Go Back   Vina Forums > Vườn Thơ > Tủ Sách Văn Học
Hỏi/Ðáp Thành Viên Lịch Tìm Kiếm Bài Trong Ngày Ðánh Dấu Ðã Ðọc

Trả lời
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
  #151  
Old 04-11-2010, 06:49 AM
danca danca is offline
Junior Member
 
Tham gia ngày: Apr 2010
Bài gởi: 7
Default

Cảm ơn nhiều nhé!! Kiến thức của bạn bổ ích với mình và mọi người lắm!
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #152  
Old 12-06-2010, 03:36 PM
TT_LưuLyTím_TT's Avatar
TT_LưuLyTím_TT TT_LưuLyTím_TT is offline
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Bài gởi: 7,757
Default

Điển Tích Truyện Kiều - Ba Đào Gặp cơn bình địa ba đào
Vậy đem duyên chị buộc vào duyên em.

Các văn nhân xưa có câu đối:
Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách.
Sắc bất ba đào dị nịch nhân.

Gió mưa không có then khóa mà giữ được khách.
Nhan sắc không phải sóng lớn mà dìm chết người\.

Điển tích \"Ba đào\"- sóng lớn - trong sách Dị Văn lục: Triều Huệ Đế đời nhà Minh, tại huyện Tề Hàng, tỉnh Sơn Nam, có hai vợ chồng Trần Hoá Chiêu, Lương Tiểu Ngạ Tiểu Nga là con một gia đình thúc nho lễ giáo, nổi tiếng là một trang quốc sắc thiên hương; thuở nhỏ được cha mẹ cho theo đòi bút nghiên, mười hai tuổi đã biết làm thơ phú, đọc thông các sách thánh hiền. Hoá Chiêu là học trò của cha Tiểu Nga; cậu học trò nghèo, mồ côi cha, thông minh, ham học, mặt mày khôi ngô, được thầy thương, gả con gái và cho ở rể. Sống chung với nhau được ba năm, thì bố mẹ vơ, lần lượt qua đời, để lại cho vợ chồng một căn phố và ít vốn liéng để mở một tiệm tạp hóa\.

Đời sống cũng được êm đềm. Trong vùng, các văn nhân thỉnh thoảng đến mua hàng và cùng vợ chồng Trần Hóa Chiêu xướng họa ngâm thơ\. Cũng không ít khách lai vãng thường xuyên đến đó vờ vĩnh mua hàng, để được dịp chiêm ngưỡng dung nhan Tiểu Nga; có phú hộ Trát Hiếu Sắc cũng thuộc loại khách này\.

Nhưng không như những mối tình câm kia, đến nhìn để rồi thầm yêu trộm nhớ, Hiiếu Sắc đã manh tâm chiếm hữu người đàn ba này cho được. Phú hộ tìm hiểu, biết vợ chồng vì ham thích thơ văn , nên buông lỏng chuyện mua bán, vốn liếng cụt dần. Phú hộ ra tay hào hiệp, cho mượn vàng bạc để gầy dựng lại\. Ngại ngùng lần đầu, nhưng rồi tiếp những lần sau, Hoá Chiêu cầm vàng bạc mượn đi buôn bán xa, chuyến nào cũng lời khẫm. Lần nào, vợ chồng cũng nài nỉ hoàn lại vốn và trả lời, nhưng Hiếu Săc đều từ chối lấy lãi\.

Cứ vậy, hai năm họ trở thành bạn thâm giao\. Hiếu Sắc luôn tỏ ra mình là người đàng hoàng, nghiêm túc, không bao giờ đến nhà bạn trong lúc vắng mặt Hoá Chiêu; những lúc tiếp chuyện với Lương Tiểu Nga, luôn luôn giữ thái độ đứng đắn. Vợ chồng Hoá Chiêu vui mừng có được người bạn hiền, hào phóng. Khi tự xét lý lịch \"nằm vùng\" của mình đã đến lúc kết nạp được, Hiếu Sắc đề nghị chung vốn làm ăn lớn. Vợ chồng Hóa Chiêu hoàn toàn tin tưởng, hớn hở nhận lời ngay\.

Việc buôn bán phất lên nhanh, nhưng Hiếu Sắc vẫn cương quyết không bao giờ nhận chia lãi, nại lý do để giúp vợ chồng bạn.

Một lần, Hiếu Sắc bàn với Hóa Chiêu phải đi buôn một chuyến lớn ở Hàng Châu xa xôi và thuê thuyền xong, cả hai cùng lên đường. Ròng rã cả tháng trời thuyền mới đến Hàng Châu vào một đêm trăng thanh gió mát. Hai người đem rượu ra mũi thuyền đối ẩm tâm sự Hoá Chiêu, tình thật, ngâm một câu thơ, lại ngậm một chén rượu ; Hiếu Sắc thì cứ làm động tác giả, hắt rượu qua vai\. Quá nửa đêm, Hoá Chiêu rụng, người mềm nhũn. Lúc bấy giờđám gia nhân dưới thuyền cũng đã ngủ saỵ Hiếu Sắc lôi Hóa Chiêu, xô xuống sông. Đôi ba lần Hoá Chiêu ngoai ngóp trồi đầu lên, Hiếu Sắc lại dùng sào dìm xuống cho đến khi mặt nước không còn sủi bọt nữa\.

Không cần phải buôn bán chi, Hiếu Sắc cho thuyền quay về Tề Hàng ngay\. Mẹ Hoá Chiêu và Tiểu Nga đau lòng với nỗi bất hạnh, nhưng vần cảm kích Hiếu Sắc đã bỏ cả chuyến hàng lớn để vội vàng trở về báo hung tin.

Rồi sau đó, đều đều, Hiếu Sắc lui tới thăm viếng và cấp dưỡng cho mẹ Hoá Chiêu và cô vợ góa trẻ. Và lần nào nước mắt phú hộ hào phóng cũng đầm đìa\.

Người đời càng nể trọng hơn khi thấy Hiếu Sắc ân cần chăm sóc mẹ của Hoá Chiêu chu đáo hơn vợ bạn, khiến mẹ già cũng có phần đăm chiêu\\

Ba năm sau, mãn tang. Hiếu Sắc cho người đến thưa chuyện với mẹ Hóa Chiêu xin cưới Tiểu Nga lam vợ. Bà mẹ đã đăm chiêu nhiều, nên thuận tình ngay, khuyên nhủ con dâu nên bước thêm bước nữa\.

Lương Tiểu Nga vốn là gái hiền thục, vẫn còn thương yêu người chồng vắn số, nhưng vẫn phải vâng lời mẹ chồng, tái giá.

Cưới được Lương Tiểu Nga rồi, Hiếu Sắc vẫn một mực chăm sóc mẹ Hoá Chiêu; bà cũng an lòng nghĩ rằng con dâu mình có được bóng mát cho cuộc đời còn lại\.

Vợ chồng ăn ở vơi nhau được mười năm, sinh được hai mụn con. Đời sống an nhàn. Một đêm trăng vào hạ, vợ chồng ra ngồi hóng mát bên ao sen. Hiếu Sắc nhấm rượu, và ngấm rượu; Đương lúc đó, có con ếch nhảy lên một lá sen. Tiểu Nga đưa cây sào thọc cho con ếch nhảy đi\. Sào thọc xuống thì con ếch lặn, cất sào lên, nó lại trồi lên. Tiểu Nga phải thọc vào con ếch mấy lần nữa, nó mới chịu lặn chìm mất.

Bất giác, Hiếu Sắc buột miệng ngâm:

\"Hồi ức thập tam niên tiền sự
Huyên tợ hà mô lục thủy thờị.
Nhớ chuyện mươi ba năm trước đây
Mường tượng ngày nay ếch ngóp ngoai

Nghe lời thơ lạ, Tiểu Nga bảo chồng lập lại để mình họa theo\. Hiếu Sắc lè nhè đọc lại rồi cao hứng nói vợ lấy giấy bút cho mình chép lại làm thủ bút. Thôi rồi, kẻ hào hiệp chung chăn gối với mình mười năm nay, thì ra là một kẻ nham hiểm thâm độc.

Không thể để cho Hoá Chiêu chết oan, Tiểu Nga đã nắ lấy vật chứng là hai câu thơ thủ bút của Hiều Sắc, đem đi trình quan.

Bị bắt tra vấn, Hiếu Sắc khai hết sự thật câu chuyện hơn mười ba năm trước, vì đã cuồng si nhan sắc của Lương Tiểu Nga nên đóng trò đạo đức, rồi bày mưu giết chồng đoạt vợ Trát Hiếu Sắc bị xử tội tử hình.

Đúng là sắc bất ba đào dị nịch nhân, nhan sắc đâu phải là sóng lớn mà cũng dìm chết người, hai người chồng đều phải tức tưởi lìa đời\.

Sắc đẹp là tội lỗi, nàng đã đến công đường, xin xử tội cái nhan săc nàỵ Nhưng luật pháp có bao giờ lại tử hình một hồng nhan. Có chăng thì lạ gì bỉ sắc tư phong, hồng nhan phải tự mang lấy cái nghiệp chướng đa truân.


Nguồn : VM
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #153  
Old 08-26-2011, 06:29 PM
TT_LưuLyTím_TT's Avatar
TT_LưuLyTím_TT TT_LưuLyTím_TT is offline
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Bài gởi: 7,757
Default

BA BẢY HĂM MỐT NGÀY
(Theo Nguyễn Quốc Hùng - "Thông dụng thành ngữ cố sự")



VN ta có câu "Ba bảy hăm mốt ngày" (không sớm thì muộn) có thể được coi là mang cùng ý nghĩa với thành ngữ "Ngũ nhật kinh triệu (năm ngày giữ chức Kinh triệu) của Tàu.

