Go Back   Vina Forums > Vườn Thơ > Tủ Sách Văn Học
Hỏi/Ðáp Thành Viên Lịch Tìm Kiếm Bài Trong Ngày Ðánh Dấu Ðã Ðọc

Trả lời
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
  #121  
Old 08-19-2007, 01:29 PM
TT_LưuLyTím_TT's Avatar
TT_LưuLyTím_TT TT_LưuLyTím_TT is offline
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Bài gởi: 7,757
Default

Tái ông thất mã
"Tái ông thất mã" là "ông già ở biên giới mất ngựa".
Sách của Hoài Nam Tử có chép:
Một ông lão ở gần cửa ải Nhạn Môn, nơi giáp giới nước Tàu với Phiên Quốc (Hồ) có con ngựa. Một hôm, con ngựa đi mất. Người quen thuộc đều đến thăm hỏi, chia buồn. Ông lão nói:
- Mất ngựa thế mà phúc cho tôi đấy, biết đâu!
Cách mấy tháng, con ngựa trở về lại quyến thêm một con ngựa hay tốt. Những người quen thuộc kéo đến xem ngựa và chúc mừng. Ông lão nói:
- Được ngựa thế mà họa cho tôi đấy, biết đâu!
Từ khi được ngựa hay tốt, con ông lão thích cưỡi. Chẳng may té què chân. Người quen thuộc đều đến hỏi thăm, chia buồn. Ông lão nói:
- Con què thế mà phúc cho tôi đấy, biết đâu!
Cách một năm có giặc Hồ. Nhà vua bắt lính đi đánh giặc. Quân lính mười người chết đến chín. Chỉ con ông lão vì què, không phải đi lính mà cho con vẫn họp nhau.
"Tái ông thất mã" trở nên một thành ngữ để chỉ sự họa, phúc xoay vần, khó biết trước được. Trong cái phúc thường khi có cái họa; trong cái họa lại có cái phúc. Cổ ngữ cũng có câu: "Họa tùng phúc sở ỷ, phúc tùng họa sở phục".
Sách của Úc Ly Tử cũng có chép:
Một người nhà quê trải cỏ phơi ở chân giậu. Hôm sau ra vơ cỏ, nghe tiếng kêu "tích tích", lật lên xem thì bắt ngay được một con trĩ.
Anh ta thấy thế lại vẫn để cỏ ở đấy, có ý mong ngày mai lại được con trĩ nữa. Mai ra, lắng tai nghe tiếng "tích tích" như hôm trước, bụng mừng thầm. Nhưng vừa bới cỏ lên thì ra một con rắn cắn ngay vào tay làm anh ta bị thương rồi chết.
Úc Ly Tử nói: "Trong thiên hạ có cái phúc không tưởng được thế mà may được thế; cũng có cái họa không ngờ đến thế mà xảy ra thế".
Trong một bài thơ của nhà chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng có câu:
Kìa tụ tán chẳng qua là tiễn biệt,
Ngựa tái ông họa phước biết về đâu.
__________________
http://Taochu.Uhm.vN
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #122  
Old 08-19-2007, 01:29 PM
TT_LưuLyTím_TT's Avatar
TT_LưuLyTím_TT TT_LưuLyTím_TT is offline
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Bài gởi: 7,757
Default

Ngọc tỉnh liên phú
"Ngọc tỉnh liên" là "Hoa sen trong giếng ngọc". Đây là bài phú của Mạc Đĩnh Chi.
Ông đỗ Trạng nguyên, khi vào bái yết nhà vua, Trần Anh Tông thấy hình dung ông xấu xí quá, không muốn cho đỗ. Ông liền làm bài phú "Ngọc tỉnh liên" để tự ví mình. Vì hoa sen vốn có tiết tháo thanh cao, không hoa nào sánh được, tuy gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn; vả lại sen này lại trồng trong giếng ngọc nữa thì sen càng cao quý biết bao. Ông như sen, dù có phải ở vào hoàn cảnh ô trọc thế nào thì cũng vẫn giữ khí tiết thanh cao, huống chi ở phải vào một thời tốt đẹp, vua minh chánh thì người ông càng cao quý biết mấy. Sen quý nhưng phải có người sành mới biết thưởng thức.
Vua đọc bài phú của ông cho là kiệt tác nên mới yêu dùng.
Dưới đây là bài phú "Ngọc tỉnh liên" dịch ra văn nôm:
"Đương khi lửa hạ, khách cao trai thư thả, lời dòng nước biếc, vịnh khúc phù dung; đến bến ao trong, ngâm câu nhạc phủ. Bỗng bóng ai, áo trắng mũ vàng, phất phơ điệu cốt xương tiên, hớn hở tinh thần khác tục. Khách hỏi: từ đâu mà lại? Thưa rằng: từ núi Hoa san. Khách kéo ghế mời ngồi vồn vã, này dưa ngon quả quý bày ra. Chuyện gần thôi lại chuyện xa, nói cười lơi lả, tiệc hoa tơi bời. Chuyện xong, mới hỏi khách rằng: khách đây quân tử ái liên chăng là? Tiện đây sẵn có giống nhà, vẫn từng gìn giữ nâng niu hoa vàng. Nọ đào lý bỉ thô còn kém, kể trúc mai đơn lạnh còn xa; nào phải giống tăng phòng câu kỷ, nào phải phường lạc thổ mẫu đơn, cũng chẳng phải đông ly đào cúc, mà cũng không cửu uyển linh lan; chính là một giống sen thần, đầu non núi Họa giếng vàng sinh ra. Khách nghe nói: khen thay quý lạ! Phải chăng giống hoa cao mười trượng, ngó cong như thuyền, lạnh giá như băng, ngọt ngon tựa mật, xưa từng nghe tiếng, nay được thực trông. Nghe qua đạo sĩ vui lòng, hoa trong tay áo giữ liền tặng đưa. Khách trông thấy trong lòng hồi hộp, bút ngũ lăng tay thảo nên ca. Ca rằng:
Thủy tinh làm mái cung đình,
Lưu ly lạc để nên hình cung môn,
Pha lê nát nhỏ làm bùn,
Minh châu làm nóc trên cành tưới cây.
Hương thơm bay thấu từng mây,
Bích thiên âu cũng mê say tấc lòng.
Quế xanh khóc vụng tủi thầm,
Tố Nga luống những mười phần giận thân.
Cỏ dao hái chốn Phương tân,
Sông Tương trông ngóng mỹ nhân dãi dầu.
Giữa dòng lơ lửng vì đâu?
Non sông đất cũ cớ sao chẳng về?
Đành nơi lưu lạc quản gì,
Thuyền quyên lỡ bước lắm bề gian truân.
Một lòng trung chính nghĩa nhân.
Lo chi mưa gió, phong trần, tuyết sương!
Chỉn e lạt phấn phai hương,
Tháng ngày thắm thoát, mỹ nhân ai hoài.
Nghe xong, đạo sĩ than rằng: nói chi ai oán thiết tha! Kìa chẳng xem đóa tử vi nở trên ao phượng, hoa thược dược mọc trước bệ vàng, cũng là địa vị thanh cao, thanh danh hiển hách, ơn trên thánh chúa, mưa móc dồi dào. Vội chi tủi phận hờn duyên, nước non lẩn thẩn toan bề đi đâu? Khách nghe nói như tình, như cảm, đem lòng kính mộ xiết bao. Khúc trai đình tay tiên đề vịnh, thơ phong đầu giọng ngọc ngâm nga. Nỗi lòng xin giải gần xa, kính dâng một phú hải hà xét xoi. (Bản dịch của C... Đ...)
Mạc Đĩnh Chi người làng Lũng Động, huyện Chí Linh (nay thuộc phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương), thông minh tuyệt vời, diện mạo rất xấu xí. Vì cái xấu xí đó mà xuýt chút con đường hoạn lộ của ông bị bế tắc; tuy vậy mà cũng nhờ đó, trên đài văn học, ông để lại cho đời một bài phú "Ngọc tỉnh liên" có giá trị.
Ông tài giỏi quá nên đời ông có nhiều giai thoại ngộ nghĩnh nửa thực nửa hư. Ông được người tôn sùng là "Lưỡng quốc Trạng nguyên". Vì ông đỗ Trạng nguyên ở nước nhà, rồi đi sứ sang Tàu, ông lại được vua Tàu sau khi xem văn ông lại cầm viết phê là Trạng nguyên nữa.
Thật là chuyện nửa tin nửa ngờ.
Nguyên ông đi sứ sang Tàu đời nhà Nguyên. Khi vào triều, vừa gặp người ngoại quốc dâng nhà vua một cây quạt. Vua bảo ông làm một bài minh (một thể văn ngày xưa) để đề vào quạt. Ông cầm bút viết ngay:
Lưu kim thước thạch, thiên địa vi lô
Nhĩ ư tư thời hề, Y, Chu cự nho.
Bắc phong kỳ lương, vũ tuyết tái đồ,
Nhĩ ư tư thời hề, Di, Tề ngã phu,
Y! Dụng chi tắc hành, xã chi tắc tàng
Duy ngã dữ nhĩ hữu thị phù!
Nghĩa là:
"Vàng chảy đá tan, trời đất như lò lửa, lúc ấy ngươi được như Y Doãn, Chu công là bực cự nho.
Gió bấc lạnh lùng mưa tuyết đầy đường, lúc ấy ngươi phải như Bá Di, Thúc Tề là kẻ bị đói.
Ôi! Dùng thì làm, bỏ thì cất,
Ta cùng ngươi cũng giống nhau chăng?"
Quần thần nhà Nguyên thấy bài minh cho là hay, cực kỳ khen ngợi. Có truyện chép: từ chữ "Y" trở xuống, vua Nguyên phê 4 chữ "Lưỡng quốc Trạng nguyên".
Ông đi sứ tàu, vì trời mưa gió nên đến cửa ải trễ. Lính đã đóng cửa. Nhưng muốn thử tài sứ Việt, quan Tàu đưa một vế câu đối xuống để ông đối. Vế rằng:
"Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan"
Nghĩa: "Qua ải chậm, cửa ải đóng, xin khách qua qua ải".
Ông liền đối:
"Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh trên đối"
Nghĩa: "Ra đối dễ, đối lại, khó, xin mời tiên sinh đối trước".
Người Tàu phục tài mở cửa quan cho qua.
Một quan Tể tướng nhà Nguyên mời ông vào phủ, cùng ngồi đàm luận. Trong phủ có treo một bức trướng thêu con chim sẻ vàng (hoàng tước) đậu trên cành trúc. Thêu khéo đẹp quá, ông tưởng là chim thật, bước đến đưa tay bắt. Người Nguyên cười ầm lên. Ông liền kéo ngay bức trướng xé toang ra. Chúng lấy làm lạ hỏi. Ông nói:
- Tôi nghe người ta họa bức mai tước (cây mai và chim sẻ) thì có, chớ chưa thấy họa bức trúc tước (cây trúc và chim sẻ) bao giờ. Vả chăng trúc là quân tử, tước là tiểu nhân, nay bức trướng thêu trúc tước, ấy là cho tiểu nhân đứng trên quân tử. Tôi sợ e quân tử đạo tiêu, tiểu nhân đạo trưởng, nghĩa là quân tử suy mà tiểu nhân thịnh, cho nên tôi vì Thánh triều mà trừ đi đó. Chúng nghe rất lấy làm phục.
Nhưng cũng rất vô lý.
Ai đời sứ thần một nước dù là nước nhỏ đi nữa cũng là sứ thần, lỡ đi trễ mà chúng đóng cửa ải quan không cho vào, rồi ra câu đối ... Ông Trạng của một nước dù là nước nhỏ nhưng nước ấy đã từng phá Tống, bình Chiêm, vậy mà nhìn tranh thêu lại tưởng là thật; rồi giữa lúc đàm luận với vị Tể tướng cùng quan khách lại bỏ chạy chụp chim, thì thật là ngớ ngẩn hết chỗ nói.
Họa chăng, ông Trạng Việt Nam thẳng thắn phê bình tranh Tàu trước vị Tể tướng nước Tàu, rồi người sau thêm nhưn nhị vào cho vui câu truyện có tính cách khôi hài chăng?
__________________
http://Taochu.Uhm.vN
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #123  
Old 08-19-2007, 01:29 PM
TT_LưuLyTím_TT's Avatar
TT_LưuLyTím_TT TT_LưuLyTím_TT is offline
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Bài gởi: 7,757
Default

