Go Back   Vina Forums > Thư Viện Online > Kho Tàng Truyện > Truyện Tiểu Thuyết - Truyện Dài
Hỏi/Ðáp Thành Viên Lịch Tìm Kiếm Bài Trong Ngày Ðánh Dấu Ðã Ðọc

 
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
Prev Previous Post   Next Post Next
  #4  
Old 05-20-2004, 05:14 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

Tôi biết rõ, sau khi sáu tiểu đoàn quân Pháp nhảy dù xuống Điện Biên vào ngày 20 tháng 11. 1953 để lập căn cứ, tướng Giáp đã đề ra ngay việc chuẩn bị tiến công cả Lai Châu và Điện Biên. Phương châm tác chiến là "tiến nhanh, giải quyết nhanh", vì quân Pháp chưa kịp củng cố hệ thống phòng thủ. Cố vấn Trung Quốc đồng ý phương châm này, nói theo kiểu Trung Quốc là "khoái tả, khoái diệt". Ngày 20.1.1954, cuộc tiến công đã được dự định thì đột nhiên phải đình lại. Phương châm tác chiến thay đổi thành "đánh chắc, tiến chắc". Sự thay đổi phương châm là do tướng Giáp đề xuất, vì tình hình đã thay đổi quân Pháp đã có hơn 16 tiểu đoàn, công sự hầm ngầm đã được củng cố vững chắc, dây thép gai, ụ pháo, ụ súng máy được bố trí dày đặc, lại có không quân yểm trợ ngày đêm. Các cố vấn Trung Quốc cũng đồng ý thay đổi phương châm tác chiến. Cuộc tiến công phải chuẩn bị thêm đến gần 50 ngày đêm nữa, để khởi đầu vào ngày 13.3.1954. Một trong những yếu tố quyết định thắng lợi là hệ thống hầm hào được xây dựng theo lối đào dũi, bao vây, chia cắt trận địa của đối phương, thắt chặt, lấn dần bằng xẻng cán ngắn, sắc, kết hợp với các hầm pháo được giấu kín, bắn cầu vồng và bắn thẳng, cùng với nhiều trận địa pháo giả, tạo khói nghi binh để đánh lừa pháo đối phương..

Trong cuộc chiến đấu chống không quân Mỹ ở miền Bắc, từ cuối năm 1967 có một số đơn vị cao xạ Trung Quốc tham gia bắn máy bay Mỹ, nhưng không nhiều. Họ chỉ bố trí trận địa ở phía bắc sông Hồng hoặc gần Hà Nội, như ở các tỉnh Hà Bắc, Bắc Thái, Quảng Ninh... xa các thành phố và thị trấn, nơi máy bay Mỹ ít đánh phá. Họ đóng quân trong rừng, ở xa vùng dân cư. Số máy bay do pháo cao xạ Trung Quốc bắn rơi rất ít thấy. Mục đích chính của họ có vẻ chủ yếu là thu thập kinh nghiệm chiến đấu.

Binh lính Liên xô không có mặt ở Việt nam, nhưng chuyên gia kỹ thuật quân sự và cố vấn quân sự thì khá đông, có lúc tới hơn 2000 người. Họ làm cố vấn ở Bộ Quốc phòng, Bộ tổng tham mưu, ở các tổng cục và cục chuyên môn, ở các quân đoàn, sư đoàn, học viện, viện kỹ thuật quân sự... Chuyên gia không quân, tên lửa, hải quân, ra-đa của Liên xô cũng luôn có mặt. Đó là chưa nói đến hải quân Liên xô thuộc Hạm đội phía Đông đóng ở căn cứ Cam Ranh sau ngày 30.4.1975.

Những trang bị quân sự của Liên xô và Trung Quốc, những kinh nghiệm phong phú về chiến tranh du kích, về "công kiên" và "vận động chiến" của Trung Quốc, những kinh nghiệm về "hợp đồng binh chủng" của Liên xô... đã có tác dụng to lớn đối với việc nâng cao trình độ chiến đấu của Quân đội Nhân dân Việt nam từ khi đội quân này được thành lập cho đến nay. Nhưng cách đánh trận thì phải hoàn toàn Việt nam.

Những lúc nào ông cảm thấy chiến tranh gặp khó khăn và làm phía Việt nam lo ngại, bối rối?

