Go Back   Vina Forums > Thư Viện Online > Kho Tàng Truyện > Truyện Cổ Tích - Truyện Lịch Sử
Hỏi/Ðáp Thành Viên Lịch Tìm Kiếm Bài Trong Ngày Ðánh Dấu Ðã Ðọc

Trả lời
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
  #1  
Old 08-04-2009, 11:33 AM
AiHoa's Avatar
AiHoa AiHoa is offline
thích gõ đầu trẻ
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Bài gởi: 2,072
Default

Mạc Đĩnh Chi đi sứ (tt)

Một buổi chiều hè, trời nắng như đổ lửa, Mạc Đĩnh Chi và mọi người lúc ấy đi ngang qua một quán nước ven đường. Ông cho mọi người nghỉ lại. Chủ quán là một bà cụ già tóc bạc phơ, đon đả chào khách. Cạnh đấy không xa có giếng nước trong, trên thành giếng có viết 5 chữ : "Ngân bình, kiện thượng tị ". Thấy lạ, ông hỏi duyên do. Bà cụ chậm rãi kể lại rằng khi xưa có một cô gái bán hàng nước học hành giỏi, chữ nghĩa thông làu. Gần đấy, có một anh học trò muốn ngấp nghé, cứ ngày ngày đi học về, lại vào uống nước tìm lời trêu ghẹo. Một hôm cô hàng nước nói thực với anh:
_ Thiếp là con nhà lương dân, có theo đòi bút nghiên, mà chàng cũng con nhà thi lễ, nếu như phải duyên trời, thực cũng xứng đôi vừa lứa. Nhưng mà thiếp chưa được biết tài học của chàng ra sao, vậy thiếp xin ra một câu đối, nếu chàng đối được, thiếp tình nguyện theo nâng khăn sửa túi, bằng không, thì xin chàng chớ qua đây làm gì nữa.


Anh học trò bằng lòng. Cô hàng nhân trông thấy cái ấm tích bằng bạc, mới ra câu đối rằng:
_ Ngân bình, kiện thượng tị
(Bình bạc, mũi trên vai. Ý nói cái vòi trên cổ ấm ).


Anh học trò nghĩ mãi mà không đối được, xấu hổ quá, đành đâm đầu xuống giếng đó chết. Ít lâu sau, người ta cho viết vế câu đối ấy lên thành giếng để thách thức cả thiên hạ, nhưng xưa nay chưa ai đối được.


Nghe đến đây, Mạc Đĩnh Chi cười nói:
_ Câu ấy dễ thế sao không đối được mà phải đành ngậm oan nơi đáy giếng! Thôi để ta đối giùm hầu giải oan cho hồn kẻ thư sinh.


Ông bèn đọc :
_ Kim tỏa, phúc trung tu"
(Khóa vàng, râu trong bụng. Ý nói cái tua khóa ở trong ruột khóa).


Sau đó, ông bèn sai người viết câu ấy lên thành giếng, bên cạnh câu đối của cô hàng nước năm xưa. Mọi người đều chịu ông đối giỏi.


Tin Mạc Đỉnh Chi, sứ giả An Nam rất hay chữ và đối đáp nhanh nhẹn, đã truyền đến triều đình nhà Nguyên. Cả triều đình xôn xao bàn tán, người thì bảo phải chơi cho y một vố thật đau, kẻ thì bảo phải làm cho y bẽ mặt trước công chúng. Cuối cùng, viên Thừa tướng bày mưu:
_ Tâu bệ hạ, thần nghĩ ra một kế, mấy hôm nữa khi hắn ta đến, cả triều đình mũ áo cân đai chỉnh tề ra đón, sai hết cả cung phi, thị tì ra để mua một trận cười.


Vua Nguyên sốt ruột hỏi :
_ Kế đó ra sao, hãy nói trẫm nghe đi đã.
_ Tâu bệ hạ, trước cổng thành, ta cho đào một cái hố tròn, sâu, trên bịt da thật căng để làm thành một cái trống đất đặc biệt. Chờ khi hắn đến, sai người gõ thật to, tiếng trống sẽ như tiếng động đất, như vậy, hắn ta và tùy tòng phải khiếp đảm, nhớn nhác, ngựa nghẽo kinh sợ chạy tán loạn.


Vua Nguyên và quần thần hí hửng khen kế đó rất hay. Và trống đất được làm rất khẩn trương.


Đoàn sứ giả đi đã lâu ngày, dầm mưa, dãi gió, gội sương đã nhiều. Ai nấy đều mệt mỏi rã rời, nước da rám nắng đen sạm. Con ngựa của Mạc Đĩnh Chi cũng kiệt sức lắm rồi, nó bước đi khấp khểnh, quất roi vào mông đen đét nó vẫn cứ ỳ ra. Khi trông thấy thành trì nhà Nguyên sừng sững trước mắt, mọi người vui sướng reo lên, trong người nhẹ hẳn như trút được gánh nặng, nỗi mệt nhọc dần dần tan biến đi. Họ hân hoan bước tới cổng thành, lúc ấy vào buổi chiều tà. Cửa thành cờ xí rợp trời, người đông nghẹt đứng giạt hai bên. Vua Nguyên mặc áo bào đỏ, ngồi chễm chệ trên đỉnh gác cổng thành.


Mạc Đĩnh Chi và đoàn sứ bộ vừa đi tới, thì bỗng nghe tiếng trống đất dội vang dưới chân. Ai nấy đều ngơ ngác. Con ngựa của Mạc Đĩnh Chi không biết chạy chỗ nào, sợ quá ngã quỵ xuống đất. Cả triều đình nhà Nguyên reo hò ầm ĩ. Vua Nguyên khoái chí cười tít cả mắt lại, và đắc chí lắm. Lúc ấy Mạc Đĩnh Chi cũng bối rối, nhưng trấn tĩnh lại được ngay không thèm đếm xỉa đến vua Nguyên đang ngồi trên cổng thành, cau mặt lại nói:
_ Có gì mà các ngài cười? Tôi biết mùa này làm gì có sấm đất. Có tiếng động lạ, tôi cho ngựa quỳ xuống lắng tai nghe xem có phải sấm đất chăng?


Từ trên lầu cao vua Nguyên phải gật đầu khen :
- An Nam Trạng Nguyên quả là nhanh trí.


Nhân có người ngoại quốc dâng một đôi quạt quý, vua Tàu sai Đĩnh Chi và sứ thần Cao Ly, mỗi người đề một bài tán vào quạt.

Sứ Cao Ly làm xong trước.

Lời tâu rằng:

_ Uẩn lòng trùng trùng, Y Doãn Chu Công,

Vũ tuyết thê thê, Bá Di Thúc Tề.