Ngôn quá kỳ hành
"Ngôn quá kỳ hành..." nguyên câu là: "Ngôn quá kỳ hành bất khả trọng dụng" đó là lời nói của Lưu Bị chúa nước Tây Thục đời Tam Quốc, có nghĩa: "Nói nhiều hơn làm, không dùng việc lớn được."
Lưu Bị đánh Ngô bị đại bại, chạy về Bạch Đế Thành, lâm bịnh nặng. Trước phút lâm chung, các quan chầu chực bên long sàng. Lưu Bị nhìn thấy có Mã Thốc bèn truyền cho tạm lui ra. Đoạn hỏi Khổng Minh:
- Thừa tướng xem tài Mã Thốc thế nào?
Nguyên Thốc là người có tài bác lãm quần thư, quán thông kim cổ, không có điều nào hỏi mà không biết, không có sách nào hỏi mà không nhớ, nên Khổng Minh thành thật đáp:
- Cũng là bậc anh tài đời này.
Lưu Bị nói:
- Không đâu! Trẫm xét thấy người ấy thường nói lớn quá sự thực mà làm thì không được như lời, không thể dùng vào việc lớn. Thừa tướng nên xét kỹ lại.
Lưu Bị chết.
Khổng Minh đem binh ra Kỳ Sơn đánh Ngụy.
Ngụy chúa là Tào Duệ dùng Tư Mã Ý làm đô đốc cầm binh đánh Thục.
Nguyên phía tây núi Tần Lĩnh có một con đường quan yếu gọi là Nhai Đình. Cạnh đó có thành Liệt Liễu. Hai chỗ ấy là yết hầu của Hán Trung (đất của Thục). Tư Mã Ý định kéo binh thẳng tới Nhai Đình, chiếm được điểm giao thông quan trọng này thì Dương Bình Quan của Thục cũng sắp lọt vào tay Ngụy.
Nhai Đình mất, tất Ngụy sẽ cắt đứt đường vận tải lương thực thì một vùng Lũng Tây của Thục khó giữ nổi. Như vậy Thục chỉ còn hai cách bị động: rút lui hay ở lại cố thủ. Hễ Ngụy nghe quân Thục chuyển động rút quân về Hán Trung, lập tức chia binh chận các đường nhỏ mà đánh. Nhược bằng quân Thục không lui, Ngụy sẽ cho các lộ quân đào hào, đắp lũy cố giữ chặt đứt các đường rút về của Thục, như vậy chỉ trong vòng một tháng, Thục sẽ bị tuyệt lương, quân chết đói hết.
Khổng Minh vẫn nhận thấy điều đó cho nên chọn tướng đem binh giữ Nhai Đình. Mã Thốc xin đi. Khổng Minh nói:
- Nhai Đình chỉ là một mảnh đất nhỏ, nhưng can hệ vô cùng. Nếu chỗ ấy thất thủ thì cả đại quân ta nguy hết đường cứu! Ngươi tuy thâm thông mưu lược nhưng hiềm nơi ấy không có thành quách, lại cũng chẳng có thế hiểm nào mà dựạ Khó giữ vô cùng.
Thốc nói:
- Tôi làu thuộc binh thơ từ nhỏ lại cũng biết phép dùng binh, lẽ nào không giữ nổi một chỗ như Nhai Đình.
Thấy Thốc cương quyết xin đi và lập "quân lịnh trạng" nên Khổng Minh phát cho 2 vạn 5 ngàn tinh binh và cho thêm một thượng tướng là Vương Bình trợ giúp. Khổng Minh lại kêu Bình vào dặn dò riêng:
- Ta vốn biết ngươi bình sinh cẩn thận nên mới đem việc này phó thác cho. Vậy phải thận trọng đề phòng. Đóng trại ở Nhai Đình thì phải đóng chặn ngang đường chính yếu, khiến giậc không đi qua lọt. Hạ dinh trại xong, hãy vẽ ngay đường lối bốn mặt tám phương và hình thế địa lý, lập thành bản đồ đầy đủ, gởi về cho ta xem. Ngoài ra, việc gì cũng phải bàn nhau kỹ càng rồi hãy làm, chớ có coi thường. Nếu giữ được nơi ấy an toàn tức là được công đầu trong việc đánh chiếm Trường An vậy.
Mã Thốc và Vương Bình kéo quân lên đường rồi, nhưng Khổng Minh còn cẩn thận sai thêm tướng giỏi dẫn binh đóng giữ phía đông bắc và phía sau Nhai Đình để tiếp cứu khi Nhai Đình bị nguy.
Mã Thốc, Vương Bình đến Nhai Đình, trước hết đi quan sát địa thế đóng quân. Thốc xem xét rồi cười nói:
- Sao Thừa Tướng cẩn thận đến thế! Một nơi ven núi thế này, quân Ngụy đâu dám bén mảng tới.
Vương Bình nói:
- Dù quân Ngụy không dám đến, ta cũng phải đóng trại vào chỗ ngã năm kia để canh giữ năm mặt đường.
Nói rồi truyền quân sĩ đi đẵn cây đóng trại, tính kế giữ lâu dài. Mã Thốc không bằng lòng, nói:
- Ai đóng trại giữa đường bao giờ? Tiện đây có ghềnh núi, bốn mặt đều kín đáo, cây cối lại rất nhiều, chính là chỗ hiểm trời dành cho ta, cứ đóng quân ngay trên núi là hơn.
Bình nói:
- Tham quân tính sai rồi, đóng trại giữa đường đi, đào hào đắp lũy chấn ngang thì quân giặc dẫu có 10 vạn cũng không thoát qua lọt. Chớ bỏ ngã năm xung yếu này mà lên núi đóng đồn, nếu quân Ngụy ào đến bổ vây bốn mặt thì chống làm sao?
Thốc cười ha hả:
- Ngươi liệu tính không khác gì... đàn bà! Binh pháp có dạy: "Từ trên cao nhìn xuống, đánh địch dễ như chẻ tre". Nếu quân Ngụy đến đây, ta sẽ đánh cho không còn mảnh giáp.
Bình lại cãi:
- Trái núi này thật là chỗ tuyệt địa. Quân Ngụy cứ chặn đứt đường lấy nước thì quân ta chẳng đánh cũng rối loạn ngay.
Thốc gạt đi:
- Đừng bàn nhảm như thế! Tôn Tử có nói: "Lăn vào chỗ chết mà tìm được cái sông". Nếu quân giặc chặn đường lấy nước thì quân ta cũng liều mình tử chiến, một người địch nổi trăm tên. Ta học binh thư đã chán ra rồi. Mọi việc đến Thừa Tướng còn phải hỏi ta nữa là! Sao ngươi cứ cản trở ta vậy?
Bình đành phải khuyên:
- Nếu Tham Quân nhất định đóng đồn trên núi thì xin chia binh cho tôi đóng một trại nhỏ dưới chân núi phía tây, làm thế "ỷ dốc". Quân Ngụy đến, ta có thể cứu ứng lẫn nhau.
Nhưng Thốc vẫn không nghe. Bỗng thấy dân cư trong núi rầm rộ đổ ra, kéo từng tốp chạy đến, nháo nhác kêu rằng: "Giặc sắp đến nơi". Vương Bình sốt ruột toan bỏ đi. Mã Thốc bảo:
- Ngươi đã không chịu nghe lịnh, giờ quân Ngụy sắp đến rồi, vậy ta cho ngươi 5 ngàn binh, cứ đi mà đóng trại tùy ý. Rồi đây khi phá xong quân giặc, về trước mặt Thừa Tướng, ngươi đừng mong chia công với ta.
Bình chẳng nói gì nữa, kéo ngay 5 ngàn binh xuống cách xa chân núi 10 dặm rồi hạ trại, rồi lập tức vẽ thành bản đồ, sai người đi suốt đêm về trình Khổng Minh, bẩm rõ mọi việc Mã Thốc tự ý đóng đồn trên núi...
Khổng Minh đặt bản đồ lên án, mở xem qua một lượt bỗng ông đập tay xuống ánh đánh "bùng", kinh hãi kêu lên:
- Chết chưa! Mã Thốc ngu dốt, hãm quân ta vào chỗ nguy rồi.
Đoạn vội cho người thay Mã Thốc. Nhưng chưa kịp thì có tin cấp báo: "Nhai Đình và Liệt Liễu thất thủ cả rồi". Khổng Minh giậm chân đập gối than rằng:
- Ôi thôi, việc lớn hỏng rồi! Đây là lỗi tại ta!
Mã Thốc phải nhờ Vương Bình, Cao Tường, Ngụy Diên đem binh tiếp ứng mới được toàn mạng.
Thốc bị xử tử theo quân pháp.
Khi võ sĩ dâng đầu Mã Thốc dưới thềm, Khổng Minh òa lên khóc! Có người hỏi:
- Mã Ấu Thường phạm tội bất khả dung. Thừa tướng đã giết đi để minh chính phép quân, sao còn sầu não?
Khổng Minh sụt sùi nói:
- Có phải ta khóc Mã Thốc đâu! Vì ta nhớ lại tiên đế lâm chung ở Bạch Đế Thành, đã dặn ta rằng: "Mã Thốc là kẻ hay nói quá sức mình, không nên giao cho việc lớn". Nay quả đúng như thế. Ta càng giận mình ngu tối, lại càng nhớ đến đức sáng suốt của tiên đế, cho nên đau lòng mà khóc vậy!
__________________
http://Taochu.Uhm.vN
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #124  
Old 08-19-2007, 01:29 PM
TT_LưuLyTím_TT's Avatar
TT_LưuLyTím_TT TT_LưuLyTím_TT is offline
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Bài gởi: 7,757
Default

