Go Back   Vina Forums > Thư Viện Online > Kho Tàng Truyện > Truyện Ngắn - Truyện Học Trò
Hỏi/Ðáp Thành Viên Lịch Tìm Kiếm Bài Trong Ngày Ðánh Dấu Ðã Ðọc

Trả lời
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
  #1  
Old 06-12-2004, 08:04 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

:::: Trần Thùy Mai ::::
Biển đời người





Bim mười lăm tuổi, người lép kẹp như con cá măng, mùa lạnh thì mũi lúc nào cũng ướt. Vậy mà cô Hạnh cứ làm như con cô là tiên. Mỗi lần tôi đến, cô lại trách: "Vì mày mà sau này em Bim không đi thi hoa hậu được. Lớn lên lo mà đền cho nó". Tôi rụt cổ, gãi tai, biết là cô đang muốn nhắc đến những cái sẹo to trên người Bim. Mẹ tôi bảo: "Một cái là do Măng rủ nó trèo cây đào. Một cái là Măng chơi u, xô nó té từ trên gác xuống. Một cái là do cô Hạnh sai Măng bưng bát canh, đi đến cửa nóng tay quá Măng hắt tung vào người nó". Nghe kể, tôi ân hận. Thật may là Bim chẳng trách bao giờ. Cứ thấy tôi là Bim nhảy lên: "Anh Tuấn, cho em hai ngàn đi chơi điện tử". Thế rồi, bẵng đi một dạo, mỗi lần tôi sang, Bim lơ đẹp. Tính tình khác, thân thể cũng khác xưa, cao hẳn lên, ngực lờ mờ hai :Dp tròn mềm mại sau tấm áo.

Trời mưa đột ngột xối xả vào xế trưa. Đến chiều, con nước dâng nhanh chẳng mấy chốc ngập lòng đường, tiến vào nhà, treo lên phủ ngập giường chiếu. Cả vùng thành nội ngập tràn nước trắng xóa. Bơi đến trước sân, tôi cố vượt dòng tiến vào sát cửa. Cửa đóng, lại cài then phía trong.

" Bim ơi! Bim ơi!" Tôi gào to át tiếng mưa. Tiếng Bim khóc nức nở gọi mẹ trong nhà vọng ra. Cố sức day cửa không được, tôi đành gắng trèo lên mái nhà dỡ ngói, lần xuống. Bim ngồi co trên bàn, thấy người leo vào nhà thì hét toáng lên, sau đó nhận ra tôi. "Anh Tuấn! Em tưởng kẻ cắp sợ quá. Mẹ bảo đóng cửa, ai gọi cũng đừng mở". Tôi lội đến gần Bim "Đồ ngu. Khi mẹ dặn thì trời chưa lụt" "Mẹ về ngoại từ sớm chưa về, có sao không anh ơi" "Mẹ không quay lại giờ này được đâu. Nước lên nhanh lắm, công an cấm không ai được vào cổng thành" "Sao anh vào được?" "Trèo qua mặt thành. Anh mà không tới kịp, nước lên ngập đầu thì Bim thành bèo". Mới trao đổi có mấy câu, nhìn lại, nước đã vượt quá lên mấy tấc. "Trèo lên gác thôi em". Bim đứng dậy, nhưng sụm xuống, hai chân tê cóng vì ngâm nước lạnh. Tôi cầm hai tay Bim, kéo vòng qua cổ "Bám chặt lấy, anh cõng". Tôi trèo từng bậc một lên thang, một tay quàng ra sau giữ cho Bim khỏi rơi xuống nước...

Trời sập tối, hai đứa ngồi thu lu trong gác hẹp. Tôi sợ nước lên nữa không còn lối thoát, thò tay lên dở ngói, bẻ một khoảng rui lớn, phòng có nguy thì trèo qua mái nhà. Bim khóc rấm rứt một lúc rồi thiếp đi. Hơi thở Bim nóng như sôi phập phồng qua má tôi. Bim sốt rồi. Tôi hốt hoảng. Trời tối thui, chỉ nghe tiếng mưa ào ào trên mái, sát bên tai.

May sao trên gác có tấm chăn cũ. Tôi lần lần cởi chiếc áo ướt cho Bim lấy chăn quàng lại. Cả đêm tôi ngồi ôm cô bé như ôm món quà gói kỹ trong chăn. Cầu cho trời mau sáng, lại cầu cho đêm cứ dài mãi ra vô tận. Sờ áo thấy khô, lại mặc vào cho Bim; trời tối, tôi chẳng nhìn thấy gì, cũng chẳng dám chạm mạnh, vậy mà người cứ run run. Bim thì cứ mê sảng, hết gọi mẹ lại đến sợ chuột.

Mãi đến trưa mai nước mới xuống. Cô Hạnh thuê đò chống vào đến ngõ, thấy nước ngập tràn đến mái nhà, cô khóc váng lên: "Con ơi là con". Thấy tôi thò đầu ra khỏi lỗ ngói, cô trợn tròn mắt như quỷ thần. Tôi bơi ra, kéo đò vào, chỉ cho cô Bim nằm mê man. Cô lại khóc rống lên, lần này vì mừng. "Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn. Măng ơi! Tao cho mày con Bim!".

Hai ngày sau, Bim tỉnh lại. Cô Hạnh đút cháo. Nằm trên giường, Bim bảo: "Anh Tuấn phá mái, bẻ rui nhà em, em bắt đền". Lại bắt đền! Tôi cởi trần, hì hục dọn hàng tấn bùn non ngập đầy sân.

Từ đó, năm nào cũng vậy, trời mới mưa to tôi đã trực ở nhà cô Hạnh rồi. Số Bim là số sướng, mười bảy tuổi rồi mà chưa động tay dọn lũ lấy một lần. Mẹ tôi bảo: "Sao mà ai cũng thích đẻ con trai. Ăn cơm nhà vác ngà voi thì nó là số một. Lo kiếm việc làm ăn đi con ạ, cả ngày hết đàn hát lạt xách xe đi chùi bóng mặt đường, con gái nó không ưa đâu".

Nhìn tôi trong bộ đồng phục công nhân mầu xanh, Bim lo lắng: "Rồi ai chở em đi học?". Tôi dỗ dành: "Chịu khó đi xe đạp, hôm nào về sớm anh chở đi buổi chiều đỡ nắng". Ngày đầu đi làm, nhìn ra cả vùng đồng nước Vân Cù mênh mông, thấy cột điện chữ A mọc lên giữa những giường ruộng ngang dọc, tôi ngớ ngẩn hỏi: "Người ta dùng máy gì mà đưa mấy cái cột nặng thế này ra đến đó?". Anh Hạp, tổ trưởng của tôi cười: "Cái xác mày khênh ra, chứ máy gì mà thi công được ở đây?". Tôi nhìn, phát hoảng. Lần đầu tiên được giao khiêng bộ chân tó để dựng cột, tối về tôi ngủ mơ, nói sảng: "Mẹ ơi, núi đổ, lôi con ra, lôi ra". Mẹ lay mãi, tôi mới tỉnh, mồ hôi ướt dầm mình.

Dần dần, tôi mạnh lên, cơ bắp nổi đầy tay, lên rừng xuống biển cũng không còn sợ nữa. Đi đâu thì đi, chiều đến về nhà, việc đầu tiên là tắm gội cạo rửa tinh tươm, đến trường đón Bim về. Có hôm thấy Bim chờ một mình, vắng ngắt. "Bạn em đâu cả?" "Tụi nó rủ nhau đi ăn chè". "Lần sau em cứ đi với bạn, nhắn lại với bà hàng nước cho anh biết chỗ đến tìm là được. Bim cười ngúc ngắc hai đuôi sam: "Ai lại thế. Anh đi làm mệt cả ngày, về mà không thấy Bim, anh có buồn không?". Lòng tôi như chao đi, lần đầu tiên thấy trên khuôn mặt Bim nét dịu dàng thiếu nữ. Bim của tôi lớn rồi và biết nghĩ, không còn ngốc nghếch ham chơi như tôi tưởng. Bất giác tôi ôm Bim vào lòng. Bim cười nhắm mắt, rúc vào ngực tôi hít một cái thật dài rồi chuồi người, đẩy tôi ra. "Sao thế?". "Người ta cười" "Đồ sợ chết".

Một buổi sáng chủ nhật bên suối Trà Am, lần đầu tiên Bim cho tôi ôm trong tay... Bim cười, ghé cái tai nhỏ hồng hồng sát ngực tôi, lắng nghe tiếng tim đập. "Nhè nhẹ thôi, anh siết mạnh em đau cả người "Bim ơi!" "Gì anh?". Tôi bồi hồi nhớ cái đêm trời lụt "Cho anh cõng Bim đi xem suối". Chân tôi đi qua những mỏm đá. Tôi giữ chặt Bim sau lưng. "Đừng lo. Hai bộ xà sứ vừa nặng vừa cứng anh còn cõng qua suối Nam Đông, bây giờ cõng Bim nhẹ và mềm như con gấu bông, anh đi lên thấu trời". Bim cười, tiếng cười như tiếng suối. Tôi đặt Bim ngồi trên cành cây ươi đổ ngang, giữa những cánh hoa nhung đỏ hé mở. "Anh Tuấn ơi! Con muỗi!". Tôi định đập, Bim bỗng xua cho nó bay đi. "Tội nghiệp, tha cho nó anh ạ". Bắp tay Bim sưng lên một đốm hồng. Tôi gãi cho Bim, Bim nũng nịu: "Tuấn không có móng tay, gãi bằng cục chai trong lòng bàn tay ấy... ".

Cô Hạnh than thở với tôi: "Em nó ăn nhiều mà sao vẫn xanh. Hay là có giun?". Tôi chạy mua thuốc xổ. Lại mua cho Bim một đôi giày vải. Sáng sớm tôi đến, gõ cửa, dựng Bim dậy. Bim mắt nhắm mắt mở, chạy thể dục với tôi từ Tây Linh ra đến Tây Lộc rồi lại theo đường vòng quay về. Bữa đầu, Bim khóc mếu "Tuấn độc tài". Dần dần quen, sáng nào tôi không ra, Bim giận lẫy. Tôi hỏi Bim: "Có muốn học bơi không, sáng ra bến Me bơi mát lắm, anh tập cho". Bim lắc đầu quầy quậy: "Mắc cỡ lắm" Tôi chợt nhớ, chân Bim có sẹo. Chẳng hiểu sẹo ra sao? Nếu giờ mà lại có một đêm lụt như đêm nào, tôi sẽ đếm lại những cái sẹo trên người Bim, tôi sẽ đền cho Bim bằng cả đời tôi.

Cái tin Bim đi thi người đẹp làm tôi ngạc nhiên. Cô Hạnh hớn hở: "Chương trình có phần thi mặc áo tắm, nhưng toàn thể phụ huynh đều phản đối, dọa nếu thi áo tắm thì đem con về. Thế là Ban Tổ chức phải chịu". Tôi cười: "Chắc cô Hạnh là người phản đối mạnh nhất". "Nghe nói giải thưởng mười triệu cháu ạ". Nghe giọng cô hí hửng như trẻ con, tôi cười thầm. Hy vọng Bim của tôi trúng giải quá mong manh, nhưng thôi cứ để cho cô tha hồ bay bổng.

Những ngày sau đó tôi quay như cái vụ. Nào chở Bim ra tiệm Mỹ Trang thuê áo soirée. Nào chở Bim đi may áo dài. Tối lại, ra nhà Bim đàn cho Bim tập đi. Rồi lại phải chọn áo. Tôi ngắm lui ngắm tới Bim của tôi trong hơn hai chục cái váy. Cuối cùng chọn được một cái soirée mầu lam óng ánh, vải dịu và mềm. Bim giãy nảy: "Cái này cũ rồi". Nhìn ban ngày, cũ thế, nhưng dưới ánh đèn nó sẽ đẹp rực lên. Còn những cái kia trông huy hoàng, nhưng lên sân khấu sẽ cải lương hết cỡ, rồi em xem". Nói mà Bim không nghe, tôi lại giở thói "độc tài". "Còn thi ứng xử nữa, em nói kém lắm làm sao thi đây". Tôi kiếm một cuốn sổ nhỏ, lần giở sách báo, tìm những câu châm ngôn sắc sảo ghi vào. Câu nào cũng ngọt ngào bay bổng, toàn những lời có cánh về tình yêu, tình bạn, sắc đẹp, vân vân và vân vân...

Đêm thi đã đến, cô Hạnh lo lắng nhịn cả bữa ăn chiều. Tôi cũng đã xin nghỉ phép hai hôm. Giờ đây, trong tiếng nhạc đánh chậm bài La Paloma, Bim đang xuất hiện dưới ánh đèn sân khấu. "Vũ Túy Diễm, nữ sinh lớp 10 trường... ". Tôi dụi mắt. Có phải là Bim của tôi đây không? Tôi bỗng nhớ đến những trái táo trên sạp hàng trái cây của mẹ tôi, vốn tầm thường khiêm tốn, chỉ cần lấy khăn lau một lượt, phun nước lên, bỗng bóng loáng, chín ửng, ai nhìn cũng muốn cắn. "Vũ Túy Diễm năm nay mười bảy tuổi, sở thích đọc truyện, ca hát, nấu ăn... ". Hừ, Bim có nấu ăn bao giờ đâu, thoáng nghĩ thế nhưng chẳng nghĩ được lâu vì tôi còn bận dán mắt vào cô gái trên sân khấu, cô gái vốn là Bim của tôi. Một chút ngập ngừng làm tăng vẻ quyến rũ thơ ngây trong dáng đi uyển chuyển. Chiếc soirée mầu lam bạc ôm khít lấy tấm thân mảnh mai nẩy nở, lớp váy trong rất ngắn cho thấy đôi chân dài thẳng băng, trắng muốt. Lớp váy ngoài xẻ bốn đường rất cao ôm rất khéo, làm dáng người đài các thướt tha. Bim đang cười ... đôi môi tô son mầu hồng, sống mũi cao mềm mại thanh tú, đường nét nào cũng sắc sảo, rực rỡ hơn hẳn thường ngày. Chỉ có đôi mắt là vẫn mở to, ngơ ngơ dưới cặp lông mày cong như trăng hạ huyền. Bên cạnh tôi, cô Hạnh hể hả: "đi lùng suốt ba bữa mới mua được đôi tất ngoại mỏng đẹp như vậy đó. Cháu thấy chưa, tôn tạo lên một chút thôi là ăn đứt... ủa Tuấn, làm chi mà sững ra rứa, con Bim chứ ai xa lạ?".

Điểm ngoại hình Bim cao nhất tất cả thí sinh. Tiếc rằng Bim chẳng nhớ câu nào trong sổ những câu tôi đã tủ cho cô bé. Ban Giám khảo hỏi: "Em nghĩ gì về ngày 8 tháng 3?". Bim đứng ngẩn một lúc: "Em nghĩ... 8 tháng 3 là một ngày nhộn nhịp... ". Biển người lố nhố làm Bim hốt hoảng. Sau này, Bim bảo: "Em quớ quá, nhìn xuống mà chẳng thấy Tuấn đâu. Chỉ thấy tay với đầu người, hàng vạn cái". Cô Hạnh cứ tiếc mãi: "Giá nó trả lời được, thì đã là hoa khôi xứ Huế". Bim được danh hiệu á khôi thứ nhất. Với tôi thế cũng danh giá quá rồi. Đi đâu người ta cũng trầm trồ thằng Tuấn tốt số, có người yêu đẹp lắm trúng giải nhì kỳ thi Duyên Dáng Cố Đô.

"Ngày nhộn nhịp" đã tới. Tôi xin nghỉ, nhưng anh Hạp không cho. "Hôm nay thay gấp đường dây ở đường Huyền Trân Công Chúa. Thương tình mày chưa vợ cho nghỉ buổi chiều thôi". Tôi lắp bộ xà sứ trên :Dnh cột, vừa vặn ốc vít vừa nhìn ra xa, thấy có mấy gánh hàng hoa đang bán. Có hoa hồng nhung đỏ thắm, hay quá, Bim rất thích hoa hồng ở Huế vì nó nhỏ hơn nhưng nở tự nhiên, chứ những búp hồng từ xa chở đến đẹp thì có đẹp nhưng do bị phun thuốc nên chẳng bao giờ nở. Làm xong, áo quần còn lấm lem, tôi phóng tới ngồi lựa hoa. Mấy cô giáo mặc áo dài đang trả tiền hoa nhìn tôi mỉm cười: "Cô nào may mắn mới gặp anh này". Tắm xong, mặc bộ đồ bảnh nhất, tôi phóng đến Bim. Trên bàn một lẵng hoa vừa to vừa đẹp, hoa hồng Đà Lạt đỏ tươi xen lẫn hoa thạch thảo lấm tấm trắng. Tôi khựng lại. Cô Hạnh hể hả: "Tuấn này, bây giờ văn minh thật, người ta tặng nguyên cả lẵng hoa, cứ thế mà đặt trên bàn chẳng mất công cắm tỉa gì nữa". Tôi ngồi yên, rầu rầu. Bim từ trong phòng đi ra: "Hoa 8 tháng 3 của em đâu?". Thấy vẻ mặt tôi như thiển ý, Bim giải thích: "Không phải của ai đâu. Đó là quà tặng của Hội Phụ nữ, khen tặng thành tích đóng góp... ". Tôi tươi lên như cây héo được tưới nước. Chiều đó, dắt Bim đi ăn kem, tôi khoe đã được thao tác trên cột, lắp đặt xà sứ thành thạo. Bim cầm bàn tay tôi, áp những cục chai to vào má "Tuấn nhớ làm việc cho giỏi, sau này nuôi Bim". "ừ, ba năm nữa là Tuấn vững rồi, Bim thích gì Tuấn cũng mua". Bim cười, nét mặt giờ đây lại mộc mạc như những trái táo chưa chùi bóng: "Bim chỉ cần ăn cơm có cá, và mỗi tuần được đi ăn kem như thế này". Tôi trêu: "Em bây giờ là á khôi xứ Huế rồi, phải kiêu lên đi chứ".

Tháng năm, thành phố cử Bim đi Sài Gòn dự thi hoa hậu. Cô Hạnh khoe: "Kinh phí hạn chế nên ngoài hoa khôi, chỉ có á khôi thứ nhất mới đi được". Ngày Bim đi, tổ tôi thi công lắp đặt đường dây số 6 ở trạm Nong. Bim dặn lui dặn tới: "Bốn giờ chiều là tàu đi ngang qua ga Hương Thủy. Tuấn nhớ chạy qua ga, Bim thò đầu ra cửa sổ, cầm cái khăn mầu xanh, chào Tuấn một cái rồi Bim đi" Nghe tiếng còi tàu, tôi ba chân bốn cẳng phóng xe. Tàu đi ngang, lừ lừ một chút rồi phóng nhanh, mất hút. Tôi đứng bần thần ngẩn ngơ trên sân. Lủi thủi về trạm, tôi đọc mấy dòng chữ trên máy nhắn tin của anh Hạp: "Tuấn ơi đừng chờ nữa. Bim đi máy bay rồi".

Tối đó đến thăm cô Hạnh, cô liến thoắng: "Có người Mạnh Thường Quân có lòng ủng hộ quê hương, bỏ tiền ra lo đi lại, ăn ở cho thí sinh Huế... ". Tôi nhìn cô. Thảo nào, mẹ tôi vẫn gọi cô là Hạnh tồ.

Cả hai cô gái đều phải về sớm không dự kỳ thi hoa hậu được vì ai cũng thiếu một phân chiều cao. Cô Hạnh thất vọng. Tôi thì mừng. Giờ đây, tôi đã biết ích kỷ. Sau khi Bim nhận giải 5 triệu ở kỳ thi Duyên Dáng Cố Đô, căn nhà nhỏ đã được lát gạch hoa láng bóng. Buổi trưa, Bim vác gối ra nằm, đi ngoài đường nhìn vào thấy cô nàng nằm khoanh trên sàn như con chó Nhật. "Vào trong mà ngủ, không được nằm đây". "Trong kia nóng lắm". "Nóng thì mở quạt. Con gái nằm ngay giữa cửa để phơi cho thiên hạ nhìn à?". Bim ấm ức: "Tuấn độc tài. Sau này chỉ có hành hạ Bim!".

Tổ tôi nhận thi công đường dây Bắc Hải Vân, cả tháng đi liên miên. Cuối tuần mới về chở Bim đi chơi Trà Am. Tôi nói với Bim tôi làm việc khéo nhất trong tổ. Anh Thạp đề nghị tăng lương sớm cho tôi... Bim chỉ bảo: "Thế à?". Hai đứa đi men theo con suối. "Tuấn cõng Bim nhé?". "Thôi. Lớn rồi, cõng như con nít, kỳ lắm". Bim ngồi dưới bóng cây ươi, giữa những bông hoa nhung đỏ. Muỗi từ ven suối bay lên, Bim tự đập bép bép liên hồi, không nhờ tôi... Tôi ngửa lòng tay nhìn những cục chai to, ngó vu vơ lên trời...

Rồi tôi gặp người đàn ông ấy, một tối trời trăng. Gã ngồi song song với Bim, nơi chỗ tôi thường ngồi. Thấy tôi vào Bim chào, ngượng ngùng. Cô Hạnh bảo: "Đây là Tuấn, cháu cưng của cô. Năm nào trời lụt cũng nhờ một tay nó". Gã chào tôi qua loa rồi nhìn lên trần nhà. "Chỗ này chỉ cần bỏ vào chừng năm ngàn đô, lên thêm một tầng kiên cố thì chẳng lo gì lụt". Tôi về nhà, ngồi nhìn ra cửa sổ, châm thuốc hút. Mẹ tôi hỏi: "Măng, con sao vậy?". "Có gì đâu?". "Sao con ngậm ngược điếu thuốc?". Lúc bấy giờ tôi mới nhìn thấy cái đót thuốc đang cháy phừng phừng. Tôi ngước lên nhìn mẹ. Cái nhìn của người vừa bị dao đâm. Mẹ tôi đỏ mắt: "Chuyện con Bim phải không? Lâu nay mẹ nghe đồn...". Bà nổi tam bành: "Đồ tham vàng bỏ ngãi. Cái năm trời lụt to, không có Măng thì còn đâu mà gả đi Tây đi Tàu". Tôi quờ tay, ngăn lại:

- Thôi mẹ ơi. Chuyện xưa rồi, đừng nhắc.

Tôi biết, Bim của tôi từ nhỏ loanh quanh nơi cái xóm thấp như rún biển, cả đời mới ra khỏi thành phố một lần. Gã phương xa kia với Bim là cả một chân trời. Cũng phải thôi. Ai muốn giam mình trong ao, mà chẳng muốn vươn ra ngoài biển rộng?

Mai lại, đang làm việc, tôi nháng một nhát búa vào tay. Ngón cái dập nhỏ máu. Anh Thạp nhìn tôi thẫn thờ quấn băng vào vết thương, cười: "Công anh xúc tép nuôi cò, cò ăn cho lớn, cò dò cò đi". Thằng Tín cầm lấy cái búa đứng thay vào chỗ tôi, trêu già: "Cò khôn, cò ăn cơm Tây. Ăn chi tôm tép ruộng lầy quê ta...". Tôi trừng mắt: "Chó chết. Câm!". Trở về, tôi sốt cao, vết thương sưng húp. Mẹ tôi lo cơm cháo hơn một tuần. Bim không biết tôi ốm, có lẽ còn lo cho ngày đi...

Ba năm sau. Tôi đã lên bậc, tăng lương hai lần. Làm được bao nhiêu tiền nướng hết vào thuốc lá. Tính lầm lì, cả ngày chỉ biết làm.

Đi làm về, chưa thay áo, tôi nghe mẹ nói:

- Con Bim mới về, có bồng con qua đây thăm.

- ...

- Lấy chồng Việt kiều, đi Tây về mà không mập, lại còn gầy đi nữa chớ.

- ...

- Đi ba năm về mà không có được một món quà cho ra hồn...

- ...

- Sao Măng im như thóc không nói gì cả vậy?

- Thì có gì đâu mà nói. - Tôi ư hử.

Mẹ tôi im. Nửa như cụt hứng. Nửa lại như mừng thầm. Mừng cho con trai đã quên khuấy chuyện xưa.

Hơn tuần sau, Bim gọi điện cho tôi.

- Nghe mẹ nói lụt năm nào anh cũng vào dọn cho mẹ, em cảm ơn anh nhiều lắm!

Lâu lắm mới nghe Bim nói - giờ giọng Bim khác xưa, từ tốn, buồn buồn. Cái vẻ buồn làm lòng tôi bỗng chùng xuống. Muôn vàn điều muốn nói mà sao chẳng nói được gì? Lâu quá tôi lầm lì đã thành thói quen, phản xạ nói năng hầu như chẳng có. Mãi mới kiếm được một câu để nói:

- Em gắng giúp mẹ sửa cái nhà. ở có một mình mà năm nào cũng vất vả.

Bim ấp úng "Thương mẹ lắm mà chưa làm sao được anh ạ. Tiền chồng, chồng giữ, tiền vợ, vợ giữ, em mới sang đâu làm được bao nhiêu...". Tôi thở dài: "Nghe mẹ anh nói, em gầy hơn trước?". "Dạ, em đi làm xa lắm, mỗi ngày đi về phải ngồi trên xe điện ngầm hơn bốn tiếng đồng hồ. Ngồi trên xe chẳng biết làm gì, cứ nhớ nhà, nhớ hồi xưa...".

Hai tiếng "hồi xưa" nghe sao mà âm vang. Tôi lặng yên, bồi hồi lắng nghe tiếng rung ngân của hai chữ đơn sơ ấy.

"Hồi xưa, anh tốt với em nhiều lắm. Khi ra đi, em cứ nghĩ sau này giàu có sẽ đền công anh...".

Giọng Bim nghẹn như sắp nức nở. Bỗng dưng, nước mắt tôi giàn ra không giữ nổi. "Bim ơi, lớn rồi sao còn nói ngơ ngơ?".

Chiều đó, tôi về lại Trà Am, ngồi một mình dưới gốc cây ươi bên suối. Nước cứ chảy xuôi, chảy mãi. Bim ơi, biết nơi đâu là biển của đời người.

t.t.m



END
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #2  
Old 06-12-2004, 08:05 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

:::: Trần Thùy Mai ::::
Cánh cửa thứ chín






N ghề nghiệp của anh buộc anh phải đi rất nhiều nơi, còn cuộc sống của tôi lại luôn ở đây: những ngày rất dài trong khu vườn lặng lẽ.

Một ngày, một giờ, một khoảnh khắc nào đó, đột nhiên hai cuộc đời riêng rẽ bỗng đi chéo qua nhau. Đó là một ngày cuối năm, ngày khởi đầu của tiết lập xuân. Anh gọi điện nhầm đến nhà tôi. Mặc dù biết đã nhầm, anh không gác máy. Và chúng tôi nhận ra nhau.

Sau đó ít lâu, chồng tôi bảo: "Bệnh của Quyên dạo này khỏi rồi sao?". Tôi chỉ cười lặng lẽ. Chứng thống kinh hành hạ tôi hơn hai năm nay. Những cơn đau khiến cơ thể tôi lạnh giá. Sau nhiều tễ thuốc đắng không chút kết quả, ông lang già cuối cùng đã khuyên tôi tìm tới sự tập luyện của tâm linh.

Buthayoga, đó là thứ nghệ thuật làm nóng cơ thể từ sự khởi động của cái tâm thường bị vùi sâu che khuất. Trong bốn bức tường rêu này tôi có đủ thời gian và sự tĩnh lặng để làm việc đó. Nhưng linh hồn tôi không tĩnh, tôi không phải là đạo sĩ. Tôi chỉ là một người đàn bà.

Giờ đây, tôi dần dần ra khỏi cơn đau. Nhờ một sự tình cờ. Một giọng nói. Đó là anh.

Có lần nào đó, tình cờ anh nhắc đến ngày lập xuân ấy. "Quyên có biết vì sao anh không gác máy không? Vì bỗng nhiên anh nghe trong giọng nói tưởng như bình thường của em một điều gì đấy, giống như tiếng kêu cứu của một người tù".

Còn tôi, ngược lại. Từ giọng nói anh, tôi thấy mầu xanh và những đám mây. Sau này tôi mới nhớ ra, đó là cảm giác khi thấy đường chân trời. Tôi đã có cảm giác ấy một lần, thuở còn bé, khi về thăm quê ngoại.




***




A lô, Quyên đấy hả? Này, có phải em thường nghe người ta tả mặt trời mọc trên biển không? Vậy mà bây giờ anh đang nhìn thấy mặt trời lặn trên biển "Sao thế? Vậy là mặt trời lặn ở phía đông?".

"Không... - Anh cười, như thể đang nhìn thấy vẻ mặt ngơ ngác của tôi. - Chỉ vì hôm nay anh đang ở Hà Tiên. Nơi đây biển ở phía tây đất liền, thế thôi". Trong tiếng anh cười, như có tiếng sóng biển, có ánh hoàng hôn cháy rực trên sóng và phản quang của một vùng đất xa rất xa - Nơi tôi chưa từng thấy bao giờ. Tôi có thể thấy gì, ngoài khu vườn nhỏ bị che kín. Nhưng ở đây, mặt trời, biển và sóng đang hiện ra trong bốn bức tường của tôi: Tôi đi bên anh, trên bờ cát. Nắng buổi chiều rất tươi đổ bóng chúng tôi trên những làn sóng mịn. Rồi cả hai cùng ngồi trên chiếc thuyền con, rẽ sóng về phía hòn Phụ Tử. Tóc tôi bay rối tung, trong khi anh chỉ cho tôi những hòn núi đá nhấp nhô trong vịnh Thái-lan. Tất cả đều nhuốm mầu mặt trời chiều, mặt trời đỏ au đang từ từ lặn sâu vào sóng biển.

Ngoài cổng, Hòa đã về. Tôi ra mở cửa cho chồng. Chiếc Chaly trắng nổ máy xành xạch. Như mọi lần đi làm về, Hòa hỏi, giọng bình thản:

- ở nhà có việc gì không?

Cũng như mọi lần tôi trả lời:

- Không, chẳng có việc gì.

Tôi lấy nước cho Hòa rồi vào bếp sửa soạn bữa cơm. Hòa thả người xuống xích đu đọc báo. Làm sao Hòa biết, tôi vừa từ vịnh Thái-lan trở về, và giờ này trong tâm trí tôi vẫn :Di rực một mặt trời trên biển tây.

Anh là người đầu tiên giúp tôi biết người ta có thể sử dụng điện thoại để san sẻ cuộc sống với nhau, chứ không phải chỉ để trao đổi những thông tin ngắn gọn. "Hôm nay Quyên có gì vui không?". Tôi cố lục tìm trong ngày dài của mình một điểm sáng nào đó. Những cuộn len. Những tấm áo đan dở. Sự mưu sinh tủn mủn...". A, nhớ ra rồi, trước nhà em có một cái ao, sáng nay có một bông súng hồng vừa nở". "Hôm nay, người hàng xóm đến cho một con mèo mầu lam đẹp lắm. Anh có tin có một con mèo mầu lam không?". Có hôm anh gọi cho tôi đúng vào lúc nấu xong bữa ăn chiều. "Quyên vừa nấu những gì, nói cho anh biết, cho anh thèm". Tôi kể cho anh nghe: canh mít nấu tôm, cá bống kho tiêu, rau muống luộc... Anh hít hà trong điện thoại. Tôi rủ: "Đến đây ăn cơm". "ừ, nhớ để phần anh nghe".

