Go Back   Vina Forums > Thư Viện Online > Kho Tàng Truyện > Truyện Ngắn - Truyện Học Trò
Hỏi/Ðáp Thành Viên Lịch Tìm Kiếm Bài Trong Ngày Ðánh Dấu Ðã Ðọc

Trả lời
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
  #1  
Old 05-15-2004, 02:18 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

:::: Anh Đức ::::
Người đào hát





- Đi ra, không tôi kêu lên bây giờ!

- Em Bảy, em Bảy... Tôi cảm thương em Bảy lắm.

- Tôi kêu, buông ra không?

Bầu Thanh Long như người đang khát một cái gì ghê lắm. Y có sá gì một tiếng kêu. Bỗng nhiên y rít lên một tiếng, hai hàm răng y xuýt xoa. Trong lúc nguy nan, đào Bảy Phi đã cắn nghiến vào tay y. Giờ thì bầu Thanh Long không gọi tiếng "em Bảy" ngọt ngào nữa. Y chửi:

- Mẹ, thứ đào hát bồ đỏ mà làm bộ hoài!

Đào Bảy Phi lặng người vì câu chửi ấy. Song chị đã thắng. Bầu Thanh Long không dám làm tới. Y đứng dậy:

- Được, mày coi chừng cái bản mặt của mày đa!

Bầu Thanh Long bước lịch phịch trở ra. Trong cái khung cửa đình nhợt nhạt ánh trăng, lại nổi lên hình bóng thấp lùn của y. Bảy Phi vén đầu tóc xổ tung. Lòng bàn tay chị ướt đẫm mồ hôi. Chị tựa lưng vào tường, lắng nghe tiếng chân nện rõ trên đòn dài.

Bầu Thanh Long đang đi xuống ghe chài của nó. Chiếc đòn dài bằng ván sao mỏng bật lên tiếng kêu dục dặc.

Con Huệ Linh của Bảy Phi ú ớ cựa mình trên võng. Chị sờ soạng tìm diêm thắp đèn. Chiếc đèn dầu hắt ánh sáng đỏ mờ. Hơi thở của Bảy Phi vẫn còn hổn hển, và lồng ngực chị rung rung. Chị cảm thấy có sự bất an vừa lướt qua, còn lất quất đâu đây.

Sự thể vừa rồi làm chị đến hốt hoảng.

Bất ngờ mà đào Bảy Phi gặp bầu Thanh Long từ sáu tháng nay. Y làm trung úy quốc gia, chỉ huy phó tiểu khu Đông Thới này. Đã thế, y còn muốn làm một ông bầu hát. Đĩ điếm trong thị trấn hầu như y hơi chán. ở các chị đào, y vừa khám phá ra một cái gì mới mẻ. Thế là y bỏ tiềng sang gánh hát Thanh Long, giao cho một con mụ sồn sồn tên gọi là Hai Nà đứng coi. Còn y, thỉnh thoảng y xuống ghe hát một lần thu tiền, và bàn soạn với mụ Hai Nà toàn chuyện buôn lậu, những là "chẽm", "bay", "pha", "chọn mồi dọn đất", "chèn địch" v.v...

Đào Bảy Phi thấy mấy đầu ngón tay chị hơi run. Con bé Linh của chị lại cựa mình thức giấc. Con bé vụt mở mắt. Chị nâng đầu nó dậy, sờ trán và âu yếm:

- Con tôi nóng quá! Con mơ cái gì đó, má cho con uống thuốc nghe!

- Không, con không... uống thuốc đâu. Má ơi, con nằm chiêm bao...

Bảy Phi gượng cười với lấy chén thuốc trên bệ cửa:

- Con đau, ráng uống thuốc cho mạnh, con!

Bé Linh nhấc tay khỏi làn võng ôm chầm lấy mẹ. Nó ngước mắt nhìn lên nóc đình, thỏ thẻ:

- Con nằm chiêm bao, con thấy lớn bằng chị Thơi vậy đó, rồi má cho con làm đào. Con làm thể nữ hay quá!

Con bé Linh vừa nói vừa thở. Bảy Phi nghe con kể về giấc chiêm bao của nó, lòng chị đau nhói. Chưa bao giờ chị nói với con là lớn lên chị sẽ dạy cho nó nghề hát. Chị định lúc nào kiếm được dư tiền, chị sẽ gởi nó về baà cô nuôi cho đi học. Chị không muốn cho con theo nghề của chị. Đời chị, từ dạo chồng chết, trong mười năm đi hát chị đã nếm biết bao khổ nhục. Người ta gọi chị là con Bảy Phi, con đào Bảy Phi ở gánh bầu Luông. Chưa có mấy ai gọi chị một tiếng nghe cho tử tế. Vậy mà con chị nó muốn theo nghề của chị. Đau ốm dường ấy, nó còn nằm mơ được sắm vai thể nữ. "Con ơi! Con có biết đâu lúc con đang chiêm bao, có đứa đã chửi má là một con đào hát đồ bỏ". Bảy Phi lẩm nhẩm trong bụng, và đôi mắt chị chớp lia.

Con bé Huệ Linh nói mấy câu, giờ lại ngủ thiếp đi. Bảy Phi kéo khăn phủ kín ngực con. Chị lo lắng nhìn gương mặt đỏ bừng của con, thở dài. Ngoài đường kép Văn Lâu đi đâu về, hỏi vọng vào:

- Chị Bảy ơi! Có còn thức không?

Bảy Phi lắng im một chút, mới đáp:

- Còn thức, chú Tư đấy hả?

Kép Văn Lâu đứng ghé ngoài cửa sổ, vịn chấn song ngó vào. Vóc người kép Văn Lâu cao lớn, tóc cắt thấp như kiểu tóc của bao kép hát khác. Cái áo xá xẩu Tiều anh mặc nó ngắn ngủn và không cài khuy, để lộ nguyên bộ ngực và sợi dây nịt da to bản thắt nơi bụng. Anh ta vừa vuốt giọt mồ hôi từ cổ rỏ dài xuống ngực vừa nói:

- Chị Bảy lo nghĩ gì coi mày mặt ủ ê quá vậy? Đi ăn cháo đi, bữa nay cháo ngon quá!

Dứt lời anh chép chép miệng. Thoáng bay mùi rượu. Bảy Phi thò tay đấm nhẹ vô vai Tư Lâu:

- Lại nhậu nữa rồi!

Tư Lâu cười:

- Cũng có, một chút đón gió thôi!

Và anh móc túi lấy ra hai đồng bạc:

- Chị Bảy ăn cháo, em có tiền lẻ đây!

Bảy Phi vội xua tay:

- Thôi, tôi không ăn đâu, khuya rồi!

- Con nhỏ bớt chưa?

- Nó cứ nóng liên miên.

Tư Lâu nói:

- Để mai em đi rước ông thầy thuốc bắc ngoài chợ vô bắt mạch cho nó. Thôi, em về ngủ, chị nghe!

Nói xong, kép Văn Lâu đi về nhà dài chợ. Bảy Phi tủi thân mình, chị tủi lây cả đến Tư Văn Lâu. Tư Lâu vốn là người đồng quê quán với chị, chịu phận em, nhận em làm chị nuôi. Năm nay đã hăm bảy rồi, Tư Văn Lâu vẫn chưa lấy được vợ, đêm đêm hát xong mò vào nhà lồng chợ mà ngủ.

*
* *

Mụ Hai Nà nằm sấp trong mui lái ghe. Trời oi bức, mụ mặc độc chiếc áo lót ngắn. Một đứa nào nhỏ quỳ hai gối, đấm lưng mụ thùm thụp. Chị Bảy Phi ngồi lặng thinh đằng sau lái. Vừa rồi mụ Hai Nà gọi chị lên nói câu chuyện. Bảy Phi ngồi đợi từ nãy giờ mà chẳng nghe mụ nói gì. Đứa đào nhỏ đấm lưng cho mụ xong bò ra ngoài. Bấy giờ mụ Hai Nà vặn mình một cái, xương sống kêu rôm rốp. Vẫn nằm nguyên, mụ ngóc đầu nói trỏ ra lái:

- Bảy Phi đó hả? Vô đây, vô trong mui, tôi có chuyện muốn nói.

- Tôi ngồi đây cũng được, thím nói gì thì nói đi!

Mụ Hai ngồi dậy, với trong góc một gói thuốc "Lạc đà" lấy một điếu. Vừa dộng điếu thuốc xuống sạp ghe mụ vừa nói với vẻ mặt sầu sầu:

- Tôi ngỏ mấy lời này với chị, tôi cũng bứt rứt trong bụng lắm. Bởi tôi có bổn phận coi sóc gánh hát cho ông Hai, ông Hai dạy sao tôi mần vậy... Vừa rồi ông Hai xuống thâu tiền, ông Hai có điều không đặng vừa ý. Ông Hai nói trong gánh hát còn nhiều đào kép có đầu óc thoái bộ...

Bảy Phi ngồi im. Chị biết. Lời đe dọa của Hai Long trong cái đêm nọ nay đã bắt đầu đem thực hiện với chị. Song chị vẫn ngồi yên, nghe mụ Hai Nà tiếp lời:

- Ông Hai nói hạnh kiểm của chị không được tốt!

Bảy Phi ngước mặt:

- Nói tôi à? Tôi làm cái gì xấu xa nhơ nhuốc mà bảo là tôi không tốt!

- Khoan đã, nghe tôi nói cái đã, chưa chi mà chị đã nóng rồi...

Và mụ hạ thấp giọng:

- Nè, phải hồi tháng năm, chị có đi theo đám biểu tình ở chợ Cần Thơ không?

Bảy Phi ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đáp:

- Có, có tôi đi. Hồi đó Chánh phủ không cấm, thiên hạ đi như tôi thiếu gì?

- Ông Hai nói cuộc biểu tình đó Ngô tổng thống cấm!

- Cái đó thì tôi đâu có biết được!

- Cô phải biết chớ. Đó... ông Hai trách cứ cái hạnh kiểm của cô xấu là ở chỗ đó đó!

Bảy Phi trề môi cười. Mụ Hai ngừng lại đốt thuốc, phà khói rồi tiếp tục:

- Gánh hát lấy danh ông Hai, ông Hai thường bảo phải là gánh hát quốc gia tiến bộ, đào kép nào có đầu óc cộng sản tức thị ông Hai không chứa. Mình là phận đào hát thì cứ lo hát, còn bày đặt theo đòi tụi du côn đi biểu tình làm chi. Biểu tình có té vàng té bạc gì cho mình đâu?

- Thím khôn còn tôi dại, thây kệ tôi!

Mụ Hai Nà kéo xổm đầu gối lên, mặt hầm hầm:

- Thì tôi đâu có cần, tôi nói cho con nào có phận thì con đó giữ mình.

Dứt lời mụ Hai Nà bỏ một miếng cau tươi vào miệng nhai rau ráu. Hai gò má đầy thịt của mụ giật giật. Bảy Phi vắt tay lên bánh lái ngó lảng ra sông. Mụ Hai Nà nằm xuống cả tiếng:

- Thơi ơi, bớ Thơi!

Đứa đào nhỏ tên Thơi nghe mụ gọi, rón rén bò vào. Nó lại quỳ gối đấm lưng cho mụ thùm thụp. Chị Bảy đứng dậy leo lên mui đi ra mũi. Trong ghe, mụ Hai Nà nói với theo:

- Bảy Phi, tôi nói vậy chị đủ hiểu rồi chớ? Về lo cụ bị quần áo rồi tới đây tính cái số tiền dư thiếu mấy đêm hát của chị nghe không?

Tuy hết sức giận, nhưng đào Bảy Phi cũng cảm thấy lo. Trước mắt chị hiện ra cuộc đời lênh đênh trôi nổi. Chị chụn bước, giọng nói hơi lạc đi:

- Thím Hai, tính đuổi tôi đi thiệt hả thím Hai?

Mụ Hai Nà lậu bậu:

- Không phải đuổi... Tôi không có quyền đuổi, ông Hai biểu sao tôi mần vậy!

Bảy Phi lựng khựng một chốc rồi bước xuống đòn dài. Lên tới bờ, chị gặp Tư Văn Lâu đứng ở đó với một số chị em đào kép. Tư Văn Lâu liền hỏi:

- Chị Bảy cãi lộn gì với con mẹ Hai Nà đó?

Bảy Phi bậm môi:

- Nó nói hồi tháng năm tôi đi biểu tình, là làm cộng sản, rồi đòi đuổi tôi ra khỏi gánh hát!

Đám đào kép nhao nhao:

- ở đây thiếu gì người cũng đi sao không đuổi. Mà con mẽ có quyền đuổi người ta à?

- Thằng chủ gánh ban quyền cho nó!

- Hai Long hả?

- Chớ ai!

Tư Văn Lầu hầm hầm:

- Cái con già đó hễ động tới là nó mở miệng "Ông Hai nói, ông Hai nói", chắc là nó bày ra chớ Hai Long nào.

Chị em đào đồng thanh:

- Tụi mình ráp xuống hỏi con mẽ coi?

Một chị can:

- Thôi mấy bà ơi, thôi đi. Nó muốn thải người nào thì người đó phải chịu, mấy bà làm như mấy bà là chủ gánh hát này vậy!

- Ơ, cái chị này có sợ thì đừng xuống. Còn có ai sợ nữa không?

Trừ chị kia bị mắng đứng im thin thít, còn tất cả nối nhau bước xuống đòn dài. Bảy Phi tựa lưng vào gốc dừa trên bờ nhìn theo. Chị cảm động, nước mắt muốn ứa ra. Đám đào kép kéo xuống rầm rầm trước mũi ghe. Mụ Hai Nà nghe tiếng, không kịp mặc áo, mụ lật đật chun ra. Đứng đằng sau lái, mụ ó ré:

- Làm cái gì om sòm vậy? Trưa mấy người không để ai ngủ nghê gì hết!

Tư Văn Lâu nói:

- Đâu có gì mà om sòm. Tụi tôi chỉ muốn hỏi tại sao có chuyện đuổi chị Bảy Phi?

- Tôi không biết, mấy người cứ lên bót quận mà hỏi ông Hai!

- Tụi tôi không lên. Hễ đuổi chị Bảy Phi thì tất cả đây thôi hát hết. Bà cứ lên tâu với ông Hai như vậy!

Mụ Hai Nà vành một tay chống nạnh quai chảo, một tay bơi bơi:

- Cha chả! Tư Lâu, mày tính cầm đầu làm phản phải không? Giỏi, mày giỏi... Mày liệu hồn, coi chừng ông Hai xuống, ông Hai chần đầu mày làm bốn miếng đa nghe!

Tư Văn Lâu hẩy ngực:

- Nhè thằng Lâu này mà bà hăm. Mà nè, nói thì nhớ lời nghe. Ông Hai Long không có lời ấy, bà nói để gieo thêm cái tiếng ác cho ông Hai phải không?

Mụ Hai bị Tư Văn Lâu bẻ, tức quá chửi răm lên. Tư Văn Lâu không chịu thua mấy tiếng. Sẵn cũi phơi trên mui ghe, mụ Hai Nà chụp một khúc nhằm Tư Văn Lâu phang vù tới. Tư Văn Lâu né khỏi, khúc củi trúng ngay chậu bông kiển trước mũi, rạn vỡ. Mụ Hai Nà vốn rất cưng cái chậu kiểng sứ đó. Thấy thế, mụ giậm cẳng kêu lớn:

- Bớ người ta ơi, bớ ông Hội đồng hương chánh ơi! Tụi nó phá ghe hát của ông Hai Long!

Đám đào kép cười rộ. Tư Văn Lâu kêu mọi người lên bờ, để mặc sức cho con mụ Hai Nà kêu trời kêu đất.

Tư Văn Lâu đi về với Bảy Phi. Dọc đường anh nói:

- Nè chị Bảy, khi không nó đuổi chị mà sao không đuổi những người khác!

Bảy Phi ngập ngừng:

- Biết đâu nó!

Tư Văn Lâu nghĩ cũng hơi lạ. Chính anh, anh cũng không rõ. Mấy hôm nay anh thấy Bảy Phi có gì hơi khác khác. Về tới gian đình, hai người vào ngồi bệt dưới gạch không nói với ai một câu nào. Chợt lúc sau Bảy Phi gọi:

- Chú Tư Lâu ơi!

Tư Văn Lâu ngửng đầu lên thấy mắt Bảy Phi chớp chớp liên hồi và thở rất dữ. Anh lúc lắc vai Bảy Phi:

- Chị Bảy, chị nói gì?

Rồi anh tỏ vẻ giận dỗi:

- Mấy bữa này có chuyện chi mà chị Bảy chớ cớ cho thằng Tư Lâu này biết!

Bảy Phi kéo vạt áo chùi mồ hôi trán. Tư Văn Lâu nóng lòng:

- Chị thiệt kỳ quá!

- Không... Tôi giấu chú làm chi. Tôi coi chú như em. Tôi... cực nhục lắm!

- Sao? Chị nói sao?

Bảy Phi bật tiếng lên nói:

- Thằng Hai Long... đêm qua nó mò vô định tính chuyện...

Không chờ nghe Bảy Phi dứt câu, Tư Văn Lâu đứng ngay dậy:

- Bà mẹ nó, tôi sơ ý quá, phải tôi biết tôi rình chém cho nó một dao!

- Chém nó đặng ở tù!

- Tù thì tù, nhứt định chém. Thứ đó chết có cớ, không ai bỏ tù được mình!

Bảy Phi thở dài, cắn cắn môi ngó mông ra sông. Tư Văn Lâu bước tới bước lui. Bụng anh không yên, chỉ sợ Bảy Phi rồi đây thế nào cũng bị đuổi khỏi gánh hát.

*

**

Chuyện lôi thôi xảy ra trong buổi trưa ở ghe hát lọt tới tai quan Hai Long. Mụ Hai Nà định chuyến này dựa hơi chủ, thế nào kép Văn Lâu cũng bị mụ cho một trận. Nhưng Hai Long thì lại có ý lo. Y sợ đào kép làm reo nghỉ hát, bèn hoãn việc đuổi Đào Phi. Biết tình cảnh Bảy Phi có con đau, y dặn mụ Hai Nà: "- Lương tháng đã bãi bỏ, nó hát đêm nào tính tiền đêm ấy, còn như nó có hỏi mượn tiền trước thì nó hết rồi, nghe chưa?".

Mụ Hai Nà hơi thắc mắc: "- Nhưng bấy lâu nay đào kép đứa nào cũng mượn được?".

Hai Long nói: - Thì có khó gì, tới hỏi mượn cứ nói là hết rồi.

Mụ Hai Nà dạ dạ, nghe theo.

Thực vậy, chị Bảy Phi mấy bữa nay nghỉ hát, vì bệnh con Huệ Linh ngày một nặng thêm. Mà đêm nào nghỉ hát thì không lãnh được tiền. Con bé sốt li bì. Ông thầy thuốc bắc chẩn mạch thảo đơn, nhưng Bảy Phi không có tiền mua thuốc. Mấy ngày đầu, anh chị em đào kép góp cho chị được một số tiền, nhưng không bao lâu cũng hết. Anh chị em ai cũng nghèo, đâu có mà giúp mãi. Túng thế quá, Bảy Phi phải đến hỏi mượn mụ Hai Nà. Gặp mụ ở đầu đòi dài, chị mới mở miệng hỏi mượn, mụ đã nói:

- Thôi, hết rồi, không còn đồng nào đâu! Trong sổ nợ chị còn thiếu ba chục...

- Thím Hai, con nhỏ tôi đau quá. Lâu nay tôi mượn tôi trả đều đủ...

- Không phải tôi sợ chị giựt, nhưng... tôi không còn, tôi không có quyền. Chị hỏi ông Hai Long ấy!

Bảy Phi bóp bụng năn nỉ: "Thím Hai... Thím Hai..." nhưng mụ Hai Nà trỏ tay chỉ lên bờ:

- Ông Hai đương ở trên quán cà phê kia, lên đó mà hỏi ổng!

Dứt lời mụ Hai ngoe ngoảy bỏ đi. Bảy Phi đứng lần chần, nửa muốn tới quán cà phê, nửa muốn bỏ về. Tới quán gặp Hai Long ư? Chị thấy cực nhục quá. Sau cái đêm hôm nọ, chị đã không muốn ngó mặt y rồi. Nhưng nghĩ đến lúc quay về gian đình, nhìn cảnh con đau nằm liệt trên võng, lòng chị xót đau. Trước mắt và bên tai chị, con Huệ Linh nằm im ỉm, hơi thở khò khè bởi khí nhiệt bốc lên mũi. Lòng thương con khiến chị thắng nỗi sợ nhục nhằn. Chị đi lên quán.

Quả là có bầu Thanh Long ở trong quán thật. Y đang ngồi một mình một bàn, ăn uống. Thấy chị vào, y giả tảng không biết, cứ điềm nhiêm cầm thìa khuấy sữa. Người chủ quán hỏi Bảy Phi:

- Ăn gì? Cà phê hay hủ tiếu?

Chị lắc đầu và bước đến trước bàn bầu Hai Long. Y vẫn uống sữa sì sụp, hình như cốt để Bảy Phi phải lên tiếng trước.

- Thưa ông Hai...

Bầu Thanh Long buông thìa, ngửng đầu lên:

- A... Cô Bảy Phi, chuyện gì đó?

Bảy Phi nói:

- Thưa ông Hai... con nhỏ tôi đau...

- Con của chị đau? ạ... té ra vậy...

Bảy Phi muốn điên người vì cái tiếng "ạ... ạ" của y. Cố nén, chị tiếp:

- Tôi muốn... hỏi mượn của gánh hát một số tiền chạy thuốc cho con. Hồi sáng... tôi có hỏi thím Hai, nhưng...

- Nhưng sao?

- Thím Hai nói hỏi ông!

Bầu Thanh Long lặng lẽ bưng ly sữa uống. Gần cạn ly, còn độ hai lóng tay, y tắc lưỡi một cái. Con chó tây nãy giờ nằm phục dưới chân y, nghếch mõn lên, Bầu Thanh Long nhễu từng giọt sữa xuống. Con chó mỗi lần hứng một giọt thì khoan khoái thè lưỡi liếm một vòng. Bầu Thanh Long làm xong cái việc ấy, vẫn để mặc Bảy Phi đứng đó, y nói với con chó:

- Mêđo, mày giỏi lắm, mày uống sữa cho quen, vài bữa nữa tao cho mày tập nếm rượu, nghe chưa... mậy, Mêđo!

Hồi sau, y làm tuồn như mới nhớ ra có Bảy Phi ở trước mặt:

- Té ra cô tới hỏi mượn tiền. Rủi quá, kỳ này tiền quỹ đâu có sẵn. Còn mấy ngàn đồng thuế du hí ráo nạo rồi!

- Ông Hai, cho tôi mượn đỡ một trăm, tôi không xài gì, tôi lo cho con nhỏ của tôi, cuối tháng tôi sẽ trả mà...

- Tôi nói thiệt. Tôi bảo có là có, bảo không là không. Thuở giờ tánh tôi vậy.

Bảy Phi toát mồ hôi khắp người. Chị biết tâm địa của y rồi. Chị biết thấu cả lời lẽ thoái thác của y. Như thuế du hí, quả là gánh nào cũng phải nộp, nhưng y thì chưa hề phải chịu món thuế đó lần nào cả. Dẫu rằng chị rất đỗi thương con, song giờ thì chị không còn lòng nào chịu nổi, đành chào y một tiếng rồi đi.

Bầu Thanh Long lấy thuốc thơm ra hút. Y thở phà một luồng khói rồi niểng đầu dưới vầng khói, nhìn bóng Bảy Phi lủi thủi bước ra khỏi quán.

... Sáng hôm sau, Bảy Phi dậy sớm, trong lúc đào kép còn ngủ. Mượn không được tiền, Bảy Phi cùng đường, đành nhờ Tư Văn Lâu giúp chị đưa con Huệ Linh về nhà bà cô chị ở Long Thạnh để chữa chạy. Đáng lẽ thì chị đi nhưng vì còn thiếu món nợ cũ phải ở lại hát.

Tư Văn Lâu đã thức dậy đi mua vé đò. Bảy Phi chốc chốc rờ trán con, chau mày. Con Huệ Linh không ăn uống gì được, chân tay gầy nhom. Lúc mới bắt đầu đau, nó vẫn thỏ thẻ nói chuyện với chị, mấy ngày rày nằm mê man không mở miệng kêu má một tiếng.

Tư Văn Lâu đi ngoài bến đò về. Anh nói với Bảy Phi:

- Đò máy hết chỗ, chỉ còn đò đạp thôi. Em mua vé rồi!

Bảy Phi lần túi áo:

- Chú Tư ăn cái gì chưa?

- Ăn rồi!

Giờ phút sắp xa con, Bảy Phi y chừng như lâu lắm mới gặp lại con. Chị rơm rớm nước mắt. Lòng chị là lòng của một người mẹ khốn khó. Có đứa con bên mình, nó an ủi Bảy Phi rất nhiều trong những ngày trôi dạt. Mười năm qua sống bên chị, nó ngoan lắm, biết vâng lời và yêu chị lắm. Trong những lúc mê sảng nó kêu "Má ơi, má ơi". Rõ là nó không muốn xa chị. Chị lại càng không khi nào muốn xa nó. Nhưng không muốn làm sao được? Trước kia vợ chồng Bảy Phi mong mỏi đời nó sau này được sung sướng, nên chọn cái tên Huệ Linh sáng sủa mà đặt cho nó. Vậy mà tới nay sao chưa thấy nó được sung sướng gì. Từ cái ăn cái mặc, đều thua sút con cái thiên hạ.

Trong lúc Bảy Phi đứng tần ngần, Tư Văn Lâu lo đem chiếu và quần áo của con Huệ Linh gom lại một chỗ. Xong, anh cởi áo ngồi hút thuốc.

Bảy Phi căn dặn Tư Văn Lâu:

- Chú Tư về gặp cô tôi nói là mai hoặc mốt tôi về, bây giờ bận hát chưa về được. Chú đi chắc khoảng xế thì về tới vàm Long Thạnh.

- Được rồi, chị cứ yên bụng!

Và anh đùa:

- Thôi, chị có Lưu Bị bây giờ thì Lưu Bị đi. Một chút nữa không còn ai ở đây mà nghe!

- Không, tôi khóc hồi nào đâu!

Ngoài bến đã nổi lên tiếng tù và tu tu giục khách. Tiếng tù và sáng nào Bảy Phi cũng nghe, đã quen tai lắm rồi. Nhưng sáng nay tiếng ấy rúc lên đột ngột, nhẫn tâm quá. Chị bước lại võng bồng con lên, áp đầu nó vào mặt chị. Hơi thở của con bé hà vô mặt chị nóng hổi. Mấy giọt nước mắt của Bảy Phi lăn xuống ngấn má héo gầy của con gái, chốc sau đã khô se lại.

Tù và dưới bến thổi lượt thứ hai.

Tư Văn Lâu đỡ lấy con bé Huệ Linh trên tay Bảy Phi, vội vàng nhảy xuống mũi đò. Chiếc đò đạp đã tháo đỏi. Mấy bác thợ đạp nhấn nhấn chân lên bộ trục hình bánh khế. Đò chạy lừ lừ. Bảy Phi vẫn còn đứng trên bờ ngó theo. Chiếc đò đạp khuất qua vịnh.

Xa xa ngoài sông cái vắng lặng, chỉ có mấy cánh buồm trắng chạy veo veo trong gió chướng.

*
* *

Đêm nay gánh Thanh Long diễn vở San Hậu. ở cái thị trấn nhỏ này, người đi xem hát lặn lội ở miệt ruộng lên từ ban chiều. Mặt trời chưa lặn, trống đã đánh thòm thòm xen cùng tiếng chập chỏa khua rộn ràng. Chung quanh nhà lồng chợ và dọc hè đình, các hàng cháo gà, chè đậu, nước sâm thắp đèn lố nhố. Quang cảnh thị trấn đêm có hát dẫy đầy cái không khí náo nhiệt.

Đào kép coi họ cũng có phần tươi tỉnh. Qua một ngày nắng nóng, ngủ dật ngủ dựa, vợ con nheo nhóc kêu la, nhưng đêm đến nghe tiếng trống khua, đào kép như nghe thấy tiếng gọi thân yêu của nghề nghiệp.

Người thầy tuồng nói với Bảy Phi:

- Thoa thêm một chút son ở gò má nữa, còn lợt lắm. Bữa nay chị nhớ chú ý cái bộ tịch lúc ở chùa nghe chưa?

Bảy Phi thoa thêm son, soi gương. Lòng chị trĩu nặng âu lo, vì kép Văn Lâu đi vẫn chưa về. Không hiểu cớ gì, mà hai ngày rồi Tư Lâu vẫn biệt tăm. Không biết chừng con nhỏ lại đau nặng, hay có chuyện gì xảy ra dọc đường cũng nên. Trọn ngày nay, Bảy Phi đứng ngồi ngóng đợi. Nhưng đêm đến, việc hát vẫn phải hát. Tối nay chị lại sắm vai Thứ Hậu. Vai Linh Tá đáng lẽ do kép Văn Lâu đóng, nhưng Văn Lâu chưa có mặt. Mụ Hai Nà hồi chiều lại nổi lên một trận chửi. Bảy Phi khi hơi đâu để ý tới, là vì chị đang lo nỗi lo của chị. Mụ chửi thì mụ cứ chửi, chẳng hề hấn gì ai. Cuối cùng mụ Hai Nà phải chạy kép khác thay Tư Văn Lâu.

Đã tới giờ ra tuồng. Màn động cộp cộp.

Lớp Tạ Thiên Lân soán ngôi Tề Vương, trù định giết bà Phạn Thứ hậu đang có mang cho tuyệt tự nhà Tề, nhờ có Đổng Kim Lân và Linh Tá cứu được Thứ Hậu và hoàng tử. Màn vừa hạ, khán giả vỗ tay hoan nghênh. Bảy Phi đi vào, lòng chị nghĩ đâu đâu. Tiếng vỗ tay mang tới cho chị một ít niềm vui, nhưng xen với nỗi lo lắng, hóa ra một tâm trạng rối rắm, lộn xộn.

Vào tới buồng, bất đồ Bảy Phi thoáng thấy bóng Tư Văn Lâu. Chị mừng quá kêu lên:

- Chú Tư, chú Tư mới về hả?

Tư Văn Lâu nhác thấy Bảy Phi thì chạy vụt tới:

Chị Bảy ơi...

Giọng nói của anh kép hát này hôm nay thật đau đớn quá. Trông đôi mắt anh đỏ thật. Đào Bảy Phi cảm thấy chân mình như bị ai nhấc bổng khỏi đất. Chị bíu lấy tay Tư Văn Lâu, sảng sốt:

- Chú Tư, chú Tư! Chú nói gì?...

Giọng Tư Văn Lâu đứt quãng:

- Em về tới Long Thạnh. Đêm đó con Huệ Linh phát nóng kịch liệt, đến một giờ khuya thì không chịu nổi. Miếng bí đau của bà cô đắp trên ngực nó y như là bị luộc chín...

Bảy Phi giậm cẳng kêu trời. Chị bắt đầu khóc. Cái tiếng khóc nức lên trong cổ họng chưa thoát thành tiếng, nghe đáng sợ hơn tiếng khóc lớn. Vừa khóc, Bảy Phi vừa gọi tên con. Hết gọi tên con, chị lại kêu tên Tư Văn Lâu. Đào kép bu tới. Nhiều chị đào mủi lòng, ngồi ôm vai Bảy Phi mà khóc theo. Mụ Hai Nà chạy vào. Mụ lính quýnh, bởi lẽ màn kế đã động, và tiếng khóc thì lại lớn quá. Mụ tới bên Bảy Phi dịu giọng:

- Tới màn hai rồi. Sau đây mặc sức chị khóc. Bây giờ chị không ra, thiên hạ đòi tiền thì tôi biết ăn nói làm sao?

Bảy Phi đang trong cơn đau, chị đâu có nghe mụ nói gì. Tư Văn Lâu nạt lớn:

- Con người ta chết. Hát hát cái gì?

Tư Văn Lâu vừa nạt xong, bất ngờ anh bị một cái bạt tai từ phía sau giáng vô gáy như búa bổ. Tư Văn Lâu ngã chúi. Vừa gượng lại được, anh quay lại, thấy quan Hai Long đã đứng sững ở sau lưng từ hồi nào. Đánh Tư Văn Lâu rồi, Hai Long vò vò tay. Tư Văn Lâu đầu bừng nóng. Lập tức anh sắn tay áo. Ông thầy tuồng hoảng hồn nắm tay anh kéo lại.

Bầu Hai Long day lại chỗ Bảy Phi và mấy chị đào hát lớn tiếng:

- Đám hát hay là đám ma? Tụi bay tính trù cho rã gánh hát của tao phải không?

Và y nói với Bảy Phi:

- Còn Bảy Phi, sao? Ráng lên coi!

Mọi người đều lo lắng nhìn Bảy Phi. Trông chị thiểu não quá. Chị đăm đăm nhìn Hai Long không nháy mắt. Bỗng nhiên chị vén tóc đứng phắt dậy:

- Được, để tôi ra!

Mụ Hai Nà khỏe được mối lo, hít hít mũi. Bầu Hai Long rống lên với ấy chị đào:

- Còn ngồi đó hở mấy con đĩ khóc giùm? Đi, ai muốn khóc bồng bế ra ngoài đường mà khóc!

Bầu Hai Long nhìn theo Bảy Phi bước ra sân khấu, y nhếch miệng cười:

- Sao không giỏi mà làm tàng nữa đi...

Ngoài sân khấu đàn đờn vẫn dạo bài oán. Bản nam ai kéo tới lui mấy lượt. Thằng nhỏ động màn mỏi tay vừa quẳng cái chày vồ, bây giờ nó lại chụp lấy dộng rầm rầm.

Màn kéo lên. Khán giả sửa bộ ngồi, chăm chú...

Cảnh Đổng Kim Lân phò Hoàng tử với Thứ hậu chạy trốn, có cả bà Tam cung Nguyệt Kiểu. Ra khỏi hoàng thành, Thứ hậu và Nguyệt Kiểu chạy lạc tới một kiển chùa. Tên sư đầu đà chùa San Hậu nửa đêm mò vào thổi tắt đèn lưu ly trên bàn phật. Dưới ánh sáng khi mờ khi tỏ, đào Bảy Phi trong vai Thứ hậu với gương mặt tuyệt đẹp, lộ đầy vẻ đau thương phẫn nộ. Lòng trung trinh của Thứ hậu đã thắng hành động tà dâm của tên sư hổ mang.

Màn vừa hạ, tiếng vỗ tay nổi lên tưởng chừng như vỡ rạp. Có tiếng đàn bà con gái khóc rấm rứt bên dưới. Mấy người ngồi ở hàng đầu là giới mộ điệu ở thị trấn khen:

- Tụi tôi coi mấy lần, chưa có đêm nào Bảy Phi sắm Thứ hậu đặc biệt như đêm nay!

- Hay lắm, thưởng cho Bảy Phi hai chục đây!

- ủng hộ mười đồng!

Nhiều người ném tiền lên. Mụ Hai Nà ở trong buồng phục phịch chạy ra, hai tay bưng cái tráp trổ hình mấy cành huê. Mỗi lần lượm tiền bỏ vô tráp, mụ cúi mình chào khán quan một cái.

*
* *

Đêm hát tan rồi. Về dường ai cũng khen cái chị đào sắm vai Thứ hậu, và định bụng sẽ coi lại một lần nữa cho thỏa. Nhưng đêm sau và những đêm sau nữa, người ta không gặp lại đào Bảy Phi trong buổi biểu diễn của gánh Thanh Long lần nào cả. Nghe đâu là sau đêm hát đó chị đã hóa điên. Người ở chợ học lại rằng đào Bảy Phi bỏ tóc xõa đi suốt ngày ngoài đường nắng. Thoáng thấy bóng sĩ quan quốc gia thì chị áp đến chửi thậm tệ. Bọn sĩ quan rút súng thì chị bỏ đi.

Hễ gặp những em gái dọc đường, nét mặt Bảy Phi lộ đầy vẻ mừng rỡ kêu lên:

- ủa? Con Linh cưng của má, tối nay con có sắm vai thể nữ không hở con?

Đứa bé gái nào lần đầu gặp chị đều hoảng chạy. Nhưng về sau chúng thấy chị không đánh đập gì lại tỏ vẻ âu yếm, thì dần dần cũng đâm dạn.

Người lớn ít ai dám đến gần chị ngoài kép Văn Lâu. Mỗi lần Bảy Phi gặp kép Văn Lâu, người ta thấy chị trở nên hiền hậu. Chị đứng tằn mằn cài lại hàng cúc áo xá xẩu cho kép Văn Lâu và lừ đừ đưa mắt nhìn anh. Đôi hàng lông mi chị đẫm ướt, đọng lại nơi khóe bao nhiêu là nước mắt.

hết
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #2  
Old 05-15-2004, 02:21 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

Ký ức tuổi thơ





Điệu múa chấm dứt

Các em gái nhỏ vừa múa xong, mặt đỏ bừng. Các em đưa tay vuốt mồ hôi lấm tấm rịn ra nơi trán và chạy về phía cô giáo. Cô giáo quàng các em vào lòng. Cô giáo tuổi đâu chỉ chừng mười chín. Dáng người mảnh dẻ, cô có mặt đen sáng thông minh và hơi rụt rè như mắt trẻ con. Cô thuộc vào thế hệ giáo viên trẻ của cách mạng chúng ta, trẻ như ngôi trường mới dựng lên giữa những xóm làng giải phóng này.

- Đã đến giờ học, các em vô lớp đi! - Cô giáo nói

Đám trẻ ríu rít đi vào lớp. Chúng ngồi trên những chiếc ghế dài làm bằng những cây đước lột vỏ, chôn chân hẳn xuống đất. Bàn viết của lớp học cũng là gỗ đước xẻ ra, bào láng. Cô giáo cầm quyển sách, đợi cả lớp trở lại trật tự. Cô nói:

- Hôm nay chúng ta viết chính tả. Các em chuẩn bị!

Đám trẻ vội vàng mở nút mực, lật vở ra. Chúng sửa bộ ngồi lại cho ngay ngắn. Có đứa cầm bút liền, ưỡn thẳng lưng, với cái tư thế hễ cô giáo đọc là nó sẽ viết ngay. Có đứa lại vòng tay trái giữ lấy quyển vở như sợ lúc viết quyển vở sẽ bay đi vậy. Lại có tiếng ho khúc khắc, tiếng ngòi bút lọc sọc chấm vào các bình mực.

Cô giáo chờ cho mọi thứ tiếng nói im đi, mới lấy giọng trang nghiêm đọc:

"Lịch sử trường em"

Đó là đầu đề của bài chính tả. Những mái đầu cúi xuống hí hoáy viết. Đợi cả lớp viết xong đầu đề, cô giáo đọc tiếp: "Sau ngày giải phóng, trường học xã em đã được dựng lên...".

Rồi cô lại đọc:

"Trường của chúng em là một gian nhà rộng lợp lá. Bàn ghế trong lớp không lấy gì làm sang trọng, nhưng cả thảy đều ngăn nắp, sạch sẽ. Các chú bác nông hội xã đã đắp nền trường và đóng nên những chiếc bàn. Nền trường trước kia vốn là một bãi đất bỏ trống, tại đó đã có những cô bác của em ngã xuống vì sự nghiệp cách mạng. Trên cái nền đất này là trường học thân yêu của em, mấy năm trước là một nơi đầm đìa máu đỏ..."

Tiếng cô giáo vẫn cất lên, trong trẻo và đều đặn giữa buổi trưa tĩnh mịch. Cô sắp đọc tiếp đoạn kế. Thình lình giữa lớp học bỗng bật lên tiếng khóc nức nở. Một em bé gái quãng chín tuổi ngồi ở đầu cái bàn thứ hai đang cắn môi, nước mắt chảy ướt cả hai gò má. Cô giáo nhìn đứa học trò của mình. Cô hiểu. Nó tên là Hà. Cả lớp học đều nhìn về phía đôi vai nhỏ của Hà đang rung lên.

Bé Hà bây giờ không viết thêm được chữ nào nữa. Cây bút em cầm trong tay run quá. Mắt em nhòe ướt. Em tưởng như mình không phải ngồi giữa lớp học mà đang ở giữa cảnh tượng hỗn độn ở nhà em cách đây hơn ba năm. Em đang nhìn thấy lại một buổi sáng mùa nước, những tên lính xông vào nhà, súng lăm lăm trong tay, lục lọi. Ba em và chú Sáu lối xóm đứng ở ngay của buồng thông vào bồ lúa nhà em. Khi bọn lính xông tới, em thấy ba em và chú Sáu xô đám lính, đá chúng ngã lật. Vừa lúc đó em ngó thấy một chú lạ từ bồ lúa phóng vọt ra, chạy biến. Lũ giặc kêu lên:

- Nó kia, nó kia!

Nhưng ba em và chú Sáu đã cản chúng lại. Ba em lia mạnh một cây cột chèo khiến bọn lính té sụm. Bấy giờ người lạ mặt trong nhà em đã chạy thoát. Lúc ấy em không biết người đó là ai, và cũng không biết người đó đã núp trong nhà em từ bao giờ. (Cách đây vài tháng có một chú trên tỉnh tới thăm nhà em, đi theo có mấy anh bộ đội bảo vệ đeo súng các bin. Hóa ra chú đó chính là người lạ mặt đã tới nhà em và được ba em cứu thoát). Sau khi chú ấy chạy khỏi, bọn giặc bắt ba em và chú Sáu. Chúng lôi hai người ra khỏi nhà. Mẹ em chạy theo. Chúng giơ báng súng đập mẹ em ngã ngồi xuống đất. Lát sau em nghe từ bãi đất bỏ hoang (tức là chỗ em đang ngồi học bây giờ) vọng lại tiếng thét của ba em, rồi tiếng kêu nghe hự hự, tiếng chửi rủa... Không nghe súng nổ. Lúc má em cõng em lội tới miếng đất bỏ trống thì bọn giặc đã bỏ đi. Ba em và chú Sáu nằm ngửa ra trên vạt cỏ ngập nước. Lúc vớt lên, môi người nào cũng có dấu răng nghiến vào đến ứa máu, và tay người nào cũng ghì chặt một mớ cỏ ống. Cạnh đấy chúng cắm hai cây sống lá dừa nước, một cây treo hai trái tim còn nhểu từng giọt máu và một cây có kẹp một tấm giấy. Sau này lớn lên em mới rõ tấm giấy đó viết đại ý nói rằng ai chứa chấp Việt Cộng sẽ bị giết y như vậy.

... Bà con lối xóm khiêng ba em và chú Sáu về. Dạo đó mùa nước đang dâng, nhà em bị ngập lênh láng. Mẹ em ôm em ngồi trên bộ chõng tre. Bà nội em nằm dài trên chõng thở coi rất mệt. Mấy người trong xóm đứng dầm chân dưới nước ghép những tấm ván đóng hòm. Đêm đến, nhà em thắp những cây đèn cầy trắng, cháy leo lét. Mẹ em nấu nước tắm rửa cho ba em, mặc cho ba em một bộ quần áo vải xiêm đen mới. Em nhớ rõ tiếng khóc thê thảm của mẹ em và tiếng búa đóng hòm "cum... cum" cứ dội lên, vang ra tận mặt sông. Khi người ta đỡ ba em đặt vào hòm thì mẹ em bế xốc em đến bên hòm. Thấy mẹ khóc, em cũng khóc, nhưng lúc ấy em chưa biết đau đớn. Lúc ấy em chỉ thấy lòng buồn vô hạn. Em tưởng chừng ba em đi đâu rất xa và sẽ lâu về lắm. Nhất là khi người ta khiêng nắp hòm đậy lại thì em khóc thét, không chịu. Sao người ta bỏ ba em vào đó, ngột chịu gì nổi!...

