Go Back   Vina Forums > Thư Viện Online > Kho Tàng Truyện > Truyện Tiểu Thuyết - Truyện Dài
Hỏi/Ðáp Thành Viên Lịch Tìm Kiếm Bài Trong Ngày Ðánh Dấu Ðã Ðọc

Trả lời
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
  #1  
Old 05-30-2004, 08:46 PM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default Bức tranh để lại

:::: Anh Đức ::::
Bức tranh để lại





Tôi ngồi dựa lưng vào những cột gỗ còn sần sùi vết rìu đẽo. Bấy giờ ngày đã hết từ lâu và đêm xuống mênh mông trên bờ bể. Một đêm hè gió lặng. Tiếng sóng vỗ nghe chừng cũng âu yếm dịu dàng hơn. Anh phó chủ nhiệm tập đoàn đánh cá Mũi Né treo cây đèn bão lên cột nhà rồi ngồi ghé xuống bên cạnh tôi. Hai cánh tay buông thõng dài đến quá gối. Anh thẫn thờ nhìn tôi mất một lúc rồi cất giọng ồ ề hỏi:

- Ai nói với anh tôi giữ bức tranh đó mà anh lặn lội đi tầm tôi vậy?

- Tôi nghe một người quen nói. Một chiến sĩ cũng là người Nam Bộ.

Anh phó chủ nhiệm chồm người tới:

- Có phải là một đồng chí tiểu đoàn trưởng không?

- Phải, anh ấy là tiểu đoàn trưởng, tên là Danh.

- Thôi, đúng rồi. Đúng là anh Danh rồi!

Anh ta vừa kêu lên vừa lập cập để hai bàn tay lên gối chân tôi. Đôi mắt của người đàn ông Nam Bộ trạc bốn mươi tuổi này chớp lia lịa, hai hàng mi đen rậm nhíu nhíu lại. Anh ta thu hai bàn tay về, thở dài một thôi rồi lắc đầu:

- Bức tranh... bức tranh đó... không có ở đây đâu. Tôi không còn giữ nữa. Nhưng mất thì chắc chưa thể mất được. Tới bây giờ tôi vẫn tin là nó hãy còn. Anh à, bức tranh đó vẽ Cụ không được sắc sảo lắm đâu. Là vì do một anh thợ họa hình ở miệt vườn vẽ thôi mà. Nếu đem so sánh với những ảnh Cụ bây giờ thì đâu đẹp bằng được. Nhưng có điều tôi dám quyết với anh là bức tranh đó không có bạc vàng nào trên đời này sánh nổi. Bởi vì ở trên đời này chắc gì đã có một người thứ hai vẽ được...

Nói tới đây anh đưa tay lên cào cào ngực. Tôi có cảm giác như trong ngực anh bấy giờ có cái gì nóng lắm.

- Trời, mà người vẽ bức tranh đó lại chính là em tôi. Em của tôi đã họa bức tranh đó trong những giờ phút cuối cùng của đời nó... Thôi thì tôi cũng nói cho anh rõ hoàn cảnh gia đình của tôi. Cha mẹ anh em tôi đều chết sớm hết anh à. Tên nó là Đô. Tôi không muốn em tôi dốt nát, nên chi hồi đó một mình tôi đã làm lụng, đi gặt hái, đi câu lưới nuôi em tôi học hành. Nói thiệt với anh, tôi thì có phần hơi quê mùa cục mịch, đầu óc không đặng sáng sủa bằng em tôi. Với lại tánh tôi củ mỉ cù mì, chớ tánh em tôi nó gan góc lắm. Trong làng hễ ai bắt nạt tôi thì nó bênh tôi, dám chống chọi với bất cứ đứa nào hiếp đáp tôi.

Tính ra như vậy thì nó đã học hết lớp nhứt trường làng. Sau nó thi đậu tên tỉnh học. Học đâu gần được một năm thì thôi học. Ngay hồi nhỏ nó đã có hoa tay. Thôi học về đi làm ruộng đi câu kéo với tôi chớ nó vẫn ham hố vẽ vời. Khắp nhà tôi treo la liệt những hình, tranh của nó. Nào là hình lũ trẻ chăn trâu ngoài đồng, hình người đi chài cá, hình phong cảnh, đủ thứ.

Năm cái đình làng tôi được phép tu sửa, làng đã rước em tôi ra vẽ lại con kỳ lân nơi tấm bình phong trước đình. Hình con kỳ lân do em tôi vẽ mãi tới kháng chiến cũng còn. Sau Tây nó mới phá đi lấy gạch xây bót. Em tôi lại có tập họa hình. Họa được hình người rất giống. Ông già bà cả trong làng được nó họa cho, ai cũng đều ngợi khen. Không bao lâu cả làng đều gọi nó là thằng Tám họa hình. Vẽ một tấm hình nó được người ta trả một giạ lúa, lại được mời đi ăn giỗ. Cái gì chớ uống rượu thì tôi phải chạy em tôi. Thằng uống rượu cứng quá, càng uống mặt càng xanh tái chớ không đỏ. Lúc kháng chiến nó tham gia tự vệ. Năm bốn sáu đánh du kích bị trúng thương ở tay. Vết thương làm độc sưng vù lên. Ông bác sĩ ở tỉnh nói:

- Tám Đô à, tôi thấy chú phải chịu cho tôi cưa cái tay của chú, không cưa thì chết đa.

Em tôi đáp:

- Nếu không cưa mà phải thiệt mạng thì tôi chịu cưa. Còn cưa mà chết thì tôi giết ông.

- Nhưng không có cưa nghề đâu. Tôi cưa bằng cưa thợ mộc liệu chú có chịu nổi không?

Em tôi lặng lẽ bảo:

- Được, cứ cưa!

Và nó xoắn ngay tay áo lên. Từ nói đến làm không đầy mười lăm phút. Không có rượu an-côn, ông bác sĩ khử trùng lưỡi cưa bằng rượu đế. ổng cưa mà tay ổng còn rung thì anh biết. Ngược lại em tôi chẳng hé răng kêu một tiếng. Nó ngoảnh mặt đi nơi khác, mồ hôi chảy có giọt xuống hai bên màng tang... Đó, tánh khí của nó như vậy đó. Cụt mất tay trái rồi nó vẫn đi đánh chim sẻ, đi gài lựu đạn. Lúc đó bận rộn nhứt là những lúc sắp tới ngày sinh nhật Cụ. Tôi còn nhớ đồng chí chánh trị viên xã đội trưởng thường bảo nó:

- Thôi, Tám Đô, mày không không phải đi gài lựu đạn nữa. Gần tới ngày mười chín tháng năm rồi. Việc đánh chác để tụi tao, còn mầy ở nhà lo họa hình Cụ. Bà con ai cũng muốn có một tấm ảnh Cụ để treo. Vậy thì mày ở nhà vẽ. Kỷ niệm ngày sinh nhật của ông Cụ, mỗi nhà đều có ảnh thì quý lắm.

Thế làm thằng Đô em tôi tối ngày sáng đêm cặm cụi lo họa ảnh Cụ. Hồi đó vẫn còn vẽ theo ảnh cũ, Cụ trông gầy chớ đâu được hồng hào như bây giờ. Thằng em tôi vẽ mãi nên nó thuộc lòng như hết mọi nét trên khuôn mặt ông Cụ. Vẽ xong bức này lại vẽ tới bức khác. Bà con tới lui nhà tôi suốt ngày kính cẩn rước ảnh Cụ về treo. Em tôi vẽ xong cho mỗi nóc gia một bức rồi lại còn vẽ thêm một tấm thiệt lớn, tô màu coi rất sắc sảo. Trưa cái hôm vẽ xong nó hỏi tôi:

- Anh Bảy ơi, anh có biết em vẽ bức tranh lớn này để mần chi không?

Tôi chưa kịp đáp thì nó ghé vào tai tôi nói nhỏ:

- Để treo lên ngọn dừa lão ngoài chợ cho đồng bào nhìn thấy và để tụi lính nó coi. Kẻo tụi nó trách mình không cho nó biết chân dung của ông Cụ mình.

Em tôi nói rồi cười ha hả. Từ ngày kháng chiến bao giờ nó cũng cười vui như vậy. Năm đó nó ới có hăm hai tuổi. Mặc dù đã bị mất một tay nhưng lúc nào nó cũng lạc quan. Thằng em tôi hễ nó nói là nó làm thiệt. Chiều hôm đó mới nói với tôi đó thì sáng ngày đã nghe thấy bà con đi chợ về nói rum lên là ảnh Cụ đã thấy ở trên ngọn cây dừa lão. Bà con ở thị trấn được nhìn thấy ảnh Cụ, ai cũng cảm động rưng rưng. Bọn lính đi tuần chỉ dám đứng nghiêng ngó chớ không dám trèo lên lấy. Vì ở dưới gốc dừa có cắm tấm biển đề "Không ai được hạ ảnh Hồ Chủ tịch. Nếu trái lệnh sẽ bị trừng trị ngay tại đây". Thằng Tây xếp bót, tôi còn nhớ, tên nó là Mônôry, một thằng Tây rất trẻ, mới hăm sáu tuổi, đẹp trai, ở bên Tây qua có hơn một năm mà đã giết riêng ở Hiệp Hưng này gần ba chục người. Sáng đó thằng Mônôry nghe tụi lính về báo tin, thì nó liền đi ra tận nơi, đứng chắp hai tay sau lưng nhìn lên tranh Cụ rất lâu. Nhưng nó không ra lệnh tháo gỡ gì cả. Một chốc sau nó đích thân dẫn hai trung đội xộc vào làng. Du kích nổ súng. Đánh nhau tới chiều, bọn địch chết sáu bảy đứa. Lúc rút về chúng bắt theo một số người. Trong số người bị bắt có một đồng chí đảng là anh Chín. Bởi chân ảnh cao như chân sếu nên chúng tôi gọi ảnh là anh Chín Giò. Anh Chín Giò về tới bót thì bị lính ngụy nhận mặt. Thằng Mônôry cho điệu anh ra gốc dừa lão. Nó rút súng lục trỏ lên ngọn dừa bảo anh trèo lên tháo tấm tranh Cụ xuống. Anh Chín Giò thừa biết là lúc ta treo tranh không có bẫy lựu đạn gì cả, nhưng anh nói:

- Du kích có gài lựu đạn, tôi không dám leo.

Thằng Mônôry lên đạn súng lục:

- Trèo lên ngay không tao bắn tức khắc.

Anh Chín Giò đứng tại gốc cây dừa ngước nhìn lên ảnh Cụ. Thằng Mônôry giục lần thứ hai. Anh quay lại nhìn thẳng vào mặt nó lắc đầu. Nó liền giơ súng bắn chết anh tại chỗ. Anh Chín Giò chết rồi mà bức tranh chúng nó vẫn chưa đem xuống được. Thằng Mônôry tức tối như điên. Sau đó nó bắt đồng bào leo lên lấy ảnh, bà con không dám leo. Bắt lính, lính cũng không dám trèo. Thằng Mônôry rút súng dí sau lưng một thằng lính ngụy. Nhìn họng súng trong tay xếp bóp, thằng lính ngụy phải leo. Leo lên lưng chừng cây dừa trên ngọn thấy động chạm làm rơi mấy trái dừa non sạt sạt. Thằng lính hoảng quá, từ trên tuột xuống một cái rột. Nó chấp tay lạy thằng xếp lia lịt, bảo có bắn nó thì bắn chớ nó không dám leo lên nữa. Thằng xếp bất lực, cười gằn bỏ về. Thành ra bức tranh Cụ vẫn còn y nguyên trên ngọn dừa. Hai ba bữa sau xảy ra có một trận giông lớn, bức tranh mới bị gió thổi bay mất. Bà con tìm khắp bờ chuối đọt tre mà không gặp. Trong ấp tôi có một thằng cha tên Tư Râu, thuở giờ chuyên môn nói dóc. Lần đó y vê râu nghiêm trang nói với mọi người: "Thôi, đừng có kiếm chi cho mất công. Hồi đêm tôi nằm chiêm bao thấy ông thần gió tới báo cho tôi rằng chính ông đã đem bức tranh đó đi. Tôi mới trách ổng: "Đáng lẽ ngài muốn thỉnh cụ đi cũng phải cho bà con hay trước chớ?". ổng năn nỉ tôi: "Không thể cho hay trước đặng bây giờ tôi báo cáo cho anh biết, anh nói lại với bà con giùm tôi"... Thằng cha Tư Râu xưa nay nói dóc quá nên khi y nói gì ra cũng hay bị người ta chất vấn hoặc cãi lại, thế mà lần đó hình như không có ai phản đối y cả.

Anh Bảy phó chủ nhiệm kể đến đấy dừng lại, cởi áo ra rồi nói tiếp:

- Tôi là bạn thân với anh Chín Giò. Tôi nghe tin ảnh chết thì hết sức phục ảnh. Anh à, mình hiểu cái tinh thần của anh Chính nên mình khâm phục anh Chín là phải, nhưng tôi cứ hồ nghi rằng thằng Mônôry nó bắn chết anh Chín chớ chưa chắc nó biết được lý do anh Chín không chịu trèo lên là bởi làm sao?... Có khi nó tưởng anh Chín mình sợ bẫy lựu đạn cũng nên.

Tôi cũng phân vân đáp:

- Chẳng biết nó có hiểu được không?

Anh Bảy ngắt lời tôi:

- Không, rồi sự ấy nó phải hiểu. Sau đó một vài tháng có một người nữa, cũng như anh Chín, đã làm cho nó hiểu thêm. Người đó là em tôi. Phải, Tám Đô bị bắt sau đó hai tháng. Vì hầm bí mật bị chó săn đánh hơi được. Thằng Mônôry lần đầu tiên thí nghiệm chó săn thì bắt được em tôi. Kể ra nếu lúc Tám Đô nhảy lên khỏi hầm mà không bị một viên đạn lễu trúng trán và đùi thì nó đã chạy thoát. Nhưng vì bị thương khá nặng nên phải chịu bắt. Lúc đầu thằng Mônôry cũng cho em tôi là một du kích nào đó thôi. Nhưng mấy thằng ngụy người Hiệp Hưng bảo với thằng Mônôry:

- Thưa ông xếp, thằng này tên là Đô. Chính nó đã vẽ ảnh lãnh tụ của nó treo lên ngọn cây dừa hồi tháng trước. Lúc ông xếp chưa đổi về đây, năm nào nó cũng đều làm như vậy!

Thằng Mônôry biết ra việc ấy thì chiều hôm đó nó chưa đem bắn em tôi vội. Tờ mờ sáng hôm sau thình lình nó dẫn lính vây ráp bắt tất cả mọi người ở chợ và một số người ở Hiệp Hưng, lùa tất cả mọi người ra bãi cỏ gần cầu sắt để coi xử em tôi. Có người chạy vô xóm cho tôi hay. Tôi vì nóng lòng thương em, nên liều mạng mò ra, lẫn vào đám đông bà con. Khi tôi ra tới nơi thì đã thấy em tôi bị trói ngồi trên bãi cỏ. Thằng Mônôry nói tiếng Tây với mọi người. Tên lính thông ngôn dịch lại:

- Bữa nay ông xếp đem xử cái thằng đã vẽ ảnh Hồ Chí Minh. Thằng đó ông xếp đã ra lệnh thộp nó từ lâu. Nay chính tay ông xếp đã bắt được nó. Ông xếp muốn nó đền tội trước mặt mọi người, cho tất cả ai cũng đều đặng trông thấy.

Tôi nghe nó nói xong chỉ còn cố ráng đứng nhìn mặt em tôi một lần cuối, để khi súng nổ rồi tôi có thể nhớ thiệt lâu cái gương mặt em tôi trước khi nó chết. Mặt em tôi bấy giờ nhợt nhạt hẳn đi, vì vết thương ở đầu và chân chảy mất nhiều máu quá. Nhưng nói chung nó vẫn bình thường. Dưới mớ tóc đắp rủ lên mép trán, đôi mắt nó liếc nhìn tên xếp bót trông vừa bén lạnh lại vừa dữ tợn. Đôi mắt ấy khi bắt gặp tôi thì dịu hẳn ngay xuống, không buông tôi ra nữa, và cứ lặng lẽ nhìn cho đến lúc tôi phải quay mặt đi mới thôi. Có gần năm phút mà chúng nó vẫn chưa rục rịch gì. Nhìn về phía thằng Mônôry, tôi lạ quá, thấy nó cứ đứng thừ cái bộ mặt của nó ra. Một tay nó nắm cán súng lục đeo trễ bên hông, một tay bẹo cằm, có vẻ suy nghĩ lung lắm. Bọn lính đã ghìm những cây súng trường Anh đầu bằng, chỉ đợi thằng Mônôry hạ lệnh bắn vào em tôi. Vừa lúc đó thằng Mônôry giơ tay. Tôi nhắm mắt day mặt chỗ khác. Nhưng mãi không nghe thấy súng nổ, và mọi người xung quanh bỗng xôn xao cả lên. Tôi quay lại thấy thằng Mônôry vung mạnh tay ra hiệu cho bọn lính giạt qua hai bên. Nó vẫy tên lính thông ngôn cùng đi với nó lại trước mặt em tôi. Nó hỏi em tôi:

- Trước đây mày học vẽ ở đâu? Có học ở trường Gia Định không?

Em tôi lờ đi không đáp. Thằng Mônôry tự trỏ ngón tay cái vào ngực:

- Mày không rõ chớ tao cũng là họa sĩ đây. Thấy mày biết vẽ nên tao chưa nỡ bắn mày. Nhưng tao hỏi: Nếu bây giờ tao thả mày ra thì mày còn dám vẽ nữa không?

Em tôi trề môi đáp:

- Vẽ là nghề của tao mà.

- Bây giờ tao cho mày vẽ mày dám vẽ không?

- Vẽ cái gì?

- Vẽ gì tùy ý. Vẽ hình Hồ Chí Minh cũng được.

Em tôi đáp giọng cứng cỏi:

- Mày nói chuyện nghe ngu lắm. Hình lãnh tụ của tao mà sao tao không vẽ được. Bất cứ ở đâu tao cũng vẽ được hết thảy!

Thằng xếp Mônôry nghe em tôi đáp thì nó giương cặp mắt xanh lè như mắt mèo nhìn suốt người em tôi. Nó day qua nói vào tai tên thông ngôn. Tên thông ngôn bảo em tôi:

- Ông xếp nói thiệt đấy. Nếu anh dám vẽ trước những mũi súng này thì ổng lấy danh dự của một người quân nhân bảo đảm không bắn anh bất tử. Nè, anh không biết, chớ ổng là một người có học vấn, trước kia hồi ở bên Tây ổng có học vẽ. Bây giờ thỉnh thoảng ổng cũng hay vẽ chơi. ổng muốn coi anh vẽ. ổng sẽ cho người lấy đủ giấy bút cho anh vẽ tại đây. Anh vẽ được chớ?

Em tôi hất ngược mớ tóc ra sau gật đầu không chút do dự. Tôi không ngờ thằng xếp bót có ý định lạ lùng như vậy. Ban đầu tôi nghi nó bày ra việc này để dẫn tới cái sự gì đây. Nhưng tôi rất tin em tôi. Từ trước tới nay nó chưa từng chịu thua trí thằng địch bao giờ. Thằng Mônôry sau khi thấy em tôi gật đầu, nó liền móc túi lấy ra một xâu thìa khóa quẳng cho một tên ngụy. Trong lúc tên ngụy chạy về bót thì thằng Mônôry ra lệnh mở trói cho em tôi. Nó đi đến đứng trước mặt em tôi, miệng bập bập cái ống píp. Nó lừ ngừ nhìn em tôi một lúc rồi rút phắt cái píp thuốc ra khỏi miệng, lên giọng:

- Tụi như chúng mày mà biết vẽ cái gì... Nếu mày biết vẽ ắt là mày phải có phần nào biết yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống. Tại sao mày không vẽ phong cảnh, vẽ động vật hoặc vẽ cái gì khác... mà lại đi vẽ thứ này để phá rối trị an?

Và nó hạ thấp giọng xuống:

- Mày có biết ông Pát không? Ông Pát là một nhà điêu khắc và họa sĩ có tài, rất nổi tiếng ở Paris. Ông sang bên này làm giám đốc trường mỹ thuật Gia Định để giáo dục cho tụi bây hiểu biết về cái đẹp, về nền nghệ thuật hội họa lâu đời của một nước văn minh lớn ở nước Pháp chúng tao. Thế mà tụi bây đã giết ổng, giết một người nghệ sĩ... Ông Pát có phải là một nhà quân sự gì đâu. Ông không phải là người cầm súng. Ông chỉ đi chung với những sĩ quan trong đoàn xe hộ tốngt trên đường Là Ngà. Tụi bây đã bắn ổng chết...

Nghe nó nói, em tôi im lặng một chốc rồi ngẩng lên bảo:

- Thứ như mày mà cũng nói chuyện thiên nhiên, cây cỏ. Trước khi mày mở miệng nói với tao câu đó đáng lẽ mày phải nhìn khắp chung quanh cái bót này coi có còn một cái cây nào còn sống được không? Cây có trái tụi mày cũng đốn, cây sắp ra trái tụi mày cũng chặt. Tới từng ngọn cỏ chúng mày cũng đạp lên... Mày nói mày là họa sĩ, thì tao cũng có thể tin cho mày đi. Mày lại nói nước Pháp có một nền nghệ thuật hội họa nổi danh. Có, cái đó có... Nhưng riêng tụi chúng mày thì đừng có xí phần vào, nghe không? Mày nói chúng tao giết chết ông Pát là giết một nghệ sĩ Pháp. Không, nhân dân Việt Nam chúng tao không bao giờ có ý định giết hại những người nghệ sĩ chân chính của nước Pháp. Trái lại chúng tao rất yêu mến những người đó. Mày có đọc quyển "Kháng chiến nhất định thắng lợi" của lãnh tụ tao chưa? Trong cuốn sách đó, lãnh tụ của chúng tao có nói rõ "... Chúng ta đánh bọn thực dân xâm lược Pháp, chúng ta không đánh nhân dân Pháp"... Ông Pát nào mà mày nói đó nếu quả ổng có chết thì ổng phải cam chịu thôi. Chúng tao nã súng vào đoàn xe chở lổn nhổn bọ sĩ quan xâm lược chúng mày, đạn liên thanh của chúng tao có nhận mặt được ông Pát mà chừa ổng ra được đâu?

Câu chuyện đối đáp qua lại giữa thằng Mônôry với em tôi vừa đến đấy thì tên lính ngụy về bót khi nãy đã ra tới. Nó đem đến đưa thằng Mônôry một cuộn giấy vẽ trắng tinh và một hộp màu hình chữ nhật bằng gỗ đánh vẹcni nâu bóng nhoáng. Thằng Mônôry cầm các thứ đi lại chỗ em tôi. Nó mở tờ giấy, thận trọng trải ra trên cỏ rồi đặt hộp màu bên cạnh. Tôi hồi hộp theo dõi từng cử chỉ của em tôi. Bà con trước đó không ai muốn đứng nhìn cảnh thương tâm sắp diễn ra thì giờ chen nhau mà coi cảnh em tôi đang loay hoay chuẩn bị vẽ trên bãi cỏ. Bấy giờ em tôi chỉ có được cánh tay phải và chân trái là còn lành lặn. Mà cánh tay phải vì bị trói nghịt lâu quá, vừa được cởi ra nhưng chắc bị tê hay sao nên em tôi nó cứ quơ quơ một lúc mới cử động được. Đầu tiên em tôi mở hộp màu ra. Tôi thấy cặp mắt nó vụt sáng rực lên trước những gói bột màu lổn nhổn, những bút, những than vẽ. Hộp màu ấy đối với nó quý lắm. Có bao giờ nó sắm được một hộp màu như vậy đâu. Em tôi đưa tay bươi bươi những gói màu. Nhưng cuối cùng nó chỉ cầm lấy một mẩu than. Tôi hơi ngạc nhiên. Tôi đoán có lẽ em tôi nó biết sức lực của nó không cho phép có thì giờ rảnh rỗi để tô màu tô mè gì nữa. Cho nên nó chỉ chọn lấy một mẩu than rồi đưa cùi tay trái chận xuống tờ giấy rà vuốt cho mặt giấy nằm im. Nhưng khổ nỗi gió ngoài vàm sông cái thổi vào làm tờ giấy nằm trên cỏ cứ phập phều, em tôi loay hoay mãi mà không sao vẽ được.

Thằng Mônôry thấy thế liền sai tên thông ngôn tức tốc chạy về bót vác lại một cái giá vẽ. Rồi tự tay nó bê cái giá vẽ lại đặt trước chỗ em tôi. Nó bố trí sắp xếp, hạ trục giá thấp xuống, áp tờ giấy lên bảng vẽ, ghim kim bốn góc. Xong rồi nó xoa xoa hai bàn tay vào nhau, bước lùi ra. Em tôi liền duỗi cái chân bị thương sang một bên, tỳ khuỷu tay cục xuống cỏ, rướn người tới. Tay phải em tôi cầm mẩu than nhanh nhẹn phác họa những đường trên không khí chớ chưa chạm lên mặt giấy. Bỗng thình lình một giọt máu từ trên trán nó nhễu xuống giữa tờ giấy. Em tôi dừng tay, đôi mày nhíu lại đăm đăm nhìn giọt máu. Và nó từ từ buông mẩu than đang cầm, đưa tay lên quệt máu nơi trán. Tức thì tôi cảm thấy khắp người tôi máu nóng ran. Thằng Mônôry biến sắc. Nó luôn đưa tay gãi gãi bộ ngực lông lá của nó. Bà con chung quanh chạo rạo cả lên. Có người buột miệng kêu "Trời ơi..." và tiếng đàn bà khóc sùi sụt. Anh ạ, em tôi bắt đầu vẽ bằng ngón tay trỏ chấm máu trên trán của nó. Trước tiên nó vẽ đôi mắt Cụ. Tất cả sức lực nó đều dành cho việc vẽ đôi mắt ấy. Tôi đứng nhìn mà chân cứ như giẫm phải lửa. Bấy giờ tôi không còn nặng lo về số phận của em tôi lắm mà lại lo không biết em tôi có đủ sức vẽ xong bức tranh Cụ hay không. Việc đó bấy giờ đã trở nên quan trọng hơn cả cái tính mạng của em tôi nhiều. Tôi chỉ đợi hễ em tôi ngước lên bắt gặp tôi lần nữa thì tôi sẽ nhìn nó, trợ tinh thần và khích lệ nó. Nhưng nó không nhìn tôi. Từ đó trở đi, đôi mắt nó chỉ dán lên bảng vẽ. Vẽ được một bên mắt trái Cụ, em tôi mệt quá ngất đi. Thằng Mônôry sai lính xách gầu ra bờ sông múc nước rẩy lên mặt em tôi. Em tôi tỉnh dậy thì máu trên ngón tay trỏ của nó vừa ráo lại. Nó đưa mắt nhìn đồng bào một lượt đoạn quệt máu trên trán cúi xuống vẽ. Lúc em tôi vẽ xong đôi mắt Cụ, tôi nhẹ nhõm cả người. Nhưng em tôi thì lại gục xuống một lần nữa. Bọn lính vốc nước còn lại trong gầu tưới lên người em tôi. Nó dần hồi tỉnh. Lần này nó ngồi dậy đưa ngón tay chấm phá rất nhanh. Đến lúc bức tranh gần thành hình, em tôi chõi khuỷu tay trái, nghiêng người ra phía sau để ngắm rồi mới ngã vật ra. Bọn lính kêu lên:

- Nó chết giấc nữa rồi!

- Đổ nước nữa đi!

Nhưng lần này chúng tưới trọn một gầu nước mà em tôi vẫn không động đậy. Thằng Mônôry chạy tới cầm chéo áo em tôi giật giật mấy cái. Em tôi vẫn nằm im, mặt ngửa ra dưới ánh mặt trời mười hai giờ trưa. Thằng Tây cúi xuống sát mặt em tôi xem một lúc rồi đứng thưỡn dậy, lẩm bẩm:

- Chết rồi...

... Tôi cũng tính là em tôi phải chết chớ không thể nào sống đặng. Vì có bao nhiêu sức sống còn lại nó đã dốc ra hết. Nhưng tôi không khóc. Cái cảm giác đau đớn khi có đứa em ruột mình chết đi ở trong tôi bấy giờ mình như không cào cấu ruột gan tôi mạnh như trước. Thằng Mônôry thấy em tôi đã chết, nó đứng rũ ra một chốc. Nó không còn cái vẻ hống hách thường ngày của thằng xếp bót nữa. Nó đứng trước bức tranh rất lâu, nhìn những nét máu còn tươi rói trên tờ giấy... Anh ạ, bức tranh đó nói chung còn nhiều nét phụ chưa vẽ kịp, như râu tóc không vẽ được hết nét, bởi vì bao nhiêu nét đều phải dồn vào vẽ đôi mắt. Thiệt, đôi mắt của Cụ trong bức tranh ấy thì em tôi vẽ giỏi hơn tất cả những đôi mắt Cụ nó vẽ từ trước tới nay. Chỉ riêng nhìn đôi mắt không cũng có thể nhận ngay ra khuôn mặt nhân hậu của Cụ anh ạ... Trưa hôm đó, tôi đem xác em tôi về chôn...

Anh Bảy đang nói bỗng dừng lại. Không hiểu sao lúc ấy hai bàn tay tôi tự nhiên với ngoặc ra sau thân cột, run run rờ rẫm những vết rìu đẽo sần sùi trên gỗ. Và tôi hỏi:

- Còn bức tranh?

- Bức tranh thì sau đó thằng Mônôry cuộn lại đem về bót.

Tôi kêu lên:

- Nó lấy bức tranh à?

- Phải, nó lấy đem về... Tới cuối năm năm mươi thằng Mônôry sắp được về Tây. Nhưng số nó không đi khỏi nước mình đặng. Bót Hiệp Hưng bị bộ đội về đánh và thằng Mônôry chết trước một ngày nó lên đường đi Sài Gòn để về Tây. Anh em bộ đội lấy được trong buồng riêng của nó một cái va ly da. Trong va ly có nhiều bức tranh chính nó đã vẽ. Bức thì vẽ hình một chị phụ nữ lõa lồ đang oằm oại, bên dưới đề "Sau lúc hỏi cung", bức thì vẽ đồn bót cây cảnh ở Hiệp Hưng. Bức tranh Cụ của em tôi vẽ bằng máu tìm được trong góc va ly, đã cuộn lại, phía sau có ghi một dòng chữ Pháp. Anh Danh, chánh trị viên lúc trao bức tranh lại cho tôi đọc những câu văn nó ghi là: "Bức tranh này do một tù binh Việt Nam đã vẽ trong một hoàn cảnh hết sức khủng khiếp và kỳ quặc".

Anh Bảy phó chủ nhiệm thôi kể. Tôi được dịp thở ra một hơi. Anh Bảy đứng cầm lấy áo mặc vào và nói:

- Hồi đi tập kết tôi tính mang bức tranh theo nhưng bà con trong xã yêu cầu tôi để lại. Tôi đã nghe theo lời bà con mà để lại. Tiếc quá... nhưng thôi, để lại cho bà con mình ở trỏng thì có gì là đáng tiếc. Tôi cứ nghĩ sau này thống nhứt tìm lại bức tranh đó đưa vô bảo tàng thì quý lắm. Chắc chắn đến lúc đó bức tranh đã có ý nghĩa dài hơn cái ý nghĩa câu chuyện tôi vừa kể cho anh nghe nhiều lắm rồi.




Trả Lời Với Trích Dẫn
  #2  
Old 05-30-2004, 08:46 PM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Exclamation

:::: Anh Đức ::::
Chuyến lưới máu





Vào năm một ngàn chín trăm bốn mươi ba, tôi có lần tới Bãi Mũi. Từ thị xã Hà Tiên đi Bãi Mũi cũng không lâu lắm. Chiếc xe ngựa đưa tôi xuống tận bãi mới dừng lại. Đằng sau lối xe vừa qua, hai hàng dấu chân ngựa in dài trên lớp cát trắng mịn. Lần đầu tiên tôi mới tới có cái bãi này. Đến Hà Tiên đã đi Thạch Động, lên núi Tô Châu nhưng không đến đây thì cũng hoài. Ông giàa đánh xe dừng lại, hàm thiếc của con ngựa nghiến ken két chưa dứt thì lão Tư Hưng đã chạy ra, tay lão cầm cái vi cá bơi bơi như đón khách. Lão hỏi ông già xe ngựa:

- Có khách lên không ông Bảy Hân?

Ông Bảy Hân, trỏ tôi nói:

- Có cậu này lên chơi đó!

Trên xe tôi đi có bốn người, hai người là dân biển ở đây. Khi ông Bảy Hân cầm roi vút nhẹ vào mông ngựa, đánh chiếc xe lộc xộc trở về nhà ngủ Đông Hồ rồi thì chỉ còn lại tôi với một thím bán hàng rong. Thím ấy ốm yếu, nước da vàng bủng, cắp cái rổ trong đó còn lại ba bốn cái bánh ếch chưa bán hết.

Sau khi hỏi tôi có ở lại chơi không, và tôi gật đầu thì lão Tư Hưng quay vào phía nhà gọi lớn:

- Vọi ơi! Ra khiêng đồ!

Nghe tiếng gọi, từ trên dãy nhà, một thằng bé vấn khố xăm xăm chạy xuống. Nói là thằng bé bởi vì mặt mũi nó coi còn ngây ngô quá, chớ cũng độ mười sáu, lại có phần cao lớn khỏe mạnh hơn tôi nhiều. Đến nơi, chợt nó chạy lại thím bán bánh kêu "má" rồi nước mắt rớt lả chả. Bấy giờ tôi mới biết người đàn bà ấy chính là má nó. Hai mẹ con dường như lâu lắm mới gặp nhau. Song chưa nói câu nào, lão Tư Hưng đã la lên:

- Thôi chớ! Đem đồ cho khách mau lên!

Người mẹ lấy hai cái bánh ếch đưa cho con và nói nhỏ: "- Thôi, đi đem đồ cho người ta lên đi!". Thằng Vọi chùi nước mắt. Đến trước tôi nó chắp tay xá một cái làm tôi nhột nhạt hết sức. Coi da thịt của nó thì biết, nắng và nước biển đã nhuộm da nó đen sạm, mốc mốc, mắt nó hơi đục và đỏ, còn tóc thì vàng cháy như hun nắng. Người lớn, con nít ở biển đại để đều như vậy cả. Cái vali nhẹ như không, có gì đâu mà phải xách giùm, nên tôi cứ tự xách. Thằng Vọi ngó tôi coi bộ lạ lắm. Từ chỗ xe ngựa đậu lên chỗ cái nhà ngói nóc đỏ của lão Tư Hưng thấy thì gần, nhưng vì đi lên dốc, chân tôi mỏi cứ líu ríu trên cát. Một đoạn đường ngắn vậy thôi, nhưng tôi bắt đầu làm quen với thằng Vọi. Tôi hỏi ở đây có gì vui không.

Vọi suy nghĩ hồi lâu rồi nói: - Tôi không biết!

Tôi thấy thằng quê quá. Rải rác trên bãi có trên mươi cái nhà bát giác màu xanh, màu vàng. Ghế phô tơi của mấy người nghỉ mát nhiều đếm không xiết. Ta cũng có, Tây đầm cũng có, ăn uống hát xướng ngậu lên. Vậy mà thằng Vọi nó nói không biết, không vui.

Lên đến nhà trọ, tôi ở gian buồng liền với lão Tư Hưng. Tôi đem đóng tiền trọ, gặp mụ Tư tôi tưởng như gặp phật Di Lặc. Sao mụ ta mập ghê gớm quá, quần áo bó lấy mình mụ chật cứng. Gió biển thổi suốt ngày mà người mụ ta lúc nào cũng đầm đìa mồ hôi. Khi mụ Tư chìa tay lấy tiền, tôi thấy cổ tay mụ núc thịt, to béo lạ thường.

