Go Back   Vina Forums > Thư Viện Online > Kho Tàng Truyện > Truyện Tiểu Thuyết - Truyện Dài
Hỏi/Ðáp Thành Viên Lịch Tìm Kiếm Bài Trong Ngày Ðánh Dấu Ðã Ðọc

Trả lời
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
  #11  
Old 05-30-2004, 08:53 PM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

Người đào hát





- Đi ra, không tôi kêu lên bây giờ!

- Em Bảy, em Bảy... Tôi cảm thương em Bảy lắm.

- Tôi kêu, buông ra không?

Bầu Thanh Long như người đang khát một cái gì ghê lắm. Y có sá gì một tiếng kêu. Bỗng nhiên y rít lên một tiếng, hai hàm răng y xuýt xoa. Trong lúc nguy nan, đào Bảy Phi đã cắn nghiến vào tay y. Giờ thì bầu Thanh Long không gọi tiếng "em Bảy" ngọt ngào nữa. Y chửi:

- Mẹ, thứ đào hát bồ đỏ mà làm bộ hoài!

Đào Bảy Phi lặng người vì câu chửi ấy. Song chị đã thắng. Bầu Thanh Long không dám làm tới. Y đứng dậy:

- Được, mày coi chừng cái bản mặt của mày đa!

Bầu Thanh Long bước lịch phịch trở ra. Trong cái khung cửa đình nhợt nhạt ánh trăng, lại nổi lên hình bóng thấp lùn của y. Bảy Phi vén đầu tóc xổ tung. Lòng bàn tay chị ướt đẫm mồ hôi. Chị tựa lưng vào tường, lắng nghe tiếng chân nện rõ trên đòn dài.

Bầu Thanh Long đang đi xuống ghe chài của nó. Chiếc đòn dài bằng ván sao mỏng bật lên tiếng kêu dục dặc.

Con Huệ Linh của Bảy Phi ú ớ cựa mình trên võng. Chị sờ soạng tìm diêm thắp đèn. Chiếc đèn dầu hắt ánh sáng đỏ mờ. Hơi thở của Bảy Phi vẫn còn hổn hển, và lồng ngực chị rung rung. Chị cảm thấy có sự bất an vừa lướt qua, còn lất quất đâu đây.

Sự thể vừa rồi làm chị đến hốt hoảng.

Bất ngờ mà đào Bảy Phi gặp bầu Thanh Long từ sáu tháng nay. Y làm trung úy quốc gia, chỉ huy phó tiểu khu Đông Thới này. Đã thế, y còn muốn làm một ông bầu hát. Đĩ điếm trong thị trấn hầu như y hơi chán. ở các chị đào, y vừa khám phá ra một cái gì mới mẻ. Thế là y bỏ tiềng sang gánh hát Thanh Long, giao cho một con mụ sồn sồn tên gọi là Hai Nà đứng coi. Còn y, thỉnh thoảng y xuống ghe hát một lần thu tiền, và bàn soạn với mụ Hai Nà toàn chuyện buôn lậu, những là "chẽm", "bay", "pha", "chọn mồi dọn đất", "chèn địch" v.v...

Đào Bảy Phi thấy mấy đầu ngón tay chị hơi run. Con bé Linh của chị lại cựa mình thức giấc. Con bé vụt mở mắt. Chị nâng đầu nó dậy, sờ trán và âu yếm:

- Con tôi nóng quá! Con mơ cái gì đó, má cho con uống thuốc nghe!

- Không, con không... uống thuốc đâu. Má ơi, con nằm chiêm bao...

Bảy Phi gượng cười với lấy chén thuốc trên bệ cửa:

- Con đau, ráng uống thuốc cho mạnh, con!

Bé Linh nhấc tay khỏi làn võng ôm chầm lấy mẹ. Nó ngước mắt nhìn lên nóc đình, thỏ thẻ:

- Con nằm chiêm bao, con thấy lớn bằng chị Thơi vậy đó, rồi má cho con làm đào. Con làm thể nữ hay quá!

Con bé Linh vừa nói vừa thở. Bảy Phi nghe con kể về giấc chiêm bao của nó, lòng chị đau nhói. Chưa bao giờ chị nói với con là lớn lên chị sẽ dạy cho nó nghề hát. Chị định lúc nào kiếm được dư tiền, chị sẽ gởi nó về baà cô nuôi cho đi học. Chị không muốn cho con theo nghề của chị. Đời chị, từ dạo chồng chết, trong mười năm đi hát chị đã nếm biết bao khổ nhục. Người ta gọi chị là con Bảy Phi, con đào Bảy Phi ở gánh bầu Luông. Chưa có mấy ai gọi chị một tiếng nghe cho tử tế. Vậy mà con chị nó muốn theo nghề của chị. Đau ốm dường ấy, nó còn nằm mơ được sắm vai thể nữ. "Con ơi! Con có biết đâu lúc con đang chiêm bao, có đứa đã chửi má là một con đào hát đồ bỏ". Bảy Phi lẩm nhẩm trong bụng, và đôi mắt chị chớp lia.

Con bé Huệ Linh nói mấy câu, giờ lại ngủ thiếp đi. Bảy Phi kéo khăn phủ kín ngực con. Chị lo lắng nhìn gương mặt đỏ bừng của con, thở dài. Ngoài đường kép Văn Lâu đi đâu về, hỏi vọng vào:

- Chị Bảy ơi! Có còn thức không?

Bảy Phi lắng im một chút, mới đáp:

- Còn thức, chú Tư đấy hả?

Kép Văn Lâu đứng ghé ngoài cửa sổ, vịn chấn song ngó vào. Vóc người kép Văn Lâu cao lớn, tóc cắt thấp như kiểu tóc của bao kép hát khác. Cái áo xá xẩu Tiều anh mặc nó ngắn ngủn và không cài khuy, để lộ nguyên bộ ngực và sợi dây nịt da to bản thắt nơi bụng. Anh ta vừa vuốt giọt mồ hôi từ cổ rỏ dài xuống ngực vừa nói:

- Chị Bảy lo nghĩ gì coi mày mặt ủ ê quá vậy? Đi ăn cháo đi, bữa nay cháo ngon quá!

Dứt lời anh chép chép miệng. Thoáng bay mùi rượu. Bảy Phi thò tay đấm nhẹ vô vai Tư Lâu:

- Lại nhậu nữa rồi!

Tư Lâu cười:

- Cũng có, một chút đón gió thôi!

Và anh móc túi lấy ra hai đồng bạc:

- Chị Bảy ăn cháo, em có tiền lẻ đây!

Bảy Phi vội xua tay:

- Thôi, tôi không ăn đâu, khuya rồi!

- Con nhỏ bớt chưa?

- Nó cứ nóng liên miên.

Tư Lâu nói:

- Để mai em đi rước ông thầy thuốc bắc ngoài chợ vô bắt mạch cho nó. Thôi, em về ngủ, chị nghe!

Nói xong, kép Văn Lâu đi về nhà dài chợ. Bảy Phi tủi thân mình, chị tủi lây cả đến Tư Văn Lâu. Tư Lâu vốn là người đồng quê quán với chị, chịu phận em, nhận em làm chị nuôi. Năm nay đã hăm bảy rồi, Tư Văn Lâu vẫn chưa lấy được vợ, đêm đêm hát xong mò vào nhà lồng chợ mà ngủ.

*
* *

Mụ Hai Nà nằm sấp trong mui lái ghe. Trời oi bức, mụ mặc độc chiếc áo lót ngắn. Một đứa nào nhỏ quỳ hai gối, đấm lưng mụ thùm thụp. Chị Bảy Phi ngồi lặng thinh đằng sau lái. Vừa rồi mụ Hai Nà gọi chị lên nói câu chuyện. Bảy Phi ngồi đợi từ nãy giờ mà chẳng nghe mụ nói gì. Đứa đào nhỏ đấm lưng cho mụ xong bò ra ngoài. Bấy giờ mụ Hai Nà vặn mình một cái, xương sống kêu rôm rốp. Vẫn nằm nguyên, mụ ngóc đầu nói trỏ ra lái:

- Bảy Phi đó hả? Vô đây, vô trong mui, tôi có chuyện muốn nói.

- Tôi ngồi đây cũng được, thím nói gì thì nói đi!

Mụ Hai ngồi dậy, với trong góc một gói thuốc "Lạc đà" lấy một điếu. Vừa dộng điếu thuốc xuống sạp ghe mụ vừa nói với vẻ mặt sầu sầu:

- Tôi ngỏ mấy lời này với chị, tôi cũng bứt rứt trong bụng lắm. Bởi tôi có bổn phận coi sóc gánh hát cho ông Hai, ông Hai dạy sao tôi mần vậy... Vừa rồi ông Hai xuống thâu tiền, ông Hai có điều không đặng vừa ý. Ông Hai nói trong gánh hát còn nhiều đào kép có đầu óc thoái bộ...

Bảy Phi ngồi im. Chị biết. Lời đe dọa của Hai Long trong cái đêm nọ nay đã bắt đầu đem thực hiện với chị. Song chị vẫn ngồi yên, nghe mụ Hai Nà tiếp lời:

- Ông Hai nói hạnh kiểm của chị không được tốt!

Bảy Phi ngước mặt:

- Nói tôi à? Tôi làm cái gì xấu xa nhơ nhuốc mà bảo là tôi không tốt!

- Khoan đã, nghe tôi nói cái đã, chưa chi mà chị đã nóng rồi...

Và mụ hạ thấp giọng:

- Nè, phải hồi tháng năm, chị có đi theo đám biểu tình ở chợ Cần Thơ không?

Bảy Phi ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đáp:

- Có, có tôi đi. Hồi đó Chánh phủ không cấm, thiên hạ đi như tôi thiếu gì?

- Ông Hai nói cuộc biểu tình đó Ngô tổng thống cấm!

- Cái đó thì tôi đâu có biết được!

- Cô phải biết chớ. Đó... ông Hai trách cứ cái hạnh kiểm của cô xấu là ở chỗ đó đó!

Bảy Phi trề môi cười. Mụ Hai ngừng lại đốt thuốc, phà khói rồi tiếp tục:

- Gánh hát lấy danh ông Hai, ông Hai thường bảo phải là gánh hát quốc gia tiến bộ, đào kép nào có đầu óc cộng sản tức thị ông Hai không chứa. Mình là phận đào hát thì cứ lo hát, còn bày đặt theo đòi tụi du côn đi biểu tình làm chi. Biểu tình có té vàng té bạc gì cho mình đâu?

- Thím khôn còn tôi dại, thây kệ tôi!

Mụ Hai Nà kéo xổm đầu gối lên, mặt hầm hầm:

- Thì tôi đâu có cần, tôi nói cho con nào có phận thì con đó giữ mình.

Dứt lời mụ Hai Nà bỏ một miếng cau tươi vào miệng nhai rau ráu. Hai gò má đầy thịt của mụ giật giật. Bảy Phi vắt tay lên bánh lái ngó lảng ra sông. Mụ Hai Nà nằm xuống cả tiếng:

- Thơi ơi, bớ Thơi!

Đứa đào nhỏ tên Thơi nghe mụ gọi, rón rén bò vào. Nó lại quỳ gối đấm lưng cho mụ thùm thụp. Chị Bảy đứng dậy leo lên mui đi ra mũi. Trong ghe, mụ Hai Nà nói với theo:

- Bảy Phi, tôi nói vậy chị đủ hiểu rồi chớ? Về lo cụ bị quần áo rồi tới đây tính cái số tiền dư thiếu mấy đêm hát của chị nghe không?

Tuy hết sức giận, nhưng đào Bảy Phi cũng cảm thấy lo. Trước mắt chị hiện ra cuộc đời lênh đênh trôi nổi. Chị chụn bước, giọng nói hơi lạc đi:

- Thím Hai, tính đuổi tôi đi thiệt hả thím Hai?

Mụ Hai Nà lậu bậu:

- Không phải đuổi... Tôi không có quyền đuổi, ông Hai biểu sao tôi mần vậy!