Lễ tang
Lễ tang là lễ đặt ra để tỏ lòng thương trọng và kính thờ người chết.
Theo Khổng Tử thì trị thiên hạ "trọng nhứt là ba việc: ăn, tang và tế" (Sở trọng giả, thực tang tế). Theo Mạnh Tử thì: "Đạo trị thiên hạ cần nhứt là khiến dân nuôi người sống và tang người chết mà không có điều di hám" (Dưỡng sinh tang tử vô hám, vương đạo chi thủy giả). Bởi thế ở xã hội Việt Nam cũng như ở xã hội Trung Hoa, lễ tang còn có phong tục và lễ nghi phiền phức hơn việc hôn nhân nữa.
Việc tang trọng nhứt là tang cha mẹ.
Khi cha mẹ hấp hối thì phải đem ngay ra giữa nhà để tỏ rằng cha mẹ chết vì lẽ quang minh chính đáng. Bấy giờ phải đặt tên thụy, tục gọi là tên hèm hay tên cúng cơm, rồi thưa cho cha mẹ biết. Đoạn lấy một mảnh lụa trắng dài 7 thước để lên mặt, sau khi kết thành hình người gọi là hồn bạch để hồn người chết tựa vào đó. Khi tắt hơi thì người nhà lấy một chiếc khăn tay hay một tờ giấy phủ trên mặt, khiêng xác đặt xuống đất rồi lại khiêng lên giường, có ý để cho người hấp thụ sinh khí của đất may ra có sống lại được. Đoạn một người cầm cái áo của người chết, tay tả cầm cổ, tay hữu cầm lưng, do đường trước trèo lên mái nhà để gọi tên và hú hồn người chết ba lần, rồi do đường sau nhà mà xuống. Đó là lễ phục hồn. Bấy giờ con cháu mới khóc và thay bỏ hết đồ trang sức mà quấn tóc và đi chân không, cùng ăn cháo để tỏ lòng đau thương.
Sau khi lập người tang chủ (thường là người con trưởng, là cháu trưởng thừa trọng) và người chủ phụ (vợ người chết hay vợ tang chủ) thì phải lo việc trị quan, nghĩa là sửa soạn quan tài theo nghi tiết nhứt định, rồi tắm gội và thay quần áo mới cho người chết để sắp sửa làm lễ phạm hàm. Lễ này, người nhà dùng một chén gạo nếp và ba đồng tiền, chia ra ba lần mà bỏ vào miệng người chết. Bấy giờ đến lễ tiểu liệm (một mảnh dọc, ba mảnh ngang) và đại liệm (một mảnh dọc, năm mảnh ngang), theo nghi tiết mà lấy vải bọc lấy xác người chết cho kín.
Khi nhập quan, con cháu sắp hàng ở trước quan tài để khóc và làm lễ. Những người giúp việc khiêng xác bỏ vào quan rồi khiêng quan đặt ở giữa nhà. Từ bây giờ, con cháu phải trải rơm ở hai bên linh cữu và thay phiên nhau ngồi hầu suốt đêm ngày.
Khi đặt cữu đã xong, nhà giàu sang thì đặt linh sàng ở phía đông có đủ mùng màn chăn gối. Nhà hẹp thì chỉ đặt linh tọa ở trước cữu mà thôi. Cứ sáng và tối thì làm lễ triêu tịch điện, rước hồn bạch ở linh sàng ra linh tọa, rồi lại rước từ linh tọa vào linh sàng.
Trước khi làm lễ thành thục, phải lập minh tinh là thứ cờ hiệu bằng lụa đỏ có chữ ghi họ tên, chức tước cùng thụy hiệu chết bằng phấn trắng. Khi làm lễ thành phục thì con cháu người chết theo nghi tiết phủ phục mà mặc đồ tang, rồi quỳ lạy và khóc trước linh cữu.
Đồ tang phục có năm bực gọi là ngũ phục.
Áo đại tang để cha mẹ là áo trảm thôi (vải sô chặt bằng dao chớ không dùng kéo hay sổ gấu có mảnh vải đính ở sau lưng (phụ phiến), hai mảnh đính ở hai vai (thích). Ở lưng thắt một dây chuối hai vòng, ngoài phủ một cái áo rộng bằng vải sô. Trên đầu có một cái khăn bằng vải sô bỏ múi sau gáy. Con trai có mũ vành bằng bẹ chuối (mũ nùn) và gậy tre đẽo tròn nếu tang cha hay gậy vông đeo vuông nếu tang mẹ. Gái thì đội mũ nhọn (mũ mấn) bằng vải to che kín cả mặt.
Nếu mẹ chết trước cha, thì con để tang là áo cũng may theo kiểu trảm thôi (sổ gấu) nhưng gấu có viền qua loa. Về tang ông bà, chị em, anh em, chú bác cô dì thì tùy theo thứ tự thân sơ mà may đồ cơ phục (để một năm), đồ đại công (để chín tháng) bằng vải to, đồ tiểu công bằng vải hơi thô và đồ ti ma (để ba tháng) bằng vải nhỏ.
Trước khi tống táng thì làm lễ thiên cữu (dời cữu đi chỗ khác hoặc xích đi một chút), và lễ yết tổ tức rước hồn bạch đến từ đường để cáo tổ tiên.
Đến ngày phát dẫn thì làm lễ khiển diện tức là lễ tiễn biệt, rồi rước linh cữu đến đại dư. Khi phát dẫn thì đi trước hết là phương tướng (người mặc áo mũ đạo sĩ, đeo nạ cầm dao) để khu trục tà quỷ; thứ đến có cờ đan triệu viết chữ "trung tín" (nếu đàn ông) hoặc "trinh thuận" (nếu đàn bà) bằng phấn trắng; thứ đến là các đồ minh khí cùng đối trướng của người phúng điếu, kế đến minh tinh, linh xa rước hồn bạch, rồi đến đại dư. Con trai thì chống gậy tre (tang cha), hoặc gậy vông (tang mẹ) đi lùi ở trước linh cữu. Còn con gái, dâu thì đi theo sau linh cữu trong một cái màn trắng (bạch mạc). Sau cùng là các người tôn trưởng họ hàng và bằng hữu đi đưa.
Dọc đường, con gái con dâu có lệ là thỉnh thoảng phải nằm lăn xuống đường khóc lóc kể lể để cỗ đại dư vượt qua. Người ta lại rắc những thoi vàng giấy để đánh dấu lối cho linh hồn người chết mà biết lối về.
Đám tang nhà phú quý, dọc đường thỉnh thoảng có làm trạm trung đồ (đạo trung) để dừng linh cữu lại làm điện tế. Đến huyệt lại có trạm để tế hạ huyệt. Trước khi hạ huyệt thì làm lễ tế Thổ thần. Khi đặt quan tài vào huyệt thì có thầy phong thủy phân kim lấy hướng, trải minh tinh lên mặt quan tài rồi cho đắp mồ. Đắp xong thì làm lễ thành phần. Đoạn rước hồn bạch hay thần chủ vào linh xa về nhà rồi đưa lên linh tọa. Sau đó làm lễ phản khốc (khóc lại) và lễ sơ ngu (cầu cho vong hồn được an tĩnh). Sau gặp ngày nhu nhựt (ất, đinh, tỵ, tân, quý) thì làm lễ tái ngu; gặp ngày cương nhựt (thân, bính, tuất, canh, nhâm) thì làm lễ tam ngu.
Tống táng được ba ngày thì phải ra thăm mộ, làm lễ "mở cửa mả". Rồi cứ 7 ngày làm một tuần chay cho đến 49 ngày thì làm lễ chung tất, cùng lễ 50 ngày và 100 ngày. Được một năm thì làm lễ tiểu tường (giỗ đầu), sau một năm nữa thì làm lễ đại tường (giỗ hết). Được 27 tháng thì làm lễ đoạn tất hay lễ trừ phục (mãn tang). Từ đấy về sau cứ hàng năm đến ngày kỵ lại phải làm lễ, cho đến khi người chết lên đến bực tổ ngũ đại thì chôn thần chủ rồi thờ chung ở từ đường, chớ không làm giỗ riêng nữa. Trong khoảng tiểu đại tường, cứ đến tuần trung nguyên (rằm tháng bảy), người ta thường đốt đồ mã cho người chết hai kỳ. Kỳ đầu gọi là mã biếu (quỷ sứ), kỳ sau mới thực cho người chết dùng. Có nhiều nơi, người ta đốt đồ mã vào kỳ giỗ đầu và giỗ hết.
Tục đốt mã nguyên theo tục xưa chôn đồ dùng thật kèm với người chết, sau mới thay bằng đồ giấy. Người ta tin rằng người chết xuống âm phủ cũng tiêu dùng tiền và quần áo nên phải đốt đồ mã để cho người chết khỏi thiếu thốn. Bởi theo mê tín và lý luận đơn giản, người ta cho rằng: "Dương sao thì âm vậy".
Về đại tang thì sau khi chôn cất yên rồi, con cháu đem mũ gậy và áo rộng treo ở bên linh tọa. Khi làm lễ thì mới dùng đến. Lúc thường thì chỉ mặc quần áo và chít khăn tang mà thôi. Trong thời hạn đại tang, người con còn phải ăn ở theo lễ. Theo sách Gia lễ: khi con cái có tang cha mẹ phải nằm rơm gối đất, không được vui chơi, không được nghe đàn hát, ăn uống thịt rượu, không được kết hôn, phải kiêng phòng sự (đàn bà có thai trong kỳ đại tang thì phải vạ). Người đương làm quan mà gặp đại tang thì phải xin nghỉ để cư tang, hết hạn mới xin bổ lại.
Sau ba năm đoạn tang, hoặc vài năm sau nữa, người ta thường cải táng. Khi ấy phải mời thầy phong thủy tìm lấy huyệt tốt rồi làm lễ bốc mả (cải táng). Trước hết là khai mả nhặt lấy xương xếp vào một cái tiểu sành rồi đậy thực kín. Nhà giàu sang thì dùng quan quách khâm liệm như khi hung táng.
Tục cải táng ở miền Bắc rất phổ thông, người ta thường gọi là làm ma khô, đối với lễ hung táng là làm ma tươi. Từ Hoành Sơn trở vào Nam thì trừ khi người ta tưởng rằng mộ động thì phải cải táng, còn thường thì chôn cất một lần là xong.
Lễ tang rất phiền phức. Tục lệ tang ma khôn dứt bỏ được dễ dàng vì tôn giáo, luân lý, nghi lễ, phong tục và luật lệ phối hợp lại gây nên một áp lực mạnh mẽ, thúc bách cá nhân phải tuân theo. Trừ khi dân trí tiến bộ bớt mê tín và khi điều kiện sinh hoạt thay đổi hẳn. Cho nên ta đã thấy.
Từ khi người chết vừa tắt hơi cho đến lễ đạm tất thì mỗi lần làm lễ phải có thầy phù thủy hay thầy tu tụng kinh và làm phép. Nếu ngày chết là ngày xấu, như ngày trùng tang trùng phục thì người ta phải tìm thầy phù thủy làm phép, đại khái là bỏ bùa vào quan tài và yểm bùa ở cửa để hung sát sợ mà không dám làm hại; hoặc làm chay, lập đàn cúng lễ. Những kẻ chết oan, chết trẻ chưa thành gia thất, những kẻ bất đắc kỳ tử đều là những thứ ma thiêng hay hãm hại người sống nên muốn trừ tai ách, người ta phải làm chay để siêu độ vong hồn hoặc để giải oan.
Những thứ phiền toái này làm tê ngừng dòng tình cảm giữa người sống và người chết cùng huyết thống của một ông tổ. Đúng như điều nhận xét của dân chúng vốn thiết thực, nhưng không thể chống lại được sức mạnh của những "sự vật đã thành" mà họ vẫn ngấm ngầm phản đối:
Sống thì hít hít, hôn hôn,
Chết thì bùa yểm, bùa chôn, bùa trừ!...
hoặc:
Sống thì chả được cho ăn,
Chết thì làm giỗ, làm văn tế ruồi.
__________________
http://Taochu.Uhm.vN
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #125  
Old 08-19-2007, 01:30 PM
TT_LưuLyTím_TT's Avatar
TT_LưuLyTím_TT TT_LưuLyTím_TT is offline
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Bài gởi: 7,757
Default