Bữa cơm trưa ấy, có thức ăn ở biển. Cá đao hấp mỗi khoanh lớn bằng cổ tay của mụ Tư Hưng. Cá khoai luộc nước dừa, mực tươi chưng cách thủy. Trong lúc tôi ăn cơm thì thằng Vọi biến đâu mất. Bên kia nhà, hai vợ chồng lão Tư Hưng đang bận rộn với khách. Khách là bốn năm người dân lưới đến nạp từng bao lớn vi cá cho lão ta. Hai vợ chồng lão Tư săm sói mấy bao vi cá, híp cả mắt. Ăm cơm xong, tôi đến coi vi cá chơi cho biết. Bấy giờ lão Tư ngồi trên bục cao, gõ bàn toán lốp cốp... Tôi tưởng lão ta tính tiền để trả, nhưng không phải, lão ta có tật như vậy. Hễ người nào mướn lưới và ghe của lão mỗi tháng đến nạp vi cá hoặc bong bóng, thì lão Tư gõ con toán quy ngay ra tiền thử coi được bao nhiêu. Tôi có ngờ đâu mỗi cái vi cá bán tới một cắc bạc. Hèn gì lão ta có cái nhà ngói, tậu mười cái nhà bát giác, lại có phần hùn trên nhà ngủ Đông Hồ nữa.

Tôi đi ra ngoài. Vừa lúc ấy thằng Vọi ở đâu về, vác trên lưng một giỏ lớn đựng đầy sò huyết. Nó đặt giỏ sò lên thềm bếp rồi đi ra. Tôi liền theo nó xuống bãi. Thằng Vọi nói với tôi:

- Chiều tôi phải ra lưới, lén đi chơi một chút... sợ ông chủ biết được thì chết!

- Không sao, có tôi đây... Chơi một chút, chừng nào đi thì về đi, sợ gì!

Vọi chỉ con dã tràng bò lểnh nghểnh trên cát, nói:

- Anh ngó thấy chưa, nó đương vò cát đó! Vò đã đời rồi để sóng đánh tuốt luốt hết. Nè, vậy mà khó bắt được nó lắm nghe.

Tôi hỏi:

- Bắt con đó làm chi!

- Chơi thôi... Trên bãi này không ai bắt được đâu. Khó lắm, hễ tới gần nó trốn xuống hang liền!

Tôi nghe nó nói thì rón rén rình bắt thử. Nhưng tới gần, quả nhiên dã tràng trốn xuống hang không còn một con. Mấy lần đều bắt không được, tôi hỏi Vọi:

- Mày bắt được không?

Thằng Vọi nói được, vừa nói nó vừa bảo tôi ngồi im một chỗ, đoạn nó chạy đến một nơi khác nằm rạp xuống. Nó nằm như vậy rất lâu, không động đậy. Tôi ngồi đợi, thấy chốc sau dã tràng nhú lên hang bốn năm con. Tưởng yên, dã tràng bò từ từ, quơ càng đằng trước. Dã tràng đã mắc lừa, tưởng Vọi là một vật gì chứ không phải người rình bắt nó. Tôi cười ré lên, vì lúc ấy Vọi đã quơ tay chộp luôn được ba bốn con. Nó nhổm dậy, chạy lịch phịch lại đưa cho tôi, nói:

- Thấy tôi bắt chưa?

Tôi nói:

- Bắt lần nữa mới giỏi!

Vọi nói:

- ừ nghe!

Và dứt lời, nó chạy một quãng dài, nằm chuồi trên bãi cát như một khúc cây.

Tôi mê nhìn thằng Vọi, lão Tư Hưng đi đến hồi nào tôi không biết. Lão cầm cây đao cá màu vàng vàng, có răng giông giống như răng cưa. Lão ta chắp cây đao cá sau lưng đi tới chỗ thằng Vọi. Chết chửa. Thằng Vọi vẫn nằm im đợi dã tràng lên hang. Tới nơi, lão Tư vụt thét:

- Vọi! Mày biết có bao nhiêu người đợi mày đem lưới ra ghe không?

Tiếng lão ta gầm rất to. Dứt tiếng, lão ta giơ cây đao cá, thẳng cánh tay giáng xuống. Tôi nhắm mắt, nghe một cái "chát", chừng mở ra thấy người thằng Vọi như bẹp dưới cát, trên đít hằn lên một lằn đỏ lớn, in nguyên hình cây đao cá. Tôi sợ nếu lão Tư trở bề cạnh răng cưa cây đao mà đánh, thì lút vô thịt thằng Vọi liền.

Trong lúc lão ta giang tay muốn đập nhát nữa, thì thằng Vọi lồm cồm dậy được, co cẳng chạy lông lốc. Lão Tư Hưng rượt theo như bay. Song hình như lão ta chỉ rượt nó chạy mau về đặng đem lưới ra ghe thôi.

Tôi ngồi một mình trên bãi. Trong hai bàn tay tôi, bốn con dã tràng vẫn còn rọ rạy.

Mười sáu chiếc ghe lưới mà tôi thấy lúc trưa gần bờ, bây giờ nước thủy triều lên, dường như có dai dời ra ngoài hai trăm thước. Sóng đánh ào ào, mấy chiếc ghe cắm ngoài kia bồng bềnh muốn giạt đi, nhưng không hề giạt được. Xa hơn đó nữa, đảo Phú Quốc như một tảng đá màu thạch lục, nổi cố định trên mặt biển.

Thằng Vọi khệ nệ ôm từng tay lưới lớn chất lên một cái xe bò. Lâu lắm nó mới chất lên hết. Xong đâu đó nó ra trước tay càng, ghé vai vô sợi dây da trâu. Nó rị một cái, chiếc xe không nhúc nhích. Lần sau nó đổi vai bước dấn tới, bánh xe bò mới chuyển. Thằng Vọi kéo một hơi. Tôi không ngờ nó khỏe đến thế. Kéo tới sát mí nước nó dừng lại, bỏ dây ra, thở phào. Hai ba mươi người đi lưới mướn hàng năm cho lão Tư Hưng, từ trên cái nhà ngói nóc đỏ lô nhô kéo xuống bãi. Đến nơi họ bu chung quanh xe bò, xốc lưới trên xe xuống. Cả bọn lội xuống nước đi ra chỗ ghe cắm.

Đất cát cạn xợt, lội đã xa mà vẫn chưa lút đầu gối họ. Thằng Vọi kéo cái xe chạy trở lên. Một hồi nó đi xuống, trên lưng mang cái giỏ sò huyết, hai tay bê tấm ván, trên tấm ván là một cái hỏa lò than đỏ có lót vỉ sắt. Trên cổ nó còn có một xâu chuỗi, không phải chuỗi hạt trai, mà là chanh trái xỏ qua một sợi kẽm.

Thằng Vọi đem từng thứ ấy để tại chỗ xe bò rồi lội ra nơi ghe đậu. Nó không đi luôn mà ra lôi một chiếc ghe vô, đem tay lưới còn lại cùng các thứ để lên ghe.

Trên nhà bấy giờ đi xuống hai người, lão Tư Hưng với một bác già, chừng như cũng là người ở mướn. Tất cả gồm bốn người, trong đó có tôi, sửa soạn lên ghe. Ra bãi Mũi, tôi cốt ý đi theo ra khơi cho biết. Lúc đầu lão Tư Hưng không khứng chịu, tôi nói mãi, sau cùng chìa ra một đồng bạc nói là chung tiền sò, lão ta mới thuận cho tôi đi.

Thấy chiếc ghe còn ở ngoài độ ba bốn sải tay, lão Tư mắng thằng Vọi om sòm:

- Còn một chút nữa cũng làm biếng không chịu kéo rấn ghe vô, mày khiến chết, tội mày bữa nay tao chưa trị đa!

Thật là lạ, ở biển mà lão ta ngại đặt chân xuống nước. Tôi thì có quần áo nào mặc quần áo nấy, còn lão ta đi lưới mà ăn mặc như đi chơi. Quần xá xị đen, áo cẩm tự màu trứng gà. Cái túi trên áo của lão, cộm ló lên gói thuốc Mêlia trắng.

Thằng Vọi vẫn vấn khố, mặc một cái áo vải ta nhuộm chàm, sợi to như bố tời.

Sau rồi thằng Vọi cũng phải lội ra kéo ghe vô sát bờ thêm đoạn nữa cho lão ta xuống. Bác lưới già dùng sào chõi ghe ra quãng sâu rồi cùng thằng Vọi cất buồm lên. Buồm giương cao bọc gió chạy như tàu. Sóng nhỏ thôi mà cũng hung hăng xốc tới muốn nhảy vô ghe, nhưng đời nào được, vì ghe do bác già lái luôn cỡi trên lưng sóng. Lão Tư Hưng móc gói Mêlia, búng cái tách lòi ra một điếu, lão ta ngoạm lấy, ấm ứ nói:

- Vọi, lấy lửa!

Thằng Vọi bò tới hỏa lò than, cầm đũa sắp gắp lửa đưa lão ta mồi thuốc. Lão Tư Hưng phà phà khói nói với bác lái già:

- Mẹ! Con nước này chém chết cũng mười tạ cá khoai. Mấy người làm cho hết mình, về tôi cho nhậu say chết cha hết thảy!

Tôi càng lấy làm lạ nữa, về cái câu như vừa nói vừa chửi của lão ta.

Chiều xuống dần, nắng rút về phương Tây. Cái nhà ngói trên bãi chỉ còn là một chấm đỏ bằng ngón tay út. Ghe càng ra xa, lão Tư Hưng càng hút thuốc nhiều. Dứt điếu này lão ta mồi điếu khác. Không thấy lão cho bác già đằng lái một điếu nào. Đi đâu quá mà vẫn chưa tới chỗ đánh cá, tôi hỏi:

- Đi xa quá vậy?

Lão ta cười, trỏ tận ngoài khơi mù mịt bảo:

-Anh khờ quá, mới có nửa đường thôi. Hôm nay ra tám cây số, có bữa phải tới mười một cây. Kiếm tiền cực thấu trời chớ anh tưởng sung sướng lắm sao/

Tôi làm thinh, gẫm lại câu nói của lão thiệt vô lý. Cực thì mấy người đi lưới mướn cực chớ lão ta cực khổ nỗi gì. Nãy giờ lão ta ngồi trên sạp hút thuốc thơm, cái áo cẩm tự trứng gà chưa dính một giọt nước biển. Nhưng tôi cứ làm thinh ngó ra khơi nữa. Thấy mấy chiếc ghe đằng trước nhỏ xíu mờ trong hơi nước biển bốc lên như sương.

Trời đã bắt đầu sụp tối. Nhưng lúc bóng tối chưa úp trọn màu đen của nó xuống khắp biển thì trên trời sao đã mọc lấp lánh. Đêm càng đến thì sao càng bật sáng hơn lên, muôn ức vì sao đếm không biết. Trước mũi ghe, nước biển rẽ ra rực sáng. Những ghe trước đã thôi chạy, hiện lờ mờ một dãy dài. Lão Tư Hưng móc ra cái đồng hồ quả quít có kim sáng, coi và nói to:

- Đúng một giờ tám cây số! Thôi, hạ buồm đi!

Thằng Vọi nãy giờ bị gió lạnh, cứ giả cách gầy than, ngồi thủ bên cái hỏa lò cho ấm. Nghe tiếng lão Tư, nó ngồi bật dậy như lò so, bò ra cột buồm mở dây. Cái rõ rẽ kêu rốc rốc. Bác lái già nương dây cho buồm từ từ hạ xuống. Cả cột lẫn buồm nằm xếp gọn bên phải sạp ghe. Ghe đi lừ đừ, đến cặp song song với một ghe khác. Mười sáu chiếc bắt cặp với nhau. Trên sạp, tiếng phao và lốp cốp, lưới được dàn ra. Hai ghe đánh chung một lưới, hai tay lưới giáp lại thành một, mỗi bên giữ một cáng lưới rồi từ từ buông rời ra. Đường lưới dài, ghe tếch ra rất lâu mới cuối hết vạt lưới.

Thằng Vọi bây giờ có muốn thủ bên cái hỏa lò cũng không được. Gió, nước thốc vào người, nó ngồi trên be ghe ghì chặt cáng lưới. Bác lái già thấy lưới buông ra rồi, thả chèo, chèo bọc lên. Tôi đợi mãi mà hai ghe vẫn chưa giáp nhau. Bác lái già kêu lên, khi ngó thấy trong vòng lưới, ánh sáng xanh chéo ngược loạn xạ. Những người đi nghề quen như bác biết ngay là đã gặp cá bầy. Lão Tư Hưng mừng được của, nói toáng lên:

- Hồi đi tôi đã biết rồi! Con nước này là con nước kim ngân mà! Cứ làm khá lên, nhứt định lần này về tôi sẽ cho mỗi người một ly rượu. Không phải rượu nếp đâu nghe, rượu ánít... anít...!

Hai đầu lưới giáp nhau, thằng Vọi nhấc cáng lưới đưa sang ghe bên kia. Lưới từ từ kéo lên, cá trắng như bạc thật, lấp lánh đều trong các kẽ lưới. Chuyến đầu đã trúng mẻ cá to.

Người bên kia trút cá hết vô khoang, trao lại cáng lưới. Thằng Vọi với lấy, ngồi thụp xuống ghì chặt như trước. Ghe lại rời ra, đi bọc. Trên sạp, lão Tư Hưng cười khà khà. Lão kéo cái giỏ sò hyuết lại bên hỏa lò. Cái xâu chanh hồi chiều tôi thấy thằng Vọi đeo trên cổ như xâu chuỗi hạt ấy, bây giờ lão sẽ nới ra từng trái, dùng dao con xắc hằng chục miếng dày chung với muối tiêu trên đĩa sứ. Lão ta nói với tôi!

- Phải ăn mừng mới được, lại đây anh!

Hễ ai có tiền thì lão Tư Hưng mới mời mọc như vậy. Lão ta phùng mang thổi mấy hơi vô hỏa lò. Lửa than đỏ rần rật. Bốc một vốc sò huyết, lão đặt từng con lên cái vỉ sắt hực nóng. Sò huyết kêu eo éo như sôi bụng, một chút sau nắp sò hé bật ra. Lão vắt chanh vào con sò, dùng đũa gắp ra chấm với tiêu ăn. Tôi cùng ăn với lão. Tôi nói:

- Dành cho họ một ít!

Lão vừa nhai ngấu nghiến thịt sò một cách ngon lành vừa đáp:

- Dành gì, tụi nó còn lo lưới chớ!

Tôi ăn có ngon nhưng dường như nhột miệng. Còn lão thì vẫn cứ tiếp tục. Đến lúc cái giỏ đựng sò vơi đi, thì cũng là lưới sắp bọc tới. Những đường sáng xanh lại rạch loạn dưới nước. Lão Tư Hùng vừa ăn và với vẻ hả hê đắc thắng, lão khoe với tôi:

- Một chuyến đi lưới gặp con nước như đêm nay, có thể tạo thêm một cái nhà bát giác nữa... Cho thuê một cái mỗi tháng hai mươi đồng, mười cái mỗi tháng hai trăm...

Hai ghe từ từ xáp lại. Lúc cách nhau độ mươi sải bỗng có một cơn gió luồng thổi vùn vụt. Thằng Vọi nâng cánh lưới đứng dậy sửa soạn trao sang... Khi nó với tay tới, bỗng một chân trái nó trượt khỏi ghe. Nó chưa kịp rút chân lên, thì luồng gió đẩy giạt ghe bên kia xô rập vào. Tôi hốt hoảng kêu rú lên. Hai be ghe va nhau vào một cái dữ dội, kẹp lấy chân thằng Vọi vào giữa. Gió thổi vù vù, tay nó vẫn ghì cáng lưới không dám buông. Rời cái cáng lưới, để rớt xuống biển, tức nhiên cá trong lưới sẽ tuột ra hết. Lão Tư Hưng chồm đứng lên. Tiếng thằng Vọi kêu như van lão:

- Tôi buông... Cho tôi buông cáng!

Dưới ánh sao, đôi mắt nó thất lạc. Lão Tư Hưng hầu như không nghe tiếng kêu thảm thiết ấy. Lão đang nghe tiếng cá dậy rộn trong lưới... Trước mắt lão hiện ra vô số cá khoai, cá gộc. Cá ấy sẽ cho lão vô vàn giấy bạc. Lão Tư Hưng giậm chân một cái rầm trên sạp ghe. Miệng lão còn đang nhai sò, huyết sò chưa chính ứ ra mép lão như máu người, lão ta gằn từng tiếng:

- Không được buông cáng! Vọi, ráng lên. Đưa cái cáng qua ghe mau. Một chút nữa... ráng, ráng!

Thằng Vọi lóa cả mắt rồi. Nhưng tiếng thúc của lão Tư Hưng dồn dập quá, khiến nó hết sức kinh sợ, cố với tay qua chừng hai gang nữa. Người bên kia vớ lấy được cáng lưới. Lão Tư Hưng mừng húm, lè lưỡi liếm máu sò bên mép, trố mắt nhìn từng vạt lưới kéo lên. Tiếng cá choi trút vô khoang nghe lạch đạch. Lão nghe đến khi cái tiếng lạch đạch dứt rồi mới quay lại. Tôi đã kéo thằng Vọi lên để nằm dài trước mũi ghe, lấy khăn quàng nhắm mắt mà buộc cái chân gẫy rập của nó. Máu ở chân nó chảy tuông như xối. Cái khăn trắng biến thành màu đỏ.

Tôi với bác lái già giục về gấp. Lão Tư Hưng cúi nhìn và gọi tên thằng Vọi. Nhưng nó đã ngất rồi đâu đáp lại được. Lão Tư Hưng nói:

- Về đâu bây giờ, lâu lâu mới gặp cá bầy như vầy. Nó chưa hề gì, dẫu có về, chân nó đã gẫy rồi nào có nối liều lại được đâu? Làm ăn không ý tứ thì khiến vậy nó mới tởn. Được rồi, mai cho xe ngựa chở nó lên nhà thương thí!

Lão Tư Hưng gọi lớn:

- Bên kia qua đây bớt một người nghe!

Một anh từ bên ghe kia nhảy sang, thay thằng Vọi.

Đi hai mẻ lưới nữa... Lão Tư Hưng mới chịu rúc tù và báo hiệu về. Mười mấy chiếc ghe sửa soạn trở mũi. Từ đó về đến bãi tôi ngồi bên thằng Vọi. Nó có tỉnh mấy lần, sau đó lại ngất đi.

Đến nơi, hai bác dân lưới khiêng nó lên. Tôi xách cây đèn chai đi sau, thấy máu nơi chân Vọi rỏ dài trên cát. Giọt máu nào rơi xuống liền bị cát hút ngay giọt ấy.

Hôm sau, lão Tư Hưng sai người chở nó lên nhà thương thí. Trưa đó, tôi cũng ra đón xe ngựa ông Bảy Hân về một cách vội vàng. Xe chạy ngang bãi lưới, tôi dòm xuyên qua cửa, thấy những vết máu đêm hôm rỏ thành một đường dài. Màu máu thấm cát bị nắng hun trọn buổi biến thành màu xám sẫm như màu sét sắt.

*
* *

Mãi đến năm sau, cũng trong mùa nắng ráo, tôi trở lên Hà Tiên, có về bãi Mũi một lần. Ông Bảy Hân vẫn còn đánh xe ngựa như cũ. Sực nhớ đến chuyện xưa, trên xe tôi hỏi thăm về thằng Vọi. ông Bảy Hân cho tôi biết sau khi lão Tư Hưng đem bỏ nó trên nhà thương thí cưa chân, tới chừng lành rồi lão bắt nó trở về đi lưới cho lão như cũ. Má nó bán bánh ếch dành dụm mà không đủ tiền chuộc nó ra. Kể xong, ông Bảy Hân chép miệng, quất con ngựa một roi chạy lồng lên. Ông còn cho biết lão Tư Hưng đã được Tây bổ làm chủ bãi. Đến nơi, tôi xuống xe, thấy cái nhà ngói lão Tư Hưng xây lại hai từng cao nghệu, nóc ngói đỏ au.

Đột nhiên ông Bảy từ trên xe nhảy xuống kéo tôi chỉ về đám người lô nhô cuối bãi, hấp tấp nói:

- Ghe lưới của chủ Hưng sắp ra khơi. Kìa thằng Vọi nó đi sau :Dt kìa.

Tôi nhìn theo tay ông Bảy Hân. Tuy một năm qua, nhưng tôi nhận ra đúng là thằng Vọi. Cái lưng mốc thích của nó phơi dưới nắng trưa, và tay nó cắp một cây nạng.

Hình như nó đi nạng quen rồi chăng, nên một chốc sau tôi chỉ còn thấy cái dáng đi của nó tập tễnh, mờ dần dưới cuối bãi.




Trả Lời Với Trích Dẫn
  #3  
Old 05-30-2004, 08:47 PM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Chuyến xe về làng





Lúc bóng tối đổ xuống trên cầu tàu, thì những chiếc đèn treo xanh đỏ trên các trụ sắt cũng bật cháy. Kính màu rọi ra một thứ ánh sáng dịu dàng và hơi tối. Chỉ vừa đủ trông thấy được, ngoài kia, phường tài tử thị trấn đã khởi đầu đêm vui của họ bằng một bài bình bán vắn. Kẻ ngồi, người đứng. Trời nóng, có anh chỉ vận độc một chiếc "xà rông" tơ, tay ôm đàn ghi ta vừa đàn vừa rảo gót lui lui tới tới. Trong một góc cầu tối nhất mà ánh đèn không rọi đến, có hai người ngồi nép mình to nhỏ. Một người đẫy đà ngồi đối diện với một gã nhỏ bé. Hai người không để ý gì đến cuộc đàn hát. Thỉnh thoảng gã bé nhỏ lại khẽ "dạ" một tiếng.

Người cao lớn móc trong túi ra một gói thuốc, búng banh bách. Y ngoạm lấy một điếu rồi chìa bao thuốc cho gã nọ. Gã này cóm róm tiếp lấy điếu thuốc bằng cả hai tay. Que diêm xòe cháy. Người có vóc dáng đẫy đà ấy mặc bộ đồ nhà binh, đội chiếc mũ lưỡi trai đính sọc hiệu đại úy tiểu khu trưởng. Còn gã buộc một chiếc khăn mùi xoa túm góc. Được mồi điếu thuốc đã đốt nơi tay tên kia, xem chừng gã lấy làm hân hạnh lắm.

Tên nọ đăm đăm nhìn gã:

- Hai Nhỏ, tôi thì tôi tin anh. Nhưng anh có dám đoan với tôi là sự báo cáo của anh nãy giờ đã thiệt chắc chưa?

- Chắc chắn, thưa ông Ba, em ở Hiệp Hưng từ nhỏ tới giờ, thằng Chính Hơn em đâu có lạ gì nó!

Gã người bé nhỏ lanh lẩu đáp. Và vừa luộc lại một chéo khăn trên đầu bị tuột, gã tiếp lời:

- Đúng là Chín Hơn cầm đầu vụ đòi tăng lương. Xin miễn ông Ba cho lính "xên" nó, tức nhiên tụi cu ly nhà máy hết dám rục rịch!

- Tôi không thường về nhà máy nên không rõ. Vậy chớ hồi Việt Minh còn ở đây, nó làm gì cho Việt Minh?

- Chín Hơn hả? Nó làm xã đội du kích. Việt Minh rút ra ngoài Bắc, nó trở vô làm trong nhà máy xay. Nó coi chạy bàn gằn. Đó là nghề của nó thuở giờ, nên người ta gọi nó là Chín Bàn Gằn. Cu ly thảy đều khoái nó, Chín Bàn Gằn nói gì cu ly cũng nghe.

Tên quan ba vỗ vai Hai Nhỏ:

- Thôi được rồi. Nhưng mà, nè...

- Dạ chi?

- Có chắc là chiều mai Chín Hơn nó về Hiệp Hưng không?

- Chắc, sáng mai nó lên thăm bà già vợ, chiều mai thì đi chuyến xe ngựa năm giờ về.

Quan Ba ẩn nắm tay Hai Nhỏ:

- Tốt, việc này mà thành thì công anh lớn lắm.

Rồi y móc ví, lấy bạc lật đếm. Những tờ giấy bạc kêu sột soạt trong bóng tối khiến Hai Nhỏ bồn chồn, khấp khởi. Đếm xong, Ba ẩn chìa ra:

- Công anh báo cáo, tôi thưởng ba trăm...

Hai Nhỏ rón tay ra định cầm. Nhưng Ba ẩn chưa vội trao cho gã. Y dặn:

- Đêm mai anh sẽ cùng đi với lính của tôi, chỉ cho trúng xe ngựa Chín Hơn thì sẽ có thưởng thêm nữa, nghe không?

Hai Nhỏ nghe nói, gã hơi lo:

- Lính đi cũng đủ sức rồi. Còn tôi, cần gì đi ông Ba?

- Cần lắm chớ... Xe ngựa về Hiệp Hưng nườm nượp, tụi lính nó đâu biết chiếc nào Chín Hơn đi.

Hai Nhỏ gật đầu:

- Cũng được, tôi đi cũng được...

- Thì có gì đâu mà không được!

Hai Nhỏ dạ một tiếng. Tiếng dạ của gã lần này nghe hơi yếu, không thật hợp với nỗi lo lắng đang lan man trong đầu gã. Là vì từ thuở bé, tay gã chưa hề nhúng máu hay phạm một tội ác gì. Năm nay gã hăm sáu. Trọn thời thơ ấu và tuổi niên thiếu ở Hiệp Hưng, gã chưa bị hư hỏng. Khoảng ba năm nay, gã đi chuyên tải rượu từ thị trấn về cho người chủ tiệm bài nhì ở chợ. Thời gian đó gã mới bắt đầu bị nhiễm độc. Nghề nghiệp bắt gã phải đi đi về về trên con đường từ làng ra thị trấn. Cái con đường chỉ trong hai năm mà đã nổi lên hàng chục quán rượu và vô số là gái điếm. Quãng đường ngắn ngủi ấy quyến gã vào vòng trụy lạc và túng ngặt, dần dần gã đã trở thành một tay sai cho Ba ẩn, quan ba kiêm chủ nhà máy xay gạo Hiệp Hưng, hiện đang ngồi trước mắt gã đây.

Bấy giờ, sau khi đã đưa tiền cho Hai Nhỏ, Ba ẩn đứng dậy. Y vừa cúi xốc lại quân phục vừa nói:

- Có tiền rồi, vô quán nhậu một chầu cho sướng, rồi sắm cho em gái anh một cái áo để nó se sua với người ta. Từ rày muốn gặp tôi thì cứ gặp ở đây chớ đừng vô bót hay xấn xả gặp tôi giữa phố, nghe chưa?

- Dạ!

Ba ẩn kéo sụp mũ rảo bước lên bờ. Hai Nhỏ vẫn đứng đó. Gã run rẩy lật đếm lại xếp bạc. Ngoài đầu cầu, phường tài tử thị trấn vẫn đờn địch ca xang. Rõ là từ nãy giờ họ không để ý gì đến công chuyện của gã. Gã bình tĩnh đút bạc vào túi áo khách, lủi đi như gió lên bờ.

Hai Nhỏ lần theo con đường phố vàng nhợt ánh đèn. Gã bớt lo rồi. Chuyện ngày mai thì mai sẽ liệu. Giờ trước khi về thì gã tạt vào quán. Gọi rượu và gọi một con gà luộc. Gã chỉ ăn một góc, còn gần nguyên con thì gã lột khăn trên đầu xuống túm lấy đem về cho em.

Dẫu rằng gã đã làm việc phản bội, như đêm nay gã đã phản bội làng quê của gã, nhưng đối với em gái thì lúc nào gã cũng nghĩ đến. Hồi sau Tết, chính gã đã đón em lên đây ở. Có tiền được ăn uống no nê, gã cũng không quên mua lấy một món ngon về cho em. Gã thương em gái của gã lắm. Là vì bây giờ gã chỉ còn mỗi mình nó là ruột thịt. Còn người ở Hiệp Hưng, ở xóm nhà máy xay thì gã kể như là không có, kể như là họ khinh khi gã lắm. Dạo trước, hồi túng ngặt, gã có lỡ lấy trộm của người vợ chủ quán A Sủi một cái quần. Từ đó, hễ nói tới gã họ cứ gọi gã là thằng ăn cắp quần đàn bà. Tức quá, gã dọn lên đây, thế là chỉ đi chở rượu tiện dịp ghé qua thôi chớ không thèm về cố cư ở Hiệp Hưng nữa.

*
* *

Những hũ rượu đã chuyển lên xe. Chiếc xe ngựa chất đầy rượu hơi trì về phía sau nên hai con ngựa thỉnh thoảng lại lui mấy bước, độp vó xuống mặt đường. Lão Bảy Hạc đã lau tắm và cho ngựa ăn xong mà vẫn chưa thấy Hai Nhỏ đến. Lão nghĩ bụng: "Có lẽ xe ngựa Tư Tôn, Chính Hơn đã đi về được nửa đường rồi. Bữa nay Hai Nhỏ đi với cái ngữ nào hay nằm say trong xó nào cũng nên!". Trời tối từ lâu. Mưa bụi và bóng tối phủ trùm trong khắp thị trấn. Đèn ở cầu tàu đã bật sáng trên một tiếng đồng hồ, lão Hạc mới chợt nhìn thấy dạng Hai Nhỏ cỡi xe đạp hộc tốc chạy về. Lão vớ cái nón nỉ trên gọng xe, chụp lên đầu. Hai Nhỏ chạy ngang kêu:

- Đợi tôi trả xe cho người ta một chút nghe, ông Bảy?

Một hồi sau Hai Nhỏ trả xe xong trở về vừa nhảy lên xe vừa nói:

- Đi đi, ông Bảy!

Đáng lẽ thì lão phải chửi cho gã một câu về cái tội gã bắt lão ngồi đợi từ nãy giờ. Nhưng lãi chỉ ngoái đầu ra sau mà nhìn gã một lượt. Hai Nhỏ cất tiếng cười nức nức:

- Chắc giận tôi lắm hả ông già? Cảm phiền nghe, bởi mắc công chuyện mà...

- Thôi, khuya rồi! Anh lấy cái đèn trong góc đốt giùm tôi đi!

Hai Nhỏ mò soạn tìm cái đèn lục lăng tháp kính đỏ bật diêm thắp và trao ra. Lão Hạc mắc lên đằng trước chỗ lão ngồi. Lão vung roi, giật nhẹ cương. Hai con ngựa rún rún chân, cất vó lôi xe chạy tới. Chiếc xe chở đầy những hũ rượu, nhưng hũ nào cũng đã chèn kỹ, chạy không hề bị xốc chạm. Lão Hạc ngồi hai gối chân chụm vào nhau, miệng ngậm ống vố, lão đưa mắt nhìn cảnh vườn tược hai bên chìm trong mưa bụi. Thỉnh thoảng mưa hắc vào mặt lão, lão cũng không vuốt. Khi thuốc trong ống vố sắp tàn, lão mới lấy thuốc thồn thêm vào. Dưới ánh đèn lù mù, giữa bộ râu rậm che k1n cả miệng, cối thuốc đỏ hồng của lão tuôn khói trắng bay ra sau. Thoạt tiên Hai Nhỏ còn kêu lên vì khói thuốc làm gã ngợp thở. Nhưng chỉ chốc sau thì không thấy gã kêu nữa. Gã đã ngủ rụi. Tiếng ngáy pho pho của gã đã bắt đầu trỗi dậy hòa với tiếng cọ khe khẽ của các hũ rượu. Lão Hạc ngó Hai Nhỏ đăm đăm. Lão nhìn gã bằng đôi mắt sầu não. Vừa nhìn lão vừa vò râu và gậm gậm ống vố. Lòng lão đang rất đỗi xốn xang. Là vì lâu nay trên con đường dài tải rượu về làng, gã con trai này đã bắt đầu trở thành một kẻ du dãng. Không phải lão có lòng sính làm phúc thương hại anh ta, nhưng bởi anh ta chính người cùng làng, là con của Tám Lân, người bạn già lao khổ của lão đã bị kẹt bè chết trên sông Bassac trong một chuyến đi mướn theo bè từ Kông-pông Chàm về. Lão Hạc sầu não xót xa ấy là vì vậy. Dạo này lại thấy Hai Nhỏ thường gặp gỡ tên quan Ba ẩn, nằm đêm lão càng hổ thẹn với người bạn già nối khố. Cái con bé Mận, em gái Hai Nhỏ, lão Hạc thương như con. Con bé cũng quý lão lắm. Những khi xe lão lên thị trấn nghỉ lại, nó thường nấu cơm cho lão ăn. Từ ngày con bé lên ở chợ, thấy nó cứ lớn phỗng lên mà lão đâm lo. ở chợ rẫy đầy những dân đứng bến, quan lính quốc gia, cả sĩ quan người Mỹ cũng thường về. Hai Nhỏ thì lại nhập với bọn đó, bỏ con bé cù bơ cù bất...

Lão Hạc nghĩ tới lui về hai anh em Hai Nhỏ, mãi khi thuốc trong ống vố đã tắt ngấm, phì phèo không ra khói nữa lão mới hay. Nhét thuốc vào cối xong thì vừa lúc xe cũng gần đến cầu sắt. Lão Hạc cho ngựa chạy chậm lại. Đến chân cầu, lão nhảy xuống vuốt ve hai con ngựa yêu của lão, rồi tóm ngắn dây cương dắt qua. Đáng lẽ thì con ngựa chạy luôn, nhưng bởi ván cầu nhiều thớt bị lính bót rút về làm củi, ngựa đi có thể sụp chân, nên lão phải dắt.

Tiếng chân ngựa nện xuống ván rung sắt thành cầu khiến Hai Nhỏ giật mình tỉnh giấc. Gã lồm cồm ngồi dậy dụi mắt:

- Tới cầu rồi hả ông Bảy?

- ừ...

Hai Nhỏ nhóng người tới trước. Nhìn những khe ván cầu trụt tối sâu thăm thẳm, gã đâm hoảng:

- Chậm chậm, cho tôi xuống, ớn quá!

Rồi gã nhảy xuống đi bộ. Sang tới đầu cầu bên kia, Hai Nhỏ leo lên. Chợt lão Hạc đứng lại lắng tai nghe, rồi khều gã:

- Hai Nhỏ, hình như ngựa của ai đi lạc hí rân ở trong đồng kìa!

Hai Nhỏ niểng đầu, mắt chớt lạch:

- ờ, chắc ngựa của người ta lạc...

Xa xa quả có tiếng ngựa hí lên rền rĩ. Lão Hạc lấy ống vố trên miệng xuống:

- Nè, nó kêu hệt như con ngựa Kim của thằng Tư Tôn mầy Hai?

Hai Nhỏ nghe câu ấy, liếc lão Hạc một cái rồi đáp:

- Chắc không phải đâu, ngựa thì con nào kêu như con nấy.

Lão Hạc gật gù:

- ờ, không lẽ thằng Tư Tôn với Chín Hơn bây giờ còn tạc vô xóm ngủ...

Nói xong lão lên xe. Chiếc xe chồm lên một chút, lại chạy lủi vào bóng tối.

Từ đó dẫn về tới Hiệp Hưng, Hai Nhỏ thức luôn không ngủ nữa. Gã nói luôn miệng, tuồng như có sự gì vui lắm. Gã móc túi lấy ra một gói thuốc thơm hiệu "ách chuồn" kề miệng cắn ngoạm một điếu và đưa mời lão Hạc. Lão Hạc lắc đầu:

- Tôi hút không quen!

- Cứ hút, hút chơi mà, giàu có gì thứ này. Ông già sao khách sáo quá!

- Không phải khách sáo, tại tôi không quen.

Hai Nhỏ cất gói thuốc vô túi. Gã vẫn vui vẻ:

- Nè, chốc nữa về quán A Sủi, tôi đãi một chầu vịt tiềm, ông già có khứng không?