Bảy Phi lựng khựng một chốc rồi bước xuống đòn dài. Lên tới bờ, chị gặp Tư Văn Lâu đứng ở đó với một số chị em đào kép. Tư Văn Lâu liền hỏi:

- Chị Bảy cãi lộn gì với con mẹ Hai Nà đó?

Bảy Phi bậm môi:

- Nó nói hồi tháng năm tôi đi biểu tình, là làm cộng sản, rồi đòi đuổi tôi ra khỏi gánh hát!

Đám đào kép nhao nhao:

- ở đây thiếu gì người cũng đi sao không đuổi. Mà con mẽ có quyền đuổi người ta à?

- Thằng chủ gánh ban quyền cho nó!

- Hai Long hả?

- Chớ ai!

Tư Văn Lầu hầm hầm:

- Cái con già đó hễ động tới là nó mở miệng "Ông Hai nói, ông Hai nói", chắc là nó bày ra chớ Hai Long nào.

Chị em đào đồng thanh:

- Tụi mình ráp xuống hỏi con mẽ coi?

Một chị can:

- Thôi mấy bà ơi, thôi đi. Nó muốn thải người nào thì người đó phải chịu, mấy bà làm như mấy bà là chủ gánh hát này vậy!

- Ơ, cái chị này có sợ thì đừng xuống. Còn có ai sợ nữa không?

Trừ chị kia bị mắng đứng im thin thít, còn tất cả nối nhau bước xuống đòn dài. Bảy Phi tựa lưng vào gốc dừa trên bờ nhìn theo. Chị cảm động, nước mắt muốn ứa ra. Đám đào kép kéo xuống rầm rầm trước mũi ghe. Mụ Hai Nà nghe tiếng, không kịp mặc áo, mụ lật đật chun ra. Đứng đằng sau lái, mụ ó ré:

- Làm cái gì om sòm vậy? Trưa mấy người không để ai ngủ nghê gì hết!

Tư Văn Lâu nói:

- Đâu có gì mà om sòm. Tụi tôi chỉ muốn hỏi tại sao có chuyện đuổi chị Bảy Phi?

- Tôi không biết, mấy người cứ lên bót quận mà hỏi ông Hai!

- Tụi tôi không lên. Hễ đuổi chị Bảy Phi thì tất cả đây thôi hát hết. Bà cứ lên tâu với ông Hai như vậy!

Mụ Hai Nà vành một tay chống nạnh quai chảo, một tay bơi bơi:

- Cha chả! Tư Lâu, mày tính cầm đầu làm phản phải không? Giỏi, mày giỏi... Mày liệu hồn, coi chừng ông Hai xuống, ông Hai chần đầu mày làm bốn miếng đa nghe!

Tư Văn Lâu hẩy ngực:

- Nhè thằng Lâu này mà bà hăm. Mà nè, nói thì nhớ lời nghe. Ông Hai Long không có lời ấy, bà nói để gieo thêm cái tiếng ác cho ông Hai phải không?

Mụ Hai bị Tư Văn Lâu bẻ, tức quá chửi răm lên. Tư Văn Lâu không chịu thua mấy tiếng. Sẵn cũi phơi trên mui ghe, mụ Hai Nà chụp một khúc nhằm Tư Văn Lâu phang vù tới. Tư Văn Lâu né khỏi, khúc củi trúng ngay chậu bông kiển trước mũi, rạn vỡ. Mụ Hai Nà vốn rất cưng cái chậu kiểng sứ đó. Thấy thế, mụ giậm cẳng kêu lớn:

- Bớ người ta ơi, bớ ông Hội đồng hương chánh ơi! Tụi nó phá ghe hát của ông Hai Long!

Đám đào kép cười rộ. Tư Văn Lâu kêu mọi người lên bờ, để mặc sức cho con mụ Hai Nà kêu trời kêu đất.

Tư Văn Lâu đi về với Bảy Phi. Dọc đường anh nói:

- Nè chị Bảy, khi không nó đuổi chị mà sao không đuổi những người khác!

Bảy Phi ngập ngừng:

- Biết đâu nó!

Tư Văn Lâu nghĩ cũng hơi lạ. Chính anh, anh cũng không rõ. Mấy hôm nay anh thấy Bảy Phi có gì hơi khác khác. Về tới gian đình, hai người vào ngồi bệt dưới gạch không nói với ai một câu nào. Chợt lúc sau Bảy Phi gọi:

- Chú Tư Lâu ơi!

Tư Văn Lâu ngửng đầu lên thấy mắt Bảy Phi chớp chớp liên hồi và thở rất dữ. Anh lúc lắc vai Bảy Phi:

- Chị Bảy, chị nói gì?

Rồi anh tỏ vẻ giận dỗi:

- Mấy bữa này có chuyện chi mà chị Bảy chớ cớ cho thằng Tư Lâu này biết!

Bảy Phi kéo vạt áo chùi mồ hôi trán. Tư Văn Lâu nóng lòng:

- Chị thiệt kỳ quá!

- Không... Tôi giấu chú làm chi. Tôi coi chú như em. Tôi... cực nhục lắm!

- Sao? Chị nói sao?

Bảy Phi bật tiếng lên nói:

- Thằng Hai Long... đêm qua nó mò vô định tính chuyện...

Không chờ nghe Bảy Phi dứt câu, Tư Văn Lâu đứng ngay dậy:

- Bà mẹ nó, tôi sơ ý quá, phải tôi biết tôi rình chém cho nó một dao!

- Chém nó đặng ở tù!

- Tù thì tù, nhứt định chém. Thứ đó chết có cớ, không ai bỏ tù được mình!

Bảy Phi thở dài, cắn cắn môi ngó mông ra sông. Tư Văn Lâu bước tới bước lui. Bụng anh không yên, chỉ sợ Bảy Phi rồi đây thế nào cũng bị đuổi khỏi gánh hát.

*

**

Chuyện lôi thôi xảy ra trong buổi trưa ở ghe hát lọt tới tai quan Hai Long. Mụ Hai Nà định chuyến này dựa hơi chủ, thế nào kép Văn Lâu cũng bị mụ cho một trận. Nhưng Hai Long thì lại có ý lo. Y sợ đào kép làm reo nghỉ hát, bèn hoãn việc đuổi Đào Phi. Biết tình cảnh Bảy Phi có con đau, y dặn mụ Hai Nà: "- Lương tháng đã bãi bỏ, nó hát đêm nào tính tiền đêm ấy, còn như nó có hỏi mượn tiền trước thì nó hết rồi, nghe chưa?".

Mụ Hai Nà hơi thắc mắc: "- Nhưng bấy lâu nay đào kép đứa nào cũng mượn được?".

Hai Long nói: - Thì có khó gì, tới hỏi mượn cứ nói là hết rồi.

Mụ Hai Nà dạ dạ, nghe theo.

Thực vậy, chị Bảy Phi mấy bữa nay nghỉ hát, vì bệnh con Huệ Linh ngày một nặng thêm. Mà đêm nào nghỉ hát thì không lãnh được tiền. Con bé sốt li bì. Ông thầy thuốc bắc chẩn mạch thảo đơn, nhưng Bảy Phi không có tiền mua thuốc. Mấy ngày đầu, anh chị em đào kép góp cho chị được một số tiền, nhưng không bao lâu cũng hết. Anh chị em ai cũng nghèo, đâu có mà giúp mãi. Túng thế quá, Bảy Phi phải đến hỏi mượn mụ Hai Nà. Gặp mụ ở đầu đòi dài, chị mới mở miệng hỏi mượn, mụ đã nói:

- Thôi, hết rồi, không còn đồng nào đâu! Trong sổ nợ chị còn thiếu ba chục...

- Thím Hai, con nhỏ tôi đau quá. Lâu nay tôi mượn tôi trả đều đủ...

- Không phải tôi sợ chị giựt, nhưng... tôi không còn, tôi không có quyền. Chị hỏi ông Hai Long ấy!

Bảy Phi bóp bụng năn nỉ: "Thím Hai... Thím Hai..." nhưng mụ Hai Nà trỏ tay chỉ lên bờ:

- Ông Hai đương ở trên quán cà phê kia, lên đó mà hỏi ổng!

Dứt lời mụ Hai ngoe ngoảy bỏ đi. Bảy Phi đứng lần chần, nửa muốn tới quán cà phê, nửa muốn bỏ về. Tới quán gặp Hai Long ư? Chị thấy cực nhục quá. Sau cái đêm hôm nọ, chị đã không muốn ngó mặt y rồi. Nhưng nghĩ đến lúc quay về gian đình, nhìn cảnh con đau nằm liệt trên võng, lòng chị xót đau. Trước mắt và bên tai chị, con Huệ Linh nằm im ỉm, hơi thở khò khè bởi khí nhiệt bốc lên mũi. Lòng thương con khiến chị thắng nỗi sợ nhục nhằn. Chị đi lên quán.

Quả là có bầu Thanh Long ở trong quán thật. Y đang ngồi một mình một bàn, ăn uống. Thấy chị vào, y giả tảng không biết, cứ điềm nhiêm cầm thìa khuấy sữa. Người chủ quán hỏi Bảy Phi:

- Ăn gì? Cà phê hay hủ tiếu?

Chị lắc đầu và bước đến trước bàn bầu Hai Long. Y vẫn uống sữa sì sụp, hình như cốt để Bảy Phi phải lên tiếng trước.

- Thưa ông Hai...

Bầu Thanh Long buông thìa, ngửng đầu lên:

- A... Cô Bảy Phi, chuyện gì đó?

Bảy Phi nói:

- Thưa ông Hai... con nhỏ tôi đau...

- Con của chị đau? ạ... té ra vậy...

Bảy Phi muốn điên người vì cái tiếng "ạ... ạ" của y. Cố nén, chị tiếp:

- Tôi muốn... hỏi mượn của gánh hát một số tiền chạy thuốc cho con. Hồi sáng... tôi có hỏi thím Hai, nhưng...

- Nhưng sao?

- Thím Hai nói hỏi ông!

Bầu Thanh Long lặng lẽ bưng ly sữa uống. Gần cạn ly, còn độ hai lóng tay, y tắc lưỡi một cái. Con chó tây nãy giờ nằm phục dưới chân y, nghếch mõn lên, Bầu Thanh Long nhễu từng giọt sữa xuống. Con chó mỗi lần hứng một giọt thì khoan khoái thè lưỡi liếm một vòng. Bầu Thanh Long làm xong cái việc ấy, vẫn để mặc Bảy Phi đứng đó, y nói với con chó:

- Mêđo, mày giỏi lắm, mày uống sữa cho quen, vài bữa nữa tao cho mày tập nếm rượu, nghe chưa... mậy, Mêđo!

Hồi sau, y làm tuồn như mới nhớ ra có Bảy Phi ở trước mặt:

- Té ra cô tới hỏi mượn tiền. Rủi quá, kỳ này tiền quỹ đâu có sẵn. Còn mấy ngàn đồng thuế du hí ráo nạo rồi!

- Ông Hai, cho tôi mượn đỡ một trăm, tôi không xài gì, tôi lo cho con nhỏ của tôi, cuối tháng tôi sẽ trả mà...

- Tôi nói thiệt. Tôi bảo có là có, bảo không là không. Thuở giờ tánh tôi vậy.

Bảy Phi toát mồ hôi khắp người. Chị biết tâm địa của y rồi. Chị biết thấu cả lời lẽ thoái thác của y. Như thuế du hí, quả là gánh nào cũng phải nộp, nhưng y thì chưa hề phải chịu món thuế đó lần nào cả. Dẫu rằng chị rất đỗi thương con, song giờ thì chị không còn lòng nào chịu nổi, đành chào y một tiếng rồi đi.

Bầu Thanh Long lấy thuốc thơm ra hút. Y thở phà một luồng khói rồi niểng đầu dưới vầng khói, nhìn bóng Bảy Phi lủi thủi bước ra khỏi quán.

... Sáng hôm sau, Bảy Phi dậy sớm, trong lúc đào kép còn ngủ. Mượn không được tiền, Bảy Phi cùng đường, đành nhờ Tư Văn Lâu giúp chị đưa con Huệ Linh về nhà bà cô chị ở Long Thạnh để chữa chạy. Đáng lẽ thì chị đi nhưng vì còn thiếu món nợ cũ phải ở lại hát.

