! Nước Trịnh giết cha Thắng (Thái Tử Kiến, Tấn xâm lược Trịnh, Trịnh cầu cứu Sở). Sở Tử Tây là chú Thắng đi cứu Trịnh, vì thế Thắng thù Tử Tây! Thật ra trước đó, Tử Tây đã từng giúp đỡ Thắng. Bây giờ mọi việc đều dính dáng đến lịch sử ta bỏ qua, chỉ nói đến ý nghĩa của sự quyết tâm! Quyết tâm của Thắng hết sức cao độ đến nỗi vật nhọn đâm vào người đổ máu mà không hay!

Ở Việt Nam ta có một trường hợp tương tự, khi quân Nguyên đang xâm chiếm nước Việt, lúc ấy Phạm Ngũ Lão chỉ là một dân đinh, nhưng lòng canh cánh muốn cứu nước. Ông ngồi đan sọt giữa đường, xe của tướng quân Trần Hưng Đạo đi qua, mặc dù có lính tiền hô hậu ủng, Phạm Ngũ Lão vẫn không haỵ Mũi giáo của một tên lính đâm vào đùi ông đổ máu, ông cũng không hề biết!

Trường hợp của Phạm ngũ Lão còn lạ lùng hơn Bạch Công Thắng nhiều. Chừng ấy, theo người xưa, Phạm ngũ Lão xứng đáng làm Thánh nhân rồi!

Xin nói rộng thêm, Thắng chỉ vì thù nhà, nhưng thù không đúng chỗ. Nước Trịnh giết cha Thắng (là Kiến) là lỗi của Kiến muốn bán nước mình cho Tấn. Và Tử Tây cứu Trịnh với một nghĩa cử, vậy mà thắng quyết trả thù. Còn Phạm ngũ Lão thì quyết cứu nước!...
__________________


Trả Lời Với Trích Dẫn
  #48  
Old 11-21-2008, 09:31 AM
Miss_KhanhHa's Avatar
Miss_KhanhHa Miss_KhanhHa is offline
ZzTrung_HazZ
 
Tham gia ngày: Aug 2008
Bài gởi: 1,036
Send a message via Yahoo to Miss_KhanhHa Send a message via Skype™ to Miss_KhanhHa
Default

67. Điều Nào Nhục Hơn


Nước Tề có một người nghèo khổ, thường hay ăn xin ở chợ trong thành. Ai nấy đều chán ghét hắn, vì hắn thường xin nhiều lần. Giờ thì không còn ai muốn bố thí cho hắn nữa.

Người khốn cùng đó tìm đến nhà họ Điền làm tạp dịch cho tên mã phu của họ Điền để kiếm ăn. Có người nói với kẻ khốn cùng đó:

- Làm việc cho một tên chăn ngựa để tìm miếng ăn, ngươi không cảm thấy nhục sao?

Người kia đáp:

- Cái nhục lớn nhất là đi ăn xin. Trước đây tôi đã từng đi ăn xin mà chưa thấy nhục, huống chi nay được làm khổ dịch cho người chăn ngựa kiếm miếng ăn thì nhục nỗi gì?

Lời Bàn:

Thậm chí đi ăn xin cũng chưa phải là nhục. Người ta xin ăn (trừ bọn ăn bám xã hội) vì thời cuộc, hoàn cảnh, tật nguyền... đó là giải pháp tạm thời của những kẻ không đủ điều kiện để kiếm sống. Mãi đến đầu thế kỷ hai mươi, ở Trung Hoa vẫn còn "Cái Bang". Vua Lê Thánh Tôn của ta viết về "Ăn mày":

Chẳng phải ăn đong chẳng phải vay,

Lộc trời để lại được... ăn mày!

Nếu kẻ lười biếng thấy việc lao động cho là khó nhọc, đi ăn xin khỏe hơn, kẻ ấy mới đáng gọi là nhục. Lời chất vấn của ông khách kia là không đúng! Làm thuê cho một nhà giàu, hay cho một người chăn ngựa cũng là lao động, miễn là việc làm ấy đừng vi phạm đến pháp luật là được.