Thế là cuối cùng nắp hòm vẫn nặng nề đậy lại, che khuất hẳn, không để em ngó thấy ba em nữa. Người ta đặt lên hòm mấy chén cơm, mấy quả trứng đã xé thành miếng xếp trên cái đĩa.

Em còn nhớ những cây nhanh cắm trong cái hũ nhỏ đựng đầy gạo cứ cháy mãi, tàn nhang rơi xuống, rơi xuống... Nhang cháy gần hết, người ta lại cắm thêm nhang mới. Tàn nhang rơi xuống phủ đầy cái lọ đựng gạo. Sao mà em nhớ rõ đến thế, cái bao nhang vẽ hình phật bà ngồi trên tòa sen bên ngoài có bọc giấy kính mà bà vẫn thường cho em để chơi, và cái mùi nhang cứ xông ngát lên. Mấy năm qua rồi em vẫn phảng phất ngửi thấy cái mùi nhang đó. Em nhớ mãi lúc người ta sắp đưa ba em ra ruộng. Tiếng chân lội bì bõm trên nền nhà ngập nước, tiếng kĩu kịt của chiếc đòn khiêng bị sức nặng của cái hòm đè lên, tiếng mẹ em khóc, tiếng bà em gọi tên ba em ra kể lể...

Ngòi bút của bé Hà vẫn gí lại một chỗ trên trang vở. Ký ức tuổi thơ thật đã khắc những nét quá sâu. Chỉ có khi nào chết đi, em mới có thể quên những cảnh ấy. Em cố nén tiếng khóc cứ dâng lên trong cổ nghèn nghẹn. Em không thấy ngòi bút đã nhểu một đốm mực xuống trang giấy. Em chẳng thấy gì nữa, ngoài cảnh chết của cha em, cảnh cái đêm mùa nước lụt lội ấy. Rõ ràng là lúc mọi người đưa ba em ra huyệt, em đã thiu thiu ngủ trên vai mẹ. Mẹ em và em ngồi trên xuồng. Trong giấc ngủ chập chờn, em nhận ra những giọt nước mắt nóng hổi của mẹ em rơi xuống má em. Trước mặt em, em chỉ thấy vầng khăn trắng mẹ em đội suốt từ trưa đến tối ngày hôm ấy. Em chỉ trông thấy vầng khăn trắng đó và bầu trời tối đen mà thôi. Tới lúc chiếc xuồng dừng lại bên một cái gò đất hiện lờ mờ giữa ruộng thì em đã ngủ thiếp đi... Lúc tiếng giầm cọ vào be xuồng lụp cụp, em giật mình tỉnh dậy. Nằm trong tay mẹ, em mở mắt nhìn thấy những vì sao trên trời... Mẹ và em đang trên đường về nhà. Mọi người đã đặt ba em xuống huyệt rồi. Cho tới bây giờ em hãy còn hết sức ân hận. Em tự giận mình quá đỗi. Bên tai em lúc nào cũng có một tiếng nói văng vẳng: "Sao lúc đó lại ngủ đi như thế, hở con bé dại dột kia?" Đáng lẽ em phải thức, bởi vì giờ phút ấy ba em đã xa em mãi mãi. Thế là em không nhìn thấy cảnh mọi người đặt ba em xuống lòng đất, em không được chính tay cầm đất ném xuống huyệt dù chỉ là một hòn đất nhỏ, như mẹ em và bà em đã ném xuống. Bà nội bảo rằng làm như vậy để cho ba em ở dưới đó không cảm thấy lạnh lẽo. Hòn đất mang hơi ấm của người thân sẽ ở bên cạnh mà sưởi ấm người chết. Em rất hối hận vì đã không đặt được một hòn đất xuống bên chỗ ba em, để ba em nhớ em và đêm đêm vẫn tưởng như có em bên cạnh, như ngày nào em còn nằm ngả đầu lên cánh tay lực lưỡng của ba em mà ngủ. Em cứ hối tiếc mãi về chuyện đó. Và để chuộc lại lỗi lầm do giấc ngủ tai hại kia gây ra, em đã trồng lên ngôi mộ ba em một bụi bông trang. Em làm việc đó một cách kín đáo, lặng lẽ, đến mẹ và bà cũng không hay. Em bứng bụi bông trang ngay trước cửa nhà, cái bụi bông trang mà bà nội em rất quý, thường tưới nước chăm sóc để hái bông cúng bàn thờ Phật. Sáng hôm ấy bà và mẹ đi cấy, em đem bụi bông ra mộ ba em. Ngồi tại ngôi mộ, em suy nghĩ mãi, chẳng biết nên trồng sao cho hợp. Cuối cùng em trồng bên cạnh tấm bia, chỗ đầu ba em nằm. Em nghĩ rằng trồng chỗ ấy là phải hơn cả. Chừng nào bụi bông trang lớn lên, nó sẽ che mát cả ngôi mộ. Em bới đất bằng con dao phay, bới khe khẽ... Em không làm động mạnh, vì em cứ có cái cảm giác ba em bên dưới đang ngủ. Cần để cho ba ngủ được yên giấc. Trồng xong bụi bông trang, em xách gầy xuống mương múc một gầu nước. Tay phải em cầm gầu tưới, tay trái em xòe năm ngón tay ra chặn cho nước đừng đổ ào xuống để nước chỉ rưới nhẹ lên ngôi mộ. Em sợ nước thấm vào người ba em ở dưới. Sau khi trồng xong bụi bông, em ra về, cảm thấy lòng vui và nhẹ nhõm. Tất nhiên là trước lúc về em có bắt chước bà nội, khấn thầm trong bụng cầu cho ba em ngủ yên và hãy phù hộ cho mọi người ở nhà được luôn luôn mạnh khỏe. Em đi ra khỏi mộ vài bước thì ngoảnh lại nhìn. Bụi bông trang mới trồng, lá còn loang loáng nước đang khẽ rung trước làn gió sớm như hứa hẹn với em rằng nó sẽ sống, sẽ lớn lên và sẽ tỏa bóng mát cho ba em khỏi nắng. Từ đấy đến mùa nắng còn tới năm bảy tháng nữa. Bụi bông thế nào cũng lớn kịp, trước khi cánh đồng hứng lấy những cơn nắng lửa :Di chang. Em vừa ý với bóng mát của bông trang hơn cả. Nó không thưa mà cũng không rợp. Chắc chắn bóng mát của cây bông trang tỏa lên ngôi mộ sẽ vừa phải, nhẹ nhàng chớ không nặng trịch, đè xuống. Em thật không muốn có thêm cái gì đè xuống nữa, bởi vì tấm ván hòm mà em thấy trong đêm nọ cùng với lớp đất phủ lên trên đó đã đủ làm cho ba em ngột ngạt lắm rồi!

Rủi ro thay lần ấy em vừa về tới nhà thì bà em đã đón hỏi ngay:

- Ai bứng bụi bông trang hở Hà?

Em cúi mặt xuống và đáp:

- Con...

- Trời ơi, bứng đi làm gì? Bụi bông trang của bà trồng để hái bông cúng Phật, sao con lại bứng đi?

Em nói giọng ấp úng:

- Con... con quên hỏi nội... nhưng con bứng nó đem ra trồng ngoài mả của ba con. Nội ơi, mả của ba con bị nắng lắm, đất nó cứ nứt ra...

Em nói thế mà cảm thấy muốn khóc. Bà nội đứng ngây ra mất một lúc, rồi những giọt nước mắt lăn xuống ngấn má nhăn nheo của bà. Bà lập cập bước tới ôm em vào lòng, vừa khóc vừa dỗ em cũng đang nức nở:

- Thôi, thôi... nín... nín... bà không rầy nữa. Tội nghiệp cháu tôi.

Đoạn bà kêu:

- Hòa, Hòa, mày sống khôn thác thiêng, về đây mà coi cảnh con mày đây này...

Rồi bà nội em đem chuyện ấy kể khắp xóm. Mấy thím có tuổi và mấy bà lão luôn chắc lưỡi nói: "Trời nào, Phật nào mà không động lòng cho được!".

Mẹ em thì suốt đêm hôm ấy cứ ôm chặt em vào lòng. Em nằm rất lâu, không ngủ. Có tới hai tiếng đồng hồ sau, em hé mắt nhìn vẫn thấy mắt mẹ mở thao láo. Em biết mẹ thương và nhớ ba lắm. Ngày ba em còn sống, mẹ em và em thấy như sau lưng mình đang có chỗ dựa thật vững chắc. Sau lúc ba em chết, mẹ và em không còn chỗ dựa đó nữa.

Mẹ con thật bơ vơ. Thoạt tiên em chợt nhận ra mình thiếu một cái gì rất lớn. Điều rất giản dị là ba em không còn nữa. Mẹ em như trải qua một cơn bệnh nặng, cả tháng sau mới gượng dậy được. Bây giờ muốn có củi chụm, mẹ em phải chống xuồng vào rừng đốn lấy tới tối mịt mới về. Lúc trước ba em trưa đi là chiều về đầy một xuồng củi đước, và việc của mẹ em là chỉ tiếp ba em đỡ từng cây đước chất lên bờ thôi. Hoặc chẳng hạn như mùa mưa tới, nhà cần xóc nóc lại cho khỏi bị dột, bây giờ mẹ cũng phải leo lên đón thấy những tàu lá xé do bà nội chuyền cho rồi gập tréo lên cây đòn dong... Mấy năm nay mẹ đỡ vất vả hơn vì em đã giúp mẹ được nhiều việc. Em và mẹ rốt cuộc đã đứng vững như hai tàu lá lớn nhỏ đứng kề nhau ngoài bờ sông, gió thổi ù ù cũng không rập xuống được.

Nhưng lắm lúc em thấy cũng khổ lắm. Dầu sao em cũng mất ba em. Biết bao lần em tủi thân suýt khóc lên khi thấy các bạn nhỏ khác được ba chúng ghé đôi vai vạm vỡ cõng chúng làm trò phi ngựa lội dưới sông hoặc còn quấn cho chúng những chiếc vòng thắt kiểu chân rết coi ngộ hết sức. Thật ra, một chiếc vòng bằng lá dừa như thế em cũng biết quấn. Và em đã quấn một chiếc. Nhưng lạ chưa, khi đeo nó vào cổ em lại thấy còn buồn tẻ hơn. Chẳng có gì đáng gọi là lý thú. Em tháo chiếc vòng ra khỏi cổ thẫn thờ nhìn nó, rồi tự nhiên hai ngón tay buông lửng để chiếc vòng rơi xuống đất...

Điều này cũng thật là giản dị lắm!

Em cần chiếc vòng từ bàn tay ba em quấn nên, chứ em chẳng cần chiếc vòng do em tước lá tự quấn lấy. Vậy nói đúng hơn, em thiếu một người cha chứ em không thiếu một chiếc vòng...

Xã của em là một trong những xã về tay cách mạng đầu tiên ở :Dt mũi Cà Mau. Trường xã được dựng lên trên bãi cỏ hoang, nơi ba em và chú Sáu đã chết. Mẹ em cho em đến trường học. Hết mùa mưa lại đến mùa nắng ráo. Em yêu mùa nắng hơn những ngày mưa dầm lê thê. Mùa mưa, con nước lại dâng lên. Em thấy sợ những đêm nước ngập vào nhà, sợ những giấc chiêm bao hiển hiện một cái hòm kĩu kịt trên cây đòn khiêng, em sợ những cây đèn cầy leo lét cháy nhểu ròng xuống như những giọt nước mắt bằng sáp, em đau lòng chỉ được gặp ba em từ xa, từ xa giơ tay lên vẫy em rồi lại biến dần đi như trong mơ. Em chờ đợi mùa nắng và lòng em khấp khởi khi mỗi sáng thức dậy thấy ánh mặt tời lên rực rỡ trên cánh đồng. Sân trường bị lầy lội trong tháng nước sẽ bắt đầu khô lại, em cùng các bạn có thể múa được nhân giờ ra chơi giữa buổi học. Con đường từ nhà em dẫn tới trường học sẽ dễ đi hơn. Em có thể ghé lại thăm mộ ba em, thăm bụi bông trang coi ngày hôm ấy nó có nở ra được bông nào nữa không. Mùa nắng đến với cái làng nhỏở mũi Cà Mau này thực là đẹp. Đối với em bé Hà, đó là một mùa vui, bụi bông trang em trồng trên mộ ba em tới mùa nắng này đã được ba tuổi. Trên đường tới trường, em nhìn thấy những bông trang đỏ rực giữa khóm lá xanh tươi.

Trưa hôm nay em cũng có ghé lại ngôi mộ. Cách một tiếng đồng hồ sau, không ngờ cô giáo đã đọc một bài chính tả mà em không tài nào viết thẳng tới được. Em chỉ có thể viết đến câu: "Trên cái nền đất này là trường học thân yêu của em, mấy năm trước là một nơi đầm đìa máu đỏ..." Thế rồi em không viết được thêm một chữ nào nữa. Ngòi bút của em nãy giờ vẫn dừng lại ở chữ "máu đỏ..." Mực trên ngòi bút em đọng xuống giấy một đốm tím. Nước mắt em rớt xuống khiến đốm mực nhòe ra.

Em khóc. Các bạn nhỏ cùng lớp đều khóc theo. Cặp mắt cô giáo ướt đẫm. Cố nén xúc động, cô bảo cả lớp với giọng nghẹn ngào.

- Thôi, các em lau nước mắt đi, rồi chúng ta sẽ viết tiếp.

Cô giáo lại đọc tiếp bài chính tả. Giọng cô run run không bình thường. Những mái đầu của các em lại cúi xuống, hí hoáy viết. Lớp học bây giờ chỉ còn lại tiếng sụt sịt mũi và tiếng ngòi bút sột soạt trên mặt giấy. Đằng sau trường học, cánh đồng lúa chín tới đang rì rào. Những cây đước chống trực thăng đổ bộ nhọn hoắt tua tủa chĩa lên bầu trời :Di nắng, xanh và cao thăm thẳm.

1963
hết

Trả Lời Với Trích Dẫn
  #3  
Old 05-15-2004, 02:22 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

Chuyến xe về làng





Lúc bóng tối đổ xuống trên cầu tàu, thì những chiếc đèn treo xanh đỏ trên các trụ sắt cũng bật cháy. Kính màu rọi ra một thứ ánh sáng dịu dàng và hơi tối. Chỉ vừa đủ trông thấy được, ngoài kia, phường tài tử thị trấn đã khởi đầu đêm vui của họ bằng một bài bình bán vắn. Kẻ ngồi, người đứng. Trời nóng, có anh chỉ vận độc một chiếc "xà rông" tơ, tay ôm đàn ghi ta vừa đàn vừa rảo gót lui lui tới tới. Trong một góc cầu tối nhất mà ánh đèn không rọi đến, có hai người ngồi nép mình to nhỏ. Một người đẫy đà ngồi đối diện với một gã nhỏ bé. Hai người không để ý gì đến cuộc đàn hát. Thỉnh thoảng gã bé nhỏ lại khẽ "dạ" một tiếng.

Người cao lớn móc trong túi ra một gói thuốc, búng banh bách. Y ngoạm lấy một điếu rồi chìa bao thuốc cho gã nọ. Gã này cóm róm tiếp lấy điếu thuốc bằng cả hai tay. Que diêm xòe cháy. Người có vóc dáng đẫy đà ấy mặc bộ đồ nhà binh, đội chiếc mũ lưỡi trai đính sọc hiệu đại úy tiểu khu trưởng. Còn gã buộc một chiếc khăn mùi xoa túm góc. Được mồi điếu thuốc đã đốt nơi tay tên kia, xem chừng gã lấy làm hân hạnh lắm.

Tên nọ đăm đăm nhìn gã:

- Hai Nhỏ, tôi thì tôi tin anh. Nhưng anh có dám đoan với tôi là sự báo cáo của anh nãy giờ đã thiệt chắc chưa?

- Chắc chắn, thưa ông Ba, em ở Hiệp Hưng từ nhỏ tới giờ, thằng Chính Hơn em đâu có lạ gì nó!

Gã người bé nhỏ lanh lẩu đáp. Và vừa luộc lại một chéo khăn trên đầu bị tuột, gã tiếp lời:

- Đúng là Chín Hơn cầm đầu vụ đòi tăng lương. Xin miễn ông Ba cho lính "xên" nó, tức nhiên tụi cu ly nhà máy hết dám rục rịch!

- Tôi không thường về nhà máy nên không rõ. Vậy chớ hồi Việt Minh còn ở đây, nó làm gì cho Việt Minh?

- Chín Hơn hả? Nó làm xã đội du kích. Việt Minh rút ra ngoài Bắc, nó trở vô làm trong nhà máy xay. Nó coi chạy bàn gằn. Đó là nghề của nó thuở giờ, nên người ta gọi nó là Chín Bàn Gằn. Cu ly thảy đều khoái nó, Chín Bàn Gằn nói gì cu ly cũng nghe.

Tên quan ba vỗ vai Hai Nhỏ:

- Thôi được rồi. Nhưng mà, nè...

- Dạ chi?

- Có chắc là chiều mai Chín Hơn nó về Hiệp Hưng không?

- Chắc, sáng mai nó lên thăm bà già vợ, chiều mai thì đi chuyến xe ngựa năm giờ về.

Quan Ba ẩn nắm tay Hai Nhỏ:

- Tốt, việc này mà thành thì công anh lớn lắm.

Rồi y móc ví, lấy bạc lật đếm. Những tờ giấy bạc kêu sột soạt trong bóng tối khiến Hai Nhỏ bồn chồn, khấp khởi. Đếm xong, Ba ẩn chìa ra:

- Công anh báo cáo, tôi thưởng ba trăm...

Hai Nhỏ rón tay ra định cầm. Nhưng Ba ẩn chưa vội trao cho gã. Y dặn:

- Đêm mai anh sẽ cùng đi với lính của tôi, chỉ cho trúng xe ngựa Chín Hơn thì sẽ có thưởng thêm nữa, nghe không?

Hai Nhỏ nghe nói, gã hơi lo:

- Lính đi cũng đủ sức rồi. Còn tôi, cần gì đi ông Ba?

- Cần lắm chớ... Xe ngựa về Hiệp Hưng nườm nượp, tụi lính nó đâu biết chiếc nào Chín Hơn đi.

Hai Nhỏ gật đầu:

- Cũng được, tôi đi cũng được...

- Thì có gì đâu mà không được!

Hai Nhỏ dạ một tiếng. Tiếng dạ của gã lần này nghe hơi yếu, không thật hợp với nỗi lo lắng đang lan man trong đầu gã. Là vì từ thuở bé, tay gã chưa hề nhúng máu hay phạm một tội ác gì. Năm nay gã hăm sáu. Trọn thời thơ ấu và tuổi niên thiếu ở Hiệp Hưng, gã chưa bị hư hỏng. Khoảng ba năm nay, gã đi chuyên tải rượu từ thị trấn về cho người chủ tiệm bài nhì ở chợ. Thời gian đó gã mới bắt đầu bị nhiễm độc. Nghề nghiệp bắt gã phải đi đi về về trên con đường từ làng ra thị trấn. Cái con đường chỉ trong hai năm mà đã nổi lên hàng chục quán rượu và vô số là gái điếm. Quãng đường ngắn ngủi ấy quyến gã vào vòng trụy lạc và túng ngặt, dần dần gã đã trở thành một tay sai cho Ba ẩn, quan ba kiêm chủ nhà máy xay gạo Hiệp Hưng, hiện đang ngồi trước mắt gã đây.

Bấy giờ, sau khi đã đưa tiền cho Hai Nhỏ, Ba ẩn đứng dậy. Y vừa cúi xốc lại quân phục vừa nói:

- Có tiền rồi, vô quán nhậu một chầu cho sướng, rồi sắm cho em gái anh một cái áo để nó se sua với người ta. Từ rày muốn gặp tôi thì cứ gặp ở đây chớ đừng vô bót hay xấn xả gặp tôi giữa phố, nghe chưa?

- Dạ!

Ba ẩn kéo sụp mũ rảo bước lên bờ. Hai Nhỏ vẫn đứng đó. Gã run rẩy lật đếm lại xếp bạc. Ngoài đầu cầu, phường tài tử thị trấn vẫn đờn địch ca xang. Rõ là từ nãy giờ họ không để ý gì đến công chuyện của gã. Gã bình tĩnh đút bạc vào túi áo khách, lủi đi như gió lên bờ.

Hai Nhỏ lần theo con đường phố vàng nhợt ánh đèn. Gã bớt lo rồi. Chuyện ngày mai thì mai sẽ liệu. Giờ trước khi về thì gã tạt vào quán. Gọi rượu và gọi một con gà luộc. Gã chỉ ăn một góc, còn gần nguyên con thì gã lột khăn trên đầu xuống túm lấy đem về cho em.

Dẫu rằng gã đã làm việc phản bội, như đêm nay gã đã phản bội làng quê của gã, nhưng đối với em gái thì lúc nào gã cũng nghĩ đến. Hồi sau Tết, chính gã đã đón em lên đây ở. Có tiền được ăn uống no nê, gã cũng không quên mua lấy một món ngon về cho em. Gã thương em gái của gã lắm. Là vì bây giờ gã chỉ còn mỗi mình nó là ruột thịt. Còn người ở Hiệp Hưng, ở xóm nhà máy xay thì gã kể như là không có, kể như là họ khinh khi gã lắm. Dạo trước, hồi túng ngặt, gã có lỡ lấy trộm của người vợ chủ quán A Sủi một cái quần. Từ đó, hễ nói tới gã họ cứ gọi gã là thằng ăn cắp quần đàn bà. Tức quá, gã dọn lên đây, thế là chỉ đi chở rượu tiện dịp ghé qua thôi chớ không thèm về cố cư ở Hiệp Hưng nữa.

*
* *

Những hũ rượu đã chuyển lên xe. Chiếc xe ngựa chất đầy rượu hơi trì về phía sau nên hai con ngựa thỉnh thoảng lại lui mấy bước, độp vó xuống mặt đường. Lão Bảy Hạc đã lau tắm và cho ngựa ăn xong mà vẫn chưa thấy Hai Nhỏ đến. Lão nghĩ bụng: "Có lẽ xe ngựa Tư Tôn, Chính Hơn đã đi về được nửa đường rồi. Bữa nay Hai Nhỏ đi với cái ngữ nào hay nằm say trong xó nào cũng nên!". Trời tối từ lâu. Mưa bụi và bóng tối phủ trùm trong khắp thị trấn. Đèn ở cầu tàu đã bật sáng trên một tiếng đồng hồ, lão Hạc mới chợt nhìn thấy dạng Hai Nhỏ cỡi xe đạp hộc tốc chạy về. Lão vớ cái nón nỉ trên gọng xe, chụp lên đầu. Hai Nhỏ chạy ngang kêu:

- Đợi tôi trả xe cho người ta một chút nghe, ông Bảy?

Một hồi sau Hai Nhỏ trả xe xong trở về vừa nhảy lên xe vừa nói:

- Đi đi, ông Bảy!

Đáng lẽ thì lão phải chửi cho gã một câu về cái tội gã bắt lão ngồi đợi từ nãy giờ. Nhưng lãi chỉ ngoái đầu ra sau mà nhìn gã một lượt. Hai Nhỏ cất tiếng cười nức nức:

- Chắc giận tôi lắm hả ông già? Cảm phiền nghe, bởi mắc công chuyện mà...

- Thôi, khuya rồi! Anh lấy cái đèn trong góc đốt giùm tôi đi!

Hai Nhỏ mò soạn tìm cái đèn lục lăng tháp kính đỏ bật diêm thắp và trao ra. Lão Hạc mắc lên đằng trước chỗ lão ngồi. Lão vung roi, giật nhẹ cương. Hai con ngựa rún rún chân, cất vó lôi xe chạy tới. Chiếc xe chở đầy những hũ rượu, nhưng hũ nào cũng đã chèn kỹ, chạy không hề bị xốc chạm. Lão Hạc ngồi hai gối chân chụm vào nhau, miệng ngậm ống vố, lão đưa mắt nhìn cảnh vườn tược hai bên chìm trong mưa bụi. Thỉnh thoảng mưa hắc vào mặt lão, lão cũng không vuốt. Khi thuốc trong ống vố sắp tàn, lão mới lấy thuốc thồn thêm vào. Dưới ánh đèn lù mù, giữa bộ râu rậm che k1n cả miệng, cối thuốc đỏ hồng của lão tuôn khói trắng bay ra sau. Thoạt tiên Hai Nhỏ còn kêu lên vì khói thuốc làm gã ngợp thở. Nhưng chỉ chốc sau thì không thấy gã kêu nữa. Gã đã ngủ rụi. Tiếng ngáy pho pho của gã đã bắt đầu trỗi dậy hòa với tiếng cọ khe khẽ của các hũ rượu. Lão Hạc ngó Hai Nhỏ đăm đăm. Lão nhìn gã bằng đôi mắt sầu não. Vừa nhìn lão vừa vò râu và gậm gậm ống vố. Lòng lão đang rất đỗi xốn xang. Là vì lâu nay trên con đường dài tải rượu về làng, gã con trai này đã bắt đầu trở thành một kẻ du dãng. Không phải lão có lòng sính làm phúc thương hại anh ta, nhưng bởi anh ta chính người cùng làng, là con của Tám Lân, người bạn già lao khổ của lão đã bị kẹt bè chết trên sông Bassac trong một chuyến đi mướn theo bè từ Kông-pông Chàm về. Lão Hạc sầu não xót xa ấy là vì vậy. Dạo này lại thấy Hai Nhỏ thường gặp gỡ tên quan Ba ẩn, nằm đêm lão càng hổ thẹn với người bạn già nối khố. Cái con bé Mận, em gái Hai Nhỏ, lão Hạc thương như con. Con bé cũng quý lão lắm. Những khi xe lão lên thị trấn nghỉ lại, nó thường nấu cơm cho lão ăn. Từ ngày con bé lên ở chợ, thấy nó cứ lớn phỗng lên mà lão đâm lo. ở chợ rẫy đầy những dân đứng bến, quan lính quốc gia, cả sĩ quan người Mỹ cũng thường về. Hai Nhỏ thì lại nhập với bọn đó, bỏ con bé cù bơ cù bất...

Lão Hạc nghĩ tới lui về hai anh em Hai Nhỏ, mãi khi thuốc trong ống vố đã tắt ngấm, phì phèo không ra khói nữa lão mới hay. Nhét thuốc vào cối xong thì vừa lúc xe cũng gần đến cầu sắt. Lão Hạc cho ngựa chạy chậm lại. Đến chân cầu, lão nhảy xuống vuốt ve hai con ngựa yêu của lão, rồi tóm ngắn dây cương dắt qua. Đáng lẽ thì con ngựa chạy luôn, nhưng bởi ván cầu nhiều thớt bị lính bót rút về làm củi, ngựa đi có thể sụp chân, nên lão phải dắt.

Tiếng chân ngựa nện xuống ván rung sắt thành cầu khiến Hai Nhỏ giật mình tỉnh giấc. Gã lồm cồm ngồi dậy dụi mắt:

- Tới cầu rồi hả ông Bảy?

- ừ...

Hai Nhỏ nhóng người tới trước. Nhìn những khe ván cầu trụt tối sâu thăm thẳm, gã đâm hoảng:

- Chậm chậm, cho tôi xuống, ớn quá!

Rồi gã nhảy xuống đi bộ. Sang tới đầu cầu bên kia, Hai Nhỏ leo lên. Chợt lão Hạc đứng lại lắng tai nghe, rồi khều gã:

- Hai Nhỏ, hình như ngựa của ai đi lạc hí rân ở trong đồng kìa!

Hai Nhỏ niểng đầu, mắt chớt lạch:

- ờ, chắc ngựa của người ta lạc...

Xa xa quả có tiếng ngựa hí lên rền rĩ. Lão Hạc lấy ống vố trên miệng xuống:

- Nè, nó kêu hệt như con ngựa Kim của thằng Tư Tôn mầy Hai?

Hai Nhỏ nghe câu ấy, liếc lão Hạc một cái rồi đáp:

- Chắc không phải đâu, ngựa thì con nào kêu như con nấy.

Lão Hạc gật gù:

- ờ, không lẽ thằng Tư Tôn với Chín Hơn bây giờ còn tạc vô xóm ngủ...

Nói xong lão lên xe. Chiếc xe chồm lên một chút, lại chạy lủi vào bóng tối.

Từ đó dẫn về tới Hiệp Hưng, Hai Nhỏ thức luôn không ngủ nữa. Gã nói luôn miệng, tuồng như có sự gì vui lắm. Gã móc túi lấy ra một gói thuốc thơm hiệu "ách chuồn" kề miệng cắn ngoạm một điếu và đưa mời lão Hạc. Lão Hạc lắc đầu:

- Tôi hút không quen!

- Cứ hút, hút chơi mà, giàu có gì thứ này. Ông già sao khách sáo quá!

- Không phải khách sáo, tại tôi không quen.

Hai Nhỏ cất gói thuốc vô túi. Gã vẫn vui vẻ:

- Nè, chốc nữa về quán A Sủi, tôi đãi một chầu vịt tiềm, ông già có khứng không?

Thấy lão Hạc lặng thinh, gã lại tiếp lời, vẻ cảm động:

- Lâu nay tôi tính khi làm ăn có tiền thế nào cũng đãi ông một tiệc. Thiệt tình chớ không phải nói giỡn đâu. ở đời, tôi nhỏ chớ biết phải quấy lắm. Tánh tôi vậy, chắc ông già cũng hiểu!

Lão Hạc vẫn chụm hai đầu gối chân vào nhau, ngồi im. Nghe gã nói, bụng lão vừa có sự cảm động vừa bực tức. Cảm động là sao? Là vì gã vẫn có một chút tình gì đối với lão đó. Còn bực tức, bởi vì gã là một thằng con nít mà nói nghe xấc quá, đòi khoản đãi lão thứ này vật nọ. Lão Hạc không dè Hai Nhỏ lại học thói ấy mau đến thế, và tiền đâu gã có mà định khoản đãi lão? Nhưng lão vẫn lặng im. Tật lão là trước một người nào càng khoe khang cấc lấc thì lão càng cứ im. Loại người đó tưởng lão phục họ, kỳ thực lão buồn cười và khinh thị họ nhiều lắm. Nhưng đối với Hai Nhỏ, sự khinh thị của lão thì ít mà nỗi thương hại thì nhiều. Lão Hạc nhìn thẳng tới trước, cất giọng hỏi:

- Hai Nhỏ, lóng rày anh làm ăn khá lắm phải không? Bộ chủ tiệm bài nhì trả tiền lên cho anh à?

Hai Nhỏ hơi luống cuống. Hồi sau, gã nói:

- Đâu có... Trả như cũ thôi. Nhưng nhờ tôi chắc mót hùn vốn với thằng cha Tư, mua kỳ đà, xương cọp bán cho tiệm thuốc Thành Nguyên. Nhờ cái khoản đó chớ!

Lão Hạc hơi ngạc nhiên, và nghi Hai Nhỏ nói láo. Vì tiệm thuốc bắc Thành Nguyên ở thị trấn lão tới cất hàng hoài, chớ có thấy cái xương cọp nào.

Khoảng mười hai giờ khuya, xe về tới Hiệp Hưng, dừng lại tại bến xe ngựa đối diện quán A Sủi. Thấy không có xe của Tư Tôn, lão Hạc hỏi Tư Tôn với Chín Hơn về chưa thì người chủ quán A Sủi bảo không thấy.

*
* *

Rạng ngày hôm sau như mọi bữa, lão Hạc ra ngồi quán A Sủi đợi khách. Mới ngồi vào ăn cháo lòng với tốp cu ly máy xay thì bọn đàn bà đi chợ về kêu cứu om sòm. Họ học rằng gặp Tư Tôn dắt xe đi thất thểu ở dọc đường. Xe anh ta bị đón đường hồi đêm hồm qua, Chín bàn Gằn bị một tốp người lạ mặt bắt đi. Còn Tư Tôn bị chúng nó trói nhét giẻ vô miệng khênh bỏ giữa đồng trống.

Lão Hạc nghe nói liền đóng yên ngựa rồi cùng ba người cu ly lên xe tức tốc chạy đi. Tới lúc nắng lên thì gặp Tư Tôn tại cây số 5. Anh ta mệt đừ, dắt xe đi hết muốn nổi. Mà xe thời chỉ có một ngựa. Con ngựa Kim đi lẽo đẽo đằng sau, nó bị vết dao chém nơi cổ, buộc một chiếc khăn rằn xanh. Lão Hạc xốc Tư Tôn lên xe, anh em cu ly tiếp dắt xe và ngựa đi bộ về.

Trọn ngày hôm ấy, xóm nhà máy xay Hiệp Hưng bàn tán xôn xao. Mọi người đều nghi Chín Bàn Gằn bị quốc gia bắt. Riêng lão Hạc và một số anh em cu ly thì biết rõ như vậy và còn biết cả người chỉ bắt nữa. Tư Tôn kể lại là khi anh bị trói bỏ xuống ruộng, bọn kia kéo lên xe vừa đi vừa nói chuyện, anh ta thoáng nghe thấy tiếng léo xéo của Hai Nhỏ.

Quả thật, đến chiều có người ở gần bót về nói là hồi chạng vạng hôm trước chị ta trông thấy lính khiêng Chín Bàn Gằn vô bót. Không nghi ngờ gì nữa, tất cả thợ và cu ly vác gạo định nhất tề làm reo. Người tầng khạo coi nhà máy cho Ba ẩn năn nỉ để cho y báo cáo lên ông Ba. Anh em thợ thấygạo bà con miệt ruộng đem đến xay còn ứ nhiều quá. Vả lại nhằm mùa gặt, đình lại thì bà con thiếu gạo ăn. Do đó anh em chưa đình công vội, mà đưa hai điều kiện. Một là giải quyết yêu cầu tăng lương lần trước, hai là đòi cương quyết phải thả anh Chín Bàn Gằn.

Người tầng khạo ra đi. Ngày hôm sau y trở về. Quan Ba ẩn vẫn lùng nhùng không dứt khoát. Hắn nói về lương thì hắn sẽ xét, còn Chín Bàn Gằn quả thật là hắn không biết.

Ba ẩn vẫn giữ thói man trá cũ. Số lúa của bà con nông dân vừa xay xong, tức thì tất cả thợ đình chỉ công việc. ống khói nhà máy Hiệp Hưng đương cuộn khói đen kịn, bỗng nhiên súp lê ba hồi dài. Làn khói yếu ớt dần rồi tắt hẳn.

Quan Ba ẩn tiếp được tin ấy, đứng ngồi không yên. Bởi y tính chắc sẽ dùng món lợi nhà may xay trong tháng tới mà mua thêm cho đủ số mười chiếc đò máy. Mười chiếc đò mang tên Lê ẩn của y sẽ rầm rộ chạy trên sông Bassac, không một ai kình chống nổi. Bây giờ dự định của y gặp khó khăn, nhân cơ hội này mấy tên tiểu khu trưởng lân cận rất có thể cướp mất súng sông của y.

Cho nên sáng sau, y đi xe hơi về Hiệp Hưng. Xe dừng trước sân nhà máy, y hỏi người tầng khạo kêu mấy đại biểu thợ tới cho y nói chuyện. Đại diện thợ đốt máy, đốt lò, cu ly vác gạo tới gần mười người. Quan Ba ẩn trên xe nhảy xuống. Y nện gót giày bước tới lui nhìn mọi người rồi cất giọng hùng hồn:

- Mấy người thay mặt cho anh em thợ phải không? Tốt lắm, làm sự gì có hàng ngũ như vậy là tốt. Ngô tổng thống ngài thường kêu gọi anh em cần lao có điều gì cứ bày tỏ trật tự chớ không nên làm rối, làm rối là vô tình mắc mưu Cộng sản, rất hại. Còn mấy người đây là đại diện, là người cần lao chánh hẩu, là phần tử rất được trên chú trọng. Bây giờ tuy chưa vô Đảng chớ cũng như hồi vô rồi. Tôi nói Đảng đây là đảng Cần lao nhân vị, một đảng đi đầu trong phong trào quốc gia...

Quan Ba ẩn còn đang tiếp lời thì đã có người la lên:

- Thôi, chúng tôi hiểu rồi. Bữa nay xin cho anh em biết về vấn đề lên lương và anh thợ Chín Bàn Gằn có được thả không? Anh em thợ cần hiểu điều đó!

Quan Ba ẩn hơi dội, nhưng vẫn cố vui vẻ:

- Khoan, mấy người đừng nóng, để tôi nói cho nghe. Tất nhiên là về lương công nhật của anh em, tôi biết, anh em sống còn vất vả lắm. Nhưng anh em nên biết là nhà máy chúng tôi thu lợi không đặng khá, trả lên ngay ắt nhà máy khó chạy nổi. Đó là lẽ thứ nhất. Còn anh em nói Chín Bàn Gằn gì đó, bảo là chúng tôi bắt... Không, thiệt là không có. Tôi có biết Chín Bàn Gằn là anh nào đâu... Mấy người coi chừng tụi Cao Xuyên nó bắt đa, chớ quân đội quốc gia chúng tôi đâu có phép làm chuyện ám muội như vậy.

Một anh thợ đại diện lên tiếng:

Vậy là ông không chấp nhận lời yêu cầu của anh em?

- Không phải, không phải tôi không chấp nhận. Nhưng là vì, bởi vì... như tôi vừa nói.

Quan Ba ẩn nói chưa hết lời, chợt cu ly ùn ùn kéo tới chung quanh. Một người thợ đại diện đứng lên chồng bao gạo nói:

- Ông chủ nhà máy đã trả lời là lương không thể lên được và không biết Chín Bàn Gằn là ai hết, anh em tính sao?

Tiếng thét vang rền đáp lại đòi nghỉ và đòi thả Chín Bàn Gằn ra. Vừa thét đám thợ vừa giậm cẳng khiến bụi cám bốc mù.

Quan Ba ẩn thất sắc, mặt đỏ bừng, y thét lớn:

- Làm loạn hả? Tụi bay tính làm loạn hả? Nghỉ làm, được, tụi bây cứ nghỉ đi, coi ai chết đói cho biết. Còn Chín Bàn Gằn, tao bắt, tao không thả gì hết thảy!

Thợ đứng chung quanh rất đông và ngày càng tới đông hơn. Quan Ba ẩn đâm hoảng. Người tầng khạo nãy giờ pha ly nước chanh, bưng ra xán đến gần đưa cho y. Đương bị mất mặt, y vung tay gạt ly nước chanh rơi xuống nền xi măng bể ngướu.

*
* *

Đêm nay Hai Nhỏ đã uống rượu đến tờ giấy bạc cuối cùng. Sau một trận say èm trong quán, lúc gã chợt tỉnh thì thấy đêm đã khuya lắm. Trong thị trấn im vắng, gã vươn vai đứng dậy lần về gian nhà lá cuối phố của gã. Hôm về Hiệp Hưng, ngày sau đi đâu gã thấy hình như ai cũng nhìn gã bằng con mắt soi mói. Gã nghĩ bụng: chắc họ đã biết rõ việc làm phản bội của gã. Đôi lúc gã vững tâm tự nhủ: "- Làm chó gì mà biết được!" Thế nhưng gã vẫn lo. Nhất là mấy thằng thanh niên vác gạo đồng chạnh với gã. Gặp gã, chúng cứ ngó lườm lườm. Cho nên sau khi cất rượu lên tiệm bài nhì, gã vội vàng đón xe về ngay, không dám nấn ná ở đêm. Gã sợ bị "tiêu" lắm. Chết đi đã thiệt thân, lại bỏ em gái nhỏ không ai nuôi. Gã sợ nhất điều đó. Sáng nay hay tin quan Ba ẩn bị thợ nhà máy làm dữ đã phải hứa thả Chín Bàn Gằn, gã lo ghê quá.

Rượu trong người vẫn chưa thoát ra hết, nên gã đi dật dờ rất lâu mới về tới nhà. Gian nhà lá tối om om. Gã đinh ninh là con Mận em gã đã ngủ rồi. Cất tiếng gọi không thấy trả lời, gã lẩm bẩm: "- Con nhỏ ngủ mê quá, tụi con gái mười sáu chắc đều ngủ mê như vậy". Rội gã giơ tay đập cửa. Nhưng cửa mở trống tự lúc nào, thành thử gã đập vào khoảng không khí, người bị chúi nhủi vô trong. Gã kêu lên và quờ quạng khắp nơi mà không thấy em gã nằm đâu cả. Phỏng chừng chắc con nhỏ còn thức chơi với lũ con gái nhà lò bún. Sẵn mệt và buồn ngủ, gã quờ chân đóng cửa rồi nằm sấp xuống chõng định đánh một giấc. Chợt thình lình có người đập cửa, và tiếng bà chủ lò bún hỏi vọng vào:

- Chú Hai Nhỏ về rồi đó hả? Dậy, dậy mau. Quỷ thần ơi, chú đi đâu mà đi biệt vậy. Tụi nó chở con Mận đi rồi!

Hai Nhỏ nghe nói vùng dậy:

- Ai chở, ai chở em tôi thím Tư? Hả?

- Tụi bót Ba ẩn chớ ai!

- Thiệt hả?

Thím Tư lò bún giậm cẳng:

- Tụi nó đi xe máy dầu xông vô. Con Mận la làng. Tụi nó dụ dỗ, con Mận càng la dữ. Sau chúng nó bắt con Mận bỏ vô cái thùng bên hông xe. Một thằng nói:

- Thứ còn mới nguyên như mày ở chơi một đêm làm giàu một tháng, anh mày cũng chịu rồi, còn mày cứ làm bộ cớn rớn hoài.

Hai Nhỏ kêu trời. Gã lột áo vứt vào nhà rồi chạy vụt về hướng bót. Gã chạy tuột cả chiếc khăn túm đầu, tóc bay xấp xải. Bên tai gã văng vẳng tiếng em gái gã đang kêu la thảm thiết. Sự thực thì gã đã từng hại đời nhiều đứa con gái ở chợ này. Cưỡng bức, gã cũng đã từng cưỡng bức. Song bây giờ đến lượt lũ chúng nó động tới em gái gã, đứa em gái nhỏ nhoi độc nhất mà gã hết sức yêu mến thì gã lại không chịu nổi.

Người lính gác trại thấy bóng gã xuất hiện bất ngờ, hoảng hốt lên cò súng:

- Ai, đứng lại!

Tiếng nạt lớn làm Hai Nhỏ đứng sững. Dẫu sao gã cũng chưa điên. Gã nói to:

- Tôi, tôi là Hai Nhỏ. Em gái tôi... Em gái tôi... Cho tôi vào, cho tôi gặp ông Ba!

Người lính hạ mũi súng:

- Hai Nhỏ đó hả? Anh còn muốn gặp ông Ba à?