Thấy lão Hạc lặng thinh, gã lại tiếp lời, vẻ cảm động:

- Lâu nay tôi tính khi làm ăn có tiền thế nào cũng đãi ông một tiệc. Thiệt tình chớ không phải nói giỡn đâu. ở đời, tôi nhỏ chớ biết phải quấy lắm. Tánh tôi vậy, chắc ông già cũng hiểu!

Lão Hạc vẫn chụm hai đầu gối chân vào nhau, ngồi im. Nghe gã nói, bụng lão vừa có sự cảm động vừa bực tức. Cảm động là sao? Là vì gã vẫn có một chút tình gì đối với lão đó. Còn bực tức, bởi vì gã là một thằng con nít mà nói nghe xấc quá, đòi khoản đãi lão thứ này vật nọ. Lão Hạc không dè Hai Nhỏ lại học thói ấy mau đến thế, và tiền đâu gã có mà định khoản đãi lão? Nhưng lão vẫn lặng im. Tật lão là trước một người nào càng khoe khang cấc lấc thì lão càng cứ im. Loại người đó tưởng lão phục họ, kỳ thực lão buồn cười và khinh thị họ nhiều lắm. Nhưng đối với Hai Nhỏ, sự khinh thị của lão thì ít mà nỗi thương hại thì nhiều. Lão Hạc nhìn thẳng tới trước, cất giọng hỏi:

- Hai Nhỏ, lóng rày anh làm ăn khá lắm phải không? Bộ chủ tiệm bài nhì trả tiền lên cho anh à?

Hai Nhỏ hơi luống cuống. Hồi sau, gã nói:

- Đâu có... Trả như cũ thôi. Nhưng nhờ tôi chắc mót hùn vốn với thằng cha Tư, mua kỳ đà, xương cọp bán cho tiệm thuốc Thành Nguyên. Nhờ cái khoản đó chớ!

Lão Hạc hơi ngạc nhiên, và nghi Hai Nhỏ nói láo. Vì tiệm thuốc bắc Thành Nguyên ở thị trấn lão tới cất hàng hoài, chớ có thấy cái xương cọp nào.

Khoảng mười hai giờ khuya, xe về tới Hiệp Hưng, dừng lại tại bến xe ngựa đối diện quán A Sủi. Thấy không có xe của Tư Tôn, lão Hạc hỏi Tư Tôn với Chín Hơn về chưa thì người chủ quán A Sủi bảo không thấy.

*
* *

Rạng ngày hôm sau như mọi bữa, lão Hạc ra ngồi quán A Sủi đợi khách. Mới ngồi vào ăn cháo lòng với tốp cu ly máy xay thì bọn đàn bà đi chợ về kêu cứu om sòm. Họ học rằng gặp Tư Tôn dắt xe đi thất thểu ở dọc đường. Xe anh ta bị đón đường hồi đêm hồm qua, Chín bàn Gằn bị một tốp người lạ mặt bắt đi. Còn Tư Tôn bị chúng nó trói nhét giẻ vô miệng khênh bỏ giữa đồng trống.

Lão Hạc nghe nói liền đóng yên ngựa rồi cùng ba người cu ly lên xe tức tốc chạy đi. Tới lúc nắng lên thì gặp Tư Tôn tại cây số 5. Anh ta mệt đừ, dắt xe đi hết muốn nổi. Mà xe thời chỉ có một ngựa. Con ngựa Kim đi lẽo đẽo đằng sau, nó bị vết dao chém nơi cổ, buộc một chiếc khăn rằn xanh. Lão Hạc xốc Tư Tôn lên xe, anh em cu ly tiếp dắt xe và ngựa đi bộ về.

Trọn ngày hôm ấy, xóm nhà máy xay Hiệp Hưng bàn tán xôn xao. Mọi người đều nghi Chín Bàn Gằn bị quốc gia bắt. Riêng lão Hạc và một số anh em cu ly thì biết rõ như vậy và còn biết cả người chỉ bắt nữa. Tư Tôn kể lại là khi anh bị trói bỏ xuống ruộng, bọn kia kéo lên xe vừa đi vừa nói chuyện, anh ta thoáng nghe thấy tiếng léo xéo của Hai Nhỏ.

Quả thật, đến chiều có người ở gần bót về nói là hồi chạng vạng hôm trước chị ta trông thấy lính khiêng Chín Bàn Gằn vô bót. Không nghi ngờ gì nữa, tất cả thợ và cu ly vác gạo định nhất tề làm reo. Người tầng khạo coi nhà máy cho Ba ẩn năn nỉ để cho y báo cáo lên ông Ba. Anh em thợ thấygạo bà con miệt ruộng đem đến xay còn ứ nhiều quá. Vả lại nhằm mùa gặt, đình lại thì bà con thiếu gạo ăn. Do đó anh em chưa đình công vội, mà đưa hai điều kiện. Một là giải quyết yêu cầu tăng lương lần trước, hai là đòi cương quyết phải thả anh Chín Bàn Gằn.

Người tầng khạo ra đi. Ngày hôm sau y trở về. Quan Ba ẩn vẫn lùng nhùng không dứt khoát. Hắn nói về lương thì hắn sẽ xét, còn Chín Bàn Gằn quả thật là hắn không biết.

Ba ẩn vẫn giữ thói man trá cũ. Số lúa của bà con nông dân vừa xay xong, tức thì tất cả thợ đình chỉ công việc. ống khói nhà máy Hiệp Hưng đương cuộn khói đen kịn, bỗng nhiên súp lê ba hồi dài. Làn khói yếu ớt dần rồi tắt hẳn.

Quan Ba ẩn tiếp được tin ấy, đứng ngồi không yên. Bởi y tính chắc sẽ dùng món lợi nhà may xay trong tháng tới mà mua thêm cho đủ số mười chiếc đò máy. Mười chiếc đò mang tên Lê ẩn của y sẽ rầm rộ chạy trên sông Bassac, không một ai kình chống nổi. Bây giờ dự định của y gặp khó khăn, nhân cơ hội này mấy tên tiểu khu trưởng lân cận rất có thể cướp mất súng sông của y.

Cho nên sáng sau, y đi xe hơi về Hiệp Hưng. Xe dừng trước sân nhà máy, y hỏi người tầng khạo kêu mấy đại biểu thợ tới cho y nói chuyện. Đại diện thợ đốt máy, đốt lò, cu ly vác gạo tới gần mười người. Quan Ba ẩn trên xe nhảy xuống. Y nện gót giày bước tới lui nhìn mọi người rồi cất giọng hùng hồn:

- Mấy người thay mặt cho anh em thợ phải không? Tốt lắm, làm sự gì có hàng ngũ như vậy là tốt. Ngô tổng thống ngài thường kêu gọi anh em cần lao có điều gì cứ bày tỏ trật tự chớ không nên làm rối, làm rối là vô tình mắc mưu Cộng sản, rất hại. Còn mấy người đây là đại diện, là người cần lao chánh hẩu, là phần tử rất được trên chú trọng. Bây giờ tuy chưa vô Đảng chớ cũng như hồi vô rồi. Tôi nói Đảng đây là đảng Cần lao nhân vị, một đảng đi đầu trong phong trào quốc gia...

Quan Ba ẩn còn đang tiếp lời thì đã có người la lên:

- Thôi, chúng tôi hiểu rồi. Bữa nay xin cho anh em biết về vấn đề lên lương và anh thợ Chín Bàn Gằn có được thả không? Anh em thợ cần hiểu điều đó!

Quan Ba ẩn hơi dội, nhưng vẫn cố vui vẻ:

- Khoan, mấy người đừng nóng, để tôi nói cho nghe. Tất nhiên là về lương công nhật của anh em, tôi biết, anh em sống còn vất vả lắm. Nhưng anh em nên biết là nhà máy chúng tôi thu lợi không đặng khá, trả lên ngay ắt nhà máy khó chạy nổi. Đó là lẽ thứ nhất. Còn anh em nói Chín Bàn Gằn gì đó, bảo là chúng tôi bắt... Không, thiệt là không có. Tôi có biết Chín Bàn Gằn là anh nào đâu... Mấy người coi chừng tụi Cao Xuyên nó bắt đa, chớ quân đội quốc gia chúng tôi đâu có phép làm chuyện ám muội như vậy.

Một anh thợ đại diện lên tiếng:

Vậy là ông không chấp nhận lời yêu cầu của anh em?

- Không phải, không phải tôi không chấp nhận. Nhưng là vì, bởi vì... như tôi vừa nói.

Quan Ba ẩn nói chưa hết lời, chợt cu ly ùn ùn kéo tới chung quanh. Một người thợ đại diện đứng lên chồng bao gạo nói:

- Ông chủ nhà máy đã trả lời là lương không thể lên được và không biết Chín Bàn Gằn là ai hết, anh em tính sao?

Tiếng thét vang rền đáp lại đòi nghỉ và đòi thả Chín Bàn Gằn ra. Vừa thét đám thợ vừa giậm cẳng khiến bụi cám bốc mù.

Quan Ba ẩn thất sắc, mặt đỏ bừng, y thét lớn:

- Làm loạn hả? Tụi bay tính làm loạn hả? Nghỉ làm, được, tụi bây cứ nghỉ đi, coi ai chết đói cho biết. Còn Chín Bàn Gằn, tao bắt, tao không thả gì hết thảy!

Thợ đứng chung quanh rất đông và ngày càng tới đông hơn. Quan Ba ẩn đâm hoảng. Người tầng khạo nãy giờ pha ly nước chanh, bưng ra xán đến gần đưa cho y. Đương bị mất mặt, y vung tay gạt ly nước chanh rơi xuống nền xi măng bể ngướu.

*
* *

Đêm nay Hai Nhỏ đã uống rượu đến tờ giấy bạc cuối cùng. Sau một trận say èm trong quán, lúc gã chợt tỉnh thì thấy đêm đã khuya lắm. Trong thị trấn im vắng, gã vươn vai đứng dậy lần về gian nhà lá cuối phố của gã. Hôm về Hiệp Hưng, ngày sau đi đâu gã thấy hình như ai cũng nhìn gã bằng con mắt soi mói. Gã nghĩ bụng: chắc họ đã biết rõ việc làm phản bội của gã. Đôi lúc gã vững tâm tự nhủ: "- Làm chó gì mà biết được!" Thế nhưng gã vẫn lo. Nhất là mấy thằng thanh niên vác gạo đồng chạnh với gã. Gặp gã, chúng cứ ngó lườm lườm. Cho nên sau khi cất rượu lên tiệm bài nhì, gã vội vàng đón xe về ngay, không dám nấn ná ở đêm. Gã sợ bị "tiêu" lắm. Chết đi đã thiệt thân, lại bỏ em gái nhỏ không ai nuôi. Gã sợ nhất điều đó. Sáng nay hay tin quan Ba ẩn bị thợ nhà máy làm dữ đã phải hứa thả Chín Bàn Gằn, gã lo ghê quá.

Rượu trong người vẫn chưa thoát ra hết, nên gã đi dật dờ rất lâu mới về tới nhà. Gian nhà lá tối om om. Gã đinh ninh là con Mận em gã đã ngủ rồi. Cất tiếng gọi không thấy trả lời, gã lẩm bẩm: "- Con nhỏ ngủ mê quá, tụi con gái mười sáu chắc đều ngủ mê như vậy". Rội gã giơ tay đập cửa. Nhưng cửa mở trống tự lúc nào, thành thử gã đập vào khoảng không khí, người bị chúi nhủi vô trong. Gã kêu lên và quờ quạng khắp nơi mà không thấy em gã nằm đâu cả. Phỏng chừng chắc con nhỏ còn thức chơi với lũ con gái nhà lò bún. Sẵn mệt và buồn ngủ, gã quờ chân đóng cửa rồi nằm sấp xuống chõng định đánh một giấc. Chợt thình lình có người đập cửa, và tiếng bà chủ lò bún hỏi vọng vào:

- Chú Hai Nhỏ về rồi đó hả? Dậy, dậy mau. Quỷ thần ơi, chú đi đâu mà đi biệt vậy. Tụi nó chở con Mận đi rồi!

Hai Nhỏ nghe nói vùng dậy:

- Ai chở, ai chở em tôi thím Tư? Hả?

- Tụi bót Ba ẩn chớ ai!

- Thiệt hả?

Thím Tư lò bún giậm cẳng:

- Tụi nó đi xe máy dầu xông vô. Con Mận la làng. Tụi nó dụ dỗ, con Mận càng la dữ. Sau chúng nó bắt con Mận bỏ vô cái thùng bên hông xe. Một thằng nói:

- Thứ còn mới nguyên như mày ở chơi một đêm làm giàu một tháng, anh mày cũng chịu rồi, còn mày cứ làm bộ cớn rớn hoài.

Hai Nhỏ kêu trời. Gã lột áo vứt vào nhà rồi chạy vụt về hướng bót. Gã chạy tuột cả chiếc khăn túm đầu, tóc bay xấp xải. Bên tai gã văng vẳng tiếng em gái gã đang kêu la thảm thiết. Sự thực thì gã đã từng hại đời nhiều đứa con gái ở chợ này. Cưỡng bức, gã cũng đã từng cưỡng bức. Song bây giờ đến lượt lũ chúng nó động tới em gái gã, đứa em gái nhỏ nhoi độc nhất mà gã hết sức yêu mến thì gã lại không chịu nổi.

Người lính gác trại thấy bóng gã xuất hiện bất ngờ, hoảng hốt lên cò súng:

- Ai, đứng lại!

Tiếng nạt lớn làm Hai Nhỏ đứng sững. Dẫu sao gã cũng chưa điên. Gã nói to:

- Tôi, tôi là Hai Nhỏ. Em gái tôi... Em gái tôi... Cho tôi vào, cho tôi gặp ông Ba!

Người lính hạ mũi súng:

- Hai Nhỏ đó hả? Anh còn muốn gặp ông Ba à?

Người lính vừa nói vừa ngước mặt lên

Hai Nhỏ ngước nhìn theo. Trên từng gác cao le lói ánh sáng, vọng ra tiếng cười hô hố. Có tiếng nhạc dồn dập và tiếng rượu khui nổ bôm bốp. Người lính lại nói:

- Cho anh vào thì tôi chết. Anh qua đầu đường ngồi đợi mà đón em anh về.

Hai Nhỏ như quẫn trí. Giọng nói của anh lính làm gã bàng hoàng. Lúc ấy người gã hơi tỉnh rượu, thì đồng thời gã cũng vừa nhận ra sự bất lực ở gã. Gã đứng sững một hồi rồi sang bên lề đường ngồi ôm đầu. Đường vắng vẻ không có ai. Không có ai ngoài gã với cái bóng đen thui thủi của gã in trên sỏi đá. Bấy giờ Hai Nhỏ mới cảm thấy đầy đủ sự bơ vơ cùng tột của gã. Gã có cảm giác hầu như chung quanh mình đều là biển cả mênh mông, không có một bóng thuyền, không có một mảnh gỗ nào để gã có thể bấu víu. Đương nhiên bỗng gã nghĩ tới làng quê Hiệp Hưng, tới xóm nhà máy và hình dung thấy tất cả mọi người. Cả những người trước đã gọi gã là thằng ăn cắp quần. Nhưng bây giờ người nào coi cũng dễ chịu chứ không có ai hung dữ và tệ bạc cả. Trong cái biển nước mênh mông mà gã đang bơi lội một cách tuyệt vọng kia, ctợt như có bóng thuyền ló dạng, ngày một tiến gần về phía gã...

Gã ngồi như vậy, trên hai tiếng đồng hồ, sương xuống ướt cả mái tóc. Bỗng có tiếng gì lộp cộp sau lưng dội tới. Hai Nhỏ giật mình ngẩng lên. Từ đằng xa một chiếc xe ngựa đang đi đến. Xe chạy qua chỗ gã ngồi mấy sải chợt dừng lại, trên xe một người nhảy xuống. Hai Nhỏ vùng kêu:

- Ông Bảy, ông Bảy ơi!

Chính là lão Bảy Hạc. Lão đi lại, ngơ ngác:

- ủa, Hai Nhỏ! Bây giờ còn ngồi làm gì ở đây?

Không thấy Hai Nhỏ đáp, lão Hạc tưởng mình hỏi động tới công chuyện kín của gã, lão vội vàng lùi lại. Nhưng mới lùi mấy bước, chợt lão nghe cánh cửa trại bót rít ken két. Hai Nhỏ bỏ mặc lão đứng đấy mà chạy nhào về phía cửa. Lão nhìn thấy bóng một đứa con gái lảo đảo bước ra. Nhờ ánh đèn rọi sáng, lão nhận đúng là con Mận. Nó đi coi bộ hết nổi, tóc tai rối tung và áo quần nhầu nát. Lão Hạc thoáng hiểu. Tim lão như dừng đập và mắt lão long lên. Lão đứng lặng giữa đường. Hai Nhỏ cõng xốc con bé lên vai đi ra, lão mới vội chạy lại. Hai Nhỏ kêu thét lên:

- Mận ơi, Mận!

Cô gái khốn khổ ngả đầu vài vai anh nó. Lâu sau nó rên rỉ:

- Anh ơi... Anh... Ha... ai... ơi!

Tiếng kêu đau thương ấy hình như phát ra giữa đôi môi đương bậm lại đến ứ máu. Hồi sau thì không nghe thấy nó kêu nữa. Hai Nhỏ trở mình ôm em vào lòng. Mắt gã ráo hoảnh. Cái đôi mắt chỉ đỏ chứ không có nước mắt. Gã nhấc đầu em gã lên tận mặt, để trong phút này có thể nhìn rõ gương mặt tròn trĩnh và đôi mắt ngây thơ của đứa em đang cố giương lên mà nhìn gã.

Hơn nữa tiếng sau thì con bé mệt quá ngất đi. Sau khi nó đã gắng sức giơ hai tay lên vòng lấy cổ của anh nó. Người lính bên kia đường bấy giờ cũng như điên lên. Anh ta xốc xốc lưỡi lê vào tờng khoét đổ một mảng tường to. Hai Nhỏ ôm chặt lấy em. Gã cứ ngồi như thế rất lâu. Rồi bỗng gã vùng ôm em đứng dậy. Lão Hạc níu lấy vai gã:

- Đi đâu, anh còn định đi đâu nữa?

Vừa nói lão xăng tay áo đón lấy con bé, đi thoăn thoắt đến bên xe. Sau khi đặt con bé nằm vào một nơi trong xe, lão gọi Hai Nhỏ nói như ra lệnh:

- Còn anh cũng lên đi... Nghe lời tôi về Hiệp Hưng. Không chỗ ở thì tôi chứa, có đói thì đi vác gạo mà ăn! Còn cái nhà này ở đây, bỏ, bỏ hết!

Hai Nhỏ lúc này không dám cãi một tiếng, ríu ríu bước lên xe. Gã vừa đặt đít xuống chợt va nhằm chân một người ngồi nghẻo đầu ngủ, không rõ là ai. Gã không buồn xem là ai nữa, lặng lẽ mà nhìn đứa em dáng tội nghiệp đang nằm sóng sượt dưới chân gã. Đằng trướcm, lão Hạc đã cho xe chạy. Chiếc xe quẹo qua cuối phố, trút bỏ vầng ánh sáng ghê rợn của khu bót lại sau lưng. Bánh gỗ bị sắt bắt đầu nghiến sỏi đường rào rạo. Lão Hạc ngồi im như bức tượng. ánh đèn lục lăng soi mờ bộ mặt đen rám và đôi mắt đỏ như tôm luộc của lão. Cái cối thuốc giữa cụm râu rậm che kín miệng lão vẫn đỏ hỏn như mọi đêm, nhả khói ra sau. Lúc xe qua cầu sắt, lão Hạc lại xuống. Hai Nhỏ còn thức nhưng gã không xuống như lần trước. Tiếng chân ngựa nện xuống ván rung sắt thành cầu. Người nằm ngủ phía sau trở mình cất tiếng rên khe khẽ. Chốc sau người đó ngóc đầu dậy. Mặt anh ta băng bó, máu dây ra từng vệt khô xám. Chợt Hai Nhỏ trố mắt, hoảng hồn thụp đầu xuống. Gã vừa nhận ra người đó là Chín Hơn và gã cúi trốn khổ sở như vậy chừng Chín Hơn ngã người xuống như cũ, gã mới dám khe khẽ ngóc đầu lên.

*
* *

Khoảng ba giờ khuya xe về tới Hiệp Hưng. Quán A Sủi vẫn còn đèn. Một số thợ hình như vẫn còn ngồi đợi. Khi lão Hạc kêu lên:

- Anh em ơi, Chín Hơn về rồi đây nè!

Mọi người chạy đổ ra. Chị vợ Chín Hơn bồng con nhỏ chạy nhào tới. Mọi người vui mừng xúm dìu Chín Hơn xuống. Chợt nhác thấy bóng ai lù lù trên xe, một người hỏi:

- Còn ai ở trỏng nữa đó, ông Bảy?

Lão Hạc lặng lẽ đáp:

- Anh em Hai Nhỏ!

- Hai Nhỏ à? Lôi nó xuống mà nện cho nó một trận đi!

Một anh vừa nói vừa hùng hổ nhảy lên xe. Nhưng lão Hạc đã nắm vai anh ta đẩy xuống. Mắt lão hấp háy nhìn mọi người, rồi cất giọng khàn khàn nói:

- Bà con à, phải, Hai Nhỏ ở trong xe đó. Chính tôi chở nó về, cả em nó nữa. Nhưng em nó thì... hồi tối người ta hiếp nó. Tôi nghĩ rằng để nó ngoài chợ e nó không sống đặng nên tôi chở về chữa chạy...

Lão Hạc nghẹn ngào. Lão cố dằn, nuốt cổ ừng ực trỏ vào xe:

- Còn anh nó, thằng Hai Nhỏ, bà con đã biết. Nó đã làm phản... Tại nó mà chú Thím Hơn bị bắt, bị đánh đau. Nhưng tôi vẫn cứ chở nó về, bà con có trách, tôi xin chịu...

Lão Hạc đứng lặng hồi lâu hai chân lão đi lập cập.

Rồi lão bưng mặt ngửa lên trời:

- Anh Tám Lân, anh chết đi gởi gắm hai đứa con cho tôi mà tôi không làm tròn bổn phận. Anh Tám Lân ơi, tôi có lỗi với anh...

Mọi người đứng sững sờ bên đường. Mấy anh thợ không nói, lặng lẽ đi đến nơi xe đổ. Một người cầm đèn cho hai người đỡ con bé dậy khiêng đi. ánh đèn ngôi quán dọi mờ đôi mắt lờ đờ hé mở của con Mận. Hai cánh tay của nó xuôi rũ riệt. Mấy người đàn bà, cả vợ Chín Hơn, trông thấy thế thì òa lên khóc nức nở. Hai Nhỏ vẫn ngồi nép mình trong xe. Bỗng Chín Hơn từ trong quán gượng đi ra. Anh bước lên quờ quạng nắm lấy tay Hai Nhỏ kéo xuống. Biết chiều nay gã chưa ăn uống. Chín Hơn bảo người chủ A Sủi còn có thức thì dọn ra cho gã ăn.

Quả là trọn ngày nay Hai Nhỏ chưa ăn cơm thật. Gã đói lắm. Song bây giờ thì gã đâu còn bụng dạ nào mà ăn được. Gã ngồi cúi gằm đầu trước bàn, không nói một lời. Lúc cái tiếng rên khe khẽ của con Mận từ nhà lão Hạc vọng lại, ruột của gã như bị tiếng ấy róc xé chảy máu. Cuối cùng gã gục xuống bàn mà khóc một cách thảm thiết. Gã khóc cho đến lúc gà trong xóm cất tiếng gáy, đến tận lúc bên ngoài bóng đêm đã nhợt dần và bầu trời thì đã bắt đầu rựng sáng.



Trả Lời Với Trích Dẫn
  #4  
Old 05-30-2004, 08:48 PM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

Con cá song





Tàu chúng tôi sau khi đưa chiếc tàu buôn Thụy Điển ra khỏi cửa bể thì neo lại. Là vì đến khuya chúng tôi còn phải đón một chiếc tàu Liên Xô vào cảng. Lúc tiếng chuông trên tàu đánh lên báo hiệu neo đã thả xong thì vừa đúng tám giờ tối. Tôi nhận gác phiên đầu. Tôi đem treo đèn mũi và đèn lái rồi ra đứng ngoài boong. Tất cả thủy thủ đều tranh thủ đi ngủ lấy một giấc. Chỉ còn lại có tôi và người thuyền phó. Người thuyền phó ấy tức là anh Năm Trường, vốn đồng hương với tôi. Bóng tối đã buông xuống mặt bể từ lâu. Trước mặt tôi ngọn hải đăng Long Châu vẫn đều đều chớp lóe. Quanh chỗ tàu đậu và dọc về phía hòn Xám Buối Chẩu hiện ra nhan nhản những cánh buồm thuyền lưới. Mỗi chiếc thuyền lưới mang một ánh đèn nhỏ, lặng lẽ lướt đi lướt lại trên mặt biển. Anh Năm Trường bàn với người cấp dưỡng trên tàu là ông Tư Già, định gọi thuyền mua cá nấu cháo. Ông Tư cấp dưỡng đồng ý. Tôi với anh Năm Trường đi ra lái tìm gọi một chiếc thuyền mua cá nấu cháo. Ông Tư cấp dưỡng đồng ý. Tôi với anh Năm Trường đi ra lái tìm gọi một chiếc thuyền ở gần nhất. Anh Năm bắt tay lên miệng gọi lớn. Có tiếng người têrn thuyền ơi ới đáp lại. Nhưng rồi không rõ vì sao, chẳng thấy một thuyền nào cặp bến. May sao giữa lúc ấy, có một chiếc hướng mũi chèo về tàu. Chiếc thuyền đó đi rất chậm, đôi lúc như vùng vằng định trở mũi, mãi sau mới cặp vào mạn tàu. Tôi cầm chiếc đèn bão giơ lên. Trước mũi thuyền, một anh con trai chạy ra bám vịn thành tàu. Đó là một thanh niên có đôi vai rất rộng, bộ ngực anh ta nở căng cả áo và mái tóc anh ta đẫm nước. Sau lái thuyền, có một ông lão bịt khăn đầu rìu. Dưới chân ông lão là cái bếp lửa mới nhóm lên, cháy vờn vờn.

Anh Năm Trường vui vẻ hỏi vọng xuống:

- Có con cá nào ngon không anh bạn? Cho chúng tôi mua một con!

Anh con trai không đáp, hất mớ tóc trên đầu, đoạn cúi dỡ sạp mũi. Dưới khoang thuyền, tiếng cá quẫy lạch bạch. Những cái sống lưng cá to đen và những vẩy cá như bạc hiện ra lấp loáng trước mắt tôi. Nhưng anh trai trẻ nọ trông lầm lì quá. Đôi bàn tay anh ta quờ quạng dưới khoang chẳng mấy là nhanh nhẹn, xem chiều như miễn cưỡng nữa. Sau cùng anh ta nhấc lên được một con cá. Song thực tình chẳng phải là con cá chúng tôi đang ao ước tí nào. Một con cá nhụ coi như mới chết, mình không được dịu. Tôi kêu lên:

- Con cá ấy bé quá, mà nó lại chết!

- Anh chọn cho tôi một con đủ trên mười người ăn. Chúng tôi cần cá to và ngon để nấu một nồi cháo! Anh Năm Trường nói vào.

Anh con trai đáp nho nhỏ:

- Không còn con nào to đâu, cũng thế cả thôi!

Giọng nói của anh ta rõ là giọng nói của một người bán mà không thiết bán. Tôi lấy làm lạ quá. Rõ ràng vừa rồi dưới khoang thuyền có nhiều con cá trườn sống lưng rất to, đâu phải tôi trông lầm. Tôi định nói, nhưng chưa kịp thốt lời thì sau lái ông lão đã nói lớn:

- Có, còn mấy con song to các bác ạ!

Vừa nói lão vừa bò tuông ra mũi. Tôi nhìn thấy lão rõ hơn. Đó là một ông lão khoảng trên năm mươi. Đầu lão như húi trọc, tóc lún phún trổ ra ngoạm lấy mang tai. Dưới gáy lão in dấu một vết sẹo to như đường dao chém. Người lão coi gầy nhưng cứng cáp. Chiếc áo nâu ngắn tay đang mặc không gài cúc để lộ ra một chiếc thánh giá bằng đồng nhỏ buộc lủng lẳng trước ngực. Lão nói như thét với anh con trai:

- Chậc... Bắt cái song ấy. Gớm, sao mày lại dấm dớ thế, hử?

Anh con chưa kịp cúi xuống khoang thì lão huých luôn cùi tay vào người anh ta và giật lấy chiếc vợt. Nhanh như cắt, lão đã lùa ngay được một con cá vào vợt và nhấc lên. Tôi thấy một con cá song rất to đè trĩu đáy vợt. Thân con cá màu nâu sẫm điểm vằn đen, mang nó thở đều đặn và nơi mũi phì phò những bong bóng nước nhỏ. Nằm trong lưới vợt mà nó xòe cái đuôi ra to như một bàn tay giang rộng. Thực là một con cá đẹp song đẹp đẽ. Anh Năm Trường trông thấy cũng ưng ý ngay. Nhưng anh ta đưa mắt nhìn anh con trai nọ bảo:

- Anh kia có cá to mà sao không muốn bán thế, bộ anh cho chúng tôi không có tiền à? Cán bộ công nhân chúng tôi quả thực không giàu, nhưng thừa sức mua mấy con cá của anh mà.

Người thanh niên nọ ngước mắt lên, lặng lẽ nhìn người thuyền phó chúng tôi. Có lẽ anh ta định nói gì, nhưng ông lão đã quắc mắt nhìn. Cái tia sáng đôi mắt ông lão đã chặn lời anh ta. Bấy giờ thật bụng tôi cũng chẳng thương hại cho anh ta một chút nào. Cái sự anh ta làm trở ngại việc mua bán của chúng tôi thật là sai quấy hẳn đi rồi. Thì anh ta còn định nói gì nữa kia chứ!

Ông lão hai tay chấp cái cán vợt nâng lên. Bộ điệu như vừa là để cho chúng tôi trông thấy tỏ rõ con cá, lại như vừa có vẻ xin lỗi. Anh con trai bấy giờ trở nên một người vô phận sự. Anh ta bò ra sau lái, có vẻ như vẫn còn hậm hực điều gì. Anh Năm Trường hỏi ông lão giá cá bao nhiêu một cân. Ông lão đáp mỗi cân giá một nghìn hai. Chúng tôi thuận mua con cá ấy với giá sáu nghìn hai trăm đồng. Ông lão đưa vợt lên. Tôi đón lấy, lật vợt hất con cá xuống boong tàu. Người đánh cá già sau khi nhận đủ tiền thì xin buộc thuyền vào mạn tàu để nghỉ nấu cơm và đợi con nước khuya.

Trên tàu, tiếng dao thớt của ông Tư cấp dưỡng đã khua lên. Tôi vào bếp bỏ thêm than vào lò chuẩn bị bắc nước. Anh Năm Trường ngồi với tôi một lúc, trước khi xuống cabin ngủ, anh dặn tôi:

- Hễ thấy tàu đến thì đánh chuông, chừng nào cháo chín kêu tụi tôi dậy. Chốc nữa thế nào anh cũng phải uống với tôi một cốc rượu. Từ lúc anh xuống đây tôi chưa được thấy anh uống rượu bây giờ!

Tôi cười không đáp, vặn cây đèn cho cháy sáng hơn rồi ra ngoài, ngồi im, ngửa mặt nhìn trời. Đêm tháng mười, bầu trời lấp lánh các vì sao. Những ngôi sao có tên gọi cùng với những ngôi sao khác chiếu lên nền trời thứ ánh sáng xanh dịu. Gió biển từng cơn từ khơi thổi vào khiến cho tôi mát tỉnh người. Đêm sang thu ở cửa biển thế này thường gợi cho tôi nhiều mơ ước và cảm hứng muốn viết. Bên mạn tàu, ông lão và anh con trai đang hạ buồm xuống. Ông lão ghì sợi dây luộc lòng và anh con trai thì kéo sợi lèo trôn. Trên thuyền, ánh lửa đã nhóm cháy sáng. Tôi đưa mắt nhìn qua ánh lửa chập chờn soi rọi, thấy trong mui có một bức tượng nhỏ Đức Bà Maria và Chúa Hài Đồng tạc bằng đá xám, hơi bé và thô, đặt trên một cô con gái ngồi cạnh bếp lửa. Một cô gái ở biển, có đôi cườm tay đầy đặn, đôi gò má bầu bĩnh rám nắng. Mái tóc cô cũng đẫm nước như anh con trai. Cô ngồi bó gối vào lòng, nhè nhẹ đưa tay đun những que củi đang cháy kêu lắc rắc. Anh con trai sau khi xếp buồm trên mui xong thì đến ngồi bên. Anh ta lặng lẽ tựa lưng mình vào lưng người con gái và duỗi hai chân ra. Tôi đoán chừng họ là hai vợ chồng. Anh con trai ngồi im như thế rất lâu. Tôi nhận thấy cái khuôn mặt đó lầm lì thế nào. Dường như anh ta có sự ấm ức trong lòng mà chưa bộc ra được. Người con gái đưa mắt liếc nhìn, đoạn với tay lên mui lấy một chiếc khăn nâu vắt lên vai anh ta, khẽ bảo:

- Lau đi cho khô tóc.

Anh chồng trẻ vẫn lặng thinh không đáp. Thình lình anh ta hất chiếc khăn sang một bên và nói chõ vào khoang:

- Bố làm thế thì thật không còn mặt mũi nào!

Trong khoang có tiếng dặng hắng của ông lão. Rồi tiếng ông lão nói ra:

Mày bảo sao?... Hừ... tao làm cho tao ăn cả đấy!

- Không phải chuyện bố ăn hay tôi ăn. Lúc nãy tôi đã bảo bố đừng bán, thế mà bố chẳng nghe. Bây giờ đã trót vậy, tốt hơn hết là đem số tiền bán con cá song ấy hoàn lại cho tập đoàn...

Tôi giật nảy mình. Câu đó làm tôi hiểu ra. Tôi có ngờ đâu con cá song chúng tôi vừa mua là của một tập đoàn phường lưới. Thật chẳng dè câu chuyện bán cá đơn giản vừa rồi lại ẩn náu cái uẩn khúc như vậy. Tiếng ông lão rít lên:

- Mày nói gì thế, thằng khốn. Không đời nào thằng già này chịu thế. Mày còn dại lắm con ạ... Không, không...

Thấy mình nói khí to, sợ trên tàu nghe thấy, lão liền hạ thấp giọng. Nhưng tôi vẫn nghe được tiếng lão ta nói tiếp:

- Ai biết được. Chẳng có thuyền nào trông thấy. Đêm hôm tối tăm thế này...

Anh con trai cười:

- Hừ... Hằng ngày bố vẫn cầu nguyện "Chúa ở khắp mọi nơi... thông biết mọi sự" đấy thôi!

Ông lão lặng im.

Anh con trai nói thêm:

- Thế là bố đã không giữ điều răn thứ bảy của Chúa!

Anh con trai mới nói xong thì người con gái quay mặt lại. Cô ta lấy tay cấu khẽ chồng, cau mày.

- Mày dạy lại tao đấy à? Phải, kinh thánh có răn là không được tham của người. Chúa dạy thế. Nhưng đó là Chúa dạy chớ lấy của người khác. Mà tao, tao chẳng có lấy của ai sốt. Của tao làm ra, tao có quyền bán đi. Như vậy là tao không mảy may phạm tội tới điều răn của Chúa.

Ông lão nói với giọng vừa tức giận vừa hả hê. Nói xong lão ngồi nhổm dậy. Kế đó tôi thấy lão mò mẫm tìm vật gì. Lão với tay ra sau lái nói: "Đốt tao cái đóm!" Cô con dâu rút một cọng đóm đốt, trao cho lão. Ông lão hút thuốc. ánh sáng que đóm bùng lên. Tôi nhìn thấy cái ống điếu của lão hút thật to và dài. Loại điếu của người miền núi, tôi chỉ thấy trong một dịp lên Hoàng Su Phì. Tiếng điếu rít lên ồng ộc. Anh con trai lại nói:

- Ăn cắp của một người đã có tội. Ăn cắp của nhiều người càng có tội hơn. Của tập đoàn là của nhiều người. Chúng ta lấy phần của một trăm hai mươi thuyền... Thế mà bố bảo là không có lỗi.