Thôi xao
"Thôi" là "đẩy".
"Xao" là "gõ".
Giả Đảo là một nhà sư giỏi thơ đời Đường. Một hôm trăng sáng, sư cưỡi lừa thong thả trên con độc đạo, định đến thăm nhà một người bạn. Cảnh vắng, trăng thanh, chim đậu trên cành cây bên bến nước, bóng người chiếu xuống mặt nước đầm, sư thấy lòng thơ lai láng, tức cảnh ngâm:
Điểu túc trì biên thọ.
Tăng thôi (xao) nguyệt hạ môn.
Độc hành đàm để ảnh,
Sác tức thụ biên thân.
Tạm dịch:
Chim đỗ cây bến nước,
Sư đẩy (gõ) cửa dưới trăng.
Mình đi bóng chiếu xuống,
Tựa cây mà thở than.
Giả Đảo ngâm đi ngâm lại, nhận thấy chữ "thôi" trong câu "Tăng thôi nguyệt hạ môn" không được ổn, nên đổi lại "xao". Nhưng cũng không vừa ý. Ông đọc "thôi" rồi lại "xao", lại đọc "xao" rồi đọc "thôi". Rốt cuộc ông phân vân không biết dùng chữ nào cho thích hợp.
Ông tức quá, bước xuống lừa, đứng giữa đường đi, đưa tay đẩy (thôi) rồi gõ (xao), gõ rồi đẩy giả như đứng trước nhà bạn vậy. Ông cứ làm như thế mãi mà không thấy phải dùng chữ nào.
Hàn Dũ vì can vua nên bị giáng chức tại triều ra làm thứ sử ở Triều Châu. Buồn cho thân thế, thấy trăng thanh gió mát nên cũng thong thả dạo chơi. Xa xa thấy một nhà sư đứng bên con lừa, tay lúc đưa tới đưa lui, lúc đưa qua đưa lại như thằng điên thì rất lấy làm lạ. Hàn lần bước đến gần lên tiếng, nhà sư mới giựt mình ngừng lạị Hàn Dũ hỏi thì Giả Đảo thuật lại sự tình. Hàn bật cười và bàn: "Nên dùng chữ "Xao" (gõ) là đúng hơn".
Giả Đảo đồng ý nên câu "Tăng thôi nguyệt hạ môn" đổi ra "Tăng xao nguyệt hạ môn".
Hai tiếng "thôi xao", trong văn chương ngày nay để chỉ là "chọn chữ làm văn thơ". Đây cũng là một gương sáng cho những người làm thơ, làm văn phải chọn chữ cho xác đáng, thích hợp. Chớ không được dùng từ ngữ "ẩu"!
Ta cũng có thành ngữ: "Nghĩ ra một chữ rụng mấy sợi râu", cũng đồng một ý nghĩa như trên. Giả Đảo lại có một bài thơ:
Nhị cú tam niên đắc,
Ngâm thành son lệ lưu.
Tri âm như bất thưởng,
Qui ngọa cố sơn thu.
Dưới đây là bản dịch của Hoài Nam Tử:
Ba năm được hai câu,
Ngâm lên giọt lệ trào,
Tri âm bằng chẳng hiểu,
Về ẩn chốn non cao.
__________________
http://Taochu.Uhm.vN
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #126  
Old 08-19-2007, 01:31 PM
TT_LưuLyTím_TT's Avatar
TT_LưuLyTím_TT TT_LưuLyTím_TT is offline
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Bài gởi: 7,757
Default