68. Nhân Đạo Hay Bất Nhân



Người dân ở Hàm Đan (Kinh đô nước Triệu) có tục: Cứ ngày mồng một đầu năm họ mang chim Ban Cưu đến bán cho Triệu Giản Tử. Triệu Giản Tử vui mừng thưởng tiền bạc cho họ rất nhiều. Có người chất vấn Giản Tử:

- Ngài mua chim Ban Cưu làm gì?

Giản Tử nói:

- Ngày đầu năm ta thích phóng sinh để thể hiện cái ân đức của ta.

Người kia nói:

- Mọi người biết ngài hay phóng sinh chim nên mới tranh nhau đi bắt chim, như vậy chim Ban Cưu chết vào ngày ấy rất nhiều. Nếu ngài thật muốn cho chim sống sao không lệch cho mọi người đừng bắt chúng? Chứ như bắt rồi mới phóng sinh e rằng ân đức này không bù đắp nổi tội ác này.

Triệu Giản Tử khen:

- Ông nói đúng lắm!

Từ đó ông không mua chim vào ngày đầu năm nữa.

Lời Bàn:

Triệu Giản Tử ở vào đầu thời kỳ chiến quốc (giữa thế kỷ thứ V trước Công Nguyên), thời này Phật giáo chưa du nhập vào Trung Hoa, nên việc phóng sinh có lẽ ảnh hưởng ở Đạo giáo. Sở dĩ có những cuộc phóng sinh là vì họ tôn trọng quyền sống của loài vật. Mọi sinh vật đều có quyền sống như nhau. Nhưng tại sao chỉ phóng sinh chim Ban Cưu mà thôi? Lý ra Giản Tử phải phóng sinh hết tất cả các loài chim. Nghề săn bắt chim để ăn thịt cũng là một nghề sinh sống của người xưa nên khó mà cấm họ. Có thể dùng triết lý nào đó để giảng giải cho họ biết rằng: Không nên giết những con vật hiền lành và vô hại như chim, thỏ, nai, rùa... để đước phúc đức. Thời cổ vua Nghiêu đi săn, trước khi bủa lưới thì vái: "Con nào có cánh thì cao bay, con nào có chân thì mau chạy, chớ có vào lưới ta" Tục lệ đó rất phổ biến ở Triều Thành Thang (nhà Thương), nên mới có thành ngữ "mở lưới thành Thang" (phóng sinh để lấy đức).

Quy định phóng sinh phải chọn ngày mồng một đầu năm, rõ ràng đó là hại chim. nếu có lòng nhân từ cũng không thể gặp đâu mua đó, tiền đâu mà mua chỏ Cũng không thể mua tượng trưng để mà thả, làm gương cho người khác noi theo. Sự phóng sinh chim là lòng tốt, nhưng làm cách nào để người ta khỏi bắt chim đó mới là việc ân đức.

Ngày nay, lễ phóng sinh thường vào những ngày Phật Đản, Lễ Vu Lan, Thích Ca thành đạo, Phập Nhập Niết Bàn, Thượng Nguyên, Hạ Nguyên... những ngày đó người ta bán chim, thú rất nhiều và rất đắt. Có lẽ đến ngày đó các loài chim thú chết rất nhiều.

Phóng sinh là một tập tục tốt giúp cho con người giảm bớt đi tính dã man. Nhưng có chuyện phóng sinh thì có sự săn bắt chim thú để bán. Không phóng sinh thì người ta vẫn bắt chim thú (làm nhu cầu thực phẩm) đều đều như mọi ngày. Khó mà bàn đến một phương pháp hoàn hảo. Thôi thì... tùy theo "căn cơ và duyên cơ của chúng sinh".
__________________


Trả Lời Với Trích Dẫn
  #49  
Old 11-21-2008, 09:33 AM
Miss_KhanhHa's Avatar
Miss_KhanhHa Miss_KhanhHa is offline
ZzTrung_HazZ
 
Tham gia ngày: Aug 2008
Bài gởi: 1,036
Send a message via Yahoo to Miss_KhanhHa Send a message via Skype™ to Miss_KhanhHa
Default