Ông lão bị con dồn vào chỗ thất thế, không lựa lời gì để nói được nữa. Lão tựa lưng vào vách thuyền. Hồi sao lão cất lên một tiếng thở dài não ruột. Trong ánh sáng chập choạng, bóng lão nhổm dậy. Hai tay lão quờ quạng về phía trước nắm chặt lấy then thuyền. Lão nói, giọng không quát tháo như lúc nãy, mà đay nghiến và kể lể:

- Trước kia... mày có biết đâu. Tao đối với bố tao không có như mày đối với tao bây giờ. Tao sống với bố qua những ngày cơ cực không sao nói xiết. Biển cả mênh mông này, chỗ nào mà chẳng có pha mồ hôi của tao, của bố. Chẳng phải đổ mồ hôi không đâu, mà còn đổ cả máu nữa, con ạ. Năm đó mày hãy còn bé, vả lại ở trên bãi mày không thể biết được một trận bão chưa từng thấy. Tao với bố đã chịu qua một đêm một ngày giữa biển. Và không sao bẻ lái như ý muốn. Cuối cùng thuyền rập vào bờ. Không phải là bờ cát đâu, mà rập vào đá. Bố bị chết chuyến ấy, người bị rập giữa đá với thuyền. Còn tao, tao kịp nhảy ra, nhưng vỡ đầu và ngất lịm đi. Vết sẹo trên đầu này của tao có phải là do tao đi ăn cắp, ăn trộm bị người ta chém cho đâu. Không, đó là vì tao vật lộn với miếng ăn để nuôi mày đấy. Bu mày cũng thế, suốt đời cực khổ chẳng ngước mặt lên được. Đời tao với bu mày có biết ăn chơi đàn đúm như chúng mày ngày nay đâu. Bu mày chết, mày làm gì biết được cái cảnh chết đau đớn ấy. Chết vì ăn phải nhiều cá quá. Dạo đó người ở Cát Hải - Gia Luận không có gạo ăn, cá mang lên chả đổi được gạo. Tao cõng xác bu mày đi chôn. Sức tao yếu quá, đến nỗi không thể lê chân đi tìm được chỗ nào cao ráo, đành phải chôn bu mày ở đầu bãi. Cái bãi mà bây giờ chiều chiều bọn bay vẫn xi nê xi niết đấy... Chuyện đó chắc mày đã nghe bà con nói. Tao hình như chưa kể với mày một lần nào. Là vì tao không muốn nhắc lại làm gì. Nhắc lại, mày nghe có thể có ích cho mày, nhưng tao thì lại không chịu nổi. Sau khi bu mày chết, tao sống một mình trơ trọi. Nhiều đêm chợt nghĩ tới chuyện cũ thì không sao ngủ được, nước mắt cứ trào ra. Mặt khác lại không yên thân với chủ thuyền. Chiếc thuyền rập nát trong trận bão biển năm đó nào có phải của tao đâu, của thằng Mã Chiếm đấy chứ. Thế là phải làm trả nợ thuyền suốt hai năm đấy con ạ. Nào ngờ vẫn không chết, sống qua khỏi cái năm đói ghê gớm nhất, rồi lần lần tách ra khỏi sợi dây thòng lọng của thằng Mã Chiếm tròng trên cổ tao suốt mười chín năm trời. Lần hồi, tao dành dụm sắm được thuyền cùng đi lưới chung với bà con. Cho đến nay tao năm mươi nhăm tuổi, mới nhẹ thở được một tí. Nếu Chúa không thương xót thì còn gì thân tao, và mày cũng không được khôn lớn như ngày nay. Thế mà ngày nay chính mày lại làm cho tao ngạt thở. Lúc nãy mày lảm nhảm những gì thế, hở?... Chịu thô, mày đối với tao thực không bằng người dưng kẻ chợ. Cầu Chúa tha tội cho mày...

Trên boong tàu, tôi cúi nhìn xuống. Dưới ánh sao đêm mờ nhạt, ông lão quỳ một gối chân, đang giơ tay lên ngực lên chán làm dấu. Giữa lúc ấy tôi nghe vẳng tới một tiếng nức nở. Đó là tiếng khóc của người con dâu. Cô ta ngừng cời than, úp hai bàn tay vào mặt, đôi vai khẽ rung lên. Anh con trai không động đậy. Rõ là anh ta đang đứng trước một cuộc phản công hết sức mãnh liệt. Lời lẽ nửa đay nghiến nửa thở than của người bố già ấy đã đưa anh vào một tình thế khó tháo gỡ. Người bố từ chỗ trước kia bị thất thế, giờ hóa ra chủ động. Rõ ràng ông ta đang đưa con mình vào một chỗ đã định, bắt người cont rai trẻ dừng lại ở đó mà suy nghĩ, mà đắn đo để rồi uể oải không cất chân bước lên được nữa.

Tôi miết chặt hai ngón chân cái xuống sàn tàu, dán mắt lo lắng nhìn về phía anh bạn trẻ của tôi. Lưng anh ta vẫn dựa vào vai vợ nhưng hai chân từ từ co lại. Anh ngồi im như một bức tượng. Chỉ có đôi lông mày hơi nhíu và đôi mắt mở trừng trừng, long lanh đọng ánh than lửa từ bếp hắt lên. Tôi không rõ anh ta đang nghĩ gì. Điều chắc chắn là tâm trạng anh ta không được bình thường. Tôi chợt thấy anh ta thúc nhẹ khủy tay vào sườn vợ, chừng như bảo vợ nín đi, đừng có khóc nữa.

Rất lâu sau, dưới thuyền vẫn im lìm. Tiếng sóng đều đều vỗ ộp oạt vào mạn thuyền và tàu, càng làm cho sự yên tĩnh lộ rõ hơn. Anh con trai từ lúc nghe gợi nhắc về cái quá khứ cũ của bố mẹ, vẫn cứ ngồi im phăng phắc, khiến tôi sốt ruột. Nhưng tôi vẫn kiên trì chờ đợi và hy vọng. Bấy giờ tôi thấy hết sức cần đòi hỏi ở anh con trai ấy một câu nói. Cái câu nói của anh và của chính lòng tôi đang mong đợi. Cốt sao anh ta đừng tạo một sự căng thẳng, đừng làm cho người vợ yếu lòng kia phải cất tiếng khóc một lần nữa. Thời gian trôi qua rất chậm và nặng nề. Vẫn không thấy anh con trai hé miệng. Tôi sắp sửa nản lòng, thì người con trai ấy đã lên tiếng.

- Nỗi khổ của bố ngày xưa, tôi rõ lắm... Bố ạ, khi bố nhớ lại những cảnh ấy thì bố có nghĩ là tại sao bây giờ bố được dễ thở không? Chẳng nhẽ bố lại không nhớ vì thế nào, nhờ ai mà thằng Mã Chiếm nó chịu buông cái sợi dây thòng lọng của nó ra hay sao? Bố cứ nghĩ xem...

Tôi thở phào nhẹ cả người. Anh con trai đã nói lên cái câu nó mà chỉ có trong lứa tuổi anh mới nói được. Lời nói khiến ông lão im đi một chập rất lâu không đáp. Tôi bỗng nghe từ dưới cabin có tiếng chân người đi lên. Thì ra anh Năm Trường. Anh đến bên tôi. Khi anh sắp mở miệng định nói thì tôi đã kịp giơ tay chặn lại. Tôi kéo anh đi về phía mũi. Anh Năm Trường lo lắng hỏi:

- Cái gì thế, anh?

Tôi nói: "- Chuyện gác thì không có gì xảy ra, nhưng có chuyện này... " Rồi tôi thuật lại cho anh nghe câu chuyện giữa bố con ông lão thuyền cá. Cuối cùng tôi chép miệng:

- Bọn mình cũng sơ suất, lẽ ra phải hỏi cẩn thận rồi hãy mua.

- Không hề gì. Vả lại mình có biết đâu. Giờ cá đã sắp ăn rồi không thể trả lại được!

Nói đoạn anh Năm Trường bảo tôi cùng đi với anh lại chỗ chiếc thuyền buộc. Đến nơi tôi với anh im lặng ngồi nép xuống. Dưới thuyền, ông lão vừa hút xong một hơi thuốc lào nữa rồi ngả lưng nằm xuống. Đằng lái anh con trai đã xây lưng lại. Anh ta đưa tay vuốt vuốt làn tóc ướt của vợ. Vợ anh đã thôi khóc, ngồi yên cho chồng mân mó tóc mình. Một lúc sau chị rũ nhẹ mái tóc, lúi húi tìm đèn đốt lên. Chị lấy đũa cả giở vung xới cơm. Mùi cơm nếp bốc hơi thơm ngát đến tận mũi chúng tôi. Chị ta bày ra trên sạp lái một chiếc mâm gỗ, trên có đặt ba cái bát và một con cá nhụ nước. Chị rướn người vào khoang nói:

- Bố ra xơi cơm!

- Cứ ăn đi, bố chưa đói đâu. Ông lão đáp.

Người con dâu lộ vẻ không yên tâm. Chị ta lo bố chồng còn giận. Nhưng anh chồng đã nhắc trên giá xuống một chiếc bát to. Anh sẻ một nửa con cá và xới cơm nếp, cẩn thận để riêng ra. Anh đưa mắt ra hiệu bảo vợ ăn. Hai vợ chồng cùng ăn với nhau. Anh con trai ban đầu còn cầm đũa về sau cứ vắt xôi trong tay mà ăn ngấu nghiến. Chị vợ thì ăn nhỏ nhẻ từng miếng một. Chốc chốc chị liếc chồng và nâng bát che nụ cười tủm tỉm.

Bỗng ông lão lên tiếng, chừng như sau bao nhiêu lâu nghĩ ngợi:

- Tuổi già như tao không hề quên tạ ơn ai bao giờ. Nhưng có cái tao nghĩ mãi chẳng ra. Đảng và Chính phủ bày ra cái tập đoàn làm gì nhỉ? Nói thực, tao có thích vào tập đoàn đâu. Tao mà vào tập đoàn là tại mày, là vì tao không chịu nổi cái miệng thế. Có ngày đây rồi không dư dả đâu mà góp nuôi cha xứ được!

- Sao lại không? Mấy tháng nay cha vẫn sống đầy đủ đấy chứ!

Ông lão im đi một chập, hồi sau nói:

- Ngày mai chủ nhật thuyền về bến Quảng, tao cấm mày nói ra điều gì đấy nghe không?

- Ngày mai tôi có việc bận phải lên thị xã đấy bố ạ!

- Việc gì?

- Tôi đi họp thanh niên.

Ông lão tỏ vẻ ngạc nhiên:

- Thế mày không đi lễ à... Mà thôi, cũng được, đã đi họp thì đừng đi lễ.

Anh con trai trả lời: - Tôi đi họp nhưng tôi cũng không bỏ lễ.

- Đi đâu thì đi nhưng giữ cẩn thận cái mồm anh đấy!

- Nếu nhỡ bà con biết thì sao?

- Làm thế nào mà biết được?

Anh con trai ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo:

- Bố nên nghe tôi, tốt hơn hết là đem trả số tiền bán cá lại cho ban quản trị tập đoàn đi bố ạ!

Câu nói của anh con trai như lời tuyên bố cuối cùng, như một tiếng chuông đánh vang lên lần :Dt. Chúng tôi nghe thấy hình như ông lão rít chặt hai hàm răng lại. Anh Năm Trường đập nhẹ vào vai tôi một cái. Tôi đinh ninh là nhất định hai bố con sẽ cãi nhau to. Cô con dâu cũng quả có nỗi lo như tôi. Chị ta phát nhẹ tay vào lưng anh chồng, môi bậu lại. May sao giữa lúc đó trên mặt bể có tiếng động cơ. Tôi khều anh Năm Trường nói khẽ: "- Tàu đến!". Anh Năm đứng lên nhìn, nhưng lắc đầu nói: "- Không phải!".

Chiếc "Maiascốpki" chưa đến. Đó là chiếc "Vĩ ngư" của Trung Quốc đi đánh cá về. Tàu chạy ngang mặt chúng tôi về mé phải. Có lẽ tàu đánh được nhiều cá lắm nên trông rất khẳm. Anh con trai nọ buông câu chuyện đang nói với bố, mải lo nhìn tàu. ánh mắt anh lộ vẻ thèm thuồng. Tàu chạy khỏi rồi, anh bảo vợ:

- Thích thật, giá mà cho tớ được đi đánh cá trên tàu thì tớ đi ngay!

- Thì anh cứ đi đi, có ai buộc chân anh ở thuyền đâu. Ông lão xen vào. Ngừng một lúc, lão tiếp lời:

- Mà cái thứ như anh người ta cóc có cần... Anh đi, tôi đây cũng chả thiết. Anh ở đây, anh chỉ độc làm khổ tôi...

Anh con nghe bố nói thì vùng cười:

- Không có tôi bố sẽ ra khỏi tập đoàn chứ gì?

- Không biết!

- Thế thì tôi chẳng đi đâu cả. Chừng nào bố thích được cái tập đoàn đó thì chừng ấy tôi mới đi!

- Ma quỷ! Mày bất hiếu bất mục thế thì Chúa không chứng cho mày đâu!

- Sao, bố nói sao? - Anh con trai hỏi lại.

- Tao nói Chúa không chứng cho mày. Mày mà cứ thế thì rồi mày chết sa địa ngục.

Anh con trai bèn cười nữa, và nói:

- Chưa biết ai sa địa ngục đấy. Tôi thì tôi cứ thẳng một mạch lên thiên đường cho bố xem!

Hai bố con cứ thế mà nói. Không khí dưới thuyền đã trở nên dễ chịu hơn. Dẫu sao, qua một trận cãi vã, họ vẫn là bố con ruột thịt với nhau. Nhưng riêng tôi, tôi cảm thấy cuộc cãi vã đến đây chưa phải là đã kết thúc. Từ lời nói đến việc thực hiện được ý muốn, người con sẽ còn phải vượt qua bao nhiêu khó khăn nữa. Tôi hình dung nỗi khó ấy mà lo thay cho anh. Nhưng bây giờ tôi trông anh có vẻ ung dung chứ không vội vã. Sau khi thôi nói với bố, anh ta day qua cọ cọ nằm lên đôi vai tròn trĩnh của vợ. Anh áp miệng nhá nhá hàm răng lên cái đôi vai đó. Chúng tôi không nghe họ nói thêm gì nữa. Vừa lúc ấy, chợt có tiếng người cấp dưỡng gọi. Cháo đã chín, bay mùi hành thơm phức. Tôi với anh Năm Trường rời chỗ ngồi. Đồng hồ tàu điểm mười một giờ. Tôi xuống cabin đánh thức anh em dậy. Chốc sau chúng tôi đã quây quần ở quầy lái, múc chuyên tay nhau những bát cháo cá tươi. Anh Năm Trường đem chai rượu ra rót vào những chiếc cốc sứ nhỏ. Trước khi ăn chúng tôi mời ông lão thuyền cá. Ông lão từ dưới thuyền đáp: "- Cám ơn các bác, chúng tôi vừa mới lỗi cơm xong!". Anh Năm Trường bưng một cốc rượu bước ghé ra mời ông lão. Nhận ra rượu, ông lão cảm ơn nhiều lượt, rồi hai tay đỡ lấy cốc rượu uống thẳng một hơi. Uống xong lão "khà" một tiếng khoái trá. Anh Năm Trường lại rót một cốc khác nói rõ là mời anh con trai. Nhưng anh ta lắc đầu:

- Tôi không biết uống đâu!

- Sao lại không? Uống đi chứ, một hớp thôi...

Và mặc dù anh con trai từ chối, người thuyền phó vẫn nài anh ta uống cho được. Ông lão chuyển cốc rượu ra sau lái với vẻ mặt ngạc nhiên trước sự thay đổi thái độ của người thuyền phó đối với con mình. Người con gái e thẹn tiếp lấy cốc rượu nơi tay ông lão đưa lại cho chồng. Anh con trai không từ chối được, bưng lấy cốc. Tôi mỉm cười nhìn anh bưng cốc rượu uống. Hẳn chỉ có riêng tôi với anh Năm Trường là hiểu được ý nghĩa của cốc rượu tặng ấy. Sau đó, chúng tôi cùng húp cháo nóng một cách ngon lành. Nhưng gương mặt của thủy thủ ngồi quanh tôi đều đỏ hồng lên. Trên trán họ lấm tấm rịn ra những giọt mồ hôi nhỏ. Lúc sắp ăn xong, đồng chí hoa tiêu kêu lên:

- Tàu đến kia rồi!

Tôi buông thìa cháo đang ăn, nhìn ra khơi. Quả nhiên thấy có ánh đèn tàu xuất hiện ở cuối mặt bể. Đồng thời chợt nghe từ phía ấy phát lên những tiếng nổ rất ấm. Vô số những pháo hoa xanh đỏ, vàng từ tàu "Maia" bay vọt lên không trung. Chúng tôi reo hò thích thú. Mọi người đều hiểu. Đêm nay đúng là đêm kỷ niệm Cách mạng tháng Mười, các thủy thủ Liên Xô bắn pháo hoa để chào mừng ngày lễ lớn.

ánh đèn tàu "Maia" mỗi lúc một đến gần. Đèn tàu sáng rực như đèn điện ở một vùng phố nhỏ. Tôi đến cởi hộ dây cho chiếc thuyền lưới. Ông lão gò lưng kéo mạnh sợi dây buộc lòng. Cánh buồm nâu từ từ bị lôi sểnh lên. Tiếng chuông trên buồng lái reo giật. ống khói tàu khọt khẹt như người hắt hơi. Chiếc thuyền lưới tách ra khỏi tàu, xa dần. Tôi chỉ còn vừa kịp nhìn thấy chiếc lưng vạm vỡ và đôi vai rộng của người con trai. Rồi bóng thuyền khuất mất trên mặt biển tối.

Tôi bảo anh Năm Trường:

- Anh Năm à, tôi e rằng bọn mình vừa rồi ăn phải mấy miếng cá không được xã hội chủ nghĩa lắm.

Người thuyền phó đồng hương của tôi đáp:

- Tớ thì tớ nghĩ khác. Tớ tin là anh con trai sẽ thắng ông bố!

Bấy giờ tiếng máy khởi động mạnh làm thành tàu rung lên. Đèn tàu bật sáng, chân vịt sau lái bắt đầu khuấy nước ùng ục. Tàu chúng tôi quay mũi nhằm hướng chiếc "Maiaxcốpki" mà chạy lướt tới. Tôi đưa mắt nhìn từng chùm pháo hoa ngũ sắc đang bay múa tuyệt đẹp từ trên lưng chừng không là là buông xuống, chiếu sáng những ngọn sóng hình lưỡi búa.

Trước mũi tàu, sóng nước bị rẽ ra, vỡ tan, đầm đìa ánh sáng. Còn các vì sao xanh biếc trên trời kia thì cứ như là cùng lướt đi theo tàu chúng tôi không đành lòng tạm biệt.




Trả Lời Với Trích Dẫn
  #5  
Old 05-30-2004, 08:49 PM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Lightbulb

Con chị Lộc





Trời đang có mưa.

Những người tù biết trời mưa khi họ vừa bị lùa ra khỏi khám. Họ đón lấy giọt mưa với nỗi sung sướng thầm lặng. Ngót một năm rồi họ bị nhốt kín. Sống với roi vọt và bóng tối, họ thèm ánh mặt trời, thèm mưa, thèm cỏ cây. Họ khao khát mọi thứ tầm thường nhất mà xưa nay thiên nhiên vẫn rộng lòng ban phát cho mọi người.

Quả là ai cũng muốn bước thật chậm. Người nào cũng muốn đặt bàn chân lâu lâu trên đất. Bởi vì họ hiểu rằng chẳng mấy chốc nữa họ sẽ xa đất rất lâu. Và có thể là sẽ xa đất mãi mãi.

Côn Đảo với họ ngày nào còn là một hòn đảo ghê rợn trong tưởng tượng thì bây giờ tất cả mọi hiện thực ghê rợn về hòn đảo ấy đã gần gũi lắm.

Nhưng cái khoảng cách giữa cổng khám và những chiếc xe đợi chờ họ đi đâu có xa. Nên dẫu họ có đi chậm mấy, dẫu họ có nuối tiếc, cuối cùng rồi cũng không thể giữ được mãi hơi hướng của đất dưới đôi bàn chân.

Người tù lê bước đi sau hết là một phụ nữ có mang. Trong bóng tôi, chị thu hai cánh tay bị còng lên ngực, ngửa mặt đón lấy hạt mưa. Một người đi trước ý chừng sợ chị té, quay lại hỏi:

- Chị Lộc, chị đâu rồi?

- Tôi đây!

Chị đáp, và đi tới ánh sáng của một chiếc đèn "pin" chiếu thẳng vào mặt chị. Tên lính vừa bấm đèn đó quát:

- Sao đi chậm vậy, hả?

Dĩ nhiên là tên lính ấy không hiểu lý do về sự đi chậm của chị. Hắn đâu hiểu nỗi mừng rỡ của chị khi bắt gặp những giọt mưa rơi xuống. ánh đèn pin vẫn chưa tắt trên khuôn mặt người phụ nữ. Trông chị chưa quá hăm tám. Khuôn mặt trái xoan thon thả và xanh xao kia, cái đôi mắt sáng không chớp kia có cái gì rất đỗi trang nghiêm, vượt lên trên số phận tù tội của chị. Dường như chị không thấy có tên lính cùng tiếng quát của hắn. Tên lính thì lại nhận ra đó là một thái độ bướng bỉnh. Hắn vung khẩu tômxơn lên. Nhưng có tiếng người nói sau lưng:

- Đừng, chị ấy có thai!

Cũng chẳng rõ ai nói. Một người tù nào đó. Sau câu nói, mọi người đinh ninh một trận đòn sẽ xảy ra. Nhưng không, tên lính không đánh ai cả.

- Chị Lộc, chị mệt lắm không?

- Không sao. Giờ tôi thấy dễ chịu hơn. Mưa mát quá!

Xe hơi chở họ chạy đi. Mưa rơi lộp độp trên mui xe phủ vải bạt. Trận mưa đêm gợi cho người đi đày nhiều nỗi nhớ. Người nào cũng im lặng nghĩ đến vợ, đến con, nghĩ đến những người đồng chí thương mến đã cùng sống với mình qua những phút gian lao.

Chị phụ nữ mang thai ngồi bẹp dưới sàn xe. Hai tay chị đặt nơi bụng. Chị nghe tiếng mưa rơi rõ hơn tiếng ù ù của xe chạy. Từng giọt mưa cứ thấm vào lòng chị nỗi lo âu lạnh giá. Chị đang nghĩ đến đứa con. Đêm nay lại bắt đầu những thử thách mới, gian khổ khôn lường. Một câu hỏi luôn luôn ám ảnh chị: "Liệu con mình còn sống được không? Liệu mình còn gìn giữ được nguồn hy vọng tươi sáng mà bấy lâu mình mong đợi không?

Thật mong manh quá.

Sự sống của người đi đày vốn đã mỏng manh rồi, nói chi đến sự sống của đứa bé phải ra đời trong cảnh đi đầy. Cách đây mươi bữa, cơn phong ba ở Phú Lợi đã thổi qua đầu chị. Nay sẽ là biển cả nổi sóng, là hòn đảo chết cứ mỗi lúc một hiện ra, đen sạm. Nay không những chị phải vượt biển mà chị còn phải vượt cạn, vượt qua tất cả những gì tàn bạo nhất của kẻ thù dành cho chị và đứa con của chị. Đứa con! Ôi hai tiếng ấy có những mãnh lực gì, hai tiếng ấy có những tình yêu và hy vọng gì mà tự thuở còn con gái chị đã nghe nó từ xa. Có chồng rồi, chị Lộc nghe tiếng ấy gọi dậy trong lòng. Có lẽ như hầu hết những người con gái Việt Nam khác, trời đã phú sẵn cho chị tấm lòng của người mẹ ngay từ lúc chị chưa biết tình yêu. Chị không thể hiểu được khi nghe nói có những người đàn bà thành phố không muốn đẻ con, nuôi con. Họ chỉ thích kéo dài cuộc sống son rỗi, nhàn hạ. Chị không hẳn là những người phụ nữ thành thị, cũng không hẳn là người phụ nữ nông thôn. Chị có sống ở cả hai nơi. Nhưng bất kỳ ở đâu, sao chị cũng ham bế đứa con trẻ trên tay. Với chị, tiếng khóc của đứa trẻ nào mới sinh chị nghe cũng nô nức. Chị có chồng hơi muộn. Hứa hẹn với nhau thì lâu, nhưng làm lễ cưới chậm. Có chồng được vài tháng, trong một đêm vợ chồng nằm áp mặt vào nhau, chị thủ thỉ bảo chồng rằng: "Anh ơi, nếu có đẻ con nhiều thì hai đứa mình rán nuôi nghe, đừng để sơ sẩy đứa nào nghe!" Anh Lý, chồng chị, chẳng nói sao cả. Nhưng chị biết, dù đêm tối, chị biết anh ấy cười. Người tỉnh ủy viên đó hay có cái nụ cười tủm tỉm như thế. Bây giờ anh ấy ở đâu? Chị cũng không rõ. Đời cách mạng, chồng một nơi, vợ một nẻo. Lúc thụ thai được một tháng chị bị bắt. Trước những miếng đòn khảo tra của bọn công an, chị cố tìm cách tránh né sao cho đừng trúng bụng. Có hai cái chị gìn giữ cẩn thận nhất. Đó là những bí mật của Đảng và đứa con. Nhưng bí mật của Đảng thì chắc chắn giữ được, chớ miếng đòn kẻ địch đánh lên thân thể thì không sao tránh xiết được.

Sau những lần bị tra tấn, chị thường soát lại coi mình có nói câu gì có hại cho đoàn thể không. Rồi chị bình tĩnh để ý nghe coi cái thai có bị hề hấn gì không.

Độ này đứa bé chòi đạp mạnh khiến chị đau lói, choáng váng. Tính ra thì cũng đã gần ngày. Đứa bé đi vào nhà tù khi nó chớm tượng hình người. Thế là những dự định nho nhỏ của chị cũng không thể có được nữa rồi. Một chiếc nôi đan bằng mây, một cái mũ len xanh da trời nếu chị sanh con gái. Cái mũ sẽ đỏ tươi nếu chị đẻ con trai. Làm sao có thể có được trong cái cảnh đi đày này những tấm tã trắng, chùm vải ngũ sắc treo trên nôi, nhịp võng đưa nghe kẽo kẹt, và nhất là nụ cười của chồng khi anh ấy cúi xuống bên con...

Ngồi trên xe dẫn ra cái bến biển đày ải, chị Lộc chụm hai khuỷu tay bị còng lại đặt lên bụng, như giữ lấy đứa con cho nó khỏi bị xốc.

Cơn mưa mỗi lúc một to. Trong xe tối quá, ngột ngạt quá. Chị Lộc ước: "- Phải chi tấm vải bạt kia trụt hở ra một chút thì thật là sướng". Chị muốn thở một cái. Nhưng biết làm sao. Tấm vải bạt nọ móc vào mui xe bởi những chiếc móc sắt rất khít khao. Mà tay người nào cũng bị xiềng cả. Có muốn mở cũng không được.

Lát sau chị Lộc chợt thấy có tay ai quờ quạng chạm lên tay mình. Tiếp theo đó là một giọng nói khàn khàn.

- Con có mệt lắm không?

Chị Lộc nhận ra ngay ông Sáu, người tù cao niên nhất đã ở tù chung với chị tại Phú Lợi. Chị đáp:

- Con hơi ngột... Bác Sáu có ngột không?

Ông già an ủi:

- Rán một chút nữa cháu. Gần tới rồi!

- Tới đâu?

- Chắc là nó đưa mình tới bên Ba Son.

Ông già trả lời. Mấy ngón tay gầy của ông đưa đi đưa lại vuốt vuốt bàn tay Lộc. Một nỗi xúc động kỳ lạ dâng lên trong người chị. Khi những ngón tay gầy guộc khô chai đó rờ rẫm tay chị, và cái còng nơi cổ tay ông già chạm phải cái còng trên cổ tay chị bật lên một tiếng kêu.

Còng số tám U.S.A. Cái nào cũng hệt như nhau. Nhưng hai bàn tay thì thuộc hai thế hệ khác.

"Đứa con trong bụng mình lại là một lớp người sau nữa". Chị Lộc nghĩ.

Trong một chuyến đi đày mà có tới ba lớp người đẻ trước sinh sau. Chị tự hỏi: "Liệu cái còng trên tay mình và tay bác Sáu sau này có còn siết lấy cổ tay con mình nữa không?" Trả lời câu hỏi đó của chị là tiếng xe hãm rít ở phía trước. Rồi chiếc xe chở chị cũng đột ngột dừng lại. Mọi người bị ngã quỵ vào nhau. Có tiếng giày đinh từ trên xe nhảy xuống, giẫm lạo xạo trên đá sỏi.

Tên lính đi ra sau xe mở tầm vải bạt. Mọi người trong xe nhỏm dậy. Tên lính gầm gừ:

- Chưa xuống đâu, đợi đó!

Chị Lộc đã thở được một hơi. Chị thấy trong người dễ chịu hơn. Ông Sáu kêu:

- Đúng là bến Ba Son rồi!

Dưới ánh sáng của những bóng điện mắc trên lưới thép gai giăng quanh, chị Lộc thấy những tên lính gác cắp súng đứng liền nhau. Sóng sông Sài Gòn vỗ ì oạp vào bờ đá. Hai chiếc tàu sắt đậu lù lù dưới bến, mõm há ra. Những xe trước rú lên, ghé đít vào sát bửng sắt của con tàu bây giờ biến thành cái cầu.

Những người tù nhảy xuống, hai tay bị còng cứ thu thu nơi ngực. Chiếc tàu nuốt lấy hết người này đến người khác. Cái mõm tham lam ấy chứa đến bảy tám xe người mà vẫn chưa chịu đóng lại.

Chiếc xe chị Lộc quay đầu, chạy lùi về mõm tàu. Tên lính thét:

- Xuống!

Mọi người đều nhảy, trừ chị Lộc. Chị không dám nhảy. Có hai anh ghé vào đỡ chị xuống. Tên lính liền thúc báng súng vào lưng họ, khiến họ ngã chúi. Họ coi đó là sự thường, lồm cồm ngồi dậy.

Đám người bị lùa xuống tàu sau những họng súng garăng lắp lê sáng loáng. Chị Lộc lần đầu bước lên tàu há mồm. Chạy trên tấm sắt dày, chị nghe lạnh ngắt bàn chân. Xuống đây đèn bật sáng lên, tù được tháo còng, để rồi liền đó họ bị cùm chân vào những thanh sắt dài thượt sơn đen đặt trên sàn tàu. Đó là những thanh quyện văn minh nhất mà người Mỹ đã chế tạo.

Chị Lộc đút chân vào cái quyện sắt ấy rồi, bỗng thấy trong người bần thần khó chịu. Chị khẽ tựa vào lưng một người ở phía sau.

Hầm tàu quả là một cái dạ dày háu đói đến tàn nhẫn. Nó cứ nuốt lấy những người tù bị lùa chạy qua tấm sắt. Đến lúc nó không thể nào chứa thêm được nữa thì hai sợi dây lòi tói lớn bằng bắp tay từ từ móc lôi tấm bửng sắt lên. Mõm tàu khép lại. Tiếng lòi tói, tiếng sắt khua động rền rĩ. Đó là tiếng còi chào giã bến của những tàu loại này.

Đèn trong hầm tàu cũng tắt nốt.

Tàu xình xình lướt đi trên mặt sông Sài Gòn. Chị Lộc cắn chặt môi giữ cho mình khỏi khóc. Bị tra tấn chị chẳng hề ứa một giọt nước mắt. Vậy mà bây giờ chị muốn khóc làm sao. Chị rưng rưng nhớ tuổi nhỏ, nhớ má chị, nhớ tình yêu hé ra trong những ngày đen tối. Giây phút ấy chị thấy lại cái bến sông mà chị thường giặt giũ gội tóc. Chị cảm thấy tay mình như còn ấm nóng cái bàn tay âu yếm vụng về của anh Lý, mới ngày nào vừa cầm dắt chị đi qua một cánh đồng. Chị còn nhớ gió chiều thổi lật những gốc rạ, và phía chân đồng như hãy còn ầm ĩ vọng lại bên tai chị tiếng sấm báo hiệu trời sắp sa mưa.

Con tàu sình sình trườn đi trong đêm tối. Tiếng ồn ào của thành phố im dần. Cuối cùng Sài Gòn chỉ còn dậy lên rào rào như một tổ ong. Sóng nước vã lách chách vào mạn tàu. Cứ mỗi lúc chị Lộc nghe tiếng sóng vỗ mạnh hơn. Tàu bắt đầu bị nhồi lắc.

- Biển rồi!

Một người trong hầm tàu kêu lên.

Tiếng kêu như một lần nữa báo cho những người đi đày biết rằng cái gì ở lại sau lưng đều đã ở lại. Gió lùa qua các cửa sổ tròn. Chị Lộc sợ nhận lầm, nên chị nhổm lên nhìn. Sau cửa, chỉ có đêm đen, với những lượn sóng bổ nhào, đầm đìa ánh sáng.

"Ra tới biển thật rồi!". Chị tự nhủ và ngồi xuống. Nhưng bấy giờ chị thấy bụng hơi đau. Rồi cơn đau bất ngờ oặn lên khiến chị lặng người đi. Hai tay chị bíu lấy thanh sắt quyện chân, mồ hôi vã ra hai bên thái dương. Trạng thái cơ thể báo cho chị biết rằng đây không phải là một cơn đau bụng thường. Chị gắng chịu cho tới lúc không dám im chịu nữa. Chị phều phào gọi:

- Mấy anh ơi!

- Gì đó?

- Tôi đau quá!

- Ai? Chị Lộc hả, sao?

Những đôi bàn chân đưa tới, sờ soạng trong bóng tối tìm chị. Tiếng ông Sáu hỏi:

- Con Lộc hả? Sao đó con?

- Dạ, con đau bụng quá. Có lẽ...

Ông già không đợi Lộc nói nữa, quát luôn:

- Ai ở gần cửa đập cửa kêu tụi nó coi! Nói có người chuyển bụng đẻ...

Tấm cửa sắt ngăn hầm tàu và những căn phòng ở phía trước bị gót chân người giậm rầm rầm. Người giậm cửa có lẽ mỏi cả chân rồi mà cánh cửa vẫn không động đậy.

- Chắc tụi nó ngủ. Đạp mạnh nữa đi!

Tấm cửa sắt lại bị những người gần đấy đạp dữ dội. Lát sau cánh cửa kêu rít lên. Đèn trong hầm tàu bật sáng. Tên lính thò đầu qua khe cửa mở hé, hỏi:

- Làm cái gì om sòm vậy?

- Có một người phụ nữ chuyển bụng đẻ.

Tên lính trố mắt:

- Đẻ hả! Ai đó?

- 1090

- Thiệt là rắc rối quá. Thôi để tôi báo trung úy. Tên lính rụt đầu vào. Những người trong hầm tàu sốt ruột chờ hắn trở lại. Chị Lộc bây giờ đã nằm xuống hầm tàu. Mà chân trái chị vẫn bị giữ trong quyện sắt.

Tên lính đã trở lại. Lần này có cả tên trung úy đi theo. Hai tên lách mình qua cửa. Tên trung úy quay sang nói gì với tên lính. Tên lính liền móc xâu thìa khóa cúi xuống ở thanh cùm bên phía chị Lộc và hất hàm:

- Số 1090, rút chân ra nghe!

Chị Lộc từ từ rút chân mình ra.

Thanh cùm lại đóng khép những bàn chân kia lại. Tên trung úy nói:

- Trên tàu không lo được chuyện chửa đẻ!