Đời Tuyên đế nhà Tây Hán, kinh đô Trường An có nạn trộm cướp hoành hành dữ dội, khiến dân chúng nhà nhà đều bất an.

Đương thời, việc trị an tại kinh đô là thuộc phận sự của quan Kinh triệu doãn cũng như chức Đô trưởng ngày nay), nhưng nhiều vị Kinh triệu doãn kế tiếp nhau đều không trừ được nạn trộm cướp hoành hành tại kinh đô nhà Tây Hán.

Hán Tuyên đế nghe nói một vị quan ở đất Liêu Đông là Trương Xưởng rất tài giỏi, bèn gọi Trương Xưởng về, cho làm Kinh Triệu Doãn, nắm việc trị an tại kinh đô.

Ngay sau khi nhiệm chức, Trương Xưởng tự mình đi sâu vào dân chúng kinh đô để điều tra tình hình, và được biết những kẻ cầm đầu bọn trộm cướp tại kinh đô đều là những kẻ giàu có, ra ngoài một bước là xe ngựa xênh xang, nhà ở thì lộng lẫy như cung điện, trong nhà thì gia nhân tỳ thiếp cả bầy. Trương Xưởng bèn tìm cách mua chuộc được hết bọn cầm đầu đó, và bắt trọn tổ chức trộm cướp tại kinh đô Trường An. Dân chúng lại được sống yên vui và không ngớt lời ca tụng tài
đức của Trương Xưởng.

Trương Xưởng giữ chức Kinh Triệu Doãn được mấy năm, nền trị an tại kinh đô cực kỳ tốt đẹp, bộ mặt kinh đô càng thêm thịnh vượng, nhưng một người bạn của Trương Xưởng là Dương Hẩn phạm tội đại nghịch và bị triều đình xử chém. Các đại thần trong triều đề nghị cách chức tất cả bạn bè của Dương Hẩn hiện đang làm quan trên toàn quốc. Do đó, Trương Xưởng cũng bị cách chức.

Lúc đó, Trương Xưởng có một thuộc cấp, chuyên phụ trách về các vụ trộm cướp, tên là Như Thuấn. Khi nghe tin Trương Xưởng bị cách chức, Như Thuấn không chịu tới phủ làm việc nữa. Trương Xưởng cho gọi, Như Thuấn cũng không thèm đến, trái lại còn nói với mọi người rằng :
- Trương công còn tại chức được bao lâu nữa ? Chỉ chừng 5 ngày nữa giữ chức Kinh Triệu Doãn mà thôi, tại sao ta còn phải làm việc cho Trương công nữa.

Trương Xưởng nghe giận lắm, tức thì cho lệnh bắt giam Như Thuấn, lập hồ sơ kết tội là trái lệnh thượng cấp, và xử chém.

Sự tích này được chép trong phần Trương Xưởng truyện của bộ Hán thư. Từ lời nói của Như Thuấn trong sự tích này, người đời rút ra thành ngữ "Ngũ nhật kinh triệu" (5 ngày giữ chức Kinh triệu) để nói về trường hợp làm quan không được
yên, địa vị bị đe dọa, hoặc về trường hợp giữ chức không được bao lâu, dù vì bất cứ lý do nào (hoặc bị cách chức, hoặc tự ý xin rút lui, v.v...)

Chẳng hạn như trong một hãng buôn lớn, có một nhân viên làm việc không siêng năng cần mẫn, đi trễ về sớm, lại thiếu khả năng, làm việc hay lầm lẫn sai sót. Nhân viên này sớm muộn gì cũng bị chủ nhân sa thải, chớ không thể làm việc lâu. Trong trường này người ta nói rằng nhân viên đó chẳng qua chỉ "ngũ nhật
kinh triệu" mà thôi.

Dương Trọng Hiếu
__________________
http://Taochu.Uhm.vN
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #154  
Old 08-26-2011, 06:30 PM
TT_LưuLyTím_TT's Avatar
TT_LưuLyTím_TT TT_LưuLyTím_TT is offline
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Bài gởi: 7,757
Default

BỚI LÔNG TÌM VẾT
(Trích trong "Kể chuyện thành ngữ tục ngữ", câu 31 - NXB KHXH 1994)



Thành ngữ "bới lông tìm vết" xuất phát từ thành ngữ Hán Việt "suy mao cầu tì". Trong tiếng Việt, thành ngữ này được dùng để chỉ hành vi của những người hay bới móc khuyết điểm, thiếu sót của người khác.

Trước hết, hành động "bới lông tìm vết" được thực hiện khi xem xét các loại chim đe.p. Ngày xưa bên Trung Hoa hay mở các hội thi chim. Chim đẹp ở bộ lông và dáng điệu. Chim quý ở tiếng hót. Những điều này lộ ra ở bên ngoài, rất hiển nhiên, có thể nhận biết dễ dàng và chính xác. Một khi đã bới lông để dò tìm những vết xấu thân thể có thể bị che khuất dưới lớp lông đẹp của chim có nghĩa là về vẻ đẹp của bộ lông, của dáng điệu, của tiếng hót, những tiêu chí khách quan, có tính
chất truyền thống, đã được thừa nhận nhưng vì chủ quan không muốn thừa nhận, hoặc muốn đánh sụt giá vẻ đẹp của chim. Đó là một sự cố tìm moi móc không thiện ý nhằm làm giảm giá trị của loài vật này. Với nhận thức đó, người dân gắn việc "bới lông tìm vết" với hành vi cố tìm moi móc khuyết điểm của người khác để hạ thấp uy tín của họ.

Trong vận dụng ngôn ngữ, thành ngữ "bới lông tìm vết" có thể được sử dụng linh hoạt để nhấn mạnh ý nghĩa biểu đạt của nó.

Bới lông mựa nỡ tìm nơi vết
Cũng có khi kinh, cũng có quyền
(Hồng Đức quốc âm thi tập)

Gần nghĩa với thành ngữ "bới lông tìm vết" là thành ngữ "vạch lá tìm sâu".

Dương Trọng Hiếu
__________________
http://Taochu.Uhm.vN
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #155  
Old 08-26-2011, 08:23 PM
ML'Amour's Avatar
ML'Amour ML'Amour is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Aug 2009
Nơi Cư Ngụ: Virgin Island
Bài gởi: 2,448
Default Thank You !

Whooaaahhh....
What a thread...Love itttt...!
Thanks LLT for sharing your knowledges...

Trang này hay và hữu ích quá...
Sis học hỏi toàn bộ nì xong chắc...ngũm củ tỏi quá em cưng...
so much to learn....so little time...

Chúc mọi người một cuối tuần vui vẽ...

__________________



Trả Lời Với Trích Dẫn
  #156  
Old 08-27-2011, 03:18 AM
TT_LưuLyTím_TT's Avatar
TT_LưuLyTím_TT TT_LưuLyTím_TT is offline
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Bài gởi: 7,757
Default

Trích:
Nguyên văn bởi ML'Amour View Post
Whooaaahhh....
What a thread...Love itttt...!
Thanks LLT for sharing your knowledges...

Trang này hay và hữu ích quá...
Sis học hỏi toàn bộ nì xong chắc...ngũm củ tỏi quá em cưng...
so much to learn....so little time...

Chúc mọi người một cuối tuần vui vẽ...

Thanks sis!
Em sưu tầm về chia sẻ với ace và cũng để học mỗi ngày 1 chút hihi
Bể học mênh mông hah sis.
__________________
http://Taochu.Uhm.vN
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #157  
Old 08-30-2011, 05:19 PM
TT_LưuLyTím_TT's Avatar
TT_LưuLyTím_TT TT_LưuLyTím_TT is offline
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Bài gởi: 7,757
Default

Vọng Phu Thạch

Hải Đà - Vương Ngọc Long


painting by Mai Tâm

mời nghe nhạc phẩm: Vọng Phu Thạch
(nhạc Mai Đức Vinh, thơ Vương Ngọc Long)