Tư Văn Lâu đã thức dậy đi mua vé đò. Bảy Phi chốc chốc rờ trán con, chau mày. Con Huệ Linh không ăn uống gì được, chân tay gầy nhom. Lúc mới bắt đầu đau, nó vẫn thỏ thẻ nói chuyện với chị, mấy ngày rày nằm mê man không mở miệng kêu má một tiếng.

Tư Văn Lâu đi ngoài bến đò về. Anh nói với Bảy Phi:

- Đò máy hết chỗ, chỉ còn đò đạp thôi. Em mua vé rồi!

Bảy Phi lần túi áo:

- Chú Tư ăn cái gì chưa?

- Ăn rồi!

Giờ phút sắp xa con, Bảy Phi y chừng như lâu lắm mới gặp lại con. Chị rơm rớm nước mắt. Lòng chị là lòng của một người mẹ khốn khó. Có đứa con bên mình, nó an ủi Bảy Phi rất nhiều trong những ngày trôi dạt. Mười năm qua sống bên chị, nó ngoan lắm, biết vâng lời và yêu chị lắm. Trong những lúc mê sảng nó kêu "Má ơi, má ơi". Rõ là nó không muốn xa chị. Chị lại càng không khi nào muốn xa nó. Nhưng không muốn làm sao được? Trước kia vợ chồng Bảy Phi mong mỏi đời nó sau này được sung sướng, nên chọn cái tên Huệ Linh sáng sủa mà đặt cho nó. Vậy mà tới nay sao chưa thấy nó được sung sướng gì. Từ cái ăn cái mặc, đều thua sút con cái thiên hạ.

Trong lúc Bảy Phi đứng tần ngần, Tư Văn Lâu lo đem chiếu và quần áo của con Huệ Linh gom lại một chỗ. Xong, anh cởi áo ngồi hút thuốc.

Bảy Phi căn dặn Tư Văn Lâu:

- Chú Tư về gặp cô tôi nói là mai hoặc mốt tôi về, bây giờ bận hát chưa về được. Chú đi chắc khoảng xế thì về tới vàm Long Thạnh.

- Được rồi, chị cứ yên bụng!

Và anh đùa:

- Thôi, chị có Lưu Bị bây giờ thì Lưu Bị đi. Một chút nữa không còn ai ở đây mà nghe!

- Không, tôi khóc hồi nào đâu!

Ngoài bến đã nổi lên tiếng tù và tu tu giục khách. Tiếng tù và sáng nào Bảy Phi cũng nghe, đã quen tai lắm rồi. Nhưng sáng nay tiếng ấy rúc lên đột ngột, nhẫn tâm quá. Chị bước lại võng bồng con lên, áp đầu nó vào mặt chị. Hơi thở của con bé hà vô mặt chị nóng hổi. Mấy giọt nước mắt của Bảy Phi lăn xuống ngấn má héo gầy của con gái, chốc sau đã khô se lại.

Tù và dưới bến thổi lượt thứ hai.

Tư Văn Lâu đỡ lấy con bé Huệ Linh trên tay Bảy Phi, vội vàng nhảy xuống mũi đò. Chiếc đò đạp đã tháo đỏi. Mấy bác thợ đạp nhấn nhấn chân lên bộ trục hình bánh khế. Đò chạy lừ lừ. Bảy Phi vẫn còn đứng trên bờ ngó theo. Chiếc đò đạp khuất qua vịnh.

Xa xa ngoài sông cái vắng lặng, chỉ có mấy cánh buồm trắng chạy veo veo trong gió chướng.

*
* *

Đêm nay gánh Thanh Long diễn vở San Hậu. ở cái thị trấn nhỏ này, người đi xem hát lặn lội ở miệt ruộng lên từ ban chiều. Mặt trời chưa lặn, trống đã đánh thòm thòm xen cùng tiếng chập chỏa khua rộn ràng. Chung quanh nhà lồng chợ và dọc hè đình, các hàng cháo gà, chè đậu, nước sâm thắp đèn lố nhố. Quang cảnh thị trấn đêm có hát dẫy đầy cái không khí náo nhiệt.

Đào kép coi họ cũng có phần tươi tỉnh. Qua một ngày nắng nóng, ngủ dật ngủ dựa, vợ con nheo nhóc kêu la, nhưng đêm đến nghe tiếng trống khua, đào kép như nghe thấy tiếng gọi thân yêu của nghề nghiệp.

Người thầy tuồng nói với Bảy Phi:

- Thoa thêm một chút son ở gò má nữa, còn lợt lắm. Bữa nay chị nhớ chú ý cái bộ tịch lúc ở chùa nghe chưa?

Bảy Phi thoa thêm son, soi gương. Lòng chị trĩu nặng âu lo, vì kép Văn Lâu đi vẫn chưa về. Không hiểu cớ gì, mà hai ngày rồi Tư Lâu vẫn biệt tăm. Không biết chừng con nhỏ lại đau nặng, hay có chuyện gì xảy ra dọc đường cũng nên. Trọn ngày nay, Bảy Phi đứng ngồi ngóng đợi. Nhưng đêm đến, việc hát vẫn phải hát. Tối nay chị lại sắm vai Thứ Hậu. Vai Linh Tá đáng lẽ do kép Văn Lâu đóng, nhưng Văn Lâu chưa có mặt. Mụ Hai Nà hồi chiều lại nổi lên một trận chửi. Bảy Phi khi hơi đâu để ý tới, là vì chị đang lo nỗi lo của chị. Mụ chửi thì mụ cứ chửi, chẳng hề hấn gì ai. Cuối cùng mụ Hai Nà phải chạy kép khác thay Tư Văn Lâu.

Đã tới giờ ra tuồng. Màn động cộp cộp.

Lớp Tạ Thiên Lân soán ngôi Tề Vương, trù định giết bà Phạn Thứ hậu đang có mang cho tuyệt tự nhà Tề, nhờ có Đổng Kim Lân và Linh Tá cứu được Thứ Hậu và hoàng tử. Màn vừa hạ, khán giả vỗ tay hoan nghênh. Bảy Phi đi vào, lòng chị nghĩ đâu đâu. Tiếng vỗ tay mang tới cho chị một ít niềm vui, nhưng xen với nỗi lo lắng, hóa ra một tâm trạng rối rắm, lộn xộn.

Vào tới buồng, bất đồ Bảy Phi thoáng thấy bóng Tư Văn Lâu. Chị mừng quá kêu lên:

- Chú Tư, chú Tư mới về hả?

Tư Văn Lâu nhác thấy Bảy Phi thì chạy vụt tới:

Chị Bảy ơi...

Giọng nói của anh kép hát này hôm nay thật đau đớn quá. Trông đôi mắt anh đỏ thật. Đào Bảy Phi cảm thấy chân mình như bị ai nhấc bổng khỏi đất. Chị bíu lấy tay Tư Văn Lâu, sảng sốt:

- Chú Tư, chú Tư! Chú nói gì?...

Giọng Tư Văn Lâu đứt quãng:

- Em về tới Long Thạnh. Đêm đó con Huệ Linh phát nóng kịch liệt, đến một giờ khuya thì không chịu nổi. Miếng bí đau của bà cô đắp trên ngực nó y như là bị luộc chín...

Bảy Phi giậm cẳng kêu trời. Chị bắt đầu khóc. Cái tiếng khóc nức lên trong cổ họng chưa thoát thành tiếng, nghe đáng sợ hơn tiếng khóc lớn. Vừa khóc, Bảy Phi vừa gọi tên con. Hết gọi tên con, chị lại kêu tên Tư Văn Lâu. Đào kép bu tới. Nhiều chị đào mủi lòng, ngồi ôm vai Bảy Phi mà khóc theo. Mụ Hai Nà chạy vào. Mụ lính quýnh, bởi lẽ màn kế đã động, và tiếng khóc thì lại lớn quá. Mụ tới bên Bảy Phi dịu giọng:

- Tới màn hai rồi. Sau đây mặc sức chị khóc. Bây giờ chị không ra, thiên hạ đòi tiền thì tôi biết ăn nói làm sao?

Bảy Phi đang trong cơn đau, chị đâu có nghe mụ nói gì. Tư Văn Lâu nạt lớn:

- Con người ta chết. Hát hát cái gì?

Tư Văn Lâu vừa nạt xong, bất ngờ anh bị một cái bạt tai từ phía sau giáng vô gáy như búa bổ. Tư Văn Lâu ngã chúi. Vừa gượng lại được, anh quay lại, thấy quan Hai Long đã đứng sững ở sau lưng từ hồi nào. Đánh Tư Văn Lâu rồi, Hai Long vò vò tay. Tư Văn Lâu đầu bừng nóng. Lập tức anh sắn tay áo. Ông thầy tuồng hoảng hồn nắm tay anh kéo lại.

Bầu Hai Long day lại chỗ Bảy Phi và mấy chị đào hát lớn tiếng:

- Đám hát hay là đám ma? Tụi bay tính trù cho rã gánh hát của tao phải không?

Và y nói với Bảy Phi:

- Còn Bảy Phi, sao? Ráng lên coi!

Mọi người đều lo lắng nhìn Bảy Phi. Trông chị thiểu não quá. Chị đăm đăm nhìn Hai Long không nháy mắt. Bỗng nhiên chị vén tóc đứng phắt dậy:

- Được, để tôi ra!

Mụ Hai Nà khỏe được mối lo, hít hít mũi. Bầu Hai Long rống lên với ấy chị đào:

- Còn ngồi đó hở mấy con đĩ khóc giùm? Đi, ai muốn khóc bồng bế ra ngoài đường mà khóc!

Bầu Hai Long nhìn theo Bảy Phi bước ra sân khấu, y nhếch miệng cười:

- Sao không giỏi mà làm tàng nữa đi...

Ngoài sân khấu đàn đờn vẫn dạo bài oán. Bản nam ai kéo tới lui mấy lượt. Thằng nhỏ động màn mỏi tay vừa quẳng cái chày vồ, bây giờ nó lại chụp lấy dộng rầm rầm.

Màn kéo lên. Khán giả sửa bộ ngồi, chăm chú...

Cảnh Đổng Kim Lân phò Hoàng tử với Thứ hậu chạy trốn, có cả bà Tam cung Nguyệt Kiểu. Ra khỏi hoàng thành, Thứ hậu và Nguyệt Kiểu chạy lạc tới một kiển chùa. Tên sư đầu đà chùa San Hậu nửa đêm mò vào thổi tắt đèn lưu ly trên bàn phật. Dưới ánh sáng khi mờ khi tỏ, đào Bảy Phi trong vai Thứ hậu với gương mặt tuyệt đẹp, lộ đầy vẻ đau thương phẫn nộ. Lòng trung trinh của Thứ hậu đã thắng hành động tà dâm của tên sư hổ mang.

Màn vừa hạ, tiếng vỗ tay nổi lên tưởng chừng như vỡ rạp. Có tiếng đàn bà con gái khóc rấm rứt bên dưới. Mấy người ngồi ở hàng đầu là giới mộ điệu ở thị trấn khen:

- Tụi tôi coi mấy lần, chưa có đêm nào Bảy Phi sắm Thứ hậu đặc biệt như đêm nay!

- Hay lắm, thưởng cho Bảy Phi hai chục đây!

- ủng hộ mười đồng!

Nhiều người ném tiền lên. Mụ Hai Nà ở trong buồng phục phịch chạy ra, hai tay bưng cái tráp trổ hình mấy cành huê. Mỗi lần lượm tiền bỏ vô tráp, mụ cúi mình chào khán quan một cái.

*
* *

Đêm hát tan rồi. Về dường ai cũng khen cái chị đào sắm vai Thứ hậu, và định bụng sẽ coi lại một lần nữa cho thỏa. Nhưng đêm sau và những đêm sau nữa, người ta không gặp lại đào Bảy Phi trong buổi biểu diễn của gánh Thanh Long lần nào cả. Nghe đâu là sau đêm hát đó chị đã hóa điên. Người ở chợ học lại rằng đào Bảy Phi bỏ tóc xõa đi suốt ngày ngoài đường nắng. Thoáng thấy bóng sĩ quan quốc gia thì chị áp đến chửi thậm tệ. Bọn sĩ quan rút súng thì chị bỏ đi.