Nghĩa là: Đang lúc nắng nực, thì như ông Y Doãn, ông Chu Công (ý là đắc dụng với thời). Đến khi mưa tuyết lạnh lùng thì như ông Bá Di, ông Thúc Tề (ý nói là xếp xó một chỗ).

Bấy giờ Mạc Đĩnh Chi chưa nghĩ ra ý tứ làm sao, nhác trông sang bên kia, thấy lời lẽ như thế mới suy ra mà đề một bài như sau này:

_ Lưu kim thước thạch thiên địa vi lô nhĩ ư tư thời hề Y Chu cự nho! Bắc phong kì lương, vũ tuyết tái đồ, nhĩ ư tư thời hề Di Tề ngã phu. Y! Dụng chi tắc hành xả chi tắc tàng, duy ngã dữ nhĩ, hữu như thị phù?

Nghĩa là: Nắng chảy vàng tan đá, trời đất như lò, người về lúc ấy ví như Y, Chu, hai ông quan to. Gió bấc lạnh lẽo, mưa tuyết lấp đường, người về lúc ấy ví như Di Tề, hai người chết đói. Than ôi ! Khi được dùng đến thì ra làm, khi không dùng đến thì cất đi, chỉ ta cùng ngươi là thế ru?


Đề xong dâng lên, vua Tàu cầm bút khuyên chữ "y", phê rằng "Lưỡng quốc trạng nguyên" nghĩa là trạng nguyên hai nước.


Ái Hoa
__________________
Sầu mong theo lệ khôn rơi lệ
Nhớ gởi vào thơ nghĩ tội thơ (Quách Tấn)




Trả Lời Với Trích Dẫn
  #2  
Old 08-04-2009, 12:31 PM
AiHoa's Avatar
AiHoa AiHoa is offline
thích gõ đầu trẻ
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Bài gởi: 2,072
Default

Người vợ Cao Ly

Đời sau vẫn còn truyền tụng huyền thoại về mối tình của Mạc Đĩnh Chi với cô gái Cao Ly (còn gọi là Triều Tiên hay Hàn Quốc). Nguyên sau khi ông và sứ thần Cao Ly cùng làm thơ đề quạt, vua nhà Nguyên khen ngợi và phong cho cả hai chức Trạng Nguyên. Được ít lâu, Trạng Cao Ly về nước có mời Trạng An Nam qua chơi nhà. Lần đầu, Mạc Đĩnh Chi ở bên Cao Ly chơi bốn tháng. Trong thời gian ấy, Trạng Cao Ly làm mối cho Mạc Đĩnh Chi một người cháu gái trong họ để làm thiếp. Mạc Đĩnh Chi đưa người thiếp ấy cùng về bên Tàu, được mấy năm thì bà thiếp ấy trở về nước Cao Ly, có dắt về hai đứa con, một trai một gái. Bà về nhà nói với anh em rằng:
_ Khi ông trạng tôi về nước An Nam có viết mấy chữ để lại cho tôi rằng: "Ngày nay tôi về nước là theo lệnh quân vương, ngày sau sang thì không có kỳ hạn nào cả. Ơn trời, chúng ta sinh hạ được hai đứa con, nhờ nàng nuôi nấng, dạy dỗ cho nên người. Về sau này nàng sẽ có nơi trông cậy, mà ta cũng không đắc tội với chúng nó là chỉ biết sinh con mà không biết nuôi, biết dạy con". Cứ như thế thì tôi không còn hy vọng ông trạng Mạc nhà tôi trở lại nữa, mà thân tôi đây bỗng dưng trở nên người vị vong rồi vậy!

Ai nghe thấy cũng phải ái ngại cho người thiếp đó mới ngoài hai mươi tuổi đầu không goá cũng thành như goá, lại thêm bên kẽ nách hai đứa con thơ, biết lấy gì nuôi nhau cho được nên người, giữ làm sao cho được toàn danh tiết? Ở vào địa vị bà thiếp ấy thật là khó khăn!

Thắm thoắt đã mười năm trời, một hôm bà thiếp ấy đang ngồi khâu vá chợt thấy Mạc Đĩnh Chi đến, bà giật mình lăn đùng ra. Ông chạy lại ôm lấy bà, gọi mãi mới tỉnh. Khi tỉnh lại rồi bà vẫn còn bâng khuâng như trong giấc chiêm bao, lại thỉnh thoảng nói một câu như mê mẩn. Ông Trạng Mạc an ủi hồi lâu thì người thiếp đó tỉnh lại. Lần này, Mạc Đĩnh Chi lưu lại ở nước Cao Ly trong sáu tháng trời. Trong khoảng thời gian ấy, ông đi du lịch gần khắp nước Cao Ly. Ông đi đến đâu , ai cũng hoan nghênh, vì ai cũng biết ông là bậc thông minh xuất chúng , lại là người rể trong nước. Ông có làm tập thơ truyền lại cho hậu thế, hiện nay vẫn còn nhiều người truyền tụng. Hết sáu tháng thì ông trở về nước, khi ấy bà thiếp vừa có mang 3 tháng. Sau đó, bà thiếp nhớ ông quá nên lập bàn thờ sống ở trong nhà, để sớm tối hương hoa cho thoả lòng hoài vọng. Cái bàn thờ sống đó chẳng qua là bà thiếp đặt ra để kỷ niệm sự thương nhớ chồng thôi , ban đầu không có nguyện khấn gì như các bàn thờ thánh khác. Đến tháng sinh con trai út, bà thiếp có biện xôi gà làm lễ ở trong bàn thờ ấy là lần đầu tiên. Khi người con trai út được một tuổi thì bị một cơn sốt mê man, bất tỉnh nhân sự, hai ba hôm không ăn uống gì được. Các thầy thuốc đến xem bệnh ai cũng nói là rất nguy kịch, không thể chữa được nữa. Bà thiếp lại sửa lễ xôi gà, đến quỳ trước bàn thờ chồng cầu nguyện vào lúc chập tối thì đến lúc nửa đêm người con trai út đã ngớt cơn sốt, đến sáng hôm sau thì tỉnh hẳn. Cả nhà ai cũng lấy làm lạ.

Từ ấy trở đi, tiếng linh ứng truyền đi khắp mọi nơi. Trước hết là một vài nhà hàng xóm xin tên hiệu ông Trạng về thờ , sau đó dần dần lan ra khắp cả châu, cả huyện, khắp cả nước không mấy nhà là không lập bàn thờ ông. Việc thờ phụng Mạc Đĩnh Chi bên Cao Ly cũng linh ứng, chẳng kém gì như thờ đức Thánh Trần ở nước An Nam .