69.Học Phép Trường Sinh Bất Tử



Vua Chiêu Dương nước Yên nghe đồn có một phương sĩ biết phép trường sinh bất tử liền sai người đến học thuật đó (để về truyền lại cho ông). Người ấy học chưa xong thì thầy có thuật bất tử kia đã "tử chi hoành hoạch" (chết). Chiêu Dương Vương tức giận muốn xử tử kẻ sai đi học kia. Một bề tôi được vua sủng ái liền can:

- Cái mà người ta lo nhất là không ai thoát khỏi cái chết. Cái mà người ta quý nhất là mạng sống. Chúa công biết quý trọng mạng sống sao phải giết người? Vả lại thầy phương sĩ kia chết đi, chứng tỏ rằng ông ta không có thuật trường sinh bất tử gì cả!

Yên Vương nghe qua không xử tử người đó nữa.

Lại có người nước Tề lại muốn đi học thuật trường sinh bất tử ấy, nhưng khi nghe thầy phương sĩ kia chết, ân hận đấm ngực thống trách chính mình, Phú Tử đùa với anh ta:

- Thầy phương sĩ đã chết rồi mà anh vẫn còn ân hận, té ra anh không hiểu gì về cái học ấy cả!

Nhưng có người cãi với Phú Tử:

- Lời của thầy sai rồi! Biết đâu có người nắm được lý thuyết về bí thực mà không thực hiện được? Lại có loại người thực hành được nhưng không hiểu gì về lý thuyết. Kìa, nước Vệ có một người rất giỏi về toán học, trước khi chết đem bí quyết ra dạy cho con, nhưng người con chẳng vận dụng gì được cả. Người khác đến xin học người con ấy, người con cũng chỉ đọc khẩu quyết của cha đọc lại, người kia lãnh hội được, phát huy môn toán đâu kém gì người đã truyền bí quyết. Cứ vậy mà xét thầy phương sĩ kia cũng có thể biết được lý thuyết của thuật trường sinh.

Lời Bàn:

Sử nói: "Yên Chiêu Vương rất mê thuật trường sinh. Ông lợi dụng nhiều kim đan nên cuối cùng phải chết non" (khoảng 50 tuổi). Yên Chiêu Vương là một bậc minh quân, biết dùng Nhạc Nghị phá được Tề, giết được Tề Mân Vương để trả thù cho xã tắc. nhưng nhà vua ra lệnh giết người đi học phép trường sinh kia là vô lý. Tên phương sĩ kia đã lường gạt những kẻ ham sống đến "vạn tuế", thực ra hắn không có thuật gì cả, bằng chứng là hắn đã chết, thế mà nhà vua vẫn không tỉnh ngộ. Hơn nữa, học phép trường sinh bất tử, tức là phải yêu cái sống, đã yêu mạng sống sao lại giết người? Đó là mâu thuẫn.

Anh chàng nước Tề cũng thích sống lâu muôn tuổi, nên muốn đi học thuyết trường sinh, bất ngờ lão thuật sĩ kia chết, anh ta ấm ức oán trách mình, sao không chịu đi học sớm? Sự mê tín mất hết lý trí, gọi là cuồng tín. Cái chết của phương sĩ chứng tỏ được rằng, lão ta chỉ là kẻ rỗng tuếch. Sau này Tần Thủy Hoàng sống được 45 tuổi, ông chết sớm vì cả dùng thuốc "trường sinh" kim đan, vài năm cuối đời người ông khô cằn, gầy đét, da xám, môi thâm, tính tình gắt gỏng, chứng tỏ ông đã bị kim đan hành hạ. Người nào đó nói: "Có thể có người hiểu lý thuyết trường sinh mà không thực hiện được... ", trên lĩnh vực nào đó thì đúng. Vì thời thượng cổ đến lúc đó (có thể kể đến hôm nay) có ai đắc đạo trường sinh?

Trong đạo giáo có những vị như Trần Đoàn, Trương Tam Phong, Lã Động Tân, Hàm Tương Tử... Chỉ sống ngoài trăm tuổi, trong khi đó có một vị sống đến 174 tuổi là tối đạ Vì những người đó biết được phương pháp dưỡng sinh "Thanh tâm quả dục".