- Y tá của các ông đâu?

- Không có y tá!

Giữa đám đông người bỗng có một cánh tay giơ lên:

- Tôi làm việc đó được. Mở cùm cho tôi!

Người vừa nói ngồi tận trong xó tàu. Sự lên tiếng của anh ta đem lại hy vọng cho cả hầm tàu. Tên trung úy ngó lơ chỗ khác một lúc rồi day lại hỏi:

- Thằng nào mới nói đó?

- Tôi, 1212!

- Mày biết làm cái nghề đó à?

- Biết.

Tên trung úy đứng lưỡng lự một chốc rồi bảo tên lính:

- Mở cho nó ra!

Chùm chìa khóa lại khua lên. Tên lính mở thanh cùm sắt trong vách tàu cho người tù số 1212 rút chân ra.

- Chúng tôi xin đi thêm hai người nữa!

Hai anh ngồi cạnh anh 1212 vừa nói vừa rút chân ra luôn. Tên trung úy thét:

- Không, không được!

Tên lính nói nhỏ vào tai tên trung úy:

- Thưa trung úy, cứ cho tụi nó đi. Hai thằng đó có thể nấu nước.

Mọi người lao xao:

- Ông không có y tá thì để chúng tôi giúp đỡ nhau.

Tên trung úy cười gằn:

- Mấy người giỏi gánh vác cho nhau lắm... Thì cứ đi theo mà gánh vác. Nhưng tôi cho hay phải lo chỗ nằm cho chị ta đó. ở trên đẻ thì được chớ không nằm được đâu!

Ba người tù bước ra. Họ tiến đến chỗ chị Lộc, đỡ chị dậy, dìu đi. Sóng biển bây giờ xô mạnh hơn. Con tàu chao lắc quá, nên bước đi của họ cũng rõ là vất vả hơn. Họ miết ngón chân xuống sàn tàu, người nghiêng nghiêng.

Cánh cửa sắt khép lại.

Khi bốn người đã đi, không khí trong hầm tàu có cái gì không giống trước. Đành là tên lính không tắt đèn. Do đó mà hầm tàu có ánh sáng. Nhưng cái khác trước đây là mọi người đều ngồi dậy cả. Những tiếng nói lào xào:

- Cho hai người đi thêm là rất hay!

- Phải rồi, tin tụi nó đâu được.

- Quân khốn nạn quá. Chị em có chửa xin hưỡn lại đẻ cũng không được. Thằng Diệm mà chết thì mả của nó rồi cũng bị trời đánh tét hai như mả ông già nó thôi!

- Tôi sợ thằng nhỏ khó sống. Cô ta bị nó đánh cũng nhiều...

- Trời ơi... Mong sao mẹ tròn con vuông. Ra đảo rồi thì tụi mình cố mà đùm bọc cho hai mẹ con...

Mọi người nguyền rủa, bàn bạc lo lắng. Ngót ba trăm con người ấy đang hồi hộp đón đợi sự ra đời của một con người. Họ chờ cánh cửa nhích ra. Khi mà biển cả trong đêm thâu vẫn gào lên. Và gió rú dữ dội. Gió xát vào mạn tàu, thổi hù hù qua các cửa sắt. Những người đi đày chợt quên khuấy cái hòn đảo khủng khiếp mà con tàu sẽ đưa họ đến trong ngày mai. Bây giờ hầu như không ai nghĩ tới hòn đảo chết :Dc ấy nữa. Cả hầm tàu nghĩ tới đứa bé, và người mẹ của nó. Họ hy vọng và họ ngờ vực. Đêm đi đày không im lìm tăm tối nữa. Hình như đêm bị đánh thức, sáng lòa từ lúc ông già Sáu thét người đạp cửa, anh 1212 lên tiếng - "Tôi làm việc đó được!" và hai anh khác tự động rút phắt chân ra khỏi cùm, đứng dậy.

Một người ở cạnh chỗ chị Lộc nằm ban nãy nói:

- Giờ phải sửa soạn chỗ nằm cho hai mẹ con chớ!

Người đó nói đoạn liền cởi áo của mình ra, lặng lẽ trải lên khoang tàu.

Người thứ hai bên cạnh cũng làm y như vậy. Người thứ ba, rồi người thứ tư cởi áo mình chuyền lại. Cứ thế, loáng sau chỗ đó đã lợp thành nệm. Một cái nệm tạo nên bằng những tấm áo tù có in ba chữ tắt C.T.P. Đến lúc người tù trải áo kêu lên: "Thôi, thôi, nhiều quá rồi!" Thì những tấm áo vẫn còn chuyền tới trên tay. Và người ta vẫn còn cởi áo.

Những ai sau khi đã cởi áo của mình ra quả là họ thấy có lạnh hơn, nhưng lại thấy yên lòng hơn lúc còn mặc áo.

Không biết con tàu đã vượt thêm bao nhiêu dặm biển nữa rồi. Thời gian có vẻ đi chậm lại. Ai cũng bồn chồn tự hỏi:

- Sao lâu quá chẳng biết có chuyện gì xảy ra không?

Mọi người nôn nao muốn chạy lại kéo cửa mà tìm tới chỗ chị Lộc. Nhưng thanh quyện sắt giữ chặt chân họ. Làm sao mà chạy đi cho được.

Bọn người ở Bắc Mỹ chế cây cùm phải nói là khéo. Chỉ vài thanh sắt thôi mà giữ được cả trăm con người.

Nhưng những con người ở đây không chạy được thì họ cũng chẳng chịu yên. Họ dùng một chân còn lại đạp cửa. Cánh cửa sắt lại tung lên rầm rầm. Nhưng nó vẫn không mở ra.

Thình lình giữa lúc ấy có tiếng thét từ bên cửa vọng lại. Rồi có ai ngã dúi vào cửa. Mọi người trong hầm tàu đều nhổm lên. Bên kia cửa hình như có tiếng giày đinh nện xuống sàn tàu lốp cốp, tiếng đấm đá huỳnh huỵch, tiếng giằng xé, la lối, gầm ghè. Đột nhiên, cánh cửa mở xịch ra. Người mở cửa không phải tên lính mà là một trong số hai người tù ban nãy. Anh ta rán sức kéo cánh cửa. Còn tên trung úy và mấy tên lính thì đang cố ghì lại. Thừa cơ hội đó, anh tù 1212 bế đứa bé đỏ hỏn chun lòn qua cửa. Anh ta chạy bổ vào giữa đám người trong hầm tàu. Tên trung úy và mấy tên lính lảo đảo rượt theo. Nhưng mọi người đã cản chúng lại. Anh tù 1212 nói qua hơi thở hổn hển:

- Nó... nó tính liệng thằng nhỏ xuống biển.

- Trời...

Cả hầm tàu gầm lên. Tức khắc tên trung úy và mấy tên lính bị lôi té sấp xuống. Chúng bị những người tù đè chặt. Tên trung úy bị một bàn tay siết lấy cổ họng. Hắn kêu ằng ặc. Khi ông già Sáu quay lại thì thấy đôi mắt tên trung úy đã trợn ngược. Ông nói:

- Buông nó ra!

Bàn tay đang bóp cổ tên trung úy từ từ nới nhẹ. Tên trung úy nghẽo vật cổ, lưỡi thè lè trông rất ghê sợ.

Hắn đã tắt thở.

Chiếc tàu đó không bao giờ đi tới Côn Đảo. Cơn phẫn nộ đã đẩy những người tù tới hành động mà họ không tính trước. Sau khi chuồi cái xác tên trung úy qua cửa sổ, những người tù bắt tên lính mở cùm. Họ trèo ra khỏi hầm tàu, bắt hết bọn lính trói lại, rồi kề súng buộc tên cầm lái chạy về hướng mũi Cà Mau.

Đến trưa hôm sau, chiếc tàu rướn vào bãi cạn Viên An, mỏm đất :Dt vót của Cà Mau. Những người tù đổ xăng đốt chiếc tàu. Họ lùa bọn lính lên bãi đước mới mọc, và bồng theo cả đứa bé oa oa khóc.

- Cho đến bây giờ, đứa bé cũng hãy còn. Nó đã lên bảy, mập mạnh và rất nghịch ngợm. Giá như mẹ nó không nói thì tôi cũng chẳng biết nó được sinh ra trong cái đêm dữ dội ấy đâu.

1964



Trả Lời Với Trích Dẫn
  #6  
Old 05-30-2004, 08:49 PM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Exclamation

Cứu thuyền





Trời sáng đã lâu rồi. Mưa vẫn còn rắc hạt trên mái ngói nhà thờ Ngư Thủy. Gió luồn qua các cửa trống trên tháp chuông, rít lên nghe hu hú. Ông bõ Nhân là người lo bếp núc cho cha xứ sau khi đã đem món cháo sáng lên cho cha lại trở xuống bếp bưng thêm lên món trứng gà dúng nước sôi. Ông cha xứ ăn xong thìa cháo cuối cùng, đẩy bát cháo sang một bên, đón lấy đĩa trứng. Cái đĩa sứ sâu đáy đựng ba quả trứng gà to lồ lộ mới đúng nước sôi còn bốc hơi. Trên thành đĩa đặt sẵn một con dai ăn và một chiếc thìa nhỏ.

Ông cha xứ bắt đầu ăn trứng, theo kiểu người Tây, rất thạo. Một tay ông cầm quả trứng giơ lên ngang mặt, một tay ông cầm con dao ăn khía vòng quanh trên :Dp trứng. Xong rồi ông mới đưa lưỡi dao lia sạt một cái. Vỏ :Dp trứng rơi gọn xuống đĩa. Ông rắc vào trứng một ít muối, rồi kề miệng húp.

Bõ Nhân từ nãy giờ vẫn khoanh tay đứng gần đó, cách một cái ghế. Cha vừa ăn vừa hỏi:

- Ngoài trời đã ngớt mưa chưa?

- Trình cha, mưa ngớt rồi, nhưng xem chừng gió mạnh lắm. Cha ạ, có một chiếc thuyền lưới hôm qua ra khơi, biển động không kịp về. Đã một ngày một đêm rồi mà vẫn không thấy tăm hơi. Động to quá!

Ông cha xứ hỏi một cách vô tâm:

- Thuyền ở Ngư Thủy ta à?

- Dạ, trình cha, thuyền ở đằng hợp tác. Trên thuyền có năm người, trong đó có hai người mới vừa vào hợp tác đêm trước...

- Thế à?

Ông cha xứ sắp đưa quả trứng lên miệng thì dừng lại hỏi như buột kêu lên; chứng tỏ rằng lúc ấy có một cái gì lóe ra trong đầu ông. Đôi mắt sâu có quầng thâm của ông vụt ngó chăm chắm về phía một góc bàn. Đôi mày của ông vốn đã rậm, giờ nhíu lại, trông càng rậm rịt hơn. Đang cầm quả trứng, ông đặt xuống đĩa, hỏi:

- Hai người mới vào hợp tác à? Có phải nhà Trình với nhà Hộ không nhỉ?

Ông bõ đáp:

- Trình cha, đúng là nhà Trình với nhà Hộ đấy ạ.

Ông cha xứ so nhẹ vai:

- Thấy chưa? Những kẻ không nghe lời răn bảo của đấng làm thầy thì khốn khó luôn luôn ở bên cạnh chúng nó... Tôi là kẻ chăn chiên ở đây, gặp khi giông to gió lớn. Chúa giao phó tôi chăn dắt con chiên tìm chỗ náu ẩn. Con chiên nào không theo đàn thì con chiên đó phải gặp nạn như rứa. Chừ bõ đã thấy chưa?

Thưa cha... vâng... Bõ Nhân đáp lí nhí trong miệng.

Ông cha xứ thôi nói, tiếp tục ăn trứng. Bõ Nhân đợi cha ăn xong, liền rón rén bước tới bê cái đĩa đi. Nhưng bõ Nhân mới bước ra đến cửa buồng thì cha gọi giật lại:

- Bõ này... Hãy cứ để đấy, chạy đến nhà trùm Sở gọi ông ấy đến ngay tôi bảo nhé!

Bõ Nhân "dạ" rồi đi xuống bếp. Bõ để bát đĩa đấy, khoác cái tơi chạy quàng tới nhà ông trùm Sở. Một chốc sau đã có ông trùm Sở cùng đi về với ông. Ông bõ Nhân mà đi bên cạnh trùm Sở thực là khác nhau phân biệt. Ông bõ người gầy guộc đen xạm, còn ông anh trùm trưởng này thì người đẫy đà béo tốt lắm. Trùm Sở tuổi trạc bốn mươi, thoạt trông biết ngay là người lanh lợi. Y cởi chiếc áo mưa màu cánh gián và tháo cái bọc mũ cũng bằng vải nhựa cùng màu đang đội trên đầu xuống. Y đứng ở thềm nhà sau, giậm chân cho sạch cát rồi đi thẳng lên buồng cha một cách thông thạo. Ông cha xứ vẫn còn ngồi đợi trong buồng, nhác thấy trùm Sở, liền bảo:

- Ông trùm đấy à? Vào đây!

Trùm Sở bước vào rồi, ông cha xứ liền đứng dậy đi ra khép cửa. Bõ Nhân rửa bát đĩa ở dưới bếp xong, định lên buồng cha quét dọn. Nhưng lên đến nơi thấy cửa đóng, ông bõ cầm chổi quét ngoài hiên. Vừa quét bõ vừa nghe thấy tiếng nói rì rầm từ trong buồng vọng ra. Bõ thầm đoán chắc là cha với ông trùm đương nói chuyện về chiếc thuyền bị nạn. Bõ Nhân vốn không phải là một người tọc mạch, nhưng hôm nay bõ cứ muốn lắng nghe cha nói gì, muốn nghe coi có phải cha đương bàn với ông trùm việc cứu những con chiên mắc nạn không. Bõ cắm cúi quét sạch được một quãng hiên thì đứng dậy lấy tay đập đập lưng, nhìn ra biển. Sóng vẫn vỗ ầm ầm vào bờ. Những đợt sóng trước kia xanh đẹp là thế, nay ngầu đục, dồn dập xô đẩy nhau, cưỡi lên nhau. Bõ Nhân nhìn sóng, bất giác lo sợ nghĩ đến những người trên chiếc thuyền kia, và mấy cái gia đình nghèo, đông con, có thể sẽ mất đi những người đàn ông. Cho dù bây giờ bõ Nhân ở trong nhà thờ, nhưng cách đây mười hai năm bõ là người của biển.

Khi bõ còn là một tay lưới thạo nghề, có sức khỏe, chớ chưa vào nhà xứ mà làm bõ thì bõ đã từng lăn lộn với sóng gió, đã từng nghe thấy cái chết nó rình rập quanh mình. Trên mười năm qua rồi, đời sống của miền Ngư Thủy này đổi thay đã nhiều thế mà biển vẫn y như trước vẫn hung bạo không kém. Ông bõ nheo nheo mắt nhìn những đợt sóng lớn dồn dập ở ngoài kia, nhớ đến cái lúc thuyền bõ bị đắm thì trên thuyền cũng có năm người. Bõ còn nhớ rõ như in trong trí là lúc thuyền bị sóng nhận xuống thì ba người đã phóng xuống biển để nâng bợ thuyền lên. Còn lại hai người, là bõ với một anh bạn lưới tên là Tấn, hai người còn ở lại trong khoang thuyền đầy nước. Chính mắt bõ trông thấy một đàn cá mập lượn tới, con đầu to bằng cánh phản, bơi nghiêng và những con sau bõ chỉ vừa mới thoáng thấy, chưa kịp kêu, thì chúng đã đớp ngay một anh. Hai anh kia cũng bị chúng đuổi theo, ăn nốt. Máu loang đỏ, trào lên ngọn sóng. Bõ với anh Tấn nấp sát vào lòng khoang thuyền. Đàn cá biết còn người trên thuyền, nên nó cứ lượn quanh. Nhưng nó không có cách nào ăn thịt được hai người. Hai người cứ rúc trong lườn thuyền. Chiều hết đến đêm. Thực là một đêm khủng khiếp trong đời bõ. Vừa rét vừa đói, mà quanh thuyền đàn cá vẫn không chịu rời mồi. Hai người cố chịu như thế qua gần hết một đêm, tới gần sáng bỗng nghe như bánh lái thuyền xéo lên cát. Hóa ra sóng xô giạt thuyền vào tới bờ. Anh Tấn núp ở lườn lái trồi đầu lên reo: "- Đụng bờ rồi, lên đi thôi". Nói xong anh nhảy sộn xuống. Chỗ ấy mực nước chỉ tới rốn. Nhưng anh Tấn vừa nhảy xuống thì bõ Nhân nghe tiếng cá đớp đánh "đùng" một cái. Và bõ chỉ kịp nghe anh Tấn kêu lên một tiếng "ối". Bõ thụt đầu trở vào thuyền đưa tay làm dấu và ôm ngực rền rĩ: "Lạy chúa... sao nó theo ta riết thế này!". Thế là bấy giờ chỉ còn lại có một mình bõ. Bõ cứ nằm nép sát trong chiếc thuyền lờ đờ đầy nước. Mãi đến lúc sóng xô thuyền chúi mũi rướn lên cát, bõ mới ngóc đầu ra. Trời sắp rạng sáng. Bãi cát đây rồi. Bõ nhổm dậy phóng lên bờ. Chạy được mươi thước thì bõ ngã sấp, hai tay buông xuôi ra sau, giống như cái neo ta thường thấy vất trên cát.

Bõ Nhân là người độc nhất sống sót trong chuyến đó. Còn anh Tấn là người chết sau rốt, chết trong bờ mà phải mất xác. Anh Tấn cũng như bõ Nhân đều là người đánh cá nghèo. Anh Tấn chết đi để lại một đứa con gái mười bốn tuổi. Còn bõ Nhân thoát chết nhưng lại mắc nợ sống. Là vì giàn lưới bị mất chuyến ấy là của nhà chung cho vay vốn sắm ra. Của nhà chung là của Chúa. Bõ Nhân đi nghề góp nhóp suốt mấy năm mà vẫn không sao bồi đền nổi. Cuối cùng bõ phải vào nhà thờ làm lụng, vừa để trừ món nợ, vừa dành dụm cưu mang đứa con gái anh Tấn. Cho đến ngày nay, đứa con người bạn lưới xấu số đã có chồng, là anh Vạn, người Lộng Dương, còn bõ thì vẫn ở đây. Vẫn mặt biển này, vẫn tiếng sóng vỗ ầm ầm ngoài khơi kia.

Ông bõ vừa nhìn biển vừa nhớ lại cái đêm khủng khiếp nó đưa đẩy cuộc đời bõ đến đây...

Tiếng cửa kẹt mở khiến bỏ giật mình quay lại. Trùm Sở đi ra. Bõ nghe tiếng cha nói với trùm Sở:

- Ông trùm đi ra bãi xem, tôi đợi ông nhé!

- Vâng, cha để con ra bãi xem binh tình thế nào.

Trùm Sở khoác áo mưa đi lịch phịch ra. Ông cha xứ đi theo, bước chân rất là nhẹn. Tới cổng, cha liếc nhìn ra bờ biển nói với ông trùm, giọng hoạt bát hẳn lên:

- Phải làm cho chúng nó sáng mắt ra, ông trùm ạ. Kẻ nào làm ngược ý Chúa kẻ ấy chỉ có chuốc lấy vạ. Này, ông trùm tinh mắt, xem coi giời còn động lâu không?

- Thưa cha, ít nhất là vài hôm nữa. Chiều qua ráng còn đỏ ối, giời còn nổi gió lâu đây.

- Hay lắm!

- Thưa cha con đi.

- ừ, đi quàng lên đi!

Trùm Sở chạy ra bờ biển. Cha đứng nhìn theo và từ từ giơ tay là phép lành. Ngoài bãi, mưa đã ngớt, người trong thôn lưới kéo ra ngày một đông. Sóng đánh ầm ầm. Như những đàn ngựa trắng phi nước đại, sóng chạy tế vào bờ. Ngoài xa khơi, sóng vỗ vòi trắng xóa làm mờ mịt cả mặt biển.

Trùm Sở ra đến nơi thì vừa lúc đằng hợp tác xã và đội đánh cá miền Nam đã bàn bạc xong kế hoạch đi cứu chiếc thuyền bị nạn.

Mọi người trong hợp tác xã trù rằng sóng ngoài khơi êm hơn sóng trong lộng. Chiếc thuyền kia có thể là chưa bị đắm, nhưng không vào nổi. Cho là thuyền bị đắm, nhưng không vào nổi. Cho là thuyền bị đắm thì chắc gì họ đã chết cả. Những tay lưới trong đội đánh cá miền Nam cũng nhất trí nhận định như thế. Người đội trưởng đánh cá phân công ba người cùng đi với hợp tác xã. Bên hợp tác xã có ba người nữa là sáu.

Trùm Sở ra đến bãi biển, thu hai bàn tay vào bụng, lò dò len lỏi vào đám đông, nghe ngóng thấy thế y liền chạy về tin cho cha hay. Ông cha xứ nghe xong hơi thừ người ra. Trước cổng nhà thờ, cha rảo bước tới, lui; hai bàn tay bóp nghiến vào nhau. Mấy phút sau cha lẩm bẩm:

- Họ đi cứu thuyền thật đấy ạ?

Làm như tự hồi giờ cha chưa nghe trùm Sở báo cái tin đó vậy. Và rồi cha chúi mặt mình sát vào trùm Sở, hỏi:

- Liệu họ có đi tìm được không?

Trùm Sở đáp:

- Mỏng manh lắm, thưa cha... là vì sóng còn to quá. Nhưng xem chừng họ quyết đi tìm lắm. Sóng gió thế này mà họ cứ cho thuyền ra...

- Đám người này chừ họ liều mình quá rồi. Cả những bổn đạo ở hợp tác cũng thế, họ quên hết... Phải nhắc lại, ông trùm ạ, phải nhắc lại cho họ nhớ, ai sinh ra biển. Có phải là Chúa không? Ai mới có thể lấy mây làm áo xống cho nó, lấy tăm tối làm khăn vấn cho nó, mà rằng: "- Biển, mày không được đi đâu nữa!". Ai, có phải là Chúa không? Ngoài Chúa, ai dám chống chọi với nó... Thôi được, giờ ta ra ngoài ấy xem sao, ông trùm cùng đi với tôi nào!

- Thưa cha, vâng.

Ông cha xứ trở vào lấy chiếc mũ nồi bằng dạ đen chụp lên đầu rồi đi trước. Trùm Sở đi sau, tay luôn giữ cái bao vải nhựa trên đầu sợ gió thổ bay. Hai người ra tới bờ biển thì đã nghe tiếng "hè" vần thuyền từ trước mặt vọng lại. Đám đông người đang xúm xít thấy ông cha xứ đi đến liền sụp chào và cúi mặt xuống.

Đằng kia, anh đội trưởng miền Nam đang giơ tay điều khiển vần thuyền xuống bãi. Trên một chục tay lưới, hợp tác xã lẫn đội đánh cá, đang đẩy chiếc đòn ngáng ở mũi thuyền. Chiếc thuyền bị vần từng vòng một, nhoài dần ra phía chớn nước. Ông cha xứ đi tới, kêu lên:

- Mấy người đi thật đấy à?

Đến đấy giọng ông chợt hạ thấp xuống, rền rĩ:

- Giêsu lạy chúa tôi! Sao lại liều mình... như... thế... thế...

Nhưng tiếng của ông bị át trong tiếng "hè" vần vòng thuyền cuối cùng. Mũi thuyền chúi ào xuống nước. Sáu người được chọn đi nhảy lên thuyền. Ba tay lưới miền Nam lên xong thì tiếp đến anh em ở hợp tác xã. Những tay lưới hợp tác xã còn trẻ, và đều đi đạo. Trên bộ ngực nở nang của họ, lủng lẳng những chiếc thánh giá nhỏ bằng đồng đã han xanh. Người lên thuyền cuối cùng là anh Vạn. Nhưng khi anh Vạn mới dợn chân nhảy lên lái thuyền thì thình lình có một chị đàn bà bế con rẽ đám đông nhào tới bíu lấy chân anh khóc bù lu bù loa. Anh Vạn quay lại nhận ra là vợ mình. Anh sửng sốt gắt lên:

- Nhà làm gì lạ thế. Buông ra cho tôi đi! Làm gì mà khóc lóc thế này?

- Lạy Chúa... anh ơi... đừng đi!

- Buông tôi ra...

Chị Vạn càng khóc lớn. Một tay chị bế đứa bé, một tay ôm lấy chân chồng. Anh Vạn lúng túng nhìn lên đám đông như để cầu cứu. Anh ta bỗng nhiên cảm thấy hết sức rối rắm, bởi cái cánh tay rất yếu mà lại rất khỏe của vợ. Anh chủ nhiệm vẻ mặt ngạc nhiên, lẩm bẩm nói với anh đội trưởng:

- Lạ quá! Sao lại thế này được? Ban nãy, biết anh ấy đi nhưng chị ta có khóc bù lu bù loa lên thế này đâu.

- Ai lại xui chị ta điều gì rồi!

Một người đằng sau lưng nói.

Một người khác hỏi lại:

- Ai xui?

- Nào ai biết được!

Bỗng có tiếng người kêu:

- Kia rồi, ông bõ ra kéo chị ta vào kia rồi!

Anh chủ nhiệm hợp tác xã quay lại nhìn, cũng kêu lên:

- Bõ Nhân... Chà, hay quá, ông ấy ra bao giờ thế nhỉ?

Đúng là bõ Nhân thật. Không biết bõ đã ra đây từ lúc nào. Bõ chạy đến mé bãi, lặng lẽ gỡ tay chị Vạn ra khỏi chân anh Vạn. Chị Vạn nhận ra bõ Nhân thì không khóc to nữa. Và bõ Nhân cứ thế kéo tay chị dắt lên bờ. Đám đông rẽ ra nhường chỗ cho bõ Nhân đi. Trong đám đông đó, trùm Sở vừa liếc nhìn bõ Nhân vừa kéo cái bọc mũ vải nhựa trên đầu xuống vò nhầu trong tay.

Anh Vạn lên thuyền. Sáu tay chèo vừa quai xong, quẫy mạnh. Mũi thuyền bổ tới, cưỡi lên lưng sóng, vượt ra. Sóng cũng không vừa, xô trả thuyền lại phía bờ. Chèo quẫy mạnh, thuyền lại nhao tới. Chiếc thuyền mới ra đã phải vật lộn ngay với những đợt sóng ào ạt dồn dập nhất. Càng vào gần bờ, sóng càng dữ dội hơn. Chiếc thuyền mất mười lăm phút mà ra chưa được năm mươi sải tay. Giữa lúc đó một lượng sóng rất lớn ập tới, chôn chiếc thuyền xuống vực sóng rồi tung thuyền lên. Anh thủ lái người miền Nam cao to nhất bị hất bổng lên trên không, chân rời khỏi sạp thuyền có đến một thước. Anh gượng ngay được, nhưng mới vớ chèo tiếp thì chèo gẫy "rắc". Anh đội trưởng trên bờ thấy thế liền ôm khoanh dây cầm sẵn trong tay chạy xuống mé bãi, rùn chân xuống cát ném vút mồi dây ra. Trên thuyền nắm lấy được mồi dây. Chèo lái đã bị gẫy, đành phải kéo thuyền vào. Trong đám đông, có tiếng ai nói, giọng khao khao như là giọng của trùm Sở:

- Không cưỡng lại nó được đâu... Chúa chẳng đã bảo thế là gì?

- Bảo thế nào?

Một thanh niên quay phắt lại, sừng sộ. Anh thanh niên nói chõ vào trùm Sở:

- Tôi xin có nhời nói thẳng với ông, là ông chỉ độc nói phét thôi ông trùm ạ. Khi thì chúa bảo thế này, khi thì chúa bảo thế khác. ở đây không có việc gì cần đến ông thì xin ông về cho được việc người ta.

- Ơ... anh này láo nhỉ. Bố anh cũng chẳng dám hỗn với trùm trưởng nữa là... còn anh...

Một người bên cạnh ôn tồn bảo:

- Thôi, ông trùm...

- Đừng có làm ồn lên. Người ta đang bận việc, chỗ này không phải chỗ lôi thôi với nhau đâu nhé.

Trùm Sở nín im.

Chiếc thuyền đã được kéo vào gần tới bãi. Người ta mang xuống thuyền một cặp chèo khác. Xong, thuyền lại bỏ mối dây quay ra. Ông cha xứ ở gần cuối đám người thấy thế liền đi như chạy tới trước mặt anh đội trưởng và anh chủ nhiệm:

- Sao lại đi thế kia?

Anh chủ nhiệm đáp:

- Thưa cha vâng, phải đi thôi.

- Là cha xứ ở đây, tôi có bổn phận khuyên các ông chớ có liều mình như rứa!

- Cha không lo, chúng tôi đã tính kỹ rồi.

Ông cha xứ nói giọng khác hẳn đi:

- Tôi không muốn cầu nguyện thêm cho người nào nữa đây nhé. Cầu nguyện cho năm người là quá lắm rồi.

Anh đội trưởng đánh cá cười, đáp:

- Đã biết ai sống chết thế nào mà cha đã vội lo cầu nguyện. Chúng tôi sẽ cố gắng để cha không phải cầu nguyện cho một người nào đâu.

Nói rồi anh đội trưởng lại vẫy tay ra hiệu cho thuyền ra. Vẫn như lần trước, sóng cứ đẩy thuyền lùi lại. Nhưng cuối cùng thì lần này, với những mái chèo rập đều, chiếc thuyền vượt quá khỏi cái vùng sóng dồn mạnh nhất trong lộng. Ra khỏi những đợt sóng đó, thuyền đi dễ dàng hơn. Cứ mỗi lúc thuyền ra mỗi xa. Hướng ra khơi, chiếc thuyền dần dần thu bé lại. Sau cùng nó chỉ còn là một chấm đen nhỏ, chao trong sóng. Anh đội trưởng cầm chiếc ống nhòm đưa lên mắt. Chiếc thuyền chỉ nhào vừa phải trên sóng làm anh yên tâm. Người chủ nhiệm hợp tác xã đến trước đám đông nói to:

- Đề nghị bà con ta về thôi. Ai vá lưới lo vá, ai nhuộm lưới lo nhuộm, kẻo mất cả buổi công rồi đấy!

Mọi ngời nghe lời anh chủ nhiệm, lần lượt kéo nhau về thôn. Chỉ còn thân nhân có chồng con bị nạn thì ngồi lại trên bãi cát. Anh chủ nhiệm đi về chỗ có tiếng khóc sùi sụt của mấy người đàn bà. Ông cha xứ và trùm Sở cũng về nhà thờ. Bõ Nhân đi theo sau. Thỉnh thoảng bõ ngoái nhìn lại chỗ có tiếng khóc. Trùm Sở quay lại giục, giọng hằn học:

- Ông bõ, đi nhanh chân về mà lo thổi nấu. Cha đói đến nơi rồi kia kìa!

Bõ Nhân vội rảo bước đi nhanh hơn.

Buổi trưa hôm ấy, sau khi làm cơm dọn cho cha ăn xong, bõ Nhân xuống nhà và vội mấy miếng cơm rồi leo lên tháp chuông. Ngồi trên tháp chuông bõ nhìn xuống theo con đường lát đá tảng xám trước nhà xứ. Con đường này rêu không bao giờ bám lên được vì những bước chân con chiên đi lễ đi xưng tội trước Chúa cứ giẫm lên hằng ngày. Hết nhìn con đường ông bõ lại ngó mông ra bờ biển. Nhớ lại câu chuyện ban sáng, lúc ở nhà và lúc ra bãi, ông bõ càng thêm phân vân trong bụng. Tại sao cha với ông trùm cứ không muốn người ta đi cứu thuyền. Có phải vì cha lo nghĩ đến tính mạng của những người đi cứu không? Bõ Nhân cứ bấu víu thầm mong cha chỉ xuất phát từ cái ý nghĩ đó - khi mà trong đầu bõ đã nảy nở một ý nghĩ khác, rất đáng sợ, có thể làm tổn thương đến lòng tin đã sẵn có từ lâu trong một con chiên ngoan đạo như bõ. Chưa có lúc nào bõ Nhân thấy có điều cực lòng như hôm nay.

Gió biển ban trưa thổi vào, lướt qua thành chiếc chuông đồng trên đầu ông bõ, ngân rung khe khẽ. "- Giêsuma, xin đừng cho cái bóng quỹ nào vờn lên sau tượng Chúa thiêng liêng". Ông bõ còn lẩm nhẩm như vậy, trước khi những làn gió đã mơn man, la đà đưa bõ vào giấc.

Lúc mặt trời đã chiếu chênh chếch vào mảng tường loang lở của một góc tháp chuông, bõ Nhân bị đánh thức dậy bởi những tiếng huyên náo trong thôn vọng tới. Bõ dụi mắt nhìn xuống, thấy người người lũ lượt chạy ra bờ biển. Ông bõ không biết chuyện gì, liền từ tháp chuông tụt xuống, chạy ra cổng. Một loáng sau bõ đã ra tới bờ biển. Thì ra trên mặt biển có một bóng thuyền xuất hiện. Bõ Nhân cũng nhìn thấy bóng chiếc thuyền ấy. Nhưng bóng thuyền hiện ra càng làm bõ và mọi ngời lo ngại. Là vì nếu chỉ có một chiếc thì chiếc kia không tìm thấy rồi. Có tiếng người buột kêu lên, giọng như rên rỉ:

- Ôi... hay là đắm mất rồi!

Và người ta nghe thấy tiếng gào xé ruột của một người đàn bà. Cả đám người nhốn nháo cả lên.

Người đội trưởng đánh cá miền Nam hấp tấp lấy lại độ ngắm của cái ống nhòm. Anh đưa ống nhòm lên xem. Xem xong, anh vừa trao ống nhòm cho anh chủ nhiệm hợp tác xã vừa bảo khẽ:

- Anh coi coi, hình như một chiếc kè một chiếc đấy!

Anh chủ nhiệm vớ lấy cái ống nhòm. Anh chăm chú nhìn một lúc rồi kêu to:

- Hai chiếc, hai chiếc... Mà sao lại có khói bay lên thế kia?

- Anh cho tôi xem một cái, có được không? - Bõ Nhân hỏi.

Anh chủ nhiệm nói:

- Được, đây, ông bõ xem xem!

Bõ Nhân đưa hai tay thô sần, run run đỡ lấy cái ống nhòm. Bõ nhìn, nhìn mãi. Qua ống kính, bõ thấy sóng trào lên, và hai chiếc thuyền nhảy nhót lắc lia như trứng vịt. Bõ kêu:

- Thuyền về rồi, thuyền về rồi!

Cái ống nhòm cứ chuyền hết người này đến người khác. Cho đến lúc người ta trả lại cái ống nhòm cho anh đội trưởng thì mọi người đã có thể bắt đầu nhìn thấy chiếc thuyền bằng mắt thường.

Ông cha xứ và trùm Sở ở trong nhà thờ nghe ngoài bãi ồn ào thì cũng mò ra. Trùm Sở chạy sau ôm trong tay chiếc áo khoác bađờsuy bằng dạ vũ cho cha. Lúc ấy thuyền đã sắp vào đến nơi.

Người ta ném dây lôi thuyền qua vùng sóng lộng. Thuyền cặp bãi. Anh em đi cứu thuyền gác chèo nhảy lên cát, dáng đi hơi lảo đảo. Dưới sạp khoang chiếc thuyền đầu, năm người xã viên nằm thiêm thiếp. ở khoang giữa, cái bếp củi để sưởi cho họ còn cháy đỏ. Gia đình thân nhân của họ chạy đến. Lần này những người đàn bà cũng lại òa khóc. Một anh miền Nam trong số người đi cứu, vừa vuốt nước biển dính trên tóc vừa nói:

- Chúng tôi ra thật đúng lúc. Thuyền bị đắm từ hồi khuya, anh em cứ bám trong lòng thuyền... Khi chúng tôi ra gặp thì anh em đã kiệt sức. Nhưng bây giờ thì anh em không chết đâu. Bà con đừng khóc mà...