Khi Mạc Đĩnh Chi trở về An Nam, bà thiếp chịu khó nuôi nấng, dạy bảo các con. Khi các con đã khôn lớn, dựng vợ gả chồng xong rồi, bà thường ở với người con trai út. Ở được hai năm thì bà từ biệt, đi vào chùa ở. Bà hưởng thọ 93 tuổi. Trong cửa thiền, bà ăn ở rất từ bi và độ lượng, mọi người đều cảm phục. Khi bà tịch ở chốn thiền môn, người ta lập đàn cầu nguyện cho bà rất linh đình, xưa nay chốn thiền môn chưa có đám tang nào rực rỡ, vẻ vang như thế.

Con trai cả của ông, sau này xuất thân làm quan võ, sinh được 12 người con gồm 8 trai , 4 gái. Sau còn hai ba đời đỗ đạt làm quan, nhưng không hiển hách lắm. Ngành này , phần nhiều là người giàu có. Con trai út khi được 19 tuổi thì đỗ cử nhân, không chịu ra làm quan, chỉ ở nhà làm thuốc và dạy học. Ông này sinh được 4 con trai đều học giỏi. Người con thứ 3 của ông này sinh được một người con văn võ song toàn, đã từng đánh đuổi quân Tàu , đánh đông dẹp bắc hiển hách một đời.

Ngành thứ hai này về sau sinh ra nhiều nhân tài, phần lớn là người trung hiếu, liêm khiết. Cháu đời thứ 8 có một thi sĩ, văn thơ hay nhất trong đời, không kém gì Lý, Đỗ bên Tàu. Ông có làm một bài phú về con Rùa , ngụ ý rằng nước Cao Ly tiến hoá chậm như Rùa bị các cận quốc khinh bỉ, song cách tiến hoá thong thả, vững vàng như con Rùa bò không vấp váp. Sau này các cận quốc tự phụ là linh tiệp như hùm như hổ sẽ bị non yểu tiêu diệt dần đi, dừng lại con sông Hoàng Hạc trong khoảng trời đất ngàn thu. Lời văn thanh thoát rất ly kỳ, quân đô hộ Tàu xem xong phải tấm tắc khen ngợi, rồi kể với vua Tàu, vua Tàu sai sứ sang hậu thưởng cho 100 tấm lụa và mời ông sang làm quan bên Tàu. Ông đã làm một bài trần tạ và thoái thác không chịu sang Tàu làm quan: Tôi chỉ thích yên phận làm một con rùa hèn mà không thích nghênh ngang làm một con sư tử dữ. Tôi chỉ thích làm một anh đồ mặc áo vải ở nước Cao Ly hơn là một người có thiên tư văn chương ở bên Trung Quốc.

Nếu so sánh thì ngành thứ nhiều người hiển đạt, nhiều người anh hùng hơn ngành cả. Mới ngày nào ở bên nước Cao Ly chỉ có một vết chân cụ Trạng Mạc bước tới mà dần dà nảy nở, hoá ra hàng trăm, hàng ngàn con cháu làm quan, có cả chức quan to tác động đến cả vận mệnh nước Cao Ly. Vì thế sự tôn kính, thờ phụng Mạc Đĩnh Chi ở Cao Ly không phải là ngẫu nhiên theo sự linh ứng "sống khôn chết thiêng".

(theo Bùi Xuân Giang)




__________________
Sầu mong theo lệ khôn rơi lệ
Nhớ gởi vào thơ nghĩ tội thơ (Quách Tấn)




Trả Lời Với Trích Dẫn
  #3  
Old 08-05-2009, 01:13 PM
AiHoa's Avatar
AiHoa AiHoa is offline
thích gõ đầu trẻ
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Bài gởi: 2,072
Default

Nhà sư Huyền Quang

Mạc Đĩnh Chi suốt đời sống rất liêm khiết, thanh bạch, nên tuy làm quan nhưng nhà vẫn nghèo. Vua Trần Minh Tông biết rõ sự tình đã sai người đang đêm đem 10 quan tiền bỏ trước cửa nhà ông, ngầm cho ông. Sáng mai, khi thức dậy, ông cầm số tiền đó vào triều tâu vua, xin bỏ vào kho nhà nước. Vua cười bảo: “Không ai đến nhận, cho khanh cầm lấy mà tiêu”. Chừng ấy ông biết là vàng của vua ban mới chịu lấy về. Vua khen ông trong sạch và tặng hai chữ “Lịch sử”.

Đến triều vua Hiền Tông, làm nên đến chứ Tả bộc xạ (tương đương Tể tướng). Văn chương lưu truyền lại về sau rất nhiều. Con ông là Khẩn, Trực, cùng làm đến ngoại lang. Cháu là Địch, Toại, Viên cùng có quyền thế, làm quan lúc nhà Minh sang xâm chiếm. Đời cháu chắt thiên sang ở làng Cổ Trai, huyện Nghị dương thì có Mạc Đăng Dung là cháu bảy đời, cướp ngôi vua Lê, dựng nên nhà Mạc.

Hồi đó, có một người tên là Lý Đạo Tái, ở làng Vạn Tải, huyện Gia Bình thuộc tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Ông này mới 19 tuổi đã đỗ trạng nguyên khoa Nhâm Tí (1252), niên hiệu Nguyên Phong thứ hai, đời Trần Thái Tông. Nhà vua thấy Đạo Tái là người tài đức, muốn gả công chúa Liễu Sinh cho, nhưng ông không ưng, tìm mọi cách từ chối.

Hồi chưa đỗ đạt , gia cảnh Đạo Tái bần hàn đến mức người trong họ ai cũng coi thường, không thèm đỡ đần, cứu giúp, đành phải bỏ làng đi học nơi xa. Đến khi Lý Đạo Tái đỗ Trạng nguyên, rồi ra làm quan lại có nhiều người đến nhận họ, khiến ông cảm thấy buồn. Tương truyền Đạo Tái làm hai câu thơ nói về chuyện này :
_ Khó khăn thì chẳng ai nhìn
Đến khi đỗ trạng chín nghìn anh em.


Vì cám cảnh đời đen bạc, Đạo Tái cố tìm cách giải đáp. Ông nghiên cứu đạo Phật và hiểu ra được về nỗi thống khổ của con người, từ đó quyết chí đi tu. Ông từ quan, xuất gia tu hành theo đạo Phật, mong tìm cách cứu vớt chúng sinh. Lý Đạo Tái được phong Phật hiệu là Huyền Quang, đạo pháp cao siêu, thoát khỏi lòng dục, nổi tiếng là vị chân tu, tên tuổi lừng vang khắp nước. Vua ban cho sư thầy Huyền Quang 10 dật vàng có dấu quốc khố. Ông không nhận nhưng vua cứ ép, bảo cầm 7 dật về nuôi mẹ còn 3 dật thì giữ lại phòng khi lỡ làng. Nhà sư bất đắc dĩ nhận vàng về tu ở chùa Hoa Yên, núi Yên Tử.