Người lính vừa nói vừa ngước mặt lên

Hai Nhỏ ngước nhìn theo. Trên từng gác cao le lói ánh sáng, vọng ra tiếng cười hô hố. Có tiếng nhạc dồn dập và tiếng rượu khui nổ bôm bốp. Người lính lại nói:

- Cho anh vào thì tôi chết. Anh qua đầu đường ngồi đợi mà đón em anh về.

Hai Nhỏ như quẫn trí. Giọng nói của anh lính làm gã bàng hoàng. Lúc ấy người gã hơi tỉnh rượu, thì đồng thời gã cũng vừa nhận ra sự bất lực ở gã. Gã đứng sững một hồi rồi sang bên lề đường ngồi ôm đầu. Đường vắng vẻ không có ai. Không có ai ngoài gã với cái bóng đen thui thủi của gã in trên sỏi đá. Bấy giờ Hai Nhỏ mới cảm thấy đầy đủ sự bơ vơ cùng tột của gã. Gã có cảm giác hầu như chung quanh mình đều là biển cả mênh mông, không có một bóng thuyền, không có một mảnh gỗ nào để gã có thể bấu víu. Đương nhiên bỗng gã nghĩ tới làng quê Hiệp Hưng, tới xóm nhà máy và hình dung thấy tất cả mọi người. Cả những người trước đã gọi gã là thằng ăn cắp quần. Nhưng bây giờ người nào coi cũng dễ chịu chứ không có ai hung dữ và tệ bạc cả. Trong cái biển nước mênh mông mà gã đang bơi lội một cách tuyệt vọng kia, ctợt như có bóng thuyền ló dạng, ngày một tiến gần về phía gã...

Gã ngồi như vậy, trên hai tiếng đồng hồ, sương xuống ướt cả mái tóc. Bỗng có tiếng gì lộp cộp sau lưng dội tới. Hai Nhỏ giật mình ngẩng lên. Từ đằng xa một chiếc xe ngựa đang đi đến. Xe chạy qua chỗ gã ngồi mấy sải chợt dừng lại, trên xe một người nhảy xuống. Hai Nhỏ vùng kêu:

- Ông Bảy, ông Bảy ơi!

Chính là lão Bảy Hạc. Lão đi lại, ngơ ngác:

- ủa, Hai Nhỏ! Bây giờ còn ngồi làm gì ở đây?

Không thấy Hai Nhỏ đáp, lão Hạc tưởng mình hỏi động tới công chuyện kín của gã, lão vội vàng lùi lại. Nhưng mới lùi mấy bước, chợt lão nghe cánh cửa trại bót rít ken két. Hai Nhỏ bỏ mặc lão đứng đấy mà chạy nhào về phía cửa. Lão nhìn thấy bóng một đứa con gái lảo đảo bước ra. Nhờ ánh đèn rọi sáng, lão nhận đúng là con Mận. Nó đi coi bộ hết nổi, tóc tai rối tung và áo quần nhầu nát. Lão Hạc thoáng hiểu. Tim lão như dừng đập và mắt lão long lên. Lão đứng lặng giữa đường. Hai Nhỏ cõng xốc con bé lên vai đi ra, lão mới vội chạy lại. Hai Nhỏ kêu thét lên:

- Mận ơi, Mận!

Cô gái khốn khổ ngả đầu vài vai anh nó. Lâu sau nó rên rỉ:

- Anh ơi... Anh... Ha... ai... ơi!

Tiếng kêu đau thương ấy hình như phát ra giữa đôi môi đương bậm lại đến ứ máu. Hồi sau thì không nghe thấy nó kêu nữa. Hai Nhỏ trở mình ôm em vào lòng. Mắt gã ráo hoảnh. Cái đôi mắt chỉ đỏ chứ không có nước mắt. Gã nhấc đầu em gã lên tận mặt, để trong phút này có thể nhìn rõ gương mặt tròn trĩnh và đôi mắt ngây thơ của đứa em đang cố giương lên mà nhìn gã.

Hơn nữa tiếng sau thì con bé mệt quá ngất đi. Sau khi nó đã gắng sức giơ hai tay lên vòng lấy cổ của anh nó. Người lính bên kia đường bấy giờ cũng như điên lên. Anh ta xốc xốc lưỡi lê vào tờng khoét đổ một mảng tường to. Hai Nhỏ ôm chặt lấy em. Gã cứ ngồi như thế rất lâu. Rồi bỗng gã vùng ôm em đứng dậy. Lão Hạc níu lấy vai gã:

- Đi đâu, anh còn định đi đâu nữa?

Vừa nói lão xăng tay áo đón lấy con bé, đi thoăn thoắt đến bên xe. Sau khi đặt con bé nằm vào một nơi trong xe, lão gọi Hai Nhỏ nói như ra lệnh:

- Còn anh cũng lên đi... Nghe lời tôi về Hiệp Hưng. Không chỗ ở thì tôi chứa, có đói thì đi vác gạo mà ăn! Còn cái nhà này ở đây, bỏ, bỏ hết!

Hai Nhỏ lúc này không dám cãi một tiếng, ríu ríu bước lên xe. Gã vừa đặt đít xuống chợt va nhằm chân một người ngồi nghẻo đầu ngủ, không rõ là ai. Gã không buồn xem là ai nữa, lặng lẽ mà nhìn đứa em dáng tội nghiệp đang nằm sóng sượt dưới chân gã. Đằng trướcm, lão Hạc đã cho xe chạy. Chiếc xe quẹo qua cuối phố, trút bỏ vầng ánh sáng ghê rợn của khu bót lại sau lưng. Bánh gỗ bị sắt bắt đầu nghiến sỏi đường rào rạo. Lão Hạc ngồi im như bức tượng. ánh đèn lục lăng soi mờ bộ mặt đen rám và đôi mắt đỏ như tôm luộc của lão. Cái cối thuốc giữa cụm râu rậm che kín miệng lão vẫn đỏ hỏn như mọi đêm, nhả khói ra sau. Lúc xe qua cầu sắt, lão Hạc lại xuống. Hai Nhỏ còn thức nhưng gã không xuống như lần trước. Tiếng chân ngựa nện xuống ván rung sắt thành cầu. Người nằm ngủ phía sau trở mình cất tiếng rên khe khẽ. Chốc sau người đó ngóc đầu dậy. Mặt anh ta băng bó, máu dây ra từng vệt khô xám. Chợt Hai Nhỏ trố mắt, hoảng hồn thụp đầu xuống. Gã vừa nhận ra người đó là Chín Hơn và gã cúi trốn khổ sở như vậy chừng Chín Hơn ngã người xuống như cũ, gã mới dám khe khẽ ngóc đầu lên.

*
* *

Khoảng ba giờ khuya xe về tới Hiệp Hưng. Quán A Sủi vẫn còn đèn. Một số thợ hình như vẫn còn ngồi đợi. Khi lão Hạc kêu lên:

- Anh em ơi, Chín Hơn về rồi đây nè!

Mọi người chạy đổ ra. Chị vợ Chín Hơn bồng con nhỏ chạy nhào tới. Mọi người vui mừng xúm dìu Chín Hơn xuống. Chợt nhác thấy bóng ai lù lù trên xe, một người hỏi:

- Còn ai ở trỏng nữa đó, ông Bảy?

Lão Hạc lặng lẽ đáp:

- Anh em Hai Nhỏ!

- Hai Nhỏ à? Lôi nó xuống mà nện cho nó một trận đi!

Một anh vừa nói vừa hùng hổ nhảy lên xe. Nhưng lão Hạc đã nắm vai anh ta đẩy xuống. Mắt lão hấp háy nhìn mọi người, rồi cất giọng khàn khàn nói:

- Bà con à, phải, Hai Nhỏ ở trong xe đó. Chính tôi chở nó về, cả em nó nữa. Nhưng em nó thì... hồi tối người ta hiếp nó. Tôi nghĩ rằng để nó ngoài chợ e nó không sống đặng nên tôi chở về chữa chạy...

Lão Hạc nghẹn ngào. Lão cố dằn, nuốt cổ ừng ực trỏ vào xe:

- Còn anh nó, thằng Hai Nhỏ, bà con đã biết. Nó đã làm phản... Tại nó mà chú Thím Hơn bị bắt, bị đánh đau. Nhưng tôi vẫn cứ chở nó về, bà con có trách, tôi xin chịu...

Lão Hạc đứng lặng hồi lâu hai chân lão đi lập cập.

Rồi lão bưng mặt ngửa lên trời:

- Anh Tám Lân, anh chết đi gởi gắm hai đứa con cho tôi mà tôi không làm tròn bổn phận. Anh Tám Lân ơi, tôi có lỗi với anh...

Mọi người đứng sững sờ bên đường. Mấy anh thợ không nói, lặng lẽ đi đến nơi xe đổ. Một người cầm đèn cho hai người đỡ con bé dậy khiêng đi. ánh đèn ngôi quán dọi mờ đôi mắt lờ đờ hé mở của con Mận. Hai cánh tay của nó xuôi rũ riệt. Mấy người đàn bà, cả vợ Chín Hơn, trông thấy thế thì òa lên khóc nức nở. Hai Nhỏ vẫn ngồi nép mình trong xe. Bỗng Chín Hơn từ trong quán gượng đi ra. Anh bước lên quờ quạng nắm lấy tay Hai Nhỏ kéo xuống. Biết chiều nay gã chưa ăn uống. Chín Hơn bảo người chủ A Sủi còn có thức thì dọn ra cho gã ăn.

Quả là trọn ngày nay Hai Nhỏ chưa ăn cơm thật. Gã đói lắm. Song bây giờ thì gã đâu còn bụng dạ nào mà ăn được. Gã ngồi cúi gằm đầu trước bàn, không nói một lời. Lúc cái tiếng rên khe khẽ của con Mận từ nhà lão Hạc vọng lại, ruột của gã như bị tiếng ấy róc xé chảy máu. Cuối cùng gã gục xuống bàn mà khóc một cách thảm thiết. Gã khóc cho đến lúc gà trong xóm cất tiếng gáy, đến tận lúc bên ngoài bóng đêm đã nhợt dần và bầu trời thì đã bắt đầu rựng sáng.

hết

Trả Lời Với Trích Dẫn
  #4  
Old 05-15-2004, 02:23 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

Đứa con





Trong đêm khuya bấy giờ chỉ còn có hai vợ chồng chú Ba. Chú Ba tuổi đã ngót bốn mươi. còn thím Ba chừng như kém hơn vài tuổi. Chú Ba ngồi dựa cột, chân duỗi thẳng lên chiếu trải dưới đất. Hai vợ chồng ngồi như vậy rất lâu, không ai nói câu nào. Chợt chú Ba đấm tay xuống chiếu:

- Thôi đi, tôi đã quyết rồi!

Thím Ba cũng chẳng nói gì. Song nước mắt bỗng trào ra khóe mắt thím. Khuôn mặt người đàn bà trông thật đáng thương. Đêm đã khuya. Chốc chốc lại có tiếng nổ "đoàng" ngoài vọng gác. ở ấp chiến lược, súng nổ mãi thành quen tai, nên hai vợ chồng hình như không lưu ý gì cho lắm. Khi không có cái tiếng súng bắn vu vơ nữa và khi cả hai vợ chồng đều im lặng thì gian nhà chỉ còn có tiếng ngáy đều đều của cậu con trai mười bảy tuổi đang ngủ trên vạt. Bỗng chú Ba co chân lại, vươn vai đứng lên, đi ra bộ ván trước. Thím Ba vội đứng dậy bước theo, thì thào:

- Vậy mình định chừng nào cho con nó đi?

- Chưa biết. Nhưng cũng không lâu đâu. Để tôi gặp lính Tư bàn coi đã. Hễ đêm nào lính Tư gác là cho nó đi!

- Trời... - Thím B buột kêu lên.

- Trời với đất gì. Đàn bà thiệt mau nước mắt quá. Tôi hỏi mình, vậy chớ để thằng Trung ở đây cho tụi nó bắt lính, mình mới vui sao?

Thím Ba đứng sững, nước mắt trào ra vuốt ướt tay. Thím biết tính chồng, hễ đã định làm chuyện gì thì khó mà can được. Gần nửa tháng nay, chồng thím có đem chuyện đứa con trai ra bàn với thím, bảo là không thể để thằng Trung ở giữa cái ấp chiến lược này được nữa. Rồi chồng thím lại bảo rằng sẽ thu xếp cho con nó đi. Thím hỏi cho con nó đi đâu thì chú Ba ghé sát vào tai thím mà nói: "Đi theo đằng giải phóng!". Chú còn căn dặn: "Mà chớ có nói với ai đó, tụi nó biết được thì khốn. Ngay như thằng Trung cũng đừng cho nó hay trước. Chuyện đó để tôi. Phần mình cứ lo sửa soạn cho nó, quần áo nó có rách thì vá lại, ở nhà còn hai trăm đồng bạc đừng đụng tới, để nó đem theo. Nhà mình chỉ có mỗi mình nó... tôi biết, nhưng tôi nghĩ nát óc rồi. Thằng nhỏ khỏe mạnh, lại gần tới tuổi đi lính, như miếng mồi treo sờ sờ trước mặt, sớm muộn gì nó cũng đớp...

Thôi, mình nên tính trước đi là hơn. Cho nó đi theo anh em, nó sẽ nên người. Chắc rồi nó cũng cầm súng, nhưng cầm súng nổ vô đầu tụi phản dân hại nước, nó chết tôi cũng mát dạ".

Lúc thoạt tiên, nghe chồng nói chuyện ấy, thím Ba giật nẩy người. Giữa ấp chiến lược đầy dẫy phường lang rợ sói này, nghe chuyện như thế mà không giật mình sao được. Thím Ba sợ lắm. Song nghĩ tới nghĩ lui thím thấy chồng nói đúng. Hai vợ chồng thím lấy nhau đã lâu chỉ có được một đứa con trai, năm nay nó đã mười bảy tuổi, người ta sắp sửa bắt nó đi, rõ ràng là như vậy mà ngồi đó chịu cho người ta bắt hay sao. Biết chồng nói phải nhưng thím vẫn khổ tâm áy náy. Dạo này giấc ngủ đến với thím sao mà khó khăn. Nằm xuống thím vụt nhớ lại mười bảy năm về trước mình đã sanh con mình như thế nào và nó đã cất tiếng khóc ra sao. Đêm đó, một cô y tá Vệ quốc đoàn đỡ đẻ cho thím giữa tiếng súng của một cái bót Tây đóng. Tã lót con cũng của bộ đội cho. Hồi ấy, vợ chồng thím vừa mới ở đợ cho người ta ra. Lấy nhau rồi, vợ chồng vẫn còn mặc đồ bố. Năm sau, cách mạng cấp cho vợ chồng thím hai mẫu đất, nhờ đó mà làm ăn khá lên, nuôi con khôn lớn. Ba tháng trước, thím gạt nước mắt mà từ biệt miếng đất đi ra đây dưới hàng lưỡi lê tua tủa. Lần đó chú Ba bị chúng đánh tất cả là bốn báng súng vì chú đã kéo chân cái thằng leo lên dỡ nhà chú, khiến nó té nhào xuống đất. Thím Ba với thằng Trung cũng bị lùa đi. Về đây, gia đình thím sống như bị cầm tù. Cực khổ, hằng ngày bị đe dọa đã đành, lại tiếp đến mối lo này. Mối lo âu này đối với vợ chồng thím thật là đáng sợ. Nó không là mũi dao hòn đạn giết chết vợ chồng thím nhưng nó giày vò, cấu xé lương tâm vợ chồng thím.

"Cách mạng đã đem đất lại cho mình, nhờ đó mình nuôi thằng Trung lớn lên. Giờ để tụi nó bắt thằng Trung đi lính bắn lại cách mạng à? Trả nghĩa cách mạng như vậy à?".

Chồng thím vẫn bảo thế. Thực ra thì thím Ba chưa hề cãi lại ý kiến của chồng. Độ một tuần nay, thím đã âm thầm thu xếp cho con trốn đi. Nhưng lòng thím vẫn đau. Cái nỗi đau mà người mẹ nào chả có trước khi chia tay với đứa con mình đã mang nặng đẻ đau mà không biết còn gặp lại nữa không.

Chú Ba đã cất tiếng ngáy khò khò ở bộ ván trước. Thím Ba nằm xuống bên cạnh con. Nhưng thím đâu có ngủ. Thím mở mắt trao tráo. Lát sau, thím lại ngồi dậy. Dưới ánh đèn, thím nhìn con trai đang ngủ. Trời nóng, thằng Trung ở trần trùi trụi. Tiếng ngáy của nó nghe rất đều và khỏe. Thím ba thừa lúc con ngủ, cầm trộm bắp tay con. Thím thấy bắp tay con rất chắc. Từ một đứa trẻ nó đã trở thành một thanh niên tráng kiện. Nhè nhẹ buông tay con ta, thím Ba mò kiếm cái rổ may ở góc vạt. Thím đứng lên đi lấy đèn lại, ngồi vá nốt chiếc áo của con bị rách. Tay luồn kim, ngồi vá nốt chiếc áo của con bị rách. Tay luồn kim, mặt thím lại nhòe ướt. Người đàn bà khóc thầm một mình, khi chồng và con đều ngủ cả. Giữa đêm tối, lâu lâu bọn dân vệ lại bắn đùng một cái. Không mấy lúc là ngớt tiếng giẫm thình thịch ở các ngõ nhà, hè nhà. Đó là tiếng giày của bọn công an đi sục sạo, nghe ngóng. Nhà nào nhà nấy đều im thin thít. Cái yên lặng ở ấp chiến lược khác hẳn cái im lặng ở một thôn xóm bình thường. Một sự yên lặng rợn người, man rợ và tăm tối. Bốn ánh đèn ở bốn chòi gác loi lói như mắt của quỷ dữ. Loáng thoáng hiện dưới ánh đèn, những sợi dây thép gai giăng giăng in bóng xuống mặt nước hào sâu.

***

- Chuyện tao muốn nói với mày là như vậy. Liệu có đi được không?

Chú Ba sau khi đem chuyện đó ra nói cho con trai nghe, chú hỏi con như thế. Thằng Trung ngồi im không nói. Nó đưa mắt liếc nhìn ba nói. Chú Ba không thấy con trả lời, liền hỏi tiếp:

- Sao! Hay là sợ không dám đi?

Thằng Trung đứng phắt dậy. Nó nói mà không nhìn ba nói:

- Tôi mà sợ. Có cái là tại sao phải đi ban đêm? Cứ ban ngày ban mặt mà đi, sợ thằng nào?

- ấy phải sợ nó thấy chớ. Mày ngu quá. Đi ban đêm dễ hơn. Tao đã bàn với lính Tư rồi, đêm mốt tới phiên chú Tư gác ở chòi gác chánh, chú sẽ để cho mày đi thong thả. Chừng mày đi rồi chú sẽ bắn súng báo động. Tao sẽ la rầm lên là mày đã bỏ nhà trốn...

Thằng Trung nghe ba nó nói thế thấy cũng có lý. Ngẫm nghĩ một chút nó bảo

- Tôi đi rồi thế nào nó cũng làm khó dễ ba má. Chú Ba nói:

- Ôi đừng lo. Xin miễn mày đi thoát là được. Còn tao, nếu nó đánh thêm vài báng súng nữa cũng chịu nổi. Chịu cho nó thúc vài báng súng để mày đi thoát thì tao chịu được.

Đứa con trai ngồi xuống. Nó yên lặng, không động đậy. Mi mắt của nó cứ chớp lia. Nó đang nghĩ tới lúc nó đã ra đi rồi không có ai đi kiếm củi cho má nó. Rồi xa nó, má nó thể nào cũng khóc. Nghĩ tới bước đường sắp tới thì nó khoan khoái, nhưng chạnh nhớ cảnh nhà thì nó hơi băn khoăn. Niềm vui xen lẫn với nỗi lo. Có lúc nó tưởng tượng nó đi bộ đội, có ngày nào đó nó sẽ về đây giải phóng cho má nó, thím Tám, chú Năm và mấy đứa nhỏ như con Lành, con Quế. Nó mà vô bộ đội, thì đám dân vệ bảo an ở đây nó coi không ra cái thớ gì. Bờ rào ấp chiến lược nó đạp đổ nhào hết. Trong đầu nó đã sắp sẵn: Những người của mình như chú Tư, anh Chín Cồ thì chừa ra, còn bắt được thằng nào là nó đem trấn nước. Chưa gì mà trước mắt thằng Trung đã vẽ ra những cảnh tượng hết sức sôi nổi. Ba nó bấy giờ lạibảo:

- Vô trong đó, phải siêng năng, hiểu chưa! Mà phải chịu cực khổ đã, tao nói trước. Được đi bộ đội càng hay, nhưng liên lạc cũng đi. Anh em người ta giao cho việc gì cũng làm, hiểu chưa?

Chú Ba nói nhấn mạnh tiếng "hiểu chưa" sau cùng. Thằng Trung có vẻ không thích ba nó cứ nhấn đi nhấn lại như thế. Cái chuyện đó nó thừa biết đi rồi mà ba nó cứ nói mãi. Đi làm cách mạng cực khổ, nó đâu có sợ. Lội sông, lội ruộng, lội bưng nó đã từng lội rồi. Nhịn đói hai ba ngày nó đã từng nhịn. Chà, cái thứ đói bụng thiệt mới khó chịu chớ. Nhưng nó tự hứa với lòng là sẽ cố gắng. Người ta sao, mình vậy. Ngồi ở đây, thằng Trung đưa mắt nhìn ra vòng rào dây thép gai. Xuyên qua một quãng bờ chướng ngại ấp chiến lược chưa đắp, nó nhìn thấy dòng sông và ven cây xanh mù dưới chân đồng. Đó là làng Mỹ Hiệp, kế làng Tân Hiệp của nó. Nó sẽ vượt qua con sông ấy, rồi băng đồng đi tới ven cây xanh đó. Dòng sông thì nó đã có lội, bốn lần lội qua lội lại mà không biết mệt. Còn cánh đồng nó chạy một hơi là tới. Thằng Trung cầm chắc là nó sẽ đi qua mấy chỗ đó một cách dễ dàng.

Ba nó thấy nó cứ ngồi ngó mông ở đâu đâu thì lại dặn thêm:

- Cái điều chủ chốt...

"Lại cái điều chủ chốt..." Thằng Trung nghĩ.

- Điều chủ chốt là phải có gan, - ba nó tiếp lời - Mình ăn thằng Mỹ - Diệm là ở sự tinh thần. Lính tụi nó chưa đánh đã chạy, bộ đội mình chưa hô là đã xung phong lên rồi...

Thằng Trung ngó ba nó, nghĩ bụng: "Chưa hô mà đã xung phong thì bỏ bà". Song nó chỉ nghĩ thầm trong bụng vậy thôi chớ không dám cãi. Nó tức cười mà cũng không dám cười. Tánh ba nó nóng lắm. Mấy lần ba nó rượt nó chạy thiếu điều hụt hơi chỉ vì nó hay bàn tới bàn lui. Nhưng nó không oán ba nó bao giờ. Ba nó thương nó với má nó lắm, tại tính ba nó không ưa thổ lộ, ra tuồng vuốt ve âu yếm. Có thương thì ba nó để bụng mà thôi. Má nó lại hay khóc, và lo lắng cho nó đủ điều. Đây nó đi rồi má nó khóc cho mà coi. Nhiều lúc nó cứ nghĩ sao má nó chỉ đẻ mỗi mình nó, phải chi nó có một đứa em, một đứa em gái như con Quế con chú Tám chẳng hạn thì dầu nó có đi, má nó hú hí với em nó cũng đỡ buồn. Bữa nay, trong lúc ba nó to nhỏ dằn dò nó trước lúc ra đi thì má nó nấu cơm dưới bếp. Má nó đương xào cái món gì bay mùi thơm quá. Chắc là hủ tiếu xào tôm. Món đó nó ưa lắm. ở đây rồi nó không được ăn, vì lẽ không có tôm. Cứ như lúc còn ở trong Tân Hiệp thì nó ăn thường. Nó làm siêng xuống rạch mò một chút là xách lên một xâu vài chục con tôm càng xanh. ở đây thì nhịn thèm. Sáng nay má nó cầy cục xin phép thằng Hai công an đi chợ mua về được một mớ tôm. Mắc muốn chết, có tám con tôm mà tới mười lăm đồng.

Giữa lúc má nó sắp dọn chén ăn cơm thì nghe có tiếng chân ai đi lạo xạo trước cửa. Nó ngó nhóng ra thì thấy thằng Hai công an. Hắn dừng chân trước cửa nhà, thọc sâu hai tay vào túi quần "đạcgờrông" kêu lớn:

- Ê, Ba Đô ơi, tối nay đi học tập nghe. Học về chánh sách chiêu hồi, quan trọng lắm đa!

Nói tới đó không thấy ai lên tiếng, hắn la lớn:

- ủa, nhà bộ chết hết rồi sao, không thấy ai lên tiếng vậy kìa!

- Có tôi ở nhà đây - Chú Ba đáp, nhưng vẫn không bước ra.

Tên công an nói:

- Kêu sao mần thinh vậy. Nè, tôi nhắc lại tối nay ra trụ sở học tập nghe, để thông hiểu chánh sách Ngô tổng thống rồi có bà con ai theo Việt Cộng thì kêu họ về... Chà... xào nấu giống gì mà bay mùi thơm dữ vậy?

- Dạ, bữa nay hết gạo xào hủ tiếu ăn trừ cơm đó thầy Hai!

- à... à, xào hủ tiếu ăn trừ cơm... Sung túc chưa, vậy mà hồi đó kêu đi ra đây còn làm bộ!

- Dạ, sung túc... thì cũng sung túc...

Tên công an ngắt lời chú Ba:

- Đó, đó sắp sửa mở giọng nói mắc mỏ rồi đó!

Tên công an đi khỏi, chú Ba lẩm bẩm:

- Lại chiêu hồi. Chiêu hồi ai đâu không thấy chớ nay mai tao cho con tao đi ra với Việt Cộng cho bây coi.

Ngay hôm sau, sau khi cơm nước xong, chú Ba gọi con đem bình mực và cây viết ra cho chú. Rồi chú bảo nó đứng ở cửa gác chừng. Chú nghĩ rằng không thể để con mình đi vô đó tay không được. Giao đứa con trai độc nhất của mình cho cách mạng, bổn phận người cha, chú thấy cần phải có ít lời. Chú cầm bút chấm vào bình mực. Có một cái gì rất thiêng liêng dâng lên trong người chú khi chú hạ bút sắp sửa viết những dòng chữ ấy. Chú Ba có cảm giác như hồi ở trong kia chú đứng chào cờ trong các buổi lễ, hoặc lúc chú đốt hương trong ngày đi tảo mộ liệt sĩ. Cái cảm giác đó làm mi mắt chú nóng hổi, rân rấn. Thành ra cây bút chú cầm trong tay cứ run lên. Thành ra cây bút chú cầm trong tay cứ run lên. Ngồi đã lâu mà chú chưa viết được một chữ. Vả lại, thuở giờ chú Ba có hay viết thư từ gì đâu. Nói sao cho rành rẽ, cho anh em hiểu được ý mình, tình mình đây. Quả là khó. Trước hết, chú nghĩ, phải nói là "Hai vợ chồng tôi chỉ đẻ được một thằng con trai"... Mà không ổn rồi, viết thư cho cách mạng mà gọi con mình bằng thằng như ở nhà thì không được. "Hai vợ chồng tôi chỉ có một đứa con trai..." Phải nói như thế. Chú Ba ngồi trên bộ vạt sau, khom lưng, nắn nót viết từng chữ. Lúc nào chú nghe thằng Trung húng hắng ho thì chú đút tờ giấy xuống chiếu. Xong lại đem ra viết. Cứ thế mãi tới lúc mặt trời đứng bóng chú mới viết xong bức thư. Một bức thư mà trong đời mình, người nông dân ấy chưa hề viết.

***

Buổi chiều nay cả nhà chú Ba ăn cơm sớm. Thím Ba ăn không được. Bưng chén cơm lên thím lại nghẹn ngào đặt xuống. Thằng Trung ăn cũng không thấy ngon. Chỉ có chú Ba là lặng lẽ ngồi ăn, thản nhiên như mọi bữa. Chú nói với con, giọng có phần âu yếm hơn ngày thường:

- Rán mà ăn chút :Dnh đi. Bữa cơm này là bữa cơm cuối cùng má mày nấu cho mày ăn đó!

Thím Ba nghe chồng nói câu ấy thì không chịu nổi nữa. Thím đưa ống tay áo lên quệt nước mắt lia lịa. Đoạn thím buông đũa, đi lại bộ vạt ngồi khóc sụt sịt. Thằng Trung và nốt mấy miếng cơm rồi cũng đứng dậy. Nó nói vẻ cứng cỏi:

- Thôi, đừng khóc má. Con đi đây đáng lẽ má phải mừng mới phải... Trời tối rồi, cái gói quần áo của con đâu?

- Đây!

Thím Ba lấy gói quần áo cột túm bằng chiếc khăn sọc đưa cho con. Tấm khăn đó thím đội thường ngày, nay đem gói quần áo cho con trai. Thằng Trung ôm cái tay nải, ngồi xổm dưới đất. Nó nghe từ tấm khăn toát ra mùi mồ hôi quen thuộc của má nó. Cái mùi mồ hôi tần tảo, lam lũ lao động của người mẹ chợt làm cho đứa con rộn rực một cách khó tả. Thằng Trung biết má nó nghèo nên không sắm cho nó một cái khăn mới. Nó cảm động, rơm rớm nước mắt. Nhưng nó quay mặt về phía bóng tối, giấu không cho má thấy. Nó thầm nghĩ, dầu cho nó có đi theo quân giải phóng tới chân trời góc biển nào, nó cũng sẽ giữ cái khăn ấy nhứt định không để mất. Nó chợt có cảm tưởng rồi đây má nó sẽ ở bên nó mãi mãi. Lúc ấy, má nó cũng ngồi thụp xuống, giúi vào tay nó một cái gói gì bằng giấy:

- Đây là tiền, con cất để dành xài...

Thằng Trung mở gói giấy. Nó thấy trong đó có bốn tờ giấy bạc năm chục đồng. Nó chỉ lấy một tờ, còn bao nhiêu nó đưa cho má nó.

- Đi bộ đội, lo gì!

Má nó không bằng lòng. Nài nỉ mãi nó mới chịu cầm thêm năm chục đồng nữa là chẵn một trăm.

Ba thằng Trung ăn cơm rồi quầy quả đi đâu, một chốc sau ba nó trở về, nói:

- Tôi đã gặp lính Tư, êm rồi!

- Đi chưa, ba?

- Chưa. Khuya khuya một chút mới đi được. Đây này, mày cầm cái này...

Chú Ba lấy cái thư trao cho con căn dặn:

- Cất kỹ nghe, vô đó trao cái thơ này cho chú Chín Tâm, ổng là chi bộ ở Mỹ Hiệp. Nếu không gặp chú Chín Tâm, gặp bộ đội hay du kích đưa cũng được. Tao dặn lại, một lát nữa cứ thẳng ra cửa mà đi, đã có lính Tư gác ở đó, không sợ gì. Đi một đỗi mày sẽ qua sông, lúc đó chẳng có súng nổ, nhưng cứ tỉnh, tiếng súng của lính Tư bắn, không lo. Có điều là vô tới vườn rồi thì phải bỏ đường bộ, xuống kinh lội đi. Trên lộ bà con người ta gài chông đi không được đâu...

Thím Ba nghe nói thế thì lo lắng ra mặt. Thằng Trung bảo: "Được rồi".

Chừng một tiếng đồng hồ sau, thằng Trung bước khỏi nhà. Ba nó đứng coi hoặc chừng đường. Nó đi một mạch. Lúc ngoảnh lại nó thấy bóng má nó đứng trên thềm nhà. Nó biết má nó đương khóc, nhưng không dám khóc lớn.

... Bây giờ thì thằng Trung đã ra tới cửa ấp. Nó thấy cửa mở he hé, chớ không đóng. Nó liền đẩy nhẹ một cái, lách qua rồi thoăn thoắt bước đi. Chốc sau nó qua khỏi hàng rào dây thép gai cuối cùng tới chân đồng. Nó xốc cái tay nải lên vai, bắt đầu chạy... Gió thổi lộng. Không khí trong lành quá. Chạy một quãng nó dừng lại thở. Nó cảm thấy không khí nó hít vào mát mẻ, dễ chịu hơn ở trong ấp nhiều lắm.

Tới bờ sông, thằng Trung cởi hết quần áo bỏ vào khăn, buộc túm lại. Nó giơ cái tay nải cao quá đầu, lội qua sông. Quả nhiên đúng như lời ba nó nói, lúc nó lội gần tới bờ thì nghe một phát súng nổ "đoàng". Vốn biết trước nên nó vẫn tỉnh, lên bờ lấy quần áo mặc vào. Nhìn về phía ấp chiến lược, nó thấy đèn ở chòi gác le lói. Lại thấy có ánh đèn "pin" chiếu lố nhố, nhì nhằng. Thằng Trung nghĩ bụng "Chắc tụi nó đương kiếm bắt mình".

Nó rơi vào tới ven vườn thì đêm đã khuya. Theo lời ba nó dặn, nó lại cởi quần áo lội xuống kinh. Nước chỉ tới ngực. Nó trầm mình dưới nước mà đi. Đi được một quãng, thình lình nó nghe một tiếng quát từ trên bờ dội xuống:

- Ai đó!

- Tôi.

- Tôi là ai?

- Tôi... tôi ở ngoài ấp chiến lược vô đây, để tôi lên...

Một bóng đen trên bờ nhô ra. Rồi một bóng đen nữa. Họ chĩa mũi súng xuống kinh. Một ánh đèn "pin" vụt chiếu ngay mặt thằng Trung khiến nó lóa cả mắt. Nó nghe người kia nói:

- Có một người thôi... Một chú em.

- Chú ngoài ấp chiến lược vô à? Có ai nữa không?

- Không, chỉ có một mình tôi thôi!

Thằng Trung vừa nói vừa leo lên bờ kinh. Nó vội vàng mặc quần áo rồi hỏi thăm chú Chín Tâm. Hai người đó bảo Chín Tâm đi vắng không có nhà, ở đây giờ chỉ có bộ đội ở. Một người bước sát lại gần nó hỏi khẽ.

- Chú em có chuyện gì đó? Có thể nói với chúng tôi được không?

Thằng Trung suy nghĩ một lát rồi gật đầu:

- Được.

- Vô nhà đi!

Thằng Trung theo một người đi vào nhà. Người đó đốt đèn, nhìn nó suốt lượt rồi đi gọi một người khác đương ngủ. Người được gọi thức dậy, dụi mắt hỏi:

- Gì đó?

- Báo cáo có một chú em vừa ở ấp chiến lược vào. Chú ấy muốn gặp đồng chí.

- Đâu, em ấy đâu?

Thằng Trung mạnh bạo đáp:

- Dạ, em đây!

Nói rồi nó mò trong túi lấy cái thư của ba nó đưa cho đồng chí ấy:

- Ba tôi dặn đưa thơ này cho chú Chín Tâm, nhưng nếu không gặp chú Chín Tâm mà gặp du kích hay bộ đội đưa cũng được.

Người chỉ huy đơn vị cầm lá thư, kê sát lại ngọn đèn. Mới đọc mấy dòng đầu, đôi mày rậm của anh chỉ huy vụt nhíu lại. Bức thư viết bằng mực tím, nét chữ ngoằn ngoèo và to cồ cộ:

Kính mến gởi anh em Cách mạng giải phóng,

Vợ chồng tôi chỉ có một đứa con. Vì tình cảnh bị kẹt nên tôi phải ở trong ấp chiến lược. Trước đây vợ chồng tôi được Cách mạng cấp đất nên làm ăn đặng khá. Tôi vốn chịu ơn Cách mạng và Đảng rất nặng. Nay con trai tôi (là đứa cầm thơ này) đã lớn, tôi không thể để tụi Mỹ - Diệm bắt nó đi lính đánh lại Cách mạng. Tôi không đành lòng mà chịu cảnh đó được. Vậy nên vợ chồng tôi từ trong ấp chiến lược gởi đứa con trai một của chúng tôi cho Cách mạng. Xin coi như tôi hoàn toàn dâng cho Đảng đứa con của tôi. Nó còn khờ khạo, mong anh em cứ dạy dỗ, chỉ bảo cho nó thành người thì vợ chồng tôi lấy làm mừng lắm.

Nay kính thơ

Nguyễn Văn Ba, bần nông

Bên dưới lá thư, ngoài chữ còn có dấu lăn tay, ngón cái và ngón trỏ, lăn bằng lọ nghẹ với dầu dừa. Đọc xong bức thư, người chỉ huy vui vẻ bước tới đưa hai bàn tay chụp lấy vai thằng Trung, làm như tự nãy giờ chưa thấy nó:

- Em đó hả? Ba em gởi tới đây à?

Thằng Trung tủm tỉm gật đầu. Người chỉ huy tiếp lời:

- Tôi có nghe chú Chín Tâm của em nói. Thôi được, em cứ ở đây. Có lẽ là em sẽ đi với chúng tôi. Bây giờ khuya rồi, chúng ta đi ngủ, mai sẽ nói chuyện thêm. Mùng tôi rộng, em vô mùng tôi mà ngủ.

6-1963


END
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #5  
Old 05-15-2004, 02:24 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

Người gác đèn biển





Tàu chúng tôi neo cách đèn Hoa Lăng không đến hai cây số. Được đồng chí thuyền trưởng cho phép, anh thợ máy Voòng Tài Phát, một người Hoa kiều lai Việt Nam rủ tôi hạ xuồng bơi ra tháp đèn Hoa Lăng thăm ông cụ gác đèn, người mà anh thường gọi là ông Sáu Hoa Lăng, trước vốn là bạn của bố anh. Chiếc xuồng của tàu đã tháo máy, thành thử hai chúng tôi phải dùng bơi chèo. Anh Tài Phát chỉ tôi bơi theo lối bơi thủy quân, cầm thuận mà bơi ngược. Tôi quen lối bơi Nam Bộ nên cứ vô ý để mái chèo luôn phải chèo của anh Phát.

Nhờ gió và sóng xuôi, một chốc sau xuồng chúng tôi cũng đã đi gần đến tháp đèn Hoa Lăng. Tháp đèn Hoa Lăng không phải là một ngọn hải đăng lớn, nó là một ngọn đèn biển để tàu to từ ngoài biển bắt chập đi vào cho đúng lòng lạch. Đó là một ngôi nhà gỗ màu xám cất trên bốn cây trụ bêtông chôn chân xuống mỏm đá. Cây trụ tháp đèn cao gấp hai nóc nhà cũng xây dính vào một góc của ngôi nhà ấy. ở giữa biển, cái nhà đèn Hoa Lăng, trông thật trơ trơ, cô độc. Về mép trái còn có những rặng núi, những hòn đảo nhỏ xanh lam của vịnh Hạ Long nô ra, kỳ dư chung quanh chỉ có biển cả mênh mông. Mỏm đá dưới chân đèn cũng là màu xám nốt, coi như bị lên mốc, sóng cứ vỗ bì bõm mãi không thôi. Trên mái nhà lợp tôn nghiêng nghiêng, thấy có cái ống khói thiếc nhỏ đang chậm rãi thả ra một làn khói trắng mềm mại, nhỏ như sợi chỉ.

Cuối cùng chúng tôi đến nơi, rấn mũi thuyền nhè nhẹ vào mỏm đá. Nghe tiếng động bơi chèo, từ trên nhà một con chó mực chạy ra sủa ăng ẳng. Giữa biển nghe tiếng chó sủa tôi thấy thú vị. Có tiếng người lục đục trong nhà tôn. Một ông lão ló cái đầu bạc hói ra khỏi cửa, rướn mắt nhìn xuống. Sau đó ông lão nhận ra và kêu lên:

- Anh Voòng đấy à? Giời ơi, thế mà tôi cứ tưởng... Buộc thuyền vào cột đi. Có xích chứ? Không à. Thế để tôi lấy xích...

Chúng tôi buộc xuồng, với sợi dây xích ông lão ném từ trên xuống, rồi leo lên thang. Chưa tới nấc thang cuối, ông cụ đã với tay chúng tôi lên. Ông cụ nhìn anh Tài Phát, khen anh ta béo, đoạn chụp cả tay tôi kéo vào. Tôi bước vào nhà, bỡ ngỡ và thấy thích thích. Gọi nơi này là nhà khí hơi quá đáng. Một cái lều vách gỗ mái tôn. ở ngoài lều, đặt một bộ ván và tận trong kê một chiếc giường rộng. Trên vách lủng lẳng treo mấy bộ sách cũ vàng khè. Nhà có bao nhiêu khoảng vách trống đều dán tranh. Có đủ cả một bộ tranh của các đồng chí Trung ương Đảng, từ Hồ Chủ tịch đến đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng. Vách bên trái có một bức tranh vẽ ba vị võ tướng đời xưa, đang lẫm liệt ngồi trên mình ngựa. Vị ở giữa cầm gươm, cưỡi ngựa hồng. Hai vị hai bên người cưỡi ngựa bạch người cưỡi ngựa ô, tay sử dụng thương và thanh đao lớn. Cả ba người ghìm ngựa bên bờ sông, bờ sông lắt lay những cây lau nhỏ. Bức vẽ hình như do tay một người thợ mã nào đấy vẽ ra, bên dưới lại chú một dòng chữ Hán nguệch ngoạc.

Thấy tôi để ý tới bức tranh, ông cụ nhìn tôi có vẻ trân trọng lắm.

Chúng tôi ngồi xuống bộ ván. Ông cụ nói:

- Nghe tiếng tôi cứ ngỡ là cái Đào, anh Voòng ạ, nào ngờ các anh.

Rồi ông cụ hỏi tôi:

- Anh cũng ở dưới tàu 12?

Anh Voòng đỡ lời:

- Vâng, đồng chí thủy thủ mới đấy cụ ạ.

- Thảo nào tôi không biết, các anh ở tàu 12 tôi đều thuộc cả.

Tôi mỉm cười, đáp:

- Tàu còn neo đậu, chúng cháu rỗi, anh Phát rủ cháu ra đây chơi, nhân thể thăm cụ.

- Cám ơn, các anh đến chơi thật là tôi cảm ơn lắm!

Anh Voòng có mang theo một chục con khô mực làm quà tặng ông cụ Sáu. Ông cụ vừa mở gói khô ra xem vừa nói:

- Anh Voòng quý tôi quá, chừng này mực lão già có thể uống rượu hai tháng đấy các anh ạ!

Nói xong ông cụ loay hoay đi gần lại lò than trong góc nhà, chuẩn bị một bữa nhắm. Một chốc sau, khắp gian lều bay lên mùi mực nướng thơm lừng. Ông cụ đem ra một cái vò đất tráng và một lọ dưa chuột đặt giữa bộ ván. Ông trỏ vào vò rượu, nói: "Đây là của thằng em rể nó cho tôi". Và chỉ vào lọ dưa, cụ nói: "Đây là của con bé cháu nó làm đấy". Ông cụ vừa gắp dưa ra đĩa vừa nói:

- ở đây buồn quá đi mất. Có con bé cháu, chứ không thì còn buồn nữa. Cứ mỗi hai ngày nó chèo thuyền ra đây một lần. Có khi bận việc thì bốn năm hôm. Hễ dăm hôm mà nó chưa ra thì tôi nhớ nó lắm rồi. ấy là nó bận việc đồng, vả lại làm đằng thành niên cứ họp hành suốt. Tôi ở đây, khổ quá, ở làng bây giờ cứ sôi nổi cả lên, thôn nhà lại vừa lập hợp tác xã, mà tôi thì cứ ở đây... Hết đan lưới lại nghiền ngẫm mấy pho truyện cổ. Đâu có nghe thấy tiếng người, chỉ nghe thấy tiếng sóng vỗ, tiếng tàu, tiếng chim kêu... Các anh có dịp ra đây ở thử dăm mười hôm rồi thì biết. Hẳn là các anh đòi về ngay thôi. Chịu đựng sự buồn tẻ hình như người già thì chịu giỏi hơn... Mà nói thế, chứ ai lại bắt các anh ra đây, các anh còn làm việc khác, sức các anh còn phải để kéo dây, làm máy... ra chốn này nó cũng hoài đi...