Thi ca không phải chỉ là tiếng nói, tư duy, cảm xúc của riêng cá nhân người thơ, mà còn phản ảnh tình hình lịch sử, thời đại, tâm lý dân chúng và xã hội. Sống trong một chế độ phong kiến quan liêu, quân chủ bất công của Trung Hoa thời Đường, vai trò của người phụ nữ bị lu mờ, thân phận của họ thảm thê, bị dồn ép vào bóng tối của cuộc đời, phải nhẫn nại chịu đựng đắng cay trăm bề, không còn biết ý nghĩa của hạnh phúc và gia đình. Người phụ nữ thời đó phải chấp nhận số phận hẩm hiu cho đến hết cuộc đời. Những tôn chỉ cho người phụ nữ phải triệt để thi hành là "tứ đức", "tam tòng", chỉ là cái cớ bất công để bó buộc người phụ nữ phải làm công bộc cho chồng và cả gia đình chồng. Họ đã được biến thành những công cụ "mua vui" , qua những hủ tục "năm thê bảy thiếp" . Đó là những bất hạnh của người phụ nữ đẹp phải chịu đựng, an phận qua cái hủ kiến vô lý "tạo vật đố hồng nhan" (trời ganh ghét má hồng). Những quan niệm hủ lậu "trọng nam khinh nữ", "Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử ", "văn dĩ tải đạo", "phụ nhân nan hóa" luôn luôn canh cánh và đè nặng tư tưởng và cách sống trong xã hội Trung Hoa. Nên những bài thơ đề cào vai trò phụ nữ trong xã hội Trung Quốc, hoặc tôn vinh cái vẻ đẹp và hạnh phúc của tình yêu trai gái nam nữ, thật là hiếm hoi trong khu rừng Đường Thi trùng trùng điệp điệp …, những nhà thơ Đường e rằng bị xã hội kết án là không mang tinh thần trượng phu, đi ngược lại những quan niệm đạo đức phong kiến và lễ giáo đã là gốc rễ in sâu trong tiềm thức họ ngàn đời. Tuy vậy cũng có những nhà thơ đã cách tân xã hội, đã mạnh dạn lên án tố cáo những bất công vô lý của giai cấp thống trị phong kiến như Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị đi đầu, rồi đến các nhà thơ Lý Bạch, Lý Thân, Mạnh Giao, Đỗ Tuân Hạc, Vương Kiến v.v… đã đem lại vài luồng gió tươi mát đầy sinh khí để gây sự khởi sắc cho thơ ca tụng tình yêu và phụ nữ, như Lý Bạch và Bạch Cư Dị với Thái Liên Khúc, Tử Dạ Thu Ca, Trường Tương Tư, Trì Thượng , Trường Can Hành ...Và đặc biệt là cũng xuất hiện những bài thơ ca tụng những đức tính, phẩm cách, đạo đức, sự thủy chung, đoan chính của người phụ nữ như Du Tử Ngâm, Chức Phụ Từ, Liệt Nữ Tháo (Mạnh Giao), Tiết Phụ Ngâm (Trương Tịch) v.v.. Vọng Phu Thạch của Vương Kiến cũng là một bài thơ đã tạo nên những biểu tượng sâu sắc, nêu cao giá trị tinh thần cao quí của người phụ nữ thời xưa .

Vương Kiến là thi sĩ đời Đường, sống một cuộc đời nghèo khó. Thi ca của ông thể hiện tính chất tiêu cực bộc lộ tình cảm cá nhân chua xót, vất vả không được may mắn trên đường đời, công danh, sự nghiệp. Ngoài những bài thơ phản ảnh sự thống khổ của tầng lớp dân chúng vì sưu cao thuế nặng, vì sự bóc lột áp bức của tầng lớp thống trị quan liêu, phong kiến, ông đã quan tâm đến nguyện vọng tha thiết yêu chuộng hòa bình của mọi người dân trong xã hội, khi mà chiến tranh đã cướp đi những người thân yêu quyến thuộc trong gia đình như chồng, con, anh em … Ông đã từng đến làm việc tại nhiều vùng biên cương xa xôi hiểm trở, và đã thông cảm với những nỗi niềm lo lắng, những cảm xúc riêng tư của các binh sĩ, phải xa gia đình vợ con . Nhiều bài thơ của ông đã miêu tả cảnh chiến trường hãi hùng, cảnh chia ly thê lương não nuột, và đặc biệt ông đã sáng tác những bài thơ đề cao vai trò của phụ nữ, và nói lên những bất công thiệt thòi, những nỗi buồn đau, mất mát, chia ly, tan vỡ của người phụ nữ trong gia đình cũng như ngoài xã hội, điển hình là bài thơ Tân Giá Nương, Vọng Phu Thạch, qua bút pháp giản dị, sáng sủa, không khuôn sáo, nhưng ý tưởng sâu sắc tinh tế, có sức thuyết phục, làm rung động lòng người.

Vọng Phu Thạch tức là Đá Trông Chồng. Chuyện xưa kể rằng ở thành phố Vũ Xương, tỉnh Hồ bắc Trung Quốc, một người vợ có chồng đi xa lâu ngày không về . Hàng ngày nàng vẫn ra bến sông ngong ngóng đợi chồng về . Người vợ kiên trinh vẫn giữ vững lòng chung thủy, vẫn chờ đợi, chờ hoài nhưng người chồng vẫn không bao giờ trở về, và nàng đã hóa thành đá, vẫn muôn đời chờ đợi chồng mặc cho gió mưa vần vũ trên đầu. Hòn đá đó được đặt tên là Vọng Phu Thạch, vẫn đứng sừng sững bên bờ sông Trường Giang, gần thành phố Vũ Xương. Bài thơ man mác trữ tình diễn tả tình cảnh chua xót đau lòng của người vợ đứng đợi chồng bên dòng sông mênh mang sóng nước bập bềnh trôi vô tận, giữ đất trời mênh mông tĩnh mịch, nhưng đôi mắt đăm chiêu của người vợ vẫn hướng mãi về phía chân trời mà người chồng đã một lần ra đi. Người vợ vẫn chờ đợi mãi, thách đố cả thời gian bao la, và không gian vô tận, nhưng người chỗng vẫn biền biệt ở một khung trời xa xăm nào đó, đến khi người vợ hóa thành đá xanh, đứng mãi ngàn năm, vẫn ngong ngóng đợi :


(bản chữ Hán của Mai Tâm)

Vọng Phu Thạch

Vọng phu xứ
Giang du du
Hóa vi thạch
Bất hồi đầu
Sơn đầu nhật nhật phong hòa vũ
Hành nhân qui lai thạch ưng ngữ
Vương Kiến

Dịch nghĩa:
Ở nơi đứng trông chồng
Nước sông cuồn cuộn chảy
Hóa thành đá
Đầu không ngoảnh lại
Đỉnh núi ngày ngày đội gió mưa
Khi nào người (chồng) đi xa trở về thì đá mới nói .

Đá Chờ Chồng
1-
Nơi ngóng trông chồng, nước chảy mau
Đến khi hóa đá chẳng quay đầu
Mặc cho mưa gió quanh đầu núi
Chắc đợi chồng về mới nói sau
2-
Bên sông ngồi ngóng trông chồng
Trăm năm khắc khoải một lòng sắt son
Hóa thân thành đá mỏi mòn
Gió mưa vần vũ ... đầu không ngoảnh về
Phải chăng nàng giữ lời thề
Đến khi đá nói....lúc nghe chàng về !
Hải Đà phỏng dịch

Lưu Vũ Tích là nhà thơ Đường có tinh thần bất khuất, mang tư tưởng "hành hiệp trọng nghĩa" của hiệp sĩ, có thái độ xem thường, phản kháng những thói xấu xa, nhỏ nhen, đê tiện của bọn quan lại quyền quí. Ông đã công khai chỉ trích mỉa mai bọn đại thần nịnh bợ. Ông đã bị dèm pha, và mấy lần bị giáng chức đổi đi các tỉnh thật xa. Thi ca của ông bộc lộ những tình cảm tha thiết, đầy nhân bản, những gắn bó yêu thương, những phẩm chất tốt đẹp, đức hạnh, kiên trinh, đáng đề cao và quí trọng của người phụ nữ, điển hình là bài Vọng Phu Sơn, nhưng hòn núi trông chồng trong bài thơ của Lưu Vũ Tích nói về một địa danh ở huyện Dương Đồ , tỉnh An Huy .


(bản chữ Hán của Mai Tâm)

Vọng Phu Sơn

Chung nhật vọng phu, phu bất quy
Hóa vi cô thạch, khổ tương ti (tư)
Vọng lai dĩ thị kỷ thiên tải
Chỉ tự đương thời sơ vọng thì
Lưu Vũ Tích

Núi Trông Chồng

Đợi chồng đâu thấy…suốt ngày trông
Hóa đá cô liêu, cảm xót lòng
Vẫn mãi ngàn năm ngong ngóng đợi
Ban đầu thuở ấy vẫn chờ mong
Hải Đà phỏng dịch

Lý Bạch trong bài thơ Trường Can Hành, một khúc ca thời xưa, kể chuyện tình của đôi trai gái cùng sống ở xóm Trường Can, yêu nhau từ bé, cô gái lấy chồng năm mười bốn, phải xa chồng năm mười sáu, đã thổ lộ tâm tình nhung nhớ, có đoạn nhắc đến "Vọng Phu đài ", cũng có ý nói lên sự thương yêu chung thủy của nàng :

"…Thập tứ vi quân phụ
Tu nhan vị thương khai
Đê đầu hướng ám bích
Thiên hoán bất nhất hồi
Thập ngũ thủy triển mi
Nguyện đồng trần dữ hôi
Trường tồn bão trụ tín
Khởi thượng vọng phu đài …“
(trích Trường Can Hành – Lý Bạch)


"…Lấy chồng năm mười bốn
Thơ ngây với thẹn thùng
Cúi gầm bên vách tối
Chẳng đáp lại một câu
Mười lăm em khôn lớn
Nguyện sống chẳng rời nhau
Ôm cột giữ lời nguyền
Vọng phu đài chẳng lên …"
Hải Đà (trích dịch)

Hình ảnh "hòn vọng phu" cũng đã được đem vào thi ca Việt Nam. Ở Lạng Sơn hay ở Bình Định miền Trung giữa cảnh núi non hùng vĩ, nổi bật giữa nền trời xanh, là Hòn Vọng Phu vươn mình lên cao, đó là khối đá hoa cương to lớn bên cạnh một hòn đá nhỏ bé hơn .
Thi sĩ Nguyễn Du của đất Thăng Long ngàn năm lịch sử , trong thi phẩm chữ Hán "Thanh Hiên Thi Tập" , cũng đã có bài thơ vịnh Vọng Phu Thạch, muốn nói về "đá trông chồng" , tức là đá Tô Thị vọng phu, ở tỉnh Lạng Sơn, Bắc Việt

Vọng Phu Thạch (Nguyễn Du)