Nhưng vua Trần Anh Tông thì vẫn chưa thật tin điều này. Có lần nhà vua đã hỏi thị thần và tăng đạo rằng:
- Người ta sống ở trong đời đất đều thích ăn vị ngon, thích mặc màu đẹp, đều có tình dục cả. Tại sao mình lão tăng Huyền Quang từ trước tới nay chỉ sắc sắc không không, như nước chẳng gợn sóng, như gương chẳng mờ bụi. Đó là ngăn hãm lòng dục hay không có lòng dục vậy?

Bấy giờ, Mạc Đĩnh Chi đứng bên mới tâu rằng:
- Vẽ hổ chỉ vẽ được da, khó vẽ được xương. Biết người thì biết mặt không rõ được lòng. Xin cứ phải thử xem thì mới rõ.

Nhà vua cho lời ông nói là phải, bèn ngầm chọn một người cung nữ rất đẹp tên là Nguyễn Thị Điềm Bích và giao cho nàng nhiệm vụ tìm đến chùa Hoa Yên, núi Yên Tử - là nơi sư Huyền Quang tu hành - để thử lòng sư, hẹn rằng nếu lấy được 3 dật vàng về thì sẽ có thưởng.

Điềm Bích giả làm người đi lễ lên chùa vào một đêm trăng đẹp và xin nhà sư cho ngủ đỡ một lần. Sư Huyền Quang cho phép nàng nghỉ ở nhà phương trượng. Đêm hôm ấy, Điềm Bích lần tới phòng sư lân la chuyện trò, tìm cách trêu ghẹo, dùng đủ thuật quyến rũ, cố khêu gợi lòng dục của Huyền Quang. Nhưng nhà sư lòng trần không bợn, Điềm Bích không sao lay chuyển được kẻ tu hành. Bí quá hóa liều, nàng đành xáp đến gần co tay, kéo áo khiến cho nhà sư vô cùng lúng túng.

Việc làm trâng tráo của nàng đã được một bà già đến lấy thuốc nấp sau chùa chứng kiến. Bà thấy nhà sư ở thế nguy bèn vờ gõ cửa xin thuốc, sư Huyền Quang mới thoát ra được. Điềm Bích dụ không nổi nhà sư, vừa thẹn mình, vừa sợ mệnh vua, nên định ra sau núi tự tử. Huyền Quang biết, bèn lấy lời lẽ khuyên can và hỏi rõ ngọn nguồn. Bấy giờ, Điểm Bích mới thổ lộ rằng nàng được nhà vua giao tìm cách lấy được 3 dật vàng của sư ông đưa về. Huyền Quang nghe xong ái ngại, liền vào phòng lấy ba dật vàng đưa cho, để nàng khỏi tội trước nhà vua.

Điềm Bích mang được vàng về trình vua, lại còn nghĩ được một bài thơ nôm tuyệt hay và nói là của sư Huyền Quang làm để trêu ghẹo mình buổi ấy:
_ Vằng vặc trăng mai ánh nước
Hiu hiu gió trúc ngâm sênh
Người hoa tươi tốt, cành hoa lạ
Mầu thích ca, nào thú hữu tình!


Bài thơ nôm quả là rất tình tứ. Nghe mấy lời thêu dệt ong bướm của nàng cung nữ, lại nhận đúng là mấy dật vàng có dấu quốc khố mình ban cho nhà sư, vua Anh Tông nổi giận lôi đình, cho Huyền Quang là sư hổ mang, định sai trị tội. May nhờ có bà lão xin thuốc kể lại và đối chất cùng Điềm Bích, vạch ra điều vu khống của nàng, vua mới biết Huyền Quang bị nghi oan. Nhà sư tiếp tục đường tu và trở thành vị tổ thứ 3 của phái Trúc Lâm.

Trong lịch sử nước Nam ta chỉ có Lý Đạo Tái tức Huyền Quang là nhà sư có học vị cao nhất.

Ái Hoa



__________________
Sầu mong theo lệ khôn rơi lệ
Nhớ gởi vào thơ nghĩ tội thơ (Quách Tấn)




Trả Lời Với Trích Dẫn
  #4  
Old 08-29-2009, 01:23 AM
AiHoa's Avatar
AiHoa AiHoa is offline
thích gõ đầu trẻ
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Bài gởi: 2,072
Default

Trạng Lợn

Nguyễn Nghiêu Tư, hiệu là Tùng Khê, người xã Phù Lương, huyện Võ Giàng, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc. Tương truyền cha ông làm nghề thịt lợn, ông lại đẻ vào tháng 10 tức tháng Hợi nên được đặt tên là Nguyễn Văn Trư và mọi người thường gọi là cậu Lợn.

Ông bản tính nhanh nhẹn, thông minh, có lần đi với bố ra đường, gặp đám rước kiệu ông Nghè vinh quy, Trư hỏi:
- Ông gì thế bố?

Người cha đáp:
- Ông Trạng!

Trư nói:
- Lớn lên con cũng làm ông Trạng!

Từ đó đi chơi với trẻ trong làng, ông đều khoe:
- Tao là quan Trạng!

Có người khách nghe được mới nói lỡm rằng:
- Trạng dở hay trạng nguyên?

Ông buột miệng đối ngay:
- Khách quen hóa khách lạ!

Cạnh làng ông là làng Yên Định đất học, có cụ đồ sang chơi, nói rằng:
- Mày là Trạng thì để ta ra câu đối xem đối có được không?

Trư ưng chịu. Nhân nhà Trư sinh sống bằng nghề thịt lợn cụ đồ bèn ra vế đối, mang đề tài lợn:
- Lợn cấn ăn cám tốn!

Lợn cấn là lợn có chửa, lợn chửa thì ăn nhiều cám tuy nhiên cái lắc léo của câu đối chính là Cấn và Tốn là hai quẻ trong Bát quái.

Trư đối ngay:
- Chó khôn chớ cắn càn!

Câu đối tuy rằng khá xấc xược, nhưng vế đối khá hay bởi vì Khôn và Càn cũng chính là hai quẻ trong Bát quái!

* Thật ra xét về luật đối thì vế đối không chỉnh lắm vì chữ "ăn" là động từ, "chớ" là trạng từ, "cám" là danh từ "cắn" là động từ. Câu đối này được gán cho Trạng Quỳnh trong truyện về Trạng Quỳnh (chú thích của Ái Hoa).

Cụ đồ thấy Trư thông minh bèn khuyên bố mẹ ông cho ông đi học. Chính cụ đồ bị ông đối xược ấy dạy ông từ năm mới 8 tuổi. Ông học rất giỏi, nghe một biết mười, lễ phép, chuyên cần, bạn học có người lớn gấp rưỡi, gấp đôi tuổi thảy đều thương mến. Những ngày trời mưa bạn thường cõng ông qua chỗ lội.