Tựa cửa, tựa cổng
"Tựa cửa", "tựa cổng" do chữ "Ỷ môn", "Ỷ tư".
Nhạc Nghị là tướng nước Yên đời Chiến Quốc đem quân đánh Tề, hạ được 72 thành. Tề chỉ còn 2 thành là Cử Châu và Tức Mặc. Tề Mẫn vương thua chạy ra Cử Châu, có quan đại phu là Vương Tôn Giả hộ giá.
Vương Tôn Giả mới 12 tuổi, chỉ còn mẹ già, Mân vương thương cho làm quan. Tôn Giả theo phò Mân vương đến nước Vệ thì cả hai lạc nhau. Giả chẳng biết Mân vương ở đâu, bèn lẻn về nhà. Bà mẹ trông thấy hỏi vua Tề ở đâu, Giả nói:
- Con theo vua đến nước Vệ, nửa đêm vua tôi cùng bỏ trốn, rồi không biết vua đi ngả nào.
Bà mẹ giận, nói:
- Mày sớm đi chiều về thì ta đứng tựa cửa mà mong; mày chiều đi mà không về thì ta đứng tựa cổng mà mong. Vua mong bề tôi có khác gì mẹ mong con. Mày làm tôi vua Tề, vua ban đêm chạy trốn, mày không biết vua đi đâu, sao lại bỏ về?
Giả thẹn quá, lại từ biệt mẹ già đi tìm vua Tề, nghe vua ở Cử Châu, đến ngay để tìm. Nhưng khi đến đó mới biết vua Tề bị Tướng quốc Tề là Trác Xỉ mưu phản, tư thông với Nhạc Nghị giết chết vua Tề. Giả bèn trần tay áo bên tả ra hô hào ở ngoài chợ:
- Trác Xỉ làm tướng Tề mà giết vua, thế là làm tôi bất trung. Nếu ai bằng lòng giết kẻ có tội ấy thì theo ta cùng trần tay áo bên tả.
Người trong chợ cùng bảo nhau: "Người ấy ít tuổi mà có lòng trung nghĩa, chúng ta ai là người hiếu nghĩa, tưởng đều nên theo". Chỉ trong một chốc có đến hơn bốn trăm người cùng trần tay áo bên tả.
Trác Xỉ, trước vốn tướng nước Sở. Khi Tề bại trận có sai sứ sang cầu viện vua Sở tiếp cứu, hứa cắt dâng cả đất Hoài Bắc cho Sở để đền ơn. Vua Sở sai đại tướng Trác Xỉ mang 20 vạn quân lấy cớ đi cứu Tề, sang Tề nhận đất, nhưng lại mưu mẹo dặn Xỉ cứ liệu chừng mà thi hành, hễ có lợi cho Sở thì làm ngay. Xỉ được Tề Mân vương lập làm tướng quốc. Quyền hành đều về tay Xỉ.
Xỉ thấy quân Yên thế mạnh, sợ cứu Tề vô công, bèn mật sai sứ tư thông với Nhạc Nghị, định giết Mân vương rồi cùng Yên chia đất Tề, và yêu cầu Yên để cho mình làm vua. Tướng Yên là Nhạc Nghị ưng chịu.
Trác Xỉ mừng quá, bèn dàn quân ở Cổ Lý, mời Mân vương đến duyệt binh, đoạn bắt Mân vương rút gân treo lên nóc nhà. Sau ba ngày, Mân vương mới tắt hơi. Xỉ liền về Cử Châu, muốn tìm thế tử vua Tề mà giết nốt nhưng tìm không được. Xỉ liền làm biểu tâu với vua Yên kể công mình, nhờ Nhạc Nghị chuyển đệ cho.
Giữa lúc ở Cử Châu, Trác Xỉ vào cung vua Tề uống rượu say sưa, truyền mỹ nữ tấu nhạc làm vui. Quân Sở đông nhưng đều đóng ở ngoài thành, chỉ có vài trăm quân dàn hầu ở cửa cung. Vương Tôn Giả đem 400 người xông vào cướp khí giới của quân lính, tiến vào cung bắt được Trác Xỉ. Xỉ bị xả thây, bằm nát thành nước thịt. Quân Sở không có chủ tướng, một nửa bỏ trốn, một nửa đầu hàng nước Yên.
Vương Tôn Giả truyền đóng chặt cửa thành, cố giữ.
Lời nói của bà mẹ Vương Tôn Giả: "Mày sớm đi chiều về thì ta đứng tựa cửa mà mong; mày chiều đi mà không về thì ta đứng tựa cổng mà mong...", nguyên văn: "Nhữ triêu xuất nhi vãn lai, tắc ngô ỷ môn nhi vọng; mộ xuất nhi bất hoàn, tắc ngô ỷ lư nhi vọng". Do đó, nên sau trong văn chương, người ta thường dùng chữ "ỷ môn, ỷ lư" (tựa cửa, tựa cổng) để chỉ sự cha mẹ trông con.
Trong tác phẩm "Chinh phụ ngâm", bản dịch nôm của bà Đoàn Thị Điểm, đoạn nói về tình gia thất của khách chinh phu, có câu:
Lòng lão thân buồn khi tựa cửa,
Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm.
Trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, lúc Kiều ở lầu Ngưng Bích của mụ Tú Bà, nàng nhớ quê hương, nhớ tình nhân, nhớ cha mẹ, cũng có câu:


Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
"Tựa cửa" là do điển tích trên.
Riêng có chữ "hôm mai" đi theo chữ "tựa cửa" là vì trong chữ sách, mẹ của Vương Tôn Giả có nói đến việc con đi buổi mai và buổi chiều (triêu xuất, mộ xuất).
__________________
http://Taochu.Uhm.vN
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #127  
Old 08-19-2007, 01:31 PM
TT_LưuLyTím_TT's Avatar
TT_LưuLyTím_TT TT_LưuLyTím_TT is offline
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Bài gởi: 7,757
Default