Hễ gặp những em gái dọc đường, nét mặt Bảy Phi lộ đầy vẻ mừng rỡ kêu lên:

- ủa? Con Linh cưng của má, tối nay con có sắm vai thể nữ không hở con?

Đứa bé gái nào lần đầu gặp chị đều hoảng chạy. Nhưng về sau chúng thấy chị không đánh đập gì lại tỏ vẻ âu yếm, thì dần dần cũng đâm dạn.

Người lớn ít ai dám đến gần chị ngoài kép Văn Lâu. Mỗi lần Bảy Phi gặp kép Văn Lâu, người ta thấy chị trở nên hiền hậu. Chị đứng tằn mằn cài lại hàng cúc áo xá xẩu cho kép Văn Lâu và lừ đừ đưa mắt nhìn anh. Đôi hàng lông mi chị đẫm ướt, đọng lại nơi khóe bao nhiêu là nước mắt.



Trả Lời Với Trích Dẫn
  #12  
Old 05-30-2004, 08:54 PM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

Người gác đèn biển





Tàu chúng tôi neo cách đèn Hoa Lăng không đến hai cây số. Được đồng chí thuyền trưởng cho phép, anh thợ máy Voòng Tài Phát, một người Hoa kiều lai Việt Nam rủ tôi hạ xuồng bơi ra tháp đèn Hoa Lăng thăm ông cụ gác đèn, người mà anh thường gọi là ông Sáu Hoa Lăng, trước vốn là bạn của bố anh. Chiếc xuồng của tàu đã tháo máy, thành thử hai chúng tôi phải dùng bơi chèo. Anh Tài Phát chỉ tôi bơi theo lối bơi thủy quân, cầm thuận mà bơi ngược. Tôi quen lối bơi Nam Bộ nên cứ vô ý để mái chèo luôn phải chèo của anh Phát.

Nhờ gió và sóng xuôi, một chốc sau xuồng chúng tôi cũng đã đi gần đến tháp đèn Hoa Lăng. Tháp đèn Hoa Lăng không phải là một ngọn hải đăng lớn, nó là một ngọn đèn biển để tàu to từ ngoài biển bắt chập đi vào cho đúng lòng lạch. Đó là một ngôi nhà gỗ màu xám cất trên bốn cây trụ bêtông chôn chân xuống mỏm đá. Cây trụ tháp đèn cao gấp hai nóc nhà cũng xây dính vào một góc của ngôi nhà ấy. ở giữa biển, cái nhà đèn Hoa Lăng, trông thật trơ trơ, cô độc. Về mép trái còn có những rặng núi, những hòn đảo nhỏ xanh lam của vịnh Hạ Long nô ra, kỳ dư chung quanh chỉ có biển cả mênh mông. Mỏm đá dưới chân đèn cũng là màu xám nốt, coi như bị lên mốc, sóng cứ vỗ bì bõm mãi không thôi. Trên mái nhà lợp tôn nghiêng nghiêng, thấy có cái ống khói thiếc nhỏ đang chậm rãi thả ra một làn khói trắng mềm mại, nhỏ như sợi chỉ.

Cuối cùng chúng tôi đến nơi, rấn mũi thuyền nhè nhẹ vào mỏm đá. Nghe tiếng động bơi chèo, từ trên nhà một con chó mực chạy ra sủa ăng ẳng. Giữa biển nghe tiếng chó sủa tôi thấy thú vị. Có tiếng người lục đục trong nhà tôn. Một ông lão ló cái đầu bạc hói ra khỏi cửa, rướn mắt nhìn xuống. Sau đó ông lão nhận ra và kêu lên:

- Anh Voòng đấy à? Giời ơi, thế mà tôi cứ tưởng... Buộc thuyền vào cột đi. Có xích chứ? Không à. Thế để tôi lấy xích...

Chúng tôi buộc xuồng, với sợi dây xích ông lão ném từ trên xuống, rồi leo lên thang. Chưa tới nấc thang cuối, ông cụ đã với tay chúng tôi lên. Ông cụ nhìn anh Tài Phát, khen anh ta béo, đoạn chụp cả tay tôi kéo vào. Tôi bước vào nhà, bỡ ngỡ và thấy thích thích. Gọi nơi này là nhà khí hơi quá đáng. Một cái lều vách gỗ mái tôn. ở ngoài lều, đặt một bộ ván và tận trong kê một chiếc giường rộng. Trên vách lủng lẳng treo mấy bộ sách cũ vàng khè. Nhà có bao nhiêu khoảng vách trống đều dán tranh. Có đủ cả một bộ tranh của các đồng chí Trung ương Đảng, từ Hồ Chủ tịch đến đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng. Vách bên trái có một bức tranh vẽ ba vị võ tướng đời xưa, đang lẫm liệt ngồi trên mình ngựa. Vị ở giữa cầm gươm, cưỡi ngựa hồng. Hai vị hai bên người cưỡi ngựa bạch người cưỡi ngựa ô, tay sử dụng thương và thanh đao lớn. Cả ba người ghìm ngựa bên bờ sông, bờ sông lắt lay những cây lau nhỏ. Bức vẽ hình như do tay một người thợ mã nào đấy vẽ ra, bên dưới lại chú một dòng chữ Hán nguệch ngoạc.

Thấy tôi để ý tới bức tranh, ông cụ nhìn tôi có vẻ trân trọng lắm.

Chúng tôi ngồi xuống bộ ván. Ông cụ nói:

- Nghe tiếng tôi cứ ngỡ là cái Đào, anh Voòng ạ, nào ngờ các anh.

Rồi ông cụ hỏi tôi:

- Anh cũng ở dưới tàu 12?

Anh Voòng đỡ lời:

- Vâng, đồng chí thủy thủ mới đấy cụ ạ.

- Thảo nào tôi không biết, các anh ở tàu 12 tôi đều thuộc cả.

Tôi mỉm cười, đáp:

- Tàu còn neo đậu, chúng cháu rỗi, anh Phát rủ cháu ra đây chơi, nhân thể thăm cụ.

- Cám ơn, các anh đến chơi thật là tôi cảm ơn lắm!

Anh Voòng có mang theo một chục con khô mực làm quà tặng ông cụ Sáu. Ông cụ vừa mở gói khô ra xem vừa nói:

- Anh Voòng quý tôi quá, chừng này mực lão già có thể uống rượu hai tháng đấy các anh ạ!

Nói xong ông cụ loay hoay đi gần lại lò than trong góc nhà, chuẩn bị một bữa nhắm. Một chốc sau, khắp gian lều bay lên mùi mực nướng thơm lừng. Ông cụ đem ra một cái vò đất tráng và một lọ dưa chuột đặt giữa bộ ván. Ông trỏ vào vò rượu, nói: "Đây là của thằng em rể nó cho tôi". Và chỉ vào lọ dưa, cụ nói: "Đây là của con bé cháu nó làm đấy". Ông cụ vừa gắp dưa ra đĩa vừa nói:

- ở đây buồn quá đi mất. Có con bé cháu, chứ không thì còn buồn nữa. Cứ mỗi hai ngày nó chèo thuyền ra đây một lần. Có khi bận việc thì bốn năm hôm. Hễ dăm hôm mà nó chưa ra thì tôi nhớ nó lắm rồi. ấy là nó bận việc đồng, vả lại làm đằng thành niên cứ họp hành suốt. Tôi ở đây, khổ quá, ở làng bây giờ cứ sôi nổi cả lên, thôn nhà lại vừa lập hợp tác xã, mà tôi thì cứ ở đây... Hết đan lưới lại nghiền ngẫm mấy pho truyện cổ. Đâu có nghe thấy tiếng người, chỉ nghe thấy tiếng sóng vỗ, tiếng tàu, tiếng chim kêu... Các anh có dịp ra đây ở thử dăm mười hôm rồi thì biết. Hẳn là các anh đòi về ngay thôi. Chịu đựng sự buồn tẻ hình như người già thì chịu giỏi hơn... Mà nói thế, chứ ai lại bắt các anh ra đây, các anh còn làm việc khác, sức các anh còn phải để kéo dây, làm máy... ra chốn này nó cũng hoài đi...

Ông cụ Sáu dừng lại trao hai cốc rượu cho tôi và anh Phát:

- Nào, nhấm nháp đi chứ... Rượu cẩm chính gốc đây.

- Mời cụ!

- Uống đi, tôi uống đây.

Ông lão một tay với cốc rượu, một tay cào khẽ vào sườn:

- Tôi già rồi, chỉ còn có cái tật xấu này. Anh Voòng với các anh đây cũng bỏ quá cho tôi nhé. ồ, uống đi chứ... các anh!

Anh Phát cầm cốc rượu uống cạn. Tôi nâng cốc nhìn cái sắc rượu tím sẫm sau lớp thủy tinh, đoạn tợp nhẹ một hớp. Chất rượu cô đặc, hồ như có chất nhựa dính. Ông lão cũng uống một hớp, đặt cốc xuống, xé một thớ mực khô để vào mồm chép một cái, lấy ra thứa khô vẫn còn nguyên.

Ông lão nói:

- Lúc mình đang sức trai, thèm đủ thứ thì không có mà ăn. Đến giờ có lắm cái ăn thế này thì mồm đã thấy nhạt nhẽo rồi.

Tôi hỏi:

- Cụ ra đây đã được bao lâu?

- Lâu. Bỏ đồng ruộng ra ở giữa biển thế này hai chục năm dư rồi. Sống cái đời một thân một nhà một cửa anh ạ.

Lặng lẽ một chốc, ông cụ thở dài:

- Tổ tiên nhà mình thì oanh oanh liệt liệt, còn mình thì nhỏ nhít thế nào ấy. Ông cụ cố đời trước của tôi là tướng đời Trần theo hầu đức Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Bức tranh mà anh vừa xem đấy, ngài đang ngồi trên lưng con ô mã bên trái đấy!

Tôi đưa mắt nhìn lại bức tranh:

- Ai vẽ đấy cụ?

- Một người thợ vẽ trong làng. Không được biết ông cụ cố diện mạo thế nào. Nhưng tôi đọc trong gia phả rồi cứ bảo anh ấy vẽ. Đó là một tay vẽ cừ, vẽ các ngài ấy xem thần sắc oai phong lắm đấy chứ, phải không anh?

- Vâng, ở làng mà vẽ thế là khá!

Ông cụ Sáu uống thêm một hớp rượu nữa rồi nói:

- Tôi mà ra đây cũng là bởi sự nghèo đói đưa đường đấy thôi. ở làng không có đất. Nhờ từ nhỏ có học võ vẽ ít chữ, nên tôi được người chú họ xin cho vào làm ở ty lục lộ. Lâu quá rồi, quên mất cả năm, chỉ nhớ đại khái là hồi ấy tôi băm sáu. Trước tôi coi ở đèn Long Châu. ở chung với ông cụ anh Voòng đây. Tội nghiệp, ông cụ bị ngộ gió độc mà phải chết... Sau khi ông cụ anh Voòng mất thì tôi về đây. ở đây được trên hai chục năm rồi anh ạ.

Tôi ái ngại nhìn ông cụ Sáu nói:

- ở một mình thế này hẳn buồn lắm hở cụ?