Thạch da ? Nhân da ? Bỉ hà nhân ?
Độc lập sơn đầu thiên bách xuân
Vạn kiếp diểu vô vân vũ mộng (2)
Nhất trinh lưu đắc cổ kim thân
Lệ ngân bất tuyệt tam thu vũ (3)
Đài triện trường minh nhất đoạn văn (4)
Tứ vọng liên sơn Diếu vô tế (5)
Độc giao nhi nữ thiện di luân (6)
Nguyễn Du
(Thanh Hiên Thi Tập)

Theo chú giải của thi sĩ Quách Tấn (Tố Như Thi) như sau:

Dịch nghĩa đen:
Đá chăng ? Người chăng? Người là ai đó ?
Đứng một mình trên đầu núi hàng trăm nghìn xuân
Muôn kiếp không hề có giấc mộng mây mưa
Một chữ trinh giữ lại được tấm thân xưa và nay
Ngấn lệ không ngới giọt mưa ba thu
Chữ rêu ghi mãi lời văn một đoạn
Nhìn bốn phía núi liền nhau mênh mông không dứt
Riêng để một mình kẻ nhi nữ giữ vững đạo luân thường

1- Vọng Phu Thạch = Đá Vọng Phu , Ở Việt Nam có Đá Vọng Phu tại Lạng Sơn và Bình Định . Bên Trung Hoa có ở tỉnh Vũ Xương. Nguyễn Du chưa vào đến Bình Định . Bài Vọng Phu Thạch không chép vào Bắc Hành Tạp Lục mà chép vào Thanh Hiên Thi Tập . Như vậy chúng ta có thể quyết đoán rằng bài nầy vịnh Vọng Phu Thạch ở tỉnh Lạng Sơn .
2- Vân vũ mộng = mộng mây mưa, mộng ái ân . Vua Tương Vương nước Sở đi chơi ở quán Cao Đường nằm mộng thấy giai nhân đến cùng chung gối . Vua phán hỏi, giai nhân đáp: thiếp là Thần Nữ núi Vu Sơn, sớm làm mây, tối làm mưa chốn Dương Đài .
3- Tam thu vũ = mưa trong ba tháng thu , ngụ ý là Tương Tư
"Nhất nhật bất kiến như tam thu hề" (cổ thi)
"Ba Thu dọn lại một ngày dài ghê" (Kiều)
4-Đài triện : ngấn rêu trông hình chữ triện
5-Diếu = xa xôi, tức chữ Diêu đọc theo thanh sắc
6-Di luân = Di là Thiên đạo, Luân là nhân văn = luân thường đạo nghĩa
(trích Tố Như Thi, bản dịch Quách Tấn)


Núi Trông Chồng
(theo bài Vọng Phu Thạch của Nguyễn Du)

Đá hay người chẳng biết là ai ?
Đỉnh núi ngàn xuân đứng miệt mài
Bỏ mộng mây mưa từ vạn kiếp
Giữ thân trinh tiết đến muôn đời
Ba thu mưa lệ hoài không dứt
Một áng văn rêu mãi tuyệt vời
Núi biếc mênh mông trùng điệp điệp
Luân Thường phận gái gánh trên vai
Hải Đà phỏng dịch

Bài thơ của Nguyễn Du đã diễn tả được cái cảnh chờ chồng của người thiếu phụ, nhưng cũng đồng thời ca tụng cái đức tính trinh tiết một dạ một lòng của người đàn bà xa chồng … Thi sĩ Quách Tấn là một người có tâm hồn cao rộng, tư tưởng thâm thúy và sâu sắc, cũng trong một bài thơ Đá Vọng Phu của Ông đã có câu :
"Lụy nhớ mưa ngàn tuôn nượp nượp
Tóc thề mây núi bạc phơ phơ"
nói lên cái nỗi sầu bi thảm của người thiếu phụ trông chồng mòn mỏi, bấp chấp cả không gian và thời gian của vũ trụ mênh mông nghìn trùng .. Mặc cho gió táp mưa sa, mặc cho nắng quái mưa dầm, khói sương mù mịt, mây phủ trên đỉnh non cao vời vợi .. nhưng tình chung thủy và lòng tiết trinh của người đàn bà vẫn muôn đời bất biến …

Thi sĩ Thái Thuận, biệt hiệu Lữ Đường sống vào đời nhà Lê, đã được nhiều người ca ngợi là thơ Ông không kém gì thơ Đường và thơ Tống. Nhà thơ Quách Tấn là người đã có công bỏ ra nhiều năm dịch và giới thiệu tác phẩm Lữ Đường Thi của thi sĩ Thái Thuận . Trong tập Lữ Đường Thi do thi sĩ Quách Tấn tuyển dịch (NXBVH) có bài thơ Vọng Phu Sơn :

Hóa thạch sơn đầu kỷ tịch huân
Thương tâm vô lộ cánh phùng quân
Thiên nhai mục đoạn niên niên nguyệt
Giang thượng hồn tiêu mộ mộ vân
Thanh lệ nhất ban hoa lộ trích
Ly tình vạn chủng thảo yên phân
Tương Phi* nhược thức tương tư khổ
Bất tích ai huyền ký dữ văn
Vọng Phu Sơn (Thái Thuận)

Dịch nghĩa:
Đầu non đã hóa đá bao nhiêu sáng tối rồi
Đau lòng không có đường gặp lại chàng lần thứ hai
Năm năm mỏi mắt nhìn bóng trăng cuối trời
Chiều chiều hồn tan theo những đám mây trên sông
Móc đọng trong hoa nhỏ từng hàng lệ trong trẻo
Khói vương trên cỏ nảy nở vạn mối tình biệt ly
Nàng Tương Phi nếu biết được nỗi khổ của kẻ tương tư
Chớ tiếc giây đàn não nuột, xin gửi đến cùng nghe

*Ghi chú: Tương Phi = nàng Phi ở sông Tương. Vua Thuấn băng hà, hai bà vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh khóc ở sông Tương . Nước mắt lẫn huyết rơi vào thân trúc hóa thành những chấm đen . Cổ nhân gọi trúc ấy là Ban ban trúc, và gọi hai bà là Tương Phi . (trích "Lữ Đường Thi" - Quách Tấn tuyển dịch)

Hóa đá non cao chất tháng ngày
Gặp chàng biết có nẻo nào đây ?
Chân trời mắt mỏi năm năm nguyệt
Mặt sóng hồn tan lớp lớp mây
Sương đọng lòng hoa rơi giọt thảm
Khói vương sắc cỏ rối niềm tây
Tương Phi ví biết tương tư khổ
Dây gởi sầu dây gởi gắm dây
Núi Vọng Phu (bản dịch Quách Tấn)

Trong tập thơ Tây Hồ của Nhà cách mạng Phan Châu Trinh cũng có bài thơ vịnh Vọng Phu Thạch như sau .

Vọng Phu Thạch (Phan Châu Trinh)

Hạn vận: không chồng trông bông lông
Sự tám mươi đời (1) có biết không ?
Người chăng? hay đá? vợ chăng ? chồng ?
Đi đâu đến nỗi quên tin tức ?
Đứng đó bao giờ luống đợi trông ?
Tu vậy hay sao, đầu trụi lủi ?
Khóc chi lắm hử ? mặt phồng bông
Trời cao bể rộng người còn mất ?
Biết nặng hòn non, nhẹ cái lông ?
Phan Châu Trinh (Bình Định 1905)

Chú thích:
(1) Sự tám mươi đời : việc xãy ra từ xưa, từ lâu lắm rồi, người ta thường nói "việc tám mươi đời vương, bảy mươi đời đế"

Theo tác giả Vũ Tiến Quỳnh thì "Tây Hồ Thi Tập của cụ Phan Châu Trinh gồm những bài thơ quốc âm, tuy chỉ ghi được 70 bài, tập thơ nầy rất đa dạng: có thơ châm biếm, thơ đùa bạn, thơ tán tĩnh phụ nữ, thơ tả cảnh, thơ thuật hoài, ngôn chí, thơ khóc viếng người mất . Bài "Vọng Phu Thạch" nghịch ngợm một cách trang nhã và diễn tả như trên " (VTQ) . Tuy là lời thơ "nghịch ngợm" , nhưng câu cuối của bài thơ "Biết nặng hòn non, nhẹ cái lông ?" là muốn đề cao cái đức hạnh, phẩm cách, tiết tháo, trung kiên của người phụ nữ biết rằng "có cái chết nặng như Thái Sơn, có cái chết nhẹ tựa lông hồng …", chẳng sá gì xác thân, miễn sao giữ toàn vẹn cái chính nghĩa mà mình theo đuổi, và trong trường hợp này là cái đức tính trinh tiết một lòng một dạ của người đàn bà .

Bài thơ Vọng Phu Thạch của cụ Phan Châu Trinh muốn nói đến một sự tích (huyền thoại) ở huyện Phù Cát (tỉnh Bình Định) có hòn đá nhìn xa giống như người mẹ bồng con. Truyền thuyết kể rằng : xưa có hai anh em róc mía, tranh nhau ăn, người anh nổi giận cầm dao chém vào đầu em gái, rồi hoảng sợ, trốn đi; về sau, họ lưu lạc mỗi người một phương nào không biết, mà sau này người anh lấy phải em . Nhân ngồi bắt chấy cho vợ, chồng thấy sẹo trên đâu vợ, hỏi sự truyện nguyên do, nhờ vậy mà người anh mới biết được là mình lấy lầm em gái làm vợ . Người anh hối hận vô cùng, bèn thác cớ đi buôn, theo buồm vào nam rồi đi biền biệt không bao giờ trở về. Người vợ hàng ngày ẵm con ra đứng ở bờ biển trông chồng, mãi không thấy, hóa đá tại đó, nhiều nhà thơ đã đề vịnh đá Vọng Phu Phù Cát.