Dần dần tôi bắt đầu tập cách thổ lộ những gì đã nén quá sâu trong tâm trí, điều trước đây tôi chưa hề quen. Tôi nói với anh về thời thơ ấu, khi mẹ đã bỏ đi và cha tôi đùm bọc đàn con trong một tình thương mà tôi linh cảm có lẫn lộn cả oán thù. Mỗi lần có lỗi, tôi bị đánh mà không được khóc. Giờ đây trước những nỗi đau, tôi đã quen với lối khóc không trào lệ. Tôi đã câm nín như thế cả vào ngày đứa con trai lên mười được người em chồng đưa về San Diego làm con nuôi. Tôi ôm con vào ngực trước khi trao cho Hoành, bây giờ ngực tôi còn mãi hơi ấm nóng của đứa trẻ, khiến những phần còn lại của cơ thể tôi mãi mãi lạnh giá.

Chồng tôi thỏa mãn. Một căn nhà hương hỏa, một công việc ổn định, một người vợ hiền, một đứa con trai may mắn được đỡ đầu và chắc chắn sẽ thành đạt. Hòa bảo tôi: "Vợ chồng mình sẽ sinh thêm đứa nữa". Nhưng tôi không sinh nở. Chứng thống kinh hành hạ tôi. Mỗi tháng một lần, cơn đau bắt tôi cắn răng, không rên rỉ. Mỗi lần ngồi tập môn Buthayoga, tôi thành khẩn nguyện cho mình khỏi bệnh. Những ngón tay, theo đà thúc đẩy của một thứ ký ức siêu nhiên nào đó cứ xoa mãi trên bụng, trên thắt lưng tôi. Nhưng cánh cửa tâm linh không hề mở. Những ngón tay chịu không chạm nổi vào những vùng khuất trong tôi.

Nhưng bây giờ, trong bốn bức tường rêu đã có cả biển trời. Những cơn đau đã dịu xuống. Đã dứt.

"Alô, Quyên đó hả? Hôm nay có gì vui?". "Hôm nay là ngày rằm, người ta gánh hoa sen đến bán. Quyên mua hai bó hoa vừa trắng vừa hồng. Mua hạt sen để trưa nay nấu cháo chay". "Ngày rằm, Quyên ăn chay, còn anh đang ở rừng Xuyên Mộc. Người ta làm thịt thú rừng chiêu đãi, giết hai con nhím, một con cheo". "Ghê quá!". "ừ, lúc nãy sắp bị giết, con cheo cứ ứa nước mắt. Nhìn thấy thương quá, không ăn được miếng nào. Thôi, Quyên hãy tới đây đi. ở đây có một dòng suối nước nóng, ngâm chân xuống thì uống bao nhiêu rượu cũng không say. Anh sẽ chỉ cho Quyên cây dầu lớn, có hoa rụng trắng xóa cả bãi cỏ". Tôi cùng anh lang thang trên bãi hoa dầu trắng phau, rồi đi ra suối Bang mắc võng trên dòng nước. Tiếng suối chảy lúc trong vắt, lúc trầm đục đủ cung bậc. Trên đầu tôi, trời cao và xanh bao la.

"Quyên ơi, em đã đến đây thì cũng có thể bay lên trời với anh được". Chợt tôi thấy mình vút lên trời xanh. Tôi thấy anh ở bên tôi. Chúng tôi đang bay lên, và đang lơ lửng trước vực thẳm.




***




Đó là ngày anh không chịu dừng lại ở tưởng tượng để chỉ đòi ăn canh mít non và cá bống kho tiêu qua đường điện thoại. Anh nói với tôi huyền thoại về chín cánh cửa. "Ngày xưa có người lạc vào sơn động và kết duyên với chúa Tiên. Một hôm chúa Tiên đi chầu Trời, giao cho chàng một xâu chín chiếc chìa khóa và dặn chàng mở cửa nào tùy thích, chỉ trừ cánh cửa thứ chín. Trong tám ngày chàng lần lượt mở tám cửa, mỗi khung cửa dẫn vào một cảnh giới tuyệt vời như trên thiên đường... chỉ còn cánh cửa thứ chín, chàng trai tự nhủ, mình không mở ra. Nhưng...".

Cánh cửa thứ chín. Cánh cửa biết mở ra là tai họa mà mọi người cuối cùng đều đã mở. "Quyên ơi, Quyên hiểu anh muốn nói gì không?". "Em hiểu. Em thấy sợ".

"Tại sao?". Tôi không biết làm sao giải thích nỗi sợ hãi của mình. Dường như đã đến lúc tôi có thể nhận diện thứ tình cảm trong lòng mình: Đấy chính là tình yêu đang mỗi lúc một lớn lên, và tôi linh cảm cuộc đời tôi sẽ sụp đổ dưới sức nặng của tình yêu ấy.

Một ngày cuối hè, anh lại đi qua phố cổ. Anh muốn gặp tôi. Tôi ấp úng, cố gắng diễn tả cho anh biết rằng người ta thường khuyên đừng đùa với lửa. Đùa với lửa, sẽ bỏng tay, và tôi tự biết mình không chịu nổi xót xa.

Nhưng anh hứa không làm tôi bỏng. Không phải những hồi chuông điện thoại làm rối tâm tư tôi. Làm rối linh hồn tôi, chính là nỗi khát khao được nhìn thấy, dù trong một chút, cuộc đời bao la mà trước nay tôi mới chỉ nhìn trong tưởng tượng.

Chín giờ tối, đúng vào đêm hạ chí, tôi ra khỏi nhà, qua cánh cổng gỗ cũ xưa, rồi đi men theo bờ hồ trước mặt. Hoa sen cuối mùa lan tỏa mùi thơm trong ánh trăng. Anh đang chờ tôi bên kia hồ, dưới gốc cây xà cừ. Bóng đêm lẫn bóng trăng bao trùm thân thể tôi. Hai chân run run, tôi lúng túng, hoảng hốt, cảm thấy thất thố vì đã đến một nơi quá bất lợi cho mình. Nhưng ngay lúc ấy tôi cũng không kiềm chế được mong muốn lao sâu vào khám phá một thế giới - Anh, anh cũng là một thế giới.

Anh bước lại bên tôi, hay tôi đang chạy đến với anh, tôi không biết nữa. Rồi tôi cảm thấy tay anh, mắt anh, môi anh, tất cả rất giản dị, rõ nét và rất giống hình ảnh trong trí tưởng tượng của tôi. Anh rất ấm, và rất dịu dàng.

Đúng như lời hứa, anh đã không làm tôi bỏng.

Tôi không bỏng. Tôi cháy.




***




Lúc tôi trở về nhà, cánh cổng nặng khép hờ rên rỉ dưới tay tôi. Hòa đã ngủ say, tờ báo rơi trên ngực. Suốt đêm tôi như đang nằm duỗi trong một đám sương mù, lâng lâng, êm ái. Cũng trong đêm ấy, ước mơ được rực cháy suốt quãng đời còn lại chợt như một ám ảnh điên rồ thiêu đốt tâm trí tôi.

Trời mờ sáng, tôi ra sân, đi lảo đảo như người mộng du. Vượt qua cánh cổng, vượt qua cây xà cừ, vượt qua con đường sương trắng, tôi như người điên đập cửa căn phòng lạ.

Người đàn ông của tôi hiện ra trước mặt.

Trong lúc đi trên đường, bên tai tôi cứ lùng bùng những điều định nói cùng anh. Tôi sẽ nói rằng tôi không thể tiếp tục sống trong bốn bức tường lạnh lẽo. Tôi sẽ nói muốn cùng anh đi vớt mặt trời trên biển tây. Tôi sẽ chịu bỏng, chịu cháy, để được đau đớn, được yêu thương. Tôi muốn chịu đựng mọi thứ trên đời, ngoại trừ sự tẻ lạnh.

Nhưng lúc này, dưới ánh sáng quá rõ của ban ngày, anh hiện ra rất xa lạ với hình ảnh anh trong bóng trăng. Một người đàn ông đến từ một cõi đời khác... Tôi thấy mình đứng trên hành lang, trước người đàn ông này một cách vô lý, ngớ ngẩn và trơ tráo. Kêu lên một tiếng, tôi đâm đầu chạy ra đường. Có tiếng xe đâu đó thắng gấp...

Không hiểu sao lúc đó tôi không biết sợ. Mãi đến lúc ngồi trên xích lô qua đường phố dài, cả người tôi mới bắt đầu run lên, cơn run rẩy không cưỡng được của người suýt chết.

Hòa đang cho chim ăn trước hiên nhà. "Em đi đâu sớm thế?". Giọng Hòa bình thản như mọi câu nói vào mọi giờ, mọi ngày khác. Tôi gắng gượng thốt lên một lời nói dối qua loa rồi bước vào nhà.

"Sáng nay anh đi làm sớm, em cho anh ăn mì với hai quả trứng". Hòa bảo, không ngoái lại. "Vâng, bánh mì với hai quả trứng". Tôi vào bếp với đôi chân chưa hết run. Hòa không biết nấu ăn, cũng không hề có thói quen ăn tiệm. Anh không thể nào xoay xở được nếu không có tôi. "Ngày mai là ngày hiệp ky, nhớ chuẩn bị đồ lễ đưa sang từ đường". "Vâng, em nhớ". Tôi trả lời, những câu trả lời như tiếng vang không âm sắc.

Khi chiếc Chaly trắng xành xạch đi rồi, tôi để rơi mình xuống ghế. Cơn đau chợt quặn thắt, mồ hôi rịn ra ướt cả hai tay tôi.

Một hồi chuông reo.

"Quyên ơi, em nghe đây: một người tù hèn nhát thì sẽ mãi mãi là một người tù".

Tôi không dám nghe. Tay tôi run rẩy tháo rời dây điện thoại. Anh đã nói đúng, nhưng rất có thể chính anh cũng có bốn bức tường, hai cánh cổng ở đâu đó, và dù đi khắp nơi trên thế gian anh cũng không ra khỏi những thành trì, như tôi...

Cả tuần sau, máy điện thoại tắt ngấm. Tôi hiểu thế nào là sự trống rỗng của lặng im. Căn phòng lạnh, yên lặng đè lên tim tôi như một khối nặng trịch vô hình. Sự yên lặng khắc khoải, đau nhói âm thầm trong lúc đi, đứng, nói cười, cố sống cuộc đời bình thường.

Vẫn biết chân trời là nơi không đến được, nhưng dù sao tôi cũng phải có một chân trời.

Đến ngày thứ tám, tôi nối lại đường dây. Nhưng chiếc máy không hoạt động nữa. Chồng tôi đã trả số thuê bao. "Anh thấy nó chẳng có lợi lộc gì mà nhiều khi lại thêm mất ngủ. Chưa bao giờ anh thấy khỏe như tuần qua, khi máy hư". Tôi lặng lẽ nhìn chồng tôi với đôi mắt của người chết đuối. Cơn đau hành hạ tôi. Tôi âm thầm chịu, không rên rỉ.

Đêm ấy tôi nằm mơ thấy một con nai trúng tên, nằm khắc khoải chờ chết trong một xó rừng.

Sáng sớm hôm sau, trong lúc tập Buthayoga, hai tay tôi chợt rời thắt lưng, tự hướng về phía đầu, xoa mãi vào huyệt bách hội. Chợt như có dòng nước lũ xoáy mạnh làm vỡ cả con đập chắn ngang. Hoàn toàn không ngờ trước, tôi bỗng òa khóc, khóc tức tưởi, không sao cưỡng được. Những giọt lệ trào ra từ khóe mắt, những cơn rền rĩ thoát ra từ lồng ngực. Tôi khóc to, khóc thảm thiết, một thứ khóc vô thức kỳ lạ, giữa lúc tâm trí phiêu bồng như đang chìm giữa sương mù.

Cơn khóc dừng khi tôi chìm vào giấc ngủ mê. Khi tỉnh dậy, tôi biết Buthayoga lần đầu tiên đã chạm đến điều gì trong linh hồn tôi.

Chứng thống kinh của tôi đã dứt.

Những hồi chuông điện thoại đã tắt. Không còn mây trời, biển và rừng trong bốn bức tường xây kín. Không còn gì nữa, và tôi cũng không còn đợi.

Tôi cam tâm dừng mình lại trong hai cánh cổng: Cánh cửa thứ chín của mỗi đời người.

Tối hôm sau, trong bữa ăn, chồng tôi bảo:

- Sáng hôm qua mình tập cái môn dưỡng sinh quỷ quái gì mà cứ rền rĩ y như có ai chết không bằng.

Tôi lặng yên. Làm sao nói cho Hòa hiểu được, một thế giới vừa bị lấp vùi. Tôi đã tự chôn mình cùng với thế giới ấy, và giờ đây tôi đang khóc tôi.





27-7-1997




Trả Lời Với Trích Dẫn
  #3  
Old 06-12-2004, 08:06 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

:::: Trần Thùy Mai ::::
Con thuyền màu hoa hồng đỏ






K hi bước vào căn gác nhỏ, điều đầu tiên đập vào mắt anh là chiếc cửa sổ nhỏ xíu có vòm cong sát trên mái ngói. Căn gác đơn sơ không có vật gì đáng giá, trừ chiếc giương cầm khá cổ xưa, nơi cô bé học trò của anh loay hoay với các nốt nhạc.
"Chú Thắng biết không, mỗi vật trong nhà, mẹ cháu đều đặt cho một cái tên. Cây đàn này là suối, cái nệm kia là Êm Êm". Còn cái cửa sổ tí hon này là gì?" "Mẹ cháu gọi nó là Mắt Bão". Thắng nhìn qua khung cửa sổ nhưng anh chỉ thấy bầu trời bình an. Dáng vẻ cô bé khi bấm các phím đàn giống như nghịch vọc những hạt cờm hay vỏ ốc: lơ đãng, nghịch ngợm.
Đó là chuyện của hai năm trước, khi Thắng mới bắt đầu dạy nhạc nơi đây. Bây giờ, bé Mi mười hai tuổi. Khuôn mặt đã thoảng ửng một vẻ đẹp digan với đôi mắt có lông nheo đen mướt và đôi môi dày thơ ngây. Ngược lại, người đàn bà, mẹ đứa trẻ dường như ngày một lặng lẽ, đằm thắm hơn. Rồi dường như Thắng chỉ thấy chị mặc một màu áo đen. Những chiếc áo đen cổ trái tim, với cây thánh giá bạc, lại dám mua đàn dương cầm và mời thầy về dạy cho con như một đại gia quý tộc. "Hồi nhỏ không được học nên tôi trở thành người mù nhạc, vậy mà trớ trêu thay là tôi thèm nghe nhạc vô cùng. Điều tâm nguyện của tôi là cậu là sao giúp bé Mi sau này sung sướng hơn tôi". Thắng hiểu vẻ bùi ngùi sau lời nói của người đàn bà: chị muốn con gái chị sau này giàu có hơn chị bây giờ, nên đã chuẩn bị cho con đôi cánh để bay từ căn gác xép hẹp ra ngoài thế giới.




o0o




- Chú Thắng ơi, chú dạy cháu đàn bài này nghe. Cháu thích.
Thắng nhìn theo ngón tay nhỏ trên trang sách đầy nốt nhạc. "Chú chưa dạy sao Mi biết mà thích?".
- Không phải Mi, mà mẹ. Thỉnh thoảng mẹ vẫn hát cho cháu nghe.
Aventura, nghĩa là lãng du. Tự nhiên Thắng mỉm cười. Bài ca nói về những cuộc phiêu lưu, trong khi người đàn bà luôn tự giam mình trong một góc, bên cái khuôn dập tranh nho nhỏ. Chung quanh chị đầy những bức tranh lụa xinh xắn mà cứ hai tuần một lần, người buôn tranh lại đến nhận và trả cho người vẽ những đồng tiền bèo bọt. Có lần Thắng đi lên lăng Tự Đức và thấy những bức tranh này bán la liệt bên cổng lăng. Nét chấm phá thật có duyên trong mắt những du khách chỉ đến một lần. Nhưng tại đây, trong căn gác này, bên những lọ mực và khung dồn dập ngổn ngang, trông chúng mang cái vẻ bùi ngùi và nhàm chán của sự mưu sinh. "Đấy, cậu xem, lui tới vẫn thế, mục đồng và trâu, cô dâu và chú rể, Thiên Mụ và Tịnh Tâm. Tất cả là theo đơn đặt hàng, mỗi mẫu hàng ngàn bức y hệt nhau. Bây giờ tôi phát sợ vẽ, nhưng không thể ngừng lại". Người đàn bà lôi dưới hộc tủ ra một bức tranh cũ trên lụa. "Chỉ riêng cái này là tôi đã vẽ ra mà không bao giờ bán đi". Trên nền trắng ngà giản đơn, một con mèo đang uốn mình, trong bụng là hình bát quái với hai mảng âm dương màu xám lam và đỏ thẫm. "Tôi vẽ bức tranh này khi đang mang thai cháu. Tôi tuổi mão, con mèo là tôi đó. Còn cháu chính là vũ trụ mà tôi mang trong lòng". Khi người đàn bà nói, trên khuôn mặt đã thấp thoáng vài nét hằn của thời gian là nét cười buồn trẻ thơ khiến mũi Thắng chợt cay cay. Anh cảm thất sợ và vội vã xua cái cảm giác yếu đuối đó đi bằng cách quay về chỗ của mình bên đứa trẻ. Bé Mi quay sang phía anh, thì thầm: "Chú Thắng ơi, có chuyện này chú phải giúp cháu:. "Chuyện gì?". "Bí mật, cháu sẽ nói, nhưng chú phải hứa sẽ nhận lời". "Cái gì? Có phải là chuyện liên quan đến bài Aventura không?" Bé Mi phá ra cười: "Sao chú biết?". Thắng làm ra vẻ ghê gớm:
- Tại vì, chú có tài đọc được ý nghĩ của người khác




o0o




Buổi chiều, người đàn bà đi bộ tới trường tiểu học. Hai mẹ con dắt tay nhau đi thong thả ngược con dốc cao. Gió chiều mơn man mái tóc tơ của đứa trẻ.
- Mẹ ơi, hôm nay mẹ vẽ những gì?
- Sông Hương và núi Ngự, Thiên Mụ và Tịnh Tâm, với mẹ ngày nào chẳng thế.
Người đàn bà trả lời, như tự chế diễu mình. Những công thức của sinh kế, đó là vòng tròn khép kín khoá chặt cuộc đời và tân hồn chị.
- Sao mẹ không vẽ biển? Con chưa bao giờ thấy biển. Các bạn con bảo là biển đẹp và rộng vô cùng.
- Khi nào mẹ cũng nghĩ về biển, nhưng chẳng có ai đặt hàng tranh về biển. Mẹ biết làm sao được.
- Có phải hiện giờ ba con đang đi ngoài biển không? Trên một chiếc thuyền thật lớn có lá buồm màu xanh?
- Người đàn bà gật đầu
- Sao mẹ không cho con đi với ba? Con thích đi xa, thật nhiều nơi. Bao giờ thì ba lại về hở mè?
"Bao giờ..." Người mẹ lúng túng. Chị tìm cách lảng tránh câu hỏi của con.
- Bé Mi à, con biết ngày mai là ngày gì không?
Bé Mi sung sướng reo lên:
- Mẹ ơi, con nhớ. Mai là sinh nhật của mẹ. Con chờ ngày này từ lâu rồi, mẹ biết không?
Hai mẹ con đã lên hết chiếc cầu thang gỗ và giờ này đã cùng ngã lăn trên tấm nệm có tên là Êm Êm. Người mẹ nằm ôm con, mắt nhìn lên cao, cười mãn nguyện. Đã lâu rồi, không ai còn nhớ ngày sinh của chị. Nhưng bây giờ, con chị đã lớn, đã biết yêu chị, và chị dường như không lẻ loi. Đôi mắt mơ màng của chị dạo quanh căn gác, đậu lại trên bó hoa khô trên ngăn tủ. Bó hoa đã nằm đấy từ rất lâu, trong chiếc bình gốm cũ, những chiếc lá cứng xốp và hoe vàng, còn hoa thì dòn và khô như những dáng hình của hoa, đẹp và khô lạnh.
Đấy là bó hoa người đàn ông đã đem đến cho chị vào ngày sinh nhật lần thứ hai mươi sáu. Người đàn ông đã ra đi, không phải trên một con tàu biển như nàng đã kể với đứa bé, mà trên những hoang tưởng về tương lai. Từ ngày đó nàng biết rằng trong tình yêu đàn ông rất khác đàn bà. Đàn ông khởi đầu một cách điên cuồng rồi dịu đi trong hèn nhát, còn đàn bà càng lúc càng giam mình trong kỷ niệm, ngu dại và xót xa.




o0o




Bây giờ bó hoa khô đã nằm trên bàn tiệc nhỏ. Trên chiếc bàn vuông phủ khăn trắng, người đàn bà đặt dĩa bánh, dĩa trái cây, món xôi xéo và bánh gấc mà con nàng ưa thích. Giữa những màu xanh đỏ tươi sáng của món ăn, bó hoa khẳng khiu như bàn tay gầy guộc của quá khứ. "Mẹ ơi, con không thích". Đứa bé nhăn mặt nũng nịu, không muốn năm nào cũng nhìn mãi một vẻ đẹp khô gầy. Người mẹ an ủi con:
- Những vật cũ đều có linh hồn, mẹ rất sợ phải vứt chúng đi.
Đứa bé không hiểu câu trả lời của mẹ, chỉ biết rằng những sắc màu thắm tươi, nhất định hấp dẫn và dễ thương hơn màu nâu khô của dĩ vãng. Ngọ nguậy một cách bất mãn trên chiếc ghế nhỏ, bé Mi nhìn quanh như tìm kiếm vô vọng một điều gì, rồi quay về khung cửa sổ và đôi mắt digan bướng bỉnh chợt mở to ra, sững sờ và hạnh phúc. Thắng đang ở trên ngưỡng cửa, trong tay anh có một bó hồng đỏ tươi.
"Ôi, tuyệt vời!" Bé Mi hét lên vui sướng, ôm choàng lấy cổ Thắng. "Chúc mừng ngày sinh của chị". Người đàn bà cầm lấy tặng vật bất ngờ, không hiểu sao chị giấu mặt mình sau mùi thơm của những đoá hoa.
Chiều xuống trong niềm vui thơ ngây của đứa trẻ. Đối với bé Mi, một bữa tiệc nhỏ như thế này là một dịp lễ hội trong chuỗi ngày tháng lúc nào cũng mờ mờ như bóng mây. "Mẹ ơi, hôm nay con sẽ tặng mẹ một món quà. Chú Thắng ơi, hãy giúp cháu đi. Con sẽ đàn cho mẹ nghe bài Aventura, bài mà mẹ thích".
Aventura, nghĩa là lãng du. Người đàn bà mỉm cười nhìn Thắng: con chị đã muốn chị ra đi, đi khỏi cuộc sống nhỏ hẹp này.
Nhưng bản đàn khó lắm mà đứa bé còn non dại. Thắng ngồi bên cạnh đứa bé, rồi cuối cùng anh xốc bé đặt lên lòng mình, hai tay anh cầm lấy hai bàn tay bé nhỏ. Tiếng đàn và tiếng cười cũng trong veo. Aventura. Những tiếng nhạc vươn dài, xuyên qua Mắt Bão. Cơn mưa và màn đêm cùng ập xuống. Người đàn bà quay đi rồi trở lại với những ngọn đèn cầy trên chiếc giá nến cũ. Đứa bé đã thiu thiu ngủ trong lòng chàng trai. Anh đặt bé xuống giường và nhìn khuôn mặt thiên thần bình yên dưới ánh nến.
Người đàn bà ngồi xuống. Màu áo đen của nàng làm nổi bật những chấm hoa hồng đỏ. Trên cổ nàng, một chiếc thánh giá bạc.
Dường như cảm thấy ánh mắt chàng trai đậu trên ngực áo mình, nàng nói, vừa như giải thích, vừa như thổ lộ:
- Tôi không phải là giáo dân, nhưng tôi thường nghĩ rằng mỗi đời người đều có một cây thập tự phải mang.
- Đó là tại chị. Chị đóng đinh đời chị vào dĩ vãng. Còn tôi, tôi thích nghĩ tới tương lai.
- Bởi vì cậu còn quá trẻ. Còn tôi, tôi đã sóng như người ẩn tu từ lâu lắm rồi, hình như ngày hôm nay tôi đang từ trên núi cao đi xuống giữa phố.
Nàng vừa nói vừa đưa mắt nhìn bức tranh con mèo mang vũ trụ trong lòng. Trong ánh nến, dường như nó đang sống lại, với đôi mắt long lanh ướt. Đôi mắt nàng đã long lanh ướt như thế vào cái ngày người đàn ông đặt cả vũ trụ vào lòng nàng rồi ra đi. Đó là một mùa hè :Di rực và lộng lẫy, trên những triền cát vàng tươi dưới trời xanh. "Em nhìn đi, không nơi đâu có những cồn cát nổi sóng như ở đây". Người đàn ông bảo nàng. Nàng nhìn, và mãi mãi thu vào trí nhớ những gợn cát uốn lượn hình sóng nước, dấu vết của gió và của năm tháng trên một miền hình như khô nhất thế gian. Nàng đã đem cả bó hoa ngày sinh nhật vào căn lều nhỏ. Bây giờ, nhưng cánh hoa đã chết vẫn còn dư âm của hơi thở, những lời thì thầm, và cát.
Hồi ức của người đàn bà nhỏ giọt, nhỏ như những hạt nước, thấm qua lời kể lể trên đôi môi kho, mỏng manh, đôi mắt nhắm nghiền như mắt những người đang cầu kinh trong thánh đường. Đêm im lặng trong tiếng mưa. Thắng khẽ lay người đàn bà như muốn thức tỉnh nàng từ giấc mộng, nhưng nàng mở mắt ra mà không tỉnh, nàng không nhìn thấy anh, nàng đang ở trên những sóng cát.
"Anh đừng đi". Nàng nói như khẩn cầu, đôi môi lạnh run rẩy. Hai tay nàng nâng niu âm yếm phủi những hạt cát lấm lem tưởng tượng trên người đàn ông đang cúi cuống. Thắng định gỡ tay nàng, nhưng anh không thể. Anh khóc. Trong tay anh, một thân thể ấm mềm như con mèo âm dương có đôi mắt long lanh hhắm nghiền mê man hạnh phúc. Còn anh, anh đang cố sức giật nàng ra khỏi thập giá.
Aventura. Tiếng đàn câm im lặng thổn thức dập dềnh giữa hai lồng ngực.
Bên ngoài khung cửa sổ, gió thổi da diết trên những vòm cây, gió thổi hoài xuyên suốt cả đời người.
Sớm hôm sau, đứa bé tỉnh giấc. Cơn mưa đã dứt, ngày lễ hội đã qua. Bé dụi mắt và kêu thét lên khi thấy mẹ đang nghiêng người qua khung cửa nhỏ, đưa bó hoa tươi ra trước gió. Gió thổi, cuốn bay từng cánh, từng cánh, cho đến khi chỉ còn lại một bó xương gai.
- Mẹ, mẹ làm gì thế! - Bé Mi chạy đến, ôm lấy mẹ.
- Mi ơi, nếu mẹ giữ nó lại, thì một ngày kia, cũng sẽ chỉ là một bó hoa khô.




o0o




Thắng không dám quay lại căn gác cũ trong một thời gian dài, bởi một điều ray rứt khó tả. Một điều gì đó làm anh nao lòng, và anh sợ phơi bày sự yếu đuối của mình.
Khi trở lại, anh không còn thấy hai mẹ con trong căn gác nhỏ. Mắt bão đã đóng kín. Tất cả lặng lẽ đến bàng hoàng.
Thắng không biết ở một nơi rất xa, có cô bé tóc tơ đang đứng bên mẹ, nơi một bãi vắng nhìn ra khơi. Người đàn bà đã đưa con về vùng đồi cát năm xưa, và bây giờ đây nàng đang vẽ biển. Biển mênh mông và xanh. "Mẹ, mẹ ơi, mẹ sai lầm lắm vì đã đi quá vội vàng. Con biết chú Thắng sẽ đi tìm con, nhưng làm sao chú biết được mình đã đi đến tận đây".
Người đàn bà lắc đầu: "Con ạ, chú ấy đã lên một con thuyền lớn, và sẽ đi xa, rất xa".
"Con không tin!". Đứa bé phụng phịu kêu lên, và người đàn bà bối rối. Huyền thoại đã cũ, nhưng tiếc thay, là một huyền thoại có thực. "Con biết không, mỗi người đàn ông đều có con thuyền và giấc mơ của mình, họ đến bến để rồi lại đi, mẹ không muốn ngăn cản những chuyến đi ấy bao giờ".
"Còn con, con thì khác. Nếu con thương yêu ai, con sẽ giữ lại bên con". "Có lúc nào đó, con sẽ như mẹ, cảm thấy sợ giữ lại bên mình những cuộc đời bị giam hãm. Vả lại...".
Người đàn bà nghẹn không nói được. Vả lại, người ta bảo sai lầm của mẹ là luôn thấy những người đàn ông đều tốt. Có thể người ta nói đúng, nhưng mẹ không thể khác đi, mẹ luôn nghĩ mọi người đều tốt. Thắng à, Aventura đối với cậu là một dự phóng, còn đối với tôi chỉ là một ước mơ hoang tưởng mà thôi.
"Mẹ ơi, dù sao đi nữa, lớn lên con sẽ đóng một con thuyền, con sẽ đi và tìm ra con thuyền của chú Thắng".
Người mẹ thoáng cười. "Biển mênh mông, chẳng ai tìm ra dấu tích của ai. Mà dù gặp, con đã là thiếu nữ, chắc gì chú ấy nhận ra con".
- Không, chú sẽ nhận ra. Vì con sẽ hát cho chú nghe bài hát Lãng du.
- Sóng lớn lắm, nghĩa lý gì tiếng hát.
Đứa trẻ khăng khăng:
- Con sẽ hát to, át cả tiếng sóng.
Người đàn bà mỉm cười. Bỗng nhiên nàng thấy như tâm hồn yếu đuối của mình đang dựa vào niềm hy vọng của đứa trẻ. "Bé này, con nhìn đây, ngày trước con cứ thích mẹ vẽ biển. Bây giờ, mẹ đang vẽ biển cho con". "Ôi thích quá, mẹ ơi! Mẹ cho con vẽ chiếc thuyền của con, mẹ nhé!".
Bé Mi nhúng cọ vào những đĩa màu và vẽ lên bức tranh một con thuyền, dáng nguệch ngoạc nhưng rất :Di chang, một con thuyền có lá buồm màu hoa hồng đỏ. Con thuyền chở ngọn lửa của trái tim non dại khơi từ những giấc mơ tro vùi của mẹ.