Khi ở nhà lúc nào ông cũng chăm lo đèn sách, thậm chí khi ra ao rửa bèo, ra vườn hái rau, tay vẫn cầm cái que nhọn vạch xuống đất hoặc vào lá chuối, lá khoai những chữ khó nhớ.

Đến khi biết chữ đã kha khá, thầy đồ gửi ông ra học cụ Vũ Mộng Nguyên. Cụ Nguyên người xã Đông Sơn, huyện Tiên Du, đỗ Thái học sinh nhưng không làm quan cho nhà Hồ mà về làng dạy học.

Ông đỗ Trạng nguyên khoa Mậu Thìn (1448) niên hiệu Thái Hòa năm thứ 6 đời vua Lê Nhân Tông. Tương truyền đêm trước ngày thi đình vua Nhân tông nằm mơ thấy lợn đỗ trạng. Dân gian coi yết bảng cứ kháo nhau thành vè “Long đầu lợn-Nguyễn Văn Trư”, vua liền đổi tên cho Trạng là Nguyễn Nghiêu Tư.

Ông làm quan đến chức An phủ sứ Hàn lâm Trực học sỹ, đi sứ nhà Minh lại phong Lại bộ thượng thư, về phong Chưởng lục bộ thượng thư.

Khi Trạng vinh quy bái tổ, dân làm cái nghè ở Phù Lương thị (chợ làng Phù Lương), tức làng Giùng, chợ Giùng để đón. Nghè còn tồn tại đến thời kháng chiến chống Pháp dân vẫn gọi là Nghè quan Trạng. Khi về hưu vua phong “Thượng quốc công chí sỹ” và vợ được hàm “nhất phẩm phu nhân”.

Năm 1459 Lê Nghi Dân giết vua tiếm vị, sai Trạng đi sứ sang Tàu cầu phong. Khi đoàn sứ thần ta tới ải Nam Quan, viên quan coi cửa ải nhà Minh muốn thử trí sứ thần Đại Việt bèn treo lên cửa quan một chữ thập lớn bằng gỗ, bảo nếu đối được thì mới mở cửa đón tiếp. Trạng nói:
- Các người ỷ thế nước lớn, ngạo mạn muốn coi người Trung Hoa là “tung hoành vũ trụ”. Đã vậy thì ta phải đối lại cho chúng biết người Đại Việt chúng ta không dễ gì mà bắt nạt!

Trạng sai người bện một cái vòng tròn lớn bằng lụa tết mắc lên đầu chữ thập, cả chữ thập lọt trong vòng tròn ấy. Viên quan Tàu coi ải đọc ra ngụ ý vế đối là "bao quát càn khôn", để đối lại vế ra là “tung hoành vũ trụ”. Ông ta thầm khiếp phục, mở cửa quan nghênh tiếp sứ giả.

Vào đến Yên Kinh, Trạng vào yết kiến vua Minh. Hoàng đế nhà Minh hoạch hoẹ:

- Sao lại dám giết em mà tranh ngôi vua?

Nghiêu Tư trả lời:

- Đường Thái tông giết cả anh là Kiên Thành, em là Nguyên Cát là việc cũ của thiên triều, thì việc nước tôi ngày nay có gì là lạ?

Thấy sứ thần Đại Việt trả lời rất đúng lý nhà Minh đành chấp nhận phong vương.

Nhà vua muốn thử tài sứ giả, ngầm sai đặt trong hoàng cung quán lịch sự, đề hai chữ Kính Thiên treo ở giữa, bầy đôi sập thất bảo rất cao, xung quanh đặt nghi vệ sang trọng như chỗ giường ngủ của thiên tử, để xem Trạng có dám ngồi đó không.

Khi sắp yến tiệc họ đưa Trạng và phó sứ dạo thăm cung điện rồi mới đưa đến đấy. Trạng bèn bảo phó sứ cùng ngồi lên sập thất bảo. Thấy vậy, viên quan nhà Minh ra hoạch:

- Cớ sao sứ thần lại ngược ngạo, vô lễ đến như vậy? Không trông lên trên kia xem, chỗ này là chỗ gì?

Trạng ta bình thản trả lời:

- Dám thưa, ngài lấy cớ gì cho sứ thần tôi là ngạo? Biển đề hai chữ Kính Thiên 敬 天, chiết tự ra là kính nhị nhân 敬 二 人 (chữ thiên 天 là trời, tách ra thành hai chữ nhị nhân 二 人 là hai người) thực hẳn là ý quý quốc muốn đem cái ngôi này mà hậu đãi hai sứ thần xa lại. Ngài dạy thế chúng tôi phải tuân theo. Vả nghe cổ nhân có nói: “Đãi người phương xa cốt lấy bụng thực”. Tôi nghe Thánh triều lấy thành tín đãi người ngoại quốc. Thế mà sứ giả nước xa tới lại đem cái bụng trí thuật làm oai. Tôi sợ người ta nghe tiếng dẫu có lòng thực hướng mộ, cũng sinh nghi mà không lại nữa.

Viên quan nhà Minh thấy Trạng nói như đã thấu rõ gan ruột mình từ trước, vội vàng khoả lấp ngay:

- Xin quý ngài xá lỗi. Nghĩ là buổi ban đầu, thử xem ngài có phải là bậc tài giỏi không thôi. Nhưng quý ngài quả là bậc thông minh, đã giỏi mà biết trước được như thế còn hề chi?

Trong thời gian ở Trung Quốc ông lập được nhiều công lớn, nhất là việc dạy hoàng tử học, được vua Minh rất đỗi quý phục phong ông là Lưỡng quốc Trạng nguyên.