Núi Vọng Phu là một trong những địa danh nổi tiếng của tỉnh Bình Định, như ca dao đã nói : "Bình Ðịnh có núi Vọng Phu , Có đầm Thị Nại, có cù lao Xanh .."
Nhà giáo Phạm Khắc Trí trong một lần về xứ, một buổi sáng đi ngang qua núi Vọng Phu ở Bình Định, trên đường từ Qui Nhơn vào Nha Trang, khi nhìn thấy hòn đá mẹ bồng con, một hình tượng kiên trinh giữa trời đất mênh mông, bất chấp thời gian vô tận, đã làm ông bồi hồi nhớ lại bài thơ của người xưa Vương Kiến mà động lòng cảm xúc:

Đứng ngóng chồng
Sông mênh mông,
Hóa thành đá,
Vẫn một lòng.
Đầu non mưa gió ngàn năm đợi,
Người về nghe được đá khóc không?
dịch thơ Hòn Vọng Phu (Phạm Khắc Trí)



Câu truyện "Nàng Tô Thị" cũng có một nội dung gần giống ở trên, kể về hai anh em Tô Văn và Tô Thị . Hai anh em nô đùa với nhau, người anh (Tô Văn), ném đá trúng đầu em gái (Tô Thị), bị thương chảy máu nhiệu Người anh sợ quá bỏ trốn đi. Rồi sau nầy, em gái mở quán nem ở Kỳ Lừa, và người anh đem thuốc Bắc từ Cao Bằng về Lạng Sơn bán, và hai người gặp và lấy nhau. Và sau đó cũng vì khám phá vết sẹo trên đầu vợ, mà người anh lấy cớ nhà vua bắt lính thú mà phải lên đường ra đi.
"Rồi kỳ hạn cũng hết, nàng trông đợi chồng đỏ cả mắt mà chàng vẫn không về cho. Nàng ôm con lên chùa Tam Thanh kêu cầu. Hôm ấy, trời nổi cơn giông. Nàng nhớ chồng, thương thân, bế con ra ngoài chùa, trèo lên một mỏm đá cao chót vót, nhìn về hướng chồng đi. Mây đen kéo đầy trời. Gió rít lên từng hồi qua khe đá. Mưa như trút nước. Chớp lòe khắp núi. Nàng vẫn bế con đứng trơ trơ, đăm đăm nhìn về hướng chồng đi. Toàn thân quả núi rung chuyển dưới những luồng sét dọc ngang. Mưa mỗi lúc một to. Tô Thị vẫn bế con đứng trơ trơ trên mỏm đá cao chót vót.
Sáng hôm sau, mưa tạnh, gió yên, mặt trời tỏa ánh sáng xuống núi rừng. Nàng Tô Thị bế con đã hóa đá tự bao giờ. Ngày nay, còn truyền lại câu ca:
"Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh..." ( Vũ Ngọc Phan kể)

Hồ Dzếnh, một thi sĩ nổi tiếng của nền thi ca tiền chiến mà nhà văn Mai Thảo đã ghi lại cảm nghĩ : "thơ Hồ Dzếnh tiền chiến là cái trạng thái ngu ngơ trong suốt nhất của một tiếng thơ mà chủ đề là tình yêu và ánh sáng …".
"Núi Vọng Phu" là một trong những bài thơ hay của ông dạt dào ý tình "Quê Ngoại" đã lưu lại dấu ấn hằn lên những nỗi "nhớ rêu phong hồn cẩm thạch" , và Ông đã để cảm xúc dâng trào ngọn bút khi được chiêm nghiệm hòn vọng phu, mang hình ảnh "đỉnh núi mọc hình người" mà ông hồi nhỏ thường thắc mắc hỏi mẹ :

Núi Vọng Phu

Nghe nói ngày xưa biển ở đây
Biển đi để lại núi non này
Mưa nguồn chớp bể chia hai ngả
Hòn vọng phu thương vọng hải đài
Thuở nhỏ tôi thường hay hỏi mẹ
Vì sao đỉnh núi mọc hình ngườỉ
Đợi chồng lâu quá nên thành đá
Hòn vọng phu kia đứng với đời
Tôi lớn dần lên đá vẫn chờ
Khi xa heo hút giữa sương mờ
Khi gần sừng sững chiều biên giới
Như bức phù diêu nét chửa khô
Không chỉ quê tôi núi đợi chồng
Còn nhiều nơi khác cảnh chờ mong
Bắc Nam đâu cũng niềm son sắt
Tạc giữa trời cao dáng thủy chung
Ôi nhớ rêu phong hồn cẩm thạch
Mối tình vời vợi giữa không gian
Bốn nghìn năm ấy bao sương gió
Mà vẫn đinh ninh thiếp đợi chàng
Hồ Dzếnh

Vườn thơ tình của Du Tử Lê luôn xanh tươi mơn mởn, mỗi bài thơ tình của ông là một đóa hoa diễm tuyệt, hé nở một cách tự nhiên . Lời thơ là những cảm xúc dạt dào, nhỏ nhẹ, thiết tha, và êm ái . Hình ảnh "vọng phu" cùng đã một lần được người thơ làm sống động một cách duyên dáng, ẩn chứa một chút hoài niệm làm nao lòng :

em về trong bão giông tôi
que diêm Đông Hải, dáng ngồi vọng phu
lệ còn trên gối, tôi thu
bàn tay ngón út giam tù tháng năm
Em Về Thăm Thẳm Núi Non (Du Tử Lê)

Hình ảnh người thiếu phụ đã hóa thành đá , nhưng hình tượng đó không phải là vật vô tri vô giác, mà lại được người thơ linh động hóa "giọt lệ còn rưng rưng ... " , một chút gì huyền hồ hư ảo, nhưng đã gợi lên cảm xúc dào dạt, nồng nàn ..

Ta thành hoa vọng phu
Để tang chàng hiệp sĩ
Thắm đỏ mà cho ai
Thôi đành thôi, tái nhợt...

Người gọi ta hoa đá
Lòng ta đâu lạnh lùng
Hãy ngắm nhìn cho kỹ
Giọt lệ còn rưng rưng ...
Sự Tích Hoa Đá (Lâm Thị Mỹ Dạ)

Thi sĩ Hoàng Mạnh Giao trong thi phẩm "Quê Hương Xứ Người và Đời Tôi", đã gắn liền hình ảnh người phụ nữ với tấm lòng hy sinh cao cả, đức tính quảng đại bao la, trung hậu đảm đang, luôn nhẫn nhục chịu đựng, trước những đổi thay của thời cuộc . Phải chăng người thơ đã muốn đề cao đức hạnh những người phụ nữ Việt Nam trong cuộc chiến đã vượt qua bao gian truân thử thách, chống chọi nhiều nghịch cảnh đau thương, để vẹn toàn hai chữ "thủy chung" ...

Ôm con khóc hận mấy thu đông
Mong đợi tin chồng mãi ngóng trông
Chống gió đêm ngày trăm hận tủi
Ngàn mưa năm tháng, chẳng phai lòng
Tấm trinh, quyết giữ tròn ân nghĩa
Thể xác đành cam phận má hồng
Mong đợi tin chồng thân hóa đá
Muôn đời tiết nghĩa rạng non sông
Vịnh Đá Vọng Phu (Hoàng Mạnh Giao)

Cái hình ảnh đẹp đó với phẩm cách cao thượng cũng đã được đem vào những áng thơ diễm lệ suy tôn người tình muôn đời yêu dấu, một cảm nhận hiền hòa trìu mến như mãi gắn bó, bền chặt trong tâm hồn người thơ :

Đêm qua mơ thấy bóng em
Canh khuya một bóng chong đèn đọc thơ
Không gian trầm lắng như tờ
Tóc mây sợi nhỏ buông hờ lẻ loi
Đêm khuya tiếng vạc xa vời
Ôm con lệ đổ khóc đời vọng phu
Mịt mờ khuya sớm đèn lu
Giật mình thức dậy mấy thu qua rồi
Mơ (Bảo Cường) - 1979

Biểu tượng "vọng phu", thấm đượm màu sắc nhân gian, đã được người thơ gửi gắm một chút lòng mộc mạc, thiết tha, chân tình đến người vợ thủy chung, mang hình ảnh hy sinh, chịu đựng, nhọc nhằn, lo lắng, chắt chiu .... đã tạo được một chân dung tinh thần vĩnh cửu của văn hóa dân tộc phương Đông :

trong thơ xưa ai gánh gạo đưa chồng
hay vẫn chỉ là em nỉ non tiếng khóc
hay vẫn chỉ là em bốn mùa khổ nhọc
hồn vọng phu đã lội mấy sông đời?
Thơ Tặng Vợ Nhà (Hoàng Lộc)

Hình ảnh "vọng phu thạch" cũng đã được đưa vào vọng cổ , trong một bài nhiều người biết đến là Dạ Cổ Hoài Lang. "Bản vọng cổ, trước hết có tên là Dạ Cổ, do ông Cao Văn Lầu, tục gọi là Sáu Lầu ở Bạc-Liêu sáng chế vào năm 1920 (ba năm sau khi cải lương ra đời) . Sanh năm 1890, ông Sáu Lầu được 30 tuổi khi ông chế bản vọng cổ. Lúc ấy ông cưới vợ được 10 năm, nhưng không có con . Cha mẹ buộc ông phải cưới vợ khác vì sợ tuyệt tự . Ông buồn rầu không còn muốn làm ăn gì nữa. Ban ngày ra ngoài đồng, ông nghiền ngẫm những lời vợ ông nói với ông trước khi chia tay, ông vốn biết đờn cổ nhạc nên trong tâm trạng người chồng đau khổ trước cảnh gia đình tan rã, ông cảm hứng tạo ra bản nhạc 20 câu gọi là "Dạ Cổ Hoài Lang" (Đêm khuya nghe tiếng trống nhớ chồng) có ý để kỷ niệm mối tâm tình của vợ ông đối với ông" (GS Trần Văn Khải sưu tầm)