Ông cụ Sáu dừng lại trao hai cốc rượu cho tôi và anh Phát:

- Nào, nhấm nháp đi chứ... Rượu cẩm chính gốc đây.

- Mời cụ!

- Uống đi, tôi uống đây.

Ông lão một tay với cốc rượu, một tay cào khẽ vào sườn:

- Tôi già rồi, chỉ còn có cái tật xấu này. Anh Voòng với các anh đây cũng bỏ quá cho tôi nhé. ồ, uống đi chứ... các anh!

Anh Phát cầm cốc rượu uống cạn. Tôi nâng cốc nhìn cái sắc rượu tím sẫm sau lớp thủy tinh, đoạn tợp nhẹ một hớp. Chất rượu cô đặc, hồ như có chất nhựa dính. Ông lão cũng uống một hớp, đặt cốc xuống, xé một thớ mực khô để vào mồm chép một cái, lấy ra thứa khô vẫn còn nguyên.

Ông lão nói:

- Lúc mình đang sức trai, thèm đủ thứ thì không có mà ăn. Đến giờ có lắm cái ăn thế này thì mồm đã thấy nhạt nhẽo rồi.

Tôi hỏi:

- Cụ ra đây đã được bao lâu?

- Lâu. Bỏ đồng ruộng ra ở giữa biển thế này hai chục năm dư rồi. Sống cái đời một thân một nhà một cửa anh ạ.

Lặng lẽ một chốc, ông cụ thở dài:

- Tổ tiên nhà mình thì oanh oanh liệt liệt, còn mình thì nhỏ nhít thế nào ấy. Ông cụ cố đời trước của tôi là tướng đời Trần theo hầu đức Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Bức tranh mà anh vừa xem đấy, ngài đang ngồi trên lưng con ô mã bên trái đấy!

Tôi đưa mắt nhìn lại bức tranh:

- Ai vẽ đấy cụ?

- Một người thợ vẽ trong làng. Không được biết ông cụ cố diện mạo thế nào. Nhưng tôi đọc trong gia phả rồi cứ bảo anh ấy vẽ. Đó là một tay vẽ cừ, vẽ các ngài ấy xem thần sắc oai phong lắm đấy chứ, phải không anh?

- Vâng, ở làng mà vẽ thế là khá!

Ông cụ Sáu uống thêm một hớp rượu nữa rồi nói:

- Tôi mà ra đây cũng là bởi sự nghèo đói đưa đường đấy thôi. ở làng không có đất. Nhờ từ nhỏ có học võ vẽ ít chữ, nên tôi được người chú họ xin cho vào làm ở ty lục lộ. Lâu quá rồi, quên mất cả năm, chỉ nhớ đại khái là hồi ấy tôi băm sáu. Trước tôi coi ở đèn Long Châu. ở chung với ông cụ anh Voòng đây. Tội nghiệp, ông cụ bị ngộ gió độc mà phải chết... Sau khi ông cụ anh Voòng mất thì tôi về đây. ở đây được trên hai chục năm rồi anh ạ.

Tôi ái ngại nhìn ông cụ Sáu nói:

- ở một mình thế này hẳn buồn lắm hở cụ?

- Phải, còn nói gì nữa. Anh xem, có gì đâu, ngoài gió với sóng. Ban đêm thì có sao mọc trên trời, thế thôi. Bầu bạn của tôi ngoài ra còn có mấy đàn nhạn, lũ chim chằng bè tìm cá trên biển. Con bé cháu nó cũng về làng rồi. Có con mực đấy, con chó yêu của tôi đấy. Nhiều lúc tôi thèm tiếng người quá anh ạ. Xa làng, nhớ vơ nhớ vẫn mãi... Anh tưởng tôi thích ở đây lắm sao? Không, tôi thì có khác gì các anh, tôi cũng thích ở trong làng chứ, nhưng bởi vận nghèo, phải, chính vận nghèo nó đã đẩy tôi ra đây, buộc tôi phải sống trọn một đời. Giờ thì sắp đến lúc được trả về cái miếng đất cũ rồi... Những năm đầu, hồi còn thời Tây, ban đêm nghe sóng vỗ gió gào, nhớ mảnh đất làng sao mà nhớ quá thế. Tôi nhớ cái ngày tóc còn để chỏm, học ở nhà thầy đồ chiều về ra giếng lặn hụp tới tối mịt. Ngày mùa lúa gặt xong, làng mở đám rước phường chèo về hát, hội hè cờ mở trống rong. Tôi nhớ con đường mòn, nhớ từng họn gạch vụn bên đình thờ Ngũ Hổ tướng phò Đức thánh Trần, và nhớ cả giọng nói của ông từ giữ đình kể cho chúng tôi nghe sự tích đức thánh Ngài dùng gươm báu chém tặc tướng Phạm Nhan. Tôi không quên ngày nhà tôi bán nốt sào đất cuối cùng, rồi đói kém đến, ông cụ tôi chết gục dưới gốc đa. Làng tôi nếu leo đứng trên tháp đèn, thì có thể thấy dạng ngọn đa to ấy, còn thì chả thấy được gì sốt, tất cả đều khuất sau rặng núi vịnh kia. Nhưng phải nói nỗi buồn nhớ đó thực là không thấm tháp vào đâu. Kẻ sắp chết đói mà vớ được miếng ăn thì buồn bã nào mà chẳng chịu được. Ngày qua tháng lại, nhìn mặt trời mọc lên lặn xuống sau vịnh núi hằng trăm lần rồi cũng quen đi chứ. Duy chỉ có một nỗi buồn không tan đi được, cái nỗi buồn ra đây mới thấm thêm vào ruột gan. ấy là mỗi lần nhìn thấy tàu người từ ngoài chạy vào, chạy ngang qua đây rồi chạy ngang qua cửa sông Bạch Đằng, tàu nào cũng treo lá cờ tam tài. Đó mới là đau anh ạ. Cửa biển là của nước mình, sông nước đất địa Bạch Đằng là chốn liệt oanh của cha ông mình, nhưng tàu người lạ vào lại thượng cờ kẻ thù mình lên, anh nghĩ có đau không? Mà tôi thì tôi ở đây hàng ngày phải ngắm cái cảnh ấy. Nhiều lần tôi nhìn thấy thế xong, trở vào nhà chợt trông lên bức tranh tượng của đại vương đây thì cơ hồ như thấy đôi mắt của đại vương ngài đang nhìn tôi có vẻ trách móc. Cả ba ngài đều nhìn tôi với cặp mắt như thế. Tôi lẩn ra cửa, các ngài cũng nhìn theo. Dần dần mới thấy đôi mắt các ngài trở lại từ tốn như cũ. Tôi nghĩ bụng, đại vương vốn là tổ tiên của mình, chẳng nhẽ lại làm mình khiếp đảm, nhất là đêm đến, tôi khấn nguyện vía các ngài đừng quở phạt tôi, thế nào tôi cũng tìm cách báo đáp cho bằng được. Nhưng tôi không có cơ hội, tôi gác đèn, tôi làm cái gì được cơ chứ...

Năm 49, vào một đêm tháng chạp, tôi đang ngủ chợt nghe tiếng kêu la văng vẳng vọng đến bên tai. Tôi vùng tỉnh dậy, thì không nghe thấy tiếng kêu ấy nữa. Tôi chắc là mình nằm mơ đó thôi. Nhưng cố nhớ lại thì trong lúc ngủ không có chiêm bao gì hết. Từ đó tới sáng, tôi cũng không chợp mắt được. Rạng ngày, tôi ra ngoài, định lên tháp đèn xem lại nồi hơi, chợt thấy có một người nằm dưới bãi đá. Một tay người đó đưa ra phía trước bíu lấy một tảng đá. Tôi tuột thang xuống, nhìn kỹ thấy người đó đã chết. Một người đàn ông tuổi vào khoảng ba mươi, vẻ mặt còn như sống, coi hiền lành quá. Trong tay người đàn ông ấy còn cặp theo một đứa bé gái độ lên chín. Đứa bé mắt nhắm nghiền, mặt tái đi, nhưng mũi hình như vẫn còn thoi thóp. Tôi vội vàng quỳ xuống, nhặt một cọng rêu đặt lên trước mũi nó, thì thấy cọng rêu rung rung. Thế là tôi vội xốc đứa bé dậy. Bàn tay của người đàn ông quặp lấy đứa bé rất chặt, phải mở tay anh ta ra mới xốc được đứa bé lên. Rõ ràng là cánh tay của một người cha anh ạ. May là đứa bé bị uống nước không nhiều. Tôi bế nó lên nhà, thay quần áo ướt của cháu, lấy chăn trùm đắp lên người cháu và lập tức đốt lửa sưởi. Còn lại bao nhiêu rượu trong vò tôi đều vốc cả ra, xoa mạnh khắp người cháu. Có hơi ấm của lửa và rượu, cánh mũi con bé phấp phồng. Mười phút sau, đôi mắt non dại của cháu từ từ hé ra. Tôi reo lên. Thú thực với anh, có lẽ thằng cha coi đèn già như tôi lần đầu tiên mới có được cái nỗi vui sướng như vậy... Ông cụ Sáu nói tới đây thì ngừng lại. Anh Tài Phát của tôi đã nốc tới cốc thứ tư. Anh ta uống rượu rất khá, càng uống mặt càng xanh tái đi. Mọi việc, từ việc chuốc rượu ra cốc tới việc chạy lại đặt thêm mấy con khô mực lên hỏa lò, anh Tài Phát xăng xái làm thay cho ông cụ Sáu cả. Anh lại tỏ ra hết sức nâng niu chăm sóc câu chuyện của ông cụ Sáu đang kể cho tôi nghe. Đến như ông cụ sắp muốn hút thuốc lào, anh cũng biết ý, vội mở cái hộp thiếc vê ngay cho ông cụ một điếu.

- Thế là con bé được tôi cứu sống - ông cụ Sáu tiếp lời - Người đàn ông nọ chính là bố nó. Sau lúc con bé hồi tĩnh, tôi lên thăm nồi hơi, chợt nhìn thấy nhiều mảnh ván thuyền trôi bập bềnh trên mặt biển. Tôi lấy làm lạ, chẳng biết có việc gì ghê gớm vừa xảy ra trong đêm qua. Về sau mới rõ ra là một đoàn thuyền lưới bị tàu nhà binh Pháp đụng tan tác. Chúng nó bảo là vì những thuyền lưới kia đậu trong luồng tàu chạy. Nhưng nào có phải thế. Sự thực là thuyền bà con đỗ lại lưới ngoài luồng cấm, chúng nó đi vây quét ở Gia Luận về, chạy thành hàng ngang ba chiếc một, chạy lấn ra luồng lạch và mặc dù trông thấy đèn thuyền chúng vẫn đâm bừa. Chả là chúng nó thù anh em đi lưới, phần đông đều có tham gia du kích bí mật. Tất cả người trên sáu chiếc thuyền đều chết. Vài ba chiếc khác bị va nhẹ cũng đắm, một ít người sống sót, như trường hợp chiếc thuyền của người đàn ông bố đứa cháu bé. Giữa đêm, lúc tôi nghe thấy tiếng kêu, mà tôi cứ ngờ là nằm mơ, đó chính là tiếng kêu cuối cùng của anh ta sau khi đã dành tất cả hơi sức đem được đứa con lội vào tới chân bệ đá tháp đèn. Từ chỗ xảy ra tai nạn đến tháp đèn có đến hai cây số. Thật là một tay dân chài bơi giỏi mới có thể vừa cõng con vừa lội một quãng dài như thế được. Tình thương con làm người bố có thêm sức lực đấy anh ạ. Chắc chắn là nhờ có cái ấy. Huống hồ cháu bé lại là con gái đầu lòng của anh. Sau khi vớt được xác anh ta và cứu được con bé, tôi có nhắn tin về vùng lưới Cát Hải, Cát Bà. Tôi được biết anh là một du kích bí mật, có người vợ cũng đã chết ngay trong đêm ấy, ngoài ra anh không còn ai là ruột thịt nữa. Bà con đánh cá chèo thuyền ra đây đem xác chết người đàn ông ấy về chôn cất và rước đứa bé về nuôi. Bà con đánh cá xưa nay vẫn tốt bụng như vậy đó anh ạ. Nhưng tôi khẩn khoản xin bà con giao đứa bé ấy cho tôi. Tôi hứa với họ là sẽ hết lòng chăm sóc nuôi nấng nó cho khôn lớn. Chỉ một ngày một đêm, có cháu bé bên mình, tôi thấy không thể dứt nó ra được nữa rồi. Tôi nấu cháo cho nó ăn, quấy trứng cho nó uống. Tôi nâng niu gìn giữ cho nó trở lại sức khỏe cũ. Cố nhiên là sau đó nó có nhiều lần khóc đòi mẹ. Tôi dỗ dành, bảo rằng mẹ cháu không bao lâu sẽ về với cháu. Nói thế nhưng bụng dạ mình cứ đau lên nhoi nhói. Con bé dần dần cũng phải quên đi và cũng đến lúc không khóc nữa.

... Từ đấy cháu sống với tôi. Tôi bắt đầu cảm thấy hình như gương mặt của các vị đại vương trong bức tranh treo trên vách có vẻ bằng lòng. Tôi thầm nói với các vị ấy rằng: "Tôi đã sắp kề mệng lỗ rồi, tôi là một người gác đèn già lão, tôi không có cách gì báo đáp công ơn của các ngài khác hơn bằng cách dốc lòng nuôi đứa bé con của người du kích này lớn lên, chăm sóc cho cái răng của nó được chắc, sợi tóc của nó mọc được dài, kể như là mình gìn giữ nuôi nấng một cái mầm non tươi có thể có ích cho làng nước mai sau". Như vậy vừa trả được chút nghĩa mà cũng là vừa báo được một chút ân oán. Dần dần tôi có cảm giác hình như tôi có phần được linh lợi sáng láng hơn trước anh ạ. Mùa đông thấy ấm lên và mùa hè nghe tiếng ríu rít của con bé thì đang nóng bức cũng mát mẻ ra. Cuộc sống của hai ông cháu tôi bữa cơm bữa khoai cũng không đến nỗi nào, nhờ vào cái đồng lương ba trăm của ty hải đăng phát cho mỗi tháng. Năm ấy con em gái tôi nó lại cho con chó Mực. Thế là từ chỗ có một thân, giờ chúng tôi có tất cả là ba người. Ba người chúng tôi sống như một gia đình, hệt như ba con chim cu nương náu trong một cái tổ. Cái tháp đèn, anh ở xa trông, chẳng phải giống hệt như cái chuồng cu là gì... Hàng ngày, tôi ngoài việc coi hơi chứa, ghi vào sổ nếu có tình hình gì xảy ra, tối đến đốt đèn thì chẳng có việc gì khác. Tôi liền dạy cháu học chữ và dạy cho cháu cùng đan lưới với tôi. Con bé thông minh lạ, không bao lâu đã đọc được mặt chữ và đan lưới rất giỏi. Mỗi lần bán được lưới, tôi lại gởi người ta mua sắm một thứ gì cho nó, có khi là một khăn trùm đầu, có khi là mấy thước vải.

Nhờ trời, ba chúng tôi được sống xuôi thuận như thế cho tới ngày đình chiến. Con bé cháu được mười bốn tuổi, tôi thì vừa đúng năm nhăm. Tôi bắt đầu trông thấy nhiều việc lạ. Đứng tại cái tháp đèn này mà trông thấy thôi. Đầu tiên buổi sáng dậy nhìn thấy tàu nhớn tàu bé của giặc rút ra cửa Nam Triệu... Trưa hôm ấy, leo lên tháp đèn nhìn về làng bỗng trông thấy một vật gì đỏ đỏ sau rặng núi Rú. Thì ra đấy là một lá cờ đại treo trên cây đa to làng Gia Luận. Chiều đến thì có một chiếc thuyền chèo thẳng từ cầu hải đăng ra. Một đồng chí cán bộ tới thăm tôi. Đó là sự tôi không ngờ đến. Trước nay, trừ con em gái trong làng và người cai lục lộ mỗi tháng ra hai lần xem xét đèn đuốc thì có ma nào đến với tôi đâu. Anh cán bộ hỏi han an ủi hai ông cháu tôi và căn dặn tôi cứ làm công việc cũ, trông nom cho đèn cháy được tốt. Anh ấy còn nói là từ bây giờ trở đi cái tháp đèn này là của mình rồi, nay mai tàu các nước sẽ đến, vì thế phải giữ hơi chứa cho đầy đủ, đốt cho ánh đèn càng tỏ rạng hơn xưa. Tôi nghe anh ấy nói thì cảm động quá anh ạ. Lúc đó tôi muốn đáp lại rằng: "Anh cán bộ ơi, xin anh hãy tin tôi, ông lão này từ nay cũng vẫn sẽ ở tại cái tháp đèn này, sẽ lo đốt cho cây đèn cháy sáng mãi đến tận lúc hơi thở ông lão tắt". Tôi muốn nói một câu như vậy, nhưng lắp bắp thế nào mà nói không nên lời, sau cùng chỉ vụng về gật gật cái đầu bạc, nước mắt chảy lăn ra trên gò má.

Người gác đèn gì nói tới đây, bỏ điếu thuốc lào nhỏ bằng hạt đỗ vê vê trong tay từ nãy giờ vào nõ điếu. Làn da dăn deo dưới ngấn mặt ông cụ giật giật liền mấy cái. Tôi thấy từ đôi mắt già nua ấy lừ đừ phát ra một tia sáng làm óng ánh cả những sợi mi bạc. Ông cụ hút xong điếu thuốc, phà khói. Giọng nói trầm trầm của ông cụ đều đặn cất lên giữa tiếng gió lùa trên mái tôn, giữa tiếng sóng vẫn lõm bõm đập vào mỏm đá bệ tháp:

- Một tuần lễ sau, tôi đã nhìn thấy tận mặt hai chiếc tàu Pháp lần đầu tiên chạy vào Phòng phải thượng cờ đỏ sao vàng của chúng ta lên :Dnh cột buồm. Tôi đứng lặng trên tháp đèn đưa mắt nhìn lá cờ bay lượn. Tôi nghĩ bụng: "Lá cờ của mình đấy, lá cờ của các vị đại vương hảo hớn đấy". Tàu chạy lướt qua, trước hết tôi cố nhìn thấy cho được toàn cái màu đỏ, sau đó cố nghiêng mắt nhìn thật kỹ đủ năm cánh sao. Có trời đất thành phần nào lường biết nỗi hả hê của tôi buổi sáng hôm ấy được. Tôi mới chạy vào lôi con bé Đào ra cho nó nhìn. Con bé giơ tay ngoắc ngoắc vẫy vẫy... Thế là từ đấy, chỗ ở của ông cháu tôi thì vẫn không thay đổi, vẫn ở trong cái lều này; nhưng đứng ở đây tôi đã nhìn thấy nhiều đổi thay kỳ lạ ở chung quanh. Năm sau thấy khói nhà máy xi măng cuồn cuộn bốc lên, năm ngoái này lại thấy nhô lên cái nóc lầu cao nguy nga của nhà máy cá. Con mắt già được trông thấy nhiều thứ tưởng tới chết vẫn chưa trông thấy kịp. Bây giờ tôi vẫn sống một mình nhưng không cô độc và không bị treo chân mãi một chỗ. Hàng tháng ở ty lại phái người ra gác thay cho tôi về họp công đoàn. Lúc con trăng bị ăn khuyết dần chỉ còn nhỏ bằng thân con cá lẹp, và nước kém rút xuống khiến những hòn đá trứng ngỗng bám đầy rêu dưới bệ nhô lên thì sắp có người ra gác thay để tôi đi họp rồi đấy. Có lần tôi về họp, ở trên định cho tôi thôi việc coi đèn và xếp cho một việc khác ở đất liền. Đồng chí trưởng ty nói: "Cụ Sáu đã ở ngoài nhà đèn hàng chục năm rồi, bây giờ cụ có muốn đổi một việc khác, nhẹ hơn và được gần gũi với bà con hơn không?". Tôi nghe nói, ngồi lặng tại chỗ, hồi tưởng lại mấy chục năm đìu hiu buồn bã, từ dạo tôi mới băm sáu, răng còn chắc, tóc còn đen, cho tới nay tuổi ngót sáu mươi, răng đã rụng hết bảy tám chiếc, tóc đã đổi cả màu, mới nghe thấy cái nhời nhẽ thấm thía như thế. Tôi nhớ lại những ngày bạc thếch, heo hút, những đêm dài nằm khoeo như con chó trong lều. Ôi, hai mươi năm giời. Tôi không có vợ, tôi không có con. Người ta nói kẻ không có vợ con như cây không có hoa quả. Tôi như cái cây đó. Tôi... tôi nhớ... hết, rồi cứ ngồi im, nước mắt chảy ròng ròng. Chính phủ biết cái nỗi cực của tôi, như thế là tôi thỏa rồi. Sau đó tôi nhìn đồng chí trưởng ty, lắc đầu, rồi chiều lại xuống thuyền, về nhà đèn. Đầu năm, có bác cai Hạ ra thay tôi nửa tháng, tôi được nghỉ dắt con bé cháu về làng chơi. Cảnh làng thay đổi nhiều quá. Cái đình cái miếu bị bom sập cả. Kẻ mất người còn. Nói chung tan tác lắm. Nhưng đã bắt đầu rôm rả trở lại rồi. Không còn ai ăn cháo nữa, không có ai đi vặt rong về ăn bậy ăn bạ như trước nữa. Người trong làng đều nhận ra tôi. Hai mươi năm rồi nhưng người nghèo vẫn nhận ra mặt bạn nghèo. Họ nói: "Ông cụ Sáu, ông cụ về đây thôi, về đây mà sống với chúng tôi đi!". Tôi mới đáp: "Cám ơn, quả là tôi muốn về lắm, về ngửi lại cái mùi đất cũ ít năm nữa rồi sẽ chui xuống lớp đất ấy, nhưng mà, các bà con ạ, tôi đi rồi ai sẽ coi đèn cho tôi, anh cán bộ đã dặn tôi phải đốt đèn cho tàu bè trên thế giới thấy đường mà vào nước mình chứ". Tôi nói với bà con như thế anh ạ. Rồi tôi trở ra đây. Dọc đường tôi bỗng nghĩ đến con cái Đào. Tôi lo thầm: "Cái Đào đã lớn rồi, chẳng lẽ lại để nó ở mãi đây ư? Bắt nó ở quanh quẩn trong cái chuồng cu này thì đến làm khổ nó mất thôi, mà rồi con bé cũng đâm ngớ ngẩn mất thôi. Hay là ta cho nó về đất làng. Phải rồi, gửi nó về cho ở với em gái ta"... Vì muốn cho cái Đào thành người mà tôi phải chịu để cho nó rời tôi. Khổ... khổ là. ít gì thì ông cháu tôi đã sống với nhau tám chín năm trời. Hàng ngày ông ông cháu cháu, bỗng chốc rứt ra, anh cũng biết là tôi khổ tâm lắm chứ. Nhưng đành phải thế anh ạ. Đời lão già này đã khổ rồi, nay cắn răng chịu khổ thêm một ít năm nữa cũng chẳng sao. Chứ để con bé thơ thơ ngây ngây thế kia phải u mê như lão thì lão mắc tội, phải không anh?

Thế là tôi thu xếp cho cái Đào về làng hồi hè sau kỳ tiếp quản. Cái đêm rạng ngày con bé đi, tôi đã nhắc lại rành mạch câu chuyện đau lòng của bố mẹ cháu cho cháu nghe. Trước nay, tôi chưa hé răng nhắc lại chuyện đó. Vì cháu còn dại quá. Nhưng trước lúc nó đi, tôi thấy cần phải nhắc lại với nó. Con bé mười lăm tuổi như nó có thể hiểu được rồi. Đành rằng tôi biết trước là tôi gợi lại thì thế nào cháu nó cũng sẽ khóc. Nhưng tôi nghĩ, sau khi nó rớt nước mắt, ắt nó nghĩ tới bố mẹ của nó. Tôi nói cho cháu biết rạng ngày mai cháu lên đường về ở trong làng là lên đường về báo hiếu cho bố mẹ đấy. Tôi nó rõ bố cháu trước kia là một người du kích gan dạ thế nào, mẹ cháu là một người đàn bà làm cá sần sùi cả đôi bàn tay để nuôi cháu thế nào. Cả bố mẹ cháu đều là người cực khổ, sinh nhai trên sông biển ra sao. Lúc tôi nói xong, cái Đào mở to đôi mắt nhìn tôi. Lúc đầu nó chưa khóc. Nhưng sau đó thì khóc đớn khóc đau. Một đứa trẻ khóc cha mẹ của nó, tám năm sau, giữa đêm hôm khuya khoắt nghe mà rứt cả ruột cả gan ra. Đêm ấy, hình như nó không chợp được mắt. Đến sáng, nó ra đi, nước mắt trên má vẫn chưa ráo.

Cái Đào đã về làng được bốn năm nay. Từ một con bé giờ đã thành một cô gái. ở Gia Luận nó làm việc đồng, đan lưới, vào thanh niên. Con bé được cái tính hiền hậu, vui vẻ. Nó lớn sao mà lớn từng ngày từng buổi. Con gái bây giờ đứa nào tới tuổi cũng đều lớn vụt lên như một bụi lúa đủ nước vậy. Mặt con cái Đào lúc nào cũng như cười anh ạ. Cái miệng cười, đôi mắt cười, khắp người nó cái gì cũng như muống nói: "Cháu vui sướng quá ông ạ". Thật là một con bé như vậy đấy, chẳng phải là tôi nói ngoa đâu. Cháu ở trong làng nhưng vẫn quyến luyến trìu mến tôi như ngày trước. Cứ hai hôm là cháu lại chèo thuyền ra một lần...

Ông cụ Sáu thôi nói, nhìn qua cửa. Không có gì. Chỉ có tiếng sóng chiều vỗ khỏe hơn, chốc chốc sóng giật sợi dây xích buộc xuồng bên dưới bật lên tiếng kêu xủng xoảng.

- Bữa nay đáng lẽ là bây giờ nó ra rồi đấy. Chắc là bận. Mỗi lần nó ra là tôi được biết tin tức mới trong thôn. Tôi ngồi đây, cứ nhìn cái Đào là tôi biết được bà con trong đó sống thế nào. Bà con trong thôn tôi mới rồi lập hợp tác xã. Họ săn được dê rừng làm tiệc, có gởi cho tôi một đùi. Lần đó con bé cứ nói suốt buổi về chuyện hợp tác, chuyện săn dê trên núi Rú. Nó nói bây giờ ai cũng có phần việc rõ rệt, đàn ông trai tráng làm đồng đi lưới, đàn bà con gái đan lưới chăn nuôi. Cái Đào được bầu làm tổ trưởng tổ đan. Con bé lại ở trong ban chấp hành Thanh niên lao động. Tôi trước kia dạy cho nó đan lưới, giờ hóa ra là tổ viên lĩnh phần việc của nó giao cho. Tôi mừng, nhưng lo nó ốm mất. Sao lại giao cho nó lắm việc thế nhỉ? Tội nghiệp, con bé cứ bận tíu tít cả lên. Tuy thế chứ nó không quên tôi đâu, mỗi lần ra đây y như là nó mang đến cho tôi sự vui vẻ. Có lần tôi bị ốm, sốt cứ mê đi, cái Đào ra, gọi nhưng không thấy tôi lên tiếng. Cháu hốt hoảng chạy lên. Sờ thấy trán tôi nóng hơ, con bé chảy nước mắt đầm đìa. Tôi nói: "- Ông còn sống đây, ông chưa chết đâu". Lần đó cả hai ông cháu tôi đều khóc. Sau đó con bé nó bảo tôi:

"- Thôi, ông xin Chính phủ với Đảng cho ông nghỉ đi, ông già rồi, để cháu ra gác đèn thay cho ông". Tôi nói: "- Con còn trẻ, con có việc của con ở trong ấy, rồi phải có chồng chứ". Nó lắc đầu:

- Cháu không... đâu, chừng nào ông mất cháu mới lấy.

Tôi mới bảo "Thế ông còn sống hai mươi năm nữa thì sao?".

Con bé lặng thinh. Tôi lại nói:

- Không được đâu con ạ, ông phải ăn cưới của con rồi ông mới chết.

Con bé cháu một mực bảo là ở vậy nuôi tôi, để thỉnh thoảng chèo thuyền ra, khâu vá cái áo, nấu cho tôi nồi bánh đa riêu. Chả là tôi ưa cái món bánh đa rắc cua. Vâng, con bé nó nói thế. Bây giờ, hễ nghe tiếng bơi chèo va vào mỏm đá là tôi nhỏm dậy, bụng vui lên bảo: "Cái Đào lại ra rồi!". Chuyện ông cháu tôi như thế đấy, anh ạ.

Mãi đến hồi sau Tết có một lần cái Đào ra. Chẳng hiểu sao mà hai má nó cứ đỏ ửng lên. Con bé nhảy nhót khắp lều, thấy vật gì cũng vui vẻ nâng niu, coi như những vật đó từ trước tới nay chưa từng lọt vào mắt nó vậy. Con Mực bị một hòn than rơi trúng cháy xém lông, sầy da có một tí, thế mà con bé nó cứ ôm cổ con Mực suýt soa: "- Tội nghiệp, tội nghiệp!". Tôi đoán hình như nó có chuyện gì rồi ấy. Người luống tuổi chúng tôi về già thường hay lú lẫn, nhưng có cái thì vẫn tinh ý hơn bọn trẻ các anh. Lúc đó tôi hỏi con bé:

- Hôm nay ông trông mày lạ lắm Đào ạ, có gì mà vui quá thế?

- Cháu vẫn thế đấy chứ! - Con bé cười đáp.

Tôi nói: - Nhất định là mày không bảo thật với ông rồi!

Con bé liền bưng mặt vừa cười vừa chạy ra cửa. Rồi nó dừng lại, tựa lưng vào nấc thang, không cười nữa, nhưng mặt thì cứ đỏ ửng lên. Nó nói vẻ nghiêm trang:

- Không mà, cháu có gì đâu... à, vừa rồi... ở tập đoàn các bác vừa bầu cháu là gương mẫu ấy mà...

- Không, cái đó mày đã nói với ông rồi!

Cái Đào rời bậc thang đi từng bước dài vào nhà. Đang đi đột nhiên nó quay phắt lại nhìn chăm chắm vào tôi:

- Ông ạ... cháu nói sợ ông lại giận.

- Không, tao không giận.

Con bé ấp a ấp úng không mở miệng ra được.

Tôi nói:

- Hay là có ai đến xin cô mày gả mày cho họ rồi?

Tôi vừa dứt lời thì cái Đào đã gục đầu ngay vào vạt áo của tôi. Lòng buồn bã như người mất của, tôi ngẩn ra một lúc, rồi vuốt nhè nhẹ cái lưng mềm mại tròn tròn của cháu, khẽ hỏi:

- Thế con có đồng ý không?

- Con không đồng ý - Con bé nói nũng nịu.

- Sao? - Tôi trố mắt lo lắng hỏi.

Con bé Đào cười nho nhỏ trong vạt áo:

- Cháu không biết thế nào sất ông ạ.

- Ai đấy?

- Ai thì ông biết rồi, cháu chả nói.

- Con nhà Quảng phải không?

Nó lắc đầu nguây nguẩy:

- Không phải đâu, không phải đâu!

- Đúng rồi... Ông biết mày bằng lòng rồi.

Con bé vụt ngẩng mặt dậy ôm chồm lấy tôi, rồi liền buông ra. Nó đi đến bên bếp lửa, ngồi xuống. Tôi trầm ngâm một chốc và nói:

- Mày có chồng chắc ông lại khổ! Liệu chừng ấy có bơi thuyền ra cái chòi của ông nữa không?

Con bé Đào buông xuôi hai bàn tay đang đun củi, đôi mắt long lanh, không trả lời. Phần tôi, tôi buồn vì tôi biết rằng rồi đây nó sẽ xa tôi hơn. Nhưng tôi cũng mừng thầm, con bé rồi sẽ có hạnh phúc. Tôi biết cái anh con nhà Quảng là một anh chàng rất giỏi việc, vừa cần cù lại vừa đang tiến. Nghe cô cháu kể lại là anh ta sắp được vào Đảng. Thằng thanh niên nào được vào Đảng là tôi tin, thế thôi.

Ông cụ nói tới đây thì bên dưới tháp đèn chợt có tiếng khua lụp cụp, rõ ràng là tiếng bơi chèo chạm vào mỏm đá. Ông cụ im bặt. Từ bên dưới vọng lên một tiếng gọi trong trẻo, trìu mến:

- Ông ơi...

Ông cụ Sáu lẩm bẩm: "- Nhắc tới nó là nó ra đến rồi!". Đoạn ông cụ quát to:

- Con cái Đào đấy hử?

- Dạ.

Ông cụ chạy ra. Tôi với anh Voòng Tài Phát cũng đứng dậy ra theo. Khi chúng tôi bước đến bậc thang bắc xuống bệ đèn thì thấy một cô gái đang trèo lên. Trong buổi chiều chập choạng, tôi chỉ nhận ra được một gương mặt bầu dục, với đôi mắt to đen lay láy nhìn chúng tôi một cách vừa thẹn thùng vừa niềm nở. Ông cụ Sáu nói:

- Anh Voòng với anh đây ở tàu ghé thăm ông đấy!

Cô con gái gật nhẹ đầu chào chúng tôi. Hai chúng tôi đứng hỏi thăm cô đôi chuyện, rồi vì trời tối quá nên chúng tôi từ biệt hai ông cháu.

Xuống tới xuồng, tôi cảm thấy gió thổi lạnh hơn và sóng biển chuyển màu xanh sẫm, mênh mông. Xuồng chúng tôi tếch ra, nhảy nhót trên sông. Tôi vừa đẩy mạnh mái chèo vừa lan man nghĩ ngợi. Đến lúc ngoảnh lại tôi chẳng còn trông thấy gì nữa, chỉ thấy ngọn đèn trên tháp cao đang chớp lóe. ánh đèn màu xanh rực chiếu một đường dài, rọi sáng mặt biển chiều hôm đang bốc hơi nhè nhẹ như đang thở.


END
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #6  
Old 05-15-2004, 02:25 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

Ernest Hemingway ::::
Người lính trở về





Khi cuộc oanh tạc đánh phá tan hoang chiến hào của hắn tại Fossalta, hắn nằm bẹp dí, vã mồ hôi cầu khẩn Chúa. Chúa ơi cứu con khỏi nơi đây. Chúa ơi, xin cứu con. Nếu Chúa cứu con thoát chết, con sẽ làm bất cứ điều gì Chúa sai khiến, con sẽ tin nơi Chúa và sẽ bảo tất cả mọi người trên thế gian này chỉ có Chúa mà thôi, Chúa mến yêu ơi. Khi đạn pháo qua khỏi vòng tuyến, chúng tôi thu dọn lại chiến hào. Buổi sáng mặt trời mọc, mang đến một ngày nắng oi bức và yên tĩnh. Đêm sau, khi trở về Mestre hắn chẳng kể cho đứa con gái nơi hồng lầu biết về câu chuyện Chúa của hắn. Từ đó hắn cũng chẳng hề hé môi với ai. (The next night back at Mestre he did not tell the girl he went upstairs with at the Villa Rossa about Jesus. And he never told anybody.)

+++++++

Hắn (Krebs) vào quân đội khi đang ngồi ghế nhà trường tại Methodist College, tiểu bang Kansas. Kia là tấm hình hắn mặc đồng phục đứng giữa sư huynh đệ của mình. Cả bọn cùng trang lứa với nhau. Hắn gia nhập thủy quân lục chiến năm 1917 và chỉ trở về Hoa Kỳ khi sư đoàn II rút quân khỏi giòng sông Rhine (++) vào mùa hè 1919 (He enlisted in the Marines in 1917 and did not return to the United States until the second division returned from the Rhine in the summer of 1919). Còn kia là tấm hình hắn chụp bên giòng Rhine cùng hai cô gái Đức và người hạ sĩ. Hắn và người hạ sĩ trông quá khổ trong bộ quân phục, hai cô gái Đức chẳng phải là người đẹp, và con sông thì không rõ hình rõ dạng.

Hắn trở về quê hương Oklahoma của mình quá muộn màng. Đã qua thật lâu rồi giai đoạn thiên hạ tung hô chào đón người hùng trở về từ mặt trận. Các chàng trai đi quân dịch nơi quê hắn đã quay về vẻ vang trong thời điểm ấy. Bọn họ đã đón nhận tất cả sự nhiệt liệt hân hoan mừng buổi đoàn viên từ khắp nơi mọi phía. Sau đó sự việc lắng đọng theo thời gian, và mọi người cho rằng sự trở về muộn màng của hắn thật khôi hài đáng tội vì đã qua khá nhiều năm sau khi chiến tranh hoàn toàn kết thúc.

Lúc đầu hắn chẳng muốn bàn đến chiến tranh, đến những nơi mà hắn từng đi qua như Belleau Wood, Soissons, the Champagne, St. Mihiel và the Argonne. Về sau, khi hắn thấy cần phải nói thì chẳng ai buồn nghe. Quê của hắn đã nghe đầy tai về những câu chuyện tàn bạo kinh thiên động địa, về người thật, việc thật. Hắn nhận ra một điều, muốn được thiên hạ lắng nghe thì hắn cần phải nói dối cho câu chuyện của mình thêm ly kỳ hấp dẫn, và khi nói dối đến lần thứ hai thì hắn đâm ra thù ghét chiến tranh, thù ghét luôn việc đề cập đến nó. Tất cả các điều thêu dệt làm cho hắn mất cảm giác, mất cảm tình với những việc xãy đến với hắn trong thời chiến (His town had heard too many atrocity stories to be thrilled by actualities. Krebs found that to be listed to at all he had to lie, and after he had done this twice he, too, had a reaction against the war and against talking about it. A distate for everthing that had happened to him in the war set in because of the lies he had told). Duy chỉ khi nào sâu lắng tâm tư hồi tưởng lại thời gian đã qua của mình, hắn mới thấy dễ chịu và có cảm giác nhẹ nhàng. Khoảng thời gian ấy đã qua thật lâu rồi. Khoảng đời ấy đã cho hắn hoàn thành một việc tối thượng thật đơn giản và tự nhiên, đó là nghĩa vụ duy nhất của người đàn ông. Trong khi người khác có thể sẽ làm một việc khác hơn, để mất đi niềm hào hùng, mất đi giá trị thiêng liêng vô cùng cao quý, và đánh mất luôn chính bản thân họ.

Thật ra lời nói dối của hắn hoàn toàn vô thưởng vô phạt, chẳng quan trọng gì và chỉ góp phần cho câu chuyện riêng tư của hắn mà thôi. Điều mà người khác biết đâu đã từng thấy qua, làm qua, hoặc nghe qua, và cho là sự thật. Toàn là những câu chuyện truyền miệng không chính xác, tuy nhiên lại thường tình xãy ra rất quen thuộc với người lính. Người quen biết với hắn, từng nghe câu chuyện kể tỉ mỉ về những người phụ nữ Đức bị xiềng cứng bên cỗ súng máy tại khu rừng Argonne. Họ chẳng ý thức chi cả về việc mình làm mà vì bị kích động do tinh thần yêu nước nhồi sọ. Bất cứ tay xạ thủ người Đức nào nếu không bị xiềng xích, sẽ làm cho câu chuyện của hắn kém phần xúc động. Tuy thế, hắn khó chịu khi nói không đúng sự thật hoặc phóng đại. Nếu vô tình gặp gỡ và trò chuyện với người từng đi lính như mình, hắn dễ dàng rơi ngay vào vị trí của kẻ già dặn kinh nghiệm giữa những người lính với nhau. Nhớ lại chuỗi ngày tháng làm hắn vô cùng hãi hùng, hắn hoang mang và mất phương hướng hoàn toàn.

Bây giờ là cuối mùa hạ. Hắn thường dậy muộn. Hắn thức dậy chỉ để bát phố, vào thư viện mượn hai quyển sách và về nhà ăn trưa. Sau đó ngồi trước hiên đọc sách đến chán và lại đi lang thang khắp nơi trong vùng, hoặc dành suốt buổi trưa nóng bức bên hồ bơi mát lạnh. Vào buổi tối, hắn dợt lại tiếng kèn của mình, dạo phố, đọc sách và đi ngủ. Đời sống của hắn xem ra thật vô tích sự, nhưng dưới mắt hai cô em gái hắn vẫn là người hùng. Mẹ hắn chiều con, để hắn ăn sáng tại giường nếu hắn muốn. Bà mẹ thường vào phòng khi hắn còn nướng cháy trên giường hỏi thăm về chiến tranh, nhưng sự quan tâm của bà mông lung không rõ rệt.

Trước khi vào quân đội hắn chưa hề được phép lái xe. Cha hắn kinh doanh trong ngành địa ốc, nên luôn cần sẵn chiếc xe để ông đưa thân chủ đi xem nhà đất vào bất cứ giờ phút nào thuận tiện. Chiếc xe đậu trường kỳ bên ngoài ngân hàng nơi ông làm việc trên lầu hai, chiến tranh đã chấm dứt và chiếc xe ấy vẫn còn đây, nguyên hình nguyên dạng. Nói chung mọi việc trong vùng hắn chẳng thay đổi điều gì, trừ mấy đứa con gái lớn lên. Tuy nhiên, đời sống của bọn họ thật phức tạp, và hoàn toàn xa lạ với thế giới của hắn khiến hắn chùn bước chẳng muốn tiến đến. Hắn chỉ thích ngắm họ mà thôi. Rất nhiều cô gái trẻ đẹp. Phần nhiều cắt tóc ngắn ngang vai (bobbed hair). Thời xa xưa khi hắn chưa vào quân đội chỉ có mấy đứa con gái nhỏ mới để tóc kiểu ấy.

Từ mái hiên nhà mình, hắn thích ngắm các cô gái đi ngang phía bên kia đường. Hắn thích nhìn họ bước dưới tàng cây bóng mát. Hắn thích mái tóc ngắn chấm vai và dáng dấp của họ. Thuở trước, họ không gây cho hắn chút ấn tượng gì vì hắn không hề để ý mấy đứa con nít bu quanh chiếc xe kem. Thật ra hắn chẳng thích con người thật của đám con gái ấy vì bọn họ phức tạp và hoàn toàn cách biệt với hắn. Thời gian gần đây hắn để ý một cô, nhưng chẳng muốn làm quen. Hắn thích con gái nhưng lại không muốn bỏ quá nhiều thời gian để được họ vì hắn sợ vướng vòng tằng tịu khổ ải. Hắn lại càng không muốn bận bịu với cuộc hẹn hò. Thật ra, hắn chẳng muốn nói dối điều này thế kia vì hắn nghĩ không đáng để phiền lòng.