Trả Lời Với Trích Dẫn
  #4  
Old 06-12-2004, 08:06 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

:::: Trần Thùy Mai ::::
Gió thiên đường






L ần đầu tiên đến lớp khiêu vũ ở nhà tôi, Hiếu còn mảnh dẻ như cây tre non. Khi tôi cầm tay Hiếu chỉ những bước đầu tiên. Hắn gọi tôi là "Sư Mi". Tôi bảo : " Vậy từ nay Mi là "sư phụ" của Hiếu đó nghe". Hiếu cười, khoe chiếc răng mẻ rất dễ thương: " Vâng, xin sư phụ dạy bảo cho đồ đệ".
Trong lớp này tôi phải dạy đến năm sáu anh chàng, anh nào cũng dẻo mồm. Ðôi khi tôi thầm trách ba. Lẽ ra ba không nên phó mặc mọi việc cho tôi, lẽ ra ba phải đứng dạy mấy ông con trai to xác này để đỡ cho con gái mười tám tuổi của ba. Có lúc bực mình tôi bảo: " Ba có nghe mấy chữ "con gái rượu" không? Rượu có đem chôn kín thì mới ngon ". Ba tôi lừng khừng: " Rượu tốt không sợ bay hơi ". Mắt ba tôi nhìn xa xôi đượm buồn.
Tự nhiên tôi thương ba. Lại lẳng lặng gánh hết mọi điều, để ba lặng thầm trong cõi riêng.
Những băng nhạc để tập trong lớp đều do ba tôi chọn. Nhạc valse với Le Beau Danube Bleu của Strauss, Thu Vàng của Cung Tiến, bebop với Love is blue, tango với Vũ nữ thân gầy, La Paloma. Hiếu bảo tôi: "Mi biết vì sao lớp nhà em ít người học không? Tại nhạc chán quá ". Tôi ức : " Nhạc thế này mà còn chê. Toàn những bài bất tử". " Nghe cổ lắm". " Vậy Hiếu tới đây làm chi?". " Nhạc sầu lắm nhưng cô giáo thì dễ thương". Tôi mím môi, không thèm đáp. "Yêu ai, yêu trọn một đời ", giọng Khánh Ly dìu dặt vang lên theo đĩa nhạc. Chừng nghe giai điệu quen thuộc, ba tôi ngồi lặng, mắt nhìn như soi vào quá khứ. Hiếu nháy mắt, hát nhại theo: "Yêu ai, yêu chỉ vài giờ". Tôi nhăn mặt không nói gì, thừa lúc Hiếu bước sai tôi giả vờ lỡ chân đạp cho hắn một cái đau điếng.
Cả dòng họ tôi, trừ tôi ra, ai cũng có đôi mắt đẹp và buồn. Mắt ba tôi cũng thế, lúc nào cũng u uẩn đầy kỷ niệm. Ngày xưa, ba tôi cũng có một mối tình lớn . Người con gái ấy tên là Lý Thanh Thuý, dân chơi ngày ấy thường gọi là Thanh Thúy Tàu. Ðó là bông hoa nổi tiếng nhất ở vũ trường Ðà Nẵng . Tất nhiên trong mắt ông bà nội tôi, một người con gái không thể nào bước vào một gia đình thế gia vọng tộc tuy đã sa sút về tiền của nhưng chưa hề đánh mất nề nếp gia phong . Ðám cưới của ba tôi, cho đến giờ, những người bạn thân vẫn còn nhớ. Một đêm trước Giáng sinh, ba tôi và mấy người bạn đến vũ trường, đem theo một bó hoa và một chiếc bánh cưới. Vào cuối đêm vũ trường vắng người, đôi tình nhân vừa cầm tay đi theo nhạc Oui Devant Dieu vừa dẫn đến bậc cầu thang dẫn đến phòng riêng. Ðèn tắt từng ngọn, tắt ngấm, tất cả chìm trong bóng đêm. Rồi những ngọn đèn nến được thắp sáng dần, từng ngọn một, và Thanh Thúy Tàu thấy người yêu đang nắm tay mình, lồng vào ngón tay một chiếc nhẫn cưới. Nàng bậc khóc vì hạnh phúc ...Từ đó chàng sĩ quan ở lại với Thanh Thuý Tàu, không về nhà cha mẹ. Thanh Thuý Tàu không tiếp những khách chơi giàu có nữa, và đáp lại, chàng trai hai sáu tuổi nổi tiếng khiêu vũ giỏi cũng tự nguyện không bao giờ nhảy với ai ngoài người vợ yêu của mình.
Thanh Thúy Tàu về sau đã phản bội cha tôi, đúng như lời tiên đoán của bà nội tôi ngày trước. Nàng quá đẹp và mong manh, mà những năm tháng dài mà ba tôi ở trong trại cải tạo là một thử thách quá lớn. Cha tôi trở về vào tuổi ba mươi hai, cảm thấy hụt hẫng từ mọi phía, nhận ra những kỹ năng của nghề lính không giúp ít gì được cuộc sống trước mắt. Ông lấy vợ, sinh con, bị buộc phải nghĩ tới mưu sinh, và không ngờ cái tài khiêu vũ, trước đây là thú vui, nay lại là sinh kế. Cuộc đời nghiệt ngã không cho ông giữ đúng lới ước nguyện: Không nhảy với ai ngoài Thanh Thuý Tàu. Nhưng từ đó điệu vũ của ông không còn là niềm say mê nữa, nó chỉ còn là việc kiếm sống nhọc nhằn. Có vẻ như ông chờ rất lâu cái ngày tôi mười tám tuổi, để trao lại cho con gái tất cả cái gánh nặng vui vẻ này.
Hiếu bảo tôi : "Sư Mi ơi người nhảy giống như cá bơi trong nước. Mi tập khiêu vũ mấy năm rồi ? " Tôi không nhớ nổi đã tập bao lâu. Mới lớn lên, có trí nhớ là đã nắm tay ba đi hết các fan promenade. " Hồi Mi bắt đầu tập với ba, mỗi lần nhảy phải đóng của lại. Ba nói hồi ấy uống cà phê buổi sáng còn bị phê bình, nói gì đến khiêu vũ . Các học viên đi học phải gói theo giày; hết giờ lại đi dép về nhà". Hiếu hỏi : " Mười mấy năm ở đây , Mi thấy học viên nào vừa ý nhất? " Tôi cười, lắc đầu. Nếu như thực lòng được nói ý mình, tôi sẽ nói : " Hiếu". Nhưng mà ngượng lắm , nếu để cho y biết rằng người đầu tiên mà tôi thay thú vị khi nhảy cùng, chính là y.
Không phải y nhảy giỏi, nhiều người thuộc và biết nhiều fan hơn y. Nhưng y nhảy rất có hồn, y say đắm với vũ điệu, không phải chỉ nhảy bằng hai chân mà còn cả tóc, mắt, miệng cười và niềm vui sôi nổi toát ra từ thân thể. Tôi dạy y phần kỹ thuật, còn chính y bằng năng khiếu trời cho đã dạy tôi rằng động tác vũ chẳng là gì cả nếu không thấm đẫm niềm hạnh phúc, không gợi cho ta cảm giác về khát vọng sống, khát vọng tình yêu. Vì tự ái nghề nghiệp, tất nhiên không bao giới tôi thú nhận với y về điều đó.
Ba tôi xem chừng không có cảm tình với Hiếu. " Cái đầu rẽ giữa trông khó thương". Tôi nhìn Hiếu, nhưng lại thấy đầu tóc hai mái rất hợp với vẻ mặt lãng tử. Ba tôi một thời đã bất chấp tất cả, thế mà bây giờ vẫn không thể vượt qua mấy phân xê xích của đường ngôi. Tôi nói với ba: "Con nghĩ cái quan trọng là cái bên trong đầu tóc ". Ba tôi nhún vai: " E rằng trong ấy chẳng có cái gì ngoài những câu tán tỉnh sáo rỗng. Bao giờ cũng thế, khi yêu con gái trở nên bạo dạn, còn con trai thì hóa ra nhút nhát. Những thằng miệng tía lia trong bụng chẳng có gì ". Tôi nao núng. Hôm sau Hiếu tới. Tôi đi slow với y. "Mi có áo mới phải không ?". " Ðẹp không?". "Rực rỡ y như Claudia Schiffer". Y vừa nhảy vừa nhìn tôi như ngắm một con nhân sư từ Ai Cập tới. Nụ cười răng mẻ thường ngày rất dễ thương, tự nhiên hôm nay làm tôi sợ. Như thể tự vệ, tôi bất giác dí ngón tay vào trán Hiếu: "Dẻo vừa thôi. Cái mặt này đểu lắm nghe chưa". Nghe chữ đểu Hiếu khựng lại, đột ngột ngừng nhảy bỏ về ghế ngồi. Tôi biết mình lỡ lời. Từ đó, Hiếu không đến nữa. Thoảng hoặc có đến, cũng không mới tôi nhảy. Tôi bối rối, ân hận nhưng sự đã rồi. Mặt mũi nào nói lời xin lỗi. Trong nữa tháng, tôi sụt ký, gầy xuống trong thấy. Soi gương tôi tự an ủi: "Càng hay. Gầy càng có dáng".
Trước Giáng sinh, Hiếu đến gặp tôi: " Vũ trường có gửi vé cho mình không?". "Có". " Cho Hiếu xin một cặp vé". Tôi lẳng lặng mở hộc đưa cặp vé cho Hiếu. Hiếu cám ơn rồi về, không chào. Ba tôi bảo: " Giáng sinh năm nay lớp mình đi chơi ở sàn Ngọc Anh, Nguyễn Huệ hay Ngô Quyền?". Tôi tần ngần nghĩ ngợi. Ba tôi nói: "Ba sẽ nhảy với con một bản valse tuyệt vời, như Giáng sinh mọi năm". Tôi lặng im. Chút gì đó như chán nản. Chút gì đó như nghẹn ngào. Tôi mười tám tuổi, nóng lòng chờ một điều gì mới, không phải như mọi năm...
Ðêm Giáng sinh, ba tôi đi với cả lớp. Tôi ở nhà. Tôi sợ, sợ một điều gì không rõ. Sợ gặp Hiếu đi với ai đó, trên sàn nhảy. Một người nào quan trọng với Hiếu đến thế, khiến Hiếu phải dành vé trước cả mười ngày trời? Y sẽ nhảy với ai đó, bằng cả thân mình, cả tóc , mắt và nụ cười ..." Sư Mi, ở nhà một mình hả? ". Chợt Hiếu hiện ra sau lưng tôi, mảnh dẻ và dễ thuơng, sạch đẹp hơn hẳn mọi ngày, trông tươm tất y như một gói quà Giáng sinh.
Tôi dụi mắt, tưởng mình đang nằm mơ.
Lúc đó là mười một giờ khuya, chuông nhà thờ đổ, và Hiếu, và tôi, và đêm Thánh vô cùng.
" Ði với Hiếu". "Ði đâu?". Hiếu rút túi ra cặp vé còn y nguyên . " Sư Mi dở quá, không biết vì sao Hiếu xin cặp vé này à?" Tôi nhìn y, lòng muốn lao vào vòng tay y mà cấu, mà xé, " Ðồ mắc dịch, đồ chết toi, đồ đùa dai, đồ peace, làm người ta muốn chết đi được". Nhưng lẽ nào con gái mà lại tuôn ra những lời rủa xã như thế? Cho nên tôi đành lặng im, nhìn Hiếu như thể một người con gái dịu hiền và ít lời nhất trên đời này. Hiếu cười cười, nụ cười răng mẻ mà lâu nay tôi vẫn nhớ. "Sư Mi, muốn chửi rủa gì thì rủa to lên đi, Hiếu sẵn sàng nghe đây". Tôi ngậm bồ hòn làm ngọt: " Thông minh lắm chưa nói đã hiểu rồi". Hiếu chở tôi đi. Bỗng nhiên tôi sợ . "Sợ gì ?" " Sợ người ta thấy Hiếu đi với Mi". " Mặc kệ thiên hạ" tôi không mặc kệ được. Giờ này mà đến vũ trường, ba tôi sẽ nhìn tôi như thế nào đây, nhất là đi cạnh chàng trai dẻo mồm mà ông luôn cảnh giác. Hiếu bảo: " Dù sao, đêm Giáng sinh cũng không cho Mi ngồi nhà đâu". Hai đứa qua cầu Mới, lên dốc Bến Ngự. Quán cà phê Dã Thảo đêm nay lung linh ánh nến và tiếng nhạc, trông như một thế giới huyền thoại. Tôi run chân, như cô bé lọ lem bước vào lâu đài của hoàng tử. Hiếu dẫn tôi lên lầu. Một bình hoa hồng nằm trên chiếc giá gỗ nơi lưng chừng cầu thang." Mi thích không?" . Không đợi tôi trả lời Hiếu nhón ngay một bông hoa lạ. Tôi xanh mắt " Sợ quá. Người ta nói chết ". Hiếu cười "Ðồ thỏ đế "
Bên khung cửa sổ rộng mở, trời đen như nhung, lác đác sao. Bên dưới là cỏ xanh, lá xanh và những tia nước lấp lánh. Hiếu khuấy cà phê sữa cho tôi." Sao Mi thừ người ra như thế?". Tôi không nói đây là lần đầu tiên tôi đi với một người con trai vào quán cà phê. Vừa lo sợ vừa cảm thấy thích thích, hồi hộp, như thế đi vào một cuộc phiêu lưu, một thế giới khác. Một ngôi sao băng vụt ngang, rơi qua bầu trời. Hiếu kêu "Mi ơi" , nhanh lên hãy ước một điều gì đi". Tôi ước thầm một điều, nhưng khi Hiếu hỏi, tôi không nói. Một điều ước thầm kín, có thể một ngày kia sẽ nói ra, nhưng không thể bây giờ...
Từ năm ấy, tôi mới hiểu thế nào là đêm Giáng sinh.
Không biết ba tôi sẽ nghĩ sao, nếu biết mỗi tuần tôi gặp Hiếu vài lần ở quán cà phê Dã Thảo. Cũng trước khung cửa sổ mênh mông đó, không có những ngôi sao, nhưng có trời chiều và những bông hoàng hậu lác đác hồng. Hiếu hỏi " Mi hút thuốc không?" . " Sợ lắm". " Cái gì cũng sợ. Thử cho biết". Tôi phải hút thử vì Hiếu đưa điếu Ngựa Trắng tận miệng. Tôi sặc. Không thấy ngon lành gì, nhưng cảm thấy mình ngầu ngầu. Người Hiếu trông cứng cỏi, lấc cất vậy mà khi ngồi bên tôi lại rất dịu dàng. Từ nhỏ tôi đã không được ai dịu dàng chăm sóc. Anh chị không có, mẹ tôi quá chất phác vô tư. Hiếu thì khác, tế nhị và kiên nhẫn. Có hôm tôi đến trễ nữa giờ, Hiếu vẫn chờ trước quán, ngồi trên xe, dưới mưa. Thấy tôi đến, mặt Hiếu sáng lên với nụ cười đến là dễ thương. " Ngồi đồng trước quán thế này, không sợ người ta dòm ngó à ?". " Việc gì đến ai đâu mà sợ. Chỉ sợ Mi không dám đi vào quán một mình". Gió đông lạnh, Hiếu vẫn đòi mở rộng cửa sổ cho Hiếu nhìn trời. " Hiếu có phải là quỷ sứ không? Chẳng bao giờ cho Hiếu mệt, Hiếu lạnh, Hiếu bận việc". Hiếu cười : " Hiếu mê cái quán này vì nó đầy gió. Nhất là từ khi Mi tới đây. Mi đừng dại mặt áo ấm kín mít làm gì. Mỗi năm mình đâu cần có hai mùa hè". Tôi nghe lời Hiếu, mặc phong phanh ngồi trước khung cửa sổ mênh mông, nghe mưa. Dần dần tôi hiểu mùa đông, yêu mùa đông, biết thế nào là vẻ đẹp của gió, của giá buốt và hơi ấm khi ở bên nhau .
Hiếu ít khi ở nhà tôi, đơn giản vì cảm thấy ba tôi không thích . Tôi bảo Hiếu: "Nếu nghĩ tới Mi thì sửa đầu tóc lại". Hiếu bướng: "Tóc là của Hiếu. Hiếu rẽ ngôi trên đầu Hiếu. Khi nào Hiếu rẽ ngôi trên đầu người khác, người ta mới có quyền có ý kiến". " Nhưng Mi không thích cái đường ngôi ấy". Tôi vờ bảo thế. " Sao Mi cứ muốn Hiếu trở thành con người khác ?"
Trong suốt mùa đông tôi đã không còn cảm thấy lạnh, không còn thấy những giờ dạy khiêu vũ là mệt mỏi, không thấy những buổi học luyện thi là chán chường, không thấy nỗi lo, nỗi căng thẳng khi mẹ tôi nói hết tiền, em cần mua sách vở, ba cần thuốc uống... Cả cuộc sống đang khó nhọc trở nên thật nhẹ nhàng. Quán cà phê trở thành địa chỉ thứ hai của tôi, đến nỗi hễ tôi và Hiếu đến để người ta không đợi gọi, dọn ra thức uống quen thuộc: hai ly cà phê và hai điếu ngựa Trắng.
Một hôm trời mưa, xe Hiếu chạy nhanh văng bùn đầy gấu quần jean của tôi. Ðến quán, Hiếu đòi lau cho tôi nhưng tôi ngượng, chạy vào toilet tự vảy nước chùi một mình. Tiếng những người phục vụ nói cạnh đó vọng vào, họ nói tự nhiên vì không trông thấy tôi: " Một phê đá một sữa tươi phải không?". " Không phải. Cu cậu này có hai "mái ", một mái tóc xõa mới uống sữa tươi, con bé này tóc demi chuyên uống phê sữa. Coi chừng đưa lầm". Tôi lạnh gáy. Cố giả tỉnh táo, tôi nhấm nháp hết ly. Hiếu rất tinh ý, vặn hỏi tôi mãi . Tôi bảo " Mi mệt. Bắt đầu cảm thấy gió lạnh thật rồi ". " Mi nói dối " . Nói vậy nhưng Hiếu vẫn mở cái áo jacket ra ủ lên vai tôi. Tôi cố gắng ngồi nhưng ngồi không vững. Hiếu xốc tôi lên, bế xuống cầu thang như bế em bé. Tôi mệt lã nhưng cũng biết xấu hổ. Hiếu dỗ dành: " Nằm yên cho khỏe, Hiếu đem Mi về nhà. Thương Mi lắm, đội Mi lên đầu đi khắp phố cũng chẳng sao".
Tối ấy tôi không đứng dậy nổi nữa, đành phó mặc mọi chuyện cho ba tôi. Gọi điện về nhà Hiếu. Không có Hiếu. Tôi đứng dậy mặc áo. Ba tôi lo ngại " Con đi đâu ?". Tôi lắc đầu , đi như người khùng. Tôi là con của ba tôi, một dòng máu bất chấp. Tôi phải nhìn vào sự thật, dù sự thật ấy như thế nào. Xe của Hiếu đang ở trước quán cà phê. Và Hiếu ngồi đó với một cô gái tóc dài trạc tuổi tôi, không phải trước cửa sổ, mà khuất sau một cánh của. Có lẽ Hiếu không bao giờ ngờ rằng tôi lại có can đảm một mình đi vào quán.
Tôi một mình, ngồi vào bàn bên cạnh. Người ta bưng cho tôi cà phê sữa như mọi lần. Sữa ngọt không làm giảm nổi vị đắng. Hiếu bỏ cô gái sang bàn tôi " Mi đi đâu vậy ?" . " Ði để nhìn. Ðể thấy con người không đơn giản". Nói rồi tôi đứng dậy, ra về. Ba tôi đã nói đúng, nhưng khổ thay chỉ có lời dạy của cuộc đời mới đủ sức thuyết phục đối với đứa con bướng bĩnh như tôi...
Cô bé tóc xoã ngồi trước mặt tôi, trông vẻ mặt cô xinh xắn và hiền. Cô từ chối chỗ ngồi trước khung cưả sổ. " Sợ gió lắm. Em thích cái quán này vì nó có những góc ấm". Chúng tôi ngồi vào một góc kín sau chậu thủy trúc : " Em biết chị là Mi chạy khiêu vũ ở đường Phượng bay. Nói thực, em không ngờ lâu nay Hiếu vẫn đi nhảy. Em đã bảo Hiếu, em biết Hiếu nhảy rất đẹp nhưng Hiếu phải biết tôn trọng người yêu của Hiếu là một người không biết nhảy ". Thế Hiếu bảo sao?". " Hiếu đã hứa với em không bao giờ khiêu vũ nữa". Tôi lặng lẽ không nói gì, tự mình gọi một điếu Ngựa Ttrắng và... hút. Chắc lúc ấy tôi trông giống một con quái vật lắm. Nhưng ít nhất không nói được, thì tôi cũng phải làm một cái gì đó, dù là một điều gì thật quái đản. Cô gái tâm sự: " Chị biết không, em và Hiếu yêu nhau đã ba năm nay. Hồi đầu ba em không cho, bắt em nhốt trong phòng riêng trên lầu. Nhớ em quá, Hiếu dựng xe trèo cột điện mà lên thăm em. Ba em chụp được, dong Hiếu xuống tầng dưới mở cửa tống ra. Hiếu về nhà xong lại quay lại, trèo cột lên lần nữa. Lần này ba em không thèm mở cửa mà lại bảo " Mày trèo lên đường nào thì cút xuống đường ấy ". Hiếu trèo cột xuống xe về, lại đi bộ đến... Sáng mai ba em lên, thấy chúng em vừa cắn hột dưa vừa nói chuyện ngoài lan can, ba em bảo : " Ba keo mèo cắn cổ, tao thua chúng mày. Mày nói ba mẹ mày đến lo mà rước con gái tao về ". Tôi hỏi "Rồi sau đó thì sao?". " Hiếu lui tới nhà em đã hai năm. Ba mẹ em xem như con. Sáng, trưa , chiều Hiếu đều ghé, thường ăn cơm ở nhà em. Em không có đoán ra là Hiếu có thời giờ đi vớ vẩn đâu khác ". Ừ tôi thầm nghĩ . Con gái thật khờ , ai cũng thế. Một ngày có đến hai mươi bốn giờ. Dù có ghé sáng, trưa, chiều cùng lắm cũng chỉ mất mười tiếng đồng hồ. Chỉ cần một ngày một giờ, chàng trai đủ tạo nên một huyền thoại phiêu lưu mới. Và một trong những huyền thoại phiêu lưu ấy là tôi ...Tôi nghẹn như nuốt phải mật đắng . Dã Thảo ơi, ta sẽ không bao giờ còn đến đây. Từ biệt khung cửa sổ mênh mông, và gió. Và những bản nhạc mà Hiếu thích. Giờ đây tôi hiểu vì sao Hiếu không thích nghe những bản nhạc tiền chiến. Trong đó không có cách yêu, cách nghĩ của Hiếu. Thôi đừng nghĩ tới Hiếu , đừng nghĩ nữa...
Tôi bước đi, ngang qua góc cầu thang, nơi Hiếu đã lấy trộm bông hồng xanh cho tôi. Nơi ấy bây giờ chỉ còn độc một bông cúc tím. Tiếng hát Cẩm Vân mãnh liệt mà nghẹn ngào: " Còn trông mong chi cơn mơ phù du theo gió mây bay xa thật xa. Hãy thôi đam mê vấn vương buồn thương, nỗi đau trong đời sẽ qua..." Buổi tối, tôi ra đứng lớp, dạy điệu bebop cho các học viên mới. Một vũ điệu vui nhộn và lả lướt. Tôi nhảy, tôi cười. Chuyện đã qua, xin hãy qua... Tôi cố ăn thật nhiều. Mẹ tôi bảo rất vô tư: " Con này thất tình mà không ốm lại mập lên mới quái! ".
Hiếu đến, lâu lắm Hiếu mới đến nhà tôi. Trông Hiếu gầy và xanh, giống cây tre non hơn bao giờ hết. Tôi hầu như không nhận ra hắn. Hắn không cười và không nói năng dẻo quẹo. Nhưng Hiếu cũng không nhút nhát. Hiếu im lặng và dữ dội, ngồi một mình trên ghế nhìn tôi. Mắt Hiếu cứ thiêu đốt và tôi cứ cố làm cho lòng mình trở nên băng giá. Không biết trong cuộc chiến im lặng này, ai lì hơn ? Lửa trong mắt Hiếu sẽ tắt trước hay tảng băng trong lòng tôi rã trước ? Tôi giấu nỗi đau bằng vẻ điềm nhiên, nhưng làm sao giấu được con mắt sắc sảo của ba tôi. Ba tôi bảo:"Can đảm lên con. Còn đau đớn là còn có thể tha thứ . Mà tha thứ là sẽ tiếp tục đau thêm nữa ". " Con mắt Hiếu nhìn con, không phải là con mắt của kẻ lừa dối ". Con đừng ảo tưởng. Cụ thể đã quá rõ ràng mà con còn có thể ngụy biện cho nó nữa ư ? Ngày trước khi từ trại cải tạo về, biết được Thanh Thúy lừa dối ba, ba nhất định cắt đứt dù cô ấy quỳ xuống đất van lạy hết lời. Với ba, tình yêu là sự chân thành tuyệt đối, sự thủy chung như nhất trước sau không thay đổi ". Tôi thầm nghĩ: " Mẹ con với ba lúc nào cũng chung thủy , nhưng có phải là tình yêu không?".
Hiếu đến đều đặn mỗi tối, không nhảy, không cười. Tôi không trách móc, không nặng lời, không cau mặt, xem như cuộc phiêu lưu vừa qua chỉ là một giấc mơ . Dần dần bỗng tôi thú vị với những cuộc gặp lặng lẽ đó: giống như một bản nhạc không lời, êm dịu và sâu vô tận.
Cuối tháng, cả lớp đi chơi Ngọc Anh, Hiếu cũng có mặt. Hiếu cứ ngồi, không nhảy với ai. Bỗng nhiên như ma xui, tôi bước ra và quay lại vẫy tay : "Hiếu!". Giọng ra vẻ một cô gái uy quyền, mà thực ra là một kẻ đầu hàng. Hiếu sáng trưng mặt mày, lâu lắm mới nhìn thấy nụ cười răng mẻ. Tôi và Hiếu cùng bước trên sàn nhảy, và tôi thấy hạnh phúc từ đầu tới chân, quên cả việc trước đây một giờ Hiếu đi đến đâu , ăn cơm ở nhà ai, làm gì...
Hiếu chỉ nhìn tôi, bao nhiêu lời lẽ bay đi đâu hết. Mãi sau mới đưa ngón tay cái lên môi tôi : " Mi cắn đi. Cắn một cái cho đau, cho đáng đời Hiếu". Tôi bất giác ứa nước mắt không cầm được: " Cắn một cái mà đủ sao, Hiếu ơi !". " Hiếu biết tội rồi . Nhưng ai bảo hồi đó Mi nói Hiếu đểu làm chi. Nói người ta đểu thì đểu cho biết mặt".Tôi nói " Ân trả, oán trả. Mi cũng biết tội rồi. Từ nay khỏi nợ nhau ". Hiếu bất giác đưa tôi xoay tròn như cơn lốc . " Mi không biết đâu. Ðầu là đểu , sau là thực. Hiếu không cho Mi hết nợ đâu, Hiếu sẽ đi theo Mi đến cùng trời chiếu đất".
Á à , lại còn thế nữa chứ . Tôi đâu còn dễ tin như tôi ngày xưa."Vậy mấy cái cột điện ai sẽ trèo đây ?". Hiếu trừng mắt nhìn tôi " Ðó là quá khứ. Một quá khứ đang chờ chấm hết. Lúc đó Hiếu đã sống hết mình, và giờ đây Hiếu cũng đã sống hết mình."
Hiếu nói rồi nắm chặt lấy tay tôi, lòng bàn tay Hiếu tỏa hơi ấm như lửa. Bỗng nhiên tôi muốn òa khóc. " Rồi mai đây, Mi sẽ là quá khứ sao ?". " Không ai nói trước được chuyện tương lai . Hiếu không nói chuyện tương lai, chỉ biết bây giờ ". Hiếu nói rồi nhẹ nhàng ôm tôi trong tay, và những đốm sáng đèn muôn màu, và nhạc valse, và tôi lại là cô bé lọ lem trong đêm vũ hội của hoàng tử ...
Khi tôi trở về, ba tôi không nói gì, chỉ nhìn. Ðôi mắt đẹp của ông , dù bao qua thời gian , vẫn sâu thẳm và đầy dĩ vãng. " Con biết ba sẽ trách con . Nhưng con...". Tôi muốn nói: Nhưng con hạnh phúc quá . Con không cầm lòng được . Ba tôi lạnh lùng : " Chỉ vì không chịu nỗi đau đớn , nên nạn nhân không đứng vững, phải dựa vào chính tên sát thủ. Rồi lại nhận lầm đó là người chữa vết thương cho mình. Có biết đâu như thế là bị giết lần thứ hai ". Tôi nghẹn: "Hiếu không phải là người như vậy ".
Bỗng ba tôi không giấu được vẻ phẫn nộ: "Con muốn làm kẻ cướp đoạt sao? Thằng Hiếu đến đây ba sẽ đuổi . Nó đã phản bội một đứa con gái , nay lại định lừa dối một đứa con gái khác".
Tôi khóc . Hiếu bảo tôi : "Ðồ ngốc nghếch. Không ai sở hữu được ai trên đời này thì làm gì có chuyện cướp đoạt ở đây"." Nhưng mọi người bảo thế ". " Mọi người có sống giùm cuộc đời mình không?". " Mọi người không tin Hiếu". " Hiếu không cần mọi người. Mọi người không ai hiểu rằng người ta có thể cố gắng học, cố gắng làm, nhưng không ai có thể cố gắng yêu. Người ta chỉ có thể yêu cái cái người mà lòng mình luôn hướng tới . Cái người mà nhắm mắt mình vẫn thấy. Hiếu nhắm mắt là thấy Mi, Mi tin Hiếu không?".
Tôi tin Hiếu. Bởi chỉ có lòng tin mới giúp tôi sống. Như câu nói của Krishna Murti: " Ðó là ánh chớm lóe lên trong khoảnh khắc, ai thấy là thấy, ai không thấy là không thấy, không thể nói cho người khác".
Hiếu nói đúng. Cuộc đời như dòng sông, ai nói trước được nó sẽ qua những ghềnh thác nào. Nhưng hôm nay, dòng sông đang trôi qua những bờ cỏ mịn màng, đang in bóng trời xanh mây trắng. Lẽ nào sợ thác ghềnh mà sống không dám chảy ?
Năm nay Giáng sinh.
Trời khô lạnh. tôi ngồi nhìn ra cửa sổ phòng mình. Ba tôi bảo: "Ðừng buồn. Tối nay đi với cả lớp đến Ngọc Anh. Ba sẽ nhảy với con một bản valse tuyệt vời, như mọi năm ". Tôi lặng im, không nói. Nước mắt thập thò trên mi. Thèm đi một bản Blue Christmas trong tay Hiếu. Thèm ngồi cạnh Hiếu sau khung cửa mênh mông của cà phê Dã Thảo, chia sẽ với Hiếu một cơn gió . Thèm cùng đi một xe với Hiếu trên con đường dài, Hiếu thỉnh thoảng vừa cười vừa ngã đầu ra sau khiến những sợi tóc cứng đâm vào má tôi...
" Sao ngồi thừ ra thế, mau lên con gái ". Ba tôi nhắc. Biết ba cố tình không cho tôi có thời gian để nghĩ tới chuyện riêng tư, tôi đứng dậy mặc áo, đi giày. Mở cửa, hơi lạnh tạt vào, tôi không cầm lòng được, kêu lên " Nhớ quá?" . " Nhớ gì?". Ba tôi hỏi ."Nhớ gió!". Ðể tránh cái cau mày của ba, tôi vội quay soi mình trong gương lần :Dt trước khi ra đi. Bỗng tôi nhìn ra trong gương, đôi mắt tôi giờ dây mênh mông và buồn, giống hệt mắt ba tôi ...
Và tôi chợt hiểu, mình đã lớn. Ðã trở thành một ai đó khác mình năm xưa. Ðã biết thế nào là yêu thương và chịu đựng. Ðôi mắt này, nỗi buồn này, Hiếu đã để lại cho tôi ...
Sàn nhảy đêm Noel tưng bừng rực rỡ với những ngọn nến muôn màu. Từng đôi, từng đôi trai gái bên nhau hân hoan...Ba tôi bảo: "Nào, ra sàn với ba". Nhưng tôi ngồi yên, giữa tiếng nhạc vang lên như những cơn xoáy dịu dàng. Thấy tôi bất động, ba tôi cũng không ép. Giờ lâu, ông bảo tôi :" Thôi con ạ. Ðến tuổi này ba mới nhận ra: Trong tình yêu hạnh phúc thật ngọt ngào, mà cả khổ đau cũng đầu thi vị. Chỉ có trống rỗng chán chường của kẻ không yêu mới thực là khủng khiếp ". Nói rồi ông dõi mắt nhìn xa xôi về phía trước. Bỗng nhiên tôi se lòng. Thương ba. Thương tôi. Và chợt hiểu vì sao mãi mãi ba tôi không quên được Thanh Thuý Tàu, một con người phản bội




Trả Lời Với Trích Dẫn
  #5  
Old 06-12-2004, 08:07 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

:::: Trần Thùy Mai ::::
Hoa Sứ Trắng






T ôi là cô giáo, còn Stéphano là... học sinh. Một học sinh vừa lười vừa bướng bỉnh, có đôi mắt sâu thẳm màu xanh nước biển. Lần đầu đến dạy, tôi bỡ ngỡ vì đôi mắt ấy luôn toả ra thứ ánh sáng mơ mộng như thường thấy trên khuôn mặt những nam thần trong tranh thời Phục Hưng.