Trường sinh bất tử chỉ là giấc mộng hão huyền.



70.Trương Lương Gặp Huỳnh Thạch Công


Một hôm Trương Lương lòng buồn rười rượi bèn đi dạo chơi cho khuây. Một ông già qua cầu làm rớt chiếc giày xuống nước. Lão gọi Trương Lương nói:

- Này chú, hãy nhặt giúp giày cho ta!

Lương muốn cự lão, chợt nhìn thấy lão đã già, liền nén giận xuống cầu lấy giày đem lên. Lão bảo:

- Xỏ vào cho ta!

Vì đã trót lượm giày, nên Lương cũng quỳ xuống xỏ cho lão. Đi được vài bước lão lại đánh rơi giày nữa! Cứ như thế Lương phải nhặt và xỏ giày cho lão đến ba lần! Lão bỏ đi! Lương trừng mắt nhìn theo... Lão đi chừng một dặm thì quay lại, thấy Lương vẫn còn đứng đó... Lão nói:

- Thằng nhỏ này dạy được!

Rồi lão nói:

- Năm ngày sau, sáng sớm mày đến nơi đây gặp ta!

Lương lấy làm lạ, vội quỳ xuống đáp:

- Dạ!

Năm ngày sau, sáng sớm Lương đến chỗ hẹn, đã thấy lão đứng saÜn ở đó rồi. Lão giận nói:

- Đã hẹn với người già cả, mà đến sau là sao.

Lão lại dặn:

- Năm ngày nữa sẽ gặp ở đây thật sớm!

Năm ngày sau lúc gà gáy Lương đến nơi hẹn, đã thấy lão đến trước. Lão giận, nói:

- Sao lại đến trễ?

Lão ra đi dặn tiếp:

- Năm ngày sau đến cho sớm!

Năm ngày sau chưa tới nửa đêm Lương đã tới điểm hẹn đứng chờ. Một lát lão cũng đến, lão đưa ra quyển sách, nói:

- Đây là quyển "Thái công binh pháp". Đọc quyển này sẽ làm thầy bậc vương giả. 13 năm sau ngươi sẽ gặp tạ Hòn đá màu vàng ở chân núi Cốc thành phía Bắc sông Tế là ta đó!

Lão nói rồi bỏ đi. Lương đem sách về miệt mài nghiên cứu.

Lời Bàn:

Trương Lương có tính kiên nhẫn thật đáng khen. Nhưng trong cái kiên nhẫn của Trương Lương vẫn có sự tính toán. Sử gia Tư Mã Thiên nói: "Trương Lương định đánh lão già xấc xược này, nhưng thấy lão có vẻ tiên phong đạo cốt nên thôi". Trương Lương chịu khó lượm dép và xỏ dép ba lần cho lão là cốt để lão dạy cho điều gì đó, có thể là kỳ thư bảo điển, có thể là một tin tức bí mật, cũng có thể là một bảo vật... Có lẽ Trương Lương đọc được điều ấy trong gương mặt lão mới chịu khó làm đến ba lần một việc trái tai gai mắt thế này. Hành động này không phải là kiên nhẫn mà muốn thủ lợi. Hành Động ấy còn tệ hơn Hàn Tín luồn trôn! Người đời cho Lương hiền trí, Hàn Tín là hèn hạ. Đó là quyền của họ. Tín giúp cơ nghiệp nhà Hán kéo dài đến 400 năm, nhưng vợ chồng Lưu Bang, Lã Trĩ là những kẻ độc ác, hay giết những người có đại công và đại tài. Hàn Tín bị Bang giết, còn Trưong Lương khéo nịnh hót, nên sử nhà Hán mới chửi Hàn Tín mà ca ngợi Trương Lương. Giả sử nhà Hàn thọ chừng vài mươi năm như Tần, thì người ta sẽ coi như một Lý Tư, chẳng khác tý nào!