Hắn sợ hậu quả. Hắn ngại ngần sợ phải sống ngao ngán với hậu quả thêm lần nữa. Hắn tha thiết muốn sống cuộc đời bình yên lâu dài không chi phối vì hậu quả. Hơn nữa, hắn chưa cần thiết có một người đàn bà. Quân đội đã dạy hắn như thế. Muốn tỏ ra mình cần có một người đàn bà bên cạnh thì đã sao, hầu như ai cũng làm được. Nhưng thật sự không hẳn thế. Đâu cần phải có đàn bà. Hắn nhớ nằm lòng một câu chuyện khá ngộ nghĩnh. Lúc đầu tên bạn bảo hắn đàn bà chẳng nghĩa lý chi với gã cả, rằng gã không bao giờ quan tâm đến họ, và họ đừng hòng động đến sợi lông chân của gã. Đoạn, tên bạn lại bảo gã chẳng thể sống thiếu đàn bà, rằng gã luôn cần có họ vì không có họ gã ngủ chẳng yên. Thật láo lếu. Nói nhăn cuội quanh quẩn cách nào cũng chỉ toàn láo lếu. Thật ra đâu cần phải có người đàn bà bên cạnh, trừ phi mình một lòng một dạ ôm ấp hình bóng họ trong tâm tư. Hắn học điều này từ quân đội. Sớm hay muộn cũng có một người. Khi thời gian đến hồi chín mùi, tự nhiên họ sẽ đến, đâu cần phải nghĩ ngợi mông lung. Sự việc gì, sớm hay muộn rồi sẽ đến, hắn lại học điều này từ quân đội.

Hắn chỉ thích một người con gái nếu người ấy đến với hắn âm thầm đừng nói năng tâm sự gì cả. Nhưng nơi này quá phức tạp, hắn tự hiểu rõ mình chẳng thể nào vượt qua thêm lần nữa. Hắn tự nhủ không đáng để gây thêm phiền toái. Nhớ thuở nào bên mấy đứa con gái người Pháp và người Đức. Ngày ấy, xứ lạ quê người đâu có thể dài dòng văn tự và đâu cần phải nói. Rất đơn giản là chỉ làm bạn nhau mà thôi. Hắn nhớ về nước Pháp, người Pháp. Xong hắn lại nhớ về nước Đức, người Đức. Nói cho cùng, hắn thích người Đức hơn. Hắn chẳng muốn rời nước Đức. Hắn chẳng muốn trở về quê hương, nhưng rồi hắn phải về. Ngồi bên mái hiên nhà mình.

Hắn để ý thích mấy đứa con gái đi ngang nhà từ phía bên kia đường. Hắn chiêm ngưỡng bọn họ và yêu mến dáng dấp của họ hơn mấy đứa con gái người Pháp và người Đức. Tuy nhiên, thế giới của họ không phải là thế giới của hắn. Hắn mong được quen một cô trong bọn, nhưng hắn nghĩ chẳng đáng. Hắn thừa biết họ rất xinh đẹp, nhưng hắn cũng biết mình không kham nổi những điều sẽ hỏi và câu chuyện sẽ kể bên giờ phút tâm tình. Hắn không tha thiết muốn làm quen một người nào cả mà hắn chỉ muốn thương thầm nhớ trộm chiêm ngưỡng cả bọn mà thôi. Nhưng hắn lại nghĩ chẳng đáng, chưa phải ở thời đi"m này.

Hắn thường ngồi bên mái hiên đọc quyển sách viết về chiến tranh. Đó là sự kiện lịch sử, và hắn đọc về mối liên quan gắn bó mà hắn từng trải qua. Xưa đến nay chưa bao giờ hắn đọc được điều ưng ý như thế, và hắn ước ao phải chi có thêm tấm bản đồ. Hắn mong mỏi với niềm sung sướng được đọc các sự kiện lịch sử quý giá cùng với tấm bản đồ có đầy đủ chi tiết. Bây giờ hắn mới thật sự hiểu tận tường về chiến tranh, và tự biết mình là một người lính đã hoàn thành tốt nhiệm vụ cao cả.

Vào một buổi sáng khoảng tháng sau khi hắn trở về nhà, bà mẹ bước vào phòng hắn. Bà ngồi lên giường, vuốt chiếc áo.

- Mẹ vừa nói chuyện với cha con đêm qua. Cha có ý muốn cho con dùng xe vào buổi tối.

Hắn dật dờ chưa tỉnh hẳn.

- Cho con lái xe ?

- Ừ.

- Mẹ xin cha phải không ?

- Không. Do ý của cha con mà thôi.

- Con dám chắc mẹ đã xin với cha.

- Con xuống ăn sáng nhé.

- Chờ con sửa soạn chứ.

Bà mẹ rời phòng. Trong lúc tắm gội, cạo râu, thay quần áo, hắn nghe tiếng mẹ chiên xào dưới nhà. Lúc hắn đang ăn sáng đứa em gái mang thư vào.

- Anh dậy sớm làm gì ? Không nướng nữa hở ?

Hắn nhìn em. Hắn rất thương con bé này vì nó là đứa em gái ngoan nhất. Hắn hỏi em.

- Lấy báo cho anh chưa ?

Con bé đưa cho anh tờ Kansas City Star. Hắn dở lớp giấy dầu bọc bên ngoài, và mở ngay trang thể thao. Hắn xếp gọn tờ báo, dựng tựa vào chiếc bình nước và tô cốm, để vừa ăn vừa đọc. Bà mẹ đứng ngay cửa bếp.

- Nè con, đừng làm dơ đó. để dơ, cha con không đọc đâu.

- Không đâu mẹ.

Đứa em gái ngồi xuống bàn, nhìn hắn đọc báo.

- Anh, chiều nay tụi em chơi banh (baseball) trong trường. Em sẽ ném banh nè.

- Giỏi !

- Em chơi độc hơn mấy thằng con trai nữa đó. Em bảo tụi nó anh dạy em. Mấy con nhỏ kia sức mấy mà giỏi bằng em.

- Ừ.

- Em bảo tụi nó anh là bồ của em. Được không ?

- Hừ !

- Bộ làm anh thì không làm bồ được sao ?

- Đâu biết.

- Anh biết mà. Chừng em lớn, thì anh làm bồ của em.

- Ừ, thì bây giờ nè.

- Thật hở ? - - Thật chứ.

- Thương em không ?

- Thương chứ.

- Thương em hoài không ?

- Thương mà, đừng hỏi nữa nghe.

- Chiều nay đến xem em chơi không ?

- Có thể.

- Hừ ! anh hổng thương em. Nếu thương em thì anh phải đến xem em hạ tụi nó.

Bà mẹ từ nhà bếp bước vào phòng ăn. Bà cầm chiếc đĩa trên có hai quả trứng chiên, vài lát ba rọi nóng ròn, và một đĩa bánh kiều mạch (buckwheat cakes). Bà mẹ bảo con gái:

- Con chạy đi chơi, để mẹ nói chuyện với anh.

Bà đặt đĩa trứng và thịt xuống mặt bàn, đẩy chai đường mật ăn với bánh về phía trước, đoạn ngồi xuống đối diện với hắn.

- Con, bỏ báo xuống. Mẹ muốn nói chuyện với con.

Hắn đặt tờ báo xuống xếp lại gọn gàng. Bà mẹ gỡ đôi kính ra.

- Con có kế hoạch gì chưa ?

- Chưa !

- Sao chưa ? con phải tính chứ ?

Không phải bà mẹ gắt gỏng, nhưng bà lo âu. Hắn trả lời mẹ:

- Con chưa nghĩ qua.

- Con à, Chúa luôn xếp đặt cho mọi người có công việc để làm. Trong nước Chúa, chẳng có bàn tay nào nhàn rỗi vô tích sự cả. (God has some work for every one to do, There can be no idle hands in His Kingdom.)

- Con đâu phải ở trong nước Chúa !

- Con à, tất cả chúng ta đều ở trong nước Chúa.

Hắn xấu hổ và bất mãn. Bà mẹ tiếp tục kể lể.

- Mẹ rất lo cho con. Bên ngoài nhiều cám dỗ, và mẹ biết con là người yếu đuối. Ông con, cha con đã kể về cuộc nội chiến làm mẹ sợ hãi, và mẹ luôn cầu nguyện cho con. Mẹ cầu nguyện cho con cả ngày đêm, con ạ.

Hắn cúi nhìn lát thịt nguội lạnh trên đĩa. Bà mẹ thao thao không ngừng.

- Cha cũng lo cho con. Cha nghĩ, con mất đi hoài bão, niềm tin và chưa xác định được hướng đi cho mình. Con biết Charley Simmons chứ ? chỉ bằng tuổi con mà nó có công ăn việc làm đàng hoàng và còn sắp cưới vợ. Mấy đứa con trai xóm này đã yên nơi yên chỗ. Tụi nó có mục tiêu vạch cho mình hẳn hòi. Rồi con xem, những thằng như Charley Simmons sẽ làm được những điều ích nước lợi dân. (you can see that boys like Charley Simmons are on their way to being really a credit to the community.)

Hắn ngậm câm chẳng biết trả lời sao với mẹ.

- Con đừng có cái nhìn như thế. Con rõ hơn ai hết, mẹ thương con và mẹ muốn nói để con được tốt. Cha không muốn xen vào quyền tự do riêng tư của con. Ông ấy còn muốn con lái xe, và ra ngoài tiếp xúc với xã hội. Con muốn hò hẹn gặp gỡ cô nào thì tùy ý con. Cha mẹ đều mừng cho con vì cha mẹ muốn con có đời sống thoải mái, nhưng con phải có công ăn việc làm như mọi người. Con làm bất cứ công việc gì cha mẹ cũng không ngại vì công việc nào cũng đều có giá trị và đáng quý, nhưng con phải bắt tay vào mới được. Sáng nay cha bảo mẹ nói cho con hiểu, sau đó con có thể đi gặp cha.

- Chỉ vậy thôi hở mẹ ?

- Ừ, con thương mẹ không ?

- Không !

Qua chiếc bàn, bà mẹ nhìn hắn. Đôi mắt long lanh, bà bật khóc. Hắn bảo:

- Con chẳng thương ai cả.

Bậy quá. Hắn không biết nói sao cho mẹ hiểu, hắn không biết làm sao cho mẹ thấy. Nói ra điều ấy thật bậy, hắn chỉ khiến cho mẹ buồn mà thôi. Hắn bước qua bàn, cầm cánh tay mẹ. Bà mẹ tay ôm lấy đầu khóc nức nở. Hắn tần ngần.

- Con không cố tình. Con đang bực bội. Mẹ ơi, thật sự con không cố tình, chẳng phải con không thương mẹ.

Bà mẹ vẫn khóc. Hắn đặt cánh tay mình lên vai mẹ.

- Mẹ không tin con ư ?

Bà mẹ lắc đầù

- Con xin mẹ. Tin con đi mẹ.

Bà mẹ ngước nhìn hắn, nghẹn ngào.

- Thôi được, mẹ tin con.

Hắn hôn tóc mẹ. Bà mẹ áp má vào hắn.

- Mẹ là mẹ của con. Mẹ đã ẳm bồng con khi con còn bé bỏng.

Hắn bối rối, đầu óc choáng váng mơ hồ.

- Con biết, mẹ. Con đã cố gắng ngoan ngoãn.

Bà mẹ hỏi:

- Con, cầu nguyện với mẹ nhé ?

Hai mẹ con quỳ xuống bên cạnh chiếc bàn, đoạn bà mẹ cầu nguyện.

- Con cầu nguyện đi.

- Không được.

- Cố đi con.

- Không được.

- Mẹ cầu nguyện cho con nhé ?

- Dạ.

Bà mẹ cầu nguyện cho hắn, xong họ đứng dậy. Hắn hôn mẹ, đoạn bỏ ra ngoài. Hắn đã cố gắng sống bình thường như mọi người, nhưng chưa được. Sự đời nhiều phức tạp còn xa lạ với hắn. Hắn tội cho mẹ mình, bà đã khiến hắn phải nói dối. Nếu hắn bỏ lên thành phố (Kansas City) tìm được công ăn việc làm hẳn bà rất hài lòng. Trước khi đi, hắn cần giải quyết một chuyện nữa. Hắn sẽ chẳng đến gặp cha mình. Hắn tránh điều này vì hắn không muốn gây thêm điều rắc rối. Mọi việc xem như tạm ổn. Bây giờ hắn muốn đến trường của đứa em gái, xem nó hạ đối thủ.

Trả Lời Với Trích Dẫn
  #7  
Old 05-15-2004, 02:28 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

:::: Ernest Hemingway ::::
Ông già và biển cả

Phần 1



Lão đã già, một mình một thuyền câu cá trên dòng Nhiệt lưu và đã tám mươi tư ngày qua lão không bắt được lấy một mống cá nào. Bốn mươi ngày đầu thằng bé đi với lão. Nhưng sau bốn mươi ngày không câu được cá, cha mẹ thằng bé bảo nó rằng rốt cuộc bây giờ ông lão đã hoàn toàn salao, cách diễn đạt tệ nhất của vận rủi, rồi buộc nó đi theo thuyền khác và ngay trong tuần lễ đầu tiên chiếc thuyền ấy đã câu được ba con cá lớn. Điều đó khiến thằng bé buồn khi hằng ngày thấy ông lão trở về với chiếc thuyền không, nó luôn xuống giúp lão mang khi thì cuộn dây, cái lao móc săn cá, khi thì cái sào hay tấm buồm quấn quanh cột. Tấm buồm được vá bằng bao bột, cuộn lại trông như một lá cờ bại trận triền miên. ông lão gầy gò, giơ cả xương, gáy hằn sâu nhiều nếp nhăn. Những vệt nám vô hại trên làn da má của lão do bị ung thư bởi ánh mặt trời phản hồi trên mặt biển nhiệt đới. Những vệt ấy kéo dài xuống cả hai bên má, tay lão hằn những vết sẹo sâu bởi kéo những con cá lớn. Nhưng chẳng có vết nào trong số sẹo ấy còn mới cả. Chúng cũ kỹ như mấy vệt xói mòn trên sa mạc không cá. Mọi thứ trên cơ thể lão đều toát lên vẻ già nua, trừ đôi mắt; chúng có cùng màu với nước biển, vui vẻ và không hề thất bại.
“ông Santiago, thằng bé nói khi hai người leo lên bờ nơi con thuyền được kéo lên.
“Cháu có thể lại đi cùng ông. Chúng ta đã có ít tiền rồi.
ông lão dạy thằng bé câu cá và nó quý lão.
“Đừng”, lão nói.
“Cháu đang đi với con thuyền may mắn. Hãy ở lại với họ”.
“Nhưng ông còn nhớ có hồi suốt tám mươi bảy ngày ta không bắt được cá nhưng sau đó trong ba tuần lễ ngày nào ta cũng vớ được cá lớn”.
“ông nhớ”, ông lão nói.
“ông biết cháu đã không rời bỏ ông vì thiếu lòng tin”.
“Tại cha cháu bắt làm như thế. Cháu còn nhỏ, cháu phải nghe lời cha”.
“ông hiểu”, ông lão nói.
“Đấy là chuyện thường”.
“Cha cháu chẳng tin đâu”.
“Phải”, ông lão nói.
“Nhưng chúng ta tin, đúng không?”
“Vâng”, thằng bé đáp.
“Cháu có thể mời ông một lá bia ở khách sạn Terrace trước khi chúng ta mang mấy thứ này về nhà chứ?”
“Tại sao lại không?”, ông lão nói.
“Dân chài với nhau cả mà”. Họ ngồi ở Terrace và rất nhiều người đánh cá trêu ông lão nhưng lão không giận. Một số khác, những ngư dân lớn tuổi hơn, nhìn lão và cảm thấy buồn. Nhưng họ không để lộ ra mà chỉ từ tốn nói về dòng chảy, độ sâu buông câu, về thời tiết tốt, ổn định và về những thứ họ đã nhìn thấy. Mấy tay đánh cá thành công của ngày ấy đã trở về, xả thịt con cá kiếm của họ, sắp đầy lên hai tấm ván, mỗi người khiêng một đầu đi xuyên đến nhà để cá, đợi chiếc xe tải ướp lạnh đưa đến chợ Havana. Những người bắt được cá mập thì đưa chúng đến xưởng cá mập phía bên kia vịnh; chúng được móc treo lên bằng ròng rọc, gan bị mổ lấy, vi bị cắt, da bị lột và thịt thì được xẻ thành súc đưa ướp muối. Khi gió Đông thổi, mùi tanh nồng từ xưởng cá mập bên kia cảng phả đến. Nhưng hôm nay, mùi cá chỉ thoang thoảng vì gió thổi chếch sang hướng Bắc rồi lặng hẳn; trên Terrace trời tỏa nắng dễ chịu.
“ông Santiago”, thằng bé gọi.
“ừ”, ông lão đáp. Lão đang giữ cái lá và hồi tưởng về nhiều năm trước.
“Cháu đi kiếm giúp ông mấy con cá mòi cho ngày mai nhé?”
“Đừng. Đi chơi bóng chày đi. ông vẫn có thể chèo và Rogelio sẽ quăng lưới”.”Cháu thích đi.
Nếu cháu không được câu cá với ông thì cháu muốn giúp ông việc gì đó”.
“Cháu đã mua bia cho ông”, ông lão nói.
“Cháu thực sự là đàn ông rồi”.
“Lần đầu tiên ông đưa cháu ra khơi, cháu lên mấy?”
“Lên năm, và suýt nữa cháu bị chết khi ông lôi con cá quá lớn lên thuyền, nó gần như quật tan con thuyền ra nhiều mảnh. Cháu có còn nhớ không?”
“Cháu vẫn nhớ cái đuôi quật mạnh; chỗ ngồi chèo thuyền bị gãy và tiếng nện của cái chày. Cháu nhớ ông ném cháu ra đằng mũi thuyền, nơi lùng nhùng những sợi dây ướt rồi cháu cảm thấy toàn bộ con thuyền chao đảo và tiếng ông quật con cá nghe như thể đang đốn cây, máu nóng hổi bắn cả lên người cháu”.
“Có phải cháu thực sự nhớ chuyện ấy hay là do ông kể?”
“Cháu nhớ mọi thứ kể từ cái lần đầu tiên ông cháu ta đi cùng nhau”. ông lão nhìn thằng bé bằng ánh mắt chan chứa tình thương, tin cậy, ấm áp của mình.
“Nếu cháu là con ta thì ta sẽ đưa cháu đi cầu may một phen”, lão nói.
“Nhưng cháu là con của cha mẹ cháu và cháu đang đi trên con thuyền may mắn”.
“Cháu có thể đi kiếm cá mòi chứ? Cháu còn biết nơi cháu có thể kiếm được bốn con mồi”.
“Hôm nay ông vẫn còn mấy con. ông đã muối chúng trong thùng”.
“Để cháu đi kiếm bốn con tươi”.
“Một thôi”, ông lão nói. Niềm hy vọng và lòng tin của ông lão chưa bao giờ nguội lạnh. Còn bây giờ thì chúng đang cuộn lên như khi gió đang nổi.
“Hai”, thằng bé nói.
“Hai”, ông lão đồng ý.
“Cháu không ăn cắp đấy chứ?”
“Cháu không”, thằng bé đáp.
“Cháu mua”.
“Cảm ơn cháu”, ông lão nói. Lão quá giản dị để không tự hỏi tính nhún nhường của mình có tự bao giờ. Nhưng lão biết lão đã có nó và lão biết nó chẳng có gì xấu hổ và cũng chẳng mảy may phương hại đến niềm kiêu hãnh thực sự.
“Với con nước này, mai sẽ là một ngày tốt lành”, lão nói.
“ông sẽ đến đâu”, thằng bé hỏi.
“Đi thật xa, khi gió trở thì mới quay về. ông muốn đến đấy trước khi trời sáng”.
“Cháu sẽ tìm cách để ông ấy ra câu xa”, thằng bé nói.
“Rồi khi ông câu được một con gì đấy thật sự lớn, cháu sẽ có thể đến giúp”.
“ông ấy không thích ra khơi xa đâu”.
“Vâng”, thằng bé nói.
“Nhưng cháu sẽ thấy cái gì đó, một con chim săn mồi chẳng hạn, mà ông ấy không thể thấy rồi giục ông ta bám theo bầy cá dorado”.
“Mắt ông ấy kém đến thế ư?”.
“ông ấy gần như mù”.
“Lạ thật”, ông lão nói.
“ông ấy chưa bao giờ đi săn rùa. Đấy là lý do làm mắt kém thị lực”.
“Nhưng ông đã nhiều năm đi săn rùa tận Moạquito Coaạt mà mắt ông vẫn còn tốt”.
“Ta là một lão già kỳ lạ”.
“Nhưng giờ đây ông có còn đủ sức để dành cho con cá thật lớn không?”
“ông chắc thế. Vả lại còn có nhiều mẹo nữa”.
“Chúng ta hãy mang dụng cụ về nhà”, thằng bé nói.
“Rồi cháu có thể mang lưới -quăng đi bắt cá mòi”. Họ tháo vật dụng khỏi thuyền. ông lão vác cột buồm, thằng bé mang thùng gỗ đựng dây, những sợi dây câu màu nâu được bện thật chắc, cái móc, ngọn lao với cán của nó. Thùng đựng mồi để ở đuôi thuyền, bên cạnh cái chày được dùng để quật những con cá lớn khi bị kéo lên khoang.
Chẳng ai ăn trộm đồ đạc của ông lão, nhưng tốt hơn thì cứ đưa cánh buồm, cuộn dây nặng vào nhà bởi sương có thể làm chúng hỏng và dẫu cho lão có hoàn toàn tin chắc là chẳng có người địa phương nào ăn cắp của lão thì lão vẫn nghĩ cái móc và ngọn lao hẳn có sức cám dỗ khi để trên thuyền. Họ cùng đi bộ trên con đường đến lều ông lão rồi bước vào qua cánh cửa để ngỏ. ông lão dựng cột buồm với lá buồm quấn quanh vào vách, thằng bé đặt cái thùng gỗ và mấy thứ khác bên cạnh. Cột buồm cao gần bằng chiều cao của căn lều một buồng. Vách lều được ghép bằng thân loài cọ xù xì có tên gọi là guano; trong lều có một cái giường, một cái bàn, một cái ghế và một cái bếp trên nền đất để nấu bằng than củi. Trên bức tường màu nâu của những thân cọ guano đập giập với mấy chiếc lá cứng queo của chúng chồng lên nhau, là hai bức ảnh màu của Đức Chúa Jesus và Đức Mẹ Đồng Trinh xứ Cobre. Đấy là di vật của vợ lão. Có dạo bức ảnh tô màu của vợ lão cũng được treo trên tường nhưng rồi lão đã tháo xuống bởi nó khiến lão càng cô đơn hơn khi nhìn thấy, lão để nó trên giá trong góc dưới chiếc sơ mi sạch của lão.
“ông có gì ăn không?”, thằng bé hỏi.
“Một niêu cơm gạo vàng với cá. Cháu có muốn ăn không?”.
“Thưa không. Cháu sẽ ăn ở nhà. ông có cần cháu nhóm lửa không?”.
“Không. Để lát nữa ông nhóm. Hoặc có lẽ ông sẽ ăn cơm nguội”.
“Cháu có thể mang cái lưới -quăng đi chứ?”.
“Dĩ nhiên”. Không có cái lưới -quăng nào cả, thằng bé nhớ rõ cái lúc họ bán nó. Nhưng ngày nào hai ông cháu cũng vờ tưởng tượng như thế. Và thằng bé cũng biết chẳng có niêu cơm gạo vàng và cá nào cả.
“Tám mươi lăm là con số may mắn”, ông lão nói.
“Cháu có thích ông mang về con cá nặng gần nửa tấn không?”.
“Cháu sẽ lấy cái lưới -quăng đi bắt cá mòi. ông ngồi sưởi nắng trên ngưỡng cửa chứ?”.
“ừ. ông có tờ báo hôm qua và sẽ đọc về trận bóng chày”. Thằng bé không chắc liệu cái tờ báo hôm qua ấy có phải là sản phẩm của trí tưởng tượng nữa không. Nhưng ông lão đã lôi tờ báo từ dưới giường ra.
“Perico cho ông ở bodega”, lão giải thích.
“Cháu sẽ quay lại khi kiếm được vài con cá mòi. Cháu sẽ ướp đá mấy con của ông cùng của cháu rồi sáng mai chúng ta chia nhau. Khi cháu quay lại, ông nhớ kể cho cháu nghe chuyện đội bóng đấy”.
“Đội Yankee không thể thua”.
“Nhưng cháu sợ đội Da Đỏ Cleveland”.
“Hãy tin vào đội Yankee, cháu à. Hãy tin tưởng ở Di Maggio vĩ đại”.
“Cháu sợ cả đội Hổ Detroit lẫn đội Da Đỏ Cleveland”.
“Hãy coi chừng không khéo cháu lại sợ cả đội Đỏ Cincinnati và đội White Sox của Chicago”.
“ông đọc đi rồi kể cho cháu lúc cháu quay lại”.
“Cháu có nghĩ chúng ta nên mua tờ vé số có số cuối là tám mươi lăm không? Mai là ngày thứ tám mươi lăm”.
“Chúng ta có thể mua”, thằng bé nói.
“Nhưng thế còn con số cực kỳ kỷ lục của ông là tám mươi bảy”.
“Không thể xảy ra lần thứ hai đâu. Cháu có chắc là cháu có thể tìm được tờ vé số tám mươi lăm ấy chứ?”
“Cháu có thể mua một chiếc”.
“Một chiếc. Hai đô la rưỡi đấy. Ai có thể cho chúng ta vay món tiền ấy?”
“Dễ thôi mà. Cháu luôn có khả năng vay hai đô rưỡi”.
“ông nghĩ có lẽ ông cũng có khả năng đó. Nhưng ông cố không vay mượn. Thoạt tiên thì vay mượn. Rồi sau đó là ăn mày”.
“Hãy giữ ấm ông ạ”, thằng bé nói.
“Chúng ta đã qua tháng chín”.
“Tháng này là mùa cá lớn”, ông lão nói.
“Vào tháng năm thì ai cũng có thể trở thành người đánh cá”.
“Bây giờ cháu đi kiếm cá mòi đây”, thằng bé nói. Khi thằng bé trở lại ông lão đã ngủ trên ghế, mặt trời đã lặn. Thằng bé mang cái mền lính cũ trong giường ra trải lên phía sau ghế, đắp qua vai ông lão. Đôi vai thật kỳ lạ, vẫn chắc nịch dẫu đã rất già, cả cái cổ vẫn còn khỏe, những nếp nhăn mờ đi khi ông lão ngủ gục đầu về phía trước. Chiếc sơ mi của ông được vá nhiều lần đến nỗi trông nó cũng hệt như tấm buồm; mặt trời làm mấy miếng vá ấy phai nhạt theo nhiều màu khác nhau. Dẫu sao thì cái đầu ông lão cũng đã rất già và khi đôi mắt nhắm lại thì khuôn mặt lão không còn sinh khí. Tờ báo nằm vắt qua đầu gối lão, độ nặng của cánh tay giữ nó ở lại đó trong làn gió nhẹ buổi tối. Lão đi chân trần. Thằng bé để lão ở đó và khi nó quay lại ông lão vẫn còn ngủ.
“ông ơi, dậy đi”, thằng bé gọi và đặt tay lên đầu gối lão. ông lão mở mắt, ngơ ngác một lúc rồi mới tỉnh hẳn. Rồi lão mỉm cười.
“Cháu có cái gì đấy”, lão hỏi.
“Đồ ăn tối”, thằng bé nói.
“Chúng ta sẽ ăn tối”.
“ông không đói lắm đâu”.
“Thì cứ ăn vậy. ông không thể không ăn mà bắt cá được”.
“Vẫn cứ câu được”, ông lão nói lúc đứng dậy cầm tờ báo gấp lại. Rồi lão chuẩn bị xếp mền.
“ông cứ quấn mền quanh người”, thằng bé nói.
“Trong lúc cháu còn sống thì ông không phải nhịn đói mà đi câu cá”.
“Vậy thì hãy sống cho thật lâu và quan tâm đến bản thân mình”, ông lão nói.
“Ta ăn gì vậy?”.
“Đậu đen, cơm, chuối chiên và ít thịt hầm”. Thằng bé đựng mấy món ấy trong chiếc cặp lồng hai ngăn, mang về từ Terrace. Hai bộ dao nĩa, thìa được quấn bằng giấy ăn đút trong túi nó.
“Ai cho cháu mấy món này?”
“Bác Martin. Chủ quán”.
“ông phải cảm ơn bác ấy”.
“Cháu đã cảm ơn rồi”, thằng bé nói.
“ông không phải cảm ơn bác ấy nữa”.
“ông sẽ biếu bác ấy miếng thịt bụng của con cá lớn”, ông lão nói.
“Bác ấy đã nhiều lần cho chúng ta như thế này phải không?”
“Cháu nghĩ thế”.
“Vậy thì ông phải biếu bác ấy cái gì quí hơn miếng thịt bụng. Bác ấy rất tử tế với chúng ta”.
“Bác ấy gửi biếu hai chai bia”.
“ông thích bia lon nhất”.
“Cháu biết. Nhưng đây là bia Hatuey đóng chai, cháu sẽ mang trả chai”.
“Cháu chu đáo quá”, ông lão nói.
“Ta ăn chứ?”
“Thì cháu đã mời ông mãi,” thằng bé dịu dàng nói.
“Cháu chưa muốn mở cặp lồng trước khi ông đã sẵn sàng”.
“ông sẽ sẵn sàng ngay”, ông lão nói.
“ông chỉ rửa sơ qua một tí”. ông rửa ở đâu nhỉ, thằng bé nghĩ. Nguồn nước của làng cách đây hai con đường. Mình phải lấy nước về cho ông, thằng bé nghĩ, xà phòng và cả khăn tắm tươm tất nữa. Sao mình lại vô tâm đến thế? Mình phải kiếm cho ông chiếc sơ mi khác, một chiếc jacket mặc mùa đông, đôi giày và một cái mền nữa.
“Món thịt hầm của cháu tuyệt lắm”, ông lão nói.
“Kể cho cháu nghe về trận bóng đi”, thằng bé giục lão.
“Như ông đã nói, trong Liên đoàn Mỹ, đấy là đội Yankee”, ông lão hạnh phúc nói.
“Hôm nay họ thua rồi”, thằng bé nói với lão.
“Điều đó chẳng hề gì. Di Maggio vĩ đại vẫn cứ là Di Maggio”.
“Họ có những cầu thủ khác trong đội”.
“Rõ rồi. Nhưng anh ta thì khác hẳn. Trong liên đoàn khác, nếu giữa Brooklán và Philadelphia thì chắc ông chọn Brooklán. ông còn nhớ đến cả Dick Sisler và những cú vụt bóng lừng danh trên sân đấu trước đây nữa”.
“Không có ai sánh bằng đâu. Trong đời cháu mới chỉ thấy anh ấy là người vụt bóng đi xa nhất”.
“Cháu có còn nhớ thuở anh ấy thường đến Terrace không? ông muốn mời anh ấy đi câu cùng nhưng lại quá nhút nhát để đưa ra lời đề nghị. Khi ông bảo cháu mời anh ấy thì cháu lại cũng nhát gan”.
“Cháu biết. Đấy là một lỗi lầm tai hại. Chắc anh ấy sẽ đi cùng chúng ta. Rồi chúng ta sẽ giữ kỷ niệm ấy trong suốt cả cuộc đời”.
“ông cũng muốn đưa Di Maggio vĩ đại đi câu”, ông lão nói.
“Người ta bảo cha anh ấy là ngư dân. Có lẽ anh ấy cũng nghèo như ta và sẽ thông cảm”.
“Cha của Siạler lừng danh thì chẳng nghèo tí nào, ông ta, lúc vào độ tuổi của cháu, đã chơi cho Liên đoàn Big”.
“Khi bằng tuổi cháu, ông đã đứng trước cánh buồm, trên con tàu được trang bị chu đáo đến châu Phi và ông đã nhìn thấy sư tử trên bờ biển vào lúc chiều tối”.
“Cháu biết. ông đã kể cho cháu nghe rồi”.
“Ta nên nói chuyện về châu Phi hay về bóng chày?”
“Cháu nghĩ là bóng chày”, thằng bé đáp.
“Kể cho cháu nghe về danh thủ John J. McGraw”. Nó nói Jota thay vì chỉ phát âm chữ J.
“Thỉnh thoảng vào những ngày xa xưa ấy, anh ta thường đến Terrace. Nhưng khi đã rượu vào thì anh ta nóng nảy, nói năng nhát gừng và khó đăm đăm. Đầu óc anh ta dồn hết cả vào ngựa và bóng chày. Lúc nào anh ta cũng giữ danh sách ngựa trong túi áo rồi cứ xướng tên qua điện thoại”.
“ông ta là tay quản lý ra trò”, thằng bé nói.
“Cha cháu nghĩ ông ta là người vĩ đại nhất”.
“Bởi vì lúc nào anh ta cũng đến đây”, ông lão nói.
“Nếu hằng năm Durocher cứ đến đây thì chắc cha cháu sẽ nghĩ anh ta là tay quản lý cừ khôi nhất”.
“Thật ra ai là ông bầu vĩ đại nhất, Luque hay Mike Gonzalez?”
“ông nghĩ hai người ngang nhau”.
“Còn người đánh cá tài ba nhất là ông”.
“Không. ông biết nhiều người giỏi hơn”.
“Que va”, thằng bé thốt lên.
“Có nhiều người đánh cá giỏi và vài người vĩ đại. Nhưng ông là người duy nhất”.
“Cám ơn. Cháu làm ông hạnh phúc. ông hy vọng sẽ không có con cá nào cùng vĩ đại như thế để chứng minh rằng ông cháu ta sai”.
“Sẽ chẳng có con cá nào như thế nếu ông vẫn còn khỏe như ông nói”.
“Có lẽ ông không được khỏe như ông nghĩ đâu”, ông lão nói.
“Nhưng ông biết nhiều mẹo và có cách xử lý”.
“Giờ thì ông nên ngủ đi để sáng mai khỏe khoắn. Cháu mang mấy thứ trả Terrace”.
“Vậy thì tạm biệt. Sáng mai ông sẽ đến đánh thức cháu”.
“ông là cái đồng hồ của cháu”, thằng bé nói.
“Tuổi tác là đồng hồ của ông”, ông lão nói.
“Tại sao người già lại thức giấc quá sớm? Phải chăng là muốn có một ngày dài hơn?”
“Cháu không biết”, thằng bé nói.
“Những gì cháu biết là người trẻ thì ngủ dậy muộn và khó”.
“ông nhớ”, ông lão nói.
“ông sẽ đánh thức cháu đúng giờ”.
“Cháu không thích ông ta đánh thức cháu. Việc đó như thể cháu là kẻ bề dưới”.
“ông hiểu”.
“Chúc ông ngủ ngon”. Thằng bé đi ra. Họ ăn mò, không có đèn trên bàn; ông lão cởi quần dài, đi ngủ trong bóng tối. Lão quấn chiếc quần quanh tờ báo làm gối. Lão cuộn người trong chăn, nằm lên những tờ báo cũ trải trên giát giường. Lão ngủ ngay và mơ về châu Phi, khi lão hãy còn là một chú nhóc, với những bờ biển cát vàng, cát trắng trải dài, trắng đến nỗi làm mắt đau nhức, những mũi đất cao nhô ra biển, những ngọn núi xám đồ sộ. Bây giờ hằng đêm lão về lại bờ biển ấy và trong mơ lão nghe tiếng sóng gầm, lão thấy đoàn thuyền của người bản địa đang trườn qua những con sóng. Khi ngủ, lão ngửi thấy mùi nhựa đường, mùi gỗ sồi lát boong tàu; rồi lão ngửi thấy hương vị châu Phi theo làn gió đất phả tới vào buổi sáng. Thông thường khi ngửi thấy làn gió nội địa, lão thức dậy, mặc đồ, đến đánh thức thằng bé. Nhưng đêm nay, gió nội địa đến rất sớm và trong mơ lão biết hãy còn quá sớm nên lão tiếp tục mơ để thấy những mỏm trắng xóa của những hòn đảo nhô trên biển, lát sau lão mơ về những hải cảng khác, những vũng tàu đậu khác của quần đảo Canará. Lão không còn mơ về bão, không còn mơ về đàn bà, về những sự kiện trọng đại, những con cá lớn, những trận đánh, những cuộc đấu sức hay vợ lão. Bây giờ lão chỉ mơ về các vùng đất, về những con sư tử trên bờ biển. Chúng nô đùa như những chú mèo con trong hoàng hôn; lão yêu chúng như yêu thằng bé. Lão không bao giờ mơ về thằng bé. Lão chợt thức giấc, nhìn ánh trăng bên ngoài cánh cửa để ngỏ rồi giũ quần mặc vào. Lão tiểu bên lều rồi đi lên đường đánh thức thằng bé. Lão rùng mình trong bầu không khí lạnh ban mai. Nhưng lão biết lão sẽ còn run mãi cho đến lúc tay chèo làm lão ấm lên. Cánh cửa ngôi nhà thằng bé sống không khóa, lão mở rồi khẽ đưa đôi chân trần bước vào. Thằng bé ngủ trên chiếc giường nhỏ ở phòng đầu tiên; và ông lão, trong ánh trăng sắp lặn, có thể nhìn rõ nó. Lão nhẹ nhàng nắm lấy một bàn chân, giữ cho đến khi thằng bé thức giấc, quay lại nhìn lão. ông lão gật đầu, thằng bé lấy chiếc quần dài vắt trên ghế cạnh giường, mặc vào khi còn ngồi trên giường. ông lão ra cửa, thằng bé đi theo. Nó đang ngái ngủ, lão quàng tay qua vai nó và nói,
“ông xin lỗi”.
“Queva”, thằng bé nói.
“Đấy là việc mà một người đàn ông phải làm”. Họ xuống đường đến lều ông lão và suốt dọc đường, trong bóng tối, nhiều người đi chân trần, vác buồm ra thuyền. Khi hai người đến lều ông lão, thằng bé xách cái xô đựng cuộn dây, cây lao, cây sào móc; còn ông lão vác cột buồm với lá buồm đã quấn lại.
“ông có muốn uống cà phê không?”, thằng bé hỏi.
“Chúng ta để dụng cụ xuống thuyền rồi đi uống”. Họ uống cà phê trong hộp đựng sữa đặc tại điểm phục vụ những người đánh cá vào sáng sớm.
“ông ngủ có ngon không?”, thằng bé hỏi. Giờ thì nó dần tỉnh táo hơn như thể giấc ngủ hẵng cứ bám riết lấy nó.
“Rất ngon, Manolin à”, ông lão đáp.
“Hôm nay ông cảm thấy tự tin”.
“Cháu cũng thế”, thằng bé nói.
“Bây giờ cháu phải đi lấy cá mòi của ông cháu ta và số mồi tươi của ông. Tự ông ấy mang dụng cụ. ông ấy chẳng hề muốn bất kỳ ai mang bất cứ thứ gì”.
“Chúng ta thì khác”, ông lão nói.
“ông để cháu mang đồ nghề kể từ lúc cháu lên năm”.
“Cháu biết điều đó”, thằng bé nói.
“Cháu sẽ về ngay. ông cứ uống thêm tí nữa. Chúng ta có thể uống chịu ở đây”. Nó đi chân không trên lớp san hô đến nhà ướp lạnh nơi mồi được giữ ở đấy. ông lão chậm rãi uống cà phê. Đấy là tất cả thực phẩm lão có cho một ngày và lão biết lão nên uống. Đã từ lâu, ăn uống đối với lão trở nên chán ngắt và lão không bao giờ mang theo bữa trưa. Lão có một chai nước đằng mũi thuyền và đấy là tất cả lão cần trong một ngày. Lúc này thằng bé đã quay lại, mấy con cá mòi và hai miếng mồi câu được bọc trong tờ báo, hai người men theo lối mòn đến thuyền, chân giẫm lên lớp cát pha sỏi, nâng con thuyền đẩy xuống nước.
“Chúc ông may mắn”.
“Chúc cháu may mắn”, ông lão nói. Lão tra quai chèo vào cọc, nghiêng người tới trước khua mạnh mái chèo xuống nước; trong bóng tối, lão chèo ra khỏi bến. Có nhiều chiếc thuyền từ các bãi khác ra khơi; ông lão nghe tiếng mái chèo khua nước mặc dù lão không thể nhìn thấy họ bởi bây giờ mặt trăng đã khuất sau rặng đồi. Thỉnh thoảng, có tiếng ai đó nói trên thuyền. Nhưng hầu hết các thuyền đều im lặng trừ tiếng mái chèo khua nước. Họ tỏa rộng sau khi ra khỏi cửa biển; mỗi người đi đến phần đại dương nơi họ hy vọng tìm thấy cá. ông lão biết mình sẽ đi thật xa, để lại mùi đất sau lưng, chèo vào vùng hương tinh khôi của đại dương ban mai. Lão thấy ánh lân quang của đám rong vùng Nhiệt lưu trong nước khi lão chèo qua vùng biển mà ngư dân gọi là vùng Giếng lớn, bởi vì độ sâu ở đấy bất thình lình tụt xuống đến bảy trăm sải nước; họ hàng nhà cá đều dồn tất tại đó do xoYy nước dội thẳng vào bờ vách dốc của đáy đại dương. ở đấy tập trung tôm, cá mòi và thỉnh thoảng hàng đàn cá mực, sống trong những hố sâu nhất ngoi lên gần mặt nước vào ban đêm để làm mồi cho những con cá lang thang.
Trong bóng tối, ông lão có thể cảm nhận bình minh đang đến và lúc chèo, lão nghe thấy những âm thanh run rẩy khi đàn cá chuồn rời mặt nước và cả tiếng lao xao phát ra từ bộ cánh cứng khi chúng lao xao trong bóng tối. Lão rất quý loài cá chuồn bởi chúng là bạn gần gũi của lão trên đại dương. Lão thương cho lũ chim, đặc biệt là loài nhạn đen nhỏ, mỏng manh cứ bay và tìm kiếm mãi nhưng hầu như chẳng tìm thấy gì; lão nghĩ loài chim sống khổ hơn ta trừ mấy cái giống chim kẻ cướp và những loài to xác, kềnh càng. Tại sao tạo hóa lại sinh ra cái giống chim quá xinh xẻo mỏng manh như loài nhạn biển này trong khi đại dương lại có thể quá ư nghiệt ngã?
Đại dương tử tế và rất đẹp. Nhưng nó có thể rất độc ác và tráo trở bất thình lình; còn loài chim kia thì phải bay, nhao xuống săn mồi; và tiếng kêu thảng thốt, khẽ khàng của chúng lại quá yếu ớt giữa trùng khơi. Lão luôn nghĩ về biển như lamar, đấy là cách người ta gọi biển bằng tiếng Tây Ban Nha khi họ yêu biển. Thỉnh thoảng những người yêu biển cũng buông lời nguyền rủa biển nhưng họ luôn nói như thể biển là phụ nữ. Vài tay đánh cá trẻ, sử dụng phao nhựa làm phao câu và đi thuyền máy, sắm được khi gan cá mập được giá, gọi biển là el mar, tức giống đực. Chúng nói về biển như một đối thủ, một địa điểm hay thậm chí là một kẻ thù. Nhưng ông lão thì luôn nghĩ về biển như về một phụ nữ, như cái gì đó có thể ban phát hay chối giữ ơn huệ, và nếu biển làm điều ác độc hay tàn bạo thì bởi lẽ lúc ấy biển không thể nào kìm giữ nổi. Mặt trăng tỏa chiếu trên biển như thể tỏa chiếu trên cơ thể của người đàn bà, lão nghĩ. Lão buông chèo nhịp nhàng, không phải mất nhiều sức bởi lão làm chủ tốc độ của mình và bởi đại dương bình lặng trừ đôi chỗ có dòng xoYy. Lão đang để dòng chảy đỡ đi một phần ba công việc và khi trời vừa hửng sáng lão thấy mình đã đi xa hơn quãng đường lão nghĩ vào thời điểm ấy. Mình đã câu ở vùng Giếng lớn suốt cả tuần nay mà chẳng bắt được mống nào hết, lão nghĩ. Hôm nay mình sẽ ra tận nơi các đàn cá bonito và albacore kiếm ăn và có thể con cá lớn sẽ quanh quẩn đâu đấy. Trước khi trời sáng rõ, lão buông mồi và thả thuyền trôi theo dòng chảy. Một con mồi ở độ sâu bốn mươi sải. Mồi thứ hai sâu tới bảy mươi lăm sải; mồi thứ ba và thứ tư chìm sâu hút trong làn nước xanh đến độ sâu một trăm và một trăm hai mươi lăm sải. Mỗi con mồi được móc ngược đầu xuống, lưỡi câu giấu trong thân Tiếng Tây Ban Nha chỉ một loài sứa. cá, buộc chặt, khâu kỹ và những phần thòi ra của lưỡi câu, đoạn cong và mũi nhọn, thì được che bằng những con cá mòi tươi rói. Chúng bị móc xuyên qua hai mắt tạo thành nửa vòng hoa trên cuống thép. Không còn phần nào của lưỡi câu để con cá lớn có thể nhận ra ngoại trừ hương vị thơm lừng quyến rũ. Thằng bé cho ông lão hai con cá thu nhỏ tươi, thuộc loài albacore; lão móc chúng vào hai lưỡi câu sâu nhất, chúng nặng như thể mấy hòn chì; còn ở hai lưỡi kia, lão móc một con nục sòng lớn, màu xanh và một con ngừ bạc đã được sử dụng hôm trước; nhưng chúng vẫn còn tốt và xâu cá mòi thơm phức giúp chúng tỏa hương hấp dẫn. Mỗi dây câu, lớn bằng cây bút chì cỡ lớn, được buộc vào một cái phao bằng que gỗ màu xanh lục để bất kỳ một cú kéo, một cú đớp nào vào miếng mồi cũng khiến phao gỗ chìm xuống; mỗi dây câu còn có hai cuộn dây dài bốn mươi sải dự phòng sẵn sàng nối với các cuộn khác để khi cần thiết, con cá có thể có hơn ba trăm sải dây. Bây giờ lão quan sát mũi của ba chiếc phao gỗ bên mạn thuyền, chèo nhẹ để giữ cho mấy sợi dây thẳng đứng đến độ sâu cần thiết của chúng. Trời đã sáng hẳn và chẳng mấy nữa mặt trời sẽ mọc lên. Mặt trời nhô lên mặt biển, ông lão có thể nhìn thấy những thuyền khác, chìm thấp trong nước, dàn rộng qua dòng chảy, phía gần bờ. Khi mặt trời rực rỡ hơn, ánh nắng chiếu xuống mặt nước và lát sau, lúc nó cao hẳn lên, mặt biển phẳng lặng phản chiếu ánh nắng dội vào mắt lão làm đau nhức; lão chèo mà không nhìn vào nó nữa. Lão nhìn xuống nước, theo dõi mấy sợi dây được thả thẳng đứng xuống vùng đen của đại dương. Lão giữ chúng thẳng hơn bất kỳ một ai khác, để ở mỗi độ sâu trong vùng nước đen kia sẽ có một con mồi đợi đúng ngay ở đấy, nơi lão muốn dành cho bất cứ con cá nào bơi qua. Các tay câu khác thì để chúng trôi theo dòng chảy và đôi khi chúng chỉ ở độ sâu sáu mươi thay vì một trăm sải như họ m u ố n . Nhưng, lão nghĩ, mình giữ chúng chính xác. Duy chỉ mình không còn may mắn nữa thôi. Nhưng biết đâu được?
Có thể hôm nay. Mỗi ngày là một ngày mới. Gặp may thì tốt hơn. Nhưng mình ưa sự chính xác. Để khi vận may đến thì mình đã sẵn sàng. Bây giờ mặt trời đã mọc cao được hai tiếng đồng hồ, nó không làm mắt lão đau nhiều khi nhìn về hướng Đông nữa. Giờ đây, trong tầm mắt, chỉ còn lại ba bóng thuyền, mạn lún sâu xuống nước và ở mãi tít phía trong bờ. Suốt cả đời, bình minh làm buốt mắt ta, lão nghĩ. Nhưng chúng vẫn còn tinh anh. Vào lúc chiều tối, ta có thể nhìn thẳng vào nó mà không bị những đốm đen trong mắt. Buổi chiều, ánh nắng mạnh hơn. Nhưng buổi sáng nó làm ta nhức nhối. Ngay khi đó lão thấy một con hải bằng tung đôi cánh đen dài lượn trên bầu trời trên đầu lão. Nó sà xuống nhanh, nghiêng cánh chao người rồi bay vòng trở lại.
“Nó tóm được con gì rồi”, ông lão nói lớn.
“Nó không chỉ nhìn đâu”. Lão chèo chậm rãi, đều đặn tiến về phía con chim đang lượn vòng. Lão không vội, lão cần giữ cho những sợi dây thẳng đứng xuống. Nhưng lão hơi nhanh hơn dòng nước một chút trong chừng mực lão vẫn câu đúng, nếu lão không cố bám theo con chim thì lão sẽ không chèo nhanh hơn cách lão thường câu. Con chim bay cao hơn, lại lượn vòng, đôi cánh bất động. Rồi thình lình nó lao xuống, lão thấy đàn cá chuồn tung mình lên khỏi mặt nước, tuyệt vọng bay trên mặt biển.
“Dorado”, ông lão nói lớn.
“Cá dorado lớn”.
Lão dừng chèo, lôi ra sợi dây câu nhỏ đằng mũi thuyền. Dây câu này có đáy thép và lưỡi câu cỡ trung bình, lão móc mồi bằng một con mòi. Lão buông câu qua mạn thuyền rồi buộc nó vào cái khoen đằng sau lái. Lão tiếp tục móc mồi lưỡi câu khác rồi vẫn để nó cuộn như thế trong bóng mát mũi thuyền. Lão quay lại chèo và trông chừng con chim có sải cánh đen rộng bây giờ đang sà thấp xuống kiếm mồi trên mặt nước. Khi lão quan sát, con chim lại nhào xuống, nghiêng cánh liệng rồi đập loạn xạ, bất lực khi bám theo đàn cá chuồn. ông lão có thể nhìn thấy mặt nước khẽ cuộn lên chỗ đàn cá dorado lớn nhao người đuổi theo bầy cá chuồn đang lẩn trốn. Đám cá dorado đang cắt xuyên vùng nước bên dưới đường bay của đàn cá, lao hết tốc lực đợi đàn cá rơi xuống. Đàn cá dorado lớn, lão nghĩ. Chúng dàn rộng ra, lũ cá chuồn có ít cơ hội trốn thoát. Con chim cũng không có cơ hội. Đàn cá chuồn quá lớn so với nó, vả lại chúng lao đi rất nhanh. Lão nhìn theo đàn cá chuồn cứ phóng lên lặn xuống và những cú chao mình vô ích của con chim. Đàn cá ấy đã rời xa ta, lão nghĩ. Chúng di chuyển nhanh quá và xa quá. Nhưng chắc chắn ta sẽ tóm được một chú đi lạc và có lẽ con cá lớn của ta hẳn quanh quẩn bên chúng. Con cá lớn của ta hẳn đang ở đâu đó. Bây giờ những đám mây trên đất liền đùn lên tựa những quả núi và bờ biển chỉ còn là một vệt xanh dài với rặng đồi xanh thẫm đằng sau nó. Giờ đây, mặt nước xanh thẫm, thẫm đến nỗi như ngả sang màu tím. Khi nhìn xuống, lão thấy những vệt rêu đỏ trong làn nước tối sẫm và bây giờ mặt trời lấp lánh những tia sáng kỳ lạ. Lão dõi theo mấy sợi dây câu để thấy chúng chạy thẳng xuống ngút khỏi tầm mắt trong đáy nước và lão hạnh phúc khi thấy nhiều rêu biển, bởi đấy là dấu hiệu có cá. ánh sáng kỳ lạ của mặt trời chiếu vào làn nước cho thấy giờ đây mặt trời Prev Page 19 Next đã lên cao hơn, có nghĩa thời tiết thuận; cả hình thù của những đám mây trên đất liền kia cũng báo hiệu điều đó. Nhưng giờ thì con chim đã gần như khuất khỏi tầm mắt, trên mặt nước chẳng còn gì nữa, ngoại trừ những vệt rong Sargasạo vàng ệch, bạc màu dưới nắng trời và cái cơ thể nung núc, đỏ tía, nhão nhớt, sặc sỡ đủ màu của một con sứa đang lềnh bềnh bên mạn thuyền. Nó nghiêng mình rồi trở người lại ngay ngắn. Nó háo hức trôi đi tựa cái bong bóng xà phòng, kéo theo những sợi tua dài gần một mét màu đỏ tía chết :Dc ngầm trong nước.
“Agua mala”, lão nói.
“Đồ điếm”. Từ nơi khẽ đưa mái chèo, lão nhìn xuống nước và thấy những con cá nhỏ có cùng màu với đám sợi tua đang bơi giữa chúng và cả dưới cái bóng nhỏ mà con sứa kia tạo ra khi trôi đi. Lũ cá ấy có khả năng đề kháng với nọc độc sứa. Nhưng con người thì không và có dạo mấy sợi tua ấy vướng vào dây câu, bám ở đó, đỏ tía, nhờn nhợt rồi trong lúc xoay xở với con cá ông lão đã chạm phải làm cả cánh tay lẫn bàn tay nhức nhối như thể khi chạm phải một dây trường xuân độc hay loài sồi độc. Chỉ khác là chất độc từ sứa agua mala khuếch tán nhanh hơn, tựa nhát roi quất vụt xuống. Cái giống sứa lấp lánh ngũ sắc trông thật đẹp. Nhưng chúng là loài man trá nhất đại dương, ông lão thích nhìn những con rùa biển lớn xơi thịt chúng. Loài rùa nhìn thấy, tiếp cận chúng trực diện, rồi nhắm nghiền mắt để che chắn toàn thân đoạn xông tới chén sạch cả mớ tua lẫn người ngợm của chúng. ông lão ưa nhìn loài rùa chén thịt chúng và lão thích giẫm nát khi chúng bị bão đánh giạt vào bờ để nghe tiếng lốp bốp khi bị giẫm lên và những mảnh sứa lựt sựt nát ra dưới bàn chân. Lão yêu giống rùa xanh, lưng khòm, duyên dáng, nhanh nhẹn và giá trị lớn của chúng; lão có tình cảm suồng sã theo kiểu bè bạn với cái giống to đầu, nặng nề, đần đần, da vàng phía trong mai, giao cấu theo kiểu kỳ quặc và hồ hởi chén thịt sứa với đôi mắt nhắm tịt ấy.
Lão chẳng còn lạ gì về giống rùa ấy nữa bởi đã nhiều năm làm nghề săn rùa. Lão xót thương cho cả họ hàng nhà chúng, thậm chí cả với loài lưng hộp khổng lồ, dài bằng chiếc thuyền và cân nặng cả tấn. Hầu hết mọi người đều ác độc với rùa bởi trái tim rùa vẫn đập trong nhiều giờ sau khi đã bị xẻ thịt phanh thây. Nhưng lão nghĩ, trái tim ta cũng như vậy, kể cả đôi chân và đôi tay cũng giống của chúng. Lão ăn những quả trứng rùa trắng để tăng thêm sức lực. Lão ăn suốt cả tháng năm để đến tháng chín, tháng mười khỏe lên đợi con cá lớn thật sự. Hằng ngày lão cũng uống một lá dầu gan cá mập ở cái thùng lớn trong căn lều nơi nhiều ngư dân cất dụng cụ. Chỗ dầu ấy dành cho bất cứ ngư dân nào muốn. Đa phần trong số họ ghét mùi vị của nó. Nhưng điều đó thì chẳng có tệ hơn việc phải thức dậy vào đúng cái giờ để ra khơi, hơn nữa nó chống cảm lạnh, cúm và rất tốt cho cả thị lực. Bây giờ ông lão nhìn lên và thấy con chim lại lượn vòng.
“Nó tìm thấy cá”, lão nói lớn. Không có con cá chuồn nào tung mình lên mặt biển và cũng chẳng có con cá mồi nào lượn lờ. Nhưng khi ông lão quan sát, một con cá thu nhỏ phóng lên, vặn mình, lao đầu xuống nước. Con cá lấp lánh trong ánh nắng, sau khi nó rơi xuống thì lần lượt nhiều con khác nhảy lên, chúng túa ra khắp mọi hướng, quẫy tung nước, phóng những bước dài đuổi theo con mồi. Chúng quây tròn con mồi và xâu xé. Nếu chúng không bơi nhanh quá thì mình sẽ đuổi kịp, ông lão nghĩ và nhìn đàn cá quẫy tung bọt nước trắng xóa, con chim bây giờ buông mình sà xuống đàn cá mồi do hoảng sợ nên đã trồi hẳn lên mặt nước.
“Con chim được việc thật”, ông lão nói. Chỉ khi ấy sợi dây ở đuôi thuyền giật giật dưới chân, nơi lão buộc hờ; lão buông tay chèo và cảm thấy độ nặng của một chú cá thu nhỏ đang giật giật khi lão nắm chặt sợi dây, từ từ kéo vào. Sức giãy giụa tăng lên khi lão kéo đến gần và có thể nhìn thấy sống lưng xanh thẫm của con cá trong làn nước và cả màu vàng bên sườn nó trước khi lão kéo bổng nó lên đưa qua mạn vào thuyền. Con cá nằm ở phía đuôi thuyền, trong ánh nắng, trùi trũi như một viên đạn; đôi mắt to đờ đẫn của nó lồi ra khi cái đuôi gọn ghẽ cứ quật, nảy liên hồi trên ván thuyền tìm lối thoát. Động lòng trắc ẩn, ông lão nện vào đầu nó rồi đá cái thân hãy còn run rẩy vào dưới tấm ván sau lái.
“Cá thu”, lão nói lớn.
“Nó sẽ là con mồi tuyệt hảo. Gần năm ki lô chứ chẳng chơi”. Lão không nhớ lần đầu tiên lão nói to một mình như thế là tự bao giờ. Ngày xưa khi lủi thủi một mình, lão thường hát; thỉnh thoảng lão hát vào ban đêm cô đơn trong phiên trực lái trên những chiếc thuyền buồm đánh cá hay thuyền săn rùa. Có lẽ lão bắt đầu nói lớn khi chỉ có một mình, khi thằng bé ra đi. Nhưng lão không nhớ. Ngày lão và thằng bé còn câu cùng nhau, hai ông cháu chỉ nói khi thật cần thiết. Họ nói vào ban đêm hay những khi trời đổ gió mưa. Những người đi biển kiêng nói chuyện nhảm; ông lão luôn thực hiện và tôn trọng điều đó. Nhưng giờ thì lão đã nói rõ lớn ý nghĩ của mình hằng bao nhiêu lần bởi chẳng còn ai có thể nghe thấy để bực mình.
“Nếu người khác nghe mình nói lớn thì chắc họ nghĩ mình điên mất”, lão nói lớn.
“Nhưng vì không điên nên mình chẳng quan tâm. Cánh nhà giàu có radio để bầu bạn trên thuyền và ngay cả trên sân bóng nữa”. Giờ thì không phải là lúc nghĩ về bóng biếc, lão nghĩ. Giờ là lúc chỉ nghĩ về một điều duy nhất. Ta sinh ra để làm gì? Chắc là có một con lớn quẩn quanh đàn cá ấy, lão nghĩ. Mình chỉ tóm được một tên đi lạc trong đàn cá thu đang kiếm mồi. Nhưng chúng di chuyển rất nhanh và đã đi quá xa.
Mọi vật xuất hiện trên mặt biển hôm nay sao lại cứ vùn vụt chuồn về hướng Đông Bắc. Có phải là tại giờ khắc trong ngày? Hay đấy là dấu hiệu của thời tiết mà mình không biết? Bây giờ lão không còn nhìn thấy viền xanh của bờ mà chỉ còn thấy :Dnh của mấy ngọn đồi trắng xóa như thể phủ đầy tuyết, cả những đám mây tựa như
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #8  
Old 05-15-2004, 02:30 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