Ngôi biệt thự mà Nguyệt Cầm, bạn tôi, cho Stéphano thuê là một ngôi nhà kiểu xưa, trước hoa viên có một pho tượng thiếu nữ Huế nặn rất vụng về. Cầm không nói được tiếng Pháp, nó nhờ tôi giải thích với Stéphano: "Ngày xưa, ông nội Cầm yêu một tiểu thư hoa khôi kinh thành. Không lấy được cô ấy, ông tự tay nặn pho tượng này để suốt đời tưởng nhớ". Một pho tượng tầm thường, nhờ một sự tích nhỏ, bỗng đẹp lên, bí ẩn và quyến rũ. Stéphano bảo: "Với người đời nay, chẳng có gì có thể là suốt đời. Những chữ ấy đã thuộc về cổ tích". Về sau, mỗi lần đến dạy học, tôi thường tránh qua lối đi bên phải. "Tại sao?" - Stéphano HỎI. TÔI NGẬP NGỪNG: "PHO TƯỢNG ĐÃ ĐỨNG ĐÓ QUÁ LÂU. Ở PHƯƠNG §ÔNG, NGƯỜI TA tin những vật vô tri sau thời gian lâu dài sẽ trở nên có linh hồn. Tôi cứ thấy cô ấy nhìn theo tôi".

Ngôi nhà cổ xưa được trang bị bên trong với đủ tiện nghi hiện đại, nhưng Stéphano không thích giam mình trong phòng. Nguyệt Cầm bảo tôi: "Ba cô giáo đến rồi mà đều chào thua". Thế mà tôi đã dạy Stéphano hơn năm trời. Cầm tròn mắt lên khi nghe Stéphano nói những câu tiếng Việt khá rõ ràng: "Chào cô. Cô có khoẻ không? Hôm nay là ngày rằm. Cô có đi lên chùa?". Bí quyết dạy học của tôi khá đơn giản: Biến những buổi học thành những cuộc đi dạo ngoài trời. Stéphano hào hứng bảo: "Như Như à, NGƯỜI TA THƯỜNG BẢO NẾU MỘT NGƯỜI Ý KHÔNG PHẢI LÀ NGHỆ SĨ THÌ SẼ LÀ MỘT NHÀ ĐI BIỂN. CÓ lẽ tôi thuộc nhóm sau, luôn luôn thích phiêu lưu". Tôi nói với anh rằng tôi đã biết máu viễn du của dân tộc anh từ khi còn là một cô bé, qua câu chuyện truyền kỳ về Máccô Pôlô, con người đã chọc thủng bức màn bí ẩn ngăn cách phương Tây và phương Ðông vào thế kỷ mười ba. "Này Như Như, trước đây tôi cứ tưởng Máccô chỉ đơn giản đi tìm sự giàu có. Còn giờ đây tôi tin là anh ta đã bị sự huyền ảo của phương Ðông thu hút".
- Thế nhưng cuối cùng ông ấy cũng rời Trung Hoa, trên một con thuyền.
- Như Như, ông ấy thật hạnh phúc, đã ra đi cùng một nàng công chúa.

Tôi mỉm cười vì sự gian lận của Stéphano. Thực ra, nàng công chúa không phải dành cho Máccô vì ông chỉ được đưa nàng đến xứ Tibet, nơi nàng sẽ trở thành hoàng hậu. "Chàng Máccô của chúng tôi thật ngốc - Stéphano liếc nhìn tôi rất ý nhị - nếu tôi cùng nàng đi chung một con thuyền, tôi chẳng bao giờ chịu đưa nàng vào tay kẻ khác". Tôi đỏ mặt, vì lúc ấy Stéphano đang cùng tôi ngồi trên một con thuyền ngược sông Hương...

KHÔNG AI NGỜ MỘT NGƯỜI Ý MỚI HỌC TIẾNG VIỆT VÀ MỘT NGƯỜI VIỆT KHÔNG BIẾT TIẾNG Ý có thể nói với nhau vô vàn chuyện trên thế gian như thế. Tiếng Pháp với tôi cũng như với Stéphano, đều là ngoại ngữ. Trên cây cầu vay mượn ấy, chúng tôi đã đi với nhau một chặng thật dài... Lúc ấy tôi vẫn chưa nhận ra, một chặng đường ấy có thể dài bằng cả cuộc đời.

Chiều thứ bảy, nghỉ dạy học, nghĩa là nghỉ dạo chơi. Tôi đến gặp các bạn gái tôi ở câu lạc bộ khiêu vũ nữ. Ðã có nhiều lần Stéphano ghé qua đây tìm tôi, anh ngạc nhiên thấy từng đôi nữ ôm nhau nhảy Tango: "Có phải đây là một tụ điểm của người đồng tính luyến ái nữ?". Tôi nín cười giải thích rằng không phải thế, ở thành phố này, đấy là một sinh hoạt giải trí được xem là thanh khiết. Hôm ấy, tôi đi slow với Ngọc Sương. Sương nói thầm: "Mi điên sao? Cặp kè với thằng Tây đó cả năm trời, thiên hạ đều biết. Sau này hắn sổng về Tây, mi khó mà kiếm chồng được ở cái thành phố ni". Tôi ngẩn người. Sương hơn tôi ba tuổi, người đầy đặn sung mãn, nước da ngăm ngăm hồng, là vợ một viên chức có cỡ trong tỉnh. Tính Sương dịu dàng, ít nói nhưng lời nói như kim châm huyệt. Nguyệt Cầm thì bô bô: "Bà còn solo nhưng bọn này có chồng. Mấy ông chồng mà thấy Stéphano lui tới thì bọn này hết chỗ vui chơi. Mà hôm nay không học, sao hắn cũng theo Như tới đây?" Tôi sực nhớ ra, chẳng biết từ lúc nào Stéphano đã tự giành lấy cái nhiệm vụ đưa đón và che chở tôi. Có lần, cha tôi đã nói bóng gió khi ngồi trong hiên nhà nhìn ra vườn, tay cầm quạt chỉ vào cái am nhỏ nhất, thấp nhất trong số bốn cái am thờ bốn bà cô đời trước. "Ðó là am cô Sáu, đi lấy chồng được một hôm thì nhà chồng cho gánh con heo luộc cắt tai qua làm lễ nhị hỉ. Cha và anh phải sang tạ tội lãnh con về. Bà chết già, không lấy được ai nữa. Cái am thờ bà vì thế phải xây nhỏ hơn, thấp hơn am của những bà cô đồng trinh". Heo nhị hỉ bị cắt tai nghĩa là cô dâu không còn trinh tiết khi về nhà chồng. Tôi cười bảo ba: "Ba yên tâm đi, ông Stéphano rất đứng đắn với con".

Thực ra Stéphano nhiều lần bảo tôi "Trong yêu đương chẳng có gì là không đứng đắn". Nhưng tôi sợ. Nỗi sợ nằm trong bản năng tự vệ của nữ giới.

Ðêm rằm tháng tư, ngồi trên thuyền, tôi thả xuống sông chiếc đèn hoa màu xanh lục. Stéphano bảo: "Em có thấy màu xanh lục trên sông thật lạnh và buồn không? Tôi sẽ làm cho nó ấm lên". Anh thả một chiếc đèn màu đỏ, hai chiếc đèn hoa tựa vào nhau trôi trên sông đêm. Stéphano cầm tay tôi lên hôn, rồi anh ôm chặt tôi vì thấy tôi run và sắp khóc. "Stéphano, bao giờ anh đi?". "Tháng tám. Như Như, tôi không muốn đi một mình. Em hãy trả lời tôi đi!".

Quẻ xăm tôi xin được ở chùa Ba Ðồn là quẻ xăm tốt. Stéphano rất thích xem tôi xin xăm, anh bảo khuôn mặt tôi với đôi mắt nhắm nghiền đầy vẻ sùng tín thanh khiết. Lời quẻ là một câu thơ, khá trong trẻo nên không cần dịch ra, Stéphano cũng hiểu. "Trời xanh trăng tỏ rạng, soi sáng việc đêm khuya". "Thế nghĩa là thế nào? - Stéphano hỏi - Tại sao khi mình đang cần lời chỉ dẫn, mà thần thánh lại không chịu nói rõ hơn?". Vị sư già giải thích rằng lời quẻ thế này là rất rõ ràng: Trời quang mây tạnh là điềm lành, đêm lẽ ra tối mà lại sáng là vận may, trăng tròn không có mây che là ý nói sự mãn nguyện. Rút được quẻ này, thí chủ mong gì trong lòng cũng thành. Stéphano cung kính chào từ biệt, khi ra đến cổng chùa anh ghé tai tôi: "Dù cho quẻ có không tốt thì anh cũng bắt Như xin lui xin tới cho đến khi nó tốt". Tôi bật cười... Chiều hôm ấy, rất hạnh phúc, tôi nhận lời cầu hôn của nhà đi biển.

Ðó là lần cuối cùng tôi đi xin xăm, bởi chẳng bao lâu tôi nhận ra chính vì sự bí ẩn trong lời thơ mà bất luận giải thích thế nào, các quẻ xăm luôn luôn đúng. Rằm tháng sáu, Nguyệt Cầm rủ tôi đi mua hoa. Tôi phân vân giữa chợ muôn màu: Rằm tháng tư tôi đã cắm hoa sen cho Stéphano, rằm tháng năm hoa hoàng anh lấm tấm vàng. Giờ tôi muốn tìm một thứ hoa khác của mùa hè nhiệt đới. Như sực nhớ ra, Cầm đưa cho tôi một miếng giấy thơm quấn đầy những sợi tóc đen dài. "Sáng nay do người làm dọn phòng, thấy tóc mi vương đầy gối Stéphano, ta phải nhanh tay thu lấy. Tụi người làm nhiều chuyện lắm, đừng để chúng biết". Tôi tái mặt, bàng hoàng một lúc mới ấp úng: "Oan thị Kính. Tao chưa hề bước chân vào phòng Stéphano".

Ðêm, trăng sáng in hình những cành sứ khẳng khiu chờn vờn trên lối đi trong vườn. Tôi hái hoa bằng dao, mủ sứ ròng ròng nhỏ xuống như sữa. Trắng muốt và thơm ngọt ngào, những bông sứ ngậm sương hơi khép lại. Cha tôi lo lắng thấy tôi mặc áo dài. "Tối rồi, con đi đâu? Ði đêm mặc áo trắng không nên, con ạ". Nhà Stéphano vắng lặng không ai. Lần đầu tiên tôi đến ngồi dưới chân pho tượng mà không còn thấy sợ. Cô gái và tôi nhìn NHAU. TÔI RUN RẨY, DƯỜNG NHƯ CÔ GÁI NÀY BIẾT VỀ STÉPHANO NHIỀU HƠN TÔI. ÁNH MẮT CÔ BÉ SÁNG NỖI lo âu ma quái, khi bên tai tôi, vẳng tiếng xe chậm lại, tiếng cánh cổng sắt rít lên, chính anh đang trở về giữa khuya...

Người đàn bà mặc áo đen, trăng xuyên qua tấm khăn voan mỏng cho tôi thấy những đường nét thanh tú quen thuộc. Hai chúng tôi nhìn nhau. Trăng sáng loá giữa trời - có phải ánh trăng trong quẻ xăm bí ẩn? Tôi loá mắt. Trăng trên áo tôi, trên những bông sứ đang thơm ngát, trên những vũng sương trắng trong vườn. Những màu trắng với phản quang :Di rực. Tôi nhắm mắt, mụ mẫm, chỉ kịp lẩm bẩm khi cảm thấy Stéphano đang chạy đến bên mình: "Stéphano, em đem cho anh hoa sứ trắng". Những bông hoa rơi thật dịu quanh mình tôi khi tôi ngã xuống trong vũng trăng...

Tháng chín năm ấy, tôi lánh mình trong nhà như người ẩn tu. Cầm đến thăm, bảo tôi thật ngốc khi để Stéphano ra đi mà không bắt hắn làm đám cưới. Tôi đắn đo mãi mới nói: "Những sợi tóc trên gối Stéphano không phải của tao. Tao đã gặp người đàn bà đó". Cầm ngớ người: "Ai thế?". Tôi ngậm miệng. Tháng sau, khi chồng Ngọc Sương đột ngột lên ĐƯỜNG ĐI TU NGHIỆP Ở Ý MỘT NĂM, BỘ ÓC SẮC SẢO CỦA CẦM MỚI BẮT ĐẦU HOẠT động, nó vặn vẹo hỏi tôi đủ điều. "Mệt quá Cầm ơi, để cho nước trôi qua cầu đi. Mi tò mò như một con ma tỉnh lẻ".

RẰM THÁNG TƯ NĂM SAU, CHỒNG NGỌC SƯƠNG TỪ Ý VỀ, LÂU LẮM MỚI ĐẾN THĂM, nhằm lúc hai vợ chồng đứng giữa ngôi nhà đang đập ra xây lại. Chừng như hàm ơn sự im lặng của tôi, Sương kéo ra một góc, thủ thỉ: "Những lần mình đến ngôi nhà đó chỉ có nghĩa như một sự cảm ơn. Lẽ ra Như không nên thế, với đàn ông cần phải biết tha thứ". Tôi lắc đầu, thực ra tôi không bao giờ nghĩ rằng Stéphano có lỗi. Chỉ có điều tôi nhận ra, Stéphano là một nhà đi biển thực thụ. Mối tình này với anh là cuộc viễn du vào một miền văn hoá lạ, trong khi với tôi nó giống bầu trời của người hành hương lên núi cao, một là có tất cả, hai là bóng đêm và vực thẳm. Ðấy cũng là lúc tôi hiểu rằng dù sống trên một xứ sở có bờ biển rất dài, tôi vẫn mang tập tính của cư dân vùng núi. Trước khi ra đi, Stéphano bảo: "Sao em không lấy tôi làm con thuyền?". Tôi nhìn anh lần cuối, qua nước mắt, vẫn còn nhận được nơi đôi mắt xanh thẳm kia, chính chàng cuối cùng cũng nhận ra sự cưỡng lại đầy vô thức của tôi.

Sự cưỡng lại để không tan hoà trong biển của chàng, biển mà tôi yêu.

Chàng Máccô của tôi từ khi ra đi không gửi thư từ gì. Chồng Ngọc Sương bảo anh ta đã có dịp đến thăm nhà ông Stéphano, một căn nhà xinh xắn ở ngoại ô, có pho tượng nhỏ trên bãi cỏ xanh. Khi hỏi đấy là tượng của ai, ông Stéphano bảo: "Ðấy là ký ức của tôi về một nàng công chúa. Tôi thường không tin tưởng ở mấy chữ "suốt đời", tuy nhiên, bao lâu còn có thể, pho tượng này sẽ nhắc tôi nhớ về những giấc mơ và niềm ân hận mà tôi để lại ở phương Ðông".




Trả Lời Với Trích Dẫn
  #6  
Old 06-12-2004, 08:08 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

:::: Trần Thùy Mai ::::
Lửa Của Khoảnh Khắc






T hằng Cọt ngồi trên chiếc ghế gỗ, đôi mắt trừng trừng ngó ra ngoài vườn. Trên đầu nó, mái hiên chùa im mát rợp bóng. Không gian im vắng thoang thoảng mùi nhang trầm tinh khiết. Tất cả sạch sẽ, tinh tươm, thanh tịnh. Trên cái nền ấy, thằng Cọt nổi bật lên như một vật kỳ dị, lạc lõng.

Đã hơn mấy mươi năm, nó vẫn ngồi đó. Khuôn mặt nó già đi mỗi ngày, mái tóc rậm, đôi tai vểnh và tròn. Chỉ có cơ thể và tay chân cứ hoài quắt queo, không nhỉnh ra thêm một tí nào, mãi mãi vẫn là thân thể một đứa trẻ bên dưới cái đầu của một người đàn ông không có tuổi.

Thằng Cọt không có tuổi. Nó hiện thân như nỗi ám ảnh của quá khứ. Dưới mái chùa này, vãi Thông sống với nó như sống với nghiệp chướng. Mỗi buổi sáng, vãi thức dậy từ sớm. Sau giờ trì tụng công phu, vãi lo nấu cơm, vực thằng Cọt dậy và lặng lẽ đút từng muỗng vào cái mồm xám xỉn. Cứ thế từng ngày, vãi sống lơ lửng giữa cõi tu và cõi tục. Sau những giờ trầm lắng trong hoa hương, kinh kệ và viễn cảnh siêu thoát mà vãi hằng khao khát, là những giờ đối diện với đứa con trì độn, với đôi mắt mở trừng nhìn vào khoảng không.




*
* *



Bao giờ cũng thế, đôi mắt ấy giữ trong đáy sâu của nó hình ảnh cái làng quê trên vùng bán sơn địa cằn khô. Vùng đất bốn mươi năm trước Niết đã về làm dâu. Đám cưới đi bộ qua cánh đồng cỏ úa. Đồng cỏ rộng và hoang vu như một cái truông dài. Để được an tâm, nhà chồng Niết cho Cu Dõng, lực điền giúp việc trong nhà vác ngọn lao đi đầu phòng khi gặp mãnh thú trong cỏ lau. ở vùng này, nước khan, người ta chỉ làm ruộng một mùa. Nghề phụ kiếm sống là săn bắn. Người ta sử dụng cung tên giáo mác và giỏi tài đặt bẫy hơn cả người tiền sử...

Hoài niệm về đám cưới quá xa mờ, chỉ còn hình ảnh đoàn người đi sau mũi giáo, băng qua con đường đất đỏ như mầu tiết đọng, giữa hai bên lau cỏ vượt quá đầu người. Niết cúi đầu đi dưới nắng, giữa các bà già đi quanh. Thoáng nghe tiếng xì xào: "Thằng Dõng đi đầu, vác ngọn giáo mà mũi lại hướng ngay về cô dâu chú rể, thật chẳng hay tí nào". Niết nghe nói nhìn lên. ánh mặt trời tụ lại trên mũi lao thành một chùm sáng lóe. Những bắp thịt của người tráng đinh cuộn lên dưới nắng. Gió thổi qua truông ào ào, cuốn theo tiếng lao xao của đoàn người.

Đêm cưới Niết, trong sân nhà chồng tụ lại đông như ngày hội. Đống lửa hồng trên sân. Mùi thịt nướng tỏa lan trong không khí. Niết nằm trong buồng nhìn qua khe cửa sổ. Tiếng ông trùm phường săn đang hát bài tế sơn quân trước xác con vật cách đấy mười tiếng đồng hồ còn thuộc về rừng núi: "Aaa...aa... sơn quân trong rừng sâu, sơn quân trên núi cao. Thú vào bẫy, người nhỏ máu. Rừng núi rộng lòng, người ta nương náu...". Trong tiếng hát, một tráng đinh lực lưỡng đang dọc ngang trên xác con heo rừng, tay cầm con dao sáng loáng. Lúc hắn quay mặt ra ánh lửa, Niết nhận ra người đàn ông vác mũi lao đi đầu đoàn người qua truông. Thịt đã chia xong cho mỗi nhà, theo đúng tục cưới trong vùng này. Ngọn lửa dần tàn, người tản đi bớt. Đêm dần lặng yên, trong lúc Niết mệt nhoài vì chuyến đi, vì những xúc cảm của ngày đầu xa nhà và những lạ lùng ở vùng đất mới. Nàng thiếp đi, trong giấc mơ ngọn lửa cứ bập bùng cho đến khi một bàn tay chạm vào cánh tay nàng. Niết giật mình. Bàn tay đầy mồ hôi, nhớp nháp lạnh. Nàng mở mắt. Thầy Thông, người chồng mà giờ phút này nàng mới nhìn rõ mặt. Niết nằm im lặng, mở to mắt, chờ đợi. Trong giờ phút lặng yên ấy nàng có cảm giác như vẫn nghe rất rõ tiếng lách tách của những mẩu than cuối cùng trên đống tro ngoài kia, và mùi lông, da thú cháy khét lẩn quất trong không khí.

Thầy Thông làm việc dưới thị trấn. Một viên chức, dù chỉ là viên chức ở một thị trấn nhỏ bé, cũng là một danh giá lớn. Mặc dù có tiền và thuộc loại "ăn trên ngồi trốc" trong làng, thầy Thông hiền như đất. Dự định của hai vợ chồng là khi nào ông bà cụ trăm tuổi sẽ cùng ra ở thị trấn, giao cơ ngơi ở quê lại cho ông Chánh Hội, trùm phường săn, chú ruột thầy Thông. Nhưng cho đến khi thầy Thông biến mất khỏi vùng đất khô cằn này, Niết vẫn chưa ra khỏi cuộc sống quanh quẩn trong ngôi nhà ba gian với cái sân gạch nơi đã có đống lửa hừng lên trong đêm nàng mới đến nhà chồng. Từng năm qua, nàng dần quen với phong tục kỳ lạ của vùng săn. Bài hát tế sơn quân hầu như cứ mười hôm một lần, được hát lên trong sân nhà nàng, cái sân gạch duy nhất trong ngôi làng đìu hiu khô cằn này. ở đây, nghề săn là một thu nhập chính. Bởi vậy nhà chồng Niết, vốn không có tráng đinh, phải nuôi cu Dõng để vừa giúp việc làm ruộng, vừa đi săn. Dõng lầm lì, ít nói. Hắn là tráng đầu phường, lúc nào mũi giáo đầu tiên xiên vào con thú cũng là của hắn.

Những ngày mưa, hắn vừa vá lưới săn vừa kể cho mấy đứa tớ gái kinh nghiệm của hắn với các loại thú rừng. Con lợn lòi da dày, lông lởm chởm. Mũi giáo không đâm thủng. Muốn hạ nó phải bình tĩnh xiên mũi giáo vào dưới nách, hoặc nhắm vào chỗ khấu đuôi. Gấu càng nguy hiểm hơn, hễ thấy người là lao tới móc mắt. Phải đối diện với nó trong lúc nó lao tới, ở tư thế quỳ, mũi giáo cầm chắc, chếch mũi lên hướng phía trước. Con gấu theo đà phóng tới rơi gọn trên mũi thép, cổ bị xuyên thủng. Hoặc là mũi giáo đâm trúng cổ gấu, hoặc là xương thịt người đi săn sẽ bị cắn nát. Hai đứa tớ gái nghe say sưa đến há hốc miệng. Còn Niết, nàng chỉ nghe một cách lơ là. Nàng vẫn thế, dửng dưng và buồn nản với mọi người. Công việc trong nhà với những động tác giản đơn và lặp đi lặp lại biến cuộc sống của Niết thành một vòng tròn những bổn phận và những thói quen. Kể cả lúc thầy Thông thỉnh thoảng trở về, cái vòng tròn ấy cũng không hề bị phá tung, bởi Niết luôn sống trong cõi đời với tư thế một người chấp nhận, trước cả nỗi buồn và niềm vui, chia xa và hội ngộ. Mỗi lần về thăm, thầy Thông ăn cơm với ông bà Bá ở nhà trên. ăn xong, thầy xỉa răng rồi đi thăm đủ bà con trong làng, theo đúng phong tục ở nông thôn, không bỏ sót ai để khỏi bị phiền trách. Thường thầy trở về thì căn nhà đã vắng lặng, ai nấy ngủ yên, kể cả Niết. Nàng tỉnh giấc khi bàn tay chồng chạm vào người. Cảm giác nhờn và nhớp nháp lạnh làm nàng bất giác co người lại. Mọi điều sau đó, nàng lặng im chấp nhận một cách ngoan ngoãn, để mặc mọi chuyện xảy ra trên thân thể mình, như đang làm một công việc cuối cùng trong ngày. Sau đó, nàng tự thắt lại dây lưng, gài lại nút áo và quay mặt vào vách ngủ tiếp. Vòng tròn lại khép kín. Bao giờ cũng thế, cho đến ngày cả làng xôn xao lên vì vụ án giết người ngay trong sân nhà ông bà Bá, cha mẹ chồng Niết.




*
* *




Thằng Cọt lại chắp chắp môi, ú ớ. Nó khát nước. Nó kêu. Vãi Thông lại gần. Trán nó nóng hầm hập. Nó ốm đã mấy hôm nay. Khi nó ra đời ai cũng tiên đoán nó chết non. Nhưng ngược với lời tiên tri, thằng Cọt vẫn sống, sống dai nhách một cách vô lý và oái ăm. Mặc dù chính vãi Thông, người sinh ra nó cũng mong cho nó được sớm giải thoát khỏi số phận còi cọc. Ba mươi năm qua, mưa nắng không chạm tới nó, chiến tranh không động tới nó. Nó sống để ám ảnh người còn sống.

Vãi Thông nghiêng chén nước vào miệng thằng Cọt. Người ta gọi nó là Cọt, tiếng vùng quê gọi là còi cọc, không lớn lên. Nhưng bọn trẻ con quanh chùa thường gọi nó là Gấu. Nom nó giống hệt một con gấu, với những nếp nhăn hằn sâu trên trán, với đôi tai vểnh và cái mũi thỉnh thoảng khịt khịt đánh hơi. Khuôn mặt nó còn in những nét của cái đầu con gấu nằm ngửa bất động bên đống lửa cháy. Đến nửa khuya lửa tàn, phủ bụi tro lên cái xác thú bị bỏ rơi...

Trong mắt vãi Thông hiện lên muôn ngọn lửa. Lửa. Lửa. Lửa bừng bừng khắp nơi trong đêm đen. Những ngọn đuốc truy lùng khắp nơi trong đêm tối. Tiếng mõ khua lốc cốc. Tai biến đã xảy ra trong phút chốc, hết sức bất ngờ và vô lý, sau một cuộc cãi cọ trong lúc chia phần thịt giữa những người đi săn. Trên thân xác con gấu nằm kia, ai là người đâm giáo đầu? Vốn hững hờ với mọi việc, Niết chỉ nghe tiếng quát tháo của thằng con Chánh Hội, tiếng nó sỉ nhục lanh lảnh như giọng đàn bà vẳng vào trong nhà. Khi nàng nghe tiếng gầm của Dõng, nàng chợt giật mình nhìn ra, bởi tiếng gầm ấy rất giống tiếng gầm của loài thú dữ.

Sau đó khi tất cả tán loạn trong một nỗi khiếp hãi ghê gớm, khi tiếng khóc gào của người nhà Chánh Hội, tiếng hò hét truy đuổi trong đêm ầm ĩ vang lên, Niết mới hiểu là tai họa đã xảy đến. Trong cuộc ẩu đả, con Chánh Hội đã chết. Người ta tìm bắt Dõng. Còn thằng con trai Chánh Hội, hắn đã nằm mở mắt nhìn lên bầu trời đêm, hắn đã thoát ra ngoài mọi cuộc truy bắt. Niết không dám đến gần để nhìn vào đôi mắt hắn.

Mọi xôn xao rồi cũng dịu xuống dần. Nhà Chánh Hội treo giải: ai bắt được Dõng sẽ cho mười thúng thóc. Mười thúng thóc ở cái vùng vừa ven núi vừa ven biển ấy quý lắm. Bởi vậy người ta lùng sục khắp hang cùng ngõ hẻm còn quá hơn con thú trên rừng lùng sục kiếm ăn. Nhưng vô hiệu. Người ta phải nhắn thầy Thông về để dàn xếp mọi việc, vì bên nhà Chánh Hội đòi kiện tụng. Cũng may vì hai nhà vốn là chỗ thân thuộc, và cả vì sự trọng nể đối với thầy Thông, câu chuyện được thu xếp êm xuôi và dần dần đi vào quên lãng.

Lần thầy Thông về thăm nhà ấy, từ ngày cưới, tính đã sáu năm. Đêm đó Niết tỉnh giấc khi bàn tay lạnh và nhờn mồ hôi của chồng chạm vào người. Im lặng. Một lát, Niết nhận ra trùm lên căn chái nhỏ không còn ánh lửa tàn, không còn mùi lông da cháy khét. Một cảm giác nguội lạnh chợt nhắc đến điều lâu nay vẫn lởn vởn trong tâm trí: Sự muộn màng của một đứa con. Chồng nàng yên lặng không trả lời. Thêm một lần, Niết im lặng chấp nhận cái công việc cuối cùng của một ngày, trước khi quay mình vào vách chờ giấc ngủ.

Không bao giờ Niết tưởng tượng được con người thường ngày điềm đạm và gần như lạnh giá ấy lại có lúc cầm con dao kề vào ngực nàng, với khuôn mặt điên cuồng vì ghen tuông. Người đàn ông ghen, khủng khiếp gấp mấy trăm lần người đàn bà, bởi vì ngoài lòng căm thù man rợ họ còn có quyền lực và sức mạnh. Hai hàm răng nghiến ken két trong lúc hạch hỏi, rất nhỏ, để khỏi làm kinh động những người đang ngủ bên ngoài căn chái: "Khai ra không thì tao cho mày chết". Niết nằm rũ liệt, mồ hôi lạnh vã ra khắp người. Hôm nay chồng nàng đã nhìn thấy dấu hiệu thai nghén nơi hai bầu ngực đầy vun, hai núm vú sưng lên, đen thẫm.

Nàng tự biết mình mở miệng nói thì tất cả sẽ sụp xuống như ngàn cân đá. "Tôi xin chết. Cậu đừng hỏi, tôi không nói đâu, đằng nào tôi cũng chịu chết". Mũi thép ấn xuống. Bất chợt, cả sức nặng đe dọa tan biến... Niết mở mắt, thấy chồng đã quăng dao, ôm mặt khóc như đứa trẻ.

Nàng ngồi dậy, định đến nâng chồng lên nhưng thầy Thông đẩy nàng ra. Niết ngồi yên, một phút sau nàng bảo: "Cậu tha lỗi cho tôi. Tôi có tội. Ngày mai tôi xin đi khỏi nhà này". Thầy Thông lắc đầu: "Mày ra khỏi nhà, mày chết đói. Tao nuôi mày, mày cứ ở đây. Tao không bỏ mày đâu nhưng từ đây tao không đụng đến mày nữa".

Niết gãy gập xuống như cái cây bị bão. Lòng quảng đại bất ngờ của chồng làm nàng bị hành hạ đau đớn hơn mọi lời rủa sả. Hình như hình phạt lớn nhất không phải là roi đòn mà là sự bao dung.

Về sau này, nghĩ lại, đôi khi Niết tiếc tại sao lúc đó mình lại không chết thì nhẹ nhàng biết bao. Nhưng nàng đã sống; mà cả thầy Thông cũng muốn cho nàng sống, bởi dù gì, cả gia đình cũng đang cần một đứa con... Chồng nàng đã được an ủi bởi ý nghĩ, dù sao khi đứa bé ra đời thì cái cộng đồng quanh nó cũng sẽ xem nó như một sự chứng nhận: chứng nhận cho một điều gì đấy không hề có, nhưng lại rất cần...