Tứ Thư
Tứ Thư và Ngũ Kinh là những bộ sách làm nền tảng cho Nho giáo. Sách này vừa là kinh điển của các môn đồ đạo Nho, vừa là những tác phẩm văn chương tối cổ của nước Tàu.
Tứ Thư (bốn sách) gồm có Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử.
1/ Đại học là sách của bực "đại học" cốt dạy cái đạo của người quân tử. Sách chia làm hai phần:
a/ Phần đầu gọi là Kinh, chép lời đức Khổng Tử có 1 chương.
b/ Phần cuối gọi là Truyện, lời giảng giải của Tăng Tử là môn đệ của Khổng Tử có 10 chương.
Mục đích bực đại học hay tôn chỉ của người quân tử, đã tóm tắt ở câu đầu sách là: "Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện". Nghĩa là: "Cái đạo của người theo bực đại học là cốt làm sáng cái đức sáng (đức tốt) của mình, cốt làm mới (ý nói cải hóa) người dân, cốt dừng lại ở cõi chí thiện". Vậy người quân tử trước phải sửa sang đức mình cho hay, rồi lo dạy người khác nên hay, và lấy sự chí thiện làm cứu cánh.
Mục đích đã vậy, phương pháp phải thế nào? Con người phải sửa mình trước (tu thân), rồi mới chỉnh đốn việc nhà (tề gia), cai trị việc nước (bình thiên hạ). Phương pháp này phải tuần tự tiến hành là tự mình đến người ngoài, mà điều cốt yếu nhứt là việc sửa mình. Vì vậy trong Đại Học có câu: "Tự thiên tử dĩ chí ư thứ dân, nhứt thị giai dĩ tu thân vi bản". (Từ vua đến thường dân, ai ai cũng đều lấy việc sửa mình làm gốc).
Vậy muốn sửa mình phải thực hành cách nào? Trước hết phải cách vật (thấu lẽ mọi sự vật), rồi phải trí tri (biết cho đến cùng), thành ý (phải thành thực), chánh tâm (lòng phải ngay thẳng). Thực hành bốn điều này thì sẽ tu được thân, rồi tề được nhà, trị được nước và bình được thiên hạ, mà làm tròn được cái đạo của người quân tử.
2/ Trung Dung là sách gồm những lời tâm pháp của đức Khổng Tử do học trò ngài truyền lại, rồi sau thầy Tử Tư là cháu của ngài chép thành sách, gồm có 33 chương.
Thầy Tử Tư dẫn những lời nói của Khổng Phu Tử đã giảng về đạo trung dung, có cho rằng: Trung hòa là tính tình tự nhiên của trời đất mà trung dung là đức hạnh của con người. Trung là giữa, không lệch về bên nào; dung là thường, nghĩa là dùng đạo trung làm đạo thường. Muốn theo đạo này cốt phải có cái đạo đức: trí, nhân và dũng. Trí để biết rõ các sự lý, nhân để hiểu điều lành mà làm, dũng là có cái khí cường kiện mà thực hành theo điều lành đến cùng.
Đạo người là phải cố gắng để đạt đến bực chí thánh. Phải học cho rộng, xét hỏi cho kỹ, nghĩ ngợi cho sâu, biện biệt điều phải trái cho rõ và dốc lòng làm điều thiện cho đến cùng. Nếu ai làm được như thế thì ngu thành sáng, yếu thành mạnh, tức là dần lên đến bực chí thánh. Trong thiên hạ chỉ có bực chí thánh mới hiểu rõ cái tính của Trời. Biết rõ cái tính của Trời thì biết được cái tính của người. Biết rõ cái tính của người thì biết được cái tính của vạn vật. Biết rõ cái tính của vạn vật thì khả dĩ giúp được sự hóa dục của trời đất và có công ngang với trời đất vậy.
Sách Trung Dung nói về đạo của thánh hiền vốn căn bản của Trời, rồi giải diễn ra hết mọi lẽ, khiến cho con người phải giữ mình cho kính cẩn trong khi hành động và khi im lặng một mình.
Tóm lại, Trung Dung thuộc về loại sách triết lý rất cao.
3/ Luận Ngữ là quyển sách chép những lời nói của đức Khổng Tử khuyên dạy học trò, hoặc những câu chuyện của ngài nói với những người đương thời về nhiều vấn đề (luân lý, triết lý, chính trị, học thuật) do các môn đệ của ngài sưu tập lại.
Sách chia làm hai quyển (thượng, hạ) gồm có 20 thiên (mỗi thiên lấy 2 chữ đầu đặt tên). Các chương không có liên lạc, hệ thống gì nhau.
Sách Luận Ngữ có thể cho là quyển sách dạy đạo người quân tử một cách thực tiễn và mô tả tính tình, cử chỉ, đức độ của đức Khổng Tử, như phác họa một mẫu mực hoạt động cho người đời sau noi theo.
Sách này cho ta biết được nhiều câu cách ngôn xác đáng về đạo người quân tử. Còn cho ta nhận thấy phẩm cách cao thượng (hồn hậu, thành thực, khiêm cung, khoái hoạt) của đức Khổng Tử biểu lộ qua những chuyện ngài nói với học trò. Sách này chẳng những cho ta thấy được cảm tình phong phú và lòng ái mỹ mà còn là khoa sư phạm của Khổng Tử. Trong những lời khuyên dạy chuyện trò với học trò, ngài tỏ ra là một ông thầy hiểu thấu tâm lý học trò và khéo làm cho lời dạy bảo của mình thích hợp với trình độ, cảnh ngộ của mỗi người. Có khi cùng là một câu hỏi mà ngài trả lời khác, tùy theo tư chất và chí hướng của từng người.
4/ Mạnh Tử là tên bộ sách do Mạnh Tử viết. Sách gồm có 7 thiên. Các chương trong mỗi thiên thường có liên lạc với nhau và cùng bàn một vấn đề.
Sách này cho ta nhận thức được tư tưởng của Mạnh Tử về các vấn đề:
Về luân lý, ông xướng lên thuyết tính thiện để đánh đổ cái thuyết của người đương thời (như Cáo Tử) cho rằng tính người không thiện không ác. Theo ý ông, thiên tính con người vốn thiện, ví như tính nước vốn chảy xuống chỗ thấp; sỡ dĩ thành ác là vì làm trái thiên tánh, ví như ngăn nước cho nó chảy lên chỗ cao.
Tính người vốn thiện nhưng vì tập quán, vì hoàn cảnh, vì vật dục làm sai lạc đi, hư hỏng đi, vậy cần phải có giáo dục để nuôi lấy lòng thiện, giữ lấy bản tính. Những điều cốt yếu trong việc giáo dục là: dưỡng tính (giữ lấy thiện tính), tồn tâm (giữ lấy lòng thành), trì chí (giữ chí hướng cho vững). Và, ông thường nói đến phẩm cách của người quân tử mà gọi là đại trượng phu hoặc đại nhân. Bực này phải có bốn điều là: nhân, nghĩa, lễ và trí.
Về chính trị, ông cho rằng bực làm vua trị dân phải trọng nhân nghĩa chớ đừng trọng tài lợi thì mới tránh được sự biến loạn và chiến tranh. Ông cũng lưu tâm đến vấn đề kinh tế. Ông cho rằng người có hằng sản rồi mới có hằng tâm, nghĩa là người ta có của cải đủ sống một cách sung túc thì mới sinh ra có lòng tốt muốn làm điều thiện, và có phương tiện để thực hiện điều thiện ấy. Vậy bổn phận kẻ bề trên là phải trù tính sao cho tài sản của dân được phong phú, rồi mới nghĩ đến điều dạy dân và bắt dân làm điều hay được. Ông lại chỉ cho các vua chúa những phương lược để làm cho việc canh nông, mục súc, công nghệ của dân được phát đạt.
Mạnh Tử không những là một nhà tư tưởng lỗi lạc mà còn là một văn gia đại tài. Văn của ông rất hùng hồn và khúc chiết. Ông biện luận điều gì cũng rạch ròi, sắc cạnh. Ông hay nói thí dụ. Muốn cho ai hiểu điều gì, muốn bắt ai chịu phục lẽ gì, ông thường dẫn những thí dụ mượn ở sự vật cho người ta dễ nhận xét. Ông lại thường dùng thể ngụ ngôn hoặc kể những câu chuyện ngắn để diễn đạt tư tưởng cho người nghe vui thích và dễ nhận cái hàm ý của ông.
Tóm lại, bộ Tứ Thư là bộ sách gồm những điều cốt yếu của Nho giáo. Ai muốn hiểu rõ đạo giáo ấy tất phải nghiên cứu.
__________________
http://Taochu.Uhm.vN
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #128  
Old 08-19-2007, 01:32 PM
TT_LưuLyTím_TT's Avatar
TT_LưuLyTím_TT TT_LưuLyTím_TT is offline
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Bài gởi: 7,757
Default