Ernest Hemingway ::::
Ông già và biển cả

Phần 2



Trời dần sang chiều, con thuyền vẫn lừ đừ tiến một cách vững chắc. Nhưng giờ thì đã xuất hiện trợ lực, gió Đông đẩy thuyền đi và ông lão nhấp nhô theo những con sóng nhỏ, nỗi nhức nhối của sợi dây hằn trên lưng đã dịu đi, mềm mại. Trong buổi chiều ấy, sợi dây lại nổi lên một lần nữa. Nhưng con cá vẫn tiếp tục bơi ở tầng nước cao hơn một tí. Mặt trời rọi lên cánh tay trái, vai và lưng lão. Vậy nên lão biết con cá đã chuyển sang hướng Đông Bắc. Bây giờ, khi đã trông thấy nó, lão có thể hình dung con cá đang bơi trong đại dương, bộ vây đỏ hồng dang rộng như đôi cánh, còn cái đuôi dựng đứng đồ sộ đang rẽ nước trong vùng tối đen. Mình không biết nó có nhìn rõ ở độ sâu ấy không, lão nghĩ. Mắt nó to lắm và loài ngựa mắt nhỏ hơn nhiều vẫn có thể nhìn xuyên qua bóng tối. Có hồi mình có thể nhìn khá rõ trong bóng tối. Không phải tối đen kịt đâu. Nhưng có thể nói là sáng gần như mắt mèo. Mặt trời và việc cử động bền bỉ mấy ngón tay của lão đã làm bàn tay trái giờ đây hoàn toàn hết bị chuột rút và lão bắt đầu dồn thêm áp lực lên nó; lão gồng các bắp thịt trên lưng cố nhích sợi dây đau điếng sang một tí.
“Cá này, nếu mày không mỏi mệt”, lão nói lớn,
“thì mày quả thật đúng là dị thường”. Lúc này, lão cảm thấy rất mệt, lão biết bóng tối sắp ập đến và lão cố nghĩ sang chuyện khác. Lão nghĩ về Liên đoàn Big mà lão gọi là Gran Ligas và lão biết đội Yankee của New áork đang đấu với đội Tigres của Detroit. Bây giờ đã sang ngày thứ hai mà mình không biết kết quả các trận đấu, lão nghĩ. Nhưng mình phải tin tưởng và phải xứng đáng với tài danh Di Maggio vĩ đại, người luôn xử lý mọi việc hoàn hảo dẫu cho phải mang cái gót chân đau vì chứng nẻ cựa gà. Chứng nẻ cựa gà là gì nhỉ? Lão tự hỏi. Una espuela de Hueso. Chúng mình không mắc bệnh ấy. Nó có đau như cựa của một chú gà chọi đâm vào gót chân không nhỉ? Mình không nghĩ mình có thể chịu đựng được điều ấy hay việc mất một mắt, hai mắt mà vẫn tiếp tục chiến đấu theo kiểu của đám gà chọi. Bên cạnh giống chim và loài thú vĩ đại thì con người chẳng thấm tháp gì nhiều. Vậy nên mình thích làm con cá ở dưới kia, lội trong vùng tối đen của đại dương.
“Miễn là đừng gặp lũ cá mập”, lão nói lớn.
“Nếu cá mập đến, cầu Chúa hãy rủ lòng thương lấy con cá và cả con nữa”. Mày có chắc Di Maggio vĩ đại sẽ cầm cự với một con cá lâu như tao đã cầm cự với chú cá này không? Lão nghĩ. Mình nghĩ anh ta có thể và thậm chí có thể lâu hơn nữa bởi anh ta trẻ trung, cường tráng. Cha anh ta cũng là dân chài lưới. Nhưng cái chứng nẻ cựa gà có làm anh ta đau nhiều không nhỉ?
“Ta không biết”, lão nói lớn.
“Ta không bao giờ mắc cái chứng ấy”. Khi mặt trời lặn, lão hồi tưởng, để tự củng cố thêm niềm tin, về cái hôm ở quán rượu tại Casablanca khi lão chơi vật tay với anh chàng da đen lực lưỡng quê ở Cienfuegos, người được xem là khỏe nhất ở cảng ấy. Hai người đấu suốt một ngày và một đêm; khuỷu tay đặt trong vòng phấn trên bàn, cánh tay dựng thẳng, hai bàn tay nắm chặt lấy nhau. Người nào cũng cố vật tay của đối thủ xuống bàn. Người ta đặt cược rất nhiều và cứ đi vào đi ra căn phòng sáng ánh đèn dầu; lão nhìn cánh tay, bàn tay rồi nhìn mặt anh chàng da đen. Sau tám giờ đầu, người ta quyết định cứ bốn tiếng thì thay trọng tài để họ có thể đi ngủ. Máu từ tay lão và tay anh chàng da đen tứa ra kẽ móng tay. Hai đấu thủ nhìn vào mắt, vào bàn tay, cánh tay của nhau; dân đánh cược cứ ra ra vào vào và ngồi trên những chiếc ghế cao tựa vào tường theo dõi. Mấy ngọn đèn hắt bóng họ lên những bức tường gỗ sơn màu xanh biếc. Bóng tay da đen nom đồ sộ, cứ chập chờn trên vách mỗi khi gió nhẹ lùa vào mấy ngọn đèn. Suốt đêm, tình thế trận đấu vẫn chưa ngã ngũ, người ta cho tay da đen uống rượu rum và châm thuốc mời hắn. Rồi thì anh chàng da đen, sau ngụm rum đã dốc hết nỗ lực phi thường và có lúc đã đè nghiêng tay lão, người lúc ấy chưa già mà là Santiago EL Campeón, chừng bảy phân. Nhưng lão đã đẩy bật trở về vị trí ban đầu. Lúc đó lão chắc là lão sẽ thắng tay da đen, một vận động viên điền kinh cừ khôi, sung sức. Rồi ngày ló rạng, khi những người cá cược đang đề nghị xem trận đấu là hòa và trọng tài đang lắc đầu thì lão dồn hết gân cốt đè bàn tay của anh chàng da đen xuống, xuống nữa cho đến khi chạm hẳn mặt bàn. Trận đấu bắt đầu vào sáng chủ nhật và kết thúc vào sáng thứ hai. Nhiều tay cá độ đề nghị hòa vì họ phải ra cảng bốc vác các bao đường hay làm việc cho Công tá than Havana. Nếu không thế thì mọi người hẳn muốn đợi xem cho đến lúc kết thúc. Nhưng dẫu sao thì lão cũng kết thúc trận đấu trước lúc mọi người phải đi làm. Trong suốt thời gian dài sau sự kiện ấy, mọi người đều gọi lão là Nhà Vô Địch; dĩ nhiên còn có cả trận phục thù vào mùa xuân nữa kia. Nhưng tiền đặt cược không nhiều và lão đã chiến thắng quá dễ dàng bởi đã đập tan lòng tin của tay da đen ở Cienfuegoạ trong trận chạm trán đầu tiên. Sau chiến thắng ấy, lão còn đấu vài trận nữa rồi nghỉ hẳn. Lão biết lão có thể đánh bại bất cứ ai nếu lão thực sự khao khát và lão cũng hiểu rằng bàn tay phải của lão sẽ kém đi khi câu cá. Lão đã thử vài trận đấu luyện với bàn tay trái. Nhưng tay trái lão luôn là kẻ phản bội, không chịu làm theo ý chí lão nên lão không thể tin cậy nó. Lúc này, mặt trời đã làm nó đủ ấm, lão nghĩ. Nó sẽ không bị chuột rút nữa nếu ban đêm không bị lạnh quá. Mình không rõ, đêm nay chuyện gì sẽ đến đây. Một chiếc máy bay vượt qua bầu trời trên đường đến Miami, lão thấy cái bóng của nó làm cả đàn cá chuồn hoảng sợ.
“Nhiều cá chuồn đến thế thì ở đó chắc có cá dorado”, lão nói rồi trì sợi dây lại xem thử có khả năng đoạt được đoạn dây nào từ con cá kia không. Nhưng lão không thể, nó cứ trơ trơ, sợi dây rung rung bắn cả nước cơ hồ như sắp đứt. Chiếc thuyền vẫn bình lặng tiến về phía trước và lão dõi theo chiếc máy bay cho đến khi không còn nhìn thấy nó. Ngồi trong máy bay chắc là lạ lắm, lão nghĩ. ở độ cao ấy, mình không biết mặt biển trông ra sao? Họ có thể thấy rõ con cá nếu không bay cao quá. Mình thích bay thật chậm ở độ cao hai trăm sải để quan sát cá từ trên cao. Những lần theo thuyền săn rùa, mình đứng trên xà ngang của cột buồm tiền và chỉ với độ cao ngần ấy mình cũng đã nhìn rõ ra phết. Đám cá dorado trông xanh hơn từ trên đấy và bạn có thể nhìn thấy những đường sọc, những đốm đỏ tía trên mình chúng và có thể thấy hết cả đàn khi chúng bơi. Tại sao tất thảy các loài cá bơi nhanh trong vùng nước tối thì lưng lại tím sẫm và luôn có vằn và đốm tím? Loài cá dorado có màu xanh thẫm là vì da chúng vàng ruộm. Nhưng khi chúng đi kiếm mồi, vào những lúc đói ngấu thì mấy cái vằn tím hai bên lườn trông giống hệt như vằn của loài cá kiếm. Có phải là do giận dữ hay là do tốc độ lớn mà da chúng có hiện tượng ấy?
Ngay trước khi trời tối, lúc vượt qua đảo rong biển Sargasso mênh mông đang ngả nghiêng dập dềnh trong sóng nhẹ như thể đại dương đang làm tình với ai đó dưới cái mền vàng, thì sợi dây câu nhỏ của lão đã móc vào họng một con cá dorado. Lão thấy nó lần đầu tiên khi nó nhảy lên mặt nước, vàng ruộm trong sắc nắng còn nán lại, uốn cong mình vẫy vùng loạn xạ trong không trung. Nó lại cứ tiếp tục lao lên, lần nữa, rồi lần nữa trong cơn hoảng sợ tột cùng và ông lão lom khom lần về phía đuôi thuyền, bàn tay phải và cả cánh tay giữ sợi dây câu lớn, còn tay trái lão lôi con cá vào, chân trái chận giữ những đoạn dây thu được. Khi vào gần mạn thuyền con cá cứ nhào lên lặn xuống hoảng loạn trong cơn tuyệt vọng, ông lão cúi người qua mạn, nhấc con cá vàng cháy lốm đốm vệt tím sẫm vào thuyền. Mồm nó cứ há ra rồi ngoạp liên hồi xuống lưỡi câu rồi cứ nảy trong lòng thuyền bằng cái thân dẹt dài, bằng cả đầu và đuôi nữa cho đến lúc ông lão quật mạnh xuống cái đầu vàng nhẫy thì nó mới rùng mình nằm im. ông lão tháo lưỡi câu khỏi con cá, móc lại mồi bằng một con cá mòi khác rồi buông qua mạn thuyền. Lão dò dẫm trở lại mũi thuyền. Lão rửa tay trái và chùi vào quần. Đoạn lão chuyền sợi dây nặng từ tay phải sang tay trái rồi rửa tay phải trong lúc quan sát mặt trời đang chìm xuống biển và độ chếch của sợi dây lớn.
“Nó chẳng thay đổi chút nào”, lão nói. Nhưng khi nhìn sức cản của nước dội vào tay, lão biết tốc độ đã có phần giảm đi.
“Ta sẽ buộc hai mái chèo sau lái chéo vào nhau để làm chậm con cá vào ban đêm”, lão nói.
“Về đêm nó khỏe và ta cũng thế”. Tốt hơn là để lát nữa mới mổ thịt con cá, như thế mới giữ được máu trong thịt, lão nghĩ. Lát nữa ta làm việc ấy và cả việc buộc hai mái chèo để làm vật cản luôn thể. Bây giờ ta nên để con cá yên thì tốt hơn và không nên quấy nó quá vào lúc hoàng hôn. Hoàng hôn là khoảng thời gian khó khăn đối với tất cả các loài cá. Lão để bàn tay cho gió thổi khô rồi nắm sợi dây, thả lỏng cơ thể hết mức, nương theo đà kéo, nép vào mạn thuyền để con thuyền chia đều áp lực hay chiếm hơn phần lực đè lên lão. Mình biết cách rồi đấy, lão nghĩ. Dẫu sao thì đấy cũng là một trong những mẹo. Rồi lão nhớ con cá chưa hề ăn thứ gì kể từ lúc cắn câu; nó là con cá khổng lồ nền cần phải ăn nhiều. Mình đã ăn hết con cá thu. Ngày mai mình sẽ ăn con dorado. Mình gọi loài dolphin này là dorado. Có lẽ ta nên ăn một ít khi đã mổ thịt. Thịt nó sẽ khó ăn hơn thịt con thu. Nhưng giờ đây, có gì là dễ đâu.
“Mày cảm thấy thế nào hở cá?
“ lão hỏi lớn.
“Còn tao thì thấy khỏe, bàn tay trái cũng đã khá hơn. Tao có đủ thức ăn cho một đêm, một ngày nữa. Có giỏi thì cứ kéo thuyền đi, cá”. Lão không thật sự cảm thấy khỏe khoắn bởi nỗi nhức nhối do sợi dây hằn lên lưng lão đã vượt qua giới hạn đau để đi vào miền tê dại mà lão chẳng thể nào lường nổi. Nhưng ta đã từng gặp chuyện tồi tệ hơn thế, lão nghĩ. Bàn tay chỉ bị cứa nhẹ một tí, còn chứng chuột rút thì đã đi đâu mất rồi. Đôi chân còn khỏe chán. Đấy là chưa kể ta còn nhỉnh hơn nó về khoản thịt cá kia. Giờ thì trời đã tối, đêm tháng chín, bóng tối ập xuống rất nhanh ngay sau lúc mặt trời lặn. Lão ngả người tựa vào mạn thuyền và cố nghỉ ngơi thư thái. Những ngôi sao đầu tiên xuất hiện. Lão không biết tên vì Rigel nhưng lão nhìn thấy nó và biết chẳng mấy nữa, cả trời sao sẽ hiện lên và lão sẽ có những người bạn ở nơi xa xôi kia.
“Con cá cũng là bạn ta”, lão nói lớn.
“Ta chưa hề được nhìn thấy hay nghe nói về một con cá nào như thế. Nhưng ta phải giết nó. Ta lấy làm mừng vì chúng ta không phải cố giết những vì sao”. Hãy tưởng tượng hằng ngày con người phải cố giết cả mặt trăng. Mặt trăng sẽ lánh xa. Nhưng thử hình dung nếu có ngày có người phải giết cả mặt trời. Chúng ta được sinh ra may mắn, lão nghĩ. Rồi lão xót xa cho con cá lớn đã không có cái gì để ăn và dẫu cho có xót xa như thế thì quyết tâm giết con cá của lão cũng không hề suy giảm. Bao nhiêu người sẽ ăn thịt con cá này, lão nghĩ. Nhưng liệu họ có đủ tư cách để ăn thịt nó không. Không, đương nhiên là không. Chẳng một ai có đủ tư cách để ăn thịt nó bởi cái cách cư xử đĩnh đạc và phong độ của nó. Mình không hiểu những chuyện này, lão nghĩ. Nhưng thật dễ chịu khi chúng ta không phải cố giết mặt trời, mặt trăng hay những vì sao. Sống nương vào biển và giết người anh em thực sự của chúng ta là đã quá đủ rồi. Bây giờ, lão nghĩ, mình phải nghĩ về chuyện hãm bớt. Việc này thì có phần lợi và cũng có phần hại. Nếu con cá dốc sức chạy và hai cái chèo cản nước làm con thuyền mất độ nhẹ thì chắc mình cũng phải buông hết dây rồi để mất con cá. Con thuyền càng nhẹ thì càng kéo dài nỗi khổ của mình lẫn con cá nhưng đấy lại là điểm an toàn của mình bởi sức lực của con cá hãy còn rất dồi dào và nó chưa dùng hết. Dù gì đi nữa thì mình cũng phải mổ thịt con dorado để nó không bị hỏng và ăn vài miếng để lấy sức. Bây giờ mình sẽ nghỉ thêm một tiếng nữa để xem nó có còn lừng lững và ngoan cố trước khi mình quay ra sau lái quyết ra tay thử xem sao. Nhưng trong khi chờ đợi mình hẵng quan sát xem cách thức nó hành động và liệu nó có giở trò gì ra không. Buộc chèo là mẹo tốt nhất nhưng đã đến lúc cuộc chơi phải an toàn. Nó vẫn còn sung sức, mình thấy lưỡi câu móc vào khóe miệng và nó cứ ngậm chặt miệng. Nỗi đau đớn của lưỡi câu chẳng nghĩa lý gì cả. Nhưng sự hành hạ của cái đói cùng với việc không hiểu rõ mình đang chống lại cái gì là cả vấn đề đối với con cá. Giờ thì hãy nghỉ đi, lão già ạ, và cứ để nó kéo cho đến khi nhiệm vụ sắp tới của mày đến. Lão nghỉ độ chừng hai tiếng. Mặt trăng chưa mọc bây giờ nhưng lát nữa sẽ mọc; lão không có cách nào đoán thời gian. Và cái việc nghỉ ngơi của lão cũng lơ mơ nốt. Lão vẫn cứ chịu sức kéo của con cá dồn lên vai tuy đã đặt bàn tay trái lên mép mạn thuyền trước mũi để trút bớt, bớt nữa gánh nặng của con cá lên chiếc thuyền. Thật đơn giản làm sao nếu ta có thể buộc sợi dây, lão nghĩ. Nhưng chỉ với một cú quẫy nhẹ, con cá sẽ giật đứt. Mình phải đưa thân ra làm chiếc đệm cho sợi dây và lúc nào cũng sẵn sàng cả hai tay nới thêm dây.
“Nhưng mày vẫn chưa ngủ, lão già ơi”, lão nói lớn.
“Đã nửa ngày và một đêm còn bây giờ lại sang một ngày nữa mà mày vẫn chưa ngủ tí nào cả. Nếu con cá cứ lặng lẽ và kéo đều như thế thì mày phải thu xếp để ngủ đi một lát. Nếu mày không ngủ thì đầu óc không chừng sẽ rối tung lên mất”. Đầu mình vẫn còn tỉnh táo, lão nghĩ. Quá tỉnh táo nữa là đằng khác. Mình tỉnh như những vì sao anh em kia. Nhưng mình phải ngủ. Sao ngủ, mặt trăng, mặt trời ngủ và ngay cả đại dương đôi khi cũng ngủ vào những hôm nào đó khi dòng hải lưu ngừng trôi và mặt nước phẳng lặng. Nhưng hãy nhớ chợp mắt, lão nghĩ. Cố ngủ đi và hãy nghĩ ra một kế gì đó đơn giản nhưng bảo đảm về mấy sợi dây câu. Bây giờ hãy lùi lại mổ thịt con cá dorado kia. Nếu mày phải ngủ thì chớ có liều mạng buộc chèo làm vật cản. Ta có thể chịu đựng mà không cần ngủ, lão tự nhủ. Nhưng như thế thì thật là quá nguy hiểm. Lão bắt đầu dò dẫm bò về phía đuôi thuyền, thận trọng không làm giật sợi dây. Có lẽ nó cũng đang lơ mơ ngủ, lão nghĩ. Nhưng mình không muốn nó được nghỉ ngơi. Nó phải kéo cho đến khi chết. Ra đến lái, lão xoay người để bàn tay trái giữ chặt sợi dây và dồn sức mạnh lên cả hai vai rồi rút con dao ra khỏi vỏ bằng tay phải. Lúc này ánh sao chiếu sáng, lão nhìn rõ con cá dorado, cắm lưỡi dao vào đầu và lôi nó ra khỏi tấm ván sau lái. Lão đè chân lên con cá, rạch phăng một nhát từ phía dưới bụng dọc lên đến mõm hàm dưới. Rồi lão đặt dao xuống, dùng tay phải moi sạch ruột và móc hết mang ra. Cảm thấy cái dạ dày con cá nặng và trơn trơn nên lão mổ nó ra. Có hai con cá chuồn trong đó. Chúng còn tươi rói, lão đặt nằm cạnh nhau rồi quẳng mớ lòng lẫn mang qua mạn thuyền. Khi chìm, chúng kéo thành vệt lân tinh dài trong nước.
Con cá dorado lạnh ngắt, trong ánh sao, chỗ thịt trắng nhợt màu phong hủi; lão lột một bên da trong lúc đạp chân phải lên đầu cá. Rồi lão lật lại lột nốt nửa kia và lóc thịt cả hai bên từ đầu đến đuôi. Lão quẳng xương xuống biển và nhìn xem thử có xoYy nước không. Nhưng chỉ có ánh lân tinh khi cái xương từ từ chìm xuống. Rồi lão quay lại đặt hai con cá chuồn vào giữa hai miếng thịt cá; đút dao vào vỏ, lão chầm chậm quay về phía mũi thuyền. Lưng lão oằn xuống bởi độ nặng của sợi dây; tay phải lão cầm mấy miếng thịt cá. Đến mũi, lão đặt chỗ thịt cá lên tấm ván, hai con cá chuồn xếp bên cạnh. Sau đó lão nhích sợi dây sau vai sang chỗ mới, tay trái lại giữ nó và tì lên mạn thuyền. Rồi lão nghiêng người qua mạn rửa con cá chuồn và để ý tốc độ nước vỗ vào tay. Tay lão dính lân tinh khi lột da con cá, lão nhìn dòng nước xói vào chỗ ấy. Dòng nước không còn xiết nữa và khi lão miết mu bàn tay vào ván thuyền, nhiều mảnh lân tinh bong ra, từ từ trôi về phía lái.
“Hoặc là nó đang mệt hoặc là nó đang nghỉ”, ông lão nói.
“Bây giờ ta cố ăn chỗ thịt cá dorado này, rồi nghỉ ngơi và ngủ một tí”. Dưới trời sao, trong đêm thâu mỗi lúc một lạnh, lão ăn hết nửa miếng cá dorado và một con cá chuồn sau khi đã móc ruột và cắt bỏ đầu.
“Thịt cá dorado này càng tuyệt vời khi nấu chín bao nhiêu”, lão nói,
“thì lại càng dở ẹc khi ăn sống bấy nhiêu. Mình sẽ không bao giờ ra khơi mà lại không mang theo muối hay quất nữa”. Nếu biết trù tính thì mình đã đổ nước biển lên ván mui phơi khô để lấy muối, lão nghĩ. Nhưng mãi cho tới lúc gần tối thì mình mới bắt được con dorado. Dẫu sao thì cũng đã thiếu sự chuẩn bị. Nhưng mình sẽ nhai kỹ và cố không bị nôn. Từ hướng Đông, mây đang giăng lên bầu trời và lần lượt từng ngôi sao lão thấy chìm đi. Bây giờ lão như thể đang trôi vào hẻm mây lớn và gió đã ngừng thổi.
“Trời sẽ trở trong vòng ba bốn hôm nữa”, lão nói.
“Nhưng tối nay và ngày mai thì chẳng sao. Bây giờ trong lúc con cá đang bơi bình tĩnh, đều đặn thì hãy quên mọi chuyện và cố ngủ đi, lão già ạ”. Bàn tay phải nắm chặt sợi dây, đùi lão kẹp lấy bàn tay khi lão dồn hết sức nặng tựa vào mạn thuyền. Rồi lão đẩy sợi dây trên lưng xuống thấp một tí và quàng tay trái qua giữ lấy. Tay phải của mình có thể giữ chắc sợi dây cho đến khi nó còn nắm chặt, lão nghĩ. Nếu trong lúc ngủ nó buông sợi dây ra thì tay trái sẽ đánh thức mình dậy. Tay phải sẽ chịu khổ đấy. Nhưng nó đã quen chịu đựng rồi. Dẫu cho mình có ngủ hai mươi phút hay nửa tiếng thì nó cũng không sao. Nằm quắp người tới trước, dồn hết trọng lượng cơ thể đè lên sợi dây, lên bàn tay phải, lão chìm vào giấc ngủ. Lão không mơ về sư tử, thay vào đó là đàn cá heo đông như kiến cỏ, trải dài tám đến mười dặm; đấy là mùa chúng giao phối, nhảy lên và rơi xuống đúng điểm nhảy trên mặt nước. Rồi lão mơ, lão đang ở làng, đang trên giường, gió bấc thổi làm lão lạnh cóng, cánh tay phải của lão tê buốt vì lão đã gối đầu lên thay gối. Sau đó lão bắt đầu mơ về bãi cát dài vàng rực, lão thấy con sư tử đầu tiên bước ra trong bóng tối chập choạng rồi tiếp đó là những con khác, còn lão thì tựa lên mạn con tàu đang thả neo trong làn gió nhẹ buổi tối từ đất liền thổi đến; lão cứ đợi xem thử còn có thêm con nào nữa không, lão hạnh phúc. Trăng mọc đã lâu mà lão vẫn ngủ vùi, con cá vẫn lững thững kéo, còn con thuyền thì chui vào đường hầm mây. Lão choàng tỉnh bởi cú đập từ nắm tay phải va vào mặt, sợi dây bỏng rát trong lòng bàn tay phải. Lão không có cảm giác về bàn tay trái nhưng đã dồn hết sức lên tay phải, hãm sợi dây khi bị kéo đi. Cuối cùng tay trái lão cũng đã tìm thấy sợi dây, lão oằn người ra giữ và bây giờ lưng và bàn tay trái lão bị sợi dây làm bỏng rát; độ căng dồn lên bàn tay trái, cắt nát nó. Lão nhìn lại mấy cuộn dây và thấy nó nhẹ nhàng tuôn ra.
Đúng lúc ấy, con cá nhảy lên, xé toang một mảng đại dương rồi rơi ầm xuống. Nó cứ tiếp tục nhảy, con thuyền lao đi vùn vụt mặc dù dây vẫn không ngừng tuôn ra; ông lão cứ tiến đến điểm sắp đứt, làm chùng xuống rồi cứ lặp đi lặp lại. Rốt cuộc lão bị kéo sập xuống mũi thuyền, mặt đập vào chỗ thịt cá dorado và nằm bất động. Đây là những gì ta chờ đợi, lão nghĩ. Vậy thì ta hãy nhận ngay đi. Bắt nó trả sợi dây, lão nghĩ. Bắt nó trả sợi dây. Lão không thể nhìn thấy những cú nhảy của con cá mà chỉ nghe thấy tiếng rách của đại dương và tiếng đập xuống nặng nề khi con cá rơi. Tốc độ của sợi dây đang cứa nát hai bàn tay lão nhưng do lường trước được chuyện này sẽ xảy ra nên lão đã cố giữ sợi dây lướt trên vùng chai sần, không để nó tuồn qua lòng bàn tay hay cứa đứt mấy ngón tay. Nếu thằng bé ở đây thì nó sẽ thấm ướt mấy cuộn dây, lão nghĩ. Đúng đấy. Nếu thằng bé ở đây. Nếu thằng bé ở đây. Sợi dây cứ tuồn, tuồn, tuồn ra mãi nhưng giờ thì nó chậm dần và lão chỉ để con cá nhích, nhích dần từng tí một. Lúc này lão đã ngẩng đầu lên khỏi tấm ván và miếng cá mà lão đã đập má vào. Lão quì gối rồi từ từ đứng lên. Lão đang tiếp tục nới thêm dây nhưng luôn giữ cho chậm hơn. Lão lần lại nơi lão có thể đưa chân sờ được cuộn dây mà mắt lão không nhìn thấy. Vẫn còn nhiều dây và bây giờ con cá phải đeo thêm cái gánh nặng của cả số dây vừa mới bị kéo chìm xuống nước.
Phải đấy, lão nghĩ. Đến giờ nó đã nhảy hơn mười hai lần và đã lùa đẩy không khí vào những chiếc túi dọc lưng nó; nó không thể lặn xuống sâu mà chết ở nơi mình không thể kéo lên. Chốc nữa nó sẽ bắt đầu lượn vòng và lúc ấy mình sẽ ra tay. Mình không rõ chuyện gì làm nó bất thình lình giật mình như vậy? Có phải cơn đói khiến nó liều mạng hay là đêm tối có cái gì làm nó sợ hãi? Có lẽ đột nhiên nó cảm thấy sợ. Nhưng nó là con cá điềm tĩnh, khỏe mạnh cực kỳ cơ mà, như thể nó chẳng biết sợ là gì và rất tự tin. Lạ thật.
“Tốt hơn là mày không được sợ và hãy tự tin”, lão nói.
“Mày đã kìm được nó nhưng chẳng thu về được tí dây nào. Chẳng mấy nữa con cá sẽ lượn vòng”. Bây giờ ông lão dùng tay trái và vai giữ con cá rồi cúi người đưa bàn tay phải vốc nước rửa chỗ cá dính trên mặt. Lão sợ mùi cá khiến lão buồn nôn và khi nôn thì lão mất sức. Khi mặt đã sạch, lão rửa bàn tay phải bên mạn thuyền rồi ngâm nó trong làn nước mặn trong lúc dõi theo tia nắng đầu tiên hắt lên từ phía mặt trời mọc. Con cá gần như bơi về hướng Đông, lão nghĩ. Đấy là dấu hiệu chứng tỏ nó đã thấm mệt, phải xuôi theo dòng nước. Chốc nữa nó sẽ phải lượn vòng. Khi ấy công việc của chúng ta mới thực sự bắt đầu. Sau khi nghĩ bàn tay phải đã ngâm lâu trong nước, lão nhấc lên quan sát.
“Cũng không đến nỗi tồi”, lão nói.
“Và nỗi đau nhức thì chẳng hề gì đối với một người đàn ông”. Lão thận trọng nắm sợi dây để nó không lọt xuống những đường vừa bị cứa và di chuyển người để bàn tay trái có thể nhúng xuống nước bên phía mạn thuyền kia.
“Kể ra mày cũng được việc đấy”, lão nói với bàn tay trái.
“Nhưng có lúc tao đã không tìm thấy mày”. Tại sao ta không được sinh ra với hai bàn tay khỏe? Lão nghĩ. Có lẽ đấy là lỗi của ta vì ta không chịu tập luyện đúng cách. Nhưng Chúa biết nó có đủ cơ hội để học hỏi. Dẫu sao tối qua nó cũng không đến nỗi quá tồi. Nếu nó lại bị chuột rút thì ta cứ để sợi dây cắt phăng nó đi. Khi nghĩ như thế, lão biết đầu lão không còn minh mẫn nữa và lão nghĩ nên ăn thêm ít thịt cá dorado. Nhưng mình không thể, lão tự nhủ. Thà rằng hơi váng đầu một chút còn hơn là bị xuống sức do nôn. Kể từ lúc mặt mình vùi vào đó, mình biết mình chẳng kiềm được nôn nếu mình ăn chỗ cá ấy. Mình sẽ để đấy đến lúc thật cần thiết dẫu cho nó có hỏng thì thôi. Bây giờ đã quá muộn để giữ gìn sức khỏe dẫu cho đấy có là chất bổ dưỡng gì đi nữa. Mày thật ngốc, lão tự mắng. n ngay con cá chuồn kia đi. Con cá nằm đó, sạch sẽ và sẵn sàng; lão đưa tay phải nhặt lên, nhai xương thật cẩn thận, ăn hết, từ đầu đến tận đuôi. Thịt cá chuồn nhiều đạm hơn nhiều loài cá khác, lão nghĩ. Chí ít thì cũng giúp mình phục hồi sức đến mức cần thiết. Giờ thì mình đã làm xong những việc có thể, lão nghĩ. Nó cứ lượn vòng đi và trận đấu hãy bắt đầu. Mặt trời đang mọc lên lần thứ ba kể từ lúc lão ra khơi thì con cá bắt đầu lượn vòng. Lão chưa thể nhìn độ nghiêng của sợi dây để biết con cá đang bơi tròn. Hãy còn quá sớm cho điều đó. Lão chỉ cảm nhận áp lực của sợi dây hơi chùng lại và dùng tay phải, lão nhẹ nhàng kéo vào. Sợi dây chững lại, như mọi khi, nhưng lão kéo đến điểm sắp đứt thì sợi dây bắt đầu thu vào. Lão lách vai và đầu ra khỏi sợi dây và bắt đầu từ từ kéo nhịp nhàng. Lão dùng cả hai tay, lắc người, dồn hết lực của cả cơ thể, của chân trụ ra mà kéo. Đôi chân già nua và vai lão bắt nhịp với mỗi cử động qua lại của đôi tay.
“Vòng tròn rất lớn”, lão nói.
“Nhưng con cá đã quay tròn”. Rồi sợi dây không nhích thêm tí nào nữa, lão kéo cho tới lúc lão thấy trong ánh nắng, những giọt nước từ sợi dây bắn ra. Thế rồi sợi dây bị kéo xuống, ông lão quì gối để nó lao hút trở lại vào trong vùng nước tối.
“Bây giờ nó đang lượn đến chỗ xa nhất của vòng tròn rồi đấy”, lão nói. Mình phải dốc sức ra mà níu lại, lão nghĩ. Độ căng sẽ dần thu hẹp các vòng lượn. Có lẽ độ tiếng nữa mình sẽ nhìn thấy nó. Bây giờ mình phải khuất phục nó rồi sau đó mình phải giết nó. Nhưng con cá vẫn chậm rãi lượn vòng và hai giờ sau mồ hôi ướt đẫm người ông lão, lão mệt đến tận xương. Bây giờ vòng tròn đã hẹp hơn nhiều; nhìn độ chếch của sợi dây lão có thể biết con cá dần ngoi lên trong lúc bơi. ông lão thấy hoa mắt suốt cả tiếng đồng hồ, mồ hôi làm mắt lão cay xè, vết cắt trên trán và mắt lão ran rát. Lão không ngại chuyện hoa mắt. Chứng ấy bình thường khi cứ phải căng người ra mà kéo sợi dây. Nhưng đã hai lần lão cảm thấy :Dng mặt và choáng váng; điều ấy khiến lão sợ.
“Ta không thể lả người chết vì một con cá như thế này được”, lão nói.
“Bây giờ là lúc ta đưa nó lên một cách thật hoàn hảo, Chúa giúp ta chịu đựng. Ta sẽ đọc một trăm lần kinh lạy Cha và một trăm lần kinh Mừng Đức Mẹ. Nhưng lúc này thì ta chưa thể”. Cứ xem như mình đã hứa, lão nghĩ. Mình sẽ đọc sau vậy. Đúng lúc đó lão cảm thấy sợi dây nảy mạnh, đột ngột; lão dùng cả hai tay giữ. Sợi dây nặng nề, nghiến mạnh, bỏng rát. Lưỡi kiếm của con cá đang quật vào đoạn dây thép đáy, lão nghĩ. Chuyện ấy tất xảy ra. Nó phải làm như thế. Nhưng điều đó sẽ làm con cá nhảy lên, bây giờ mình muốn nó hãy lượn vòng đi thôi. Những cú nhảy cũng cần để nó chứa đầy không khí. Nhưng sau mỗi lần nhảy, chỗ lưỡi câu móc vào sẽ bị rộng hơn rồi nó có thể hất văng ra.
“Đừng nhảy, cá”, lão nói.
“Đừng nhảy”. Con cá quật sợi dây thêm vài lần nữa và cứ mỗi lần nó văng đầu, ông lão lại nới thêm chút dây. Mình phải giữ cho nó đừng đau quá, lão nghĩ. Nỗi đau của ta thì không thành vấn đề. Ta có thể chế ngự. Nhưng nỗi đau của con cá thì có thể khiến nó cuồng lên. Lát sau, con cá không quật dây đáy nữa và bắt đầu lại lượn vòng chầm chậm. Bây giờ ông lão thong thả thu dây. Nhưng lão lại cảm thấy choáng váng. Lão đưa tay trái vốc ít nước biển vỗ lên đầu. Rồi lão tiếp tục vỗ thêm, xoa cả xuống gáy.
“Ta không để bị chuột rút”, lão nói.
“Chốc nữa nó sẽ ngoi lên và ta có thể cầm cự. Mày phải cầm cự. Chớ có nói lằng nhằng”. Lão tì gối vào mạn thuyền một lúc rồi lại quàng sợi dây lên lưng. Bây giờ mình sẽ nghỉ một lát trong lúc nó mải lượn vòng dưới kia rồi khi nó ngoi lên mình sẽ đứng dậy chiến đấu, lão quyết định. Được nghỉ ngơi ở đằng mũi thuyền, để mặc con cá bơi vòng mà không phải kéo dây thì quả thật là cám dỗ quá mức. Nhưng khi độ căng của sợi dây cho thấy con cá quay về phía thuyền, ông lão nhổm người dậy, xoay, lắc người dốc sức kéo sợi dây vào. Chưa bao giờ mình mệt như thế này, lão nghĩ, bây giờ gió mậu dịch đang nổi lên. Hướng gió thuận lợi để đưa con cá vào bờ. Mình rất cần thứ gió này.
“Lát nữa nó lượn ra, ta sẽ nghỉ”, lão nói.
“Ta cảm thấy đỡ hơn nhiều. Chỉ hai ba vòng nữa thôi thì ta sẽ giáp mặt với nó”. Chiếc mũ rơm của lão trật ra sau gáy, để ý sức kéo của sợi dây, khi cảm thấy con cá lượn lại, lão ngồi xuống mũi thuyền. Bây giờ mày cứ lượn đi, cá, lão nghĩ. Tao sẽ đợi khi mày quay lại. Biển dậy sóng. Nhưng gió ấy chỉ xuất hiện vào những lúc thời tiết tốt và lão cần nó để trở về đất liền.
“Ta chỉ việc lái theo hướng Tây Nam”, lão nói.
“Người ta không bao giờ lạc trên biển và xứ sở của mình lại là một hòn đảo dài”. Đến vòng thứ ba, lão thoáng thấy con cá. Thoạt tiên lão thấy một cái bóng đen trùi trũi vượt dài qua dưới con thuyền, đến mức lão không thể tin nổi độ dài của nó.
“Không”, lão nói.
“Nó không thể lớn như thế được”. Nhưng đúng là con cá lớn như thế và đến cuối đường vòng, chỉ cách chừng hai lăm mét, nó trồi lên và lão nom thấy cái đuôi nhô lên khỏi mặt nước. Cái đuôi lớn hơn cả chiếc lưỡi hái lớn, màu tím hồng dựng trên mặt đại dương xanh thẫm. Nó lại lặn xuống và khi con cá hãy còn mấp mé mặt nước, ông lão có thể nhìn thấy thân hình đồ sộ và những sọc tím sẫm trên mình nó. Cánh vi trên lưng xếp lại, còn bộ vây to lớn bên sườn đang xòe rộng. Lần lượn này, ông lão có thể nhìn thấy mắt con cá và cả hai con cá chét xám bơi bên cạnh. Thỉnh thoảng hai con cá này rúc vào mình nó. Rồi có lúc chúng giạt ra. Chốc chốc chúng nhẹ nhàng bơi trong bóng của con cá lớn. Mỗi con dài cả thước và khi bơi nhanh, chúng vặn vẹo toàn thân như thể loài lươn. Bây giờ ông lão đang toát mồ hôi đầm đìa nhưng không phải vì mặt trời mà là vì một nguyên nhân khác.
Cứ mỗi vòng bơi bình lặng của con cá thì lão lại thu dây vào và lão chắc chỉ chừng hai vòng nữa thôi thì lão sẽ có cơ hội phóng lao vào nó. Nhưng mình phải để nó đến gần, gần, thật gần, lão nghĩ. Mình không cần nhằm vào đầu. Mình phải nhằm thẳng vào tim.
“Hãy bình tĩnh và giữ sức, lão già ạ”, lão nói. Vòng lượn tiếp theo, lưng con cá đã nhô lên nhưng hãy còn khá xa thuyền. Vòng tiếp theo đó, nó vẫn ở xa nhưng đã nhô mình lên cao hơn và ông lão tin chắc rằng nếu thu thêm dây thì con cá sẽ cặp sát thuyền. Lão đã chuẩn bị mũi lão trước đấy khá lâu; cuộn dây nhỏ của nó để trong cái xô tròn và một đầu dây đã được buộc vào cái mấu ở mũi thuyền. Bây giờ con cá lại tiếp tục lượn theo vòng tròn của nó, chỉ có cái đuôi đồ sộ cử động, trông điềm tĩnh và tuyệt đẹp. ông lão dốc hết sức ra kéo con cá vào gần hơn. Con cá khẽ nghiêng mình trong chốc lát. Rồi trở mình thẳng dậy và bắt đầu lượn thêm vòng nữa.
“Ta đã điều khiển nó”, ông lão nói.
“Ta đã điều khiển được nó rồi”. Lúc này lão thấy xây xẩm mặt mày nhưng vẫn gượng hết sức bình sinh ra mà kéo. Mình khuất phục được nó, lão nghĩ. Có lẽ lần này mình sẽ cho nó đi đứt. Kéo đi, tay ơi, lão thầm giục. Hãy đứng vững, đôi chân kia. Tỉnh táo vì tao, đầu à. Hãy tỉnh táo vì tao. Bọn mày chưa bao giờ bại trận. Lần này ta sẽ khử nó. Nhưng khi lão tập trung hết sức lực, chuẩn bị dốc kiệt ra trước khi con cá bơi song song với mạn thuyền thì con cá chao mình tránh ra, lật thẳng người lên bơi đi.
“Cá ơi”, ông lão nói.
“Cá này, dẫu sao thì mày cũng sẽ chết. Mày muốn tao cùng chết nữa à?” Cứ cái đà này thì không ổn rồi, lão nghĩ. Miệng lão khô khốc không thể nói nổi, nhưng lúc này lão không thể với lấy chai nước. Lần này mình phải kéo nó cặp mạn, lão nghĩ. Cứ thêm vài vòng nữa thì mình sẽ đuối sức. Không, mày khỏe, lão tự nhủ. Mày sẽ luôn khỏe.
Vòng lượn tiếp theo, lão gần như kìm được con cá. Nhưng lần nữa nó lại lách mình, từ từ bơi ra xa. Mày đang giết tao, cá à, ông lão nghĩ. Nhưng mày có quáền làm như thế. Tao chưa bao giờ thấy bất kỳ ai hùng dũng, duyên dáng, bình tĩnh, cao thượng hơn mày, người anh em ạ. Hãy đến và giết ta đi. Ta không quan tâm chuyện ai giết ai. Giờ thì đầu óc mày đang lú lẫn lên hết cả rồi, lão nghĩ. Mày phải giữ đầu óc tỉnh táo. Hãy giữ đầu óc tỉnh táo và biết cách chịu đựng như một con người. Hay như một con cá, lão nghĩ.
“Đầu ơi, hãy tỉnh táo”, lão nói bằng giọng mà bản thân hầu như không còn nghe nổi.
“Hãy tỉnh táo”. Con cá điềm nhiên lượn thêm hai vòng nữa. Mình không biết, ông lão nghĩ. Lão có cảm giác như lão có thể đổ sụp xuống bất cứ lúc nào. Mình không biết. Nhưng mình sẽ cố thêm lần nữa. Lão cố thêm lần nữa và khi kìm con cá, lão tưởng như mình đang ngất đi. Con cá lại giãy ra, chầm chậm bơi xa, cái đuôi đồ sộ lắc lư trong không trung. Mình sẽ lại cố thêm, ông lão hứa mặc dù hai tay lão đã rã rời và mắt lão không thể nhìn rõ vì hoa quá. Lão lại cố và mọi chuyện vẫn như cũ. Thế đấy, lão nghĩ và lão cảm thấy xây xẩm cả mặt mày trước lúc bắt đầu. Mình sẽ lại cố thêm một lần nữa. Cố nén cơn đau, dồn hết tàn lực, dốc hết lòng kiêu hãnh còn lại lão mang ra đương đầu với nỗi đớn đau vô bờ của con cá; con cá tiến gần mạn thuyền, từ từ bơi nghiêng, mõm nó gần như chạm vào ván thuyền và sắp sửa vượt qua, dài, sâu, rộng, ánh bạc, vằn tím sẫm và bất tận trong dòng nước. ông lão buông sợi dây xuống, giẫm chân giữ rồi nhấc cao ngọn lao hết mức, vận hết sức bình sinh, cộng thêm sức lực lão vừa huy động trong người, phóng xuống sườn con cá ngay sau cái vây ngực đồ sộ, vươn cao trong không trung ngang ngực ông lão. Cảm thấy mũi sắt cắm phập vào, lão tì người lên ấn sâu xuống rồi dồn hết trọng lực lên cán lao. Con cá sực tỉnh; mang cái chết trong mình, nó phóng vút lên khỏi mặt nước phô hết tầm vóc khổng lồ, vẻ đẹp và sức lực. Nó dường như treo lơ lửng trong không trung phía trên ông lão và chiếc thuyền.
Thoáng chốc nó rơi sầm xuống làm nước bắn tung trùm lên cả ông lão lẫn con thuyền. ông lão cảm thấy choáng váng, đau đớn; lão không thể nhìn rõ. Nhưng lão vẫn kịp đón sợi dây của ngọn lao rồi để nó từ từ chạy qua đôi tay xây xát, và khi đã nhìn rõ, lão thấy con cá nằm ngửa phơi cái bụng ánh bạc của nó lên trời. Cán lao nhô ra từ cái hốc sau vây cá, còn biển thì đang đổi màu bởi máu đỏ loang ra từ tim cá. Thoạt tiên, làn máu đen sẫm trông như bãi cát ngầm trong làn nước biếc sâu hơn ngàn thước. Rồi nó lan rộng nom tựa đám mây. Con cá trắng bạc, thẳng đơ, bồng bềnh trên sóng. ông lão thận trọng quan sát khi thị lực còn tỏ. Rồi lão quấn sợi dây mũi lao hai vòng quanh cái mấu ở đầu thuyền và gục đầu vào lòng bàn tay.
“Hãy giữ đầu óc tỉnh táo”, lão nói khi tựa vào mạn thuyền.
“Ta là lão già mệt mỏi. Nhưng ta đã giết con cá này, người anh em ta, và bây giờ ta phải làm cái việc nhọc nhằn”. Lúc này mình phải chuẩn bị dây và thòng lọng để buộc con cá vào mạn thuyền, lão nghĩ. Dẫu cho mình có hai người để nghiêng thuyền kéo nó lên rồi tát nước ra thì chiếc thuyền này cũng không thể chứa nổi nó. Mình phải chuẩn bị mọi thứ, kéo nó vào buộc chặt rồi dựng cột, giong buồm trở về. Lão kéo con cá cặp sát thuyền để có thể luồn sợi dây qua mang, ra mõm rồi buộc nó vào mũi thuyền. Mình muốn ngắm nó, lão nghĩ, muốn chạm và sờ vào mình nó. Con cá là vận may của ta, lão nghĩ. Nhưng đấy không phải là lý do để ta muốn sờ nó. Ta chắc ta đã sờ trúng tim, lão nghĩ. Khi ta ấn cái cán lao lần thứ hai. Bây giờ phải kéo nó vào, buộc chặt; tròng một chiếc thòng lọng vào giữa thân và một chiếc nữa vào đuôi để buộc nó vào thuyền.
“Làm ngay đi, lão già ơi”, lão nói. Lão hớp một ngụm nước rất nhỏ.
“Bây giờ khi trận đấu đã kết thúc, vẫn phải làm một công việc hết sức nhọc nhằn”. Lão ngước nhìn bầu trời rồi cúi nhìn con cá. Lão chăm chú quan sát mặt trời. Chỉ vừa xế trưa thôi, lão nghĩ. Và gió mậu dịch đang thổi. Cả đám dây câu ấy bây giờ không quan trọng. thằng bé sẽ cùng mình nối lại khi về đến nhà.
“Đến đây, cá”, lão nói. Nhưng con cá không nhúc nhích. Thay vào đó, lúc này nó nằm dầm mình trong nắng và ông lão phải lôi con thuyền lại chỗ nó. Khi đến bên con cá và kéo đầu nó tì sát mũi thuyền, lão không thể nào tin được kích thước của nó. Lão tháo sợi dây ở cán lao ra khỏi cái mấu, luồn nó qua mang cá ra miệng, quấn một vòng quanh cái kiếm rồi lại đút sợi dây qua miệng ra mang kia, quấn một vòng quanh miệng cá, gút hai mối dây lại rồi cột vào cái mấu đằng mũi thuyền. Sau đó lão cắt sợi dây mang ra sau lái buộc thòng lọng vào đuôi cá. Da cá chuyển từ màu gốc, tím sẫm ánh bạc, sang màu trắng bạc và những cái sọc cũng có cùng màu tím nhạt như đuôi nó. Những đường sọc ấy lớn hơn cả bàn tay người xòe rộng, còn mắt nó trông đờ đẫn như những tấm kính trong kính viễn vọng hay như m
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #9  
Old 05-15-2004, 02:31 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