- Phải, còn nói gì nữa. Anh xem, có gì đâu, ngoài gió với sóng. Ban đêm thì có sao mọc trên trời, thế thôi. Bầu bạn của tôi ngoài ra còn có mấy đàn nhạn, lũ chim chằng bè tìm cá trên biển. Con bé cháu nó cũng về làng rồi. Có con mực đấy, con chó yêu của tôi đấy. Nhiều lúc tôi thèm tiếng người quá anh ạ. Xa làng, nhớ vơ nhớ vẫn mãi... Anh tưởng tôi thích ở đây lắm sao? Không, tôi thì có khác gì các anh, tôi cũng thích ở trong làng chứ, nhưng bởi vận nghèo, phải, chính vận nghèo nó đã đẩy tôi ra đây, buộc tôi phải sống trọn một đời. Giờ thì sắp đến lúc được trả về cái miếng đất cũ rồi... Những năm đầu, hồi còn thời Tây, ban đêm nghe sóng vỗ gió gào, nhớ mảnh đất làng sao mà nhớ quá thế. Tôi nhớ cái ngày tóc còn để chỏm, học ở nhà thầy đồ chiều về ra giếng lặn hụp tới tối mịt. Ngày mùa lúa gặt xong, làng mở đám rước phường chèo về hát, hội hè cờ mở trống rong. Tôi nhớ con đường mòn, nhớ từng họn gạch vụn bên đình thờ Ngũ Hổ tướng phò Đức thánh Trần, và nhớ cả giọng nói của ông từ giữ đình kể cho chúng tôi nghe sự tích đức thánh Ngài dùng gươm báu chém tặc tướng Phạm Nhan. Tôi không quên ngày nhà tôi bán nốt sào đất cuối cùng, rồi đói kém đến, ông cụ tôi chết gục dưới gốc đa. Làng tôi nếu leo đứng trên tháp đèn, thì có thể thấy dạng ngọn đa to ấy, còn thì chả thấy được gì sốt, tất cả đều khuất sau rặng núi vịnh kia. Nhưng phải nói nỗi buồn nhớ đó thực là không thấm tháp vào đâu. Kẻ sắp chết đói mà vớ được miếng ăn thì buồn bã nào mà chẳng chịu được. Ngày qua tháng lại, nhìn mặt trời mọc lên lặn xuống sau vịnh núi hằng trăm lần rồi cũng quen đi chứ. Duy chỉ có một nỗi buồn không tan đi được, cái nỗi buồn ra đây mới thấm thêm vào ruột gan. ấy là mỗi lần nhìn thấy tàu người từ ngoài chạy vào, chạy ngang qua đây rồi chạy ngang qua cửa sông Bạch Đằng, tàu nào cũng treo lá cờ tam tài. Đó mới là đau anh ạ. Cửa biển là của nước mình, sông nước đất địa Bạch Đằng là chốn liệt oanh của cha ông mình, nhưng tàu người lạ vào lại thượng cờ kẻ thù mình lên, anh nghĩ có đau không? Mà tôi thì tôi ở đây hàng ngày phải ngắm cái cảnh ấy. Nhiều lần tôi nhìn thấy thế xong, trở vào nhà chợt trông lên bức tranh tượng của đại vương đây thì cơ hồ như thấy đôi mắt của đại vương ngài đang nhìn tôi có vẻ trách móc. Cả ba ngài đều nhìn tôi với cặp mắt như thế. Tôi lẩn ra cửa, các ngài cũng nhìn theo. Dần dần mới thấy đôi mắt các ngài trở lại từ tốn như cũ. Tôi nghĩ bụng, đại vương vốn là tổ tiên của mình, chẳng nhẽ lại làm mình khiếp đảm, nhất là đêm đến, tôi khấn nguyện vía các ngài đừng quở phạt tôi, thế nào tôi cũng tìm cách báo đáp cho bằng được. Nhưng tôi không có cơ hội, tôi gác đèn, tôi làm cái gì được cơ chứ...

Năm 49, vào một đêm tháng chạp, tôi đang ngủ chợt nghe tiếng kêu la văng vẳng vọng đến bên tai. Tôi vùng tỉnh dậy, thì không nghe thấy tiếng kêu ấy nữa. Tôi chắc là mình nằm mơ đó thôi. Nhưng cố nhớ lại thì trong lúc ngủ không có chiêm bao gì hết. Từ đó tới sáng, tôi cũng không chợp mắt được. Rạng ngày, tôi ra ngoài, định lên tháp đèn xem lại nồi hơi, chợt thấy có một người nằm dưới bãi đá. Một tay người đó đưa ra phía trước bíu lấy một tảng đá. Tôi tuột thang xuống, nhìn kỹ thấy người đó đã chết. Một người đàn ông tuổi vào khoảng ba mươi, vẻ mặt còn như sống, coi hiền lành quá. Trong tay người đàn ông ấy còn cặp theo một đứa bé gái độ lên chín. Đứa bé mắt nhắm nghiền, mặt tái đi, nhưng mũi hình như vẫn còn thoi thóp. Tôi vội vàng quỳ xuống, nhặt một cọng rêu đặt lên trước mũi nó, thì thấy cọng rêu rung rung. Thế là tôi vội xốc đứa bé dậy. Bàn tay của người đàn ông quặp lấy đứa bé rất chặt, phải mở tay anh ta ra mới xốc được đứa bé lên. Rõ ràng là cánh tay của một người cha anh ạ. May là đứa bé bị uống nước không nhiều. Tôi bế nó lên nhà, thay quần áo ướt của cháu, lấy chăn trùm đắp lên người cháu và lập tức đốt lửa sưởi. Còn lại bao nhiêu rượu trong vò tôi đều vốc cả ra, xoa mạnh khắp người cháu. Có hơi ấm của lửa và rượu, cánh mũi con bé phấp phồng. Mười phút sau, đôi mắt non dại của cháu từ từ hé ra. Tôi reo lên. Thú thực với anh, có lẽ thằng cha coi đèn già như tôi lần đầu tiên mới có được cái nỗi vui sướng như vậy... Ông cụ Sáu nói tới đây thì ngừng lại. Anh Tài Phát của tôi đã nốc tới cốc thứ tư. Anh ta uống rượu rất khá, càng uống mặt càng xanh tái đi. Mọi việc, từ việc chuốc rượu ra cốc tới việc chạy lại đặt thêm mấy con khô mực lên hỏa lò, anh Tài Phát xăng xái làm thay cho ông cụ Sáu cả. Anh lại tỏ ra hết sức nâng niu chăm sóc câu chuyện của ông cụ Sáu đang kể cho tôi nghe. Đến như ông cụ sắp muốn hút thuốc lào, anh cũng biết ý, vội mở cái hộp thiếc vê ngay cho ông cụ một điếu.

- Thế là con bé được tôi cứu sống - ông cụ Sáu tiếp lời - Người đàn ông nọ chính là bố nó. Sau lúc con bé hồi tĩnh, tôi lên thăm nồi hơi, chợt nhìn thấy nhiều mảnh ván thuyền trôi bập bềnh trên mặt biển. Tôi lấy làm lạ, chẳng biết có việc gì ghê gớm vừa xảy ra trong đêm qua. Về sau mới rõ ra là một đoàn thuyền lưới bị tàu nhà binh Pháp đụng tan tác. Chúng nó bảo là vì những thuyền lưới kia đậu trong luồng tàu chạy. Nhưng nào có phải thế. Sự thực là thuyền bà con đỗ lại lưới ngoài luồng cấm, chúng nó đi vây quét ở Gia Luận về, chạy thành hàng ngang ba chiếc một, chạy lấn ra luồng lạch và mặc dù trông thấy đèn thuyền chúng vẫn đâm bừa. Chả là chúng nó thù anh em đi lưới, phần đông đều có tham gia du kích bí mật. Tất cả người trên sáu chiếc thuyền đều chết. Vài ba chiếc khác bị va nhẹ cũng đắm, một ít người sống sót, như trường hợp chiếc thuyền của người đàn ông bố đứa cháu bé. Giữa đêm, lúc tôi nghe thấy tiếng kêu, mà tôi cứ ngờ là nằm mơ, đó chính là tiếng kêu cuối cùng của anh ta sau khi đã dành tất cả hơi sức đem được đứa con lội vào tới chân bệ đá tháp đèn. Từ chỗ xảy ra tai nạn đến tháp đèn có đến hai cây số. Thật là một tay dân chài bơi giỏi mới có thể vừa cõng con vừa lội một quãng dài như thế được. Tình thương con làm người bố có thêm sức lực đấy anh ạ. Chắc chắn là nhờ có cái ấy. Huống hồ cháu bé lại là con gái đầu lòng của anh. Sau khi vớt được xác anh ta và cứu được con bé, tôi có nhắn tin về vùng lưới Cát Hải, Cát Bà. Tôi được biết anh là một du kích bí mật, có người vợ cũng đã chết ngay trong đêm ấy, ngoài ra anh không còn ai là ruột thịt nữa. Bà con đánh cá chèo thuyền ra đây đem xác chết người đàn ông ấy về chôn cất và rước đứa bé về nuôi. Bà con đánh cá xưa nay vẫn tốt bụng như vậy đó anh ạ. Nhưng tôi khẩn khoản xin bà con giao đứa bé ấy cho tôi. Tôi hứa với họ là sẽ hết lòng chăm sóc nuôi nấng nó cho khôn lớn. Chỉ một ngày một đêm, có cháu bé bên mình, tôi thấy không thể dứt nó ra được nữa rồi. Tôi nấu cháo cho nó ăn, quấy trứng cho nó uống. Tôi nâng niu gìn giữ cho nó trở lại sức khỏe cũ. Cố nhiên là sau đó nó có nhiều lần khóc đòi mẹ. Tôi dỗ dành, bảo rằng mẹ cháu không bao lâu sẽ về với cháu. Nói thế nhưng bụng dạ mình cứ đau lên nhoi nhói. Con bé dần dần cũng phải quên đi và cũng đến lúc không khóc nữa.

... Từ đấy cháu sống với tôi. Tôi bắt đầu cảm thấy hình như gương mặt của các vị đại vương trong bức tranh treo trên vách có vẻ bằng lòng. Tôi thầm nói với các vị ấy rằng: "Tôi đã sắp kề mệng lỗ rồi, tôi là một người gác đèn già lão, tôi không có cách gì báo đáp công ơn của các ngài khác hơn bằng cách dốc lòng nuôi đứa bé con của người du kích này lớn lên, chăm sóc cho cái răng của nó được chắc, sợi tóc của nó mọc được dài, kể như là mình gìn giữ nuôi nấng một cái mầm non tươi có thể có ích cho làng nước mai sau". Như vậy vừa trả được chút nghĩa mà cũng là vừa báo được một chút ân oán. Dần dần tôi có cảm giác hình như tôi có phần được linh lợi sáng láng hơn trước anh ạ. Mùa đông thấy ấm lên và mùa hè nghe tiếng ríu rít của con bé thì đang nóng bức cũng mát mẻ ra. Cuộc sống của hai ông cháu tôi bữa cơm bữa khoai cũng không đến nỗi nào, nhờ vào cái đồng lương ba trăm của ty hải đăng phát cho mỗi tháng. Năm ấy con em gái tôi nó lại cho con chó Mực. Thế là từ chỗ có một thân, giờ chúng tôi có tất cả là ba người. Ba người chúng tôi sống như một gia đình, hệt như ba con chim cu nương náu trong một cái tổ. Cái tháp đèn, anh ở xa trông, chẳng phải giống hệt như cái chuồng cu là gì... Hàng ngày, tôi ngoài việc coi hơi chứa, ghi vào sổ nếu có tình hình gì xảy ra, tối đến đốt đèn thì chẳng có việc gì khác. Tôi liền dạy cháu học chữ và dạy cho cháu cùng đan lưới với tôi. Con bé thông minh lạ, không bao lâu đã đọc được mặt chữ và đan lưới rất giỏi. Mỗi lần bán được lưới, tôi lại gởi người ta mua sắm một thứ gì cho nó, có khi là một khăn trùm đầu, có khi là mấy thước vải.