Bàn về bài vọng cổ nầy, GS Trần Văn Khê có lời bình : "Nhớ người ra đi, nhắc người đừng phụ tình bạc nghĩa. Người ở nhà mòn mỏi trông tin nhạn, luôn luôn mong mỏi từng giây phút trùng phùng. Tâm trạng đó là tâm trạng chung của nhiều thiếu phụ Việt Nam thời bấy giờ. Vì bổn phận, vì nhiệm vụ chồng phải "chấp kiếm lên đường", đi ra biên ải.
.................................................. ..........................
Cái buồn dính liền với bản chất người Việt Nam đa tình, đa cảm, hay quyến luyến, hay bịn rịn, dầu sanh ly hay tử biệt, khó cắt đứt sợi dây vô hình cột chặt người ở lại với người ra đi.
Bài Dạ Cổ Hoài Lang gợi lên được cái buồn bí ẩn trong thâm tâm của con người Việt Nam. Trong cổ nhạc Việt Nam chưa có bài nào, bản nhạc nào được như bài Dạ cổ hoài lang, biến thành "Vọng cổ", từ một sáng tác tập thể, sanh ra từ thế kỷ, lớn lên, sống mạnh, phát triển không ngừng, biến hóa thiên hình vạn trạng, mà sẽ còn sống mãi trong lòng người Việt trong nước và rải rác khắp năm châu. (GS. Trần Văn Khê , Paris – 1998)

Dạ Cổ Hoài Lang
(nhịp đôi)

Từ là từ phu tướng
Bửu kiếm sắc phong lên đàng
Vào ra luống trông tin chàng
Đêm năm canh mơ màng
Em luống trông tin nhàn
Ôi, gan vàng quặn đau
Đường dầu xa ong bướm
Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang
Còn đêm luống trông tin bạn
Ngày mỏi mòn như đá vọng phu
Vọng phu vọng, luống trông tin chàng
Lòng xin chớ phụ phàng
Chàng hỡi chàng có hay
Đêm thiếp nằm luống những sầu tây
Biết bao thuở đó đây xum vầy
Duyên sắt cầm đừng lợt phai
Thiếp cũng nguyện cho chàng
Nguyện cho chàng hai chữ bình an
Mau trở lại gia đàng
Cho én nhạn hiệp đôi
(Trích sách "Nghệ Thuật Sân Khấu" của Trần Văn Khải)

Cố nhạc sĩ Lê Thương đã để lại cho nền âm nhạc Việt Nam ba tuyệt tác đó là Hòn Vọng Phu 1 , Hòn Vọng Phu 2, và Hòn Vọng Phu 3. Trong 3 nhạc phẩm của Ông đều có hình ảnh của người thiếu phụ bồng con ngóng trông chồng ở bến sông. Người chồng là chinh phu ra đi vì lời thề cùng non sông đất nước, chẳng hẹn ngày về . "Người mong chồng còn đứng muôn năm"... đã nói lên cái đức tính thủy chung muôn đời của người phụ nữ Việt Nam, luôn chịu đựng, hy sinh, nhẫn nhục trong thời chiến, đã trải qua bao nhiêu thử thách đắng cay trên đường đời :

Vui ra đi rồi không ước hẹn ngày về,
ai quên ghi vào gan đã bao nguyện thề.
Nhìn chân trời xanh biếc bao la,
người mong chờ vẫn nhớ nơi xa
Bao nhiêu năm bồng con đứng đợi chồng về,
bao nhiêu phen thời gian xóa phai lời thề,
người tung hoành bên núi xa xăm,
người mong chồng còn đứng muôn năm
Vọng Phu 1 (Lê Thương)

"Đá mòn nhưng hồn chưa mòn giấc mơ", mặc cho gió mưa vần vũ, giữa trời mây bao la bát ngát nghìn trùng, nhưng "giấc mơ chờ chồng" vẫn không bao giờ phai nhòa trong trâm trí của người thiếu phụ, vẫn muôn đời đạo nghĩa sắc son, chỉ mong đợi một ngày chàng trở về hiên ngang, oai hùng trong chiến thắng, khải hoàn ca .

Người vọng phu trong lúc gió mưa,
Bế con đã hoài công để đứng chờ,
Người chồng đi đã bao năm chưa thấy về
Đá mòn nhưng hồn chưa mòn giấc mơ
Vọng Phu 2 (Lê Thương)

Cũng với hình ảnh "ai bế con mãi đứng chờ" trong Vọng Phu 3, trơ như đá, vững như đồng, mặc cho sự đố kỵ của thế nhân, sự thử thách của thời gian và vũ trụ, vẫn đăm đăm trông ngóng chồng về . Nhạc sĩ Lê Thương trong Vọng Phu 3, đã tạo dựng hình ảnh người chinh phu đã trở về với khúc ca khải hoàn, nhưng than ôi, có còn chăng chỉ là thương tiếc, nghẹn ngào, tê tái, vấn vương "từ bóng cây ngôi mộ bên đường" … một uẩn khúc muôn đời, làm rơi lệ, xao động lòng người khôn nguôi …

Nơi phiá Nam giữa núi mờ
Ai bế con mãi đứng chờ
Như nuớc non xưa đến giờ?
………………………………………… � �…..
Nhớ cố huơng lưu luyến sao tiếng tấc lòng mau dồn chân
Vết buớc đi trên phím đá mòn còn in dấu
Từ bóng cây ngôi mộ bên đuờng
Từ mái tranh bên đỉnh trong làng
Nguồn sử sanh âm thầm vẫn sống
Bao mối thuơng vang dậy trong lòng
Vọng Phu 3 (Lê Thương)

Qua những ca khúc của nhạc sĩ Lê Thương hình ảnh của Hòn Vọng Phu bỗng trở nên uy nghi lẫm liệt trong lịch sử, văn hóa dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống tôn trọng đạo lý làm người, hình ảnh cảm động đó đứng sừng sững và chế ngự tâm tư , tình cảm của mọi người qua bao biến thiên thăng trầm của thời đại và lịch sử…


KẾT LUẬN : Hòn Vọng Phu là hình ảnh gợi cảm của người mẹ bồng con bên bến sông, giữa cảnh tĩnh mịch mênh mang của đất trời vô tận, mắt đau đáu nhìn về một phương trời xa thẳm, ngóng đợi chờ mong người chồng ra đi đã lâu mà chưa về lại. Những hình ảnh xúc cảm đó đã thấy ở Trung Hoa và vài nơiø tại Việt Nam, đã luân lưu và hằng sâu trong trí tưởng nhân gian từ nghìn xưa cho đến ngàn sau. Những câu truyện kể lại mặc dầu chỉ là huyền thoại, nhưng hình ảnh "mẹ bồng con" đó đã biểu tượng cho đức tính thủy chung cao đẹp muôn đời của người phụ nữ Việt Nam, nhất là trong thời chiến, vẫn hy sinh chịu đựng, một đời tận tụy, lo âu khổ cực trăm chiều vì chồng con. Hình ảnh gợi cảm, trìu mến , thấm tận đáy lòng đó, là tặng phẩm tuyệt tác của tạo hóa ban cho con người, là biểu tượng của truyền thống yêu thương của dân tộc, đã là đề tài cho nhiều áng thơ tha thiết nồng nàn, dòng nhạc chan chứa trữ tình trong thi ca .

Vọng Phu Thạch

Thơ Phóng Tác: Vương ngọc Long
Nhạc: Mai Đức Vinh

Lênh đênh sóng nước bập bềnh trôi
Lơ lửng mây bay phủ núi đồi
Tiễn biệt người đi sầu chất ngất
Bẽ bàng thiếp với nỗi đơn côi

Ngồi ngóng trông chồng tận bến sông
Dạt dào con nước chảy mênh mông
Chàng đi chinh chiến bao giờ lại
Hóa đá xanh rêu …thiếp đợi chàng

Đã mấy thu rồi đã mấy thu
Sầu giăng mắt lệ kiếp phù du
Thiếp thân hoa lạnh trong hồn đá
Ôm bóng người đi khói tỏa mù

Ngày qua mòn mỏi đợi chờ ai
Xót nỗi cô liêu đá ngậm ngùi
Vẫn mãi ngàn năm ngong ngóng đợi
Ban đầu thuở ấy chẳng mờ phai …

Đầu không quay lại .. nhớ thương người
Dãi gió dầm mưa giữa đất trời
Mong nhớ ! chàng ơi ngày trở lại
Reo vui đá bỗng thốt nên lời

Đã mấy thu rồi đã mấy thu
Sầu giăng mắt lệ kiếp phù du
Thiếp thân hoa lạnh trong hồn đá
Ôm bóng người đi khói tỏa mù ...

Hải Đà

Ghi chú:
Chân thành cám ơn anh Mai Tâm (Canada) đã gửi tặng tấm hình và các bản viết chữ Hán.
và thi sĩ Phạm Khắc Trí đã gửi tặng tấm hình Hòn Vọng Phu-Bình Định và bài thơ dịch của tác giả .