Khó khăn trong chiến tranh nhiều vô kể, vì nền kinh tế của Việt nam lạc hậu, trong khi đó quân đội Pháp và quân đội Mỹ đều được trang bị tối tân. Thời điểm khó khăn, đáng lo ngại nhất có lẽ là khi quân Mỹ bắt đầu được đưa ồ ạt vào miền Nam Việt nam. Chúng tôi lo rằng quân đội chúng tôi khó đương đầu nổi với quân đội Mỹ có hỏa lực mạnh, với sự yểm trợ rất lớn của không quân, trực thăng, pháo binh, xe bọc thép, xe tăng. Nhưng sau các trận Plây-me, Ya-drang, sau các chiến dịch Gian-xơn Xi-ti Xê-đa Phô, át-lê-bô-rô... chúng tôi bớt lo. Quân Mỹ không có gì thật ghê gớm. Chúng tôi đã tìm ra cách đánh thích hợp. Chúng tôi hiểu, đánh nhau với quân đội Mỹ, không cần thắng lợi trọn vẹn, chỉ cần không chịu thua, bền bỉ đương đầu là thắng. Mà phía quân đội Mỹ không thắng được chúng tôi có nghĩa là thua.

Có những lúc đứng trước sự chênh lệch quá lớn, người ta dễ bị ngợp. Trên đường mòn Hồ Chí Minh, nhìn lên trời, nhiều máy bay vận tải C.130 của Mỹ bay qua, chở hàng chục tấn hàng quân sự và cả một đại đội chiến đấu trong bụng nó, mỗi giờ bay được gần một ngàn kilômét. Trong khi chúng tôi vai vác ba, bốn chục ki lô, suốt một ngày chỉ đi được ba chục kilômét. Mệt bã người, có lúc thấy nản, nhưng rồi lại tự động viên bằng ý chí vượt khó, lại còn cảm thấy tự hào về sức bền bỉ, dẻo dai của mình. Phần đông chúng tôi vẫn giữ một niềm tin lạc quan. Động viên nhau giữ vững tinh thần, nên có lo ngại, nhưng không bối rối. Số bối rối, tuyệt vọng, nản chí, bỏ cuộc, bị chiêu hồi không đáng kể. Lúc đầu gặp cuộc ném bom rải thảm của máy bay B-52, tôi cũng sợ. Lúc ấy là ở Quảng Trị tháng 5.1972. Sau thì quen, vì bom tỏa rộng, chỉ khi nào bom trúng như ném vào lỗ đáo thì mới nguy, cứ có hầm, hố có mái che bằng gỗ cây là yên chí. Các cuộc ném bom của không quân Mỹ trên miền Bắc cũng vậy. Một, hai lần đầu thì giật mình, lo sợ. Sau cứ ung dung xuống hầm, báo động xong lại làm việc, đọc sách, đi chơi bình thường như không có gì xảy ra. Khả năng thích ứng của con người với hoàn cảnh thật vô cùng!

Hiệp định Paris về Việt nam được ký vào tháng 1.1973 đã có tác dụng gì?

Lợi thế của chúng tôi đã quá rõ. Quân Mỹ phải rút hết. Tôi tham gia tổ kiểm soát cuộc rút quân Mỹ cuối cùng ở sân bay Tân Sơn Nhất. Anh thượng sĩ không quân Mc Bielke là quân nhân Mỹ cuối cùng. Không có điều kiện nào buộc chúng tôi phải rút quân khỏi miền Nam Việt nam. Lập luận chúng tôi đơn giản là, cả quân đội Việt nam Cộng hòa và nửa triệu quân Mỹ không thắng nổi chúng tôi, nay quân Mỹ rút đi, chỉ còn quân đội Việt nam Cộng hòa, thì chúng tôi chắc chắn thắng. Chúng tôi hiểu rằng, cần đưa thêm nhiều quân miền Bắc vào miền Nam. ý định thành lập các đơn vị cỡ quân đoàn được đặt ra (mỗi quân đoàn có ba sư đoàn bộ binh và một sư đoàn thiết giáp) một cách khẩn trương. Quân đoàn 1 được hình thành ngay cuối năm 1973.

Một lợi thế nữa là chúng tôi có đoàn đại biểu quân sự của "quân Giải phóng miền Nam" ở ngay Tân Sơn Nhất, trong Ban liên hợp quân sự hai bên. Đoàn thường xuyên có công việc đi Lộc Ninh và nhiều nơi khác như Mỹ Tho, Phan Thiết, Đà Nẵng, Huế... Đây là "trạm quan sát" lợi hại, có thể nắm bắt nhanh nhạy tình hình chính trị, quân sự, tâm lý của người Mỹ và Sài Gòn, thu lượm tin tức tình báo để báo cáo cho lãnh đạo ở Hà Nội. Các đoàn quốc tế giám sát việc thi hành Hiệp định Paris gồm các sĩ quan Ba-lan và Hung-ga-ri cũng rất có ích cho việc thu lượm tin tức thăm dò đối phương.

Trả Lời Với Trích Dẫn
 


Ðiều Chỉnh
Xếp Bài

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
Bạn không được quyền gởi bài
Bạn không được quyền gởi trả lời
Bạn không được quyền gởi kèm file
Bạn không được quyền sửa bài

vB code đang Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển đến


Múi giờ GMT. Hiện tại là 07:42 PM.


Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2025, Jelsoft Enterprises Ltd.