Nhờ trời, ba chúng tôi được sống xuôi thuận như thế cho tới ngày đình chiến. Con bé cháu được mười bốn tuổi, tôi thì vừa đúng năm nhăm. Tôi bắt đầu trông thấy nhiều việc lạ. Đứng tại cái tháp đèn này mà trông thấy thôi. Đầu tiên buổi sáng dậy nhìn thấy tàu nhớn tàu bé của giặc rút ra cửa Nam Triệu... Trưa hôm ấy, leo lên tháp đèn nhìn về làng bỗng trông thấy một vật gì đỏ đỏ sau rặng núi Rú. Thì ra đấy là một lá cờ đại treo trên cây đa to làng Gia Luận. Chiều đến thì có một chiếc thuyền chèo thẳng từ cầu hải đăng ra. Một đồng chí cán bộ tới thăm tôi. Đó là sự tôi không ngờ đến. Trước nay, trừ con em gái trong làng và người cai lục lộ mỗi tháng ra hai lần xem xét đèn đuốc thì có ma nào đến với tôi đâu. Anh cán bộ hỏi han an ủi hai ông cháu tôi và căn dặn tôi cứ làm công việc cũ, trông nom cho đèn cháy được tốt. Anh ấy còn nói là từ bây giờ trở đi cái tháp đèn này là của mình rồi, nay mai tàu các nước sẽ đến, vì thế phải giữ hơi chứa cho đầy đủ, đốt cho ánh đèn càng tỏ rạng hơn xưa. Tôi nghe anh ấy nói thì cảm động quá anh ạ. Lúc đó tôi muốn đáp lại rằng: "Anh cán bộ ơi, xin anh hãy tin tôi, ông lão này từ nay cũng vẫn sẽ ở tại cái tháp đèn này, sẽ lo đốt cho cây đèn cháy sáng mãi đến tận lúc hơi thở ông lão tắt". Tôi muốn nói một câu như vậy, nhưng lắp bắp thế nào mà nói không nên lời, sau cùng chỉ vụng về gật gật cái đầu bạc, nước mắt chảy lăn ra trên gò má.

Người gác đèn gì nói tới đây, bỏ điếu thuốc lào nhỏ bằng hạt đỗ vê vê trong tay từ nãy giờ vào nõ điếu. Làn da dăn deo dưới ngấn mặt ông cụ giật giật liền mấy cái. Tôi thấy từ đôi mắt già nua ấy lừ đừ phát ra một tia sáng làm óng ánh cả những sợi mi bạc. Ông cụ hút xong điếu thuốc, phà khói. Giọng nói trầm trầm của ông cụ đều đặn cất lên giữa tiếng gió lùa trên mái tôn, giữa tiếng sóng vẫn lõm bõm đập vào mỏm đá bệ tháp:

- Một tuần lễ sau, tôi đã nhìn thấy tận mặt hai chiếc tàu Pháp lần đầu tiên chạy vào Phòng phải thượng cờ đỏ sao vàng của chúng ta lên :Dnh cột buồm. Tôi đứng lặng trên tháp đèn đưa mắt nhìn lá cờ bay lượn. Tôi nghĩ bụng: "Lá cờ của mình đấy, lá cờ của các vị đại vương hảo hớn đấy". Tàu chạy lướt qua, trước hết tôi cố nhìn thấy cho được toàn cái màu đỏ, sau đó cố nghiêng mắt nhìn thật kỹ đủ năm cánh sao. Có trời đất thành phần nào lường biết nỗi hả hê của tôi buổi sáng hôm ấy được. Tôi mới chạy vào lôi con bé Đào ra cho nó nhìn. Con bé giơ tay ngoắc ngoắc vẫy vẫy... Thế là từ đấy, chỗ ở của ông cháu tôi thì vẫn không thay đổi, vẫn ở trong cái lều này; nhưng đứng ở đây tôi đã nhìn thấy nhiều đổi thay kỳ lạ ở chung quanh. Năm sau thấy khói nhà máy xi măng cuồn cuộn bốc lên, năm ngoái này lại thấy nhô lên cái nóc lầu cao nguy nga của nhà máy cá. Con mắt già được trông thấy nhiều thứ tưởng tới chết vẫn chưa trông thấy kịp. Bây giờ tôi vẫn sống một mình nhưng không cô độc và không bị treo chân mãi một chỗ. Hàng tháng ở ty lại phái người ra gác thay cho tôi về họp công đoàn. Lúc con trăng bị ăn khuyết dần chỉ còn nhỏ bằng thân con cá lẹp, và nước kém rút xuống khiến những hòn đá trứng ngỗng bám đầy rêu dưới bệ nhô lên thì sắp có người ra gác thay để tôi đi họp rồi đấy. Có lần tôi về họp, ở trên định cho tôi thôi việc coi đèn và xếp cho một việc khác ở đất liền. Đồng chí trưởng ty nói: "Cụ Sáu đã ở ngoài nhà đèn hàng chục năm rồi, bây giờ cụ có muốn đổi một việc khác, nhẹ hơn và được gần gũi với bà con hơn không?". Tôi nghe nói, ngồi lặng tại chỗ, hồi tưởng lại mấy chục năm đìu hiu buồn bã, từ dạo tôi mới băm sáu, răng còn chắc, tóc còn đen, cho tới nay tuổi ngót sáu mươi, răng đã rụng hết bảy tám chiếc, tóc đã đổi cả màu, mới nghe thấy cái nhời nhẽ thấm thía như thế. Tôi nhớ lại những ngày bạc thếch, heo hút, những đêm dài nằm khoeo như con chó trong lều. Ôi, hai mươi năm giời. Tôi không có vợ, tôi không có con. Người ta nói kẻ không có vợ con như cây không có hoa quả. Tôi như cái cây đó. Tôi... tôi nhớ... hết, rồi cứ ngồi im, nước mắt chảy ròng ròng. Chính phủ biết cái nỗi cực của tôi, như thế là tôi thỏa rồi. Sau đó tôi nhìn đồng chí trưởng ty, lắc đầu, rồi chiều lại xuống thuyền, về nhà đèn. Đầu năm, có bác cai Hạ ra thay tôi nửa tháng, tôi được nghỉ dắt con bé cháu về làng chơi. Cảnh làng thay đổi nhiều quá. Cái đình cái miếu bị bom sập cả. Kẻ mất người còn. Nói chung tan tác lắm. Nhưng đã bắt đầu rôm rả trở lại rồi. Không còn ai ăn cháo nữa, không có ai đi vặt rong về ăn bậy ăn bạ như trước nữa. Người trong làng đều nhận ra tôi. Hai mươi năm rồi nhưng người nghèo vẫn nhận ra mặt bạn nghèo. Họ nói: "Ông cụ Sáu, ông cụ về đây thôi, về đây mà sống với chúng tôi đi!". Tôi mới đáp: "Cám ơn, quả là tôi muốn về lắm, về ngửi lại cái mùi đất cũ ít năm nữa rồi sẽ chui xuống lớp đất ấy, nhưng mà, các bà con ạ, tôi đi rồi ai sẽ coi đèn cho tôi, anh cán bộ đã dặn tôi phải đốt đèn cho tàu bè trên thế giới thấy đường mà vào nước mình chứ". Tôi nói với bà con như thế anh ạ. Rồi tôi trở ra đây. Dọc đường tôi bỗng nghĩ đến con cái Đào. Tôi lo thầm: "Cái Đào đã lớn rồi, chẳng lẽ lại để nó ở mãi đây ư? Bắt nó ở quanh quẩn trong cái chuồng cu này thì đến làm khổ nó mất thôi, mà rồi con bé cũng đâm ngớ ngẩn mất thôi. Hay là ta cho nó về đất làng. Phải rồi, gửi nó về cho ở với em gái ta"... Vì muốn cho cái Đào thành người mà tôi phải chịu để cho nó rời tôi. Khổ... khổ là. ít gì thì ông cháu tôi đã sống với nhau tám chín năm trời. Hàng ngày ông ông cháu cháu, bỗng chốc rứt ra, anh cũng biết là tôi khổ tâm lắm chứ. Nhưng đành phải thế anh ạ. Đời lão già này đã khổ rồi, nay cắn răng chịu khổ thêm một ít năm nữa cũng chẳng sao. Chứ để con bé thơ thơ ngây ngây thế kia phải u mê như lão thì lão mắc tội, phải không anh?

Thế là tôi thu xếp cho cái Đào về làng hồi hè sau kỳ tiếp quản. Cái đêm rạng ngày con bé đi, tôi đã nhắc lại rành mạch câu chuyện đau lòng của bố mẹ cháu cho cháu nghe. Trước nay, tôi chưa hé răng nhắc lại chuyện đó. Vì cháu còn dại quá. Nhưng trước lúc nó đi, tôi thấy cần phải nhắc lại với nó. Con bé mười lăm tuổi như nó có thể hiểu được rồi. Đành rằng tôi biết trước là tôi gợi lại thì thế nào cháu nó cũng sẽ khóc. Nhưng tôi nghĩ, sau khi nó rớt nước mắt, ắt nó nghĩ tới bố mẹ của nó. Tôi nói cho cháu biết rạng ngày mai cháu lên đường về ở trong làng là lên đường về báo hiếu cho bố mẹ đấy. Tôi nó rõ bố cháu trước kia là một người du kích gan dạ thế nào, mẹ cháu là một người đàn bà làm cá sần sùi cả đôi bàn tay để nuôi cháu thế nào. Cả bố mẹ cháu đều là người cực khổ, sinh nhai trên sông biển ra sao. Lúc tôi nói xong, cái Đào mở to đôi mắt nhìn tôi. Lúc đầu nó chưa khóc. Nhưng sau đó thì khóc đớn khóc đau. Một đứa trẻ khóc cha mẹ của nó, tám năm sau, giữa đêm hôm khuya khoắt nghe mà rứt cả ruột cả gan ra. Đêm ấy, hình như nó không chợp được mắt. Đến sáng, nó ra đi, nước mắt trên má vẫn chưa ráo.

Cái Đào đã về làng được bốn năm nay. Từ một con bé giờ đã thành một cô gái. ở Gia Luận nó làm việc đồng, đan lưới, vào thanh niên. Con bé được cái tính hiền hậu, vui vẻ. Nó lớn sao mà lớn từng ngày từng buổi. Con gái bây giờ đứa nào tới tuổi cũng đều lớn vụt lên như một bụi lúa đủ nước vậy. Mặt con cái Đào lúc nào cũng như cười anh ạ. Cái miệng cười, đôi mắt cười, khắp người nó cái gì cũng như muống nói: "Cháu vui sướng quá ông ạ". Thật là một con bé như vậy đấy, chẳng phải là tôi nói ngoa đâu. Cháu ở trong làng nhưng vẫn quyến luyến trìu mến tôi như ngày trước. Cứ hai hôm là cháu lại chèo thuyền ra một lần...

Ông cụ Sáu thôi nói, nhìn qua cửa. Không có gì. Chỉ có tiếng sóng chiều vỗ khỏe hơn, chốc chốc sóng giật sợi dây xích buộc xuồng bên dưới bật lên tiếng kêu xủng xoảng.

- Bữa nay đáng lẽ là bây giờ nó ra rồi đấy. Chắc là bận. Mỗi lần nó ra là tôi được biết tin tức mới trong thôn. Tôi ngồi đây, cứ nhìn cái Đào là tôi biết được bà con trong đó sống thế nào. Bà con trong thôn tôi mới rồi lập hợp tác xã. Họ săn được dê rừng làm tiệc, có gởi cho tôi một đùi. Lần đó con bé cứ nói suốt buổi về chuyện hợp tác, chuyện săn dê trên núi Rú. Nó nói bây giờ ai cũng có phần việc rõ rệt, đàn ông trai tráng làm đồng đi lưới, đàn bà con gái đan lưới chăn nuôi. Cái Đào được bầu làm tổ trưởng tổ đan. Con bé lại ở trong ban chấp hành Thanh niên lao động. Tôi trước kia dạy cho nó đan lưới, giờ hóa ra là tổ viên lĩnh phần việc của nó giao cho. Tôi mừng, nhưng lo nó ốm mất. Sao lại giao cho nó lắm việc thế nhỉ? Tội nghiệp, con bé cứ bận tíu tít cả lên. Tuy thế chứ nó không quên tôi đâu, mỗi lần ra đây y như là nó mang đến cho tôi sự vui vẻ. Có lần tôi bị ốm, sốt cứ mê đi, cái Đào ra, gọi nhưng không thấy tôi lên tiếng. Cháu hốt hoảng chạy lên. Sờ thấy trán tôi nóng hơ, con bé chảy nước mắt đầm đìa. Tôi nói: "- Ông còn sống đây, ông chưa chết đâu". Lần đó cả hai ông cháu tôi đều khóc. Sau đó con bé nó bảo tôi:

"- Thôi, ông xin Chính phủ với Đảng cho ông nghỉ đi, ông già rồi, để cháu ra gác đèn thay cho ông". Tôi nói: "- Con còn trẻ, con có việc của con ở trong ấy, rồi phải có chồng chứ". Nó lắc đầu:

- Cháu không... đâu, chừng nào ông mất cháu mới lấy.