:::: Anton Tsekhov ::::
Ðịnh Nghĩa Tình Yêu





Câu chuyện này được phỏng dịch theo chuyện ngắn "Concerning Love" của nhà văn Anton Tchekhov. Ông đã viết rất nhiều chuyện như là "The Seagull" "Uncle Vanya"... Ngoài ra ông cũng viết những chuyện ngắn như "The black monk and other stories" "Lady with the dog and other stories" v.v. Ông được xem như là một thiên tài trong lãnh vực chuyện ngắn.

Trần Thanh Tùng




Buổi ăn trưa ngày hôm sau họ được thưởng thức những món ăn ngon như tôm tích, bánh mì salad, v.v. Trong khi đang dùng bữa thì ông Ninh, người đầu bếp, đi lên cầu thang và hỏi họ muốn dùng gì cho bữa chiều. Ông ta là một người có kích thước trung bình, má phệ và mắt hí. Bộ râu được cạo nhẵn cáo chỉ. Hàm râu như bị nhổ từng sợi một thay vì cạo.

Kim bắt đầu kể cho những người khách biết là cô Nga đã thương ông đầu bếp này. Nhưng dù sao cô nàng vẫn không chịu lấy ông ta vì ông ta là một người say rượu và hay gở. Tuy vậy, cô sẵn sàng đồng ý để "sống chung với ông" Ngược lại, ông ta là một người đạo đức, đạo của ông không cho phép ông "chỉ sống chung với nàng." Một là cô nàng cưới ông, còn không thì ông không cần. Ông chửi cô và đánh đập cô. Cô phải núp trên lầu, khóc lóc một mình, mỗi khi ông uống rượu say. Kim và những người làm của anh ta thường hay phải ở nhà để bảo vệ cô.

Câu chuyện bắt đầu chuyển đề tài qua tình yêu.

"Cái gì làm cho người ta yêu nhau?" Kim hỏi. "Tại sao Nga không thương một người khác, một người giỏi hơn và đẹp trai hơn? Một người xứng với cô hơn? Tại sao cô ta phải thương ông Ninh--"ông mặt bự" như mọi người hay gọi ông--khi biết rằng hạnh phúc cá nhân của cô là yếu tố rất quan trọng trong tình yêu? Ðiều này quả thật là huyền bí và có nhiều cách giải thích. Qua Kinh Thánh, chúng ta đã từng được nghe định nghĩa đích thực của tình yêu: 'Ðấy là một sự huyền bí.' Ngoài ra, những bài viết hay những câu nói khác đều không làm chúng ta thỏa mãn về ý nghĩa chân chính của nó. Chúng nó có thể định nghĩa được tình yêu trong hoàn cảnh này hay hoàn cảnh khác nhưng không thể nào giải được ý nghĩa của nó trong mọi hoàn cảnh. Nếu mà như vậy thì chúng ta nên định nghĩa tình yêu trong từng hoàn cảnh một, thay vì đi tìm một ý nghĩa đích thực, chung cho mọi hoàn cảnh. Chúng ta cần phải phân tách từng hoàn cảnh một, như các bác sĩ thường hay nói."

"Rất đúng" Ban đồng ý

"Những người dân Nga thường hay bị phiền phức về những bài toán nhức óc này. Trong khi người ta choàng lên tình yêu của họ những đóa hồng, những hạt kim cương thì chúng ta, những người Nga, lại choàng lên nó những nghi vấn và những thắc mắc mà hầu như không bao giờ giải đáp được. Khi tôi còn là một sinh viên ở Mát-Cơ-Va, tôi có một người 'bạn': một người con gái dễ thương. Mỗi lần khi tôi ôm nàng trong lòng, tôi luôn tự hỏi mình: tiền lương hàng tháng mình cần đưa cho nàng bao nhiêu và bây giờ bao nhiêu tiền một cân thịt bò. Ðừng chế tôi, chúng ta đều giống nhau cả. Một khi chúng ta rơi vào biển tình, chúng ta luôn luôn thắc mắc, nghi nghờ, và hay tự đặt câu hỏi cho chính mình. Chúng ta chân thành hay giả giối? Thông minh hay ngu dốt? Cái tình yêu này, nó sẽ có kết cục ra sao? Vân vân và vân vân. Tôi không biết cảm tưởng như vậy là đúng hay sai, nhưng nó rất phiền phức. Nó có mang lại sự thỏa mãn và tức giận hay không, cái đó tôi không biết."

Hình như anh ta có một câu chuyện đang muốn kể. Những người sống một mình thường hay có tâm sự trong lòng mà họ rất muốn thổ lộ. Những người chưa lập gia đình thường hay lui tới những buồng tắm công cộng, những nhà hàng trong phố, để mà nói, và đôi khi họ kể những câu chuyện lý thú, hấp dẫn thu hút cả những người bồi bàn và công nhân làm việc trong phòng tắm. Những người sống ngoài thành phố thì thường trao gởi bầu tâm sự của họ cho bạn bè và khách khứa. Qua cửa xổ, mây đen phủ kín bầu trời, những hạt mưa bao trùm không gian và cây cối.

Tôi đã từng sống và làm ruộng ở vùng Sông-Phi-Nô này, tôi bắt đầu làm việc ở đây sau khi học xong đại học (Kim bắt đầu). Tôi được lớn lên một cách thoải mái, không phải làm gì, chỉ phải học. Vì việc học của tôi mà ba tôi đã phải nợ đầy mình. Ông phải dùng ruộng vườn của mình làm của thế chân để mượn tiền cho tôi đi học. Sau khi học xong, tôi quyết định ở lại trên mảnh ruộng của ba tôi để làm việc cho tới khi nào trả hết nợ. Tôi đã quyết định như vậy và bắt đầu làm việc, tuy rằng vẫn có chút tiếc rẻ trong đó. Ðất đai trong vùng này không được màu mỡ cho lắm. Nếu muốn lời, một là mình phải mướn thêm tay làm hai là phải tự mình nai lưng ra mà làm; không còn cách trọn lựa thứ ba. Tôi gom góp những người trong làng lại, đàn ông cũng như đ àn bà, để làm việc cho tôi. Chúng tôi không để yên một mảnh đất nào, chúng tôi làm việc quần quật như trâu. Tôi cũng tự mình xới đất, tự gieo hạt, và gặt lúa. Lưng quằn lên vì vất vả trong khi môi phệ ra vì chán nản. Cả mình tôi đau nhức còn chân tôi thì liệt đi như muốn chết. Lúc đầu tôi tưởng là mình có thể dùng những gì học hỏi được ở trường lớp để đỡ nhọc nhằn. Tôi tưởng rằng chỉ cần tạo cho mình một thời khóa biểu và làm việc theo nó thì mọi việc sẽ đâu vào đấy. Tôi dọn lên ở phòng tốt nhất trên lầu; xắp xếp để café và rượu được dọn lên mỗi bữa ăn trưa, chiều; và đọc báo "Thời Sự Âu Châu" mỗi một đêm trước khi đi ngủ. Nhưng mục sư Văn, người linh hướng của làng chúng tôi, một hôm đến thăm và đã nuốt hết những bầu rượu thơm của tôi. Còn con gái ông ta thì công về hết tất cả những tờ "Thời Sự Âu Châu". Tôi cũng không buồn. Tôi không cần những tờ báo đó vì từ khi bắt đầu công việc đồng áng, tôi chưa tối nào được đặt lưng trên giường mình. Nhất là trong những tháng cắt mạ, tôi thường ngủ trong chuồng bò hay trong túp lều của anh đốn củi. Dần dần tôi dọn phòng ngủ của tôi xuống dưới lầu để ngủ chung với những người làm mướn. Tôi cũng chẳng còn cái gì yêu quí cả ngoại trừ những người này, những người trước kia đã làm công cho ba tôi và bây giờ lại làm cho tôi, những người mà tôi không bao giờ và không thể nào xua đuổi cho dù mai này có thế nào đi chăng nữa.

Trong những năm đầu tiên sống ở đây, tôi đã được trọn làm giám thị. Vì vậy nên tôi hay ra tỉnh để để làm việc và hay tham gia vào những vụ xử kiện trên đó. Ðiều này làm tôi rất thích. Một khi đã bị gò bó suốt mấy tháng trời trong nông trại, nhất là vào mùa đông, thì không có gì mong muốn cho bằng được khoác chiếc áo choàng thâm của mình. Khi làm việc trên tỉnh, tôi cần phải có áo choàng thâm, đồng phục, và áo đuôi dài. Toàn là những luật sư và những người có học trên đó. Họ là những người mà tôi có thể nói chuyện với một cách dễ dàng.

Tôi lúc nào cũng được hoan nghêng trên tỉnh. Tôi rất thích làm quen với những người bạn mới. Trong số bạn mới của tôi, anh chàng đứng đắn nhất--và, thật tình, đáng mến nhất--là anh Lữ, phó giám đốc tỉnh. Hai bạn chắc cũng đã biết anh ta: một con người... quả nhiên là một nhân vật rất quyến rũ. Tôi được gặp anh ta trong một vụ án về hỏa hoạn rất nổi tiếng. Vụ án được xử trong hai ngày liên tiếp. Khi kết thúc, mọi người đều mệt rã cả người. Anh Lữ nhìn về phía tôi:

"Hay là tới nhà tôi ăn cơm chiều nha" anh mời

Tôi rất là ngạc nhiên, tôi vừa mới biết anh ta, mà lại, chúng tôi chỉ quen nhau qua việc làm mà thôi. Tôi chưa bao giờ tới nhà anh ta cả. Sau khi trở lại khách sạn để tắm rửa, tôi tới nhà anh. Buổi cơm chiều đã mở đường cho tôi gặp An, vợ anh Lữ. Nàng còn rất trẻ, hai mươi hai tuổi là cùng, đứa con đầu lòng của nàng mới trào đời cách đây chưa đầy sáu tháng. Chuyện này đã sảy ra qua lâu rồi, tôi không còn nhớ rõ, hay nói một cách khác, khó mà giải thích được ngay lúc đó điều gì về nàng đã mê hoặc tôi đến thế. Nhưng khi ngồi vào bàn ăn, tôi đã hiểu rõ. Tôi thấy nàng, một người đàn bà trẻ, đẹp, hiền lành, thông minh và hấp dẫn--không như bất kỳ một cô gái nào mà tôi đã gặp trước đây. Ngay lập tức, tôi cảm thấy nàng thật là ngần gủi, tôi có cảm tưởng như mình đã quen nàng từ lâu--tôi tưởng như đã gặp khuôn mặt ấy, cặp mắt khêu gợi và sáng sủa ấy khi tôi còn là một đứa bé đang mở nhìn trộm những cuốn an-bum trong ngăn tủ mẹ tôi.

Trong vụ án hỏa hoạn, bốn người Do-Thái bị kết án khủng bố--tôi hết sức không bằng lòng với phán quyết này của tòa án. Tôi không thể ngồi yên khi dùng bữa--nói thật, tôi rất bực mình--tôi không còn nhớ mình đã nói gì trong bữa đó, tôi chỉ nhớ thấy An cứ lắc đầu và nói với chồng mình "Em không thể nào tin được anh ạ"

Lữ là một người tốt, tuy rằng hơi ngây thơ một tý. Anh ta nghĩ rằng những gì quan tòa phán quyết đều là đúng, nếu muốn kháng án, người ta cần phải làm đầy đủ những thủ tục, hồ sơ cần thiết, và nộp lên những nơi chính đáng đã quy định theo luật pháp--bàn ăn, theo anh, không phải là một trong những chỗ đó.

"Em và anh đâu có nổ lửa đốt nhà đâu" anh nói nhỏ nhẹ "anh và em đâu có bị kết án và giam tù"

Cả hai vợ chồng họ cố mời và ép đồ ăn cho tôi. Qua những khía cạnh mà tôi theo dõi--cách mà họ bắc café chung với nhau, cách mà họ hiểu nhau trước khi mở miệng--tôi kết luận rằng, họ đang sống trong cảnh hòa bình và êm ấm, họ rất vui khi được tiếp đón và làm vui lòng một người khách trong nhà họ. Sau cơm chiều, chúng tôi chơi pi-a-nô. Khi màn đêm bắt đầu kéo, tôi xin phép họ để trở về khách sạn.

Câu chuyện vừa rồi sảy ra vào đầu mùa xuân, sau khi đó, tôi rời tỉnh để trở về nông trại của tôi ở Sông-Phi-Nô. Tôi ở đó suốt mùa hè. Tôi hết sức bận rộn nên không còn thì giờ nghĩ đến những việc trên tỉnh. Nhưng ngày nào tôi cũng đều bị ám ảnh bởi hình dáng của người con gái tha thướt, yêu kiều đó. Nàng đã in lên tâm trí tôi một cái bóng phất phơ, nhỏ nhẹ.

Vào cuối mùa thu, một chương trình ca vũ từ thiện được tổ chức trên tỉnh. Tôi được mời ngồi chung với ông thống đốc. Khi tôi bước vào, An và Lữ đã ngồi đó, bên cạnh bà vợ ông thống đốc. Một lần nữa, con người tôi lại bị choáng váng bởi nét đẹp kiều diễm đầy khuyến rũ, bởi đôi mắt kêu mời, tran trứa tình bạn của nàng. Và một lần nữa, tôi cảm thấy như đang chia sẻ với nàng một cái gì đó rất mật thiết và gần gũi.

Tôi ngồi xuống bên cạnh nàng. Nàng quan sát rằng tôi có phần nào gầy hơn trước. Tôi có bị ốm không?

"Cám ơn, vai tôi thường hay bị nhức. Nó hành tôi rất khó ngủ nhất là vào mùa mưa"

"Nhìn anh có vẻ bệ rạc quá. Khi anh dùng bữa chung với chúng tôi mùa xuân rồi, nhìn anh còn trẻ và tự tin lắm mà. Lúc đó anh còn nói nhiều, còn pha trò, còn quậy nữa mà. Quả nhiên lúc đó anh thật là hấp dẫn. Ngay lúc ấy, một phần nào đó, tôi đã bị anh mê hoặc. Không biết tại sao suốt mùa hè qua, lâu lâu tôi lại liên tưởng đến anh. Khi tôi chuẩn bị để đi coi hát, tôi biết chắc rằng thế nào cũng gặp anh."

Nàng cười. "Nhưng hôm nay nhìn anh bệ rạc quá," nàng lập lại. "Nhìn anh trông già hẳn đi"

Ngày hôm sau, tôi dùng cơm trưa tại nhà Lữ. Sau bữa cơm, họ mời tôi ra thăm căn nhà nghỉ mát của họ. Tôi đi với họ, tôi về với họ, và vào nửa đêm tôi uống trà với họ trong không khí yên tỉnh của mái nhà họ: bên cạnh lò lửa đang bừng cháy, nóng hổi, với người mẹ trẻ lâu lâu lại đi ra đi vào để trông giấc ngủ cho con. Sau ngày hôm đó, khi nào có dịp lên tỉnh là tôi ghé thăm Lữ. Càng ngày chúng tôi càng thân hơn, đôi khi tôi tới nhà anh ta bất chợt, không cần nói trước. Họ xem tôi như một thành viên trong nhà.

"Ai vậy?" giọng nàng vọng ra từ cuối nhà, ngân nga, đầy khuyến rủ.

"Ông Kim" người giúp việc trả lời, và An xuất hiện với nét mặt đầy lo lắng. Tại sao tôi không đến thăm nàng sớm hơn? Chuyện gì đã xảy ra?

Cái nhìn của nàng, cái vòng tay nõn nà, xinh xắn, bộ đồ nàng mặc trong nhà, cách làm tóc của nàng, giọng nói, tiếng bước chân của nàng... lúc nào cũng làm cho tôi có cảm tưởng như một cái gì đó mới mẻ, bất thường, một cái gì đó quan trọng đang xảy đến với tôi. Chúng tôi thường có những buổi nói chuyện thật dài--và cũng có những lúc im lặng thật lâu, mỗi một người như bị cuộn lại trong suy tư của mình. Những lúc không có ai ở nhà, tôi thường ngồi đợi, nói chuyện với người vú, chơi với đứa nhỏ, hay duỗi chân trên cái ghế bành để đọc một tờ báo. Khi An về, tôi chạy ra gặp nàng ở hành lang và giúp nàng mang hàng mới mua vào. Tôi bê những hàng hóa đó một cách trìu mến và hảnh diện--như một đứa bé mới biết bê đồ lần đầu.

Lữ và những người khác trong gia đình không hề để ý, họ chẳng bao giờ làm phiền tôi. Họ tiếp tục tiếp đón tôi. Nếu lâu không thấy tôi lên tỉnh thì hai vợ chồng lại sốt ruột, lo lắng. Nhất định là tôi bị ốm hay có chuyện gì không may xảy đến với tôi. Cái mà làm cho họ lo lắng nhất là tôi, một người có học, biết nhiều thứ tiếng, lại không ở trong văn phòng mà sống ở ngoại ô, suốt ngày quấn quít với máy say bột và những thửa ruông cằn cỗi. Họ nghĩ rằng tôi không bao giờ hạnh phúc, những lúc tôi cười nói trong bữa ăn chỉ là để che đậy tâm hồn đau khổ của tôi. Cả những khi tôi thật sự hạnh phúc và thoải mái, họ vẫn nhìn tôi với ánh mắt đầy lo lắng. Những khi tôi bị kẹt, chủ nợ đòi tiền hay không có tiền chi tiêu hàng tháng, hai vợ chồng hay thầm thì với nhau. Sau đó, anh chồng thường đi tới bên cạnh tôi với một ngương mặt trịnh trọng.

"Nếu anh có hơi bị thiếu, Kim, vợ chồng tôi sẵn sàng giúp một tay. Anh đừng gại." Hai tai anh ta đỏ ngầu vì mắc cỡ.

Hay là có khi anh đến bên tôi, hai tai đỏ ngầu sau khi nói chuyện với vợ, và thuật lại với tôi rằng vợ anh "hết lòng muốn tôi nhận một chút quà này." Sau khi nói xong anh ta thường đưa cho tôi một số đinh tán, hộp thuốc lá, hay một cái đèn điện. Ðể trả ơn, tôi thường hay biếu họ những món quà từ vùng ngoại ô như một con chim non, bơ, hoa... Cả hai vợ chồng hình như đều có tiền riêng. Tôi vẫn hay mượn tiền của người khác, không cần biết là của ai hay bao nhiêu--tôi mượn ở bất kỳ chỗ nào cho phép. Nhưng mà không có một mãnh lực nào có thể bắt tôi xoè tay mượn tiền của gia đình Lữ được. Cần tôi giải thích thêm không?

Tôi buồn. Ở nhà, trên đồng áng, hay trong chuồng bò tôi luôn nghĩ đến nàng. Tôi có gắng tìm hiểu sự kỳ bí của người con gái trẻ, đẹp và thông minh ấy, người vợ của một ông chồng xấu, đứng tuổi, và người mẹ của những đứa con anh ta. Tôi cũng cố gắng tìm hiểu sự kỳ bí của người chồng này, một anh chàng thiếu nhan sắc, tốt tính, dễ dãi, với những cách nhìn ngây thơ và vớ vẩn, người mà mỗi khi đi dự tiệc thường hay dạy đời người ta... còn người mà vẫn còn tin tưởng là mình có quyền để được hạnh phúc và có quyền để làm chồng nàng. Tai sao, tôi vẫn nghĩ, nàng không gặp tôi trước hắn? Vì mục đích gì mà lại có sự sai lầm đến thế?

Những lần lên tỉnh, qua ánh mắt của nàng, tôi biết rằng nàng đang đợi tôi, có lần nàng thú nhận với tôi là trước khi tôi đến, nàng thường hay có những cảm giác rất kỳ lạ--giống như nàng đã biết trước thế nào tôi cũng tới. Chúng tôi tiếp tục những buổi nói chuyện, xen lẫn với những phút thinh lặng thật dài, không ai giám nói lên tình yêu của mình nhưng giấu kỹ một cách sợ sệt và ghen ghét. Chúng tôi sợ, sợ tất cả những gì có thể bộc lộ ra cái bí mật ấy. Mặc dù cái tình yêu mềm mại đó đã cắm rễ quá sâu trong lòng, tôi luôn cố gắng để cho đầu óc sáng suốt, xét đoán xem những giông tố nào có thể xảy ra nếu chúng tôi không có đủ nghị lực để kềm chế chính mình. Tôi không thể nào hình dung ra được, hay nói đúng hơn, không muốn tin rằng một tình yêu thầm kín, cô đơn như của tôi, lại có thể bỗng nhiên và thô bạo phá tan cuộc đời ấm cúng của người chồng và những đứa con; lật úp luôn cả căn nhà mà tôi vẫn mãi yêu thương và tin tưởng. Ðây có phải là thái độ của một người đàn ông đứng đắn không? Nàng sẽ đi với tôi--nhưng mà... đi đâu? Tôi có thể dẫn nàng đi đâu? Mọi việc sẽ khác hẳn nếu như tôi là một người đàn ông lãng mạn và có tiền, nếu như tôi là một quân nhân anh dũng đang chiến đấu cho lý tưởng tự do của nhân loại, hay nếu như tôi là một người ca nghệ sĩ nổi tiếng được nhiều người thán phục. Nhưng tôi chỉ là một người nông dân nghèo. Tôi chỉ có thể đưa nàng từ cuộc sống bạc bẽo này đến cuộc đời bạc bẽo khác, hay còn tồi tệ hơn thế nữa. Hạnh phúc của chúng tôi sẽ kéo dài được bao lâu? Nếu không may tôi chết đi thì nàng sẽ làm sao? Còn nếu như chúng tôi không yêu nhau nữa? Và còn......v.v.