Nhưng chín tháng sau, khi đứa trẻ ra đời, mọi hy vọng cuối cùng đã sụp đổ. Thầy Thông bỏ đi. Phía trước là con đường đất đỏ mòn lấp giữa truông lau. Gió lạnh quất buốt rát. Niết chạy theo hổn hển khóc: "Tôi lạy cậu, cậu quay lại với ông bà..." Thầy Thông hất mạnh, nàng ngã vật ra đất. Hai đứa tớ gái chạy theo, khóc lóc, níu lấy chủ. Thầy Thông đành quay lại, mắt đỏ au nhìn trừng trừng khoảng không. Đêm hôm ấy, thầy lẳng lặng ra đi. Và không bao giờ về nữa.

Bất hạnh chồng chất làm Niết muốn ngã gục. Nhưng phải sống. Vì đứa con không thành người. Vì cha mẹ chồng đang trong cảnh già tuyệt vọng. Không ai biết điều gì để phiền trách nàng. Ai cũng tưởng nàng là nạn nhân của bất hạnh như họ. Chỉ có nàng biết mình là thủ phạm. Niết xuống tóc và ăn chay từ ngày đó. Nàng chỉ còn một mong mỏi, được quên.




*
* *




Sau khi ông bà Bá mất, Niết bán hết nhà cửa rồi lưu lạc theo những cơn lốc của thời cuộc vào phía nam. ở đó, trên mảnh đất ngoại ô, Niết đem hết lưng vốn thu gom xây một ngôi chùa tư nho nhỏ. Hơn năm mươi, Niết được chung quanh gọi là vãi. Vãi tu hành và nuôi con. Đứa con mà vãi đã đẻ ra với khuôn mặt dị dạng, đôi tai vểnh to, đôi mắt lệch lạc ngay khi nhìn tia sáng đầu tiên. Không hiểu tại sao vãi lại không chết ngay khi nhìn thấy nó lần đầu. Nó đã từ chối sự lừa dối mà một người lớn quảng đại nhất đã dành cho nó. Tại sao ? Sao tôi lại sinh ra một con thú nhỏ trong lúc đã thai nghén nó trong một khoảnh khắc rất người?

Vãi Thông cúi đầu, một giọt nước mắt lăn tăn trên mí mắt đã khô nhăn. Mãi mãi, dù sớm chiều kinh kệ, vãi biết mình chưa thật đi vào giải thoát, chừng nào còn nhìn thấy trong đôi mắt trừng trừng vô cảm của thằng Cọt cái khoảnh khắc xa xưa ấy. Một khoảnh khắc vang dội và mãnh liệt trong một đời người dài, rất dài. Không biết do sự tình cờ nào chiều hôm ấy khi đi củi về Niết ghé vào hang Cổ Gà ngồi nghỉ. Cảm giác của người bị nhìn từ sau lưng làm nàng quay lại: Dõng, con người bị truy lùng đang ở sau lưng nàng. Lẽ ra nàng đã hét to lên và bỏ chạy, nếu nàng không kịp nhớ rằng hồi còn ở nhà, hắn rất hiền, và bây giờ nom hắn tiều tụy thảm thương quá.

Hắn không trốn về xã Quảng Thụ, quê hương hắn, hay đi giật dọc như lời đồn đoán của dân làng, mà lặn theo dòng sông trong đêm tối ngược lên khe rồi trốn trong hang Cổ Gà, ăn trái cây và dơi để sống. Không có gì tùy thân, nên hắn không thể đi xa. Hắn thèm gặp người, nhưng không dám. Chỉ qua Niết hắn mới dám nối lại mối dây liên hệ với cộng đồng của mình - cái cộng đồng lúc này đang muốn tìm hắn để nạp cho lưỡi dao chém sắc lẻm của người đao phủ.

Niết nhìn hắn và chợt nhớ đến hình ảnh chùm lửa trên mũi giáo hắn vác ngược sau lưng trong ngày cưới của mình. Hôm sau, nàng quay lại hang Cổ Gà, đem cho hắn thịt khô, lưỡi dao để cạo râu tóc, và cả một bộ quần áo cũ để chống chọi với cái rét lúc về đêm. Một tuần sau, nàng bắt đầu ít sợ hãi hơn, đã có thể ngồi lại trong hang một chút. Lúc đó lần đầu tiên nàng thấy ánh mắt hắn khẩn cầu. Một bàn tay hắn đặt lên chân nàng. Niết sợ, vội vàng đứng dậy, hấp tấp ra khỏi hang. Những con dơi chờn vờn đập cánh trên trần động. Niết đi như chạy vì sợ Dõng đuổi theo, nhưng lúc đến bên khe nước mặn, ngoái đầu lại, nàng chỉ thấy một bóng mình trong hoàng hôn.

Trong bóng chiều, cảnh hoang vu của khe núi làm nàng chợt thấy trơ trọi. Nàng đã trơ trọi như thế bao lâu mà không nhận ra. Nàng thấy hình ảnh Dõng nằm trong cái túi đá kia, cô độc và bị bỏ rơi. Hắn trơ trọi giữa rừng núi, cũng như nàng trơ trọi giữa những vòng tròn khép kín.

Niết run chân. Nàng đứng sững trước khe cho đến khi hòn đá lớn giữa dòng bị nước dâng lên ngập đến hai phần ba - mặt nước lúc hoàng hôn đã dâng cao, chắn đường về. Hoặc là liều lội qua khe. Hoặc quay trở lại... Lần đầu tiên nàng đứng trước một lựa chọn. Cả cuộc đời nàng dửng dưng, chấp nhận, bây giờ nàng phải tự quyết lấy cho mình.

Nửa giờ sau, trong lòng hang, Niết thấy Dõng dựa lưng vào vách đá. Hắn không hấp tấp khi thấy Niết. Hình như hắn đã tiên liệu rằng Niết sẽ trở lại, với cái linh khiếu thông tuệ của người luôn luôn ước lượng được chỗ hiểm chính xác của các loài dã thú.

Niết thì thầm: "Nước ngập hòn Ông rồi". Dõng gật đầu và một giây sau nàng cảm thấy hơi nóng rừng rực từ thân thể người đàn ông. Nàng thấy đầu hắn ở trên hai gò ngực mình, khát khao như đứa bé rúc tìm mẹ. Hắn không hung bạo như nàng thoáng lo sợ, trái lại hắn xúc động như đứa trẻ được quà, mắt đỏ au và rạng rỡ. Hai cánh tay to và thô vừa ôm siết vừa lót quanh lưng Niết như để giữ cho nàng khỏi bị nghiến vào nền đá. "Lát nữa anh sẽ cõng em sang sông. Đừng sợ". "Nhưng anh không thể..."

Niết muốn nói Dõng không thể sang bên kia khe mà không bị nguy hiểm đe dọa. Nhưng nàng không nói được hết câu. Nàng nhìn vào mắt Dõng, ánh mắt của lửa chớp trong cơn giông và biết trong giờ phút này, với hắn và cả với Niết nữa, cái chết chẳng có ý nghĩa gì hết.

Sau khoảnh khắc đó, Dõng lại nhớ đến lưỡi gươm treo lơ lửng trên đầu. Hắn cõng Niết qua khe nước mặn. Phút giây đó hắn chợt trở nên can đảm. Hắn nói đến ý định trốn đi, nhân chuyến vượt khe này.

Niết ứa nước mắt nhìn theo bóng người đàn ông biến mất trong đêm tối. Nàng biết, hắn không thể sống suốt đời trong hang Cổ Gà. Hắn đi rồi, Niết quỳ sụp xuống đất, úp mặt trên đám cỏ. Nàng thầm thì cầu nguyện cho hắn được sống và có ngày trở lại.

Đúng một năm sau khi thầy Thông bỏ nhà ra đi, Niết bế thằng Cọt đi tìm chồng. Khi đi ngang cầu Đa Lý, trước ngã rẽ về Quảng Thụ, nơi vốn là quê cũ của Dõng, Niết bất giác ngừng lại. Không biết một sức mạnh nào đưa đẩy chân nàng đi về hướng đó. Để làm gì? Không, chẳng để làm gì cả. Nàng không thể và cũng không muốn đòi lại những gì nàng đã cho. Nhưng trái tim nàng bỏng rát ê chề, cứ muốn tìm một giọt nước mát. Dù chỉ một giọt chia sẻ mà thôi!

Đến Quảng Thụ, hỏi tung tích Dõng, nàng nghe kể một chuyện vừa xảy ra chưa đầy ba tháng. Dõng đã trốn về làng và lại làm lực điền cho một ông xã. Nhưng có lẽ biết mình không thể sống yên, Dõng đã trốn đi. Lần này hắn không đi một mình. Cùng trốn theo hắn là cô con gái ông xã với nhiều tư trang của nả. Người ta đồn hai đứa đi lên mạn ngược. Có người lại bảo cả hai cùng vào nam... Chẳng rõ hư thực ra sao.

Niết lủi thủi bế con ra đi. Nàng nghĩ tới những cơn lửa trời trong truông vắng. Giữa sấm sét, lửa bùng lên, mãnh liệt, thiêu đốt dữ dội rồi tàn lụi. Bây giờ nàng tin người ta chỉ có mặt trên đời này như những ảo ảnh. Những ảo ảnh hiện ra, di động, gặp nhau rồi dang xa. Rồi tan biến, như bọt đầu sóng nước.

Nhưng thằng Cọt vẫn còn. Nó không phải là ảo ảnh. Nó sống thực, lì lợm và gớm ghiếc. Giờ đây nó nằm thoi thóp, y hệt con gấu bị xiên thủng họng nằm trước đống lửa. Hơn ba mươi năm rồi. Những đớn đau đã chìm vào năm tháng. Lưng vãi Thông đã còng. Tóc bạc hết. Vãi ngồi khom bên con thú người đang nằm chênh vênh giữa hai bờ sống chết. Con thú người ấy là hình ảnh của quá khứ. Quá khứ không buông tha, đeo riết, trì kéo linh hồn bà.

Xin hãy buông tha tôi. Xin ngủ yên, những gì trong lầm lỡ một đời. Vãi Thông một tay đặt lên trán thằng Cọt, một tay lần tràng hạt. Ba mươi năm nay, nhắm mắt niệm Phật, vãi thấy niềm an ủi của viễn cảnh siêu thoát. Nhưng mở mắt ra, nhìn đôi mắt vô hồn trừng trừng man dại, vãi lại thấy hiện ra miệng hang Cổ Gà, những con dơi quạt cánh vào vách đá, và bóng tối đang trùm xuống từ vòm cao...

Thằng Cọt chết. Nó chết vào một đêm trời giông. Vãi Thông quỳ bên giường, lẩm bẩm tụng kinh. Nó đã thoát nghiệp. Và vãi được tha tội. Vãi tự liệm và chôn con trong góc vườn chùa. Vãi chôn thằng Cọt, chôn cả nỗi ám ảnh suốt đời người.

Ngày Đản sinh sắp tới. Giờ đây chỉ có một mình, vãi định đi hành hương ba ngày lên Chùa lớn để nghe thuyết pháp.

Nhưng chuyến đi ấy mãi mãi chỉ có trong dự tưởng. Một tuần sau, những người làm hương không thấy vãi đến nhận hương liệu về làm như thường lệ. Rồi cỏ trong sân chùa cứ mọc cao, mọc cao dần, che khuất cả lối đi.

Khi dân trong xóm đổ vào thì đứng ở tam cấp, người ta đã ngửi thấy mùi của cái chết.

Trái tim héo hắt của vãi Thông đã ngừng đập vào đúng lúc người đàn bà ấy nhận ra, không có nỗi ám ảnh của quá khứ thì cả cuộc đời của bà cũng chẳng còn gì để sống. Dù trì độn và điên dại, đôi mắt thằng Cọt vẫn không ngừng phản chiếu ánh lửa của một khoảnh khắc bất tử. Ba mươi năm qua ngay trong từng giây đày đọa, vãi đã sống với hồi niệm về ánh lửa ấy mà không hề tự biết. Và giờ đây, khi ánh lửa tắt đi vĩnh viễn. Tất cả tháng ngày của bà chỉ còn lại hư không.




Trả Lời Với Trích Dẫn
  #7  
Old 06-12-2004, 08:08 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

Trần Thùy Mai ::::
Lửa Hoàng Cung






N ăm ấy nhà vua đã gần sáu mươi tuổi. Hàng ngày, cung tần mỹ nữ vẫn được tuyển thêm. Ròng rã hơn mấy mươi năm, tháng nào hậu cung cũng có một hoàng nam hay một công chúa mới ra đời. Tính đến năm thứ hai mươi bốn trị vì, nhà vua đã có đến ba mươi tư con trai và sáu mươi chín con gái.
Quỳnh Thơ là con thứ ba của Hoàng Quý Phi, lớn lên trong cung Trùng Hoa cùng với hai chị là Quỳnh Bôi, Quỳnh Tiên. Hoàng Quý Phi bị vua lãnh đạm từ lâu, ít khi được gặp vua trong nội tẩm. Ba nàng công chúa nhỏ hầu như chỉ thấy phụ hoàng từ xa, trong những ngày gia lễ, khi ngài đi thoáng qua thềm các cung viện để nghe lời chúc tụng thành khẩn từ những bà vợ bị bỏ quên của mình. Hình như Quỳnh Tiên, là trưởng nữ, đã từng được nhà vua bế lên tay một lát trong ngày chúc thọ bát tuần Thái hoàng Thái hậu. Thái hoàng Thái hậu mất đã lâu rồi và Quỳnh Tiên cũng không còn nhớ rõ kỷ niệm huy hoàng thời thơ ấu. Các nàng công chúa trong cung suốt năm chỉ mơ đến những ngày lễ Tết, ngoài những ngày vui nhộn nhịp ấy, cuộc sống lại tĩnh mịch, ngày nào cũng như ngày nào. Các phu nhân đến hầu Hoàng Quý Phi, ngón tay trơn nhẵn vì lật qua lật về quá nhiều lần những quân bài tứ sắc, đám thị nữ từ sáng đến chiều hết hái hoa, tưới hoa lại đập rũ những chăn màn bám bụi. Thế giới của đàn bà, nhỏ nhặt, nhàm chán, và lặng lẽ.
Năm Quỳnh Thơ mười hai tuổi, hoàng cung tổ chức lễ nguyên tiêu rất lớn. Những mâm bánh măng, bánh phục linh đủ màu sắc cao chất ngất. Ðèn lồng lấp lánh giăng khắp các ngọn cây trong vườn thượng uyển. Ðến giờ tý, tất cả các cuộc vui dừng lại, đèn đuốc trong nội cung tắt ngấm. Cung nga thể nữ lũ lượt mang lồng ấp sang điện Càn Thành, nơi vua ở, xin lửa.
- Thưa mẹ, tại sao phải tắt lửa đi, rồi lại đi xin những mẩu than này, hở mẹ? Quỳnh Thơ hỏi.
Hoàng Quý Phi vừa về đến cung, hai thị nữ theo sau mang lồng ấp đan hình chim phụng. Cả ba người kính cẩn đặt vào đấy mấy mẩu gỗ trầm, mùi hương toả lan ấm cúng trong đêm lạnh, rồi lửa bùng lên, những ngọn đèn lại được thắp sáng.
- Con biết không, đấy là tục lệ do các tiên hoàng đặt ra. Lửa là khí dương. Trong cung điện này tất cả chúng ta là đàn bà, thuộc về khí âm, chúng ta có được hơi ấm và sức sống là từ ngài ngự.
Hoàng Quý Phi trả lời con với vẻ thành kính, còn Quỳnh Thơ chỉ hiểu lờ mờ lời mẹ nói. Lời giải thích của Hoàng Quý Phi đã để lại trong tâm trí nàng công chúa nhỏ những nỗi thắc mắc không thôi về mối liên hệ giữa âm và dương, giữa mặt trăng và mặt trời.
Khác với Quỳnh Tiên, Quỳnh Bôi dịu dàng, ngoan ngoãn, nàng công chúa Quỳnh Thơ út luôn là mối lo lắng của Quý Phi. Theo bà, ở người con gái, trí thông minh và sự tò mò chẳng bao giờ là ưu điểm cả, nó chỉ là điềm báo những tai hoạ.
Quỳnh Thơ mười ba, rồi mười bốn tuổi. Năm nào lễ nguyên tiêu cũng tới, năm nào những phiến than hồng cũng nhen nhóm ngọn lửa mong manh nơi các cung phòng, năm nào vua cũng ban hơi ấm và sự sống cho tất cả vợ con đông đúc của ngài, mà năm nào những kiếp người trong cung cấm cũng vẫn cuộc sống buồn tủi, tẻ nhạt, lạnh lẽo. Trong ngày tháng thầm lặng giữa bốn bức tường gấm, Quỳnh Thơ đã bắt đầu cảm thấy tù túng, chật hẹp. Chiều, cô bé trèo tít lên gác cao nhìn ra xa. Sau Tử Cấm Thành là Hoàng Thành, rồi đến lớp thành ngoài cùng, nơi có ngựa xe, nhà cửa, phố phường đông đúc. Rồi tới dòng sông, rồi tới núi xa xa. Mỗi ngày mặt trời đều đến đó rồi mất hút. Mặt trời đi đâu để sáng mai lại hiện ra nơi mái lầu ngọ môn rực rỡ? Quỳnh Thơ thầm tự hỏi, những câu hỏi không một ai trong cung có thể trả lời.
Rồi một ngày, nhũ mẫu mách với Hoàng Quý Phi: - Chiều nào Quỳnh Thơ cũng ngồi hàng giờ nhìn về phía mặt trời lặn. Trong mắt nàng công chúa nhỏ, nhũ mẫu lo lắng nhận ra vẻ ngây dại, sững sờ và nhũ mẫu quyết chắc rằng công chúa đã bị tà ma ám ảnh. Ðiều kinh khiếp hơn nữa, nhũ mẫu hạ giọng nói nhỏ: "Một hôm công chúa đã hỏi tiện tỳ, "Vú có biết các hoàng tử thuở còn bé tí vẫn chơi với ta nhưng sau khi rời cung cấm, đã ở đâu? Vú có biết thế nào là một người đàn ông không?".
Ðúng là trong nội cung chẳng có cái gì giúp người ta hình dung ra một người đàn ông. Bọn thái giám với ria mép nhẵn nhụi, dáng đi uốn éo và giọng đàn bà the thé tất nhiên không thể là một ví dụ... Vẻ bí mật và lo âu hết sức quan trọng của vú làm Quỳnh Thơ ngày càng lúng túng sợ hãi, cuối cùng thì nàng đổ bệnh thật, nằm liệt một góc giường.





***




Một buổi sáng, thị nữ đỡ Quỳnh Thơ ngồi dậy, nhẹ nhàng thay xống áo cho nàng và dìu nàng ra nằm trên chiếc sập gụ lót đầy gối thêu. Trước sập, một bức màn gấm dày buông chấm đất.
- Có việc gì đây, hở các em? Công chúa hỏi đám thị nữ, - tất cả các thị nữ đều lớn tuổi gấp đôi Quỳnh Thơ.
- Bẩm công nương, hôm nay quan thái y đến thăm mạch.
ả thị nữ vừa nói vừa quấn quanh cổ tay Quỳnh Thơ một băng lụa mỏng. "Lát nữa công nương thò tay ra khỏi màn, quan thái y chỉ cầm qua lớp lụa này mà xem bệnh tình. Công nương cứ yên tâm đừng sợ". Quỳnh Thơ mỏi mệt lắc đầu. Cơn sốt, những bức màn, những người hầu vây quanh, những dải băng quanh cổ tay làm nàng ngạt thở. "Các em hãy cho ta lên lầu, ngồi một mình nhìn dòng sông ngoài kia! Ta muốn tháo tung tất cả những thứ chán ngán này, chúng làm ta chết mất!".
- Không được đâu công nương. Quan thái y là đàn ông mà, làm sao có thể cầm vào tay công nương được?
- à ra thế. Một người đàn ông sẽ đến đây.
Một lát sau, có tiếng chân đĩnh đạc đến sau bức màn. Những tiếng chân ấy vang lên rất lạ, không giống bất cứ tiếng chân nào Quỳnh Thơ đã từng nghe trong cung cấm này. Các thị nữ xúm xít quanh giường, rồi một ả nắm tay Quỳnh Thơ đưa nhẹ qua màn. Một bàn tay lạ nắm lấy cổ tay công chúa qua lần lụa mỏng. Bất giác cô gái nhỏ đỏ bừng mặt vì một cảm tưởng kỳ lạ.
Quỳnh Thơ ngồi dậy. Các thị nữ lo lắng nhìn theo, rồi họ chợt kêu rú lên, có người luống cuống đâm đầu chạy. Công chúa Quỳnh Thơ mười bốn tuổi vừa làm một việc kinh thiên động địa chưa bao giờ từng xảy ra trong cung cấm: Công chúa đã vén bức màn lên nhìn thẳng vào người đàn ông trước mặt.
Nửa giờ sau, cả hoàng cung đều biết câu chuyện điếm nhục đó. Hoàng Quý Phi khóc ròng rã ba ngày đêm, ba ngày liền các thị nữ cung Trùng Hoa cũng vì vậy mà bỏ ăn bỏ ngủ. Bà Kính Phi, người đang ở ngôi vị thứ hai trong cung, đã đem ngay cái tin này đến tai vua. Hoàng Quý Phi bị truất vì lỗi dạy con không nghiêm. Nhũ mẫu bị đuổi ra khỏi cung Trùng Hoa và sung làm thợ cắt cỏ ở vườn ngự. Quỳnh Thơ được chữa lành bệnh và sau đó bị nhốt vào lãnh cung.
Trong cung lạnh, nơi đoạ đày những cung nga xấu số, Quỳnh Thơ bàng hoàng nhớ lại... Lúc đầu nàng khóc sướt mướt khi nghĩ đến những nhục nhã mình đã gây ra cho mẹ, nhớ những cung phòng đẹp đẽ nơi ngày ngày vẫn đá kiện hay đổ xâm hường với các chị em trang lứa. Mãi sau khi đã quen với cuộc sống ở lãnh cung và nguôi dần niềm thương nhớ những người thân, Quỳnh Thơ mới biết đọng lại trong tâm hồn, đau đớn và thấm thía nhất, là hình ảnh người đàn ông lần đầu tiên nàng thấy: Một ông già khô quắt, râu tóc bạc phơ, cái miệng khắc nghiệt, với hai gò má nhăn nheo lấm tấm vết đồi mồi. Quỳnh Thơ rùng mình, không dám hồi tưởng lại. Nàng đã trả giá đắt bao nhiêu cho một điều hoàn toàn chẳng có ý nghĩa gì!




***




Rồi một hôm, lại đến tiết nguyên tiêu. Trời rất lạnh, các đèn lồng đều tắt. Ðêm Hoàng cung lạnh ngắt, đen mù như trong đáy vực. Xa xa, Quỳnh Thơ thấy ánh sáng hừng hực hắt lên từ điện Càn Thành. Giờ này cung nga, thể nữ chắc chen nhau đến lấy lửa ấm. Nhưng ở đây, nơi của những người xấu số, không ai nhớ đem lại cho họ dù chỉ một tàn than. Bất giác Quỳnh Thơ tủi thân ôm mặt khóc.
Giữa lúc đó chợt có tiếng thét vang rền từ xa vọng lại. Tiếng người nhốn nháo, tiếng chân rầm rập, tiếng hô lệnh xung phong vang lên giữa đêm thâm u. Rồi những ánh lửa xuất hiện như sao sa, những bóng người ngựa lao tới, những ánh kiếm rực lên trong đêm.
Có biến! Trống ở ngọ môn điểm cấp tập liên hồi. Không phải nhịp trống uể oải thườngngày, đây là tiếng trống từ một bàn tay dũng mãnh. Dân phu đang xây lăng ở phía tây kinh thành đã nổi dậy. Họ đang tràn vào cung, mở cửa các nhà giam. Quỳnh Thơ nép vào một góc nhà ngục. Chiếc xiềng sắt khua loảng xoảng rồi rơi xuống. Cửa phòng giam bật mở.
Một tráng sĩ vừa xuống ngựa, tay cầm bó đuốc nhìn vào.
Lửa, lửa dữ dội, rực rỡ chiếu phòng giam lạnh lẽo.
"Hết canh tư này, nghĩa quân sẽ rút đi. Chúng ta đã phóng thích hết tù nhân trong kinh thành. Nàng hãy mau tìm đường thoát".
Quỳnh Thơ ngước nhìn. Trong phút chốc, nàng nhận ra trong mắt người nghĩa sĩ một ánh lửa rực rỡ và hiểu rằng chàng đã đến từ nơi mặt trời ẩn náu.
Tráng sĩ đưa tay cho Quỳnh Thơ, nàng nắm lấy tay chàng; nàng đã mười sáu tuổi và lần đầu tiên trong đời nhìn thấy một người đàn ông đích thực. Tráng sĩ đỡ Quỳnh Thơ ngồi lên ngựa và chỉ một khắc sau cả hai đã lao theo dòng thác người đang cuốn về cổng hoàng cung, trong tiếng chiêng báo động vang trời.
Nhiều thập kỷ sau, dân cư ở quanh vùng vẫn kể câu chuyện nàng công chúa cùng chàng dũng sĩ trên lưng con ngựa trắng phóng như bay về phía rạng đông. Không ai biết chính xác họ đi đâu, nhưng tất cả đều tin họ đã cùng sống ở một nơi nào đấy tràn trề ánh lửa. Niềm tin ấy chẳng phải là vô căn cứ, vì hiện nay nhiều dòng họ ở lân cận thành cổ vẫn tự nhận mình là con cháu của hai con người gan dạ và hạnh phúc đã ruổi ngựa đi đón mặt trời vào một đêm đầu xuân.
Còn sáu mươi tám nàng công chúa khác trong cung thì sách vở còn chép rõ về cuộc đời của họ. Có ba mươi nàng được gả cho những ông phò mã lọm khọm với tấm lưng dài cong gập trong chiếc áo the. Còn ba mươi tám nàng thì chết già trong cung, nhiều nàng chết lúc còn rất trẻ vì buồn chán những đêm nguyên tiêu lạnh




Trả Lời Với Trích Dẫn
  #8  
Old 06-12-2004, 08:09 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

:::: Trần Thùy Mai ::::
Nàng công chúa lạc loài






C huyện xảy ra thực tình cờ, đúng năm năm sau ngày Cầm bỏ gian phòng này đi. Năm năm, bức chân dung của nàng vẫn còn lại trên tường, mái tóc dài như rong, màu áo tím, tím đến cả ánh mắt. Mắt nàng sâu thẳm, rợn người. Ðã bao năm nàng ngồi đó, thầm lặng tham dự vào cuộc đời tôi - cho đến buổi chiều hôm ấy...

Túc đến tìm tôi ở cổng cơ quan, lúc tôi vừa chủ trì xong một buổi họp quan trọng. Hắn luôn luôn biết rõ lúc nào đầu óc tôi căng thẳng, mệt mỏi và luôn tìm được những lý do rất bất ngờ. Có hôm hắn trịnh trọng tuyên bố: "Tao chiêu đãi mầy... nhân ngày giỗ bố tao". Có khi thì "Nhân kỷ niệm ngày tao yêu lần đầu", có khi thì nhân danh ngày rằm, ngày vía gì đó. Chiều hôm ấy, như mọi lần, hắn gợi ý "chiêu đãi" tôi bằng cách đi kiếm một đứa con gái về để chung vui. Tôi cười, không đồng tình cũng không phản đối. Từ lúc tôi có tiền và bắt đầu lao vào cuộc ăn chơi, Túc đã dẫn đến quá nhiều loại đàn bà con gái đến nỗi không nhìn vào một phụ nữ nào mà tôi không cảm thấy nghi ngờ. Tất cả bọn họ đối với tôi đã trở thành một món ăn vừa chán nhàm vừa không thể thiếu.

Trời xẩm tối, tôi về phòng. Không có xe Túc dưới chân cầu thang. Một dòng phấn trên chiếc bảng con: "Tao có việc gấp, sẽ trở lại ngay". Hừm. Việc gấp? Tôi nhún vai. Không khí lạnh phả vào mặt, tê tái thú vị. "Tách" một cái, cửa mở, trước mặt tôi là một khoảng tối mờ với tiếng muỗi vo ve... tôi sờ soạng bật công tắc. ÁNH ĐÈN RỰC sáng. Như mọi lần, bức tranh mầu tím đập vào mắt tôi. Nhưng lần này, trước bức tranh có một thiếu nữ ngồi im lặng.

Tôi đến gần. Một cô bé chừng mười sáu tuổi thu mình trên chiếc ghế mây, hai tay bó gối. Vóc người tròn trĩnh với chiếc áo gió mầu mận chín. Ðôi mắt mở to kinh ngạc đầy vẻ bỡ ngỡ trẻ thơ. Tôi rùng mình vì một cảm giác vừa thích thú vừa ghê tởm. "Mẹ kiếp, thế này thì có lẽ thần thánh cũng có thể làm dỏm được, trời ạ!".

Tôi chậm rãi ngồi xuống mép giường, chậm rãi hút hết điếu thuốc, quẳng mẩu đầu lọc vào sọt. "Lại đây". Tôi hất hàm gọi. Cô gái ngoan ngoãn đứng dậy, rồi lại ngồi xuống. Tôi bước đến, nâng cằm cô bé:

- Em tên gì?

Cô ta rụt rè, giọng khản đi:

- ÁI

Một cái tên quen quen! Nhưng quan trọng gì, thường đây là cái tên giả. Ðiều cần thiết là có một cái từ để gọi, dù trong một đêm thôi. Tôi cúi xuống định bế bổng cô ta lên.




*
* *




Trông con nít quá, vẻ măng sữa trên làn da và đôi mắt làm tôi thấy ghê ghê, nhưng thực tình mà nói, có thể làm gì hơn trong lúc này!

Và chuyện bất ngờ xảy ra ngoài dự đoán.

Khi tôi chạm vào vai cô gái, cô đứng phắt dậy, mặt mũi tái xanh và khuỵ xuống. Hoảng hốt, tôi đặt cô lên giường, cuống quýt mở các cúc áo bó chặt lấy cô. Chợt tôi sững người: DƯỚI CỔ, MỘT VẾT RUỒI SON ĐỎ TƯƠI, NHƯ MỘT HẠT ĐẬU XINH XINH. "ÁI DUY... TRỜI ƠI, ĐÚNG ÁI DUY RỒI!". Hình như nghe gọi đúng tên mình, đôi mắt hôn mê nhắm nghiền của thiếu nữ hé mở. Trong vẻ ngái ngủ ngây dại đó, tôi nhận ra đứa bé học trò mười năm trước.

NĂM ẤY ÁI Duy lên bảy, tôi vừa vào đại học. Tôi là người dạy kèm, vừa là bạn của CÔ BÉ ÁI MỒ CÔI MẸ. CHA ÁI DUY LÀ GIÁM đốc một cơ quan lớn trong thành phố. Ông luôn bận rộn với công việc và thường xuyên vắng nhà. Trong căn nhà rộng, u nhã, lạnh lẽo chỉ còn hai chúng tôi với một bà cô nghễnh ngãng, nếu không kể một bầy chim câu ở mé trái hiên nhà và vô số nhân vật trong những cuốn chuyện cổ trên giá sách.

ái là một cô bé hơi kỳ cục, vừa ngoan hiền vừa bướng bỉnh. Cô bé yêu bố một cách kỳ lạ và đã quen NGHĨ VỀ BỐ NHƯ MỘT PHẨM CHẤT SIÊU VIỆT. ÁI thèm biểu lộ tình thương hết sức, và vì bố luôn vắng mặt, cái tình cảm TRẺ CON SÔI TRÀO CHAN CHỨA ẤY ĐƯỢC SAN SẺ QUA TÔI. ÁI Duy đã vẽ bao nhiêu bức tranh với hộp mầu tôi mua cho, rồi chính tôi đã dán những bức tranh ấy lên bốn bức vách của phòng học - gian phòng nhỏ có những cửa sổ viền hoa tím xinh xinh. Những bức tranh đã ghi lại cả thế giới cỏn con của anh em tôi. Này đây là ông bố với cặp kính trắng và cái áo kiểu Tôn Trung Sơn, tay cầm chùm chìa khóa - khóa xe hon đa, khóa tủ, khóa nhà, khóa phòng giấy, khóa tủ hồ sơ... cô bé đã cố công đặc tả hình thù từng chiếc một. Bà cô nghễnh ngãng thì luôn luôn có chiếc chảo to trên tay. "Em thích nhất là lúc cô đang chiên bánh phồng tôm". Những chiếc BÁNH PHỒNG TÔM LÀM CHO BÉ ÁI ĐẶC BIỆT thích thú, không phải vì ngon, mà vì cái cách chúng duỗi ra và phình to như có phép màu trong chảo dầu nóng.