Tôi mới bảo "Thế ông còn sống hai mươi năm nữa thì sao?".

Con bé lặng thinh. Tôi lại nói:

- Không được đâu con ạ, ông phải ăn cưới của con rồi ông mới chết.

Con bé cháu một mực bảo là ở vậy nuôi tôi, để thỉnh thoảng chèo thuyền ra, khâu vá cái áo, nấu cho tôi nồi bánh đa riêu. Chả là tôi ưa cái món bánh đa rắc cua. Vâng, con bé nó nói thế. Bây giờ, hễ nghe tiếng bơi chèo va vào mỏm đá là tôi nhỏm dậy, bụng vui lên bảo: "Cái Đào lại ra rồi!". Chuyện ông cháu tôi như thế đấy, anh ạ.

Mãi đến hồi sau Tết có một lần cái Đào ra. Chẳng hiểu sao mà hai má nó cứ đỏ ửng lên. Con bé nhảy nhót khắp lều, thấy vật gì cũng vui vẻ nâng niu, coi như những vật đó từ trước tới nay chưa từng lọt vào mắt nó vậy. Con Mực bị một hòn than rơi trúng cháy xém lông, sầy da có một tí, thế mà con bé nó cứ ôm cổ con Mực suýt soa: "- Tội nghiệp, tội nghiệp!". Tôi đoán hình như nó có chuyện gì rồi ấy. Người luống tuổi chúng tôi về già thường hay lú lẫn, nhưng có cái thì vẫn tinh ý hơn bọn trẻ các anh. Lúc đó tôi hỏi con bé:

- Hôm nay ông trông mày lạ lắm Đào ạ, có gì mà vui quá thế?

- Cháu vẫn thế đấy chứ! - Con bé cười đáp.

Tôi nói: - Nhất định là mày không bảo thật với ông rồi!

Con bé liền bưng mặt vừa cười vừa chạy ra cửa. Rồi nó dừng lại, tựa lưng vào nấc thang, không cười nữa, nhưng mặt thì cứ đỏ ửng lên. Nó nói vẻ nghiêm trang:

- Không mà, cháu có gì đâu... à, vừa rồi... ở tập đoàn các bác vừa bầu cháu là gương mẫu ấy mà...

- Không, cái đó mày đã nói với ông rồi!

Cái Đào rời bậc thang đi từng bước dài vào nhà. Đang đi đột nhiên nó quay phắt lại nhìn chăm chắm vào tôi:

- Ông ạ... cháu nói sợ ông lại giận.

- Không, tao không giận.

Con bé ấp a ấp úng không mở miệng ra được.

Tôi nói:

- Hay là có ai đến xin cô mày gả mày cho họ rồi?

Tôi vừa dứt lời thì cái Đào đã gục đầu ngay vào vạt áo của tôi. Lòng buồn bã như người mất của, tôi ngẩn ra một lúc, rồi vuốt nhè nhẹ cái lưng mềm mại tròn tròn của cháu, khẽ hỏi:

- Thế con có đồng ý không?

- Con không đồng ý - Con bé nói nũng nịu.

- Sao? - Tôi trố mắt lo lắng hỏi.

Con bé Đào cười nho nhỏ trong vạt áo:

- Cháu không biết thế nào sất ông ạ.

- Ai đấy?

- Ai thì ông biết rồi, cháu chả nói.

- Con nhà Quảng phải không?

Nó lắc đầu nguây nguẩy:

- Không phải đâu, không phải đâu!

- Đúng rồi... Ông biết mày bằng lòng rồi.

Con bé vụt ngẩng mặt dậy ôm chồm lấy tôi, rồi liền buông ra. Nó đi đến bên bếp lửa, ngồi xuống. Tôi trầm ngâm một chốc và nói:

- Mày có chồng chắc ông lại khổ! Liệu chừng ấy có bơi thuyền ra cái chòi của ông nữa không?

Con bé Đào buông xuôi hai bàn tay đang đun củi, đôi mắt long lanh, không trả lời. Phần tôi, tôi buồn vì tôi biết rằng rồi đây nó sẽ xa tôi hơn. Nhưng tôi cũng mừng thầm, con bé rồi sẽ có hạnh phúc. Tôi biết cái anh con nhà Quảng là một anh chàng rất giỏi việc, vừa cần cù lại vừa đang tiến. Nghe cô cháu kể lại là anh ta sắp được vào Đảng. Thằng thanh niên nào được vào Đảng là tôi tin, thế thôi.

Ông cụ nói tới đây thì bên dưới tháp đèn chợt có tiếng khua lụp cụp, rõ ràng là tiếng bơi chèo chạm vào mỏm đá. Ông cụ im bặt. Từ bên dưới vọng lên một tiếng gọi trong trẻo, trìu mến:

- Ông ơi...

Ông cụ Sáu lẩm bẩm: "- Nhắc tới nó là nó ra đến rồi!". Đoạn ông cụ quát to:

- Con cái Đào đấy hử?

- Dạ.

Ông cụ chạy ra. Tôi với anh Voòng Tài Phát cũng đứng dậy ra theo. Khi chúng tôi bước đến bậc thang bắc xuống bệ đèn thì thấy một cô gái đang trèo lên. Trong buổi chiều chập choạng, tôi chỉ nhận ra được một gương mặt bầu dục, với đôi mắt to đen lay láy nhìn chúng tôi một cách vừa thẹn thùng vừa niềm nở. Ông cụ Sáu nói:

- Anh Voòng với anh đây ở tàu ghé thăm ông đấy!

Cô con gái gật nhẹ đầu chào chúng tôi. Hai chúng tôi đứng hỏi thăm cô đôi chuyện, rồi vì trời tối quá nên chúng tôi từ biệt hai ông cháu.

Xuống tới xuồng, tôi cảm thấy gió thổi lạnh hơn và sóng biển chuyển màu xanh sẫm, mênh mông. Xuồng chúng tôi tếch ra, nhảy nhót trên sông. Tôi vừa đẩy mạnh mái chèo vừa lan man nghĩ ngợi. Đến lúc ngoảnh lại tôi chẳng còn trông thấy gì nữa, chỉ thấy ngọn đèn trên tháp cao đang chớp lóe. ánh đèn màu xanh rực chiếu một đường dài, rọi sáng mặt biển chiều hôm đang bốc hơi nhè nhẹ như đang thở.




Trả Lời Với Trích Dẫn
  #13  
Old 05-30-2004, 08:55 PM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

Ông lão vường chim





Khoảng rừng tràm cuối cùng bị bom dầu đốt cháy đã được dập tắt. ánh mặt trời nhạt dần trên những ngọn tràm. Sức nóng của một ngày nắng hạ và cháy lửa đã dịu hẳn xuống. Chiều lại đến, buổi chiều bảng lảng của U Minh và biển như đang lặng lờ ve vuốt các đám cháy còn nghi ngút khói. Như đang rờ rẫm những vết thương chưa trút cơn đau của rừng.

Đứng bên cái khoảng rừng bị cháy mới được dập tắt đó, một ông lão đen đúa cứ chống cuốc đứng nhìn trân trối những cây tràm bị cháy trụi gốc. Ông lão ở trần, đầu buộc khăn xước, mặc cái quần không ra quần ngắn mà cũng chẳng thành quần dài. Mồ hôi tươm tươm chảy ướt cả lưng ông lão, tấm lưng cháy nắng, đen thui thủi và dăn deo. Đôi mắt ông lão từ nãy giờ không chớp lấy một cái, mà cả người ông cũng vậy, cứ im nguyên, như tì hẳn lên cái cán cuốc. Quanh ông còn có chừng một chục người đàn bà đứng tuổi, mấy cô du kích khoác súng bá đỏ và ba bốn đứa con nít. Tất cả hình như đều ở dưới quyền chỉ huy của ông lão thì phải, bởi vì sau khi đứng ngó đám cháy một lúc lâu, bỗng thình lình ông lão đá hất cán cuốc, vung cao lưỡi cuốc lên và hô lớn:

- Thôi đi về, đi về!

Đám người kéo đi sau lưng ông lão, men ra phía bờ kinh. Dọc đường, ông lão thộp được mấy con rùa bị bom nóng quá chạy trốn xuống dưới gió. Ông lão gọi mấy đứa nhỏ tới, đưa cho nó. Mấy đứa nhỏ tay bợ rùa, chân bám sát theo ông lão. Hễ hướng mắt ông lão ngó chỗ nào là tụi nó te te chạy tới chỗ đó, kiếm rùa. Đang đi lầm lũi, chợt ông lão quay ra sau nói:

- Nè, ai làm siêng xuống phía dưới gió mấy chỗ bị cháy, thế nào cũng kiếm được rùa ăn... Mẹ cha ba thằng Mỹ, nó cứ chơi cái mửng này đôi ba trận nữa thì rùa rắn gì cũng bỏ đi hết ráo.

Đi tới một cụm rừng tràm có tiếng cò, diệc kêu vang rân, ông lão dừng lại. Trước khi lẩn vô cụm tràm đó, ông lão còn dặn với:

Hừng đông, mấy đứa phải có mặt đông đủ ở chòi của tao nghe. Nhớ đem theo dao phảng để chặt rễ cây.

Đám người nghe ông lão dặn thế thì đều dạ. Mặc dù ông lão nói câu nào câu nấy cứ như là hạ lịnh, nhưng ngó bộ ai nấy đều nghe ông răm rắp, chừng như họ có vẻ tin tưởng và kính nể ông dữ lắm.

Đám người đó đều đi về xóm bìa rừng, trừ một cô du kích thì cũng ghé vô cụm tràm với ông lão.

Ông lão về tới chòi, trời đã sụp tối. Cô du kích theo kịp ông lão luồn trước vào chòi. Trong phút chốc, ánh đèn đã cháy lên. ánh đèn chờn vờn soi rọi gian chòi có sàn lót bằng những cây tràm lột vỏ. Kể ra cái chòi cũng khá tươm, tuy không lớn như cái nhà, nhưng coi gọn ghẽ và kín đáo. Những thân tràm lót sàn lên nước bóng láng. Trong chòi có cả bếp nấu, sống chén, và ở cây cột giữa có treo một cây đờn gáo.

Ông lão dựng cuốc ở hè, nhưng chưa vào chòi. Trong khi cô gái nổi lửa bếp và bắt cá rộng nơi lu đem đập đầu bôm bốp thì ông lão vẫn còn đứng ngoài sân. Bóng tối mỗi lúc một đen thẫm. Thế mà bên trái mái chòi, bên trên đầu ông lão, cò diệc vẫn còn bay loạn xạ. Chúng kêu lên, vỗ cánh soàn soạt. Hình như những con cò con diệc ấy nửa muốn đậu xuống, nửa muốn lìa khỏi cụm rừng. Ông lão đứng trong bóng đêm nhập nhoạng, đưa hai bàn tay nứt nẻ dính đầy tro bụi sờ sờ bấu bấu lên ngực.

- Trời ơi... - Ông lão buột miệng rên rỉ.

Là vì giữa lúc đó, ông lão đau đớn quá. Giữa lúc đó, ông lắng tai nghe thấy được những tiếng đập cánh phân vân, rõ ràng là lũ chim của ông đang không nỡ bỏ đi, nhưng đáp xuống thì lại không dám.

- Chưa có trận nào như vậy, thiệt là chưa có mà!

Ông lão lẩm bẩm tự nói.

Đêm tối trùm phủ cái vườn chim xao xác, trùm phủ bóng ông lão đứng ngước mặt nhìn lên. Tối nay thiệt là một đêm tối khác biệt, có thể nói là một đêm tối tai biến nhất đã xảy ra trong gần suốt bốn mươi năm kể từ khi ông lão tới đây coi giữ vườn chim. Tại góc rừng U Minh hạ miệt giáp biển Hòn Đá bạc này, ông lão đã sống gần trọn một đời. Trong ngót bốn mươi năm, bên mái chòi ông lão ngủ, hầu như không có lúc nào ngừng nghỉ tiếng chim kêu, tiếng chim vỗ cánh, tiếng của những chuyến đi và về của không biết cơ man nào là cò cùng diệc.