Ái Hoa

__________________
Sầu mong theo lệ khôn rơi lệ
Nhớ gởi vào thơ nghĩ tội thơ (Quách Tấn)




Trả Lời Với Trích Dẫn
  #5  
Old 08-29-2009, 01:24 AM
AiHoa's Avatar
AiHoa AiHoa is offline
thích gõ đầu trẻ
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Bài gởi: 2,072
Default

NĂM HỢI NHÀN ĐÀM VỀ TRẠNG LỢN
VÀ TRUYỆN TRẠNG LỢN


NGUYỄN VIẾT CHÍNH

Trạng Lợn là một trong hai trường hợp ngoại lệ được xây dựng thành hình tượng văn học, Về nguồn gốc xuất xứ của truyện Trạng Lợn thì có nhiều tài liệu giải thích khác nhau. Theo Từ điển Hán-Việt của ông Đào Duy Anh thì Trạng Lợn là tên dân gian dùng để chỉ Nguyễn Nghiêu Tư ở nước ta học dốt lại vô hạnh mà đỗ Trạng nguyên nên người đời thường có câu: Trạng nguyên trư Nguyễn Nghiêu Tư, nghĩa là Trạng nguyên dốt như con lợn. Đúng là có Trạng nguyên Nguyễn Nghiêu Tư thật. Theo sử sách thì niên hiệu Thái Hoà thứ sáu (1448) trước khoa thi, vua Lê Nhân Tông nằm mơ thấy lợn đỗ trạng. Đến lúc treo bảng người đỗ trạng lại tên là Nguyễn Nghiêu Trư, người Kinh Bắc. Hỏi ra thì biết Trạng đẻ tháng Hợi, năm Hợi nên bố đặt tên cho vậy. Vua thấy tên Trạng mà như thế thì không hay nên mới đổi tên từ Nguyễn Nghiêu Trư thành Nguyễn Nghiêu Tư. Theo cụ Tiên Đàm Nguyễn Tường Phượng thì đương thời Thăng Long có câu: Long đầu Trư - Nguyễn Nghiêu Tư (Nguyễn Nghiêu Tư là con lợn đầu rồng), chỉ việc Tư đỗ trạng.

Nhưng trong dân gian thì hai chữ “Trạng Lợn” được dùng để chỉ những kẻ nói láo gặp thời. Vào năm Canh Thân 1920 đời vua Khải Định có ấn hành sách Trạng Lợn do Mộng Quế Thư Hiên viết đề tựa. Theo tài liệu này thì Trạng Lợn là Dương Đình Chung (tục gọi là Chung Nhi), con thứ hai của ông Dương Đình Lương làm nghề mổ lợn, quê ở Mạnh Chư (tục gọi là làng Dừa), thuộc huyện Bình Lục, Nam Hà. Vì chữ Chư đồng âm với Trư (lợn) nên gọi là Trạng Lợn – theo cách gọi phổ biến ngày xưa. Tương truyền rằng, họ Dương ở làng Dừa vốn là dòng khoa bảng. Đến đời ông Dương Đình Lương thì phải xoay ra làm nghề lái lợn, hai vợ chồng sinh được một trai nhưng lại học dốt nên lấy làm buồn phiền và ngày đêm cầu mong có được một thằng con thông minh để nối nghiệp tổ tiên. Quả nhiên bà Lương thụ thai rồi sinh ra một trai nữa, hai vợ chồng mừng lắm bày tiệc ăn mừng và đặt tên là Dương Đình Chung (còn gọi là Chung Nhi). Năm Chung Nhi lên 3 tuổi, triều đình mở khoa thi. Có một ông Trạng nguyên và một ông Bảng nhãn vinh qui về qua làng Dừa. Chung Nhi chỉ vào người mặc áo trào hỏi bố: “Ông kia là gì?, hở bố?”, “Ông ấy là quan Trạng”. Lại chỉ ông mặc áo trào đi sau: “Còn ông kia?”, “Ông ấy là quan Bảng”, “Ông nào hơn ông nào?”, “Quan Trạng hơn”. Chung Nhi liền nói với bố rằng: “Thế thì sau này con cũng làm quan Trạng”. Từ đấy, Chung Nhi thường mơ tưởng đến hai chữ “Trạng nguyên”…Một hôm có ông khách của bố đến chơi hỏi đùa Chung Nhi: “Trạng dở hay Trạng nguyên?”. Chung Nhi đáp lại: “Khách quen hoá khách lạ”. Khách ngạc nhiên về vế đối hoàn chỉnh nên khuyên ông Lương cho Chung Nhi theo học…

Còn về truyện Trạng Lợn. Theo ông Vương Thừa ÂN, truyện Trạng Lợn có cả thảy 19 hồi, diễn biến theo một trình tự chặt chẽ, qua đó dần dần hiện lên một nhân vật chính có đủ hoàn cảnh xuất thân, lý do ra đời, học hành, thi cử rồi hiển đạt thế nào. Sau khi đỗ Trạng được vua sai cầm quân đánh giặc, lấy được vợ tài sắc con quan, đi sứ Tàu ứng đối trôi chảy, sau lại hoá về trời. Trong truyện còn có một loạt nhân vật phụ, nhưng phần lớn là hư cấu, chỉ có hoàng đế Lê Thánh Tông và thầy địa lí Tá Ao là có thật!

Trong thực tế thì làng Mạnh Chư xưa nay không có họ Dương và các sử liệu cũng không hề chép ai là Dương Đình Chung đỗ Trạng làm quan như thế cả, dưới triều vua Lê Thánh Tông lại càng không có. Rõ ràng, Trạng Lợn chỉ là một nhân vật được hư cấu lên thành hình tượng văn học. Các chi tiết hài hước trong truyện rất sâu sắc đòi hỏi người đọc phải có một số kiến thức Hán Nôm nào đó mới thấy hết sự thú vị. Tác giả Trạng Lợn phải là người có học có tài nữa, nhưng không gặp thời nên rất khinh ghét những kẻ nói láo gặp thời. Ví như truyện “Dốt chữ …thành thần”: Trạng Lợn cùng hai người bạn lạ đi đến một làng nọ khi trời nhá nhem tối bèn lần vào tìm nhà trọ. Thấy ở cổng làng đề ba chữ “Thủ chư dự” (Lấy trong quẻ dự), Trạng nghe qua lại lầm qua là “thủ trư” (thủ lợn) nên báo với hai người kia là : “Tối nay, anh em ta được chén thủ lợn”. Thực ra Trạng dốt, vừa đoán mò lại không biết cả ngữ pháp tiếng Hán (thủ lợn phải là “trư thủ” chứ không phải là “thủ trư”). Không ngờ, ba người lại trọ ở nhà ông tiên chỉ, gặp ngày tế xuân, làng đem biếu ông ta cái thủ lợn, thế là…hai người kia phục lăn Trạng. Hôm sau, ba người qua một làng khác, thấy đầu làng có biển đá khắc hai chữ “hạ mã” (xuống ngựa). Nhưng do mặt chữ chưa thuộc nên Trạng đọc thành “bất an” nên giục hai bạn đi vội kẻo nguy. Quả nhiên, một lúc sau trong làng có đám cháy lớn… Tiếng lành đồn xa, một hôm Trạng Lợn được vua mời vào cung để bói tìm kẻ trộm đánh cắp đồ nữ trang của công chúa. Nghĩ mãi không ra kế gì, Trạng cho mình là cái thân tội nên buột miệng nói: “Thật là quýt làm cam chịu”. Không ngờ hai tên trộm là Cam và Quýt rình nghe thấy liền ra tự thú. Từ đó Trạng càng nổi tiếng. Quá nổi tiếng nên Trạng được vua giao làm Chánh sứ sang Tàu. Tới ải Nam Quan, quan giữ ải đưa ra một cái biển trên viết chữ “Thập” rồi lấy tay chỉ Đông, chỉ Tây ngầm như thách đố. Trạng bực và nghĩ: Nó muốn dọc, muốn ngang thì ta khoanh một cái vòng tròn cho nó hết đường dọc ngang. Rồi Trạng khoanh một vòng lớn vào biển rồi đưa ra. Quan giữ ải giật mình: ý ta muốn nói là “tung hoành vũ trụ”, thế mà sứ An Nam biết mà đối lại là “bao quát càn khôn” thì tài thật…