CÒN NHỮNG BỨC VỀ ÁI và tôi thì nghệch ngoạc và sai sự thực một cách tuyệt vời. Một khung cửa sổ MẦU TÍM CÓ HOA NƠI BỆ CỬA, TÔI VÀ ÁI NGỒI TRÊN NHỮNG BÔNG HOA, Y NHƯ MỘT MÀN XIẾC. TÔI VÀ ÁI đứng trên một cành ổi trĩu quả, chân mang giày, người thẳng đứng. Khi tôi CHỈ RA ĐIỀU VÔ LÝ ĐÓ, ÁI CAU MÀY SUY nghĩ rất lâu rồi bất chợt tìm ra giải pháp: vẽ ngay cho mỗi người một đôi CÁNH. THẾ LÀ TÔI VÀ ÁI ĐẬU TRÊN CÂY như đôi chim, không lo ngã xuống bao giờ. Sẽ không ai nhận ra những nhân vật thần kỳ này, nếu chàng trai không có chiếc mũ bê rê to và cô bé không mang một chấm ruồi son được cố tình tô rất đậm, rất tròn dưới cổ...

Chính cái chấm son vừa đập vào mắt tôi... Không hiểu bằng con đường nào, nhân vật thần kỳ bé bỏng đã bay đến đây, nằm trên chiếc giường phóng đãng này?




*
* *




Tôi đến bên cửa sổ, lẳng lặng đốt thuốc và chờ.

ái Duy cựa mình, mở mắt, ngẩn ngơ một lát rồi ngồi hẳn dậy.

Bất giác, tôi buồn nôn, một nỗi ghê tởm xen lẫn bực bội. Tôi không biết ứng xử thế nào trong hoàn cảnh này, và CUỐI CÙNG ĐÃ CHỌN CÁCH ỨNG XỬ THEO THÓI QUEN. ÁI DUY ĐÃ TỚI ĐÂY, NGHĨA LÀ BÉ ÁI KHÔNG CÒN nữa. Nghĩa là trong tôi, chút thiên đường cuối cùng, nếu có, cũng đã tản cư vào địa ngục. Tại sao tôi không được quyền buông thả trong địa ngục của mình?

Gieo mình xuống giường, tôi quờ tay NẮM LẤY TAY CÔ BÉ, BÀN TAY NHỎ MỀM NHƯ CÁNH CHIM CÂU. ÁI Duy kêu lên một tiếng, giằng tay ra và lùi về phía bên kia giường. Trò vờ vĩnh ngây thơ? Tôi đã gặp khá nhiều loại nữ sinh "chíp chíp" ở đây, đủ để biết cái lối giả vờ lần đầu sa ngã là một thứ trang sức không mất tiền của những loại đàn bà trước tuổi đó. Nhưng lần này, hình như không phải thế. Ðôi mắt mở to sợ sệt kia biểu lộ điều gì đây thành KHẨN ĐẾN XÓT XA. ÓC HIẾU KỲ CỦA tôi bị kích thích đến cực độ và tôi quyết định đi đến cùng xem sự thể ra sao. Mặt giường phút chốc bừa bộn dưới một cuộc giằng co quyết liệt. Không hiểu từ lúc nào, tôi đã nắm chặt hai tay cô gái trong tay mình với một sức ghì siết mãnh liệt làm toàn thân tôi tê dại và mê mẩn.

ái Duy kêu lên nhưng không dám kêu to, những tiếng kêu như tiếng thở. Nàng lăn vào sát bên tôi để giằng tay ra, những ngón tay mảnh mai dịu mềm cố sức gỡ tay tôi. Một lối tự vệ hết sức dại dột... Thình lình giữa lúc ấy có tiếng đập cửa, rồi tiếng huýt sáo vang lên từ ngoài hiên gác. Túc trở lại, đúng như đã hẹn.

Lẽ ra tôi phải mở cửa cho hắn vào. Nhưng cô gái dường như hiểu ra điều chi sẽ đến, cố chắp tay lại, nhìn tôi LẶNG IM NHƯ VAN VỈ. BẤT CHỢT TÔI THẤY LẠI BÉ ÁI trong ánh mắt ấy. Hạ giọng rất khẽ tôi bảo:

- Em đừng sợ.

Nhìn thấy bức màn đầu giường, tôi NHẸ NHÀNG KÉO ÁI DUY VÀO ĐÓ. Cô bé ngoan ngoãn theo tôi như không hề nhớ trước đây có một chút tôi vừa làm cô hoảng sợ đến mức nào. Bây giờ điều làm cô khiếp hãi đang đứng ngoài khung cửa.

Túc gọi tên tôi một lúc, rồi im lặng. Có lẽ hắn đang nhìn vào lỗ khóa, và đang bể đầu chẳng hiểu tại sao chẳng có ai trong phòng. Chiếc xe hai ống khói của tôi vẫn nằm im dưới chân cầu thang kia mà.

BÊN TÔI, ÁI Duy run rẩy nép sát vào như nhờ che chở. Bỗng chốc những ham muốn trong tôi nguội lại, chỉ còn nỗi xót thương. "Một lát thôi, hắn sẽ đi". Tôi thì thầm. Ðúng vậy, năm phút sau có tiếng làu bàu gắt gỏng, rồi tiếng xe rồ ga, xa dần.

Ðồng hồ chỉ bảy giờ tối. Gió bắt đầu thổi trên mái nhà, ngọn cây me đập từng cơn vào cửa sổ. Cô gái đứng sững giữa căn phòng, ngơ ngẩn, phân vân.

- Em không cần tiền sao? - Cuối cùng tôi lên tiếng hỏi, phá tan nỗi yên lặng rình rập giữa hai người.

Cô bé nhìn tôi, như không hiểu tôi nói gì.

- Thế sao em lại đến đây?

ái Duy khẽ chớp mắt, hai giọt lệ rơi xuống. Mắt nàng mầu hạt dẻ với hàng mi cong dày và những tia nhìn kỳ lạ mà ngày xưa tôi chưa từng thấy bao giờ.

TÔI CẦM TAY ÁI Duy dẫn đến bên bàn ăn, lần này là cái cầm tay thân tình của người chủ nhà. Tôi ăn một mình vì nàng cứ ngồi trơ không nhúc nhích.

Lát sau, không chịu nổi, tôi bỏ đĩa, XÚC TỪNG THÌA THỨC ĂN ĐÚT CHO ÁI DUY, NÀNG MIỄN cưỡng, nhai, nuốt, mắt nhìn đăm đăm về phía trước, rồi chợt bật khóc, khóc thật sự như đứa trẻ.

"MẸ ƠI!", ÁI DUY KÊU LÊN, tiếng gọi cổ sơ nhất thốt ra từ mọi nỗi đau, khiến mắt tôi bỗng dưng cay XÓT. ÁI DUY! BÉ ÁI Duy ngày xưa! Ðiều gì đã xảy ra với em?

- Em phải đi - cô bé ngẩng mặt lên, dường như hiểu nỗi thắc mắc của tôi.

- Không được. Em ngồi đây, nghỉ một lát. Nhà em ở đâu? Tôi sẽ lấy xe đưa em về.

TÔI BIẾT RẤT RÕ NHÀ ÁI Duy ở đâu, căn nhà sau những tán lá ổi xanh và giàn hoa tỏi tím. Gần mười năm không đến đó, nhưng đường đi tôi vẫn chưa quên. Thế mà đã vờ VĨNH; THÌ RA TỰ THÂM TÂM, TÔI CŨNG SỢ ÁI DUY NHẬN RA tôi, tôi vẫn sợ thằng tôi quỷ sứ bây giờ xóa nhòa hình ảnh thần kỳ trong những bức tranh thời thơ ấu của nàng.

"Không... Không, em không về nhà NỮA". ÁI DUY RỤT NGƯỜI lại khi nghe đề nghị của tôi. "Thú thực, em làm tôi chẳng hiểu gì cả, cô bé ạ, nhưng hình như em đang gặp rắc rối. Tôi có thể giúp em được gì không?". Cô bé nhìn tôi từ đầu đến chân như muốn đánh giá lại xem có thể tin cậy con người xa lạ đứng trước mình tới mức nào. Không rõ bộ DẠNG TÔI LÚC ĐÓ RA SAO NHƯNG ÁI DUY DẦN DẦN dịu lại, tỳ cằm lên bàn tay.

- Em sẽ kể cho anh nghe - cô bé khựng lại, thảng thốt - nhưng anh đã quen biết gì em đâu? - phút ngập ngừng qua đi, cô bé bắt đầu câu chuyện của mình.

- Này nhé, tên em là...

Tôi khẽ đặt một ngón tay lên miệng: "Suỵt, đừng, em không cần phải nói tên với anh. Anh chưa biết em là ai, và sẽ không biết em là ai ở đâu. Nhưng cứ kể cho anh nghe, anh hứa sẽ tìm cách giúp em".

"Bây giờ nghĩ lại, em không hiểu sao có thời kỳ em sống bình an phẳng lặng như thế. Em có trường học, bạn bè, những kỷ niệm vui, những nỗi buồn, nỗi thiếu thốn xót xa cảm thấy mình thèm có mẹ, thèm được vỗ về yêu thương, nhưng tất cả những vui và buồn, thiếu và đủ ấy đều phẳng lặng, ổn định trong một trật tự đã thành nếp từ thời còn bé. Tất cả chỉ xảy ra khủng khiếp là khi người đàn bà ấy đến gặp em. Lúc bấy giờ đã tan trường, cô ấy đón đường em ngay cổng. Cô ta ném vào mặt em mảnh áo may ô rách như một lời nguyền rủa. Em chịu trách NHIỆM GÌ VỀ MẢNH ÁO ẤY? ẤY THẾ MÀ, TỪ lời nguyền rủa ấy, cuộc sống em như gãy gập. Em không biết diễn tả cách nào. Em chỉ biết có điều gì đó đã sụp đổ, một trật tự đã đảo lộn. Không bao giờ còn như trước, không bao giờ nữa.

Em quên nói là mẹ em đã mất từ khi em còn nhỏ. Em lớn lên lặng lẽ, cô thì không nghe em nói gì bao giờ, còn ba thì đi mù mịt chẳng mấy lúc có nhà. Ba em rất nghiêm, khắc kỷ, dù vậy em RẤT YÊU BA, GẦN NHƯ TÔN THỜ..." BÂY GIỜ, ÁI DUY ĐANG NẰM ÚP MẶT TRÊN GIƯỜNG, CẰM TỲ LÊN HAI TAY. ÁNH đèn dừng lại trên sống mũi thon thon, một nửa khuôn mặt chìm trong bóng mờ. Tôi ngồi trong ghế bành, hút thuốc và nhìn những sợi tóc cô đang trải ra trên mặt gối.

Tự đáy lòng, em cảm thấy mất mát không gì bù đắp nổi từ khi ba em lấy vợ. Nhưng may mắn sao mợ em là một người mẹ kế rất tốt. Vả lại, em đã quá quen với sự cô độc đến nỗi CHẲNG CÒN THẤY BUỒN CHÁN NỮA. Ở TRONG NHÀ EM hòa thuận hiếu lễ và cô đơn. Mỗi bữa ăn em vẫn nói chuyện, vui cười, âu yếm các em, thưa gửi với ba mợ. Rồi những giờ còn lại em ru rú trong căn phòng trên gác, đó là thế giới của em, ở đó em thực sự sống cuộc đời của mình.

Gia đình em vẫn phát triển với những tiện nghi ngày càng phong phú, những tiện nghi tất nhiên là đến bằng con đường chân chính, vì ba em là một người nghiêm trang mẫu mực, đúng đắn đến mức khô khan. Ba em sống nghiêm túc đến nỗi ban khiếu tố ở địa phương đã phải bật cười vì kinh ngạc, rồi sau đó mới bất bình phẫn nộ, khi có tin cô văn thư của cơ quan hô hoán lên rằng ba em đã giở trò chim chuột và định cưỡng hiếp cô ta. Cái tin đó chẳng khác nào một thứ chuyện vừa khó TIN VỪA KHÔNG CÓ THỰC. Ở ĐỜI KHÔNG thiếu những lời vu khống, nhưng không ai có thể vu khống những vị bồ tát. Hành động vu cáo trở lại trừng phạt kẻ chủ mưu: Cô văn thư bị buộc phải xin thôi việc.

Từ đầu đến cuối, ba em không phân trần nửa lời. Ông không thiếu người ủng hộ và bênh vực, khi cần đến. Kể cả mợ em, người làm chứng có giá trị cao nhất. Trước ban khiếu tố, mợ em đã nhận vào giờ xảy ra vụ việc như lời người đàn bà kia tố cáo, ba em ốm nghỉ ở nhà, và chính mợ đã điện thoại mời bác sĩ đến thăm bệnh. Làm sao ông có mặt một lúc hai nơi được? Tất cả trôi qua như một bài toán đơn giản, và tưởng chừng rồi sẽ chẳng còn ai phải nhớ.

Nhưng một chiều, người đàn bà ấy đón em trước cổng trường. Em suýt không nhận ra cô ta, vì cô ta đã gầy tọp đi, hai gò má nhô cao, tóc xõa rũ rượi. Cô ta có bốn đứa con và hiện nay không có việc làm nữa.

Người đàn bà nhìn em, đôi mắt chết, và rút ra một mảnh vải. Ðó là một mảnh may ô bị xé toạc, có chữ đầu tên ba em thêu trên đó. (Ba em thường đi công tác nên em đã đánh dấu tất cả quần áo của ông để tránh lẫn lộn).

Em cầm mảnh vải nhận ra dấu hiệu ngạc nhiên:

- Tại sao cô xé áo của ba tôi... Nhưng lúc nào? "Lúc ông ấy nằm trên bụng tôi". Giọng nói lạnh lẽo của người đàn bà vang lên bên tai em. Em lặng người đi như hóa đá. Em biết cô ấy đã thua trận, ngã gục, bây giờ cô ta căm hận và báo thù.

Khi em về đến nhà, ba em không có ở đó. Em đến bên mợ. Mợ đang thử cái máy may mới mua. Em đặt mảnh áo xuống bên mợ, lặng lẽ. Mợ quay nhìn, rồi cau mày yên lặng. "Con điên sao?". Lát sau mợ hỏi và nhìn em. Cái nhìn cho biết là bà đã hiểu và không cần giải thích gì thêm nữa.

"Con điên sao". Câu hỏi của mợ làm em không biết vịn vào đâu mà lần nữa. Lẽ nào là điên rồ, cái nguyện vọng muốn biết sự thật về những gì thân thiết nhất của đời mình? Bất giác em nhận ra giọng nói bình thản kia, đã từ rất lâu rồi chính mợ đã hiểu hơn ai hết, ba em là người như thế nào... em rùng mình, chới với như vừa thụt chân xuống vực sâu...

Trước mắt em, mợ thản nhiên tiếp tục đạp máy. Hình ảnh mợ in trên những vật dụng đắt tiền trong gian phòng. Mợ đã có đủ để không cần thắc mắc gì thêm cả. Còn em, em không cần gì cả, em cần ba em. Nhưng làm sao em có lại ba như vẫn từng đã có? Làm sao sự phẳng lặng trở lại? Làm sao yên tâm và hy vọng? Làm sao...

Em gập người lại, lảo đảo, muốn nôn mà không nôn được. Mợ em ngẩng lên, nhìn thấy em giật mình:

- Con ốm à? Mợ hỏi.

Em lắc đầu:

- Không. Con không muốn sống trong cái nhà này nữa.

- "ÁI DUY!". MỢ kêu lên, vừa lo lắng vừa tức giận.

"Con không muốn sống trong cái nhà này nữa." Em nhắc lại và nấc lên nhưng em không khóc. Như một người lên cơn động kinh, em thấy chân tay co giật. Mợ em nhào vào phòng ngủ. Bà đi gọi điện thoại cho ba em. Trong trạng thái kích động mãnh liệt, em đi thẳng ra đường, hai tay không cầm một thứ gì tùy thân.

Những con đường. Những con đường nhảy múa trước mắt em. Xe cộ, cây cối, người qua lại. Những con đường!

Em đi, đi hoài, không nghĩ ngợi. Một cái gì đấy đã rạn vỡ, không thể hàn gắn được nữa. Một thế giới đã sụp đổ không còn nơi nương náu.

Ðêm lạnh, phố vắng. Em dần dần nhận ra mình đói, rét, mỏi mệt và nếu cứ đi tiếp mãi em sẽ thành một trong những người điên lang thang của thành phố này.

Em ngồi xuống chiếc ghế đá bên mé công viên. Một chiếc xe máy rà lại. Em nhìn một lúc mới nhận ra một người đàn ông đang cúi xuống:

- Lên đây, anh chở đi. Chết cóng bây giờ.

Em không nhớ sau đó em và anh ta đã nói những gì. Em chỉ nhớ trong trạng thái mê muội tê cóng, mình đã lên ngồi sau xe.

Lúc đến căn phòng này, em bắt đầu thấy sợ. Hình như có điều gì khủng khiếp sẽ đến. Nhưng em không thể ra khỏi trạng thái rũ liệt. Anh ta pha cho em một cốc chanh nóng nhưng em chỉ hớp được một hớp. Thấy vậy, anh ta ra khỏi phòng, khóa trái cửa lại.

Dần dần, em hơi tỉnh lại, bắt đầu nhớ ra mình đang ở nơi đâu. Giữa lúc đó em nghe tiếng người lên thang, và anh đến...

ái Duy ngừng kể. Trời tối mịt mùng trên ô kính chắn gió.

Cô bé kiệt sức. Lúc kể xong, cả người cô rung lên, mái tóc dài úp sát xuống gối. Tôi ngồi yên trong ghế bành. Không biết làm gì, cũng không biết nói gì.

TRÊN GIƯỜNG, ÁI Duy nằm yên, lịm dần trong giấc ngủ. Những ngấn nước mắt còn đọng quanh mi.

Ðêm ấy tôi ngủ trên tấm drap trải giữa sàn nhà, cuộn mình trong chăn. Ðêm yên tĩnh, tôi nghe tiếng thổn thức trong cơn mơ ngủ thỉnh thoảng dội lên từ lồng ngực cô gái trẻ thơ. Hình như tôi đã từng cảm thấy nỗi đau đớn ê chề này hơn một lần trong đời. Tôi đã cảm thấy như thế vào ngày Cầm bỏ đi sau khi bĩu cặp môi khinh khi tuyệt đẹp trên tình yêu thần thánh của tôi ngày đó. Tôi đã đau đớn nằm trên cái sàn nhà này - lúc ấy còn trơ trụi chưa hề có dấu vết những vật dụng xa hoa - Nằm, tự nguyền rủa và muốn hủy diệt cả cuộc đời bất lực của mình. Rồi chợt bản năng sinh tồn trỗi dậy, tôi ra đi, lột xác, vứt bỏ những niềm tin, chấp nhận những con đường ngắn nhất để có quá hơn những gì Cầm đòi hỏi. Khi cuộc sống đã đầy ắp thú vui vật chất, tôi khoái trá nghĩ sẽ có ngày Cầm ao ước trở lại với tôi và lúc đó tôi sẽ quay lưng để làm nhục nàng. Nhưng nàng không quay trở lại, bao năm nàng không trở lại. Dần dần, lòng căm thù nguôi ngoai, nghĩ đến Cầm tôi chỉ còn một cảm giác mơ hồ không vui không buồn. Ðôi khi tôi cảm ơn nàng đã khiến tôi đủ sức mạnh để thay đổi số phận mình - đúng thế, lòng căm hận có khi còn mạnh hơn cả tình thương yêu. Nàng đã cho tôi một số phận khác và biến tôi thành một con người khác. Bây giờ tôi không căm ghét nàng nữa vì lẽ giản dị: tôi đã trở thành giống như nàng.

Bây giờ, cạnh tôi là một cô gái mười sáu tuổi thất vọng. Thế giới thần tiên của tuổi thơ tan biến: một thế giới khác, nham nhở, ti tiện hiện ra. Hôm nay cô bé ngạt thở, vùng vẫy. Ngày mai cô sẽ thở quen không khí ấy, thậm chí không thể thiếu nó. Cũng như tôi bây giờ...

Suốt trong đêm, ánh mắt ma mị của Cầm cứ xoáy vào tôi, cám dỗ, xúi giục, khêu gợi một điều gì vốn có từ TRONG BẢN NĂNG CỦA ĐÀN ÔNG. TÔI NHỔM DẬY, ĐẾN NGỒI CẠNH ÁI Duy. Ðôi mắt nhắm nghiền mệt mỏi. Gò ngực thiếu nữ phập phồng dưới lớp chăn. Tôi rít thuốc liên tục, rồi đứng dậy đưa cái giường xếp nhỏ ra hành lang, cùng với chiếc chăn bông đương đầu với đêm lạnh.

Ðêm lặng yên, lặng yên đến không thể nào chịu được.




*
* *




Sáng mai tôi tỉnh dậy. Tiếng lá ngoài kia rì rào: hình như hôm nay trời ấm hơn.

Cửa phòng mở hé. Tiếng nhạc nho nhỏ phát ra từ chiếc Cassette ở đầu giường: "Chuông thanh thanh, chuông thanh THANH, CHUÔNG GIÁO ĐƯỜNG THANH THANH...". THẤY TÔI BƯỚC VÀO. ÁI DUY ĐANG NGỒI HÁT THEO TIẾNG NHẠC CHỢT DỪNG LẠI, MỈM CƯỜI. §Ó LÀ LẦN ĐẦU ÁI Duy cười với tôi từ hôm qua đến giờ. Trong nụ cười thấp thoáng vẻ hoàn hồn, tin cậy và tôi biết đó là phần thưởng đền bù cho một đêm không ngủ.

- Bây giờ em mới nhớ, hôm nay là Nôen.

- Vâng. Hôm nay, nếu em đồng ý, anh sẽ đưa em đi chơi để nhìn trời đất Giáng sinh.

ÁI DUY NHÌN TÔI như dò xem trong lời đề nghị ấy có gì đáng sợ không.

- Em đừng ngại. Anh hứa không làm cho em sợ hãi đâu... Anh xin em, mình không thể ở đây lâu hơn được. Sẽ có người đập cửa như hôm qua ấy.

Ðiều đó hoàn toàn là thực, vì những thằng bạn phóng đãng của tôi đâu có để lỡ dịp tụ tập vào một NGÀY RẢNH RỖI NHƯ THẾ NÀY. MẶT ÁI DUY XANH RỜN: "Vâng, vâng, em sẽ đi". Tôi mỉm cười: sự tình cờ đã đẩy tâm hồn trẻ con dễ thất vọng mà cũng dễ tin này về phía tôi, và chốc lát tôi biết mình đã từ gã hoang đàng biến thành tay hiệp sĩ. "Ðược rồi, anh sẽ cố gắng làm cho ngày hôm nay không buồn tẻ, nhưng ta phải giao ước nhé: hôm nay ai cũng phải vui, không ai được nhắc đến chuyện buồn. Ngày Chúa ra đời mà!".


Hai chúng tôi thỏa thuận với nhau và NGỒI VÀO ĐIỂM TÂM, VỚI MÓN MÌ CUA MUÔN NĂM CỦA ANH CHÀNG ĐỘC THÂN. ÁI Duy nhìn lên bức chân dung của Cầm. Cái nhìn ngây thơ của cô bé như bị hút vào ánh mắt mê hoặc của nàng tiên cá trong tranh.

- Ai đấy anh?

- Người đàn bà của đời anh đấy. Em hãy nhìn thoáng qua thôi, nhìn lâu sẽ bị hớp hồn, giống như anh ngày trước.

- "EM THẤY SỢ" - ÁI DUY NÓI. "Có cái gì ma quái ấy, anh ạ".

- Ðúng, nàng là ma, ở đấy quá lâu nàng đã biến thành ma quỷ. Em không tưởng được đâu. Những đêm trăng hắt vào, nàng lè lưỡi ra dài hàng thước. Từ trong giường nhìn ra, anh ớn lạnh, cô độc đến xây xẩm mặt mày.

ái Duy mở to mắt nhìn tôi như muốn hỏi xem đùa hay thật. Rồi cô bé trầm ngâm nhìn chân dung thiếu phụ, mặt thoáng vẻ phân bì trẻ thơ:

- Anh... anh đã yêu cô ấy nhiều lắm, phải không?

Tôi gật đầu. "Ðẹp quá. Chắc anh không bao giờ quên cô ấy". Bỗng dưng tôi thấy buồn cười: "Anh cũng không biết. Có thể là thế". Không, hình như tôi đã không hề nghĩ gì về Cầm. Tôi đã quên nàng từ rất lâu, những nhức nhối cũng đã qua. Nhưng nàng vẫn còn đó mãi mãi vẫn còn đó, trên từng vật dụng xa hoa bừa bãi, trên gối chăn hàng đêm xê dịch trong cuộc truy hoan, trong sự trống rỗng chán chường gậm nhấm đời tôi!

Chiếc Bonus chạy như mũi tên lao trên ĐƯỜNG. ÁI DUY NGỒI SAU, tôi chỉ nghe thoang thoảng tiếng nói, hình như cô bé hỏi tôi tại sao lại dùng cái xe to kềnh càng như thế này.

- XE NÀY THEO KỊP CẢ Ô TÔ, ÁI DUY Ạ.

- Ðể làm gì?

- Ðể làm gì à? Anh không biết. Có lẽ để thỏa mãn lòng háo thắng. Cái đó quỷ quái và mạnh mẽ lắm, em ạ. Không có điều đó, chắc cuộc sống của anh chẳng còn gì.

Như để chứng minh điều vừa nói, tôi cho xe vọt chạy lên. Những cây xanh hai bên đường như giật lùi mờ thoáng. VÀI CHIẾC Ô TÔ CŨ RỈ RẢ BÊN ĐƯỜNG TỤT VỀ PHÍA SAU. ÁI Duy cười, tiếng cười trong như thủy tinh. Ðúng là trẻ con, khóc đấy rồi cười đấy. "Sợ không? Có sợ thì ôm lấy người lái nhé". Tôi cho xe phóng nhanh hơn nữa, tốc độ :Dng mặt. "Không!" Cô bé bướng bỉnh TRẢ LỜI. XE PHÓNG NHANH HƠN NỮA. "KHÔNG! KHÔNG!"... TIẾNG ÁI Duy reo trong gió, rồi một lát, tôi thấy bàn tay nhỏ mềm bám nhẹ vào vai MÌNH: "EM CHÓNG MẶT QUÁ". TÔI CƯỜI THÀNH TIẾNG, TIẾP TỤC PHÓNG XE. ÁI Duy kêu to: "Em sẽ buông tay ra. Em té xuống cho mà xem". Tôi sợ, đầu HÀNG, CHO XE CHẬM LẠI. SAU LƯNG TÔI, ÁI DUY ĐẤM THÙM thụp, trách móc. Bỗng nhiên tôi cười vang, nghịch ngợm như chú học trò nhỏ.

Bãi cỏ dưới chân đồi Thiên An xanh ngắt, những cây thông non ẩn mình lấp ló dưới thung lũng đầy sương.

- Sao đến đây hở anh?

- Thì em đã chẳng bảo là đến bất cứ đâu cũng được. Ðã lâu lắm anh không đến chỗ này. Sáng nay, lúc đi cùng em trên đường, tự nhiên anh thấy nhớ cảnh cũ.

Thuở còn đi học, tôi thường đến ngọn đồi này, có lúc là để yên tĩnh ôn thi, có khi để mượn những cuốn sách rất xưa ở thư viện của nhà dòng. Lâu lắm rồi, tuy vẫn ở trong thành phố, tôi không trở lại. Bây giờ tôi ngồi đây, trên chiếc áo mưa trải RỘNG, ÁI DUY NẰM SẤP, chiếc áo gió đỏ thắm vẽ một vệt mầu tươi sáng trên cỏ xanh.

VẺ MẶT ÁI Duy khiến tôi nghĩ cô bé đang sống trong mơ. Và lạ thay, tôi cũng có cảm tưởng như thế: một giấc mơ bất ngờ, kỳ lạ.

"Hình như em đã đến đây nhiều LẦN, KHI CÒN NHỎ". ÁI DUY VỪA NÓI vừa chăm chăm nhìn xuống hồ Thủy Tiên. Ðôi lông mày đen, cau lại như muốn đào sâu vào trí nhớ:

- §ÚNG, ĐÚNG RỒI! Ở đây có một mặt hồ tròn và bên kia là tu viện... Khi còn nhỏ, em đã nhìn, và tưởng tượng tới tòa lâu đài và mặt hồ bằng gương trong chuyện Chú LÍNH CHÌ... TÔI GÕ GÕ LÊN MÁI TÓC ÁI DUY. §ÚNG, TÔI CŨNG VỪA NHỚ LẠI ĐÃ CÓ LẦN DẪN CÔ BÉ HỌC TRÒ LÊN ĐÂY, THUỞ ĐÓ ÁI DUY CÒN THÍCH NGẬM Ô MAI. "EM ĐÃ ĐẾN ĐÂY VỚI MỘT NGƯỜI... "ÁI Duy bỗng thở dài. Tiếng thở hòa tan vào cơn gió đang xì xào quanh mặt hồ rồi mất hút trong thung lũng thông. "Bây giờ em không còn hình dung được mặt mũi người ấy nữa. Thế mà thuở đó đọc truyện cổ tích, em luôn thấy các hiệp sĩ và các hoàng tử có đôi mắt và miệng cười giống hệt anh ấy...".

ái Duy dừng lại, bứt một bông cỏ, chúm môi thổi vào nhị hoa.

- Bây giờ anh ấy đâu rồi - Tôi hỏi.

- Em không biết. Lâu lắm rồi, tự nhiên em lại nghĩ đến. A! Nếu mà anh ấy vẫn còn ở nhà, có lẽ hôm qua em sẽ không ra đi.

VẺ MẶT ÁI DUY RŨ RA, buồn bã.

- Thôi đừng nói chuyện đó nữa. Em làm tôi phật lòng ghê gớm lắm đấy.

- Vì sao?

- Nếu hôm qua em vẫn ở nhà, hôm nay tôi chẳng được biết em. Giờ đây em không vui sao. Hãy nhớ lời giao ước đấy nhé!

ÁI DUY VỘI VÃ TRẢ LỜI: "Ồ! KHÔNG, KHÔNG, vui chứ".

- ÍT RA TÔI CŨNG dễ thương gần bằng ông anh hoàng tử của em ngày trước.

ÁI DUY NHÌN TÔI chăm chăm:

- Anh chẳng giống gì anh ấy đâu. Anh ấy nghiêm và hiền. Anh ấy cũng không có ria mép...

- Khó gì ria mép. Có thể nơi nào đấy ông anh của em bây giờ cũng đã để ria mép, không chừng cả râu quai nón nữa.

ÁI DUY PHÁ RA cười: "Nhất định không có đâu, những người hiền lành không có râu".

- Nghĩa là anh dữ tợn lắm?

ÁI DUY LẮC ĐẦU: "Ðến bây giờ em cũng chẳng rõ anh là người thế nào?".

- Thế sao em lại dám đi cùng tôi?