Nguồn: http://www.vuonghaida.com/VAN/VongPhuThach.htm
__________________
http://Taochu.Uhm.vN
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #158  
Old 08-30-2011, 05:33 PM
TT_LưuLyTím_TT's Avatar
TT_LưuLyTím_TT TT_LưuLyTím_TT is offline
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Bài gởi: 7,757
Default

Bộ sưu tập
Tam đa 三多 và ngũ phúc 五福 là hai công thức quy kết ngắn gọn quan niệm bình dân về ước vọng hạnh phúc đời này.

Ngũ phúc (năm điều phước) là: phú (giàu), quý (sang), thọ (sống lâu), khang (mạnh khoẻ), và ninh (an toàn).

Tam đa (ba cái nhiều) là tài 財 (tiền), lộc 祿 (ơn vua), và tử tôn 子孫 (con cháu). Một lối sắp xếp khác là tử子(con trai), tài tài 財 (tiền), và thọ 壽 (sống lâu). Tuy nhiên cách gọi phổ biến nhất vẫn là: phúc hoặc phước (những sự tốt lành), lộc (ơn vua, ơn trời đất), và thọ (sống lâu). Chủ Tam đa là Tam tinh: Phúc tinh, Lộc tinh, Thọ tinh.













Tam tinh cao chiếu

Theo tài liệu trong sách Dân gian thần tượng thì Phúc thần 福神 hay Phúc tinh 福星 là Tuế tinh 歲星 (sao Thái tuế chủ về năm) trong 28 tinh tòa, tức Mộc tinh, 12 năm quay hết một vòng quanh mặt trời. Nhân cách hóa sao này là thứ sử ở Đạo Châu là Dương Thành vì xin vua tha thuế cho dân nên được gọi là Phúc thần của địa phương, sau lan ra toàn quốc.





Phúc Tinh (tượng gỗ đời Thanh)





Còn Lộc thần 祿神 là do Lộc tinh 祿星– căn cứ vào bộ Sử kí do Tư Mã Thiên
司馬遷



soạn cách đây 2000 năm là "Thiên quan thư - 天官書" thì Lộc tinh là vì sao thứ 6 trong tinh toà Văn xương quan - 文昌官, chưởng quản về công danh lợi lộc. Nhân cách hoá là Trương Viễn Tiêu là người sống đời Ngũ đại ở Mi sơn tỉnh Tứ Xuyên, tu tiên đắc đạo ở núi Thanh Thành, trừ được tai hoạ cho dân. Đến đời Tần thì kiến tạo "Thọ Tinh từ" ở thành đô để thờ phụng. Có thuyết khác lại cho rằng thần tượng "Trương tiên tống tử 張仙送子"là Hậu Thục Hoàng đế tên là Mạnh Sưởng bên cạnh tượng thờ có một em bé để ban con cho người cầu xin.

Thọ tinh 壽星, đời cổ có hai nghĩa: một chỉ tinh tú trên trời thuộc Nhị thập bát tú 二十八宿, tức sao Giác 角 và Cang 亢ở phương Đông; một chỉ sao Nam cực lão nhân 南極老人 ở Tây cung. Nghĩa thứ nhất chỉ dùng trong thiên văn học, chẳng qua vì đó là sao đứng đầu các sao nên có tên là Thọ. Còn đến đời Tần và sau đó dựng nên các miếu thờ Thọ tinh thì đây là Nam cực lão nhân. Hình tượng Thọ tinh được thờ gần đây đều có dáng một ông tóc trắng, chống cây trượng cong queo với trán cao đầu dài.





Thọ tinh - Nam cực lão nhân


Trong khoa tử vi tướng mệnh có thuât ngữ “Thọ tinh bổn mệnh” là ý chỉ bổn mệnh một người thuộc năm tháng ngày theo can chi 60 Giáp Tí. Người ta sùng bái tế lễ Thọ tinh trong ngày bổn mệnh ấy để cầu bình an. Người ta cho rằng Thọ tinh xuất hiện thì thiên hạ thái bình, nếu không thì có đao binh nên từ đời Chu, đời Tần nhà nước đều chủ trì điển lễ trọng đại tế tự, mãi tới đời Minh mới không có quy định đó. Thọ tinh nhân cách hoá là một ông già tức Nam cực tiên ông, mắt mi từ thiện, đầu hói và nhọn, râu dài, cầm gậy và trái đào.


Nếu giàu có là giấc mơ của mọi người, nhất là nông dân, thì quan lộc công danh là giấc mơ của toàn thể lớp người học trò sĩ tử, và sống lâu là hi vọng của toàn thể loài người. Nói chung ước mơ của dân gian là từ ngàn xưa, sự nhân cách hoá và gán ghép cho các nhân vật lịch sử là về sau, với chủ ý kiểm soát của triều đình phong kiến hoặc tô vẽ của giới văn nhân nho sĩ áp đặt lên dục vọng hồn nhiên của nhân dân.

Phúc Lộc Thọ là những nguyện vọng của người dân xuyên qua suốt lịch sử nên có giá trị của những biểu tượng hoặc nói theo tâm lí chiều sâu của Carl Gustav Jung thì đó là những sơ tượng, những nguyên mẫu (archetypes) của con người đại đồng ở muôn thuở muôn nơi. Qua quan niệm hoàng đế hay quân vương là người cai quản chư thần và có thể dùng bằng sắc để phong thần trong toàn quốc. Các quan niệm này do đó bị lịch sử hóa và nhân cách hóa thành những nhà tu đạo giáo đắc đạo thành tiên hoặc những văn quan, võ tướng chịu sự sai phái của thiên tử. Cung điện trên trời của Ngọc hoàng Thượng đế và thập điện Diêm vương dưới địa phủ đều chỉ là phóng chiếu theo mô thức của triều đình phong kiến mà thôi. Qua trên 2500 năm của lịch sử thành văn, những biểu tượng và nguyên mẫu ấy mang một lớp sơn phết của phong kiến nhưng cốt lõi vẫn là những khát vọng có thực và tha thiết của con người.

Tính tượng trưng của các biểu tượng còn có thể thấy trong cách hài âm: Phúc là điều lành, hài âm với phúc là bụng (to), với bức là con dơi. Chữ phúc còn được dán ngược tại cửa nhà để quan trên trời trông xuống thuận chiều mà ban bố.

Lộc là ân thánh của trời đất, triều đình hài thanh với lộc là hươu nai, hoặc lộc là chồi non nên giao thừa và ngày tết dân chúng có tục lệ đi hái lộc tức cành cây non và đến đình chùa miếu xin ban ơn.
Thọ là sống lâu nên hình ảnh vị tiên ông râu dài cầm trái đào, đầu hói và cây gậy.











Vạn thọ ngũ phúc


Như thế chúng ta thấy rằng Tam đa hay Tam tinh chỉ là sự rút gọn của Ngũ phúc. Hai thành tố bị giản lược là khang và ninh tức là sức khoẻ và an toàn có thể nhập vào với thành tố thọ vì phải có sức khỏe thì mới sống lâu được, và có lộc thì sẽ có yên lành.

Quan niệm phúc (tốt lành) gần như lại mở rộng đến mức độc chiếm, đi tiên phong trước cả lộc và thọ, vì tốt lành là phải có cả sang cả sống lâu.



Quan niệm lộc chuyển hóa từ ơn mưa móc của trời đất tự nhiên, của thần thánh, sang triều đình quân chủ, rồi trở thành lương bổng triều đình, địa vị xã hội, giai cấp kinh tế.
Quan niệm thọ có tính cách cá nhân cũng dần dà thay thế cho quan niệm về tử tôn tức là có con trai và cháu trai đích tôn nối dõi khi chế độ gia trưởng và đạo hiếu giảm bớt tính cách độc tôn chuyên trị. Sống lâu là hưởng thụ tuổi trời trong đời mình. Có con trai và cháu đích tôn nối dõi là kéo dài thọ mạng của họ hàng, dòng giống.



Nguồn: blog Vương Nguyên

__________________
__________________
http://Taochu.Uhm.vN
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #159  
Old 08-30-2011, 05:40 PM
TT_LưuLyTím_TT's Avatar
TT_LưuLyTím_TT TT_LưuLyTím_TT is offline
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Bài gởi: 7,757
Default

Hương Sắc Quỳnh Hoa



Theo truyền thuyết, ngày xưa vào thời nhà Tùy (Dương Quảng 605 - 617) ở Dương Châu, Trung Quốc, có Tùy Dạng Đế là ông vua hôn quân vô đạo, chơi bời trác táng, xa hoa, phung phí, một đêm nằm mơ thấy một cây trổ hoa đẹp... Cùng thời điểm ấy, tại Lạc Dương thành có ngôi chùa cổ kính là Dương Ly, vào giữa canh ba, ngoài cửa chùa thình lình ánh sáng rực lên như lửa cháy, hương thơm sực nức lạ lùng, như sao trên trời sa xuống, làm dân chúng bàng hoàng đổ xô đến xem đông như kiến cỏ. Gần giếng nước trong sân chùa mọc lên cây bông lạ, trên ngọn trổ một đóa ngũ sắc với 18 cánh lớn ở phía trên, 24 cánh nhỏ ở phía dưới, mùi thơm ngào ngạt bay tỏa khắp nơi nơi, lan xa ngàn dặm. Dân chúng đặt tên là hoa Quỳnh.


Điềm báo mộng của vua Tùy Dạng Đế được ứng với tin đồn đãi, nên Vua yết bảng bố cáo: "Ai vẽ được loại hoa Quỳnh đem dâng lên, Vua trọng thưởng". Không đầy tháng saụ.. có một họa sĩ dâng lên Vua bức họa như ý. Nhìn đóa hoa trong tranh cực kỳ xinh đẹp, tất nhiên hoa thật còn đẹp đến dường nào! Nghĩ vậy, Vua liền quyết định tuần du Dương Châu để thưởng ngoạn hoa Quỳnh.