Nàng cũng nghĩ như tôi. Nàng nghĩ đến chồng nàng, con nàng, mẹ nàng, người mà thương yêu chồng nàng như con ruột. Nếu nàng nghe theo cảm súc của mình thì một là nàng phải nó dối hai là nói sự thật, nhưng cả hai đều khó khăn và nguy hiểm cho nàng trong hoàn cảnh này. Nàng suy tư trong đau khổ: tình yêu của nàng sẽ mang lại cho tôi hạnh phúc không? Có làm cho đời sống của tôi thêm phiền phức không? Có làm cho nó tẻ nhạt và đầy sóng gió không? Nàng cảm thấy nàng quá già đối với tôi, nàng không còn đủ sức và nghị lực để bắt đầu lại một cuộc sống mới. Nàng thường nói với chồng nàng là tôi cần phải cưới một người con gái hiền lành, thông minh, một người nội chợ và giúp việc tốt--nhưng theo nàng thì hầu như không có người con gái nào như vậy trên tỉnh (chỉ trừ nàng).

Trong khi đó, năm tháng lại tiếp tục trôi đi. Bây giờ An đã có hai con. Mỗi khi tôi tới thăm gia đình, người làm công vẫn cười nói với tôi, mấy đứa trẻ thì bám víu lấy chú Kim của chúng, la hét lên vì vui mừng, và mọi người đều vui vẻ. Không hiểu được nỗi lòng thầm kín của tôi, họ tường rằng tôi cũng đang vui với họ. Họ coi tôi như là sự hiện thân của lòng chính trực. Người lớn cũng thế mà con nít cũng vậy, họ tưởng rằng sự chính trực đang đi giữa họ--sự quan hệ giữa tôi và họ làm cho cuộc đời họ tinh khiết và mỹ miều hơn. An và tôi vẫn hay đi coi hát chung với nhau. Chúng tôi ngồi cạnh nhau, vai liền vai, tôi nhẹ nhàng lấy cặp mắt kiếng của nàng, ý thức rằng nàng đang ở cạnh tôi, tưởng tượng như nàng là của tôi, chúng tôi không thể nào sống xót nếu như bị chia rẽ. Nhưng lần nào cũng vậy, sau khi màn biểu diễn kết thúc, chúng tôi ngượng nghịu chia tay nhau, ra đi như những người xa la. Không biết người nói gì về chúng tôi trên tỉnh, nhưng không một câu nào của họ là đúng cả.

Trong những năm vừa rồi, An về thăm mẹ và em nhiều hơn. Nàng hay buồn rầu và chán nản: tâm trạng của nàng làm nàng ý thức được rằng cuộc sống của nàng chưa đầy đủ và thiếu ý nghĩa. Những khi đó nàng thường lánh mặt chồng và con cái. Cái tình trạng này kéo dài và nặng hơn, bắt buộc nàng phải điều trị về bệnh tâm lý.

Mặc dù vậy chúng tôi vẫn giấu kín những gì mình muốn nói. Những lúc gặp mặt, nàng hay tức tối với tôi một cách kỳ lạ. Nàng chống đối tôi trên mọi phương diện; nếu tôi có bàn luận hay cãi nhau với một người khác, nàng lập tức đứng về phe của họ. Nếu không may tôi làm rơi một vật gì, nàng nhìn tôi và nói một cánh lạnh nhạt "hay quá ha." Mỗi khi tôi quên mang kính đi xem hát, nàng cho tôi biết rằng nàng đã biết trước thế nào tôi cũng quên.

Hên hay xui, bất kỳ cái gì trong cuộc đời chúng ta, không sớm thì chiều, cũng phải kết thúc. Bây giờ đã đến lúc chúng tôi phải chia tay nhau: Lữ đã kiếm được việc làm tốt hơn ở miền tây. Họ bán tất cả: nhà, bàn ghế, và ngựa. Lái xe ra khỏi nhà, khi chúng tôi ngoẳnh mặt nhìn lại lần cuối góc vườn xinh xắn với mái ngói phủ đầy giây leo, mọi người đều cảm thấy buồn, còn tôi... tôi biết đã đến lúc phải ra đi, bỏ lại không chỉ một căn nhà bé nhỏ. Chúng tôi đã quyết định để An tới Ki-Mi-A trước và Lữ sẽ mang các con tới sau.

Một đoàn người chúng tôi tới ga xe lửa để tiễn chân An. An đã chào tạm biệt chồng nàng và các con... xe lửa bắt đầu chuyển bánh... thì... tôi vút nhanh lên khoang tầu của nàng, đặt lên đồ đạc cái rổ mà tí nữa nàng đã quên. Bây giờ đến lượt tôi chào tạm biệt. Cặp mắt chúng tôi gặp nhau trên khoang tầu, và chúng tôi không thể kiềm chế được nữa. Tôi ôm choàng lấy nàng, nàng ấp mặt vào ngực tôi, và nước mắt bắt đầu chảy. Hôn mặt nàng, hôn vai nàng, hôn đôi tay xinh xắn chứa đầy nước mắt--hai chúng tôi quả thực quá hạnh phúc--tôi bày tỏ tình yêu của tôi cho nàng. Với nỗi thống khổ bừng cháy trong tim... tôi thấy những gì đã cản trở tình yêu chúng tôi, những gì đã bóp ghẹt tình yêu của chúng tôi bấy lâu, quá sức là nhỏ bé, tầm thường và hão huyền. Tôi ý thức được rằng, một khi tôi yêu, tôi cần đặt định nghĩa tình yêu của tôi trên một cái gì đó cao thương và quan trọng hơn là hạnh phúc hay đau khổ, tội lỗi hay trong sạch: những ý nghĩ tầm thường mà mọi người vẫn đắn đo một khi yêu. Nếu không được như vậy, thì thà rằng chúng ta đừng định nghĩa tình yêu thì hơn.

Tôi hôn nàng lần cuối, nắm chặt tay nàng, và rồi chúng tôi chia cách--mãi mãi. Xe đang chạy. Tôi ngồi xuống khoang bên cạnh, trống rỗng... ngồi đó và khóc cho tới khi xe dừng lại ở trạm kế tiếp. Tôi quốc bộ về Sông-Phi-Nô.

Trời đã tạnh trong khi Kim đang kể chuyện, mặt trời đã ló rạng. Ban và Văn rời chỗ ngồi ra lan can. Trước mặt họ là vẽ lộng lẫy của khu vườn, và ánh sáng lấp lánh của dòng sông trong những tia nắng mặt trời. Lòng họ say mê trước cảnh vật nhưng cũng không quên hối tiếc cho người đàn ông với cặp mắt hiền lành và trong sáng ấy--người mà trong giờ qua đã bầy tỏ cho họ những tâm tư thầm kín và chân thành nhất--con người mà cuộc đời ngày qua ngày vẫn tiếp tục xoay quanh mảnh ruộng và cối xay gạo, vẫn tiếp tục nghèo khổ mà không làm gì để tiến lên được. Họ cũng liên tưởng đến sự thống khổ của nàng khi anh ta phải chia tay nàng trên khoang tàu, đặt lên vai và trán nàng những nụ hôn nồng cháy. Họ đã gặp nàng một vài lần trên tỉnh. Ban là bạn thân của nàng và biết rằng nàng rất ĐẸP

hết
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #10  
Old 05-15-2004, 02:33 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

:::: Anton Tsekhov ::::
Một cuộc gặp gỡ





Efrème Denissov mơ màng nhìn vùng đất trơ trụi chung quanh. Cái khát quằn quại, anh khổ sở vì đau đớn khắp châu thân. Con ngựa cũng có vẻ mệt lả, kiệt sức dưới cái nóng thiêu đốt và không được ăn uống từ lâu, rũ đầu buồn bã. Con đường dốc lài lài xuống khu rừng thông mênh mông. Những ngọn cây tan loãng tới tận xa tít, cùng màu xanh với bầu trời. Người ta chỉ thấy chim uể oải bay và bầu không khí run rẩy trong những ngày hè oi bức nhất. Khu rừng nổi lên như những ụ đất, càng lúc càng cao và cái thảm xanh qủy quái kinh dị này dường như vô tận.
Efrème tới từ làng sinh quán, thuộc tổng trấn Koursk, để quyên tiền cho ngôi nhà thờ bị cháy. Trong xe (1) đặt một tranh thánh vẽ trên gỗ, Đức Mẹ Kazan, mà nắng mưa đã làm phồng hở và dộp vảy. Trước bức tranh là hộp quyên tiền bằng sắt trắng, thành vách lồi u lên hé một khe khá rộng có thể nhét cái bánh bích qui vào không khó khăn gì.

Một tấm biển trắng đóng đinh sau xe, viết lớn bằng chữ in ngày tháng năm, ở làng Malinovstsy, "Vì thánh ý Chúa, lửa của cơn hoả hoạn đã thiêu hủy nhà thờ", rằng với sự cho phép và ban ơn của những vị có thẩm quyền, cộng đồng đã quyết định phái "những người tình nguyện" đi quyên tiền về xây lại thánh đường. Bên cạnh xe treo cái chuông buộc vào một thanh ngang, nặng khoảng mười kí lô.

Efrème không định được mình đang ở đâu và khu rừng mênh mông không hứa hẹn có cư dân nào ở gần. Anh dừng một lát, sửa lại đai mông ngựa và cẩn trọng đi xuống con đường dốc. Chiếc xe rung rinh, chuông phát ra những âm thanh làm gián đoạn cái im vắng chết người của một ngày nóng thiêu nóng đốt.

Trong rừng, bầu không khí ngột ngạt mùi nhựa gai thông, mùi rêu và mùi lá mục rực lên đón khách. Người ta chỉ nghe tiếng vo ve nhè nhẹ vang vang quấy rầy của muỗi và bước chân Efrème đinh tai nhức óc. Xuyên qua rừng xanh, các tia nắng lướt mình dọc thân cây và những nhánh chồi bên dưới rồi tạo nhiều vòng tròn nhỏ trên nền đất râm chồng chất gai thông. Đó đây một cây dương xỉ hay cây mận còi chỉa lên bên cạnh thân cây ; chung quanh chẳng có gì khác.

Efrème vừa bước bên cạnh xe vừa khuyến khích ngựa. Đôi khi bánh xe vấp vào rắn rễ cây bò ngang qua đường, cái chuông kêu leng keng phàn nàn như thể ngay cả nó cũng mệt bở hơi.

Một giọng cứng ngắt :Di tai bỗng vang lên cạnh Efrème :

- Chào ông nội ! Chúc đi đường bình an !

Một nông dân khoảng ba mươi, cặp giò dài, đang nằm cạnh đường, đầu gối lên tổ kiến. Gã bận chiếc sơ mi vải và chiếc quần bó không phải kiểu nhà quê, hai gấu nhét vào ủng đỏ, thấp. Cạnh đầu gã là cái mũ cát-két của nhân viên nhà nước, dơ tới nỗi chỉ một cái dấu nhỏ của chiếc phù hiệu mới cho phép đoán được màu nguyên thủy. Giấc nghỉ ngơi của gã nông dân có vẻ không yên tĩnh : trong khi Efrème quan sát thì tay chân gã quơ quậy không ngừng như thể bị muỗi xé xác hoặc bị bịnh ghẻ hành hạ. Nhưng mặt mày gã thì coi còn dị hợm hơn quần áo hay cử chỉ nữa. Cả đời, Efrème chưa gặp ai như vậy bao giờ. Xanh xao, tóc thưa thớt, cằm vểnh ra, một nhúm lông điểm phía trên trán, nhìn nghiêng trông mặt gã như vầng trăng lưỡi liềm. Mũi và hai tai nhỏ dị kỳ, mắt không linh động và nhìn chằm chặp vào một điểm trong không như mắt kẻ đần hay người bị điều gì làm kinh ngạc. Và để cho sự kỳ dị được trọn vẹn, cái đầu gã bẹp dí xuống hai bên làm lộ nửa vòng tròn bên dưới của sọ. Efrème hỏi :

- Nè con chiên, nói nghe, từ đây tới làng có xa không ?

- Không, không xa lắm. Tới thị trấn Maloié chừng hơn năm cây số thôi. (2)

- Tớ khát không chịu nổi.

Gã nông dân lạ lùng nói với một nụ cười :

- Làm sao không khát được. Trời nóng khủng khiếp ! Nóng tới năm mươi độ hay hơn... Người ta tên gì nhỉ ?

- Efrème, anh bạn ạ.

- Còn tớ tên là Kouzma. Đằng ấy có biết câu ngạn ngữ của mấy bà mai không : "Tôi có Kouzma trong tay, ngày mai sẽ là ngày cưới".

Đặt chân trên bánh xe, gã leo lên, chu môi hôn bức tranh thánh, hỏi :

- Đằng ấy đi xa hả ?

- Xa, anh bạn ạ !... Tôi ở tổng trấn Koursk, tận Moscou, mà bây giờ thì vội vàng tới Nijni cho kịp bữa hội chợ.

- Đằng ấy đi quyên cho nhà thờ hả ?

- Cho nhà thờ, anh bạn ạ. Cho bà hoàng của các thượng đế Kazan... Nhà thờ chúng tôi bị cháy rồi!

- Sao mà bị cháy ?

Lưỡi dày cộm lên vì mệt, Efrème bắt đầu kể hôm trước ngày thánh Elie, sấm sét đã rớt xuống nhà thờ Malinovstsy như thế nào. Như một sự cố tình, hôm đó cả dân làng và các tu sĩ đều ở ngoài đồng.

- Những người còn ở trong làng thấy khói, muốn đánh chuông báo động, nhưng phải tin là nhà tiên tri Elie phẫn nộ chúng tôi : nhà thờ khoá cửa, và như vậy là cả gác chuông làm mồi cho lửa, không cách nào tới chỗ cái chuông được... Chúng tôi từ đồng trở về thấy toàn thể nhà thờ bị thiêu hủy. Chúa ơi, thấy mà sợ không dám tới gần !

Kouzma vừa nghe vừa đi theo người khách. Gã chưa ăn uống gì mà bước chân thì như người say: hai cánh tay đong đưa, khi thì bước bên cạnh xe, khi thì đi phía trước... Gã dò hỏi :

- Vậy thì họ trả lương cho đằng ấy hay sao ?

- Lương gì ? Chính vì cho linh hồn mà tôi làm. Cộng đồng gửi tôi đi...

- Vậy thì đằng ấy làm miễn phí à ?

- Bạn muốn ai trả công tôi ? Tôi không đi tự nguyện, cộng đồng cử tôi đi, rồi chính cộng đồng sẽ gặt hái, sẽ gieo mạ và sẽ trả thuế cho tôi... Như vậy thì đâu có miễn phí !

- Đằng ấy sống bằng cái gì ?

- Tôi nhân danh Chúa xin của bố thí.

- Và con ngựa thiến này, nó thuộc về cộng đồng à ?

- Thì chớ sao...

- Này, này... Đằng ấy có thuốc lá chứ ?

- Tôi không hút thuốc bạn ạ.

- Nếu con ngựa kiệt sức thì đằng ấy làm sao ? Làm sao đằng ấy di chuyển ?

- Sao lại kiệt sức ? Nó không kiệt sức đâu...


Kouzma còn ba hoa đặt cả lố câu hỏi nữa : tiền và con ngựa sẽ ra sao nếu Efrème chết ? Nếu cái hộp đầy tới miệng thì người ta bỏ tiền vào đâu ? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu cái đáy hộp sút ra? Efrème không trả lời được và chỉ vừa thở vừa nhìn người bạn đồng hành, rất đỗi ngạc nhiên.
Kouzma nắm tay đẩy cái hộp và liến thoắng :

- Ê, nó đầy quá nè ! Nó nặng cách gì ! Chắc chắn là nó có cả khối tiền bằng bạc trong đó, nhỉ ? Và nếu chỉ toàn những đồng bằng bạc ? Này, đằng ấy gom góp được nhiều chớ hả ?

- Tôi không đếm, tôi không biết. Người cho tiền đồng, người cho tiền bạc. Nhưng bao nhiêu thì tôi không thấy.

- Còn bạc giấy, có chứ hả ?

- Người giàu và nhà buôn có cho bạc giấy.

- Những tờ giấy bạc đó, đằng ấy cũng để trong hộp à ?

- A không ! Bạc giấy mỏng manh dễ rách... Tôi bọc trong túi trước ngực.

- Và đằng ấy có được bao nhiêu ?

- Khoảng hai mươi sáu rúp. (3)

- Hai mươi sáu rúp, Kouzma vừa nói vừa so vai, quê tớ ở Katchabrov - muốn hỏi ai thì cứ hỏi - nội mấy cái cây trồng ở nhà thờ mà người ta đã cho ba ngàn rúp rồi ! Tiền của đằng ấy không đủ để mua đinh ! Thời buổi này, hai mươi sáu rúp không hơn cái khạc ! Bạn già ơi, nội giá trà, đã là một rúp rưỡi nửa kí lô rồi, mà người ta còn không muốn bán... Đằng ấy thấy thuốc tớ hút đây không ? Với tớ thì được, vì tớ chỉ là nông dân, một người giản dị. Nhưng nếu một sĩ quan hay sinh viên...

Kouzma thình lình chặp hai tay lại và luôn luôn tươi cười :

- Tại bót cảnh sát, cùng lúc với tớ có một người Đức làm việc ở sở hoả xa. Cái gã ấy, ô bạn già ơi, gã hút xì gà mỗi điếu giá mười kô-pếch (3). Hả ? Mười kô-pếch ! Họ đốt dễ dàng cả trăm rúp mỗi tháng như không. Ông nội nghĩ sao về chuyện đó ?

Gã suýt nghẹt thở vì kỷ niệm dễ chịu này, và cặp mắt bất động bắt đầu nhấp nháy. Efrème hỏi :

- Vậy là bạn đã trải qua bót cảnh sát à ?

- Gì mà họ chỉ mới thả tớ ra hôm qua thôi - Kouzma vừa nói vừa nhìn lên trời - Tớ ở đó một tháng tròn.

Chiều xuống. Mặt trời đã lặn rồi mà cái nóng ngộp thở vẫn không giảm. Kiệt sức, Efrème ơ hờ nghe người bạn đường. Họ gặp một nông dân và biết là thị trấn Maloié chỉ còn cách xa chừng hơn cây số. Lại thêm một đoạn đường nữa rồi chiếc xe ra khỏi rừng ; một khoảng rừng trống hiện ra, và như được tạo nên bởi quyền năng ảo thuật, một bức tranh sống động tràn ngập ánh sáng và tiếng ồn xuất hiện trước mắt hai người bộ hành. Chiếc xe đụng một đàn bò, cừu và ngựa bị xích chân. Bên kia đàn thú vật là đồng cỏ, lúa mì và đại mạch xanh ngắt, hoa mạch ba góc nở trắng toát. Xa hơn, thị trấn Maloié và ngôi nhà thờ thấp như sát xuống đất. Sau làng là một khu rừng khác hầu như đen kịt, trải dài ra xa. Kouzma nói :

- Moloié đây rồi. Nông dân ở đây được nuông chiều sung sướng, nhưng toàn là một bọn cướp đấy.

Efrème bỏ mũ ra và rung chuông. Hai nông dân ở gần giếng bìa làng bước tới cạnh xe. Họ hôn tranh thánh và hỏi những câu quen thuộc như bạn đi đâu, bạn từ đâu tới...

- Này bà con ơi, phải cho người của Chúa uống cái đã - Kouzma bắt đầu liến thoắng vừa vỗ vai hai người - nhanh lên !

- Làm sao mà tao có họ hàng với mày được ? Từ bao giờ ?

- Giáp trưởng của anh với của tui là bà con cô cậu. Bà ngoại anh đã kéo râu ông nội tui từ làng Krasnoié !

Suốt thời gian chiếc xe tới làng, Kouzma không ngừng tía lia và níu kéo người qua kẻ lại. Gã lấy cái mũ của người này, nện nắm tay vào bụng người khác, kéo râu người kia. Gã gọi các bà các cô nông dân là cưng, là nhỏ, là mẹ thương yêu của gã. Đối với các ông thì tùy theo điểm đặc biệt bên ngoài của họ, hoặc là anh tóc hung, chàng ngựa hồng, anh mũi lõ, anh chột... Cách pha trò này gợi được tiếng cười vui nhộn thẳng thắn. Chẳng bao lâu gã gặp mấy người quen. Nhiều tiếng kêu nổ ran : "A, bồ đấy hả Kouzma Chkvorenn ! Chào anh bị treo cổ ! Được ra tù bao giờ vậy ?"

- Cho người của Chúa uống cái đã, các bồ ơi, Kouzma vừa lặp đi lặp lại vừa đong đưa hai tay, nhanh lên ! Nhanh hơn nữa !

Gã làm vẻ quan trọng và hét thật to, tự cho mình vai trò che chở hay hướng dẫn "người của Chúa".

Người ta chỉ định Efrème qua đêm trong căn nhà gỗ của bà cụ Avdotia, dân hành hương hay bộ hành thường trú ngụ ở đấy. Efrème thong thả tháo ngựa rồi dẫn tới máng nước gần giếng và tán gẫu với mấy người nông dân cả nửa tiếng đồng hồ. Rồi anh đi nghỉ. Kouzma đã đợi anh trong căn nhà gỗ.

- A ông bạn đây rồi ! - gã nông dân kỳ dị kêu lên vui vẻ - Tới quán uống trà không ?

- Trà hả ? Tốt quá - Efrème vừa nói vừa gãi - tốt quá, hẳn rồi, nhưng tôi không có gì cả bạn ạ. Bạn mời tôi hay sao ?

- Mời đằng ấy à... tiền đâu ?

Thất vọng, Kouzma dậm chân tại chỗ, rồi ngồi xuống nghĩ ngợi. Về phân Efrème thì vừa thở dài vừa gãi gãi với cử chỉ vụng về, anh đặt bức tranh thánh và hộp quyên tiền dưới bàn thờ của căn nhà (4), rồi cởi bỏ quần áo giày vớ, ngồi xuống. Một lát, anh đứng lên, đặt hộp quyên tiền lên ghế dài, ngồi xuống lại và bắt đầu dùng bữa. Anh nhai chậm chạp như bò cái và uống nước ồn ào.

- Mình nghèo quá ! - Kouzma thở ra. Bây giờ mà uống được miếng vodka hay miếng trà thì tuyệt...

Hai cửa sổ nhìn ra đường chỉ để lọt vào chút ánh sáng dè xẻn. Bóng tối bao trùm cả làng, những căn nhà gỗ trở nên tối tăm, đường biên của ngôi nhà thờ đã mờ nhạt, trải rộng ra và dường như chui vào lòng đất... Một ánh đỏ yếu ớt của mặt trời lặn phản chiếu lại, lấp lánh nhẹ nhàng trên chiếc thập giá gác chuông.

Xong bữa, Efrème ngồi bất động hồi lâu, tay đan trên gối, dán mắt vào cửa sổ. Anh đang nghĩ ngợi gì ? Trong cái im lặng của chiều, khi người ta chỉ thấy trước mặt mình một cái cửa sổ mờ đục và phía sau nó thiên nhiên từ từ dịu xuống, khi người ta nghe tiếng sủa khàn khàn của những con chó lạ và tiếng đàn ắc-co-đê-ông the thé, thì khó lòng mà không tưởng nhớ tới gia đình. Những kẻ sống lang thang, kẻ mà cái khốn cùng, điều bất đắt dĩ hay chỉ vì do gàn dỡ khiến họ phải cách xa người thân - mới hiểu thấm thía là buổi tối yên tĩnh ở một vùng quê xa lạ mới dài dằng dặc và kinh khủng cỡ nào.

Rồi thì, Efrème, đứng trước tượng thánh, ân cần đọc kinh thật lâu. Vừa ngã lưng lên băng ghế để ngủ, anh thở hắt ra một hơi dài và ngay là anh, cũng phải thốt lên :

- Cậu rõ là một người buồn cười... Chỉ trời mới biết cậu được tạo ra như thế nào !

- Tại sao vậy ?

- Tại vì... Cậu không giống người ta. Cậu thường cười ngớ ngẩn, cậu nói không lý do, cậu vừa từ bót cảnh sát ra ...

- Đằng ấy chỉ chực có vậy thôi ! Nhiều khi có nhiều ông rất bảnh ở bót cảnh sát đấy ! Đằng ấy này, bót cảnh sát chẳng là cái quái gì cả, tớ muốn ở đó cả năm, nhưng mà nhà tù thì hoàn toàn khác hẳn. Thiệt tình là tớ đã vào tù ra khám ba lần rồi, và không tuần nào mà ở toà án nông dân, người ta không quết cho tớ một trận... Tụi nó đều chống lại tớ, mấy thằng khốn ấy... Cộng đồng muốn đày tớ đi Sibérie. Họ đã tuyên bố bản án rồi.

- Chắc cậu cũng xứng với hình phạt đó chớ ?

- Tớ cóc cần ! Người ta có thể sống ở Sibérie như ở mọi nơi khác.

- Còn bố mẹ cậu, còn sống chứ ?

- Ổng bả rầy rà tớ quá. ƯØ, ổng bả còn sống, chưa ngoẻo...

- Cậu đã làm gì cho bố mẹ mở mày mở mặt chưa ?

- Tớ cóc cần... Đối với tớ thì bố mẹ tớ là kẻ thù ghê gớm nhất của tớ, chính ổng bả đánh mất tớ ! Ai đã khiến cho cộng đồng chống lại tớ ? Ông bả chớ ai, và cái ông chú Stéphane của tớ nữa... Không ai khác cả...

- Làm sao cậu biết được, hả chàng ngốc ? Cộng đồng không cần tới ông chú Stéphane mới biết cậu là người thế nào... Và còn tại sao mấy người nông dân ở đây lại gọi cậu là "anh bị treo cổ" ?

- Tại vì, khi tớ còn bé, thiếu chút nữa là mấy cha nông dân giết tớ rồi. Họ treo cổ tớ lên cây, mấy thằng chết tiệt đó. Tạ ơn Chúa, mấy người nông dân Ermolinsk đi ngang qua thấy, đã cứu tớ...

- Một phần tử vô ích của xã hội !

Efrème vừa nói vừa thở ra. Rồi anh quay mặt vào tường, chẳng bao lâu đã ngáy.

Giữa đêm anh thức dậy ra thăm ngựa thì Kouzma không có đó. Một con bò cái trắng đứng trước cửa mở toang, êm ả nhìn vào lối đi và cạ sừng vào khung cửa. Mấy con chó đang ngủ say. Bầu không khí bình yên tĩnh lặng. Xa xa trong bóng tối, giữa cái im vắng ban đêm, một con gà nước gáy to lên và con chim cú nức nở từng tràng dài.

Tới bình minh, khi Efrème tỉnh dậy lần thứ hai thì Kouzma đang ngồi ở bàn, trên chiếc băng dài, vẻ trầm ngâm. Một nụ cười ngây ngô của người say rượu đông cứng lại trên khuôn mặt xanh xao của gã. Những ý nghĩ hân hoan kích động chắc đang chao lượn trong cái đầu bẹp dí ; gã hổn hển như thể vừa leo núi.

- A, người của Chúa ! - gã nói khi thấy Efrème thức dậy, rồi tiếp theo với nụ cười ngượng nghịu

- Đằng ấy muốn bánh mì trắng không ?

- Cậu đi đâu vậy ? Efrème hỏi.

- Hi-i-i, hi-i-i.

Kouzma làm như vậy cả chục lần và không bỏ nụ cười đông cứng trên mặt, rồi cuối cùng người lảo đảo vì cái cười co giật :

- Tớ uống... trà... trà... và rượu vodka.

Rồi gã bắt đầu dông dài kể trong quán rượu, gã đã uống trà và vodka với những người chạy xe hàng ghé qua như thế nào. Vừa nói, gã vừa rút trong túi ra mấy que diêm, một phần tư gói thuốc và vài cái bánh mì trắng nhỏ...

- Đây là diêm Thụi Điểng, cầm này ! Pxi... - vừa nói gã vừa lần lượt đốt mấy que diêm và châm điếu thuốc - diêm Thụi Điểng chính cống ! Xem này !

Efrème vừa ngáp vừa gãi, rồi thình lình như bị chích, anh nhảy dựng, vén sơ mi lên và sờ mó chiếc ngực trần. Rồi cứ dậm chân tại chỗ như gấu, anh cầm từng cái quần cái áo cũ mèm lên khám xét, nhìn dưới chiếc ghế dài, mằn mò vào ngực...

- Tiền biến mất rồi ! - anh nói.

Anh bất động trong nửa phút nhìn sững cái ghế với vẻ ngơ ngác rồi bắt đầu tìm kiếm.

- Thánh Nữ Đồng Trinh, tiền biến mất rồi ! Cậu nghe không ? - anh nói với Kouzma - Tiền biến mất rồi !

Kouzma chăm chú ngắm nghía hình vẽ trên hộp diêm, im lặng.

- Tiền đâu ? - Efrème vừa hỏi vừa bước tới phía Kouzma.

- Tiền gì ? - Kouzma hờ hững hỏi giữa hai kẻ răng, không rời mắt khỏi hộp diêm.

- Thì tiền... mà tôi giữ trên ngực đấy !

- Tại sao đằng ấy quấy rầy tớ vậy ? Nếu mất tiền thì tìm đi !

- Tìm ở đâu ? Tiền đâu ?

Kouzma nhìn khuôn mặt đỏ rựng của Efrème và bất giác mặt gã đỏ theo :

- Tiền gì ? - Gã vừa la to vừa đứng lên.

- Tiền ! hai mươi sáu rúp ấy !

- Chắc là tao lấy hả ? Mày làm phiền tao quá, thằng khốn !

- Chẳng có gì là khốn nạn cả. Chỉ cần nói cho tôi biết tiền đâu ?

- Chính tao lấy hả ? Tao ? Nói nghe đi : tao lấy hả ? Tao sẽ làm cho mày thấy tiền, đồ chết tiệt, sau đó thì mày sẽ không còn nhận ra cha mẹ mày nữa !

- Nếu không phải mày thì tại sao mày câm mồm ? Chắc chắn là mày thôi ! Chớ tiền nào mà mày tiệc tùng suốt đêm ở quán, rồi còn mua thuốc lá bằng cách nào ? Mày chỉ là một thằng ngốc, một thằng buồn cười ! Có phải mày gây thiệt hại cho tao đâu. Không, mày gây thiệt hại cho Chúa đấy!


- Tao... tao lấy tiền hả ? Bao giờ vậy ? - Kouzma la lên với giọng chát chúa. Gã đưa tay lên và giáng quả đấm vào ngay mặt Efrème.
- Này, cho mày đây ! Muốn nữa không ? Tao đếch cần mày là người của Chúa hay không.

Efrème đành lắc đầu và không nói không rằng, bắt đầu mang giày.

- Đồ bịp bợm - Kouzma la càng lúc càng kích động - nó lấy tiền uống rồi bây giờ buộc tội người khác, cái con chó già này ! Tao, tao sẽ đi kiện ! Mày sẽ nếm mùi lao tù vì tội vu khống và không được thả ra ngay đâu !

- Nếu mày không lấy tiền, thì thôi im đi - Efrème bình tĩnh nói.

- Này, mày cứ soát tao đi.

- Tại sao mày lại muốn tao lục soát mày, nếu mày không lấy gì cả ? Không phải là mày thì thôi được rồi... La lối vô ích : mày không la to bằng Chúa đâu.

Efrème mang giày xong và ra khỏi nhà. Khi anh trở lại, Kouzma mặt vẫn còn đỏ rực, đang ngồi bên cửa sổ, châm một điếu thuốc với hai tay run run. Gã gầm gừ :

- Qủy già à, bọn chúng rất đông la cà ở đây và đánh lừa thiên hạ. Chỉ với tao, mày vô phước, bạn già à. Mày không đánh lừa được tao đâu. Tao biết rõ mấy trò này quá rồi. Đi tìm người đại diện đi. (4)

- Để làm gì ?

- Để lập bản án. Để người ta xử tụi mình trước toà án nông dân !

- Xét xử chúng ta vô ích. Tiền không phải của tao, nó là của Chúa. Để Chúa phán xét chúng ta.

Efrème đọc kinh và mang tranh thánh cùng hộp quyên tiền, ra khỏi căn nhà gỗ.

Một giờ sau xe anh vào rừng. Làng Maloié, ngôi nhà thờ thấp, khu rừng thưa cùng ruộng đồng đã lùi xa và biến mất trong sương mù buổi sáng. Mặt trời đã lên nhưng còn ẩn mình sau khu rừng, chỉ ửng vàng các bià mây hướng về phía đông.

Kouzma lẽo đẽo theo xe cách một quãng. Gã có vẻ như người bị xúc phạm nặng nề và bất công. Bị cái háo hức muốn nói gặm nhấm nhưng gã làm thinh, cố chờ chính Efrème phá tan bầu im lặng.

- Gây chuyện với đằng ấy chẳng thú vị gì cho tớ, nếu không tớ sẽ cho đằng ấy nếm đủ mùi - gã nói như nói với chính mình - tớ sẽ dạy đằng ấy vu khống người khác, đồ qủy sói...

Nửa giờ trôi qua trong im lặng. Người của Chúa vừa đọc kinh vừa bước, làm dấu thánh vội vàng, thở ra thật sâu và bắt đầu tìm bánh mì trong xe.

- Tụi mình sắp tới Telibéievo rồi - Kouzma bắt đầu - toà hoà giải của tụi tớ ở đó. Đằng ấy cứ việc kiện đi.

- Cậu nói để chẳng nói gì cả. Chuyện đó ăn nhằm gì tới ông toà ? Có phải tiền của ổng đâu ? Tiền của Chúa. Cậu sẽ biện minh trước Chúa thôi.

- Thằng chả chỉ biết lải nhải : Chúa ! Chúa ! Cứ như con quạ. Như vầy nè : nếu tớ ăn cắp, phải xét xử tớ. Nếu không thì đằng ấy phải trả lời về tội vu khống của mình.

- Làm như thể tôi có thì giờ chạy theo mấy cái toà án !

- Vậy thì đằng ấy không tiếc tiền à ?

- Tại sao tôi lại tiếc ? Không phải tiền của tôi, tiền của Chúa mà...

Efrème miễn cưỡng trả lời, không xao động, và mặt anh lạnh lùng thản nhiên như thể không tiếc tiền hay đã quên sự mất mát rồi. Vẻ lạnh lùng này làm Kouzma bối rối và kích động bởi đối với gã đó là điều khó hiểu.

Đáp lại sự tội lỗi bằng mưu mẹo hay hung bạo là chuyện bình thường, chớ lăng nhục bằng sự thản nhiên như vậy gây nên một nỗi dày vò làm kẻ gây hấn trở thành bị tấn công. Nếu Efrème phản ứng như mọi người, tức nếu anh giận dữ, nếu anh gây gỗ với kẻ tấn công, nếu anh đâm đơn kiện và quan toà kết án tù Kouzma hay xếp vụ án lại vì "thiếu bằng cớ", thì hẳn Kouzma đã được yên lòng ; còn bây giờ, bước theo chiếc xe, gã có vẻ như người thiếu thốn một cái gì.

- Tớ không lấy tiền của đằng ấy ! - gã nói.

- Cậu không lấy thì thôi, đừng nói tới chuyện đó nữa.

- Khi tới Télibéievo, tớ sẽ kêu cứu người đại diện. Ông ta sẽ làm sáng tỏ vấn đề !

- Không có gì phải làm sáng tỏ cả. Tiền không phải của ông ta. Còn cậu, anh bạn ạ, tốt hơn là cậu để tôi yên. Hãy đi đường của cậu đi ! Tôi đã chán nhìn thấy cậu rồi.

Kouzma nhìn trộm hồi lâu, bối rối, cố tìm hiểu những ý nghĩ trong đầu bạn đồng hành và ý đồ khủng khiếp chắc phải che dấu trong lòng ; cuối cùng gã quyết định đổi giọng :

- Đồ láu cá, ngay cả cười với thằng chả cũng không được nữa - gã chợt nổi nóng ... Ê đây này, tiền của ông đây này ! Chỉ là đùa chơi ấy mà !

Gã rút ra khỏi túi mấy tờ bạc một rúp và chìa cho Efrème.

Như đã chờ đợi chuyện này, không biểu lộ ngạc nhiên, cũng không vui, người này cầm tiền và im lặng nhét vào túi.

- Tớ chỉ muốn đùa một tí - Kouzma vừa tiếp lời vừa dò xét nét mặt dửng dưng của người kia - tớ muốn làm cho đằng ấy sợ. Tớ tự nhủ ê, mình sẽ làm cho anh chàng hoảng lên, rồi sáng hôm sau thì trả lại. Có hai mươi sáu rúp tất cả, còn lại chín hay mười... Mấy thằng cha xe hàng lấy hết của tớ... Đừng giận nghe, ông nội ! Không phải tớ uống đâu, mấy thằng ôn dịch xe hàng đấy... Tớ thề trước Chúa !

- Tại sao tôi phải giận ? Tiền của Chúa mà. Không phải cậu tấn công tôi đâu, mà là tấn công bà Hoàng của các Thượng đế đấy...

- Tớ chỉ uống có một rúp thôi, chính cống...

- Ăn thua gì tới tôi cơ chứ ? Cậu có thể xài hết cho việc nhậu nhẹt, tôi cũng cóc cần. Là một rúp hay một kô-pếch, đối với Chúa cũng như nhau. Cũng cùng một giá.

- Thôi đừng giận mà, ông nội ! Thiệt tình, đừng giận. Thiệt mà !

Efrème giữ im lặng. Kouzma nhấp nhấp mí mắt, khuôn mặt gã diễn tả vẻ trẻ thơ và thảm hại.

- Tha lỗi cho tớ, vì tình yêu của Chúa - gã nói và nhìn vào gáy Efrème với vẻ van nài. Đừng giận, ông nội à. Chỉ là đùa chơi thôi mà !

- A, cuối cùng thì cậu quấy rầy tôi quá - Efrème nói, bực dọc - tôi đã nói với cậu rồi, không phải tiền của tôi - Cậu hãy xin Chúa tha tội cho, còn tôi thì chẳng liên can gì vào đó cả.


Kouzma nhìn bức tranh thánh, bầu trời, cây cối, như thể tìm kiếm Chúa, rồi mặt gã co lại trong nỗi khiếp hãi. Trước sự im vắng của khu rừng, vẻ nghiêm nghị của bức tranh, sự thản nhiên khác thường và vô nhân đạo của Efrème, gã cảm thấy lẻ loi, vô phương tự vệ, như bị giao cho một Thượng đế hung ác và giận dữ phán xét.
Gã chạy lên đến trước mặt Efrème nhìn thẳng vào mắt anh như để tin chắc là gã không phải một mình :

- Tha lỗi cho con, nhân danh Chúa - gã nói, run rẩy cả người - tha lỗi cho con, ông nội ơi !

- Để tôi yên nào !

Kouzma nhìn một lần nữa lên trời, cây cối, chiếc xe, bức tranh thánh, rồi sụp xuống chân Efrème. Trong cơn hãi hùng, gã bập bẹ cái gì không đầu đuôi, đập trán xuống đất, ôm ghì lấy chân Efrème và oà khóc như một đứa bé.

- Ông nội thân yêu ! Bạn thân yêu ! Người của Chúa !

Trước tiên là lúng túng, Efrème lùi lại đẩy người van nài, rồi tới phiên anh lại chiêm ngưỡng bầu trời với lòng sợ hãi. Cảm thấy nỗi lo âu và tội nghiệp đứa ăn cắp, anh thuyết giáo :

- Khoan đã nào, anh bạn, nghe tôi này ! Nghe những điều tôi sắp nói đây này, anh ngốc ạ ! Ê, gì mà tỉ tê như đàn bà vậy ! Này, nếu cậu muốn Chúa tha tội cho, thì ngay khi về tới làng cậu, hãy đi tìm ông giáp trưởng... Cậu nghe không đấy ?

Và anh bắt đầu giải thích cho Kouzma nghe làm thế nào để xoá bỏ tội lỗi : trước hết là phải thú tội với ông giáp trưởng, làm phép giải tội, rồi thì thu góp và gửi tới Malinovsty số tiền đánh cắp uống rượu ; và trong tương lai thì phải cư xử ngay lành chân thật, phải nhã nhặn đúng tư cách một người có đạo. Nghe mấy lời đó, Kouzma dịu dần ; chẳng bao lâu gã có vẻ như quên mất nỗi buồn ; gã chọc phá Efrème, gã liến thoắng... Không một phút ngừng nói, gã kể chuyện của những người sống sung sướng được nuông chiều, chuyện ở bót cảnh sát, chuyện người Đức, chuyện trong tù - tóm lại, gã lặp lại những gì đã kể hôm trước. Rồi gã cười dòn tan, chập tay lại, bước lùi vẻ nghiêm trọng như thể kể điều gì mới mẻ lắm. Gã diễn tả một cách thoải mái với cung cách của người mài nhẵn gót giày khắp nơi, điểm câu chuyện bằng những câu khôi hài hay châm ngôn ; coi vậy chớ nghe thì khiếp lắm, bởi vì gã lặp đi lặp lại, thường ngừng giữa chừng để nắm bắt ý nghĩ lạc lối, rồi nhíu mày, xoay vòng, vung vẩy cánh tay... Và toàn là những điều huênh hoang láo lếu !

Đến trưa, khi xe dừng lại ở Télibéievo, Kouzma vào quán rượu. Efrème nghỉ ngơi hai tiếng đồng hồ mà người kia cũng chưa rời khỏi quán. Người ta nghe tiếng gã thề thốt, khoe khoang và đập tay lên quầy, trong khi những nông dân say sưa thì chế diễu gã. Và khi Efrème rời làng, một trận xô xát bắt đầu xảy ra trong quán : Kouzma hăm dọa ai đó với giọng :Di tai và la to lên là gã sẽ đi tìm cảnh sát.

1887

Dịch theo bản Pháp văn
"Une Rencontre", của Génia CANAC
MIENG
Paris, Mai 1998-Aout 2000
Chú thích của người dịch :
(1) Bản tiếng Pháp : la télègue : xe ngựa 4 bánh ở Nga.

(2) Năm verstes ; 1 verste = 1067 mét.

(3) 1 rouble ăn 100 kopecks, tiền Nga vào thế kỷ 17.

(4) Trong một góc, người ta đặt tranh thánh và ngọn đèn nhỏ, gọi là "góc đỏ", nơi thiên liêng của căn nhà. Ăn cắp đồ đạc để chỗ này là nghịch đạo.

(5) Tiếng Nga : Starosta, là người đại diện nông dân, làm trung gian giữa chủ đất và tá điền.


Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời


Ðiều Chỉnh
Xếp Bài

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
Bạn không được quyền gởi bài
Bạn không được quyền gởi trả lời
Bạn không được quyền gởi kèm file
Bạn không được quyền sửa bài

vB code đang Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển đến


Múi giờ GMT. Hiện tại là 04:43 PM.


Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2024, Jelsoft Enterprises Ltd.