- Em cũng không biết, nhưng em linh cảm, nhất định anh không phải là ma quỷ.

Câu nói giản đơn của nàng, không hiểu sao, làm tim tôi se thắt.

ái Duy đứng dậy, chạy xuống lòng thung lũng, cúi nhặt những trái thông rơi rải rác trên mặt cỏ. Mầu áo đỏ phấp phới sau những tán thông xanh.

Tôi chầm chậm bước theo sau cô bé, tay cầm điếu thuốc cháy dở và nhận ra mình đã qua cái tuổi có thể chạy NHẢY HỒN NHIÊN TRÊN CỎ. ÁI DUY ĐANG CHẬP chờn trước mắt. Qua hết bờ dốc cô bé tìm thấy một ngôi mộ cũ nằm lẻ loi bên sườn đồi và ngồi thụp xuống sau thành mộ.

Thấy rất rõ chỗ nấp ấy nhưng tôi cũng giả vờ đi quanh tìm kiếm và gọi to:

- Bé ơi! Bé ơi!

Một tiếng reo dài, hai bàn tay nhỏ bịt lấy mắt tôi, tinh nghịch. Chúng tôi ngồi bên nhau trên bức thành quanh ngôi mộ, chân buông thõng chạm đầu vào những ngọn cỏ ngũ sắc...

"Tội nghiệp cho ai nằm đây, ngày ĐÊM CHỈ CÓ MỘT MÌNH". ÁI DUY NÓI, BỨT những cánh hoa ngũ sắc tung về phía nấm mộ. Chợt cô bé ra chiều tư lự: "Nếu bây giờ đột ngột động đất chẳng hạn, hai anh em mình sẽ vĩnh viễn nằm lại nơi đây".

- ANH CHẮC NHƯ VẬY SẼ HẠNH PHÚC LẮM. Ở dưới ấy mình sẽ không cô đơn.

TÔI ĐỊNH NÓI: "ÍT nhất cũng dễ chịu hơn khi nằm cạnh em lúc còn sống", nhưng kịp dừng lại vì thấy dường như lời đùa cợt ấy ẩn chứa chút xíu đểu cáng. Tôi ngập ngừng, im lặng rồi chợt ngạc nhiên vì sự đàng hoàng của mình.

BÂY GIỜ ÁI Duy đang say sưa bứt bông cỏ gấu tết lại để chơi trò đá gà. Cô đưa cho tôi một cọng, tôi ngẩn người:

- Làm thế nào đây nhỏ, từ lâu anh quên cái trò này mất rồi.

"THẾ NÀY... THẾ NÀY NHÉ..." ÁI Duy loay hoay gài hai bông cỏ vào nhau. Mắt cô bé chăm chú nhìn, rồi chợt ngẩng lên sáng trong mầu hạt dẻ. Một chút nắng mùa đông long lanh trong ánh mắt thỏ con.

- SAO THẾ ANH? ÁI DUY HỎI, BỠ ngỡ.

Mặt tôi lúc ấy có lẽ thoáng vẻ ngây dại, buồn và hạnh phúc.

- Anh cũng không hiểu. Tự nhiên anh nhớ thời còn nhỏ, bắt dế, trèo cây, tắm sông, nghịch nước. Hình như em vừa đánh thức tất cả trở dậy trong anh, chúng nằm ngủ quên đâu đấy. Lâu quá anh bận rộn đến tưởng như mình không có quá khứ.

- Anh nói leo cây làm em cứ nhớ hồi còn nhỏ ngoài vườn nhà có cây ổi lớn. Em cứ mơ leo lên mà người lớn cấm ngặt. Thế là em vẽ em và anh Thắng đứng trên cành ổi. Rồi em cho vào cả hai những cặp cánh thật dài.

- Ðể làm gì? Tôi tủm tỉm cười, mắt chợt rất cay.

- Ðề phòng khi có ngã mình sẽ bay lên, thật dễ sợ nếu ngã từ trên cao xuống mà không có cánh.

- Người có cánh đâu, em?

- Vậy mới khủng khiếp. Làm sao hở anh?

- Có hai cách. Một là ngã chết, hai là chấp nhận tình trạng chênh vênh đang sống, thay đổi dáng kiểu người. Hóa thân làm một chủng loại gì đó có thể lắt lẻo ở mọi độ cao. Dần dần sẽ quen, sống béo tốt, vui tươi, giàu có nữa.

- Em không hiểu.

- Hoàn toàn dễ hiểu. Nhưng thôi, bé hãy trở lại chuyện ngày còn nhỏ...

RÀN RỤA NƯỚC MẮT, ÁI Duy úp mặt vào vai tôi, và tôi khẽ đặt tay lên mớ tóc tơ vuốt nhẹ như vỗ về đứa trẻ.

Trên đường về, chiếc Bonus lao theo NHỮNG CON DỐC DÀI. "NHANH LÊN ANH, NHANH LÊN!" ÁI Duy kêu lên và cười, tiếng cười lạ lùng trong như thủy tinh. Tôi nhún vai: chiếc xe bốc lên, lao như xé gió.

- Nhanh lên nữa! Nhanh lên!

Giọng cô bé tinh nghịch, hối hả. Hai cánh tay quàng quanh người tôi, cái đầu nhỏ áp vào lưng áo. Tình huống bất ngờ làm tôi hơi bối rối "Sao? Hết sợ như hồi sáng rồi hả? Nhanh thế này được chứ?".

"Ðược" một tiếng thoáng bên TAI, RỒI CHỢT MẮT TÔI TỐI SẦM. HAI BÀN TAY ÁI Duy vừa bịt lấy mắt tôi, chiếc xe loạng choạng. Tôi thắng gấp, xe nẩy bật, quay tròn. Một tiếng "rầm" rùng rợn trên mặt đường, tôi không còn biết gì nữa... gì nữa.




*
* *



Tôi cũng không nhớ sau đó người và xe làm cách nào về đến nhà. Buổi chiều, tôi lục tìm thuốc tím và mấy lọ nước khác để lau chùi những vết trầy kéo dài trên mu bàn tay và đầu gối. Không hiểu sự may mắn nào đã giúp chúng tôi thoát chết, hoặc ít ra cũng không bị thương trầm trọng.

ái Duy nằm yên lặng lơ mơ trong ghế bành. Chiếc áo gió mầu đỏ toạc một đường dài. Tôi bực bội phát cáu vì câu chuyện gặp gỡ tình cờ đã suýt biến thành một trò chơi trí mạng. Nén cảm giác đau thương, tôi bảo:

- Ngốc là sự tìm cách hủy diệt mình, em bé ạ. Chẳng giải quyết được gì cả, Hèn nhát! Anh không bao giờ muốn chết.

- THÌ ANH ĐÃ CHẲNG BẢO CHẾT NẰM BÊN EM LÀ MỘT HẠNH PHÚC. - ÁI Duy bướng bỉnh trả lời.

- Ðừng có ngu. Kinh nghiệm đầu tiên mà mọi người con gái phải có là đừng bao giờ tìm cách kiểm chứng lời nói của đàn ông - Tôi nói thêm với giọng pha trò để không khí đỡ căng thẳng - những lời ấy thuộc phạm trù thi ca, không thuộc phạm trù khoa học.

- ÍT RA, NHỜ VẬY bây giờ em mới hiểu ra điều đó.

Tôi nhún vai, lắc đầu, không nói nữa.

Tối hôm ấy, sau bữa ăn tối, tôi đưa CÁI GIƯỜNG XẾP NHỎ RA HÀNH LANG. BÊN TRONG ÁI Duy chuẩn bị đi ngủ. Qua khung kính mờ, bóng cô gái ngã xuống kéo dài. Cái bóng đang chải tóc.

Ðèn tắt. Một lát. Rồi ánh sáng trở LẠI, HẮT QUA Ô THÔNG HƠI. CỬA MỞ. ÁI DUY BƯỚC RA, ngồi xuống mép giường, mắt mở ro, tay rụt rè nắm lấy tay tôi.

Nằm yên, tôi nhìn cô bé. Không hiểu sao, giờ phút này lòng tôi bình thản lạ.

- Có chuyện gì nữa, bé?

- Em đang nghĩ đến ngày mai. Anh khuyên em nên thế nào?

- Về nhà. Xem như không có chuyện gì xảy ra. Ði học, đi chơi, nếu thích thì trèo cây, bắt bướm v.v...

- KHÔNG THỂ ĐƯỢC. - ÁI DUY THỞ DÀI, một tiếng thở buồn thương.

- Ðược. Và phải như thế nào. Khi những bức xúc qua đi, em sẽ trở lại bình thường.

- Anh lại nói như thế sao? Với em, không bao giờ có thể như trước nữa.

- Ðó chỉ là một bước để trở thành người lớn, chỉ có thế thôi. Em tưởng em có thể làm trẻ con mãi sao? Chẳng quan trọng gì cả, rồi em sẽ hiểu ra và chấp nhận.

-KHÔNG, KHÔNG THỂ ĐƯỢC. ÁI DUY ÒA LÊN khóc.

"Không, em muốn ở lại đây. Em không thể trở về. Hãy cho em ẩn náu một nơi không có giả dối, không có nhơ nhuốc". "Không có một nơi nào như thế cả". Tôi muốn hét vào tai nàng điều đó. Nhưng làm sao cho NÀNG TIN. ¤I! ÁI DUY, NHỮNG ẢO tưởng đầu đời của tôi!

- Anh ơi, tuổi thơ của em đã chấm dứt rồi. Em muốn ở lại đây, ngày ngày em sẽ cọ sàn và nấu ăn. Rồi em sẽ chiên bánh phồng tôm...

ái Duy nắm cả hai tay tôi. Run run tôi đứng dậy, nhẹ nhàng đẩy cô bé ra. Nhưng cô không buông, và từng bước, chúng tôi đến gần lan can.

Sao đầy trời. Mầu đen tím huyễn hoặc PHỦ XUỐNG THẾ GIAN. LẶNG YÊN, LẶNG YÊN MÊNH MÔNG, CHỈ CÓ TIẾNG ÁI Duy thì thầm: "Không hiểu sao anh ạ, lúc này em thấy anh giống như anh Thắng của em hồi xưa vô cùng! Hãy để em ở lại đây. Em yêu anh".

Không hiểu vào giờ phút thốt ra mấy tiếng thiêng liêng ấy, cô bé có hiểu mình đang nói gì không? Tôi đứng trân người, chết điếng, xao xuyến vì sự thử thách quái ác đó. Mái tóc cô bé dịu dàng áp vào vai tôi, mùi thơm thiếu nữ làm tôi ngây ngất.

Nhưng tôi trấn tĩnh được. "Bé, bé biết không, anh vẫn nghĩ tìm kiếm sự thanh khiết tuyệt đối là dấn thân vào cuộc hành hương không tới đích. Nhưng không hiểu sao hôm nay... Hồi nhỏ, anh từng kể chuyện một gã ác độc suốt đời toàn chém giết, chỉ duy nhất một lần hắn đã cứu được một con nhện. Khi chết, y xuống hỏa ngục và lúc sắp bị thiêu cháy thì một sợi dây nhện từ trời buông xuống kéo hắn ra khỏi âm ty. Anh có linh cảm rằng sau này khi anh chết, nếu có gì cứu rỗi được anh, đó chính là cái đêm này.

ái Duy nhìn xoáy vào tôi, đôi mắt ngây dại dưới ánh sao. - Nghĩa là thế nào, hở anh?

- Nghĩa là thế này, giả dụ đúng là em yêu anh, giả dụ có một điều gì đó giữa chúng ta... Ðiều đó, bé ạ, nếu là chuyện nghiêm túc, thì lúc này anh chưa dọn mình để đón tiếp nó.

ái Duy sững người một phút, rồi lùi lại:

- Như thế nghĩa là em phải ra đi?

- Này nhé! Sáng mai, anh sẽ đưa em đến một ngã tư mà anh biết rõ từ đó em có thể đi bộ về nhà trong năm phút. Ðừng ngạc nhiên. Em sẽ về nhà, xin lỗi mọi người, sống bình thường như chẳng có chuyện gì xảy ra. Em hãy yên tâm quên hết những gì xảy ra hôm nay; anh hứa với em rằng chỉ có một mình anh biết, mà anh lại không hề rõ em là ai, tên gì, ở đâu. Rồi một ngày kia chính anh cũng chẳng còn nhớ nữa.

ái Duy vẫn đứng lặng. Hai con mắt nàng nhìn tôi, đôi mắt mầu hạt dẻ, lần đầu tiên tôi thấy trong ánh nhìn ấy một vẻ ai oán đến não lòng.

- Em không hiểu vì sao lại phải cẩn thận đến rắc rối như thế. Nhưng thôi, điều đơn giản nhất thì em hiểu rồi: anh không cần có em... Em sẽ đi, đúng như lời anh khuyên - Bỗng nhiên cô bé nghẹn ngào run rẩy: "Bây giờ anh đến đây...".

ái Duy ngước mắt lên, mắt nhắm nghiền. Tôi đặt hai tay nhẹ nhàng quanh vai cô bé, "Hãy hiểu cho anh. Sau này em sẽ hiểu". Tôi nhủ thầm và khẽ hôn lên trán cô bé, cái hôn của người anh dành cho đứa em bé nhỏ.

NHƯNG ÁI Duy mở choàng mắt, lắc đầu, quàng hai cánh tay mảnh dẻ vào cổ tôi. Rồi nàng quả quyết níu đầu tôi xuống và hôn vào môi tôi, cái hôn đầu đời như một thứ lễ vật ngọt ngào. Bây giờ thì tôi không cưỡng lại những lời ru dỗ ngọt ngào của trái tim mình được nữa...

Ðêm lặng yên, lặng yên bất tận. Chợt một hồi chuông từ trời cao thánh thót vang ngân. Ðã nửa đêm, giờ Chúa ra đời.




*
* *




Lại một sớm mai tràn vào hành lang hẹp qua những ô thông hơi. Tôi tỉnh giấc và nghe tiếng nhạc vọng từ Cassette: "Nghe kể chuyện ngày xưa, có một nàng công chúa...".

Rửa mặt, thay áo xong, tôi bước vào phòng.

Cửa mở! Chăn bông nằm nửa trên nửa dưới, chéo chăn phết mặt sàn gạch hoa. Trên gối vẫn còn chỗ trũng xinh xinh, mấy sợi tóc tơ còn vướng lại.

ái Duy đã đi rồi, lặng lẽ, đột nhiên như khi nàng đến. Tôi nhào ra phía cửa sổ, nhìn xuống đường. "ÁI DUY, ÁI Duy!"

Tự nhiên trong tôi trào lên một ước mu
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #9  
Old 06-12-2004, 08:10 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

:::: Trần Thùy Mai ::::
Trăng nơi đáy giếng





"Tôi xin mình, mình dẹp giùm tôi mấy cái bàn thờ này đi. Chuyện mê tín dị đoan, đâu hay ho gì".

Giọng thầy Phương vẫn từ tốn như thường lệ, nhưng đôi bàn tay liên tục gõ xuống bàn chứng tỏ tâm trạng thầy đang bức xúc. Cô Hạnh chỉ lặng lẽ nhìn: người đàn ông này đã là người cô thương yêu, tôn thờ cho đến nửa đời người. Trước đây, mỗi cái nhìn của ông là mệnh lệnh đối với cô, vậy mà nay cô phải trái ý ông. Ý nghĩ đó làm cô rơm rớm nước mắt.

Hơn mười mấy năm, họ đã sống chung nơi căn hộ bé nhỏ này. Mỗi sáng, người trong xóm đều thấy cô Hạnh xách tô ra đầu ngõ mua bún cho chồng. Những hôm mưa lâm thâm, cái dáng gầy của cô co ro, tay cô cầm chiếc nón cố che cho kín tô bún, chứ chẳng nhớ che đầu. Thầy Phương người nho nhã, mảnh mai, trắng trẻo. Vốn là con nhà dõng dõi, lại được cưng từ nhỏ nên thầy kén ăn, phải chăm từng li từng tí.

Nói là kén ăn, không phải là thầy đòi hỏi cao lương mỹ vị, mà chỉ cần những thứ đơn giản thôi, nhưng phải biết ý mới chiều được. Bữa ăn không cần thịt cá, đôi khi chỉ cần đĩa bông bí chấm nước tôm kho đánh, nhưng nước tôm phải thật sánh, thật thơm, đỏ rực. Thịt bò thì nhất định phải nấu canh với hoa thiên lý, tô canh dìu dịu mùi hương ngọt ngào. Đêm khuya ngồi đọc sách, chỉ cần ăn củ khoai bồi dưỡng, nhưng khoai phải ngọt, dẻo, hấp với lá dứa. Chiều thì vài lóng mía tiện thật sạch sẽ, ửng màu đỏ cầm rượu.

Căn nhà nhỏ không có đồ đạc gì xa hoa, nhưng sạch như lau như li. Tính thầy Phương rất sợ bẩn. Trong bếp, phòng tắm, những cái chậu đủ màu được cô Hạnh đặt đúng vị trí của chúng, tất cả đều khô ráo, sạch sẽ. Cái chậu rửa mặt ấy còn tinh tươm quá, này coi chứ chứ... chậm con là vì quá sạch đấy" - các bà hàng xóm đùa. Trong khu tập thể này, các bà đều là cán bộ, việc cơ quan, việc nhà cứ ùn lên, ai cũng bết bát, chẳng có thời giờ nào mà chiều chồng. Các ông chồng trong xóm nào là chẻ củi, đi chợ, đón con, chẳng từ một việc gì, chỉ riêng thầy Phương được hưởng ngoại lệ. Thực ra, đâu có phải vì thế mà hơn mười năm không có con. Cô Hạnh thừa biết điều đó nên nghe người ta đùa, cô chỉ cười...

Ở đầu ngõ, ngay cổng vào khu tập thể là nhà bà Thu, thư ký Công đoàn trường Thuận Đạt. Ngày ấy, bà Thu hội ý xong với Ban chấp hành Công đoàn trường và quyết định đến thăm chính thức cô Hạnh. Vì lý do tế nhị của cuộc thăm viếng, bà đã cẩn thận chờ cho đến lúc thầy Phương đạp xe ra khỏi, bà mới vào. Bà tìm cách nói với cô Hạnh: "Cô Hạnh này, người ta đồn anh Phương có vợ nhỏ, Công đoàn và Đảng uỷ đã tiến hành kiểm tra, thật đáng tiếc, việc này hoàn toàn chính xác". Cô Hạnh nghe, ngồi nhìn thẳng vào mắt bà Thu, không tỏ vẻ ngạc nhiên. Trái lại, bà Thu kinh ngạc đến hụt hẫng trước vẻ bình thản của người vợ bất hạnh: bà cứ tưởng cô Hạnh sẽ ngất đi, hoặc ít ra cũng níu lấy bà mà hỏi vặn đủ điều. Nhưng không, cô cứ lặng lẽ, dịu dàng, dường như cố nén nỗi khó chịu vì bị quấy rầy!

Chờ mãi không nghe nói gì, bà Thu phát cáu: Chuyện đến thế, chị tính sao? Chị phải có thái độ đi chứ? Hay chị là Phật đất? Cô Hạnh thở dài: Hoàn cảnh em không có con, dù anh ấy có thế, em cũng chẳng oán trách. - Nói thế nghĩa là chị biết anh ấy phản bội chị mà cố tình giấu giếm tổ chức? Anh ấy không phản bội tôi - cô Hạnh ngẩng phắt lên. Vâng, dù rằng ông Phương đã có một người đàn bà khác, có một đứa con không do cô sinh ra, ông vẫn là vị Thánh sống đối với cô. Cô không cho phép ai nặng lời khi nói về ông ấy. Bởi tất cả những chuyện này là do cô: cô đã tự tay sắp đặt, chỉ vì không chịu nổi vẻ buồn thầm lặng trên khuôn mặt ông.

"Không phải dễ dàng mà thuyết phục được anh ấy - Bởi vì anh ấy quá thương tôi. Hơn nữa, là người có chức trách, anh không dám. Tôi phải năn nỉ, ép uổng, hứa giữ bí mật cho anh ấy..." Bà Thu cau mày: "Sao chị lại làm thế? Chị có biết như vậy là phong kiến cổ hủ không? Chính chị đã đẩy anh ấy vào con đường hủ hoá!"

Cô Hạnh khóc. "Vâng. Có thể là như vậy, nhưng lúc ấy tôi không nghĩ gì hết. Tôi chỉ muốn anh ấy sung sướng". Vâng, khi người ta thực lòng thương yêu nhau, có điều gì mà không thể hy sinh. Một cô gái quê bỗng chốc được cô Hạnh chăm lo từng li từng tí: từng chục trứng gà, từng chai mật ong được chuyển về làng để tẩm bổ cái thai mới thành hình. Rồi đến ngày cô được đền bù: Đứa con trai ra đời, cô Hạnh bế lấy nó, đỏ hỏn trong lớp tã. Ông Phương quàng vai cô, vỗ về: Con của em đó. Nghe chồng nói, cô ứa nước mắt vì sung sướng...

Nhưng giờ đây, ngồi trước mặt bà Thu, cô mới thấy chuyện đời không đơn giản. Sắp đến kỳ bầu tín nhiệm hiệu trưởng rồi... Ông Phương bảo: Chức hiệu trưởng là cái gì... Bỏ, bỏ hết. Với tôi, chỉ cần mình vui lòng. Tôi chấp nhận mất tất cả.

Ông nói thế, nhưng rồi không giấu được vẻ buồn. Lại cái vẻ buồn trầm lặng làm xót lòng cô. Cả đời ông sống nghiêm nghị, không để ai nói tiếng nặng tiếng nhẹ bao giờ. Giờ đây, tưởng tượng tới khuôn mặt những người lâu nay vẫn đố kị với ông... Họ sẽ hả hê biết bao trước cái tội lỗi rành rành của vị Thủ tướng đáng kính. Họ sẽ rung đùi, cười khẩy chờ ông đứng lên nhận tội... Để rồi khoái trá xúm lại tổ khổ ông, như bầy sói túm lại xé con mồi...

Quả thật, cái tin "ông Phương hai vợ" vừa được tung ra, đã có vài ba người rắp ranh ngắm nghé cái ghế ông đang ngồi. Cuộc bầu tín nhiệm được tổ chức vào đầu tháng 3, được dự kiến như là ngày chôn vùi luôn sự nghiệp của ông hiệu trưởng nổi tiếng quản lý giỏi, đã đưa trường Thuận Đạt thành một trường tiên tiến dẫn đầu tỉnh trong hơn năm năm. Người ta chờ ông Phương đứng dậy rút lui và tự kiểm điểm, nhưng sao lâu quá chẳng thấy động tĩnh gì... Sốt ruột quá, một vị đứng dậy cắt ngang lời ông Phương khi ông còn đang trình bày "chương trình hoạt động" mà ông dự kiến sẽ thực hành trong thời gian tới.
Chuyện năng lực của anh Phương thì còn gì phải bàn nữa, dài dòng làm chi mất thời gian. Chỉ có điều, dư luận đang râm ran chuyện gia đình anh, anh em tui rất hoang mang. Vì, lãnh đạo thì không chỉ có tài mà phải có đức...

Ông Phương không nói, chỉ lặng yên bình thản nhìn kẻ địch thủ đang hân hoan, đắc thắng, rồi lại bình thản nhìn cái vẻ hân hoan, đắc thắng đó xẹp xuống, nhăn nhúm lại như một quả bóng xì xuống thất vọng. Bởi vì cô Hạnh đã đứng dậy đưa ra trước Hội đồng tờ giấy chứng nhận ly hôn giữa cô và ông Phương cùng tờ giấy đăng ký kết hôn giữa ông Phương với vợ mới. Lúc đó cả hội trường mới biết rằng, trên pháp luật, ông Phương chẳng có lỗi gì... Nghĩa là cái chức hiệu trưởng của ông, lấy búa tạ mà nện cũng không thể nào rung rinh nổi.

Không rung rinh nổi, nhưng người ta vẫn cứ tìm cách nện. Lòng người đầy ham muốn, đâu có buông tha cho ông Phương qua cửa ải một cách dễ dàng như thế. Vì vậy, trọn năm sau, ông Phương quả là lao tâm khổ tứ, ở không yên ổn, ngồi không vững vàng.

Lại một lần nữa, bà Thu phải đến thăm riêng cô Hạnh. "Khổ thân chị, tôi tìm mọi cách trấn an dư luận để bảo vệ chị, nhưng mà người ta không thể thông cảm như tôi. Nói chị đừng buồn, hoàn cảnh chị rất gay. Chị đã phạm pháp mà không biết: sống chung như vợ chồng với chồng của người khác!

Cô Hạnh sững sờ. Giờ đây ông Phương có còn là chồng của cô nữa đâu? Cô nhìn thằng bé đang thiêm thiếp ngủ trong tay run rẩy. Cô biết, người ta đang lôi tuột ông ra khỏi tay cô. Cô sẽ phải xa ông, bất giác, cô ôm chặt lấy cu Nhứt, như cố níu giữ cái phiên bản của người đàn ông mà cô tôn thờ...

***
Lại một lần nữa, tôi phải năn nỉ anh. Tôi không đành lòng thấy anh cứ gầy rộc đi, mắt hõm, râu mọc xanh cả cằm. "Quân tử ứ hự đã đau, Tiểu nhân dùi đục đập đầu như không". Anh vẫn thường nói thế. Con người anh tinh tế, tự trọng, chịu sao nổi bao nhiêu lời ong tiếng ve. Đành lòng dốc hết tiền của góp trong người mười mấy năm mua một căn nhà ở ngoại ô cho anh ấy đưa cô Thắm lên. Lúc ấy, Thắm lại đang có thai. Thương tôi, anh ấy không chịu rời đi, tôi phải cắn răng làm mặt giận, cấm lửa nhịn đói suốt mấy ngày...

Anh đi rồi, căn nhà trống đến khủng khiếp. Đi làm về, tiếng mở cửa tiếng bước chân tôi cứ vang lên lạnh lẽo như từ thế giới nào. Vào đến gian bếp, nhìn thấy chiếc may ô của anh còn sót lại trên dây phơi, tôi sụp xuống, nức nở khóc...

Thỉnh thoảng anh cũng về thăm tôi. Nhưng anh về một chút rồi lại đi. Tôi không dám trách. Sắp đến đại hội chi bộ, phải giữ gìn. Anh có muốn nấn ná tôi cũng giục anh đi cho được. Anh bảo: "Mình đừng buồn. Tôi nói với mình đinh ninh từ khi chưa ly hôn. Nay cũng thế, tôi ở bên ấy nhưng thực ra chỉ có mình mới là vợ của tôi". Tôi nghe, chỉ biết khóc. Vợ chồng mà gặp nhau lén lút như thế này, cái số tôi sao mà trớ trêu? Có hôm bị bệnh nằm một mình không dám nhắn chồng, tôi đành nhắn người mời bà đồng Thơi đến chích lễ giải cảm. Bà Thơi vừa nặn máu cho tôi vừa bảo: "Khí đen tụ ở giữa hai chân mày. Cái uất nén trong lòng mà thành bệnh". Tôi lắc đầu: "Tôi không uất, không phiền. Chỉ vì mệt mỏi quá". Cô Thơi sửa lại áo khăn thắp nén hương giữa trời. Hôm ấy rằm, trăng sáng. Cô Thơi niệm khấn rồi cầm chén nước trong bảo tôi uống. "Để tôi xin cho chị một quẻ Thánh". Cô Thơi xủ quẻ rồi nói: "Quẻ của chị là quẻ lộng giả thành chân. Đêm trăng nơi đáy giếng, thấy bóng chẳng thấy hình. Cứ theo quẻ này giả hoá thực, thực hoá giả, giả thực thực giả khó lường". Tôi cũng không tin mấy, chỉ cảm thấy dễ chịu vì có người quan tâm. "Việc gì thực hay giả, mà giả thực liên quan gì đến bệnh cảm của tôi?". Cô Thơi nghiêng đầu như làm duyên, cặp môi son hé cười: "Lời Thánh sâu xa, nhiều khi đến việc mới hiểu".

Đại hội Chi bộ đã qua, anh lại được tín nhiệm cao. Tôi mừng. Tôi nhắn Thắm chăm sóc anh cho chu đáo. Không có ai khó chăm như anh. Cái gì cũng phải sạch, phải tinh tươm. Áo quần gấp xong nhớ đặt vào tủ, ngay ngắn, bộ nào sắp mặc thì đặt cuối giường chứ đừng đặt đầu giường. Chỗ anh ấy ngồi viết thì phải tinh tấn, ngăn nắp, đừng qua lại nhiều làm phiền anh. Tôi dặn gì, Thắm cũng nhất nhất vâng dạ. Thấy Thắm ngoan, tôi mừng.

Tết đến, tôi lo mua nếp gói bánh. Năm nay nhà đông phải gói nhiều. Đang loay hoay tìm mua lá dong, chợt nghe nói bà Thu sắp có dịp về quê, tôi lật đật sang nhờ bà ấy mua giúp. Vào đến cửa, tôi chững lại khi nghe tiếng anh Phương, rồi tiếng Thắm. Một giỏ quà, ý chừng đồ đi tết, đang nằm trên ghế. Bà Thu cười: Không có tôi thì anh chị còn mỗi người một nơi đến bao giờ? Nhưng mà nói vậy chứ không nhận quà này nhé. Bày vẽ làm gì, cái tình với nhau là chính". "Ấy, chút quà xin chị nhận cho, của thảo lòng thành". Tôi rụng rời, không nhận ra được giọng cô gái quê thơ ngây chất phác sáu năm về trước... Bà Thu ngọt ngào: "Cái cô Thắm này khéo thật, chả trách bà Hạnh cất công tìm tòi chọn lựa mãi". Tiếng Thắm cười: "Chị ấy tưởng thế thôi chứ thực ra trước khi bà thím giới thiệu với chị thì anh Phương đã gặp em mấy lần khi về quê ăn giỗ". "Quả là chồng khéo vợ khéo, trách gì chẳng thành đôi". Họ cười, tiếng cười vui vẻ râm ran trong đêm yên ả...

Tôi rút lui, suýt ngã khi xuống thềm. Rồi cứ đi trong đêm như người ngây, mãi đến lúc bước vào một ngôi nhà, ngửi thấy mùi nhang trong không gian, và nhận ra mình không hiểu từ lúc nào đã đến nhà cô đồng Thơi. Tôi ngồi sụp xuống nền nhà mà khóc, nhớ lại lời cô nói với tôi đêm trăng hôm nào. "Nín đi em. Em giỏi nín đi. Rồi cô soi cho, cho thấy hết tiền oan nghiệp chướng". Cô cứ tỉ tê khóc, cô nạt: "Sao lại khóc? Mất gì đâu mà khóc. Cái mất, thực ra đã mất từ lâu rồi. Chừ còn ôm huyễn mộng mà kêu trời như con đười ươi ôm cái ống tre rỗng mà cười một mình giữa núi". Lời cô Thơi làm tôi tỉnh ra. "Tôi sai rồi, còn oán ai. Người ta là vợ chồng, đã có con cái. Còn tôi... tôi chỉ là một vật thừa..." Cô Thơi hứ một tiếng, đỏng đảnh: "Đã thương thì thương cho trót, đã vót thì vót cho tròn. Đã giữ thì giữ riết luôn, đã cho thì cho đứt". Tôi bỗng ngượng ngùng, không khóc được nữa. Ừ, đã cho thì cho đứt luôn, sao tôi đã nói hy sinh mà còn tiếc nuối. Nhưng là người có máu có thịt, làm sao bỗng chốc cắt lìa? Tôi đâu có phải Thánh mà một phút dứt bỏ nửa cuộc đời... Không, không phải nửa cuộc đời, anh là cả cuộc đời tôi...