Lương kiên nhẫn đến gặp lão già ấy ba lần cũng chỉ là để xin xỏ. Còn lão kia, ông Tiên Hoàng Thạch Công nào đó cũng có thể là một lão du hiệp như Đường Thư, lão muốn gởi gắm mối thù của mình vào Trương Lương trả dần (cũng giống như Lương đã nhờ Lê Hải Biên). Còn việc hòn đá vàng với 13 năm sau thì quá dễ. Lão cứ sai người đem hòn đá vàng dị dạng đến đặt nơi đó. Lương có đến thì gặp, không đến thì thôi, có sao đâu? Mặc dù thuở đó cũng có một đạo sĩ tên là Hoàng Thạch Công (tác giả của một bộ phong thủy xoàng xĩnh) khá nổi tiếng, nhưng người ta chỉ nghe tiếng đồn chứ không ai biết mặt, ngay cả những bộ chính sử tiền hậu Hán thư cũng không có. Mãi đến đời nhà Đường còn nghe lão xuất hiện đủ biết đây là chuyện hoang đường. Hơn nữa, Lương là tay xảo nguyệt khó mà tin lời của Lương được.

Điều cần ghi nhận ở đây giúp ai việc gì thì phải tận tâm chứ không làm lấy lòng lấy lệ. Và đã hẹn ai điều gì thì đừng nên thất hẹn.
__________________


Trả Lời Với Trích Dẫn
  #50  
Old 11-21-2008, 09:34 AM
Miss_KhanhHa's Avatar
Miss_KhanhHa Miss_KhanhHa is offline
ZzTrung_HazZ
 
Tham gia ngày: Aug 2008
Bài gởi: 1,036
Send a message via Yahoo to Miss_KhanhHa Send a message via Skype™ to Miss_KhanhHa
Default

71. Lý Tư, Triệu Cao Mưu Việc Phế Lập



Tháng 20 năm thứ 37 (211 trước Công Nguyên) Tần Thủy Hoàng, nhà vua đi tuần thú phương Đông, theo vua có Thừa tướng Lý Tư, Trung Thư lệnh Triệu Cao (hoạn quan) và con nhỏ vua là Hồ Hợi cùng một số quan lại thân tín đi theo. Vua dọc Trường Giang ra đến biển, nhìn trời nước mênh mông mà uất ức vì nhớ đến chuyện đi tìm thuốc của Từ Phúc trước đây bặt vô âm tín. Trong lúc đó có nhiều người nói với vua Tần: "Thuyền của Từ Phúc bị cá lớn đón đường". Cá lớn tức là Sa Ngư (cá nhám, cá mập). Vua Tần truyền sắm cung nỏ chuẩn bị bắn Sa Ngư.

Nhà vua dùng thuyền đi dọc ven biển lên đến Lang Gia (Tề) thì có Sa Ngư xuất hiện. Vua Tần cùng đoàn cung thủ xúm bắn Sa Ngư chết. Nhà bếp nấu Sa Ngư vua cùng mọi người ăn khen:

- Ngon!Thịt thơm lắm!

Long xa quay về, dọc đường vua nhuốm bệnh, biết mình không sống được, nghĩ lại lòng thấy thương Thái tử Phù Tộ Phù Tô hiền hiếu, vì can vua đừng giết học sĩ, đừng đốt sách, vua Tần cả tin Lý Tư nên nổi giận đày Phù Tô ra biên giới Tần, Hồ làm đốc công giúp tướng Mông Điềm coi việc xây Trường Thành. Tần Thủy Hoàng viết chiếu truyền ngôi cho Phù Tô, rồi kêu Lý Tư, Triệu Cao lại trăn trối:

- Phù Tô là người hiền hiếu đáng được nối ngôi. Trẫm vì một phút nóng giận mà đối xử với con quá khắc nghiệt. Trẫm có chết, các khanh nên tận tình giúp Thái tử giữ ngôi báu.

Nói rồi trao chiếu thư cho Triệu Cao !

Vua Tần băng hà tại Sa Khâu tháng 7 năm thứ 38 (210 trước Công Nguyên).

Triệu Cao và Lý Tư ém nhẹm việc vua băng hà không cho bá quan biết. Cao nói với Lý Tư:

- Nếu Phù Tô làm vua thì chúng ta chết không có đất chôn. Nay phải giả chiếu để Hồ Hợi làm vua!