Trong lời đề tựa truyện Trạng Lợn, Mộng Quế Thư Hiên viết: “Đến như ông Trạng Lợn thì thực là quá, đĩnh ngộ không phải như cụ Mạc (Mạc Đĩnh Chi) mà đối đáp không khác gì bậc thông minh, uyên thâm không phải như cụ Trình mà bói toán tựa như người tinh, góp nhặt rặt những chuyện của người mà thành ra cái tài của mình thực là chuyện lạ xưa nay có một. Các cụ truyền người ta nhớ lại song ác ở miệng, văng vẳng ở tai, một câu gọi trạng, hai câu gọi trạng”. Truyện Trạng Lợn mượn bối cảnh và triều đại Lê Thánh Tông, một triều đại thịnh trị trong nhà nước phong kiến Việt Nam, công nhận một anh chàng dốt đặc cán mai mà đỗ trạng để chế diễu chế độ phong kiến họ Nguyễn một cách thoải mái. Dưới triều ấy, vua ấy mà còn thế thì dưới triều khác, vua khác sẽ ra sao. Triều Nguyễn có quy định không lấy ai đỗ Trạng nguyên vậy bịa ra một ông Trạng nguyên thời Lê, xuất thân lái lợn, dốt đặc cán mai tha hồ mà chế diễu, ai bắt bẻ được. Tuy nhiên, với nhân vật Trạng Lợn, là nhân vật bất tài vô tướng chỉ nhờ nói láo gặp thời mà nên danh vọng, nhưng người ta không ghét mà lại còn yêu thích. Bởi Trạng Lợn không làm điều gì trái với luân thường đạo lý cả, mà trái lại thể hiện vai trò đối nội, đối ngoại đều hay. Phải chăng đó cũng chính là tư tưởng của tác giả không muốn phủ nhận vai trò của kẻ sĩ trong mọi hoàn cảnh? Xây dựng nên một hình tượng Trạng Lợn, tác giả muốn cho ta thấy chế độ phong kiến đương thời đã đến lúc suy tàn, sụp đổ…

“Truyện Trạng Lợn là truyện không mà hoá có, có mà lại hoá không có. Bởi lẽ ở đời lúc nào lại không có những chuyện “chó ngáp phải ruồi” khi mà xã hội còn lạc hậu như thời phong kiến?” (Vương Thừa ÂN). Vâng, chuyện của Trạng không biết thực chỗ nào, hư chỗ nào. Nhưng có điều chắc chắn là, truyện Trạng Lợn đã, đang và sẽ sống mãi trong tâm thức dân gian.

NVC
__________________
Sầu mong theo lệ khôn rơi lệ
Nhớ gởi vào thơ nghĩ tội thơ (Quách Tấn)




Trả Lời Với Trích Dẫn
  #6  
Old 08-29-2009, 01:27 AM
AiHoa's Avatar
AiHoa AiHoa is offline
thích gõ đầu trẻ
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Bài gởi: 2,072
Default

Trạng Lợn dân gian: Dương Đình Chung

Họ Dương ở làng Dừa thuộc tỉnh Hà Nam (Bắc Việt) là một quí tộc có nhiều người làm quan to trong triều. Ðến đời ông Dương đình Lương thì sa sút, con cháu không nối được nghiệp cha ông, phải làm nghề bán thịt để sinh nhai.

Hai vợ chồng ông này, tuy sống trong nghề giết heo, giết bò, nhưng bản tính thực thà, phúc đức, có tiền vẫn bố thí cho những người khó ở chung quanh và thờ trời sợ phật, chớ không ác nghiệt như phần đông bạn đồng nghiệp lúc bấy giờ.

Một hôm, Dương ông đi lễ ở cái miếu đầu làng về thì gặp một ông cụ già vai đeo khăn gói, tay chống gậy, hỏi thăm tìm nhà trọ.

Dương ông đáp:

- Thưa cụ, ở đây không có quán trọ nào hết. Bây giờ trời sắp tối rồi, cụ mà đi nữa thì lỡ dỡ đường, âu là mời cụ về nhà tôi nghỉ. Tôi không có tiền nhưng đủ cơm nước đãi cụ mươi ngày.

- Nếu cụ có lòng yêu chúng tôi muốn ở lại đây chơi ít ngày.

Ông khách mừng rỡ.

- Nếu được như thế thì còn gì hay bằng.

Dương ông hẹn đưa ông khách về nhà, tiếp đãi rất chân thành, quí hóa. Cơm nước xong, ông khách hỏi chủ nhà làm gì. Dương ông cứ thực tình mà đáp.

- Không dám giấu cụ, tổ tiên chúng tôi xưa làm quan to tại triều, nhưng đến chúng tôi tài hèn sức kém nên đành phải bán thịt để sinh nhai.

Hai người trò truyện một đêm, tâm đầu ý hợp. Chủ nhất định lưu khách lại vài hôm, không ngờ ông khách lì lợm ở lại luôn ba tháng, ngày nào cũng hai bữa rượu rồi chống gậy đi chơi la cà hết gò này sang đống nọ, hết ruộng nọ lại đến ao kia.

Hóa ra ông khách đi xem địa lý, mà ông ta không ai khác hơn là ông thánh địa lý Tả Ao. Thấy Dương ông là một người phúc hậu, hiền lành Tả Ao muốn đáp ơn, quyết định ở lại liền ba tháng chính là để tìm cho Dương ông một ngôi đất quý.

Tả Ao hỏi Dương ông:

- Ông bà đãi tôi thành tâm quá, tôi cảm tạ lòng ông bà hết sức. Nay tôi tìm được một ngôi đất quý cho ông bà, vậy xin hỏi ông bà muốn gì?

Dương ông đáp:

- Bẩm cụ, tôi chẳng muốn gì cả, chỉ mong mỏi có một điều là sinh được một đứa con trai có học hơn tôi để nối nghiệp ông cha cho khỏi mang tai mang tiếng.