Ngũ Kinh
Ngũ Kinh (năm quyển sách) cũng như Tứ Thư là những sách làm nền tảng của Nho giáo. Nguyên trước có sáu kinh nhưng vì sự đốt sách của Tần Thủy Hoàng (246-209 trước D.L.), một kinh là kinh Nhạc (âm nhạc) bị mất đi. Kinh này chỉ còn lại một thiên, sau đem vào sách Lễ ký (kinh Lễ), đặt là thiên Nhạc ký.
Ngũ Kinh là:
1/ Thi (thơ), do đức Khổng Tử sưu tập và lựa chọn. Kinh này vốn là những bài ca dao ở nơi thôn quê và nhạc chương nơi triều miếu của nước Tàu về thời thượng cổ.
Nguyên trước có đến ba ngàn thiên. Sau, đức Khổng Tử san định lại hơn ba trăm chương và theo ý nghĩa các thiên, sắp đặt thành bốn phần. Đến đời Tần Thủy Hoàng, kinh Thi cũng như các kinh khác, bị đốt nhưng có nhiều nhà nho còn nhớ. Đến thế kỷ thứ hai trước Dương lịch, về đời nhà Hán có bản kinh Thi xuất hiện, đại thể giống nhau, duy chữ viết có khác. Truyền lại đến nay là bản của Mao Công (tức Mao Trường).
Kinh Thi có bốn phần gồm 305 thiên (bài thơ). Trong đó có 6 thiên chỉ truyền lại đề mục mà không còn bài. Mỗi thiên lấy vài chữ chính trong thiên làm đề mục và chia làm nhiều chương. Bốn phần trong kinh Thi là: Quốc phong, Tiểu nhã, Đại nhã và Tụng.
Quốc phong là những bài ca dao của dân các nước chư hầu đã được nhạc quan của nhà vua sưu tập lại: Quốc là nước (đây là các nước chư hầu về đời nhà Chu); phong nghĩa đen là gió, ý nói các bài hát có thể gợi cảm con người như gió làm rung động các vật.
Quốc phong gồm có Chính phong và Biến phong. Chính phong phân làm 2 quyển Chu Nam và Thiệu Nam, gồm những bài hát từ trong cung điện nhà vua truyền ra khắp dân quân. Biến phong gồm những bài hát của 13 nước chư hầu khác.
Tiểu nhã gồm những bài hát dùng ở nơi triều đình, nhưng chỉ dùng trong những trường hợp thường như khi có yến tiệc.
Đại nhã chỉ những bài hát dùng trong những trường hợp quan trọng như thiên tử họp các vua chư hầu hoặc tế ở miếu đường.
Tụng nghĩa là khen, gồm những bài ngợi khen các vua đời trước và dùng để hát ở nơi miếu đường.
Các bài trong Kinh Thi thường viết theo thể thơ 4 chữ (thỉnh thoảng có câu 3 chữ hoặc 5 chữ). Cách kết cấu các bài làm theo ba thể: phú, tỉ, hứng.
Đọc Kinh Thi, ta biết được tính tình, phong tục của người dân và chính trị các đời vua cùng các nước chư hầu ở nước Tàu về đời thượng cổ. Đọc Mân phong, ta biết được tính đức cần kiệm người dân đất Mân. Đọc Vệ phong, ta biết được thói dâm bôn của người dân nước Vệ. Đọc Tần phong, ta biết được sự hối quá của người dân nước Tần. Đọc Đại nhã, Tiểu nhã, ta biết được chính trị của nhà Chu thịnh suy thế nào.
Kinh Thi là một nguồn thi hứng: các thi sĩ thường mượn đề mục. Kinh Thi còn là một kho điển tích. Các nhà làm văn thường lấy điển hoặc lấy chữ ở đây. Cũng như ca dao của Việt Nam, Kinh Thi là nền tảng thơ tối cổ của Trung Hoa. Trong đó có nhiều bài mô tả tính tình, phong tục dân Tàu một cách chất phác, hồn nhiên.
2/ Thư (nghĩa đen là ghi chép), do đức Khổng Tử sưu tập. Kinh này chép những điển (phép tắc), mô (mưu mẹo, kế sách), huấn (lời dạy dỗ), cáo (lời truyền bảo), thệ (lời răn bảo tướng sĩ), mệnh (mạng lịnh) của các vua tôi bên Trung Hoa từ đời Nghiêu, Thuấn đến đời Đông Chu (từ năm 2357 đến năm 771 trước D.L.)
3/ Dịch (nghĩa đen là thay đổi) là bộ sách tượng số dùng về việc bói toán và sách lý học cốt giải thích lẽ biến hóa của trời đất và sự hành động của muôn vật. Nguyên vua Phục Hi (4480-4365 trước D.L.) đặt ra bát quái (tám quẻ, tức là 8 hình vẽ); tám quẻ ấy lại đặt lần lượt chồng lên nhau thành ra 64 trùng quái (quẻ kép). Mỗi trùng quái có 6 nét vạch (hoặc vạch liền biểu thị lẽ "dương", hoặc vạch đứt biểu thị lẽ "âm") gọi là hào, thành ra 384 hào. Đức Khổng Tử nhân đó mà giải nghĩa các quái, các trùng quái và các hào.
4/ Lễ Ký (chép về lễ) là sách chép các nghi lễ trong gia đình, hương đảng và triều đình. Hiện Kinh Lễ (Lễ Ký) còn truyền lại đến giờ phần nhiều là văn của Hán nho, chớ chính văn do đức Khổng Tử san định về đời Xuân Thu không còn mấy.
5/ Xuân Thu (mùa xuân và mùa thu) nguyên là sử ký nước Lỗ, do đức Khổng Tử san định lại, chép công việc theo lối biên niên từ năm đầu đời Lỗ Ẩn công đến năm thứ 15 đời Lỗ Ai công (từ năm 722 đến năm 481 trước D.L.). Kinh Xuân Thu cũng gọi là Kinh Lân, vì đức Khổng Tử chép lúc nước Lỗ săn được con lân què thì ngài dừng bút. (Loan rằng: "Sữ Mã kinh Lân" - cụ Nguyễn Đình Chiểu).
__________________
http://Taochu.Uhm.vN
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #129  
Old 08-19-2007, 01:32 PM
TT_LưuLyTím_TT's Avatar
TT_LưuLyTím_TT TT_LưuLyTím_TT is offline
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Bài gởi: 7,757
Default

Lợn người
"Lợn người" do chữ "nhân trệ" của Lữ hậu, vợ vua Hán Cao Tổ Lưu Bang đời Tây Hán.
Lữ hậu tên Lữ Trĩ lấy Lưu Bang lúc còn hàn vi. Lưu Bang dựng nghiệp nhà Hán phong Lữ Trĩ làm hoàng hậu. Nhà vua có người hậu phi tên Thích Cơ trẻ đẹp nên rất sủng ái. Một hôm, vua vào cung Thích Cơ bày yến tiệc. Uống say, vua nằm trên vế Thích Cơ ngủ vùi. Lữ hậu cho người dọ biết nên lên kiệu đi thẳng lại cung Thích Cơ. Kẻ tả hữu chạy vào phi báo, nhưng vì nhà vua nằm trên vế ngủ, nên Thích Cơ chẳng dám động, đành phải ngồi yên.
Lữ hậu bước vào thấy thế máu ghen càng sôi lên:
- Loài tiện tỳ thường vô lễ, nay ta vào cung của mi, sao mi dám ngồi trên cao, không đứng dậy là đạo lý chi vậy?
Thích Cơ sợ sệt thưa:
- Tôi thấy nương nương đến, há chẳng tiếp nghinh. Vì chúa thượng ngủ đương ngon giấc, tôi chẳng dám động nên mới thất lễ, xin nương nương tha tội.
Lữ hậu nghiến răng, mắng:
- Loài tiện tỳ, cứ lấy vua làm nể, chừng người có muôn tuổi rồi, ta sẽ nghiền mi nát ra tro cho mi coi.
Đoạn Lữ hậu quày quả bỏ đi.
Sau khi Hán Cao Tổ chết, Thích Cơ không người bảo bọc, ủng hộ nên Lữ hậu thừa dịp trả thù. Lữ truyền bắt Thích Cơ cùng một số cung nhân trước kia theo Thích Cơ, được nhà vua sủng ái đem ra hành hình một cách bi thảm rùng rợn. Lữ bắt họ phải uống thuốc câm, rồi chặt tay chân, khoét mắt, cắt tai, giam vào chuồng xí dơ bẩn. Họ đau đớn quá nhưng bị câm, không thốt ra tiếng người được nữa, chỉ tru lên những tiếng ú ớ u ơ rất thê thảm. Lữ hậu lại bắt mọi người gọi những nạn nhân ấy là lũ "nhân trệ" (lợn người).
Đời Tam Quốc, Lưu phu nhân là vợ của Viên Thiệu chúa chư hầu đất Hà Bắc... thấy 5 nàng hầu diễm lệ được chồng sủng ái thì phát ghen. Sau khi Thiệu chết, Lưu bắt 5 nàng ra giết chết cả. Lại sợ âm hồn các nàng về chín suối được tái ngộ với chồng, mụ còn sai người cạo tóc, vạt mặt, khoét mắt và băm vằm năm cái thây ma ấy ra như tương. Con mụ là Viên Thượng sợ có kẻ oán mà mưu hại, bèn sai bắt hết thân nhân gia thuộc của năm nàng này đem giết hết.
Sư tử Hà Đông trả thù thật khiếp.
Máu ghen lạ đời và tàn ác đến thế là cùng.
Đọc "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, diễn tả Hoạn Thư tuy ghen mà còn khá. Nàng Hoạn Thư ghen sâu sắc tế nhị chớ không tàn bạo như Lữ hậu, Lưu... hay những mụ tạt át xít vào mặt tình địch như thời nguyên tử.
__________________
http://Taochu.Uhm.vN
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #130  
Old 08-19-2007, 01:32 PM
TT_LưuLyTím_TT's Avatar
TT_LưuLyTím_TT TT_LưuLyTím_TT is offline
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Bài gởi: 7,757
Default