Lý Tư không chịu, nói:

- Không được! Không thể phụ lòng ủy thác của Tiên đế!

Triệu Cao đem lời lẽ hơn thiệt lẫn hăm dọa ra thuyết phục, Lý Tư mới nghe theo.

Triệu Cao liền giả chiếu chỉ, rồi niêm phong có ấn Hoàng Đế gởi ra biên giới cho Phù Tô và Mông Điềm, buộc hai người phải tự sát, binh quyền giao lại cho Vương Ly.

Mông Điềm nói với Phù Tô:

- Thái tử không nên tự sát vội, phải cho người về triều dò xét hư thực, bọn Lý Tư, Triệu Cao là những tên điêu ngoa man rợ, không chắc đây là chiếu chỉ thật.

Sứ giả là Triệu Thường cháu của Triệu Cao, giục phải chết liền.

Phù Tô nói:

- Phụ Vương tính nết như thế nào, hằng ngày ta quá biết. Nay vua cha bảo chết, làm Thần tử sao dám trái lời?

Nói rồi uống thuốc độc tự tử. Còn Mông Điềm bị bắt giam vào ngục. Mông Điềm uất ức tự sát trong ngục!

Xác của vua không liệm (vì sợ lộ), vài ngày sau bốc mùi hôi thối, Triệu Cao cho mua mấy giỏ cá ươn để đánh lộn mùi. Về đến Hàm Dương mới liệm. Lúc đó sứ giả về báo tin, Lý Tư và Triệu Cao cả mừng liền báo tang rồi tôn Hồ Hợi lên làm vua đế hiệu là Tần Nhị Thế (đầu năm 209 trước Công Nguyên).

Lời Bàn:

Qua đoạn này ta biết, quả là "cơ trời dâu biển đa đoan" (Kiều). Tần Thủy Hoàng đi lần này để tế lễ phong thiện, cúng bái các vị Thánh Vương ngày trước như Hạ Vũ, Nghiêu, Thuấn, giết được cá dữ Sa Ngư, nhưng không ngờ vua Tần tạ thế ở Sa Khâu, nghĩa là "Chết không may" (bất đắc kỳ tử, vì chết dọc đường). Đây là triệu chứng của sự sụp đổ. Một ông vua hùng lược như vậy lại tin dùng những tên gian độc, để bọn chúng gây ra những việc tày trời. Trách ai?

Lý Tư chịu không biết bao nhiêu ân sủng với vua Tần, lại đi đồng loã với tên Triệu Cao. Thật đáng khen cho cái chức vụ Thừa tướng của hắn. Nhưng người ta cũng thắc mắc, chiếu thư kia thuộc về triều đình sao vua Tần không đưa cho Lý Tư mà lại đưa cho tên Triệu Cao? Thật là "ma dắt lối quỷ đưa đường, lại tìm những chốn đoạn trường mà đi"! Vua Tần thất đức thấy rõ. "Thánh thể" đó đánh lộn sòng với giỏ cá thối. Ôi! Mai mỉa biết bao! Ông và Tề Hoàn Công, một bá một đế kiệt xuất, qua cái chết không ai may mắn hơn ai!

Ghi chú: Tề Hoàn Công mất trong cùng, không trăng trối được lời nào, vì không chịu nghe lời Quảng Trọng và Bảo Thúc Nha, thi thể để sình ươn tới 67 ngày, dòi, bọ rúc rỉa, hôi thối không ai chịu được.

Còn Tần Thủy Hoàng chết dọc đường có trối trăn nhưng không được bọn sủng thần thi hành, trăn trối cũng bằng thừa, "Thánh thể" cũng để sau hai tháng mới chôn! Hai vị ấy giống nhau hay khác nhau?.



Hết
__________________


Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời


Ðiều Chỉnh
Xếp Bài

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
Bạn không được quyền gởi bài
Bạn không được quyền gởi trả lời
Bạn không được quyền gởi kèm file
Bạn không được quyền sửa bài

vB code đang Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển đến


Múi giờ GMT. Hiện tại là 01:44 AM.


Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2024, Jelsoft Enterprises Ltd.