Anh miền Nam nói dứt lời thì có một chị đàn bà chạy đến sụp xuống chân anh, nói giọng ríu lại:

- Cảm ơn các anh, tôi cảm ơn các anh!

Anh miền Nam hoảng hốt đỡ tay chị dậy. Ông cha xứ nhìn thấy thế dạy mặt đi chỗ khác. Không biết trùm Sở đã khoác cái áo lên lưng cha từ lúc nào mà bây giờ cha cứ đứng tay thu chặt vạt áo vào bụng. Vẻ mặt cha bỗng dưng từ từ tái lại. Anh chủ nhiệm hợp tác xã bảo khẽ bỏ Nhân:

- Ông bõ, cha bị cảm hay sao mà mặt cha cứ tái lại thế kia?

Bõ Nhân vội chạy đến bên cha nói:

- Bẩm cha, cha khó ở à? Để con đưa cha về...

Nói rồi bõ Nhân xốc nách dìu cha đi. Trùm Sở cũng dìu một bên cha. Cả ba đi về phía nhà thờ.

Anh đội trưởng miền Nam nhìn theo, nói với anh chủ nhiệm:

- Ông cha xứ bị cảm gió chắc?

- Có lẽ...

- Sao? Anh đội trưởng hỏi lại.

Anh chủ nhiệm nắm tay anh đội trưởng nhếch mép định nói gì nhưng lại thôi không nói nữa. Anh nhíu trán nhìn về đằng trước. Bấy giờ bõ Nhân đã cõng cha xứ trên lưng. Bóng ông bõ già đáng thương đó cõng cha xứ vừa đi vừa chạy mỗi lúc một khuất dần trên lối cát.



Trả Lời Với Trích Dẫn
  #7  
Old 05-30-2004, 08:50 PM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Đất





Hồi gần Tết Giáp Thìn, đâu tối hăm ba Tết thì phải, anh Định phụ trách tòa soạn tờ báo tỉnh bảo tôi:

- Nè, hay là cậu đi Xẻo Đước một chuyến đi. ấp chiến lược Xẻo Đước đã bị phá dứt điểm rồi. Cậu viết một bài nói về cái Tết đầu tiên của bà con mới thoát vòng kềm kẹp ở đó thì hay lắm. Nhân tiện cậu giải quyết luôn chuyện chiếc xuồng...

Tôi nói:

- ờ được, để tôi đi!

Và hôm sau tôi sửa soạn lên đường, với nỗi vui xen lẫn hồi hộp. Trở lại Xẻo Đước giải phóng, tôi sẽ gặp lại những bà con quen suốt mấy năm ròng lăn lộn đấu tranh. Thế là, với thói quen thường có, trong đầu tôi chưa chi đã phác ra những tình tiết: bà con nông dân trở về ôm chầm lấy những gốc cây bị giặc đốn mà khóc, những bờ lũy ấp chiến lược bị san bằng, từng đống dây thép gai bị vo cuộn lại, và tôi còn mường tượng ra cả tiếng mái chèo vỗ nhịp trên sông v.v... Theo tôi, trong một thiên phóng sự nói về sự tự do của đất thì không thể nào không đả động đến mọi thứ ấy.

Nhưng mà, hỡi các bạn đọc thân mến của tôi ơi, còn một điều tôi chưa nói rõ với các bạn. Đấy là câu chuyện về chiếc xuồng mà Định vừa căn dặn tôi giải quyết trong chuyến đi này. Nguyên do thế nào mà Định dặn tôi như vậy? Thưa các bạn, vì chiếc xuồng ấy mà bấy nay lòng tôi cứ thấp thỏm không yên. Cũng chẳng phải chỉ riêng tôi, cả anh phụ trách tòa soạn nói trên, phải chính Định đấy, anh ta đã cùng tôi mượn một chiếc xuồng của bà con Xẻo Đước đi mấy năm nay mà chưa có dịp đem trả.

Xẻo Đước vào năm ấy tình hình thật sức khó khăn. Ban đầu chúng tôi còn ở ngoài xóm, về sau bọn giặc tổ chức "tự vệ hương thôn" lùng riết quá, chúng tôi không ở xóm được nữa. Vào ở trong cứ rừng, với một cái "rađiô" cổ lỗ sĩ và cái máy quay "rônêô" lâu đời, chúng tôi vừa bắt vọp ăn vừa chép tin, in tin. Làm công việc đó được năm sáu tháng, tới cuối tháng chạp ta năm 59, chúng tôi nhận được lệnh cấp ủy bảo phải cấp tốc di chuyển về một vùng khác để xây dựng công tác in ấn. Thư cấp ủy dặn chúng tôi tối hôm ấy ra bờ sông sẽ có xuồng đón. Hai chúng tôi vác máy lội từ trong cứ rừng ra bờ sông. Quần áo hai đứa đều ướt hết cả. Chúng tôi chui vào một lùm ráng ngồi đợi. Nhưng đợi mãi mà chẳng có xuồng bộng nào đến đón. Một tiếng đồng hồ trôi qua... Rồi hai tiếng. Cũng chẳng thấy bóng xuồng. Tôi và Định sốt ruột quá. ở đây không thể đi đường bộ được. Mà thư thì dặn phải đi gấp. Bấy giờ giữa đêm hai mươi tám Tết, chúng tôi cứ lom khom bò ngược bò xuôi trên bờ sông, ngóng đợi, Định nói:

- Tôi e anh em đi đón mình gặp chuyện không hay rồi!

Tôi lưỡng lự đáp:

- Có thể... Nhưng rán đợi một chút nữa coi!

Sương đêm cuối năm xuống mới lạnh lẽo làm sao. Bờ sông quạnh vắng. Đêm tối ngửa bàn tay không thấy. Trời lạnh, nhưng chúng tôi không dám đốt thuốc hút. Muỗi cắn cũng không dám đập mạnh. Tôi và Định ngồi trong lùm ráng dõi mắt nhìn ra sông. Vẫn không thấy gì cả. Định khẽ nói:

- Hết hy vọng rồi Bảy à. Có lẽ phải vô xóm kiếm mượn một chiếc xuồng thôi!

Tôi tán thành ý kiến đó của Định và xung phong đi. Định dặn tôi:

- Phải cẩn thận nghe. Lúc này không phải là lúc chúng ta hy sinh hoặc để bị bắt đâu!

Tôi cầm trái lựu đạn, nhón bước ra khỏi lùm ráng. Cái nhà trước tiên tôi nghĩ tới chuyện mượn xuồng là nhà ông Tám, một gia đình quyết không rời bỏ Đảng và Cách mạng những ngày đen tối nhất. Ông Tám là một ông già trạc ngót bảy mươi, hãy còn gân guốc, và là người duy nhất ở Xẻo Đước hồi thuở heo rừng còn vô ỉa trong chòi, lúc cọp còn rình rập những người tới khẩn đất, và con chim đi theo cọp đêm đêm cứ kêu nghe "boong boong... krỏi... krỏi". Nói không ngoa, ông Tám chính là một cuốn trong bộ sử biên niên của xứ U Minh Hạ này đó vậy. Ông là một tay bẫy heo rừng và chồn cái thật kỳ tài. Trời ban cho ông một cái mũi tinh nhạy đến nỗi chỉ cần ngửi nước rạch buổi sáng ông cũng biết ngay là có heo rừng hay là chồn đến đây uống nước hồi đêm. Đứng gần người ông, lắm lúc tôi cứ nghe như toát ra mùi hương vị của rừng nê địa, của cây đước, dòng kinh biển, ngọn lửa không bao giờ tắt dưới đất xốp mỡ màu.

... Khi tôi lần đến cái ụ xuống nhà ông thì thấy có xuồng đậu trong ụ. Dưới xuồng có cả chèo nữa. Tôi định lên nhà. Thình lình nghe tiếng chó sủa ran. Tôi dừng lại. Từ trong nhà có tiếng chân hấp tấp đi ra. Tiếng ông Tám quát:

- Ai đó?

Tôi khẽ đáp:

- Tôi...

Ông Tám ôm chầm lấy tôi trong bóng tối. Ông cho tôi biết vừa rồi tụi tự vệ hương thôn mới đi tuần ngang. Tôi liền trình bày tình cảnh chúng tôi và hỏi mượn xuồng. Ông Tám nói ngay:

- Được, được, cứ việc lấy đi!

Tôi quay trở lại lấy xuồng. Rủi cho tôi, dây buộc xuồng là dây xích sắt. Lúc tay tôi với lấy, sợi xích bật kêu rủng rẻng. Kế đó lại có tiếng chân thình thịch đi tới. Ông Tám đằng hắng. Tôi biết ngay là có động. Chắc bọn tự vệ hương thôn đi tuần đã trở lại. Ghìm sợi dây xích trong tay, tôi nín thở, hồi hộp. Bọn tự vệ hương thôn đi qua, tôi nhè nhẹ tháo từng mắt xích một. Xong rồi, tôi kéo chiếc xuồng ra khỏi ụ, dong về phía bờ sông mà Định đang ngồi đợi.

Giữa đêm trừ tịch đó, tôi với Định vượt khỏi Xẻo Đước trên chiếc xuồng của ông Tám. Dọc đường, trong lúc tìm quai chèo, tôi phát hiện ra sau lái xuồng còn có bốn đòn bánh tét lớn và hai gói trà "Thiết La Hán" giấu kỹ dưới sạp. Tôi cầm đòn bánh lên, thấy vẫn còn ấm. Thật là lạ. Chẳng biết ông Tám để bánh và trà dưới xuồng làm gì. Chúng tôi đoán chắc ông Tám tính đem cho bà con.

Sau khi rời Xẻo Đước, chúng tôi không đem trả chiếc xuồng ngay được. Một phần vì công việc ngày đồng khởi dồn dập quá nhiều. Lẽ khác là sau đó ít lâu Xẻo Đước bị đóng thêm bốt, đồng bào bị giặc vây ép gắt gao hơn. Cho tới lúc Xẻo Đước trở thành ấp chiến lược, tôi chẳng biết sự thể đó ra sao nữa.

Mãi đến hôm nay, tôi mới về lại Xẻo Đước. Cơ quan xuất cho tôi một số tiền tương đương với chiếc xuồng để tôi hoàn lại ông Tám.

Tôi về đến Xẻo Đước vào hôm hai mươi Tám Tết. Xóm làng ở ven sông có vẻ huyên náo hẳn lên. Dưới các bến, mấy thím mấy chị đang kỳ cọ tách đĩa, cười cười nói nói. Trên bờ các em túm tụm múa hát. Một cái lò bún đang ồn ào. Trong buổi chạng vạng, tôi nhìn thấy những cọng bún trắng nõn thòng xuống miệng ảng. Trên các mái nhà, khói ấm bốc lên. Quả nhiên, tôi nhìn thấy cả dây thép gai. Nhưng dây thép gai không vo cuộn lại, mà dàn ra, vây kín lấy xóm ấp. Cả những bờ lũy cũng còn sờ sờ trước mặt. Một tấm biển cắm sát ven sông, tôi chèo sát, và nhìn thấy dòng chữ "Quyết tử giữ làng". Tôi tự nhủ: "Vậy là ấp chiến lược đã xoay ngược chiều lại rồi!".

Đêm xuống dần. ánh đèn bắt đầu nhảy nhót trên các nhà. Tôi thấm đoán: "Có lẽ những trã bánh tét muộn màng nhứt giờ này cũng bắc lên rồi!"

Cho dù trời tối, tôi vẫn không quên cái bến nhà ông Tám, chỗ tôi đã rón rén kéo chiếc xuồng dạo nọ. Bây giờ trên bờ án ngữ một bức thành đất dày, cao có tới bốn lỗ châu mai sâu hun hút. Bên ngoài ụ xuồng, dây thép gai ràng rịt sát mặt nước, chỉ còn để hở một lối nhỏ vừa đủ chen lọt mũi xuồng.

Tôi lách xuồng vào ụ, buộc dây. Sợi xích sắt nay cũng rủng rẻng khua lên trong tay tôi. Nhưng tôi không hồi hộp nín thở như trước nữa. Giờ đây, giá tôi có vung sợi dây xích xuồng lên, cho nó tha hồ kêu thì việc gì ấy chỉ có nghĩa là báo cho ông Tám biết là có khách tới mà thôi. Chính bây giờ cái ý niệm về hai chữ tự do trong tôi mới thật rõ, thật cụ thể. Tự do như có thể sờ nắn được trong tiếng động thoải mái của một sợi dây xích. Tự do ở bước chân tôi đặt lên con đường đất. Và tự do được đánh dấu chỗ cổng nhà ngày trước bọn giặc vẫn thường rậm rịch kéo qua.

Người tôi gặp đầu tiên trong nhà không phải là ông Tám mà là anh Hai Cần, con của ông, và một số anh em du kích. Họ đang ngồi quây quần trên bộ ván giữa, ăn uống, súng ống để bên cạnh.

Tôi bước vào. Mọi người ngẩng lên. Nhưng họ chưa nhận ra được tôi. Mãi một lúc sau, anh Hai Cần vụt kêu "a" lên một tiếng rồi nhảy từ trên bộ ván xuống, vồ lấy hai vai tôi. Anh ngó tôi với đôi con mắt như bị :Da đèn và la:

- Trời ơi, chú Bảy...

- Phải, tôi đây anh Hai!

- Trời đất, chú đi đâu mà đi biệt Xẻo Đước mấy năm nay vậy chú Bảy?

- Đi công tác chớ đi đâu... Sao, cả nhà mạnh giỏi bình yên hết hả? Bác Tám đâu rồi?

- Ba tôi?

Anh Hai Cần chỉ nói thế, rồi đứng sửng. Đoạn anh nói tiếp giọng buông thõng:

- Ba tôi chết rồi!

Ông Tám chết. Tôi chưng hửng đứng lặng. Anh Hai Cần không nói thêm tiếng nào nữa. Anh nắm tay tôi kéo lại bộ ván, ra ý bảo tôi ngồi xuống. Một anh ngồi phía trong nói:

- Thôi, chuyện cũ để rồi nói sau... Bây giờ chú Bảy ngồi đây nhậu chơi với tụi tôi vài ly đã...

Tôi ngồi ghé xuống. Giờ tôi mới nhận ra từng người. Người vừa nói là chú Tư Đương. Chú này hồi đó cũng ở trong đội tự vệ của địch, có lần bị xua đi lùng "cứ", chính chú đã bước giẫm lên người tôi, kéo ráng phủ kín cho tôi và nói: "Nằm cho kỹ một chút nghe!". Tất cả mấy anh em ngồi nhậu tôi đều biết cả. Hầu hết anh nào trước kia cũng bị bắt ép vào đội tự vệ hương thôn, anh nào cũng từng vác gậy rượt chúng tôi, nhưng cũng chính họ là những người bảo vệ chúng tôi tích cực nhất. Họ là những người trải qua cái thời kỳ xóm làng bị chìm ngập trong tăm tối, bị vây bọc bởi dây thép gai, và bây giờ thì họ là những người du kích đứng sau lũy chiến đấu. Khi họ nâng ly rượu trao cho tôi, tôi nhận ra rượu Xẻo Đước vẫn trong vắt như xưa. Nhìn những tăm rượu trào lên trong ly, tôi thẫn thờ nghĩ tới ông Tám. Ông Tám chết trong trường hợp nào, tôi chưa được rõ. Anh Hai Cần vẫn chưa nói cho tôi biết. Một anh nào đó lại cất tiếng giục tôi:

- Làm đi, chú Bảy!

Tôi uống ly rượu làm nhiều lần, uống từng hớp một. Cái chai lít sau đó lại ghé vào miệng ly tôi, rót nữa. Tôi giơ tay ngăn lại:

- Nói thiệt với mấy anh, tôi còn phải đi...

- Đi đâu, Tết nhứt mà còn lặn lội đi đâu?

Anh Hai Cần thì nài nỉ thành thực:

- ở lại chơi chú Bảy. ở ngủ với tôi một đêm, rồi tôi nói chuyện cho nghe...

Tiệc rượu nhỏ đêm cuối năm kéo dài không lâu. Anh em du kích lần lượt xách súng đi hết, người đi bám lộ, kẻ đi gác. Chị Hai Cần dọn cơm cho tôi ăn và nói với chồng:

- ở nhà chơi với chú Bảy, tôi đi họp phụ nữ tính chuyện ngày mai đem bánh trái ủy lạo anh em bộ đội coi...

Chị Hai Cần đi rồi, chỉ còn lại có tôi với anh Hai. Tôi hỏi chuyện về cái chết của bác Tám. Anh Hai Cần lặng thinh. Lát sau anh chậm rãi bảo tôi:

- Chú Bảy à, tối đó ba tôi tính đem bánh, trà vô "cứ" cho mấy chú. Ba tôi ổng lo lắm, sợ Tết nhứt mấy chú ở trong "cứ" buồn. Chiều đó vợ tôi luộc bánh chín rồi, ba tôi liền lấy bốn đòn đem ém dưới sạp xuồng... ổng sợ tụi nó thấy. Tính khuya là chống xuồng vô mấy chú. Ai ngờ khuya tụi nó cứ đi rỏn hoài.

Tôi nói:

- Hèn chi tôi rờ mấy đòn bánh tét thấ còn nóng. Anh Hai ơi, vậy là tụi tôi có lỗi với bác Tám lắm. Bữa nay chẳng giấu gì anh, tôi đem hoàn lại gia đình một số tiền. Chiếc xuồng dạo nọ...

Anh Hai Cần im lặng, không nói gì hết. Hồi sau, anh ngước lên, mắt đỏ hoe. Anh không nhắc nhở gì tới chuyện chiếc xuồng nữa:

- Ba tôi mất hồi năm ngoái, chú Bảy à. Lúc đó tụi nó ráo riết dồn bà con vô ấp. Không ai chịu đi. Chú biết nhà tôi thì ở ngay đầu xóm nên mỗi lần tụi nó kéo vô là ghé trước. Năm lần bảy lượt o ép, ông già tôi đều kiếm cách lướt qua hết. Ba tôi nói: "Nhà mình ở đầu xóm mà núng thế thì không làm gương được cho lối xóm!". Thật, nhà tôi không động đậy, cả xóm cũng không nhúc nhích. Lính tráng gặp ba tôi thảy đều ngán. Ban đầu ba tôi nói: "Nhà tôi cũng như nhà mấy chú, đừng có nghe lời người ta tới đây đòi dọn đòi dời, tôi không đi đâu!". Lượt sau chúng lại vô, hùng hổ dỡ nhà, ba tôi đem cây mác mài bén ngót ra phóng cắm giữa nhà, nói:

- Tôi nói thiệt chớ không phải giỡn đâu. Chú nào leo lên rút một cọng lá tôi chém cho coi! - Ba tôi nói tỉnh khô vẫn gọi tụi lính bằng "chú". Không thằng nào dám leo lên dỡ nhà hết. Tụi nó nhắm không êm, bỏ nhà tôi kéo qua nhà thím Sáu Ơn, tưởng đâu đàn bà góa thì dễ ăn hiếp. Nào ngờ thím Sáu Ơn cũng không chịu đi. Tụi nó bật lửa đòi đốt nhà. Thím Sáu bồng bế kêu hết mấy đứa con ra ngồi giữa nhà nói:

- Đốt cho mẹ con tôi chết luôn thể!

Thằng lính sắp đốt nhà nghe thím nói thì buông mồi lửa, ngẩn ngơ. Vậy là lần đó, tụi nó cũng bó tay kéo về. Thằng quận trưởng Sông Đốc tức lắm. Nó cách chức thằng đồn trưởng Xẻo Đước, đổi thằng khác tới. Thằng đồn trưởng mới này tên là thằng Đởm, chánh cống ác ôn. Mới về, nó tuyên bố:

- Tôi không lùa được dân Xẻo Đước thì tôi chết sao?

Rồi mới tới ngày hôm trước, hôm sau nó đã dắt lính vô. Hay tin, ba tôi vẫn điềm tĩnh ngồi tại bộ ván giữa này. Cử chỉ ba tôi lúc đó coi khác lắm chú Bảy à. Phần tôi, tôi biết lần này gay go, vì thằng Đởm là thằng gian ác có tiếng. Cho nên, tôi luôn ở sát bên ba tôi, mắt không rời cây búa bửa củi giấu sau cánh cửa. Tất nhiên nhà tôi là cái nhà đầu tiên tụi nó ghé. Chưa vô tới sân, thằng đồn trưởng Đởm đã nổ súng. Sau phát súng, nó kề miệng thổi phù phù vô nòng cây "côn 12" rồi thét:

- Ai là chủ nhà đây?

- Tôi!

Ba tôi đáp gọn.

Tên đồn trưởng xộc vô. Nó ngó quanh quất, ngó tôi và ba tôi, đoạn vẫy súng nói:

- Ê, ông là chủ nhà hả? Ông biết tôi tới đây có chuyện gì không?

Ba tôi từ trên ván bước xuống đất:

- Được, chuyện chi cũng được. Nhưng mấy người đình đãi cho tôi một chút...

Tên đồn trưởng nghe nói, tưởng đâu ba tôi ngán nó rồi, nên nó đắc chí ngó mấy tên lính, nháy mắt. Đoạn nó ngồi lên ván, trẻo ngoảy chân, đốt thuốc thơm hút:

- Được, ông già lo cụ bị đồ đạc đi. Có ghe chớ?

Ba tôi đáp:

- Có, tôi có ghe!

Nhưng ba tôi không đi cụ bị đồ đạc, cũng không đi lấy ghe. Ba tôi mở tủ thờ lấy cái áo dài bằng xuyến đen ra. Đây là chiếc áo ba tôi chỉ bận khi có giỗ kỵ. Bấy giờ ba tôi thong thả bận vô. Ba tôi bận áo rất kỹ lưỡng, vuốt từng nếp nhăn trên áo. Xong rồi ba tôi đưa tay xổ đầu tóc, xõa ra. Tụi nó không biết ba tôi làm cái gì. Mà ba tôi cũng chẳng ngó ngàng để ý gì tới tụi nó. Hình như bấy giờ ba tôi chỉ biết có việc ba tôi làm. Sau khi bận áo và xõa tóc, ba tôi rút mấy nén nhang, bảo tôi:

- Hai, con đốt đèn lên!

Tôi rùng mình quẹt lửa đốt đèn. Cái ống quẹt cứ run lên trong tay tôi. Ba tôi đốt nhang quỳ xuống trước bàn thờ, lầm rầm khấn:

- Thưa ông bà, cha mẹ, thưa các hương hồn liệt sĩ, nhà cửa đất đai đây là của ông bà, cha mẹ và cách mạng đã tạo lập cho con. Bữa nay người ta tới ép buộc con phải bỏ đi. Con không thể phụ bạc công ơn cha mẹ, công ơn cách mạng. Vậy con xin chết cho cha mẹ và các vị liệt sĩ ngó thấy. Khấu đầu xin cha mẹ và các vị chứng miệng cho...

- Ông già câm miệng!

Thằng đồn trưởng la lên. Nó không chịu nổi những giây phút rùng rợn ấy nữa. Cũng vừa lúc ba tôi khấn vái xong. Bước tới góc nhà chụp cây mác, ba tôi quay phắt tới trước mặt tên đồn trưởng:

- Việc của tôi đã xong, bây giờ mấy người muốn gì?

Thằng đồn trưởng xanh măt. Nó không nói rằng nó muốn gì cả. Nó đưa khẩu súng "côn 12" lên, chĩa vô ngực ba tôi. Tức khắc ba tôi cũng chĩa mũi mác nhọn hoắt về phía nó. Và tôi, không chần chờ, lập tức vớ ngay cây búa bửa củi giấu sau cánh cửa. Bọn lính lên đạn rốp rốp. Ba tôi nhích mũi mác tới. Thằng đồn trưởng lùi lại. Tay súng nó run lẩy bẩy. Thình lình tôi thấy lòng súng trong tay nó gặc mạnh một cái. Phát súng nổ "đùng". Ba tôi đưa tay lên mặt. Một dòng máu chảy xuống mặt ba tôi. Nhưng ba tôi vẫn đi tới. Thằng đồn trưởng cứ lùi. Bỗng nhiên, nó buông rơi khẩu súng, hoảng hốt rú lên quay người bỏ chạy. Nhưng tôi đâu để nó chạy. Cây búa trong tay tôi đã bay theo. Lưỡi búa cắm ngập vô gáy thằng đồn trưởng. Nó kêu "trời ơi" rồi té sấp, hai tay vã xuống nền nhà...

Kể tới đây, anh Hai Cần dừng lại. Anh chụp hai rượu rót vô ly. Anh rót rượu tràn cả ra ngoài. Nhắc ly rượu uống cạn, anh dằn cái ly không đánh cốp xuống ván, ngó chằm chằm ra đêm tối. Bóng anh in trên vách, bất động. Tôi khẽ hỏi:

- Còn tụi lính, nó không bắn à?

Anh Hai Cần lắc đầu:

- Không, họ không bắn tôi. Khi đó, tôi cũng không chém họ. Tôi vứt búa, bước tới đỡ lấy ba tôi, ba tôi đã tắt thở. Chợt một người lính cầm ngọn mác của ba tôi đưa cho tôi và bảo:

- Chạy trốn đi, để đây tụi tôi tính.

Tôi sửng sốt nhìn anh ta. Nhưng hai anh lính khác cũng giục tôi:

- Chạy mau đi!

Nói rồi họ khiêng ba tôi đặt dựa vô vách. Một anh đi lượm cây búa tôi chém thằng đồn trưởng ban nãy, đem lại đặt kế bên ba tôi. Tôi hiểu, liền cầm cây mác vọt ra vườn. Lúc chạy một đỗi, tôi nghe họ la:

- Tụi bây ơi, thằng già nó chém chết ông trung úy rồi!

Anh Hai Cần đưa tay l6n quào quào ngực:

- Sau đó cả tháng tôi mới bị bắt. Nhưng không có đứa nào nghi tôi đã chém chết thằng đồng trưởng, trừ mấy người lính kia. Lúc tôi được thả, về tới nhà thì tất cả xóm ấp đều bị nó dùng dây thép gai bủa chặt lại rồi. Sau cái chết của ba tôi, cũng không có ai chịu dời đi. Lùa bà con không được, tụi nó mới đem dây thép gai tới rào thành ấp chiến lược luôn. Gần một năm, bà con bứt nài tháo ống cả chục lần. Có lần tụi nó cho cả đại đội về kềm giữ. Rốt cuộc...

Anh Hai Cần dừng lại, hỏi tôi:

- Chú có biết tụi tôi phá ấp ra sao không?

- Chỉ nghe nói sơ sơ chớ không rõ lắm!

Anh Hai Cần cười hà hà:

- Nè, phá khác hơn mọi chỗ hết thảy, nghe, phá ban ngày!

- Phá ban ngày? - Tôi hỏi lại.

Anh Hai Cần gật đầu:

- ừ, vậy mới "đã chớ". Tụi tôi tính nếu làm ban đêm thì khó ém anh em lực lượng.

- Anh em lực lượng nào?

- Anh em bộ đội vô tiếp chớ lực lượng nào. Chú nên biết, sự phá ấp ở đây không phải phá "ên" mà được, phải đi đôi với sự đánh bót. Tụi tôi móc nối với anh em địa phương quận huyện. Gay nhứt là làm sao đưa anh em lọt vô ấp.

- ém quân ngay trong ấp?

- Chớ sao. Coi vậy mà cũng không khó lắm đâu. Nhà nào tụi tôi thương lượng thu xếp để ém quân cũng đều đồng ý. Bà con nói: "Xin miễn là phải đánh cho dứt mới được". Tôi nói: "Đã đánh là phải đánh dứt, bà con đừng lo!" Họ nói: "Nếu làm thiệt thì tụi tôi xin chứa ngay anh em ở trong mùng, để anh em bắt chết mẹ tụi nó, rồi mình tháp tùng phá ấp luôn!". Đêm đó, tụi tôi đưa anh em vô ém. Sáng ngày, bọn lính thả ra khỏi bót đi nghễu nghện bị anh em tốc mùng nổ súng. Tụi nó bị bắn gục trong các ngõ, có thằng vừa kêu "trời" vừa chạy về bót mà chạy không kịp. Tụi tôi réo mấy thằng trong bót ra hàng. Bà con áp phá bót tanh banh, nhưng không phá ấp. ấp chiến lược về mình thì mình xài, không thèm phá...

Anh Hai Cần thôi nói.

Anh thôi nói đã lâu. ấy thế mà trong đêm tối, tôi vẫn còn nghe. Tôi nghe đây là nghe tiếng súng nổ giữa ban ngày, tiếng rú của lũ giặc, và tiếng của ông Tám, tiếng nói của ông già nông dân ngót bảy mươi tuổi ấy cất lên vang rợn:

- Thưa ông bà, cha mẹ, thưa các hương hồn liệt sĩ, nhà cửa đất đai đây là của ông bà, cha mẹ và cách mạng tạo lập cho con...

Cứ thế, tôi nghe tiếng nói ấy. Và thưa các bạn đọc, tôi xin nói ra cái điều kỳ lạ là cũng ngay bấy giờ tôi cảm thấy như đất nền nhà dưới chân tôi nóng hâm hấp, cơ hồ như đất đang động cựa, tái hiện lại những vũng máu tươi. Thế rồi, khi tôi quay lại, tôi không thấy anh Hai Cần ngồi cạnh tôi nữa. Anh đang quỳ trước bàn thờ. Cái bàn thờ mà cha anh đã quỳ dạo đó. Mùi nhang lại tỏa lên.

Giữa lúc năm cũ đi qua. Và một năm mới đến.

Tháng 3-1964



Trả Lời Với Trích Dẫn
  #8  
Old 05-30-2004, 08:51 PM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

Đứa con





Trong đêm khuya bấy giờ chỉ còn có hai vợ chồng chú Ba. Chú Ba tuổi đã ngót bốn mươi. còn thím Ba chừng như kém hơn vài tuổi. Chú Ba ngồi dựa cột, chân duỗi thẳng lên chiếu trải dưới đất. Hai vợ chồng ngồi như vậy rất lâu, không ai nói câu nào. Chợt chú Ba đấm tay xuống chiếu:

- Thôi đi, tôi đã quyết rồi!

Thím Ba cũng chẳng nói gì. Song nước mắt bỗng trào ra khóe mắt thím. Khuôn mặt người đàn bà trông thật đáng thương. Đêm đã khuya. Chốc chốc lại có tiếng nổ "đoàng" ngoài vọng gác. ở ấp chiến lược, súng nổ mãi thành quen tai, nên hai vợ chồng hình như không lưu ý gì cho lắm. Khi không có cái tiếng súng bắn vu vơ nữa và khi cả hai vợ chồng đều im lặng thì gian nhà chỉ còn có tiếng ngáy đều đều của cậu con trai mười bảy tuổi đang ngủ trên vạt. Bỗng chú Ba co chân lại, vươn vai đứng lên, đi ra bộ ván trước. Thím Ba vội đứng dậy bước theo, thì thào:

- Vậy mình định chừng nào cho con nó đi?

- Chưa biết. Nhưng cũng không lâu đâu. Để tôi gặp lính Tư bàn coi đã. Hễ đêm nào lính Tư gác là cho nó đi!

- Trời... - Thím B buột kêu lên.

- Trời với đất gì. Đàn bà thiệt mau nước mắt quá. Tôi hỏi mình, vậy chớ để thằng Trung ở đây cho tụi nó bắt lính, mình mới vui sao?

Thím Ba đứng sững, nước mắt trào ra vuốt ướt tay. Thím biết tính chồng, hễ đã định làm chuyện gì thì khó mà can được. Gần nửa tháng nay, chồng thím có đem chuyện đứa con trai ra bàn với thím, bảo là không thể để thằng Trung ở giữa cái ấp chiến lược này được nữa. Rồi chồng thím lại bảo rằng sẽ thu xếp cho con nó đi. Thím hỏi cho con nó đi đâu thì chú Ba ghé sát vào tai thím mà nói: "Đi theo đằng giải phóng!". Chú còn căn dặn: "Mà chớ có nói với ai đó, tụi nó biết được thì khốn. Ngay như thằng Trung cũng đừng cho nó hay trước. Chuyện đó để tôi. Phần mình cứ lo sửa soạn cho nó, quần áo nó có rách thì vá lại, ở nhà còn hai trăm đồng bạc đừng đụng tới, để nó đem theo. Nhà mình chỉ có mỗi mình nó... tôi biết, nhưng tôi nghĩ nát óc rồi. Thằng nhỏ khỏe mạnh, lại gần tới tuổi đi lính, như miếng mồi treo sờ sờ trước mặt, sớm muộn gì nó cũng đớp...

Thôi, mình nên tính trước đi là hơn. Cho nó đi theo anh em, nó sẽ nên người. Chắc rồi nó cũng cầm súng, nhưng cầm súng nổ vô đầu tụi phản dân hại nước, nó chết tôi cũng mát dạ".

Lúc thoạt tiên, nghe chồng nói chuyện ấy, thím Ba giật nẩy người. Giữa ấp chiến lược đầy dẫy phường lang rợ sói này, nghe chuyện như thế mà không giật mình sao được. Thím Ba sợ lắm. Song nghĩ tới nghĩ lui thím thấy chồng nói đúng. Hai vợ chồng thím lấy nhau đã lâu chỉ có được một đứa con trai, năm nay nó đã mười bảy tuổi, người ta sắp sửa bắt nó đi, rõ ràng là như vậy mà ngồi đó chịu cho người ta bắt hay sao. Biết chồng nói phải nhưng thím vẫn khổ tâm áy náy. Dạo này giấc ngủ đến với thím sao mà khó khăn. Nằm xuống thím vụt nhớ lại mười bảy năm về trước mình đã sanh con mình như thế nào và nó đã cất tiếng khóc ra sao. Đêm đó, một cô y tá Vệ quốc đoàn đỡ đẻ cho thím giữa tiếng súng của một cái bót Tây đóng. Tã lót con cũng của bộ đội cho. Hồi ấy, vợ chồng thím vừa mới ở đợ cho người ta ra. Lấy nhau rồi, vợ chồng vẫn còn mặc đồ bố. Năm sau, cách mạng cấp cho vợ chồng thím hai mẫu đất, nhờ đó mà làm ăn khá lên, nuôi con khôn lớn. Ba tháng trước, thím gạt nước mắt mà từ biệt miếng đất đi ra đây dưới hàng lưỡi lê tua tủa. Lần đó chú Ba bị chúng đánh tất cả là bốn báng súng vì chú đã kéo chân cái thằng leo lên dỡ nhà chú, khiến nó té nhào xuống đất. Thím Ba với thằng Trung cũng bị lùa đi. Về đây, gia đình thím sống như bị cầm tù. Cực khổ, hằng ngày bị đe dọa đã đành, lại tiếp đến mối lo này. Mối lo âu này đối với vợ chồng thím thật là đáng sợ. Nó không là mũi dao hòn đạn giết chết vợ chồng thím nhưng nó giày vò, cấu xé lương tâm vợ chồng thím.

"Cách mạng đã đem đất lại cho mình, nhờ đó mình nuôi thằng Trung lớn lên. Giờ để tụi nó bắt thằng Trung đi lính bắn lại cách mạng à? Trả nghĩa cách mạng như vậy à?".

Chồng thím vẫn bảo thế. Thực ra thì thím Ba chưa hề cãi lại ý kiến của chồng. Độ một tuần nay, thím đã âm thầm thu xếp cho con trốn đi. Nhưng lòng thím vẫn đau. Cái nỗi đau mà người mẹ nào chả có trước khi chia tay với đứa con mình đã mang nặng đẻ đau mà không biết còn gặp lại nữa không.