Tả Ao gật đầu:

- Tưởng gì, chớ nếu chỉ có thế thì dễ lắm. Ngôi đất tôi chọn cho ông phát Trạng mà lại là Trạng không phải học. Vậy ông sửa soạn đi để tôi đặt đất cho, kẻo tôi có việc sắp sửa phải đi xa rồi.

Dương ông bèn nhờ ông Tả Ao đặt lại ngôi mộ của thân phụ ông. Táng xong được vài tháng thì Dương ông làm ăn thịnh vượng hơn trước. Thấy trời thương như thế, vợ chồng Dương ông lại càng cố tu nhân tích đức. Ðược gần một năm thì Dương bà có thai. Trong khi Dương bà có thai, Dương ông hàng ngày thấy một hiện tượng lạ.

Nguyên từ nhà Dương ông ra chợ thì phải đi qua một cái gò kêu là gò Thần Ðồng. Lần nào đi chợ về Dương ông cũng thấy trong lùm cây có tiếng trẻ con kêu the thé:

- Thầy ơi lần sau đi chợ thầy nhớ mua quà cho con nhé.

Dương Ông thoạt đầu không tin, nhưng sau thấy đứa trẻ cứ nói the thé ra như thế ông phải đáp:

- Để lần sau thầy mua quà cho con.

Dương ông không muốn nói dối, hôm sau mua quà thật. Ông gọi:

- Ðứa nào đòi quà thì ra đây mà lấy.

Tiếng đứa trẻ nói vọng ra:

- Thầy cứ để đấy, con ra lấy ngay bây giờ.

Dương ông để ý thì đi một quãng, quay lại xem, gói quà biến từ lúc nào không rõ. Từ đó lần nào đi chợ về, Dương ông cũng mua quà cho đứa trẻ. Mua được bảy mươi hai lần thì Dương bà sanh được một con trai. Về sau này, người ta tính ra thì con trai của Dương ông sống được bảy mươi hai tuổi.

Ðứa con ấy là Trạng Lợn sau này vậy.

(còn tiếp)
__________________
Sầu mong theo lệ khôn rơi lệ
Nhớ gởi vào thơ nghĩ tội thơ (Quách Tấn)




Trả Lời Với Trích Dẫn
  #7  
Old 01-20-2010, 04:08 AM
AiHoa's Avatar
AiHoa AiHoa is offline
thích gõ đầu trẻ
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Bài gởi: 2,072
Default

Trạng Lợn dân gian: Dương Đình Chung (tt)

Dương ông đặt tên cho y là Dương Đình Chung tức Chung Nhi. Tục truyền vua Thánh Tôn cũng ra đời cùng ngày với Chung Nhi cả Trạng Ăn, Trạng Vật cũng sinh năm ấy.

Nói về Chung Nhi lên ba tuổi thì triều đình mở khoa thi có hai ông Trạng Nguyên và Bảng Nhỡn vinh quy về qua làng Rùa. Chung Nhi ra xem, thấy thế, cười mà hỏi cha rằng:
- Ông kia là gì mà đội mão đẹp thế?

Dương ông đáp:
- Ông ấy là quan Trạng.

Chung Nhi hỏi tiếp:
- Còn ông kia là gì?
- Ông ấy là quan Bảng.
- Vậy trong hai ông, ai hơn ai kém?
- Quan Trạng hơn quan Bảng.
- Thế thì ngày sau con phải làm quan Trạng.

Từ đó Chung Nhi chỉ mơ ước làm Trạng Nguyên bắt trẻ con làm cờ làm quạt rước mình như rước quan Trạng vinh quy bái tổ. Có người khách lạ, thấy thế, bĩu môi, bảo :
- Trạng dở hay Trạng Nguyên?

Chung Nhi đáp:
- Khách quen hóa khách lạ.

Khách thấy đứa trẻ đáp thế, giựt mình cho là lạ, bảo Dương ông nên cho Chung Nhi đi học. Chung Nhi hỏi mẹ:
- Thầy đồ giỏi hơn Trạng Nguyên hay Trạng Nguyên giỏi hơn thầy đồ?

Mẹ trả lời:
- Trạng Nguyên giỏi hơn.

Nghe thế, Chung Nhi lắc đầu quầy quậy:
- Thế thì con không đi học thầy đồ đâu.

Mẹ khuyên:
- Muốn làm Trạng, phải đi học thầy đồ mới được.

Nghe mẹ nói vậy, Chung Nhi mới chịu cắp sách đi học.

Dương ông làm gà thổi xôi mang sang thầy đồ xin làm lễ nhập tràng cho con. Thầy bảo Chung Nhi vào lễ, Chung Nhi hỏi thầy:
- Lễ ai?

Thầy nói:
- Lễ trình đức Thánh Khổng Tử.

Chung Nhi hỏi lại:
- Thánh Khổng Tử có hơn Trạng ?

Thầy nói:
- Nhất Thánh nhì Trạng

Bấy giờ Chung Nhi mới chịu làm lễ. Lúc xong, Dương ông bảo vào làm lễ thầy. Trạng cho là thầy kém Trạng, nhất định không chịu lễ. thầy bảo:
- Tiên học lễ hậu học văn.

Trạng chịu là phải, lúc bấy giờ mới chịu lễ thầy. Thầy lại bảo:
- Thứ nhất hay chữ, thứ nhì dữ đòn.

Chung Nhi không bằng lòng, nói:
- Phải đòn thì con không học đâu.

Dương Ông phải dỗ:
- Con chăm học thì không can gì phải đánh !
- Thế học mấy hôm thì thành Trạng ?

Thầy đồ nực cười:
- Học dăm ba ngày thì thành Trạng.

Chung Nhi tủm tỉm cười thích lắm. Thầy đọc một câu trong Tam Tự Kinh cho Chung Nhi học "Thiên tích thông minh, thánh phù công dụng".

Thầy đọc xong thì Chung Nhi quên liền mà đọc trẹo ra là: "thiên tích thong manh, thánh phù chỏng gọng" chỉ có câu ấy mà bảy tám ngày không thuộc. Thầy đồ giận lắm bắt nằm xuống đánh Chung Nhi không chịu nằm sấp, cứ nằm ngửa tênh hênh ra. Chung Nhi nói:
- "Thiên tích thong manh, thánh nằm chỏng gọng" sao thầy bắt con nằm sấp ?

Ái Hoa
(còn tiếp)
__________________
Sầu mong theo lệ khôn rơi lệ
Nhớ gởi vào thơ nghĩ tội thơ (Quách Tấn)




Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời


Ðiều Chỉnh
Xếp Bài

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
Bạn không được quyền gởi bài
Bạn không được quyền gởi trả lời
Bạn không được quyền gởi kèm file
Bạn không được quyền sửa bài

vB code đang Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển đến


Múi giờ GMT. Hiện tại là 03:52 AM.


Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2025, Jelsoft Enterprises Ltd.