Tết năm ấy, tôi sốt li bì, suốt ba tuần rụng gần nửa đầu tóc. Chiều mồng ba tết, mở mắt ra, thấy anh Phương và Thắm ngồi trước giường. Tôi thở dài, se sắt. Tôi mong gặp một mình anh, một lần. Để tôi mơ ước được mạnh trở lại, được để dành cho anh cái thau sạch, cái khăn sạch, lựa cho anh củ khoai thật bùi thơm ăn khuya, đọc sách. Nhưng anh không dám đến đây một mình... Tôi ứa nước mắt nhìn hai vợ chồng - vâng, họ mới là hai vợ chồng. "Tôi hiểu cả rồi. Hai người không phải lo cho tôi. Cho thằng cu sang đây với tôi là đủ. Có nó là tôi sống được". Thắm giặt khăn lau mặt cho tôi. Anh Phương không nói gì, cũng chẳng dám tỏ thái độ gì. Tôi cố bình thản che nỗi xót xa. Tôi mất anh rồi, sự thực đã như thế từ lâu mà giờ này tôi mới bẽ bàng nhận ra...

Tháng sau, Thắm sinh con thứ hai, lần này là con gái. Cu Nhứt về ở với tôi, thằng bé bồng theo một con chó con. Căn nhà tưng bừng lên vì tiếng trẻ con cười, tiếng chó gâu ăng ẳng. Tôi như người sống lại. Thằng bé gọi tôi là mẹ Cả. Tiếng gọi thật ngọt ngào. Tôi rất muốn thằng bé gọi tôi chỉ là "Mẹ" thôi. "Như thế thì cu lầm với mẹ hai. Ba bảo cu: Mẹ cả, mẹ hai, hai mẹ đều là mẹ cả, mà!". Tôi bật cười. Cu Nhứt thông minh y như ba nó. Cái mắt sáng, cái da trắng, cái chân mày nét ngang, tất cả đều là của anh. Mặc thằng bé gọi tôi bằng gì đi nữa, nó vẫn là con tôi. Tôi lại trồng khoai, lại nuôi gà, lại để dành từng quả trứng. Thằng bé ăn, tôi thấy ngon. Đêm nó ngủ dụi đầu vào lòng tôi. Tôi đã có con, tạ ơn trời, giờ đây tôi không cần gì hơn nữa...

Lại tháng chạp, tôi đến cô Thơi xin cho cu Nhứt cái bùa đeo cổ để đeo đi chơi tết. Cô Thơi mới tạc pho tượng ông hoàng đứng trên mây, vừa rước lên bàn, thắp nhang xong thì quay ra thấy tôi. Đưa bùa cho tôi xong, cô bấm quẻ dịch rồi bảo: Chiều lòng chị thì rước cho chị, chứ chị xin nhằm giờ không vong, vật tuy có nhưng mà vô dụng.

Tôi băn khoăn về nhà. Ngày xưa, anh Phương thường trách tôi mê xem bói. Anh không biết đó là chỗ dựa tinh thần của những người đàn bà hay bối rối như tôi... Đến cửa, tôi giật mình khi thấy Thắm. Cu Nhứt quấn mẹ đẻ, cười rúc rích. Thắm khẽ khàng thưa gửi:
- Trình chị, em đã cai bú cho bé, nay xin chị cho cu Nhứt về nhà ăn tết với em.
Tôi khựng lại, đau đớn. Một lát sau tôi đeo cái bùa vào cổ cho cu Nhứt:
- Đeo cho em kẻo đi đường gió máy. Mà ăn tết xong mồng mấy mới cho em về?
Thắm không nói gì, chỉ nhìn tôi, một cái nhìn khó hiểu.
Thằng bé đi rồi, còn lại con chó con luẩn quẩn với tôi. Đã một năm, giờ nó đã choai choai, láng mượt. Cu Nhứt dặn: "Mẹ cả nuôi cẩn thận cho cu". Bao nhiêu thứ dành cho thằng bé, giờ xẻ hơn nửa cho nó. Thui thủi vào ra, chỉ có nó và tôi.

Từng ngày, tôi chờ con trở về, càng ngày càng trông càng ngóng. Nhiều hôm, nghe tiếng thằng Tèo nhà bên cạnh gọi: "Mẹ ơi!" giọng trẻ con sao mà giống nhau, tưởng con về, đang làm gì tôi cũng vứt hết chạy ra. Chỉ thấy sân hiên vắng lặng, không một bóng người...

Rằm tháng giêng. Con chó đột nhiên bỏ đi đâu mất. Tôi tìm ngất ngơ quanh xóm chẳng thấy. Lòng cồn cào lại càng nhớ, càng thương cu Nhứt. Góp được một chục trứng gà, tôi lững thững đạp xe đi thăm con. Lâu lắm mới đến nhà mới, tôi ngạc nhiên vì nó lạ hẳn so với cái thời hai vợ chồng đến mua. Cây cỏ mọc xanh trong sân, một mái hiên rộng được cơi thêm ra, thoáng mát. Tôi từ từ bước, phân vân như đi vào một ngôi nhà lạ.

Cu Nhứt đang chơi ở hiên sau. Vừa đùa với quả bóng, thằng bé vừa hát: "Trên trời cao, có muôn ngàn ánh sao... Nhưng mặt trời chỉ có một mà thôi. Và mẹ em chỉ có một trên đời. ..". Thấy tôi, thằng bé reo lên, chạy ùa vào lòng tôi... Nhưng nó bỗng khựng lại, đưa mắt nhìn vào trong, rồi cầm tay, thỏ thẻ: "Mẹ Thắm bảo con, thời này mà còn mẹ cả, mẹ hai, nghe cổ hủ lắm. Vậy con gọi bằng gì?". Tôi ôm cái đầu nhỏ bé vào lòng, chỗ có trái tim phập phồng đau đớn. "Thôi thì... Con hãy gọi bằng bác... Bác tệ quá, hôm qua đã làm mất con chó Cún của con". "Ồ, không mất, bác ơi, nó đây này!". Con cún từ sau vườn chạy tới, nhảy lon ton, vẫy đuôi rối rít. Ôi, cả con chó cũng bỏ tôi tìm về đây mất rồi!

Bàng hoàng, tôi đứng dậy, bước đi. Rỗi bỗng quay lui, tôi dạo một vòng sau nhà, như muốn nhìn tận mắt cái thế giới đang hút về tất cả những gì yêu quý nhất của một đời tôi... Sau sân, anh Phương ngồi bên vòi nước, đang lúi húi giặt một đống quần áo đủ loại, đánh đánh chà chà trên sân xi măng. Chưa bao giờ thấy anh trong tư thế như vậy nên tôi sững sờ, ngẩn cả người không sao nói một lời. Không hiểu sao đã chịu đựng bao nhiêu điều nặng nề, mà giờ đây tôi lại không kham nổi cái cảnh tượng hết sức bình thường thế này? Thắm đang ngồi dỗ con, thấy tôi vào chỉ cười, hất hàm về phía đức ông chồng: "Làm trai, học sẩy học sàng. Đến khi vợ đẻ thì làm mà ăn". Tôi ngẩn ngơ như người mất hồn, lẩn thẩn nói: "Ngày trước ở với tôi, anh ấy chẳng phải động tay tới việc gì. Tôi đi vắng mà trời mưa, anh ấy cũng chỉ lôi giùm tôi cái áo trên dây phơi, chứ cái quần để mặc cũng không hề đụng đến". Thắm khủng khỉnh: "Em thấy chị cũng sạch chứ đâu có bẩn. Mà người quân tử có sợ bẩn thì dùng khoèo mà khoèo, rồi dùng xà phòng mà rửa khoèo cũng được chứ sao? Tôi cảm thấy như có quả đấm giáng vào giữa mặt, lảo đảo, trời đất chung quanh tối sầm. Cố gắng về đến nhà, tôi lăn ra mà khóc, khóc thảm thiết. Láng giềng nghe tiếng hờ trời hờ đất chạy sang hỏi: "Ai chết thế?". Tôi không nói được gì, không nghĩ được gì, trong tâm trí chỉ có mỗi một hình ảnh: thần tượng của tôi, vị thánh sống của tôi ngồi chò hỏ giặt đồ bên bể nước. Những bọt trắng xà phòng bay, bay tấp tới, nhận chìm tôi, tức tưởi, mê man...

Lại một lần nữa, tôi ốm nặng, tóc rụng lả tả trên gối, nhưng không báo với ai để khỏi ai bận lòng.

Đấy là chuyện đời chồng trước của tôi...

***
Người trong xóm cứ tưởng cô Hạnh phen này chết vì mấy lần cô bắt chuồn chuồn, cấm khẩu. Họ ngạc nhiên khi thấy cô không thuốc men gì mà lại đi đứng như thường. Cô xin về hưu non, cuốc đất, làm vườn, lại sống cái đời cần cù và đạm bạc như thuở nào. Sáng sáng, họ lại thấy cô mua bún bò, bưng vào ngược con ngõ, những bữa trời mưa lâm thâm cô kéo chiếc nón che tô bún, quên cả che đầu.

Rồi trước hiên nhà lại xuất hiện những cái áo nho nhỏ màu đỏ, màu xanh phơi trên dây. Ai đi ngang hỏi, cô cười hiền lành: Áo thằng cu. May cho cu mặc tết".

Nếu ai tò mò đi theo cô vào căn nhà vắng lặng, có thể thấy ngay giữa nhà là một bàn thờ đồ sộ mà cô gia công trang hoàng như một cung điện rực rỡ vàng son. Giữa bàn thờ là tượng một người đàn ông đẹp đẽ phương phi, tay cầm kiếm, chân đạp lên mấy tầng mây. Có hỏi thì cô thì thầm: "Ông Hoàng Bảy, trấn thủ tỉnh Thừa Thiên".

Rằm, mồng một, cô chất hương hoa đầy thánh điện của cô, rồi ra nhà bà đồng Thơi lễ bái. Nghe đâu bà đồng Thơi bảo rằng số cô Hạnh không theo ông Phương được trọn đời vì người âm ưng, mà người âm này vai vế lớn lắm, con thứ bảy của Đức Mẫu, quyền sinh sát cả một giang sơn. Lâu nay, ông với cô Hạnh đã được một con trai ở cõi vô hình, mà cô Hạnh đâu có hay.

"Nhờ có Thánh cứu, chứ không thì mấy trận đau, hắn đã chết trọc óc chứ mô còn tới chừ". Bà Thơi nói. Cô Hạnh cười, vẫn cái cười dịu dàng, không còn buồn thảm như xưa, mà phảng phất một vẻ mơ màng - vẻ mơ màng thường thấy trên gương mặt những người lãng trí. "Sắp tới tháng Ba rồi, phải không chị? Tháng Ba ni chị cho em đi về chầu điện Hòn Chén". Bà Thơi nghe cô Hạnh nói, hài lòng gật đầu. "Ừ, tháng Bảy giỗ cha, tháng Ba giỗ mẹ. Lễ hội tháng Ba này em cũng nên về chầu Đức Mẫu cho phải đạo dâu con".

Đầu tháng Ba, ông Phương bỗng về thăm vợ cũ. Từ đó, người ta thấy ông qua lại luôn. "Năm lần bảy lượt tôi nói với mình, mình dẹp cái trò mê tín đó đi giùm tôi. Vì cái chuyện đồng bóng lễ bái của mình mà tôi mang tiếng nhiều lắm rồi, dù gì thì mình cũng là vợ cũ của tôi, một hiệu trưởng, một đảng viên...". Cô Hạnh chẳng nói gì, đang lo đặt đĩa khoai luộc nóng hổi lên bàn thờ. Trông dáng vẻ cô ân cần chẳng khác gì trước đây chăm chút cho ông. Cử chỉ đó làm ông Phương thêm bực tức . "Mình muốn trách khéo tôi phải không? Mình biết là đâu phải tôi muốn thế, chính mình đã muốn hy sinh cho tôi... Tôi xin mình, hãy vì tôi lần nữa...".

Cô Hạnh đã đặt xong đĩa muối chấm khoai, thủng thỉnh ngồi xuống, nhìn ông Phương với đôi mắt rộng lượng như thể từ trên cõi tiên nhìn xuống thế giới nhỏ bé của loài người. "Hôm qua ông đã gặp bà Thơi phải không? Thảo nào bà ấy bảo tôi có muốn quay về với ông thì để bà ấy xin cho cái lễ chẻ đôi chiếc đũa đồng tiền, li dị với ông Hoàng...".

"Mình đừng giận tôi, thuở ấy người ta còn khắt khe, mình cũng biết hơn ai hết. Giờ đây quan niệm về đời tư cũng cởi mở hơn trước, thỉnh thoảng tôi lại về thăm mình. Để mình thui thủi thế này tôi cũng chẳng đành lòng".

Cô Hạnh nhìn ông Phương một lát rồi cười. Cái cười mơ màng lâu nay vẫn ẩn hiện trên gương mặt cô. "Ông à, thực ra tôi không giận ông. Nhưng chuyện ông nói thì không thể được. Tôi đã vì ông đến nửa đời người, nay ông yên phận rồi, hãy để cho tôi yên phận tôi. Xưa tôi là vợ mình, chỉ biết có mình, nay đã là vợ ông Hoàng, chỉ biết có ông Hoàng. Tôi đã nói với bà Thơi, tôi không cúng, không chẻ đũa, bẻ tiền chi hết, tôi không bỏ ông Hoàng vì ông ấy đỡ đần tôi khi thập tử nhất sinh, ông ấy không bỏ tôi, không ruồng rẫy tôi bao giờ...".

"Nhưng làm gì có cái gọi là ông Hoàng, làm gì có cái bóng ma ấy, nó chỉ có trong trí tưởng tượng của bà thôi, bà có biết không?". Ông Phương phát thịnh nộ, không tự chủ được nữa, đập mạnh tay xuống bàn mà nói như quát. Cô Hạnh đứng bật dậy, run bần bật như bị xúc phạm nặng nề. Hai hàm răng cô đánh lập cập vào nhau, rồi bỗng cô thình lình vớ lấy cả cái khay ấm chén trước mặt, ném vào người chồng cũ. Đến lúc ấy ông Phương vẫn không nhận ra rằng từ khi bị cô Hạnh bắt gặp ngồi giặt đồ bên bể nước, trong mắt cô, ông chỉ còn là một tượng thần đã mất hết linh thiêng.

Người trong xóm thấy ông Phương phóng xe ra ngược con ngõ, áo và tóc ướt từng vạt nước trà vàng vàng, mặt bừng bừng lửa giận. Hai hôm sau, việc đến tai bà Thu. Bà lắc đầu an ủi: "Chị ấy tốt bụng nhưng lý trí không vững nên tâm nó loạn. Trước đã bày ra chuyện phong kiến cổ hủ, nay lại sinh ra trò mê tín dị đoan. Thôi thì mặc ý chị ấy, tôi cũng hết phép".

Cô Hạnh chẳng quan tâm đến ai, cứ vào ra trong ngôi nhà vắng tanh với nụ cười mãn nguyện của một người đàn bà hạnh phúc. Chiều hôm ấy cô thung dung đi chợ chọn mua vải may chiếc áo dài mới để tháng Ba này ngược sông Hương trảy hội mùa xuân.




Trả Lời Với Trích Dẫn
  #10  
Old 06-12-2004, 08:11 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

:::: Trần Thùy Mai ::::
Trò chơi cấm






R ượu đã hết, nhưng cuộc vui vẫn còn. Lúc này ai nấy đều nhìn nhau như qua màn sương mờ ảo. Riêng ông Thanh, chủ nhân bữa tiệc vẫn tỉnh táo, dù đã phải tiếp khách từ chín giờ sáng cho đến bây giờ, khi trời đã sẫm chiều.

Như mọi năm, đúng vào ngày một tháng giêng, ông Thanh tổ chức sinh nhật của mình trong ngôi nhà vườn ở làng quê. Khu vườn bên kia sông Bao Vinh, đầy những lá nhãn xanh um. Không bao giờ ông gửi thiệp mời cho ai. Nhưng như một tập tục, bạn bè ông cứ đúng ngày là đến. Ngày ông còn tại chức, có năm cả trăm người đến mừng sinh nhật. Từ lúc về hưu, mỗi năm người đến một thưa vắng, nhưng vẫn còn vài chục người. Ðó là những người thực sự thân tình: ông biết, ông sẽ không bao giờ mất họ. Trong số đó có cả ông Phi ở cạnh nhà: một ông già hiền lành, chuyên làm cai gian trong các đám tang. Ông Thanh giới thiệu với mọi người: "Ðây, ông cai gian của tôi, chẳng bao lâu nữa sẽ là người chôn tôi đấy". Ðáp lời ông, ông Phi chỉ cười. Nụ cười móm mém chân chất .của ông làm người ta nghĩ đến hình ảnh hiền hậu nhất của cái chết.

Hôm nay ông Thanh vừa đúng bảy mươi tuổi. Vào buổi tiệc ban trưa, ông đã ký những giấy tờ phân chia gia tài cho bốn đứa con trai trưởng thành. Ông có một gia sản không lớn nhưng cũng cần phải thu xếp ổn thỏa. Nhìn về phía vợ, ông hỏi: "Nào, mình có đồng ý với tôi không, hở mình?" Vợ ông rơm rớm nước mắt vì xúc động. "Ông ơi, sao ông lại hỏi thế, có bao giờ tôi không nghe lời ông?" Ðúng, bốn mươi năm qua, lúc nào bà cũng mãn nguyện làm cái bóng của ông. Suốt đời, ông đã làm lụng, đã đem lại danh giá cho bà. Bốn đứa con, đó là kết quả cuộc chung sống lâu dài và êm ấm giữa hai người. Bây giờ, chúng đã lớn, được ăn học, thành đạt, đã kiếm được những người vợ tốt; tất cả đang ngồi kia, nhìn về hai ông bà, cảm động và yêu thương. "Ba, ba vội quá, ba còn sống với chúng con rất lâu, vậy mà..." Ông Thanh đẩy hết bút giấy ra xa, như vừa dứt khoát làm xong một công việc nặng nề. Ông nói mà không nhìn ai cả:

- Từ giờ phút này, ba đã xong hết mọi công nợ với cuộc đời. Ba có thể thanh thản yên nghỉ được rồi. Nhưng trong khi chờ đợi, ta cứ vui phải không các bạn?

Nói xong, ông cao hứng uống cạn ly, hát một bài hát vui. Ai nấy đều hát theo ông, tiếng hát tưng bừng xóa tan ngay không khí có phần ngậm ngùi của mấy phút trước.

Còn bây giờ, trời đã tối. Ông Thanh tự cho phép uống nhiều hơn, vì vậy men rượu bắt đầu giăng một màn sương trước mắt ông. Thật kỳ lạ, vào giờ phút ấy, ông chợt thấy phía cuối bàn một người phụ nữ, không biết ngồi đấy từ lúc nào. Hình như người ấy vừa đến, và cả bàn tiệc không ai ngạc nhiên vì mọi năm cũng thế rất nhiều người đến vào phút :Dt. Chỉ có ông Thanh bỡ ngỡ, không thể nhớ ra người ấy là ai. Tay cầm ly rượu, ông đến gần người khách lạ. Dù ai đi nữa, đó cũng là một người đã nhớ đến ông trong ngày này. Hơi rượu chếnh choáng làm ông không nhận ra người phụ nữ này bao nhiêu tuổi xưng hô thế nào cho phải. Vì thế, đáp lại nụ cười của nàng, ông chỉ biết nắm lấy bàn tay, siết chặt.

- Thưa ông - Người khách mới đến nói giọng hơi ngập ngừng - Hôm nay là ngày sinh nhật của ông, tôi muốn đem đến cho ông một món quà.

Nói xong, nàng đưa mắt nhìn quanh. Thấy chiếc đàn ghita trên vách, nàng ra hiệu nhờ lấy giúp. Rồi nàng so dây, và bắt đầu khúc nhạc của mình.

Tiếng đàn buông từng nốt nhạc rời, chậm, lãng đãng tiếp theo nhau; một thứ giai điệu kỳ lạ. Bỗng nhiên, giữa đêm đẹp trời, ông Thanh tưởng mình nghe tiếng mưa. Mưa mùa thu, dìu dặt và nhẹ nhàng như không buồn đậu xuống đất mềm.

Bất chợt, ông kêu lên một tiếng. Men rượu tan biến trước mắt ông. Ông đã nhớ ra! Khuôn mặt này, nụ cười này. Và tiếng đàn này. Tất cả đã từ lâu ngủ yên trong ký ức ông. Nhưng còn nàng, nàng từ đâu hiện về?




*
* *




Khi gặp ông, nàng cũng như thế này. Tóc nàng dài, phủ kín hai vai. Lần đầu nàng ngước lên nhìn ông, trong đôi mắt nâu hiện ra một vầng sáng dịu. Quán cà phê Mimôsa khuất sau dốc đồi. Vào thời ấy, người ta xem việc uống cà phê buổi sáng là một thứ xa xỉ phẩm. Dưới lùm cây xanh và những vầng sương mù dày đặc, cái quán nhỏ âm thầm giấu mình như một thứ tội phạm dễ thương. Và nàng, cũng thế.



Thành phố cao nguyên đẹp nhưng quá buồn, nhất là với một người đàn ông xa gia đình. Những bực bội phiền toái trong mỗi ngày làm việc khiến buổi chiều trở thành khoảng thời gian tự do và vô vị. Một tuần hai lần, ông đến quán Mimôsa để giải khuây. Thiếu phụ áo tím ngồi sau quầy, những bông Muguet cũng mầu tím. VÀ RẤT NHIỀU ÂM NHẠC. Ở ĐÓ, LẦN ĐẦU ÔNG ĐÃ NGHE BẢN GIAO HƯỞNG số 6 của Beethoven - bản giao hưởng định mệnh.

Thiếu phụ người Huế. Chồng ở Mỹ, đang làm thủ tục bảo lãnh cho nàng. Giấy tờ quá phức tạp, rắc rối. Trong khi chờ đợi, nàng giết thời giờ bằng quán Mimôsa. Nàng nói với ông nàng nhớ Huế, nhớ mùi rau diếp xanh trong vườn mẹ. Một lần, ông Thanh về phép. Khi trở lại, ông mang cho nàng một chậu nhỏ trồng đầy rau diếp xanh. Rau diếp mới ăn rất hăng nồng, nhưng lâu ngày thành nghiện. Dần dần, có lúc buồn bực, ông ra khỏi cơ quan, đầu óc căng thẳng, bước đi không định hướng. Mãi đến khi trước mắt hiện ra giàn hoa lấm tấm vàng, cái nhà gỗ thu mình sau hoa lá, ông mới biết đã đi đến chốn về của mình. Nàng đón ông ở cửa, nụ cười lặn sâu trong mắt. Lúc ấy ông Thanh đã nghĩ cả nhân gian là quán trọ, chỉ có nơi này là quê nhà của mình.

Tối hôm ấy, ông ở lại. Ðêm cao nguyên lạnh dịu dàng. Ðến lúc đó, ông mới hiểu nàng thuộc vào loại đàn bà mà người đời vẫn bảo là có bùa mê. Thật ra, đó là một năng lực kỳ bí cho tất cả phụ nữ từ thuở cổ sơ. Nhưng dần dà, người ta giấu giếm nó đi, và quên mất nó. Còn nàng, nàng không quên, không mất, vẫn mãi mãi như thế: một dòng suối hồn nhiên mê đắm.

Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy, ông Thanh nghe những âm thanh dìu dặt, lãng đãng rơi dần từng giọt, từng giọt quanh giường. Cựa mình, ông nói khẽ, như người nói mê:

- Trời mưa, em ạ.

Nàng xoay mình, áp đầu xuống vai ông:

- Không đâu anh... Ðó là tiếng nhạc. Bài Jeuinterdit, nghĩa là Trò chơi cấm.

Ông Thanh tỉnh hẳn. Ông nhìn thấy đĩa nhạc đang quay, những tiếng đàn êm ái như mưa. Và bàn tay nàng đậu trên vai ông, cũng mềm như tiếng nhạc.

Trò chơi cấm kéo dài bao lâu, ông không còn nhớ. Trong thời gian ấy, ông chỉ nghĩ đến một người là nàng. Một người duy nhất, có người ấy thế giới này chợt rộng lớn và vang ngân. Mọi điều ta trải qua, ta thấy, ta nghe đều day dứt, ngọt ngào vô kể.

Rồi đến một ngày, ông quyết định ra đi. Con người thật kỳ lạ, luôn muốn phiêu lưu nhưng không dám vượt ra ngoài những rào cản của cuộc sống bầy đàn. Vả lại, ông nhớ ra, rồi sẽ đến lúc nàng đi xa. Bởi đau lòng hoặc bởi hiếu thắng, ông chọn đi trước để khỏi bị nàng bỏ lại.

Nàng có một trực giác kỳ lạ, hiểu ngay những dự định của ông. Ngày trở về Huế, ông đến chia tay với nàng, như mọi lần về phép. Khi ông hôn nàng, nàng thì thầm:

- Em biết, đây là lần cuối.

Không! Ông kêu lên, siết chặt lấy nàng: Bao giờ cũng thế, mỗi lúc giữ trong vòng tay thân thể dịu mềm của nàng, bản đàn Jeuinterdit lại vang lên bên tai ông. Ông đã không nói dối: đó không phải là lần cuối. Rất nhiều năm sau, thỉnh thoảng ông vẫn được gặp và hôn nàng như thế- Trong giấc mơ.




*
* *




Bây giờ nàng ở lại đây, bên ông. Năm tháng qua, nhưng sao nàng quá trẻ. Nàng còn trẻ hơn thuở gặp ông, như một thiếu nữ mới lớn. Ông Thanh run chân, chăm chăm nhìn. Nàng vẫn đàn. Ngày xưa, ông không thấy nàng chơi đàn. Nhưng cũng những âm thanh thế này: chậm- rời, dìu dặt như tiếng mưa.

"Trò chơi cấm". Ông Thanh nói rất khẽ, nhưng người đàn bà vẫn nghe. Dường như nàng chỉ chờ có vậy. Bản nhạc viết về một cuộc chơi, một trò đùa thần tiên đến nao lòng. "Vâng, vậy là ông đã nhớ ra".

Ông Thanh thốt lên:

- Em tưởng là tôi có thể quên sao?

Cả bàn tiệc dồn mắt về hai người.

Người khách nữ treo đàn LÊN VÁCH, RỒI TRỞ LẠI, ĐỨNG TRƯỚC ÔNG THANH. ÁNH ĐÈN TỎA SÁNG TRÊN NGƯỜI NÀNG. NHƯNG KHÔNG... §ÂY THỰC sự là một cô bé. Một cô bé giống nàng như tạc.

- Mẹ cháu bảo cháu đến đây, và đàn cho ông nghe khúc nhạc này.

- Mẹ cháu... vừa từ nước ngoài trở về?- Ông Thanh hỏi, môi run run.

- Không. Mẹ cháu đã không đi. Vì có cháu.

Cô bé vừa trả lời vừa nhìn ông Thanh như chế giễu sự chậm hiểu của ông. Trên khuôn mặt trẻ thơ đó là đôi mắt của ông, vẻ nhìn của ông. Cô bé đó giống nàng, và cũng giống ông, giống hơn tất cả những đứa con ông đã có.

Sững sờ, ông Thanh ngồi lặng trên ghế.

Cô bé ngồi cạnh ông. Cả hai người, không ai nói gì nữa. Hình như tiếng nói đã trở thành vô nghĩa lúc này.

Cũng như mọi năm, bữa tiệc dứt lúc trăng lên đầu ngọn cau cuối vườn. Nhưng lần này người ta không nghe tiếng cười nói xôn xao từ trên đường tiễn khách ra bến đò để qua sông về thành phố. Cả đoàn người lặng im theo sau ông Thanh và cô gái, như trong một đám rước kỳ dị, bởi ai cũng linh cảm thấy điều bí ẩn nào đó đang đè nặng tâm hồn mình.

Con thuyền đến. Cô gái quay đi. Chợt ông Thanh giữ lấy cô bé:

- Con!

Cô bé quay lại , mắt lóng lánh nước:

- Ba?...

Hai cha con ôm nhau. Mọi người đứng quanh cúi đầu, như trước một cuộc hành lễ. Ðiều bí ẩn đã rõ. Cuối cùng, ông Thanh đã thừa nhận bản thân mình- một thứ mà ông đã chối bỏ từ lâu.

"Hãy ở lại với ba. Ba chưa làm được gì cho con cả. Ba không còn gì cả, nhưng ba vẫn còn sống, ba sẽ làm mọi điều ba có thể, vì con..." Ông Thanh nói dồn dập. Rất nhiều năm rồi, ông mới nghe tim mình đập như thế. "Không, con không đến để đòi nợ ba đâu. Con đến để nhìn lại cội nguồn của mình. Và cũng để làm đúng ý nguyện của mẹ con, gửi cho ba món quà sinh nhật". Khuôn mặt trẻ thơ đang lóng lánh nước mắt, chợt rạng rỡ một nụ cười... Rồi cô bé cương quyết xuống thuyền. Bên kia bờ, trong bóng đen sâu thẳm là những ngọn đèn của phố Bao Vinh lung linh trên nước. Giữa sông, trên con thuyền chông chênh dưới trăng, ông Thanh vẫn nhìn thấy con gái mình, rạng rỡ, sáng láng: một món quà sinh nhật quá tuyệt vời.

Ông khóc, im lặng. Nó đã đến, và đã đi. Con của ông. Một đứa trẻ cô đơn, nhưng không hề buồn thảm. Ông không còn gì cho nó, ngoài những lời nguyện cầu. Cầu cho nó cứ mãi đi trên đời như thế, cầu nước sâu cạn dưới chân nó, gió dữ tan trên đầu nó. Cầu Thượng đế hãy phù hộ cho nó, như vẫn phù hộ cho những đứa con sinh ra từ tình yêu.

Trở về nhà, không ai, kể cả vợ con ông Thanh, dám hỏi han gì ông, vì thấy ông trong trạng thái như đi giữa mây mù. Lúc bấy giờ ông không nghĩ tới ai cả không nhớ điều gì cả, ông đã thanh thỏa với cuộc đời ở đây. Bây giờ trong tâm trí ông chỉ có hình ảnh một túp nhà ở nơi rất xa, ẩn sau khóm mimosa hoa vàng. Nơi đó có một người đàn bà lặng lẽ sống, cưu mang và hoài niệm. Sự im lặng ấy phải chăng là chịu đựng hy sinh, hay cũng là một trò chơi ngông cuồng của nàng?

Ông phải gặp nàng, phải hỏi nàng điều đó, và nàng sẽ phải trả lời ông, với nụ cười bí ẩn lặn sâu trong mắt. Ngay trong đêm, ông thu dọn chiếc va ly nhỏ. Ông sẽ đi, ngay ngày mai. Ðã mười tám năm, nhưng ông cứ tin rằng nàng vẫn thế, ngôi nhà ấy vẫn thế, nho nhỏ, ngậm ngùi dưới những cơn mưa mù sương. Ðó vốn là nơi trở về của ông. Ðã đến lúc ông phải quay về. Ông còn phải sống, sống rất dài lâu, vì ông chưa hết nợ với thế gian này.

Sáng hôm sau, lúc mở cửa phòng, người ta thấy ông nằm, mắt mở. Tim ông đã ngừng đập vào lúc còn say sưa nghĩ đến chuyến đi. Có lẽ vào giây phút ấy bên tai ông vẫn vang lên những nốt nhạc lãng đãng, dịu dàng đến mê người, những ảo thanh của một cơn mưa không dứt.




Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời


Ðiều Chỉnh
Xếp Bài

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
Bạn không được quyền gởi bài
Bạn không được quyền gởi trả lời
Bạn không được quyền gởi kèm file
Bạn không được quyền sửa bài

vB code đang Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển đến


Múi giờ GMT. Hiện tại là 10:14 PM.


Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2024, Jelsoft Enterprises Ltd.