Chú Ba đã cất tiếng ngáy khò khò ở bộ ván trước. Thím Ba nằm xuống bên cạnh con. Nhưng thím đâu có ngủ. Thím mở mắt trao tráo. Lát sau, thím lại ngồi dậy. Dưới ánh đèn, thím nhìn con trai đang ngủ. Trời nóng, thằng Trung ở trần trùi trụi. Tiếng ngáy của nó nghe rất đều và khỏe. Thím ba thừa lúc con ngủ, cầm trộm bắp tay con. Thím thấy bắp tay con rất chắc. Từ một đứa trẻ nó đã trở thành một thanh niên tráng kiện. Nhè nhẹ buông tay con ta, thím Ba mò kiếm cái rổ may ở góc vạt. Thím đứng lên đi lấy đèn lại, ngồi vá nốt chiếc áo của con bị rách. Tay luồn kim, ngồi vá nốt chiếc áo của con bị rách. Tay luồn kim, mặt thím lại nhòe ướt. Người đàn bà khóc thầm một mình, khi chồng và con đều ngủ cả. Giữa đêm tối, lâu lâu bọn dân vệ lại bắn đùng một cái. Không mấy lúc là ngớt tiếng giẫm thình thịch ở các ngõ nhà, hè nhà. Đó là tiếng giày của bọn công an đi sục sạo, nghe ngóng. Nhà nào nhà nấy đều im thin thít. Cái yên lặng ở ấp chiến lược khác hẳn cái im lặng ở một thôn xóm bình thường. Một sự yên lặng rợn người, man rợ và tăm tối. Bốn ánh đèn ở bốn chòi gác loi lói như mắt của quỷ dữ. Loáng thoáng hiện dưới ánh đèn, những sợi dây thép gai giăng giăng in bóng xuống mặt nước hào sâu.

***

- Chuyện tao muốn nói với mày là như vậy. Liệu có đi được không?

Chú Ba sau khi đem chuyện đó ra nói cho con trai nghe, chú hỏi con như thế. Thằng Trung ngồi im không nói. Nó đưa mắt liếc nhìn ba nói. Chú Ba không thấy con trả lời, liền hỏi tiếp:

- Sao! Hay là sợ không dám đi?

Thằng Trung đứng phắt dậy. Nó nói mà không nhìn ba nói:

- Tôi mà sợ. Có cái là tại sao phải đi ban đêm? Cứ ban ngày ban mặt mà đi, sợ thằng nào?

- ấy phải sợ nó thấy chớ. Mày ngu quá. Đi ban đêm dễ hơn. Tao đã bàn với lính Tư rồi, đêm mốt tới phiên chú Tư gác ở chòi gác chánh, chú sẽ để cho mày đi thong thả. Chừng mày đi rồi chú sẽ bắn súng báo động. Tao sẽ la rầm lên là mày đã bỏ nhà trốn...

Thằng Trung nghe ba nó nói thế thấy cũng có lý. Ngẫm nghĩ một chút nó bảo

- Tôi đi rồi thế nào nó cũng làm khó dễ ba má. Chú Ba nói:

- Ôi đừng lo. Xin miễn mày đi thoát là được. Còn tao, nếu nó đánh thêm vài báng súng nữa cũng chịu nổi. Chịu cho nó thúc vài báng súng để mày đi thoát thì tao chịu được.

Đứa con trai ngồi xuống. Nó yên lặng, không động đậy. Mi mắt của nó cứ chớp lia. Nó đang nghĩ tới lúc nó đã ra đi rồi không có ai đi kiếm củi cho má nó. Rồi xa nó, má nó thể nào cũng khóc. Nghĩ tới bước đường sắp tới thì nó khoan khoái, nhưng chạnh nhớ cảnh nhà thì nó hơi băn khoăn. Niềm vui xen lẫn với nỗi lo. Có lúc nó tưởng tượng nó đi bộ đội, có ngày nào đó nó sẽ về đây giải phóng cho má nó, thím Tám, chú Năm và mấy đứa nhỏ như con Lành, con Quế. Nó mà vô bộ đội, thì đám dân vệ bảo an ở đây nó coi không ra cái thớ gì. Bờ rào ấp chiến lược nó đạp đổ nhào hết. Trong đầu nó đã sắp sẵn: Những người của mình như chú Tư, anh Chín Cồ thì chừa ra, còn bắt được thằng nào là nó đem trấn nước. Chưa gì mà trước mắt thằng Trung đã vẽ ra những cảnh tượng hết sức sôi nổi. Ba nó bấy giờ lạibảo:

- Vô trong đó, phải siêng năng, hiểu chưa! Mà phải chịu cực khổ đã, tao nói trước. Được đi bộ đội càng hay, nhưng liên lạc cũng đi. Anh em người ta giao cho việc gì cũng làm, hiểu chưa?

Chú Ba nói nhấn mạnh tiếng "hiểu chưa" sau cùng. Thằng Trung có vẻ không thích ba nó cứ nhấn đi nhấn lại như thế. Cái chuyện đó nó thừa biết đi rồi mà ba nó cứ nói mãi. Đi làm cách mạng cực khổ, nó đâu có sợ. Lội sông, lội ruộng, lội bưng nó đã từng lội rồi. Nhịn đói hai ba ngày nó đã từng nhịn. Chà, cái thứ đói bụng thiệt mới khó chịu chớ. Nhưng nó tự hứa với lòng là sẽ cố gắng. Người ta sao, mình vậy. Ngồi ở đây, thằng Trung đưa mắt nhìn ra vòng rào dây thép gai. Xuyên qua một quãng bờ chướng ngại ấp chiến lược chưa đắp, nó nhìn thấy dòng sông và ven cây xanh mù dưới chân đồng. Đó là làng Mỹ Hiệp, kế làng Tân Hiệp của nó. Nó sẽ vượt qua con sông ấy, rồi băng đồng đi tới ven cây xanh đó. Dòng sông thì nó đã có lội, bốn lần lội qua lội lại mà không biết mệt. Còn cánh đồng nó chạy một hơi là tới. Thằng Trung cầm chắc là nó sẽ đi qua mấy chỗ đó một cách dễ dàng.

Ba nó thấy nó cứ ngồi ngó mông ở đâu đâu thì lại dặn thêm:

- Cái điều chủ chốt...

"Lại cái điều chủ chốt..." Thằng Trung nghĩ.

- Điều chủ chốt là phải có gan, - ba nó tiếp lời - Mình ăn thằng Mỹ - Diệm là ở sự tinh thần. Lính tụi nó chưa đánh đã chạy, bộ đội mình chưa hô là đã xung phong lên rồi...

Thằng Trung ngó ba nó, nghĩ bụng: "Chưa hô mà đã xung phong thì bỏ bà". Song nó chỉ nghĩ thầm trong bụng vậy thôi chớ không dám cãi. Nó tức cười mà cũng không dám cười. Tánh ba nó nóng lắm. Mấy lần ba nó rượt nó chạy thiếu điều hụt hơi chỉ vì nó hay bàn tới bàn lui. Nhưng nó không oán ba nó bao giờ. Ba nó thương nó với má nó lắm, tại tính ba nó không ưa thổ lộ, ra tuồng vuốt ve âu yếm. Có thương thì ba nó để bụng mà thôi. Má nó lại hay khóc, và lo lắng cho nó đủ điều. Đây nó đi rồi má nó khóc cho mà coi. Nhiều lúc nó cứ nghĩ sao má nó chỉ đẻ mỗi mình nó, phải chi nó có một đứa em, một đứa em gái như con Quế con chú Tám chẳng hạn thì dầu nó có đi, má nó hú hí với em nó cũng đỡ buồn. Bữa nay, trong lúc ba nó to nhỏ dằn dò nó trước lúc ra đi thì má nó nấu cơm dưới bếp. Má nó đương xào cái món gì bay mùi thơm quá. Chắc là hủ tiếu xào tôm. Món đó nó ưa lắm. ở đây rồi nó không được ăn, vì lẽ không có tôm. Cứ như lúc còn ở trong Tân Hiệp thì nó ăn thường. Nó làm siêng xuống rạch mò một chút là xách lên một xâu vài chục con tôm càng xanh. ở đây thì nhịn thèm. Sáng nay má nó cầy cục xin phép thằng Hai công an đi chợ mua về được một mớ tôm. Mắc muốn chết, có tám con tôm mà tới mười lăm đồng.

Giữa lúc má nó sắp dọn chén ăn cơm thì nghe có tiếng chân ai đi lạo xạo trước cửa. Nó ngó nhóng ra thì thấy thằng Hai công an. Hắn dừng chân trước cửa nhà, thọc sâu hai tay vào túi quần "đạcgờrông" kêu lớn:

- Ê, Ba Đô ơi, tối nay đi học tập nghe. Học về chánh sách chiêu hồi, quan trọng lắm đa!

Nói tới đó không thấy ai lên tiếng, hắn la lớn:

- ủa, nhà bộ chết hết rồi sao, không thấy ai lên tiếng vậy kìa!

- Có tôi ở nhà đây - Chú Ba đáp, nhưng vẫn không bước ra.

Tên công an nói:

- Kêu sao mần thinh vậy. Nè, tôi nhắc lại tối nay ra trụ sở học tập nghe, để thông hiểu chánh sách Ngô tổng thống rồi có bà con ai theo Việt Cộng thì kêu họ về... Chà... xào nấu giống gì mà bay mùi thơm dữ vậy?

- Dạ, bữa nay hết gạo xào hủ tiếu ăn trừ cơm đó thầy Hai!

- à... à, xào hủ tiếu ăn trừ cơm... Sung túc chưa, vậy mà hồi đó kêu đi ra đây còn làm bộ!

- Dạ, sung túc... thì cũng sung túc...

Tên công an ngắt lời chú Ba:

- Đó, đó sắp sửa mở giọng nói mắc mỏ rồi đó!

Tên công an đi khỏi, chú Ba lẩm bẩm:

- Lại chiêu hồi. Chiêu hồi ai đâu không thấy chớ nay mai tao cho con tao đi ra với Việt Cộng cho bây coi.

Ngay hôm sau, sau khi cơm nước xong, chú Ba gọi con đem bình mực và cây viết ra cho chú. Rồi chú bảo nó đứng ở cửa gác chừng. Chú nghĩ rằng không thể để con mình đi vô đó tay không được. Giao đứa con trai độc nhất của mình cho cách mạng, bổn phận người cha, chú thấy cần phải có ít lời. Chú cầm bút chấm vào bình mực. Có một cái gì rất thiêng liêng dâng lên trong người chú khi chú hạ bút sắp sửa viết những dòng chữ ấy. Chú Ba có cảm giác như hồi ở trong kia chú đứng chào cờ trong các buổi lễ, hoặc lúc chú đốt hương trong ngày đi tảo mộ liệt sĩ. Cái cảm giác đó làm mi mắt chú nóng hổi, rân rấn. Thành ra cây bút chú cầm trong tay cứ run lên. Thành ra cây bút chú cầm trong tay cứ run lên. Ngồi đã lâu mà chú chưa viết được một chữ. Vả lại, thuở giờ chú Ba có hay viết thư từ gì đâu. Nói sao cho rành rẽ, cho anh em hiểu được ý mình, tình mình đây. Quả là khó. Trước hết, chú nghĩ, phải nói là "Hai vợ chồng tôi chỉ đẻ được một thằng con trai"... Mà không ổn rồi, viết thư cho cách mạng mà gọi con mình bằng thằng như ở nhà thì không được. "Hai vợ chồng tôi chỉ có một đứa con trai..." Phải nói như thế. Chú Ba ngồi trên bộ vạt sau, khom lưng, nắn nót viết từng chữ. Lúc nào chú nghe thằng Trung húng hắng ho thì chú đút tờ giấy xuống chiếu. Xong lại đem ra viết. Cứ thế mãi tới lúc mặt trời đứng bóng chú mới viết xong bức thư. Một bức thư mà trong đời mình, người nông dân ấy chưa hề viết.

***

Buổi chiều nay cả nhà chú Ba ăn cơm sớm. Thím Ba ăn không được. Bưng chén cơm lên thím lại nghẹn ngào đặt xuống. Thằng Trung ăn cũng không thấy ngon. Chỉ có chú Ba là lặng lẽ ngồi ăn, thản nhiên như mọi bữa. Chú nói với con, giọng có phần âu yếm hơn ngày thường:

- Rán mà ăn chút :Dnh đi. Bữa cơm này là bữa cơm cuối cùng má mày nấu cho mày ăn đó!

Thím Ba nghe chồng nói câu ấy thì không chịu nổi nữa. Thím đưa ống tay áo lên quệt nước mắt lia lịa. Đoạn thím buông đũa, đi lại bộ vạt ngồi khóc sụt sịt. Thằng Trung và nốt mấy miếng cơm rồi cũng đứng dậy. Nó nói vẻ cứng cỏi:

- Thôi, đừng khóc má. Con đi đây đáng lẽ má phải mừng mới phải... Trời tối rồi, cái gói quần áo của con đâu?

- Đây!

Thím Ba lấy gói quần áo cột túm bằng chiếc khăn sọc đưa cho con. Tấm khăn đó thím đội thường ngày, nay đem gói quần áo cho con trai. Thằng Trung ôm cái tay nải, ngồi xổm dưới đất. Nó nghe từ tấm khăn toát ra mùi mồ hôi quen thuộc của má nó. Cái mùi mồ hôi tần tảo, lam lũ lao động của người mẹ chợt làm cho đứa con rộn rực một cách khó tả. Thằng Trung biết má nó nghèo nên không sắm cho nó một cái khăn mới. Nó cảm động, rơm rớm nước mắt. Nhưng nó quay mặt về phía bóng tối, giấu không cho má thấy. Nó thầm nghĩ, dầu cho nó có đi theo quân giải phóng tới chân trời góc biển nào, nó cũng sẽ giữ cái khăn ấy nhứt định không để mất. Nó chợt có cảm tưởng rồi đây má nó sẽ ở bên nó mãi mãi. Lúc ấy, má nó cũng ngồi thụp xuống, giúi vào tay nó một cái gói gì bằng giấy:

- Đây là tiền, con cất để dành xài...

Thằng Trung mở gói giấy. Nó thấy trong đó có bốn tờ giấy bạc năm chục đồng. Nó chỉ lấy một tờ, còn bao nhiêu nó đưa cho má nó.

- Đi bộ đội, lo gì!

Má nó không bằng lòng. Nài nỉ mãi nó mới chịu cầm thêm năm chục đồng nữa là chẵn một trăm.

Ba thằng Trung ăn cơm rồi quầy quả đi đâu, một chốc sau ba nó trở về, nói:

- Tôi đã gặp lính Tư, êm rồi!

- Đi chưa, ba?

- Chưa. Khuya khuya một chút mới đi được. Đây này, mày cầm cái này...

Chú Ba lấy cái thư trao cho con căn dặn:

- Cất kỹ nghe, vô đó trao cái thơ này cho chú Chín Tâm, ổng là chi bộ ở Mỹ Hiệp. Nếu không gặp chú Chín Tâm, gặp bộ đội hay du kích đưa cũng được. Tao dặn lại, một lát nữa cứ thẳng ra cửa mà đi, đã có lính Tư gác ở đó, không sợ gì. Đi một đỗi mày sẽ qua sông, lúc đó chẳng có súng nổ, nhưng cứ tỉnh, tiếng súng của lính Tư bắn, không lo. Có điều là vô tới vườn rồi thì phải bỏ đường bộ, xuống kinh lội đi. Trên lộ bà con người ta gài chông đi không được đâu...

Thím Ba nghe nói thế thì lo lắng ra mặt. Thằng Trung bảo: "Được rồi".

Chừng một tiếng đồng hồ sau, thằng Trung bước khỏi nhà. Ba nó đứng coi hoặc chừng đường. Nó đi một mạch. Lúc ngoảnh lại nó thấy bóng má nó đứng trên thềm nhà. Nó biết má nó đương khóc, nhưng không dám khóc lớn.

... Bây giờ thì thằng Trung đã ra tới cửa ấp. Nó thấy cửa mở he hé, chớ không đóng. Nó liền đẩy nhẹ một cái, lách qua rồi thoăn thoắt bước đi. Chốc sau nó qua khỏi hàng rào dây thép gai cuối cùng tới chân đồng. Nó xốc cái tay nải lên vai, bắt đầu chạy... Gió thổi lộng. Không khí trong lành quá. Chạy một quãng nó dừng lại thở. Nó cảm thấy không khí nó hít vào mát mẻ, dễ chịu hơn ở trong ấp nhiều lắm.

Tới bờ sông, thằng Trung cởi hết quần áo bỏ vào khăn, buộc túm lại. Nó giơ cái tay nải cao quá đầu, lội qua sông. Quả nhiên đúng như lời ba nó nói, lúc nó lội gần tới bờ thì nghe một phát súng nổ "đoàng". Vốn biết trước nên nó vẫn tỉnh, lên bờ lấy quần áo mặc vào. Nhìn về phía ấp chiến lược, nó thấy đèn ở chòi gác le lói. Lại thấy có ánh đèn "pin" chiếu lố nhố, nhì nhằng. Thằng Trung nghĩ bụng "Chắc tụi nó đương kiếm bắt mình".

Nó rơi vào tới ven vườn thì đêm đã khuya. Theo lời ba nó dặn, nó lại cởi quần áo lội xuống kinh. Nước chỉ tới ngực. Nó trầm mình dưới nước mà đi. Đi được một quãng, thình lình nó nghe một tiếng quát từ trên bờ dội xuống:

- Ai đó!

- Tôi.

- Tôi là ai?

- Tôi... tôi ở ngoài ấp chiến lược vô đây, để tôi lên...

Một bóng đen trên bờ nhô ra. Rồi một bóng đen nữa. Họ chĩa mũi súng xuống kinh. Một ánh đèn "pin" vụt chiếu ngay mặt thằng Trung khiến nó lóa cả mắt. Nó nghe người kia nói:

- Có một người thôi... Một chú em.

- Chú ngoài ấp chiến lược vô à? Có ai nữa không?

- Không, chỉ có một mình tôi thôi!

Thằng Trung vừa nói vừa leo lên bờ kinh. Nó vội vàng mặc quần áo rồi hỏi thăm chú Chín Tâm. Hai người đó bảo Chín Tâm đi vắng không có nhà, ở đây giờ chỉ có bộ đội ở. Một người bước sát lại gần nó hỏi khẽ.

- Chú em có chuyện gì đó? Có thể nói với chúng tôi được không?

Thằng Trung suy nghĩ một lát rồi gật đầu:

- Được.

- Vô nhà đi!

Thằng Trung theo một người đi vào nhà. Người đó đốt đèn, nhìn nó suốt lượt rồi đi gọi một người khác đương ngủ. Người được gọi thức dậy, dụi mắt hỏi:

- Gì đó?

- Báo cáo có một chú em vừa ở ấp chiến lược vào. Chú ấy muốn gặp đồng chí.

- Đâu, em ấy đâu?

Thằng Trung mạnh bạo đáp:

- Dạ, em đây!

Nói rồi nó mò trong túi lấy cái thư của ba nó đưa cho đồng chí ấy:

- Ba tôi dặn đưa thơ này cho chú Chín Tâm, nhưng nếu không gặp chú Chín Tâm mà gặp du kích hay bộ đội đưa cũng được.

Người chỉ huy đơn vị cầm lá thư, kê sát lại ngọn đèn. Mới đọc mấy dòng đầu, đôi mày rậm của anh chỉ huy vụt nhíu lại. Bức thư viết bằng mực tím, nét chữ ngoằn ngoèo và to cồ cộ:

Kính mến gởi anh em Cách mạng giải phóng,

Vợ chồng tôi chỉ có một đứa con. Vì tình cảnh bị kẹt nên tôi phải ở trong ấp chiến lược. Trước đây vợ chồng tôi được Cách mạng cấp đất nên làm ăn đặng khá. Tôi vốn chịu ơn Cách mạng và Đảng rất nặng. Nay con trai tôi (là đứa cầm thơ này) đã lớn, tôi không thể để tụi Mỹ - Diệm bắt nó đi lính đánh lại Cách mạng. Tôi không đành lòng mà chịu cảnh đó được. Vậy nên vợ chồng tôi từ trong ấp chiến lược gởi đứa con trai một của chúng tôi cho Cách mạng. Xin coi như tôi hoàn toàn dâng cho Đảng đứa con của tôi. Nó còn khờ khạo, mong anh em cứ dạy dỗ, chỉ bảo cho nó thành người thì vợ chồng tôi lấy làm mừng lắm.

Nay kính thơ

Nguyễn Văn Ba, bần nông

Bên dưới lá thư, ngoài chữ còn có dấu lăn tay, ngón cái và ngón trỏ, lăn bằng lọ nghẹ với dầu dừa. Đọc xong bức thư, người chỉ huy vui vẻ bước tới đưa hai bàn tay chụp lấy vai thằng Trung, làm như tự nãy giờ chưa thấy nó:

- Em đó hả? Ba em gởi tới đây à?

Thằng Trung tủm tỉm gật đầu. Người chỉ huy tiếp lời:

- Tôi có nghe chú Chín Tâm của em nói. Thôi được, em cứ ở đây. Có lẽ là em sẽ đi với chúng tôi. Bây giờ khuya rồi, chúng ta đi ngủ, mai sẽ nói chuyện thêm. Mùng tôi rộng, em vô mùng tôi mà ngủ.

6-1963



Trả Lời Với Trích Dẫn
  #9  
Old 05-30-2004, 08:52 PM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

Khói





Đêm ở Tháp Mười, tôi cứ ngỡ là bầu trời cao hơn ở những chỗ khác. Cánh đồng mênh mông đắm chìm trong sương mù, rì rầm như sóng biển. ấy là cái tiếng nói muôn thuở của gió lùa qua biển cỏ. Tháng tư rồi, Tháp Mười vẫn chưa mưa. Ban ngày nắng :Di chang, đêm đến cánh đồng mát rợi, lộng gió. Không bị ngăn cách bởi cây cối, gió thổi rất mực hào phóng. Còn hai tiếng đồng hồ nữa đơn vị xuất phát. Tôi nằm trong trại ruộng, bên cạnh những chiến sĩ rất trẻ. Hựu, trung đội phó nằm bên tôi mới có hai mươi ba tuổi. Sau khi phổ biến cho tôi kế hoạch trận đánh có thể sẽ nổ ra rạng ngày mai, Hựu nói thêm:

- Tôi tin chắc thế nào tụi nó cũng ào ạt cho trực thăng đổ bộ để chặng đường cái B đi pháo kích đồn. Nó biết mình chỉ rút về đường đó. Mình sẽ sẵn sàng đợi nó tại chỗ nó muốn hại mình. Anh sẽ có dịp thấy "săn phượng hoàng" là thế nào!

- Tôi rất muốn nhìn tận mắt một trận đánh như vậy - Tôi nói, giọng khấp khởi.

Hựu bảo tôi:

- Mê lắm anh à. Một khi chúng ta đã dọn kỹ cái chỗ đợi nó xuống và nhứt là khi chúng ta có một đội hậu bị mạnh.

- Đội hậu bị nào? Tôi hỏi.

- Cái B đi pháo kích đó!

Hựu tiếp lời, sau khi ngừng lại một chút:

- Ngoài ra còn một đội hậu bị thứ hai nữa. Đội này mới thiệt là mạnh...

Liền lúc ấy, tôi có cảm giác Hựu cười trong bóng tối. Cảm giác đó chỉ mới thoáng đến với tôi thì anh ta nói sẽ vào tai tôi:

- Bà con sẽ đốt khói... Có lẽ sẽ có Quế...

- Quế là ai?

- Vợ... à không, như vậy... gọi là gì, người yêu hoặc vợ chưa cưới à?

Hựu tự hỏi, rồi lại thở dài đáp lời mình:

- Không, sao tôi không muốn gọi thế...

Giọng anh trở nên lúng túng và anh chợt ngừng lại.

Trại ruộng lặng lẽ đón gió lùa qua. Một số chiến sĩ đã cất tiếng ngáy dưới làn gió mát mẻ đó. Tôi chờ Hựu nói tiếp. Tôi tin chắc thế nào anh cũng sẽ nói. Nhưng tôi vẫn im lặng không giục. Hầu như là gần đây tôi đã tập quen để có được sự bình thản ấy, cái mà người ta gọi là bản lĩnh của sự chờ đợi. Tôi nhìn ra ngoài trại. Xa xa phía chân trời có ánh lửa đốt đồng. ánh lửa nô giỡn ở ven đồng khác nào như một con rắn lớn, nó cứ trườn và hắt ánh đỏ ngời lên nền trời đêm xanh lam. Một chiếc xe trâu đi ngang qua, cắt hình in lên nền trền pha lửa ấy. Có thể thấy đôi sừng cong vút, chiếc xe nghiêng lắc lư, và tiếng bánh xe gỗ bịt sắt, lăn trên đất nẻ, nghe giòn và khô.

Thình lình Hựu day qua ôm ngang lưng tôi. Tôi hỏi:

- Cô Quế mà anh nói năm nay bao nhiêu tuổi?

- Mười chín.

- Quê cô ấy ở đâu?

Hựu nhổm dậy kéo tay tôi chỉ ra phía đồng:

- ở ven cây bên kia. Ban đêm không thấy chớ ban ngày thì thấy rõ. Mai, mai mình sẽ đi ngang qua đó... Anh ơi, khi tôi biết cô ấy thì cô ấy hãy còn bé, mới có mười sáu tuổi. Phải, lúc đó cô ấy là một cô bé. Gan lắm. Ngày cô ấy bị thương ở vai máu chảy đầm đìa nhưng cô ta không khóc, không kêu một tiếng.

- Tại sao vai cô đẫm máu, trúng đạn à?

- Không, bị chúng nó đâm anh à, đâm bằng chĩa... Ôi, bây giờ nhắc lại...

Anh trung đội phó trẻ tuổi cào cào lên tóc:

- Lúc đầu, tôi chỉ thương mến cô ấy như một đứa em... Trong năm năm chín đen tối, tôi mới có hai mươi tuổi, tôi phụ trách thanh niên xã, suốt ngày ở dưới hầm. Thời kỳ đó, tụi "bảo vệ hương thôn", tụi "công an" đầu hớt cua còn lộng hành lắm. Chính Quế lén lút đem cơm nước cho tôi. Quế mồ côi từ nhỏ. Cô sống với bà ngoại. Cái hầm của tôi chỉ có Quế và bà ngoại của Quế biết. Chúng nó kiếm bắt tôi dữ lắm. Tụi nó bảo nhau rằng tôi chỉ lẩn quẩn ở đâu đấy thôi. Rồi chúng nó thay phiên nhau rình từng nhà, rình cả ban đêm. Một lần đó, Quế nấu cơm và tờ mờ sáng đem cơm ra cho tôi...

Hựu mới kể tới đây, chợt trong đêm tối, từ ngoài ruộng bên kia có tiếng chân người đi qua. Một chiến sĩ vào hỏi:

- Đồng chí B phó đâu?

- Tôi đây.

- Anh C trưởng nói chúng ta có thể xuất phát sớm hơn một chút. Anh bảo đánh thức anh em dậy. Mười lăm phút nữa lên đường.

Hựu và tôi ngồi dậy. Tôi coi đồng hồ. Chín giờ rưỡi. Trong trại ruộng, các chiến sĩ đã được gọi thức. Có tiếng ngáp, vẻ tiếc giấc ngủ đương ngon. Một chốc sau, tất cả đã chuẩn bị xong. Hựu nói:

- Các đồng chí kiểm điểm lại coi có quên gì không?

Tôi bấm đèn pin soi gian trại. Chỉ còn lại rợm trải đất. Hai trung đội lên đường một hàng dọc, cự ly mỗi người cách nhau năm thước. Con đường dẫn tới vị trí chuẩn bị công sự cũng không xa lắm. Qua một quãng đồng trống chừng năm cây số là cùng. Chỗ này cách bót Hiệp Thạch độ bốn cây số. Từ bót Hiệp Thạch rút về mí vườn phải băng ngang cánh đồng này. Các chiến sĩ bắt tay đào công sự. Hai trung đội bố trí công sự rải hình cánh én. Cỏ phủ một lớp dày trên đồng. Anh em vạch cỏ đào công sự, đào xong phủ cỏ lại. Cỏ được vuốt lên y nguyên như cũ. Tôi với Hựu ở chung một hầm. Nhưng bây giờ chưa có ai xuống hầm cả. Đồng vắng, tình hình địch không có gì, trừ anh nào hút thuốc thì xuống hầm hút. Tôi ngồi trên mặt hầm một lúc rồi nhảy xuống. Tôi hỏi Hựu:

- Hút thuốc không?

- Hút.

- Xuống đây.

Hai chúng tôi ngồi trong hầm, lưng dựa vào nhau. Ban nãy Hựu cẩn thận phủ dưới đáy hầm một lớp cỏ khô nên ngồi rất êm. Sương xuống lạnh, ngồi dưới hầm tôi thấy ấm cúng. Hựu mồi thuốc, nói:

- Tình hình chưa nghiêm ngặt, tranh thủ làm một điếu, để tới rựng sáng thì không được đốt thuốc nữa đâu.

Nói xong, Hựu đưa điếu thuốc lên rít một hơi, từ từ nhả khói ra đằng mũi. Anh bảo:

- Hồi đen tối, ở dưới hầm tôi phải bỏ thuốc. Đêm đến lên bờ ngủ cũng không hút được. Cái giống thuốc này ban đêm tụi địch đi tuần, hút, sáng ngày ra đồng mình quờ tay khoát nước ở mấy vũng cạn gần đó đưa lên mũi ngửi thì biết ngay.

Hựu dựa lưng vào vách hầm, hút hết điếu thuốc, rồi nói tiếp:

- Bây giờ ngồi dưới hầm, nhớ hồi đó quá. Tôi cứ nghĩ là...

- Hồi nãy cậu nói cô Quế đem cơm cho cậu, tụi nó theo, rồi sao?

- à, để tôi nói... Quế tìm tới nắp hầm tôi gõ ám hiệu. Tôi mừng rỡ đẩy cửa hầm lên. Nghe Quế ra tôi mừng lắm. Tôi bảo: "Quế xuống đây, tôi hỏi thăm tình hình một chút". Quế chui xuống. Tôi một tay hạ nắp hầm, một tay với lên khỏa lá tre phủ miệng hầm. Quế ngồi nép bên tôi. Thấy áo tôi rách, Quế bảo tôi cởi ra, rồi móc túi lấy kim chỉ vá. Tôi mở gói cơm ra ăn. Quế ngồi vá áo thầm trong bóng tối lờ mờ, sụt sịt khóc. Tôi biết Quế thấy tôi ở hầm cực khổ nên khóc. Tôi bảo:

- Đừng thèm khóc, Quế à.

Tôi mới nói thế thì bỗng nghe trên mặt đất có tiếng chân giẫm thình thịch. Tôi nắm tay Quế khẽ bấm nhẹ một cái. Không ai bảo ai, tôi và Quế đều ngước mắt lên. Hầm tối, chỉ có ba lỗ thông hơi là để lọt vào một ít ánh sáng. Chúng tôi nín thở lắng nghe. Có tiếng chà gai tre bị kéo rột rẹt trên miệng hầm. Thình lình, tôi nghe "phụp" một cái. Một mũi chĩa từ nắp hầm xiên chếch qua giữa đầu tôi và Quế. Tôi rút chốt an toàn lựu đạn. Kế đó một mũi chĩa thứ hai xom xuống. Mũi chĩa này đâm trúng vào vai Quế. Trong ánh sáng mờ mờ của gian hầm, tôi thấy Quế bặm chặt môi lại. Tình thế ấy chỉ còn có cách là mở tung cửa hầm xông lên ném lựu đạn rồi giải thoát. Nhưng tôi vừa mới chồm dậy thì Quế đã kéo nhẹ tôi lại. Quế bình tĩnh rút chiếc khăn sọc quàng cổ, áp nhẹ tấm khăn vào mũi chĩa đang cắm phập trong vai cô. Đợi chúng rút chĩa lên, Quế đưa chiếc khăn khéo léo vuốt sạch máu ở mũi chĩa... Đến lúc mũi chĩa rút lên khỏi miệng hầm rồi, tôi mới nghĩ là hầm chưa bị lộ. Chính Quế đoán biết điều ấy trước tôi nên cô mới kéo tôi lại và cẩn thận vuốt sạch máu ở mũi chĩa. Sau đó, không có một mũi chĩa nào xom xuống nữa. Tôi đỡ lấy Quế. Mặt Quế tái lại. Tôi sờ vai cô, liền thấy tay mình ướt máu. Máu Quế chảy nóng cả ngực tôi. Tôi vội quờ quạng lấy khăn buộc vết thương cho Quế. Lâu sau, không nghe động tĩnh gì. Quế thì thào: "Nó đi rồi!".

Hựu kể tới đây, anh thở rít, lắc đầu:

- Tối đến, tôi đưa Quế lên khỏi hầm. Máu ra nhiều, Quế đau quá không nhấc tay lên nổi, nhưng Quế không khóc. Sau này lúc tôi với Quế gắn bó không rời ra nữa rồi, có lần Quế bảo: "Đó, anh thấy không, chẳng qua vì thương anh nên Quế mới khóc, chớ lúc tụi nó xom trúng, Quế có khóc đâu!". Nói sao nghe mình muốn chết đi được!

Tôi buột miệng chắc lưỡi. Hựu lại nói:

- Sau đó có đến mươi hôm tôi không gặp mặt Quế. Bà ngoại Quế thay Quế đem cơm cho tôi suốt thời gian Quế bị vết thương hành hạ. Đến lúc vết thương lành rồi Quế lại đem cơm cho tôi. Nói thiệt với anh, lúc đó không ngăn được tình thương mến dâng lên trong lòng, tôi ôm chầm lấy Quế, vừa hôn vừa khóc. Quế đỏ mặt, khẽ bảo tôi: "Đó, anh khóc đó... nhớ nghe!". Thiệt tình là tôi có khóc và tôi nhớ chớ quên sao được. Sau đó, Quế vén áo cho tôi coi vết thương mới hàn miệng ở vai, nói gọn lõn: "Lành rồi!". Nhưng khổ một nỗi là cánh tay phải ấy của Quế về sau này không thể nhấc lên mạnh được...

Hựu kể xong, dừng lại hỏi tôi:

- Đó, vậy đó... anh thấy sao?

Tôi nhổm lên, nói như gắt:

- Còn thấy sao nữa, một cô gái như vậy thật là hiếm. Cưới mau mau đi.

Nhưng tôi lại vội nói:

- Nhưng cậu còn trẻ... Một cô gái như vậy thì không sợ mất đâu.

Hựu chép miệng:

- Mấy tháng nay rồi không gặp...

- Chừng gặp, giới thiệu cô ấy cho tôi biết nhé!

Hựu gật đầu. Anh hỏi tôi:

- Mấy giờ rồi?

Hai giờ.

- Anh ngủ đi!

Tôi nghe lời Hựu dựa lưng vào vách hầm, nhưng không ngủ. Tôi không tài nào ngủ được, vì lẽ cuộc phục kích sắp nổ vào rạng ngày và vì câu chuyện về người yêu của anh trung đội phó. Tôi cứ mường tượng ra vẻ mặt của cô Quế mà cả tin rằng cô phải đẹp, hoặc không đẹp thì không thể nào xấu được. Qua những kẽ hở nhỏ của lớp cỏ che miệng hầm, tôi nhìn bầu trời, nhìn những ngôi sao lấp lánh. Đêm Tháp Mười thật là kỳ ảo, với câu chuyện cô gái nọ, với ánh lửa đốt đồng và tiếng cỏ xạc xào trong gió. Tất cả những cái ấy đến trên cánh đồng yên tĩnh đang nhuốm màu lãng mạn trước buổi bình minh sắp hé ra rực lửa. Song sự yên tĩnh ấy kéo dài chẳng bao lâu. Tôi bắt đầu nghe từ phía bốt Hiệp Thạch vọng đến tiếng "mọt chê" ùng oàng. Hựu nói:

- Nổ rồi, B một bắt đầu rồi!

Tiếng "mọt chê" ngày càng nổ dồn. Trung liên địch rộ lên roành roạch. Hựu xua tay:

- Có thể kiếm chác chút :Dnh. Nhưng không cần, cốt sao cho nó dẫn bè lũ lại đây thôi!