Trong chuyến tuần du cần có đủ mặt bá quan văn võ triều thần hộ giá, nên để tiện việc di chuyển, Tùy Dạng Đế ban lệnh khai kênh Vạn Hà từ Trường An đến Dương Châụ Hàng chục triệu ngày công lao động phải bỏ ra, hàng vạn con người phải vất vả bỏ mình. Kênh rộng cả chục trượng, sâu đủ cho thuyền rồng di chuyển. Hai bên bờ kênh được trồng toàn lệ liễu đều đặn cách nhau 10 mét một cây (cụm từ "dặm liễu" xuất phát từ đó, điển hình câu thơ: Dặm liễu sương sa khách bước dồn của Bà Huyện Thanh Quan). Kênh đào xong, một buổi lễ khánh thành được cử hành trọng thể, đoàn thuyền giương buồm gấm khởi hành... cả nghìn cung nữ xiêm y rực rỡ, mặt hoa da phấn... thuyền rồng được buộc bằng các dải lụa dùng để kéo đị Vua Tùy Dạng Đế ngồi trên mui rồng uống rượu nghe đàn hát ca sang ngắm cảnh Giang Nam và đàn cung nữ tuyệt thế giai nhân. Vua thấy nàng nào thích ý cho vời vào hầu ngaỵ Chuyến tuần du của bạo chúa Tùy Dạng Đế vô cùng xa xỉ, hao tốn công quỹ triều đình. Đây là một trong những nguyên nhân đẩy đất nước đến đói nghèo, loạn lạc khắp nơi, đưa nhà Tùy đến sụp đổ, dựng nên cơ nghiệp nhà Đường. Trong những quan quân hộ giá, có cha con Lý Uyên. Qua thời gian hơn 90 ngày, đoàn du hành đến đất Dương Châụ Thuyền vừa cặp bến, con của Lý Uyên phương danh là Lý Thế Dân cùng bằng hữu rủ nhau lén lút đi xem hoa ngay trong đêm, sợ sáng hôm sau triều thần cùng đi đông vầy lớp trẻ khó chen chân lọt vào vườn hoạ Lý Thế Dân là người có chân mạng đế vương (về sau là Vua Đường Thái Tông 627 - 649) nên giống hoa nhún mình lên xuống 3 lần để nghinh đón. Cánh hoa cong trắng nõn, nhụy hoa điểm xuyết màu vàng, hương hoa ngọt ngàọ Dưới ánh trăng vằng vặc hoa đẹp tuyệt vời! Xem xong, một cơn mưa to rụng hết.


Sáng hôm sau, Tùy Dạng Đế xa giá đến xem hoa, chỉ còn thấy trơ vơ cánh hoa úa rũ, tan tác!... Vua tức giận, tiếc công nghìn dặm không được xem hoa, ra lệnh nhổ bỏ, vứt đi! Từ đó hoa Quỳnh chỉ nở về đêm cho những ai có lòng lân ái: "Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên".


Qua cuộc tuần du, nhiều cuộc bạo loạn nổi lên khắp nơị Tùy Dạng Đế bị cận thần sát hại dẫn đến nhà Tùy mất ngôi, Lý Thế Dân đứng lên lập nên nhà Đường.
__________________
http://Taochu.Uhm.vN
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #160  
Old 08-30-2011, 05:49 PM
TT_LưuLyTím_TT's Avatar
TT_LưuLyTím_TT TT_LưuLyTím_TT is offline
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Bài gởi: 7,757
Default

Chiêu Quân Cống Hồ

Hán Hồ vẫn muốn vẹn trăm đường,
Há trẫm riêng tây có phụ nường.
Bắc quốc tuy rằng ngoài dị vực,
Vương đình song cũng một biên cương.
Ở đây hạnh thắm nên mai nhạt,
Về đấy sen tàn lỗi cỏ hương.
Hơn thiệt thôi đừng ai oán nữa,
Chờ ngày áo gấm lại hoàn hương.

Sự tích: Vương Tường là tên tự, tức Chiêu Quân, cung phi đời Hán Nguyên Đế. Ngày xưa, khi một người con gái được tuyển vào cung làm cung nữ, có người thợ vẽ vẽ hình cung nữ để dâng lên vua xem vì cung nữ đông lắm, vua không sao gặp hết. Đời Hán Nguyên Đế, người thợ vẽ tên là Mao Diên Thọ ăn hối lộ. Cung nữ nào đút tiền lo lót cho ông ta, ông mới vẽ cho đẹp để được vua vời tới. Vương Tường nghĩ mình đẹp, không cần hối lộ cho thợ vẽ. Mao Diên Thọ trả thù bèn chấm vào dưới mắt Vương Tường một nút ruồi; tướng số thường gọi là "Thương phu trích lệ" (Thương có nghĩa là chết yểu). Người nào có tướng như thế nầy đàn ông không nên liên quan tới vì có thể bị chết non. Khi chúa Thuyền Vu xứ Hung Nô, phía Bắc Trung Hoa, cầu hoà và đòi vua nhà Hán gả cho ông ta một người con gái đẹp Trung Quốc, vua bèn chọn Vương Tường. Có phải vua Hán cũng muốn cho chúa Thuyền Vu lấy nhằm một người có số "Thương phu trích lệ" mà chết cho sớm để nước Tàu được yên. Trước khi lên đường lên phía Bắc, Vương Tường diện kiến vua Hán. Vua Hán thấy Vương Tường đẹp quá mà lại không có nốt ruồi "Thương phu trích lệ" như trong hình vẽ, bèn ngần ngại không muốn gả cho chúa Hung Nô. Triều thần khuyên can, vua Hán mới cho đi. Trước khi Vương Tường bái biệt, nhà vua làm bài thơ nầy để dụ Vương Tường. Tuy nhiên, khi tới biên giới Trung Hoa và Hung Nô, Chiêu Quân đánh một khúc đàn tỳ bà rồi nhảy xuống sông tự vẫn. Chiêu quân có tài đàn tỳ bà rất hay, ngày sau còn nhiều người nhắc tới. Truyện Kiều có câu: "Quá quan này khúc Chiêu quân, Nửa phần luyến chúa, nửa phần tư gia" là lấy tích "Chiêu Quân cống Hồ".

Tám câu thơ trên là tóm tắt ý của nhà vua nói với Vương Tường: Hai nước Hán, Hồ (Hung Nô) muốn vẹn trăm đường (hoà hoàn, không có chiến tranh), chớ nhà vua không có ý phụ lòng Vương Tường.

Đất phía Bắc tuy thuộc Hồ nhưng cũng là thuộc biên cương nhà Hán.

Ở đây có nhiều người đẹp (hạnh thắm) nên sắc đẹp của Vương Tường không nổi bật lên. Về Hồ, con gái xứ ấy không được như ở Hán (Sen tàn) thì Vương Tường lạ lùng và hơn người (lỗi cỏ hương - lỗi có nghĩa là lỗi lạc). Cỏ hương tiếng Hán là phương thảo, nghĩa bóng là cái đức tốt của người quân tử. Bài Tựa Truyện Kiều của Chu Mạnh Trinh có câu: "Ta cũng nòi tình, thương người đồng điệu, mượn chùm phương thảo, hú vía thuyền quyên".

Hai câu kết nhà vua khuyên Vương Tường thôi đừng ai oán than trách nhà vua, số phận nữa, chờ ngày kia sau khi qua làm hoàng hậu xứ Hung Nô rồi, sẽ mặc áo gấm trở về (Về trong vinh quang).

Các nhà phê bình thường khen hai câu luận ý tưởng sâu sắc và ví von rất hay:

Ở đây hạnh thắm nên mai nhạt
Về đấy sen tàn lổi cỏ hương
(Hai câu này ý nói: ở cung nhà Hán nhiều người đẹp, nên Vương Tường không được vua yêu, nhưng nếu sang bên Hồ, vì không có gái đẹp thì nàng sẽ được chiều chuộng - Việt Nam thi văn hợp tuyển, Dương Quảng Hàm)

Theo Dương Quảng Hàm, sở dĩ có sự xuất hiện của bài thơ nầy là vì bấy giờ có việc Huyền Trân Công Chúa bị đem gả cho vua Chiêm là Chế Mân. Vua Hán gả Vương Tường cho chúa Thuyền Vu để có hoà bình với rợ Hung Nô ở phía Bắc Trung Hoa. Vua Trần Anh Tông gả Huyền Trân Công Chúa để mở rộng thêm đất đai ở phía Nam (thu nhận thêm hai châu Ô và Rí). Nhiều khi bọn đàn ông bất lực, không đem vũ khí mà dẹp yên trăm họ hay mở mang bờ cõi mà phải mượn tới tay người đàn bà, nhưng trong đời sống thực tế thì lại "Trọng nam khinh nữ", "nhất nam viết hữu thập nữ viết vô". Đem Vương Tường gả cho chúa Thuyền Vu để cầu hoà, không biết vua nhà Hán có thấy xấu hổ vì sự bất lực của bọn đàn ông hay không?!

Đời nhà Trần, cách đây 7, 8 trăm năm mà viết được như thế thì văn Nôm thời ấy đã đạt tới mức độ cao lắm.
__________________
http://Taochu.Uhm.vN
Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời


Ðiều Chỉnh
Xếp Bài

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
Bạn không được quyền gởi bài
Bạn không được quyền gởi trả lời
Bạn không được quyền gởi kèm file
Bạn không được quyền sửa bài

vB code đang Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển đến


Múi giờ GMT. Hiện tại là 07:27 AM.


Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2025, Jelsoft Enterprises Ltd.