Tây Thi, Trịnh Đán
Tây Thi là một giai nhân tuyệt sắc ở nước Việt đời Chiến Quốc, có tiếng là "Lạc nhạn" trong "tứ đại mỹ nhân" ở cổ Trung Hoa.
Nàng xuất thân một gia đình nghèo, cha đốn củi, nàng dệt vải ở Trữ La Sơn. Trữ La có hai thôn: Đông thôn và Tây thôn, phần nhiều là họ Thi. Vì nàng ở về Tây thôn nên gọi là Tây Thi. Ở đây lại có nàng Trịnh Đán, bạn láng giềng Tây Thi, cũng là một mỹ nữ sắc nước hương trời. Nhà ở gần sông, ngày nào hai nàng cũng cùng nhau ra đập sợi ở ven sông. Má hồng nước biếc, hai bóng lộn nhau, trông hai đóa phù dung của buổi bình minh tươi đẹp.
Vua nước Việt là Câu Tiễn bại trận, phải cùng vợ sang làm người tù chăn ngựa cho vua nước Ngộ Sau khi được thả về, lòng uất ức căm hờn mong rửa được nhục thù. Đại phu Văn Chủng hiến 7 kế phá Ngộ Một trong 7 kế là đem mỹ nữ sang dâng để làm mê hoặc vua Ngô. Câu Tiễn liền thực hành ngay. Trong vòng nửa năm, tuyển được hai ngàn mỹ nữ, lại chọn hai người đẹp nhứt là Tây Thi và Trịnh Đán. Câu Tiễn sai Tướng quốc Phạm Lãi đem 100 nén vàng đến thôn Trữ La rước hai nàng về, trang sức lộng lẫy, cho ngồi trong xe có màn phủ.
Người trong nước nghe tiếng mỹ nữ, ai cũng muốn xem mặt, tranh nhau ra ngoài cõi đón. Đường xá chật ních những người. Phạm Lãi liền để hai nàng ở nhà quán xá rồi truyền dụ rằng: "Ai muốn xem mặt mỹ nhân phải nộp một đồng tiền". Chỉ trong một lúc mà tiền thu đầy quỹ. Hai nàng lên lầu, đứng tựa bao lơn, khác nào như tiên nga giáng hạ. Hai nàng lưu ở ngoài cõi ba ngày, tiền thu không xiết kể. Câu Tiễn cho hai nàng ở riêng tại Thổ Thành, rồi sai một lão nhạc sư đến dạy múa hát.
Ba năm qua, Tây Thi và Trịnh Đán cùng số mỹ nữ học múa hát đã được tinh xảo, Câu Tiễn liền truyền Phạm Lãi đem sang cống cho vua Ngô là Phù Sai. Phạm Lãi vào yết kiến, sụp lạy vua Ngô, tâu rằng:
- Đông hải tiện thần là Câu Tiễn cảm ơn đại vương, không thể đem thê thiếp đến hầu hạ ở bên cạnh được, vậy cố tìm khắp trong nước được hai mỹ nhân khéo nghề múa hát nên sai chúng tôi đem nộp vương cung để giữ việc quét rửa.
Phù Sai trông thấy hai nàng, cho là thần tiên mới giáng hạ, hồn phách mê mẩn, mắt nhìn đăm đăm một cách say sưa. Phù Sai rất lấy làm hài lòng nhận lấy mỹ nữ. Tây Thi và Trịnh Đán được Phù Sai yêu mến. Nhưng riêng Tây Thi vì có sắc đẹp lộng lẫy lại khéo chiều chuộng, có nghệ thuật làm người say đắm nên Ngô vương sủng ái hơn. Tây Thi được ở Cô Tô đài với Phù Sai. Nàng đi dạo nơi đâu cũng dùng đồ nghi vệ theo địa vị phi hậu. Trịnh Đán ở Ngô cung, ghen với Tây Thi uất ức không nói ra, được hơn một năm đau chết. Phù Sai thương lắm, đem chôn ở Hoàng Mao sơn và lập đền thờ cúng.
Phù Sai rất yêu Tây Thi, lập Quán Khuê cung ở Linh Nham sơn, trang trí toàn bằng châu ngọc để làm chỗ cho Tây Thi ra dạo, ngắm cảnh. Lại xây cất Hưởng Điệp lan, Ngoạn Hoa trì, xây giếng Ngô vương tỉnh... để cho Tây Thi đến ngắm hoa, thưởng trăng và soi bóng mình dưới làn nước trong. Phù Sai lại lập cầm đài để Tây Thi ngồi đàn để Phù Sai thưởng thức những cung đàn tuyệt diệu của nàng. Phù Sai lại cho đào một con sông con ở trong thành, từ nam sang bắc rồi làm một chiếc buồm gấm để nàng Tây Thi dong thuyền, gọi là Cẩm phàm hình. Và, còn rất nhiều nơi nữa, cứ mỗi lần nàng ngự đến là trở nên một di tích "lịch sử" mà Phù Sai sắp đặt kiến trúc cho.
Phù Sai từ khi được Tây Thi cứ ở luôn trên Cô Tô đài, bốn mùa vui chơi, rượu chè đàn địch, chẳng thiết đến việc gì cả. Tây Thi, con người kiều diễm ấy, tuy có một thân hình mảnh mai như cành liễu yếu nhưng tiềm tàng một sức mạnh phi thường là quyết lật đổ cả một triều Ngô để đem lại sự chiến thắng vinh quang cho triều Việt. Hai bàn tay ngà ngọc xinh xắn của nàng, xưa kia là để quay tơ giặt lụa nhưng nay lại để bóp nát dần cả một nước Ngô có binh hùng tướng mạnh cho đến ngày tàn. Mắt nàng cau một cái là một cái đầu của viên thượng tướng bị rơi. Môi nàng cười một nét là kho nhà Ngô vơi đi bạc vàng, châu báu... Ngũ Viên, một vị Tướng quốc kiên trung, đa mưu, túc trí, đầy tài dũng lược của triều Ngô vì nàng mà chết dưới thanh kiếm Trúc Lâu của Ngô vương.
Nước Ngô ngày càng suy yếu. Nước Việt thừa thế tấn công. Ngô bại trận. Ngô vương Phù Sai tự tử.
Tây Thi làm tròn sứ mạng của một người nhi nữ quần vận yếm đối với tổ quốc, nàng mong được trở lại quê nhà thăm cha ở Trữ La thôn, nhưng vương phi Câu Tiễn sợ rằng chồng sẽ say đắm sắc đẹp của nàng, nên mật sai người bắt Tây Thi neo đá quăng xuống dòng nước Tam Giang. Thật là mụ đàn bà ghen đanh ác.
Cái chết của Tây Thi nói trên là theo chính sử.
Có truyện chép: Phạm Lãi yêu nàng Tây Thi nhưng thấy Việt vương Câu Tiễn muốn lấy Tây Thi, nên ghen mới bày mẹo cho mụ vợ Câu Tiễn giết thác nàng. Có truyện lại chép: Phạm Lãi trước đã cùng Tây Thi yêu nhau, nên trong trận tấn công nước Ngô, đốt phá Cô Tô đài, Phạm Lãi đón rước Tây Thi xuống thuyền, rồi cả hai bỏ nước đi du Ngũ hồ cho trọn tình chung thủy. Truyện sau này thấy chép trong "Tình sử". Có lẽ những nhà tiểu thuyết diễm tình giàu cảm, giàu tưởng tượng và cũng giàu lòng nhân đạo, thấy đôi trai tài gái sắc, nhứt là đối với Tây Thi, một bực sắc nước hương trời lại có công to với nước mà bị chết một cánh oan uổng, bi thảm như thế nên quá xúc cảm, viết thành câu chuyện kia để an ủi oan hồn của người đẹp chăng?
__________________
http://Taochu.Uhm.vN
Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời


Ðiều Chỉnh
Xếp Bài

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
Bạn không được quyền gởi bài
Bạn không được quyền gởi trả lời
Bạn không được quyền gởi kèm file
Bạn không được quyền sửa bài

vB code đang Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển đến


Múi giờ GMT. Hiện tại là 02:53 PM.


Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2025, Jelsoft Enterprises Ltd.