Cuộc pháo kích kéo dài trong vòng nửa tiếng đồng hồ. Tiếng súng nổ thưa thớt. Lâu lâu nổi lên một tràng đại liên của bọn đồn lấy lại tinh thần. Và sau cùng tất cả đều chìm trong im lặng. Trời sắp sáng. Lệnh giới nghiêm không ai được lên khỏi mặt hầm nữa. Hựu kéo nòng khẩu "garăng" vào lòng. Tôi nhìn thấy màu trời ban nãy giờ đã biến đi muốn hết. Chim bắt đầu ríu rít ở những lùm cỏ đẫm sương. Cuối cùng tôi nhận ra màu da trời ưng ửng, cái màu hồng nhạt của những cánh hoa sen. Hựu kéo vạt áo phủ kín chiếc nòng gắn lê sáng bạc của khẩu tự động Mỹ.

Ngày thường nếu tôi càng dè chừng tiếng động cơ trực thăng bao nhiêu thì buổi sáng nay tôi càng háo hức mong mỏi nghe thấy tiếng nó bấy nhiêu. Chẳng riêng gì tôi, cả đơn vị đều hồi hộp chờ đợi. Thật là một sự chờ đợi vững tin. Đánglẽ những con "phượng hoàng" ấy sẽ bổ xuống chúng tôi một cách bất ngờ như mọi khi, thì nay chúng tôi đang giăng lưới buộc nó sa vào sự bất ngờ mà nó không lường tới.

Nỗi chờ đợi ấy của chúng tôi kéo dài cũng không lâu lắm. Lúc mặt trời chưa trải ánh sáng của nó khắp cánh đồng thì có tiếng máy bay vọng đến. Hựu vụt la lên:

- Tụi "săn giặc" nghe!

Đoạn Hựu vạch cỏ miệng hố đứng lên nhìn về phía mặt trời mọc. Anh báo có hai tiếng "săn giặc" xuất hiện. Tôi đứng dậy nhìn thấy hai chiếc máy bay lao tới nhanh như hai con cắt. Tôi và Hựu thụp xuống, phủ cỏ ngụy trang lại cẩn thận. Hai chiếc đảo một vòng rộng. Khi nó lướt qua ngang hầm, tôi thấy được cánh nó lấp loáng màu sáng bạc của những trái đạn hỏa tiễn. Mấy phút sau hàng loạt hỏa tiễn nổ rầm rầm ở chéo trận địa ta phục kích. Cánh đồng vụt bốc lửa. Biển cỏ còn ướt sương đêm cũng cứ cháy phùng lên. Tôi và Hựu nép sát vào vách hầm. Cỏ cháy lan đến tận chỗ chúng tôi. Lửa cỏ rào rào cháy lướt qua công sự, nóng bỏng, hừng hực. Nhưng cỏ khô cháy rất mau. Tuy cỏ ngụy trang trên miệng hầm đều bị đốt rụi, nhưng chúng tôi vẫn không hề gì. Tro bụi bám đầy mình mẩy, mặt mũi hai đứa tôi. Hựu khẽ bảo:

- Không sao đâu, cứ tỉnh!

Trận oanh tạc dọn dẹp đó diễn ra chừng mười phút thì chấm dứt. Liền theo đó chợt dội đến tiếng ầm ầm ì ì. Hựu giật mạnh tay tôi:

- Trực thăng!

Từ các công sự lân cận cũng nổi lên những tiếng kêu khấp khởi:

- Trực thăng, trực thăng!

Tiếng chuyền hỏi nhau:

- Anh em có sao không. Tổ một... tổ hai...

Có tiếng đáp trả lời xen lẫn tiếng cười khúc khích:

- Không sao, chỉ hơi ấm lưng quá một chút thôi.

Rồi có mệnh lệnh nhắc lại là tuyệt đối không nổ súng vào toán quân đổ bộ đầu tiên, đợi tới chuyến đổ bộ thứ hai của chúng đáp xuống mới đánh. Hựu nhắc nhở trung đội mình xong liền dựng khẩu tự động chĩa nòng lên miệng hầm. Anh lên đạn đánh "rốp" một cái.

Tôi nhổm dậy. Trên nền trời lóa nắng sớm, một đàn trực thăng hiện ra. Nhìn trước nhìn sasu, tôi đếm tất cả mười ba chiếc bay từ phía hai chiếc "săn giặc" ban nãy bay tới. Trong số ấy, có sáu chiếc "sâu rọm" hai chong :Dng, sáu chiếc "thập ác" một động cơ và một chiếc bay rời ra sau cùng, ở tít trên cao, đâu như là loại "quả chuối bay" của bọn chỉ huy. Chúng bay thành hai đàn, mỗi đàn sáu chiếc, chiếc nào chiếc nấy đen trũi bơi tới như con cá lóc, đầu hơi lủi xuống.

Đàn trực thăng thứ nhất bắt đầu sà thấp. Tiếng động cơ gầm vang. Tro bụi trên đồng cuộn lên mù mịt.

Hựu rít lên qua kẽ răng:

- Tụi nó xuống rồi!

Trực thăng hạ bên mép trái chúng tôi. Lúc này động cơ trực thăng nổ nghe lạch bạch. Bọn giặc từ cửa hông máy bay ùa ra, đồ "tâydi" xám xịt nặng nề, súng lăm lăm trong tay. Một cái đầu tên Mỹ ló ra, mắt đeo kính đen lớn, cánh tay nó vung vẩy một chiếc baton. Giữa chúng tôi và bọn giặc cách nhau chừng một trăm thước. Chúng tôi nhìn thấy bọn giặc rõ mồn một. Cỏ đồng bị cháy xô xuống từng lớp dày, vẫn đủ che khuất đầu chúng tôi. Tôi đứng dưới hố công sự. Hựu từ từ tì báng súng vào vai. Chuyến thứ nhất, địch xuống cỡ một trung đội. Những mồi thịt lố nhố trên đồng, trước họng súng. Nhưng chưa có họng súng nào phụt khói. Phút im lặng quả thực là ghê rợn. Nhìn vẻ mặt căng thẳng cố nén của Hựu, bất giác tôi thấy cô Quế, thấy mũi chĩa, thấy dòng máu tuôn chảy trên vai cô. Chẳng biết Hựu có chợt nghĩ đến Quế như tôi không? Có thể là không - tôi tự đáp. Và tôi nghĩ thầm; "Nhưng mà chắc anh ta đã nghĩ đến mãi rồi!".

Trận chiến đấu nổ ra đúng vào chuyến trực thăng thứ hai đang đổ quân xuống, những toán quân chân chưa kịp chạm đất. Súng ta nổ ran đồng. Hựu bắn hết một "lam" đạn, lắp "lam" khác vào và nhảy lên khỏi công sự. Tôi nghe hai tiếng nổ "phùm phùm" rất ấm. Hai chiếc trực thăng bốc cháy. Bọn giặc mới đặt chân xuống đất đã bị bắn tới tấp. Chúng chạy tán loạn, rú lên và té sấp. Mấy chiếc trực thăng nổ máy ầm ầm vội vã bay lên. Một chiếc thứ ba bị bắn hỏng, cái chong :Dng quay lạch xạch mấy vòng cuối cùng rồi cụp xuống. Chiếc "quả chuối" chỉ huy vút lên thật cao và chuồn thẳng, một số chiếc khác cũng bay theo. Toán giặc ở dưới lớp bị bắn chết, lớp còn sống cố tháo chạy ra khỏi gọng kìm cánh én của quân ta mới được triển khai. Nhưng khi từ xa xuất hiện cái B đi pháo kích kéo về thì bọn giặc hốt hoảng giơ tay lên. Bấy giờ chiến sĩ ta đã từ bỏ hố công sự xông lên bao vây, chia cắt bọn giặc. Trận đánh kết thúc mau :Dng. Tù binh lập tức được gom lại, giong lên phía trước. Có lệnh thu nhanh vũ khí và rút ngay vào ven vườn. Tôi bám theo Hựu. Trên đường rút đi, thây địch nằm liền nhau, có tên nằm ngửa ra, có tên nằm sấp xuống mặt cỏ còn nóng bỏng. Hai chiếc trực thăng nằm đồ sộ trên cánh đồng, khét lẹt và nồng nực mùi xăng. Lửa đã hạ ngọn. Khói đen bay phất qua hàng chữ U.S. ARMY trắng lốp trên thân máy bay. Hai tên Mỹ trên máy bay bị lôi xuống. Cả hai đều loạng choạng, đầu gối cứ run lên. Một tên Mỹ còn đeo kính râm. Có lẽ chính tên tôi trông thấy ban nãy. Chiến sĩ ta lục soát người chúng, tước súng ngắn. Anh chính trị viên đại đội, thong thả bước thẳng lên trước mặt tên Mỹ, đưa tay nhấc lấy cặp kính đen trên mắt hắn xuống. Sau đó anh dõng dạc nói bằng tiếng Anh:

- Các "ngài" đi, nhanh lên!

Hai tên Mỹ đi ở sau cùng đám tù binh. Anh đại đội trưởng ra lịnh cho toàn đơn vị hành quân cấp tốc.

Sau độ mười phút chạy băng đồng, tôi nghe hình như có tiếng khu trục từ xa vọng tới. Đồng thời phía cánh đồng trước mắt, khói cuồn cuộn bốc lên. Hựu vừa chạy vừa bảo tôi:

- Bà con đã nổi khói rồi!

Trong số tù binh có đứa đi chậm hoặc dừng lại. Hai tên Mỹ vừa thở hồng hộc vừa ngó lên thinh không. Anh đại đội trưởng thét:

- Bắt chúng nó chạy mau lên.

Anh đại đội trưởng tuyên bố thẳng với tốp tù binh là nếu họ muốn được xét xử khoan hồng thì phải chạy nhanh lên, nhược bằng có thái độ chần chừ thì buộc lòng bộ đội giải phóng phải bắn họ ngay tại chỗ. Anh chính trị viên cũng nói với hai tên Mỹ như thế. Tên Mỹ bảo rằng nó mệt quá. Mà có lẽ nó mệt thật. Gặp đoạn đường lổm nhổm lỗ chân trâu, chúng cứ ngã lăn. Cả hai tên vụt khóc hu hu. Chiến sĩ ta phải đến kè chúng đi. Khói đã tỏa mù mịt trên đồng ruộng, che khuất cả ven cây. Chưa bao giờ tôi nhìn thấy một cảnh đốt đồng lớn như vậy. Trung đội đi đầu và toán tù binh đã lẫn vào trong khói. Chúng tôi cũng nhanh :Dng vượt tới trước, biến mình vào lớp khói ngày một dày đặc. Vầng khói phủ dày đến nỗi người sau chỉ lờ mờ trông thấy những người trước. Mắt tôi bị cay khói đến là khó chịu. Một chốc sau nước mắt nước mũi giàn giụa cả ra. Tất cả chạy trong khói, tiến sát vào ven vườn. Máy bay địch đã đến, lồng lộn trên đám khói. Chúng không biết bắn vào đâu, vì khói hầu như đã che phủ khắp cánh đồng. Sau đó tôi nghe hàng tràng đại liên và bom nổ. Mặt đất rung lên. Chúng oanh tạc ở bên hông chúng tôi.

Ven cây đã hiện ra sau lớp khói.

Tôi và Hựu nhảy lên một cái bờ đất. Hựu chạy trước, tôi len lỏi đằng sau, lách qua những thân cây trâm bầu rậm lá. Toàn đơn vị đã bỏ lại cánh đồng sau lưng cùng với tiếng máy bay đương trút bom đạn ầm ầm. Đi một đỗi, chợt tôi nghe đằng trước nhốn nháo cả lên. Lại có tiếng vỗ tay rôm rốp. Rồi có tiếng kêu:

- Hựu ơi, Hựu!

Tôi và Hựu chen lên. Bỗng Hựu đứng lại, người đứng lại kế đó là tôi. Dưới những gốc dừa trĩu quả, một tốp các cô các chị đang rối rít bưng những trái dừa đã vạt núm đưa cho các chiến sĩ. Dưới gốc dừa, thấy những con cúi rơm mới dụi tắt. Hựu bảo tôi:

- Họ mới đi đốt đồng về... Ơ, có Quế nữa kìa!

Tôi nhìn theo hướng mắt Hựu thấy một cô gái rất trẻ đang đưa mắt tìm kiếm. Hựu gọi Quế một tiếng. Cô gái chạy về phía anh. Gần đến chỗ Hựu, cô bước chậm lại, nhìn anh và sau cùng kêu khe khẽ:

- Anh Hựu!

Khuôn mặt còn dính tro của cô giờ hơi ửng đỏ. Tóc cô còn rắc đầy tro. Mồ hôi lấm tấm rịn ra trên vầng trán cô, chảy nhỏ giọt xuống thái dương. Cô dừng lại trước mặt tôi và Hựu, kéo cái đuôi tóc ra trước ngực, cứ cầm đuôi tóc mà vân vê mãi. Tôi biết rằng tôi đang đứng trước một cô Quế thực sự, cô gái nhỏ nhắn, đẹp hơn sự hình dung của tôi nhiều. Đôi mắt của cô như đương cười, long lanh sáng rực dưới hàng mi dài rung rung. Hựu giới thiệu Quế với tôi. Quế chào tôi và sau một thoáng ngượng nghịu, cô nói:

- Để em đem dừa lại cho mấy anh uống.

Nói xong cô chạy đi, lát sau bưng đến một trái dừa, Hựu cười rất tươi, khoát tay bảo tôi:

- Uống đi, anh.

Tôi nhận ra Quế nâng trái dừa hầu như chỉ có một tay, còn tay mặt của cô chỉ khẽ đỡ lấy. "Cái cánh tay đó bị liệt rồi chăng? Tôi tự hỏi. Tôi đỡ trái dừa trên cánh tay Quế mà rùng mình. Quế tủm tỉm hỏi chúng tôi:

- Chắc các anh bị khói cay mắt lắm phải không/

Tôi cười đáp:

- Mấy cô đốt ghê quá. Muốn ngột thở đấy, nhưng nếu không có khói...

... Đơn vị đã vượt lên trước. Tôi và Hựu cũng phải theo gấp. Tôi đi lên trước Hựu. Loáng thoáng nghe tiếng Hựu nói sau lưng:

- Nếu có thể thì mai anh sẽ ghé!

- Anh Hựu, cầm cái khăn mà lau mồ hôi...

Tôi quay lại thấy cái khăn sọc xanh của Quế đã vắt trên vai Hựu rồi. Hai tên Mỹ giờ mới vào đến. Thấy cảnh các cô đang săn sóc trìu mến đối với bộ đội ta, chúng day mặt chỗ khác. Tôi đưa mắt nhìn một lần nữa bóng Quế đang đứng ngó theo Hựu, cô gái đã từng đưa tay vuốt lấy những giọt máu đỏ tươi của mình ở đầu ngọn chĩa, và mới đây đã cùng chị em bè bạn đốt lên một áng khói thần.



Trả Lời Với Trích Dẫn
  #10  
Old 05-30-2004, 08:53 PM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

Ký ức tuổi thơ





Điệu múa chấm dứt

Các em gái nhỏ vừa múa xong, mặt đỏ bừng. Các em đưa tay vuốt mồ hôi lấm tấm rịn ra nơi trán và chạy về phía cô giáo. Cô giáo quàng các em vào lòng. Cô giáo tuổi đâu chỉ chừng mười chín. Dáng người mảnh dẻ, cô có mặt đen sáng thông minh và hơi rụt rè như mắt trẻ con. Cô thuộc vào thế hệ giáo viên trẻ của cách mạng chúng ta, trẻ như ngôi trường mới dựng lên giữa những xóm làng giải phóng này.

- Đã đến giờ học, các em vô lớp đi! - Cô giáo nói

Đám trẻ ríu rít đi vào lớp. Chúng ngồi trên những chiếc ghế dài làm bằng những cây đước lột vỏ, chôn chân hẳn xuống đất. Bàn viết của lớp học cũng là gỗ đước xẻ ra, bào láng. Cô giáo cầm quyển sách, đợi cả lớp trở lại trật tự. Cô nói:

- Hôm nay chúng ta viết chính tả. Các em chuẩn bị!

Đám trẻ vội vàng mở nút mực, lật vở ra. Chúng sửa bộ ngồi lại cho ngay ngắn. Có đứa cầm bút liền, ưỡn thẳng lưng, với cái tư thế hễ cô giáo đọc là nó sẽ viết ngay. Có đứa lại vòng tay trái giữ lấy quyển vở như sợ lúc viết quyển vở sẽ bay đi vậy. Lại có tiếng ho khúc khắc, tiếng ngòi bút lọc sọc chấm vào các bình mực.

Cô giáo chờ cho mọi thứ tiếng nói im đi, mới lấy giọng trang nghiêm đọc:

"Lịch sử trường em"

Đó là đầu đề của bài chính tả. Những mái đầu cúi xuống hí hoáy viết. Đợi cả lớp viết xong đầu đề, cô giáo đọc tiếp: "Sau ngày giải phóng, trường học xã em đã được dựng lên...".

Rồi cô lại đọc:

"Trường của chúng em là một gian nhà rộng lợp lá. Bàn ghế trong lớp không lấy gì làm sang trọng, nhưng cả thảy đều ngăn nắp, sạch sẽ. Các chú bác nông hội xã đã đắp nền trường và đóng nên những chiếc bàn. Nền trường trước kia vốn là một bãi đất bỏ trống, tại đó đã có những cô bác của em ngã xuống vì sự nghiệp cách mạng. Trên cái nền đất này là trường học thân yêu của em, mấy năm trước là một nơi đầm đìa máu đỏ..."

Tiếng cô giáo vẫn cất lên, trong trẻo và đều đặn giữa buổi trưa tĩnh mịch. Cô sắp đọc tiếp đoạn kế. Thình lình giữa lớp học bỗng bật lên tiếng khóc nức nở. Một em bé gái quãng chín tuổi ngồi ở đầu cái bàn thứ hai đang cắn môi, nước mắt chảy ướt cả hai gò má. Cô giáo nhìn đứa học trò của mình. Cô hiểu. Nó tên là Hà. Cả lớp học đều nhìn về phía đôi vai nhỏ của Hà đang rung lên.

Bé Hà bây giờ không viết thêm được chữ nào nữa. Cây bút em cầm trong tay run quá. Mắt em nhòe ướt. Em tưởng như mình không phải ngồi giữa lớp học mà đang ở giữa cảnh tượng hỗn độn ở nhà em cách đây hơn ba năm. Em đang nhìn thấy lại một buổi sáng mùa nước, những tên lính xông vào nhà, súng lăm lăm trong tay, lục lọi. Ba em và chú Sáu lối xóm đứng ở ngay của buồng thông vào bồ lúa nhà em. Khi bọn lính xông tới, em thấy ba em và chú Sáu xô đám lính, đá chúng ngã lật. Vừa lúc đó em ngó thấy một chú lạ từ bồ lúa phóng vọt ra, chạy biến. Lũ giặc kêu lên:

- Nó kia, nó kia!

Nhưng ba em và chú Sáu đã cản chúng lại. Ba em lia mạnh một cây cột chèo khiến bọn lính té sụm. Bấy giờ người lạ mặt trong nhà em đã chạy thoát. Lúc ấy em không biết người đó là ai, và cũng không biết người đó đã núp trong nhà em từ bao giờ. (Cách đây vài tháng có một chú trên tỉnh tới thăm nhà em, đi theo có mấy anh bộ đội bảo vệ đeo súng các bin. Hóa ra chú đó chính là người lạ mặt đã tới nhà em và được ba em cứu thoát). Sau khi chú ấy chạy khỏi, bọn giặc bắt ba em và chú Sáu. Chúng lôi hai người ra khỏi nhà. Mẹ em chạy theo. Chúng giơ báng súng đập mẹ em ngã ngồi xuống đất. Lát sau em nghe từ bãi đất bỏ hoang (tức là chỗ em đang ngồi học bây giờ) vọng lại tiếng thét của ba em, rồi tiếng kêu nghe hự hự, tiếng chửi rủa... Không nghe súng nổ. Lúc má em cõng em lội tới miếng đất bỏ trống thì bọn giặc đã bỏ đi. Ba em và chú Sáu nằm ngửa ra trên vạt cỏ ngập nước. Lúc vớt lên, môi người nào cũng có dấu răng nghiến vào đến ứa máu, và tay người nào cũng ghì chặt một mớ cỏ ống. Cạnh đấy chúng cắm hai cây sống lá dừa nước, một cây treo hai trái tim còn nhểu từng giọt máu và một cây có kẹp một tấm giấy. Sau này lớn lên em mới rõ tấm giấy đó viết đại ý nói rằng ai chứa chấp Việt Cộng sẽ bị giết y như vậy.

... Bà con lối xóm khiêng ba em và chú Sáu về. Dạo đó mùa nước đang dâng, nhà em bị ngập lênh láng. Mẹ em ôm em ngồi trên bộ chõng tre. Bà nội em nằm dài trên chõng thở coi rất mệt. Mấy người trong xóm đứng dầm chân dưới nước ghép những tấm ván đóng hòm. Đêm đến, nhà em thắp những cây đèn cầy trắng, cháy leo lét. Mẹ em nấu nước tắm rửa cho ba em, mặc cho ba em một bộ quần áo vải xiêm đen mới. Em nhớ rõ tiếng khóc thê thảm của mẹ em và tiếng búa đóng hòm "cum... cum" cứ dội lên, vang ra tận mặt sông. Khi người ta đỡ ba em đặt vào hòm thì mẹ em bế xốc em đến bên hòm. Thấy mẹ khóc, em cũng khóc, nhưng lúc ấy em chưa biết đau đớn. Lúc ấy em chỉ thấy lòng buồn vô hạn. Em tưởng chừng ba em đi đâu rất xa và sẽ lâu về lắm. Nhất là khi người ta khiêng nắp hòm đậy lại thì em khóc thét, không chịu. Sao người ta bỏ ba em vào đó, ngột chịu gì nổi!...

Thế là cuối cùng nắp hòm vẫn nặng nề đậy lại, che khuất hẳn, không để em ngó thấy ba em nữa. Người ta đặt lên hòm mấy chén cơm, mấy quả trứng đã xé thành miếng xếp trên cái đĩa.

Em còn nhớ những cây nhanh cắm trong cái hũ nhỏ đựng đầy gạo cứ cháy mãi, tàn nhang rơi xuống, rơi xuống... Nhang cháy gần hết, người ta lại cắm thêm nhang mới. Tàn nhang rơi xuống phủ đầy cái lọ đựng gạo. Sao mà em nhớ rõ đến thế, cái bao nhang vẽ hình phật bà ngồi trên tòa sen bên ngoài có bọc giấy kính mà bà vẫn thường cho em để chơi, và cái mùi nhang cứ xông ngát lên. Mấy năm qua rồi em vẫn phảng phất ngửi thấy cái mùi nhang đó. Em nhớ mãi lúc người ta sắp đưa ba em ra ruộng. Tiếng chân lội bì bõm trên nền nhà ngập nước, tiếng kĩu kịt của chiếc đòn khiêng bị sức nặng của cái hòm đè lên, tiếng mẹ em khóc, tiếng bà em gọi tên ba em ra kể lể...

Ngòi bút của bé Hà vẫn gí lại một chỗ trên trang vở. Ký ức tuổi thơ thật đã khắc những nét quá sâu. Chỉ có khi nào chết đi, em mới có thể quên những cảnh ấy. Em cố nén tiếng khóc cứ dâng lên trong cổ nghèn nghẹn. Em không thấy ngòi bút đã nhểu một đốm mực xuống trang giấy. Em chẳng thấy gì nữa, ngoài cảnh chết của cha em, cảnh cái đêm mùa nước lụt lội ấy. Rõ ràng là lúc mọi người đưa ba em ra huyệt, em đã thiu thiu ngủ trên vai mẹ. Mẹ em và em ngồi trên xuồng. Trong giấc ngủ chập chờn, em nhận ra những giọt nước mắt nóng hổi của mẹ em rơi xuống má em. Trước mặt em, em chỉ thấy vầng khăn trắng mẹ em đội suốt từ trưa đến tối ngày hôm ấy. Em chỉ trông thấy vầng khăn trắng đó và bầu trời tối đen mà thôi. Tới lúc chiếc xuồng dừng lại bên một cái gò đất hiện lờ mờ giữa ruộng thì em đã ngủ thiếp đi... Lúc tiếng giầm cọ vào be xuồng lụp cụp, em giật mình tỉnh dậy. Nằm trong tay mẹ, em mở mắt nhìn thấy những vì sao trên trời... Mẹ và em đang trên đường về nhà. Mọi người đã đặt ba em xuống huyệt rồi. Cho tới bây giờ em hãy còn hết sức ân hận. Em tự giận mình quá đỗi. Bên tai em lúc nào cũng có một tiếng nói văng vẳng: "Sao lúc đó lại ngủ đi như thế, hở con bé dại dột kia?" Đáng lẽ em phải thức, bởi vì giờ phút ấy ba em đã xa em mãi mãi. Thế là em không nhìn thấy cảnh mọi người đặt ba em xuống lòng đất, em không được chính tay cầm đất ném xuống huyệt dù chỉ là một hòn đất nhỏ, như mẹ em và bà em đã ném xuống. Bà nội bảo rằng làm như vậy để cho ba em ở dưới đó không cảm thấy lạnh lẽo. Hòn đất mang hơi ấm của người thân sẽ ở bên cạnh mà sưởi ấm người chết. Em rất hối hận vì đã không đặt được một hòn đất xuống bên chỗ ba em, để ba em nhớ em và đêm đêm vẫn tưởng như có em bên cạnh, như ngày nào em còn nằm ngả đầu lên cánh tay lực lưỡng của ba em mà ngủ. Em cứ hối tiếc mãi về chuyện đó. Và để chuộc lại lỗi lầm do giấc ngủ tai hại kia gây ra, em đã trồng lên ngôi mộ ba em một bụi bông trang. Em làm việc đó một cách kín đáo, lặng lẽ, đến mẹ và bà cũng không hay. Em bứng bụi bông trang ngay trước cửa nhà, cái bụi bông trang mà bà nội em rất quý, thường tưới nước chăm sóc để hái bông cúng bàn thờ Phật. Sáng hôm ấy bà và mẹ đi cấy, em đem bụi bông ra mộ ba em. Ngồi tại ngôi mộ, em suy nghĩ mãi, chẳng biết nên trồng sao cho hợp. Cuối cùng em trồng bên cạnh tấm bia, chỗ đầu ba em nằm. Em nghĩ rằng trồng chỗ ấy là phải hơn cả. Chừng nào bụi bông trang lớn lên, nó sẽ che mát cả ngôi mộ. Em bới đất bằng con dao phay, bới khe khẽ... Em không làm động mạnh, vì em cứ có cái cảm giác ba em bên dưới đang ngủ. Cần để cho ba ngủ được yên giấc. Trồng xong bụi bông trang, em xách gầy xuống mương múc một gầu nước. Tay phải em cầm gầu tưới, tay trái em xòe năm ngón tay ra chặn cho nước đừng đổ ào xuống để nước chỉ rưới nhẹ lên ngôi mộ. Em sợ nước thấm vào người ba em ở dưới. Sau khi trồng xong bụi bông, em ra về, cảm thấy lòng vui và nhẹ nhõm. Tất nhiên là trước lúc về em có bắt chước bà nội, khấn thầm trong bụng cầu cho ba em ngủ yên và hãy phù hộ cho mọi người ở nhà được luôn luôn mạnh khỏe. Em đi ra khỏi mộ vài bước thì ngoảnh lại nhìn. Bụi bông trang mới trồng, lá còn loang loáng nước đang khẽ rung trước làn gió sớm như hứa hẹn với em rằng nó sẽ sống, sẽ lớn lên và sẽ tỏa bóng mát cho ba em khỏi nắng. Từ đấy đến mùa nắng còn tới năm bảy tháng nữa. Bụi bông thế nào cũng lớn kịp, trước khi cánh đồng hứng lấy những cơn nắng lửa :Di chang. Em vừa ý với bóng mát của bông trang hơn cả. Nó không thưa mà cũng không rợp. Chắc chắn bóng mát của cây bông trang tỏa lên ngôi mộ sẽ vừa phải, nhẹ nhàng chớ không nặng trịch, đè xuống. Em thật không muốn có thêm cái gì đè xuống nữa, bởi vì tấm ván hòm mà em thấy trong đêm nọ cùng với lớp đất phủ lên trên đó đã đủ làm cho ba em ngột ngạt lắm rồi!

Rủi ro thay lần ấy em vừa về tới nhà thì bà em đã đón hỏi ngay:

- Ai bứng bụi bông trang hở Hà?

Em cúi mặt xuống và đáp:

- Con...

- Trời ơi, bứng đi làm gì? Bụi bông trang của bà trồng để hái bông cúng Phật, sao con lại bứng đi?

Em nói giọng ấp úng:

- Con... con quên hỏi nội... nhưng con bứng nó đem ra trồng ngoài mả của ba con. Nội ơi, mả của ba con bị nắng lắm, đất nó cứ nứt ra...

Em nói thế mà cảm thấy muốn khóc. Bà nội đứng ngây ra mất một lúc, rồi những giọt nước mắt lăn xuống ngấn má nhăn nheo của bà. Bà lập cập bước tới ôm em vào lòng, vừa khóc vừa dỗ em cũng đang nức nở:

- Thôi, thôi... nín... nín... bà không rầy nữa. Tội nghiệp cháu tôi.

Đoạn bà kêu:

- Hòa, Hòa, mày sống khôn thác thiêng, về đây mà coi cảnh con mày đây này...

Rồi bà nội em đem chuyện ấy kể khắp xóm. Mấy thím có tuổi và mấy bà lão luôn chắc lưỡi nói: "Trời nào, Phật nào mà không động lòng cho được!".

Mẹ em thì suốt đêm hôm ấy cứ ôm chặt em vào lòng. Em nằm rất lâu, không ngủ. Có tới hai tiếng đồng hồ sau, em hé mắt nhìn vẫn thấy mắt mẹ mở thao láo. Em biết mẹ thương và nhớ ba lắm. Ngày ba em còn sống, mẹ em và em thấy như sau lưng mình đang có chỗ dựa thật vững chắc. Sau lúc ba em chết, mẹ và em không còn chỗ dựa đó nữa.

Mẹ con thật bơ vơ. Thoạt tiên em chợt nhận ra mình thiếu một cái gì rất lớn. Điều rất giản dị là ba em không còn nữa. Mẹ em như trải qua một cơn bệnh nặng, cả tháng sau mới gượng dậy được. Bây giờ muốn có củi chụm, mẹ em phải chống xuồng vào rừng đốn lấy tới tối mịt mới về. Lúc trước ba em trưa đi là chiều về đầy một xuồng củi đước, và việc của mẹ em là chỉ tiếp ba em đỡ từng cây đước chất lên bờ thôi. Hoặc chẳng hạn như mùa mưa tới, nhà cần xóc nóc lại cho khỏi bị dột, bây giờ mẹ cũng phải leo lên đón thấy những tàu lá xé do bà nội chuyền cho rồi gập tréo lên cây đòn dong... Mấy năm nay mẹ đỡ vất vả hơn vì em đã giúp mẹ được nhiều việc. Em và mẹ rốt cuộc đã đứng vững như hai tàu lá lớn nhỏ đứng kề nhau ngoài bờ sông, gió thổi ù ù cũng không rập xuống được.

Nhưng lắm lúc em thấy cũng khổ lắm. Dầu sao em cũng mất ba em. Biết bao lần em tủi thân suýt khóc lên khi thấy các bạn nhỏ khác được ba chúng ghé đôi vai vạm vỡ cõng chúng làm trò phi ngựa lội dưới sông hoặc còn quấn cho chúng những chiếc vòng thắt kiểu chân rết coi ngộ hết sức. Thật ra, một chiếc vòng bằng lá dừa như thế em cũng biết quấn. Và em đã quấn một chiếc. Nhưng lạ chưa, khi đeo nó vào cổ em lại thấy còn buồn tẻ hơn. Chẳng có gì đáng gọi là lý thú. Em tháo chiếc vòng ra khỏi cổ thẫn thờ nhìn nó, rồi tự nhiên hai ngón tay buông lửng để chiếc vòng rơi xuống đất...

Điều này cũng thật là giản dị lắm!

Em cần chiếc vòng từ bàn tay ba em quấn nên, chứ em chẳng cần chiếc vòng do em tước lá tự quấn lấy. Vậy nói đúng hơn, em thiếu một người cha chứ em không thiếu một chiếc vòng...

Xã của em là một trong những xã về tay cách mạng đầu tiên ở :Dt mũi Cà Mau. Trường xã được dựng lên trên bãi cỏ hoang, nơi ba em và chú Sáu đã chết. Mẹ em cho em đến trường học. Hết mùa mưa lại đến mùa nắng ráo. Em yêu mùa nắng hơn những ngày mưa dầm lê thê. Mùa mưa, con nước lại dâng lên. Em thấy sợ những đêm nước ngập vào nhà, sợ những giấc chiêm bao hiển hiện một cái hòm kĩu kịt trên cây đòn khiêng, em sợ những cây đèn cầy leo lét cháy nhểu ròng xuống như những giọt nước mắt bằng sáp, em đau lòng chỉ được gặp ba em từ xa, từ xa giơ tay lên vẫy em rồi lại biến dần đi như trong mơ. Em chờ đợi mùa nắng và lòng em khấp khởi khi mỗi sáng thức dậy thấy ánh mặt tời lên rực rỡ trên cánh đồng. Sân trường bị lầy lội trong tháng nước sẽ bắt đầu khô lại, em cùng các bạn có thể múa được nhân giờ ra chơi giữa buổi học. Con đường từ nhà em dẫn tới trường học sẽ dễ đi hơn. Em có thể ghé lại thăm mộ ba em, thăm bụi bông trang coi ngày hôm ấy nó có nở ra được bông nào nữa không. Mùa nắng đến với cái làng nhỏở mũi Cà Mau này thực là đẹp. Đối với em bé Hà, đó là một mùa vui, bụi bông trang em trồng trên mộ ba em tới mùa nắng này đã được ba tuổi. Trên đường tới trường, em nhìn thấy những bông trang đỏ rực giữa khóm lá xanh tươi.

Trưa hôm nay em cũng có ghé lại ngôi mộ. Cách một tiếng đồng hồ sau, không ngờ cô giáo đã đọc một bài chính tả mà em không tài nào viết thẳng tới được. Em chỉ có thể viết đến câu: "Trên cái nền đất này là trường học thân yêu của em, mấy năm trước là một nơi đầm đìa máu đỏ..." Thế rồi em không viết được thêm một chữ nào nữa. Ngòi bút của em nãy giờ vẫn dừng lại ở chữ "máu đỏ..." Mực trên ngòi bút em đọng xuống giấy một đốm tím. Nước mắt em rớt xuống khiến đốm mực nhòe ra.

Em khóc. Các bạn nhỏ cùng lớp đều khóc theo. Cặp mắt cô giáo ướt đẫm. Cố nén xúc động, cô bảo cả lớp với giọng nghẹn ngào.

- Thôi, các em lau nước mắt đi, rồi chúng ta sẽ viết tiếp.

Cô giáo lại đọc tiếp bài chính tả. Giọng cô run run không bình thường. Những mái đầu của các em lại cúi xuống, hí hoáy viết. Lớp học bây giờ chỉ còn lại tiếng sụt sịt mũi và tiếng ngòi bút sột soạt trên mặt giấy. Đằng sau trường học, cánh đồng lúa chín tới đang rì rào. Những cây đước chống trực thăng đổ bộ nhọn hoắt tua tủa chĩa lên bầu trời :Di nắng, xanh và cao thăm thẳm.

1963



Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời


Ðiều Chỉnh
Xếp Bài

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
Bạn không được quyền gởi bài
Bạn không được quyền gởi trả lời
Bạn không được quyền gởi kèm file
Bạn không được quyền sửa bài

vB code đang Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển đến


Múi giờ GMT. Hiện tại là 08:25 PM.


Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2024, Jelsoft Enterprises Ltd.