Những năm tháng dài dặc đã gắn liền đời ông lão với khu vườn chim. Lâu rồi, ông có niềm vui sướng bình dị của riêng ông là chiều nào lũ chim cũng trở lại với ông, kêu lên những tiếng kêu như tiếng khánh, làm rộn rịp cả cụm rừng và vui vẻ bầu trời. Đời ông lão vất vả cực nhục đã nhiều, cho nên nguồn vui của ông nó cũng đơn sơ: tình ông đối với cái vườn chim này là một, và tình ông đối với bộ đội giải phóng là hai. Thì chính có lần ông đã thốt: - Cái chi tao dứt bỏ được chớ cái vườn chim này với mấy thằng bộ đội thì tao không dứt ra được đâu!

Nói mấy thằng bộ đội tức là trong đó có cả thằng cháu nội của ông hiện tại ngũ, mà chính cô du kích nổi lửa nấu cơm trong chòi là vợ chưa cưới của anh ta.

Cho tới bây giờ, cả xã ít có ai biết tên thiệt ông lão là gì.

Bà con nơi xóm bìa rừng đây thì vẫn thường gọi ông là ông Tư Vườn Chim.

Nay ông Tư Vườn Chim tuổi đã dư sáu mươi rồi đó, thế mà cái vườn chim ông coi giữ đây còn cao tuổi hơn ông nhiều. Theo lời ông thì cò, diệc kéo đến làm tổ ở đây đã lâu, lâu lắm. Khi ông cùng vợ vác nóp tới cắm chòi, cụm rừng tràm này chim cò đã tới nhiều. Ông nói trong buổi đi kiếm đất khai khẩn bị lạc lối, ông leo lên cây cao nhắm hướng, xảy thấy giữa khoảng rừng tràm xanh ngăn ngắt nổi lên một cụm rừng nhấp nhô những cánh chim lên lên xuống xuống, và ông thấy tất cả những ngọn tràm ở đó đều nhuốm trắng, trắng xóa. Bấy giờ tuy còn ôm chặt thân cây nhưng ông đã kêu với vợ đứng dưới:

- Mình ơi, khỏe rồi, vợ chồng mình sống đặng rồi!

Quả là vợ chồng ông Tư Vườn Chim đã sống ngay được từ buổi đầu lặn lội tới U Minh, nhờ ở cái vườn chim trời cho ấy, nhờ ở những con diệc con cò mới ra ràng mà hai vợ chồng cào móc cho rớt xuống, bắt đem bán và đổi gạo. Rõ ràng thiên nhiên U Minh đã khoản đãi ông, đã bù đắp cho ông sự vất vả cực nhục mà thời con trai ông sớm chịu đựng, nhưng chịu đựng riết không nổi phải bỏ làng dắt vợ đi miết tới chốn này. Nhưng hỡi ôi, thiên nhiên nào có khoản đãi ông được lâu. Sau khi vợ chồng ông cắm chòi giáp năm thì bỗng thình lình ngày nọ có mấy người mặc áo "bành tô" vàng ngồi xuống đi từ Xép Biển vô báo cho vợ chồng ông hay rằng cái vườn chim này đã có chủ chớ không phải vườn chim hoang, và người chủ phóng bông tiêu lâu rồi, cớ sao hai vợ chồng dám lỏn vô ở, tự tiện bắt chim đem bán. Ông Tư nghe vậy mới bật ngửa, mồ hôi toát ướt cả người. Khi ông hỏi người chủ là ai, thì mấy người mặc áo bành tô vàng đó không thèm đáp, cứ chắp tay sau đít đi rảo rảo quanh chòi ngó coi chim cò, xầm xì to nhỏ cái chi với nhau. Lúc sắp xuống xuồng về, họ mới nói tạt vào mặt ông là ông không lo sửa soạn đi ở tù còn ở đó gân cổ lên mà hỏi. "Người chủ là ai à? Là ông hội đồng ở bên Phong Thạnh, biết chưa?".

Cái ông hội đồng ở bên Phong Thạnh mà ông Tư không hề biết mặt mũi ra sao đó, bỗng chốc trở thành ông chủ vườn chim. Còn ông Tư thì cũng chưa đến nỗi đi ở tù. Người ta nói là để giảm tội cho ông, ông phải ở lại chòi mà coi giữ vườn chim, mà bắt chim giao cho ông hội đồng. Tóm lại, đáng ra ông mới chính là chủ vườn, thì trong nháy mắt ông biến thành kẻ đầy tớ. ức quá, ông muốn dắt vợ bỏ đi chỗ khác thử kiếm kế mưu sinh lần nữa, nhưng ngặt vì lúc ấy vợ ông đã có thai. Hơn nữa chốn này kể như là "thủy đã cùng, sơn đã tận" rồi còn biết đi đâu nữa.

Vậy là ông Tư Vườn Chim đành ở coi vườn cho ông hội đồng Phong Thạnh. Về sau ông hội đồng này bán đất cho Tây La Ghi, ông Tư lại là kẻ ở coi chim cho Tây La Ghi. Cách mạng tháng Tám thành công, ông Tư Vườn Chim như người chết đi sống lại. Lúc này vợ ông đã qua đời và đứa con trai cũng đã thành niên. Ông lo cưới vợ cho con. Khi Tây bắt đầu tấn công xuống miệt này, ông liền cho con trai đi Vệ quốc đoàn. Mấy tháng sau, đứa con trai độc nhất của ông hy sinh trong trận Xẻo Rô, để lại vợ và một đứa con, cũng là con trai. Ông Tư Vườn Chim bao bọc cho con dâu và nuôi thằng cháu nội.

Hồi kháng chiến lần trước, vườn chim vẫn thuộc đất giải phóng nên ông Tư là người quản thủ vườn chim cho quốc gia. Hòa bình lập lại, không lâu sau, bọn Diệm đóng đồn lớn ở Xép Biển, luồn sâu tới xóm bìa rừng lập hội đồng hương chính, tổ chức tự vệ hương thôn. Chúng bắt đầu giết người kháng chiến cũ một cách ác hại. Nhưng làm chi thì làm, khu vực vườn chim của ông và các cánh rừng tràm kế cận suốt những năm đen tối vẫn là chỗ tốt nhất cho anh em cán bộ cách mạng lánh né, ẩn náu. Trong mấy năm đó, ông chứng kiến biết bao cảnh thương tâm, và ông lại mất nốt đứa con dâu, một đứa con dâu mà ông lão thương yêu rất mực. Đã nhiều lần, vì cảm thương cho tuổi trẻ góa bụa, ông đã lựa lời khuyên con dâu hãy gây dựng cuộc đời mới. Và cứ để đứa con cho ông nuôi. Nhưng chị vợ góa của người Vệ quốc đoàn ấy chỉ khóc, và cứ như vậy, ngày ngày đi bắt chim với ông lão, nuôi con. Hồi đen tối, chị vẫn thường lẻn đi đem cơm cho anh em cán bộ trốn ngoài vườn tràm. Bọn ác ôn tay sai của Mỹ Diệm bắt được chị giữa lúc chị đi tiếp tế. Chúng mổ bụng chị tại vườn chim, nơi chị sống qua những ngày góa bụa để nuôi con khôn lớn.

... Trời đã tối rồi. Ông lão vẫn còn đứng ở vườn chim của ông. Hai bàn tay ông vẫn sờ bấu lên ngực. Trong phút chốc, ông lão thấy lại như in, từng cảnh đời của ông, của con cái ông.

Sự biến trong vườn chim do bom đạn Mỹ gây nên đêm nay chính là cái nguyên cớ tái hiện trước mắt ông lão mọi sự đời ông đã trải. Nó cấy vào lòng ông nỗi đau xót và phẫn nộ lặng thầm, mỗi lúc một nghiến ngấu, mỗi lúc một sôi sục. Cộng vào đấy là nỗi lo âu không dứt về khu rừng đã bắt đầu bị phá phách, về con đường rừng dẫn ra sông Trẹm mà bộ đội thường đi lại, bấy lâu kín đáo là thế, nay đột nhiên bị chúng thả bom dầu đốt. ý định của bọn giặc đã rõ. Vì bị đánh mạnh bên kia sông Trẹm, bộ đội luồn qua rừng tràm dày bịt này để tiến đánh chúng và rút lui. Thế là từ phận sự coi vườn, ông lão lại cáng thêm phận sự chỉ huy một đội cứu rừng. Hôm giao nhiệm vụ này cho ông, đồng chí trưởng ban quân sự xã bảo:

- Ông Tư à, trách nhiệm của bà con mình ở đây là phải giữ sao cho rừng được kín. Phải giữ lấy địa hình. Rừng không thể để cháy hết được, đây là vấn đề sống chết. Anh em bộ đội trông cậy ở bà con mình, cụ thể là bà con xã mình. Phần ông Tư, tụi tôi tin tưởng ông Tư lắm đó nghe!

Vẫn đứng giữa vườn chim, trong bóm đêm mịt mùng và trong tiếng chim xao xác trên đầu, ông lão từ từ nắm chặt hai bàn tay lại. Ông thấy tay mình hãy còn săn chắc lắm: "Tao đã già, nhưng chưa đến nỗi đâu. Tao sẽ cho tụi bây biết tay. Rừng này là của tao, dòng kinh này là của tao, cả vườn chim này nữa, tất cả đều là của tụi tao hết!". Ông lão gầm gừ như muốn thét thiệt to những lời ấy.

Trong chòi bếp đã đỏ lửa. Củi tràm cháy kêu nghe lách tách. Cô gái đang nướng cá, và cô đang bện lại tóc. Cơn phẫn nộ trong người ông lão chợt lắng xuống dần. Có cái chi tươi mát lan vào, dìu dịu xoa nhẹ lòng ông. Chợ ông lão có cảm tưởng như nhìn thấy một cảnh cũ. Xưa kia con dâu ông cũng có lúc ngồi chụm bếp như vậy. Nay thì lại đứa cháu dâu rồi. Một lớp người sau nữa rồi.

Ông lão cúi mình bước vào chòi. Cô gái quay lại vui vẻ:

- Cơm cạn nước rồi. Nãy giờ nội ở đâu? Nội ơi, con nướng cá cho nội nhậu đây nè!

Ông lão không nói gì, ngồi xếp bằng giữa sàn nhà, tháo cái khăn xước trên đầu xuống:

- Rượu còn không con?

- Còn. Hồi sáng con mới đem vô một lít. Ba con gởi cho nội. Nghe ba con nói rượu ngon lắm!

Cô gái trở con cá lóc trên bếp lửa rồi đi lấy chai rượu đem ra. Ông lão rót một ly, nhấm nháp. Mùi cá lóc nướng nghe thơm sực khắp chòi. Lát sau, cô gái đem cơm và cá ra. Ông lão nói:

- Con ăn cơm đi. Tối nay con có đi tuần không?

- Có nội à, khuya khuya mấy đứa nó đi ngang sẽ kêu con.

Cô gái đem chén xới cơm, ngồi ăn. Cô gắp bộ lòng cá to đặt vào chén của ông lão. Bên ngoài, vườn chim lao xao thêm một chặp nữa rồi im lắng dần. Thỉnh thoảng, một vài con cò lạc đàn kêu hớt hải giữa thinh không. Ông lão uống rượu chậm rãi. Đến lúc cô gái ăn xong cơm, ông lão vẫn chưa đả động tới chén cơm của ông. Ông trìu mến nói:

- Con bỏ mùng đi ngủ sớm đi. Mai chắc tụi nó lại liệng bom nữa đó. Chừng nào đi tuần, mấy đứa nó kêu, lo gì!

Cô gái dạ, nhưng sau khi rửa chén, cô cũng chưa đi ngủ. Cô soạn lấy áo rách của ông lão đem ra vá. Gian chòi có vẻ ấm cúng hẳn lên. Cái không khí đe dọa của lửa bom gieo rắc trọn một ngày giờ đây như bị xua tan, khi mà các bầy chim đã chọn được chỗ ngủ, khi tiết trời mát dịu về đêm của U Minh đuổi dần hơi nóng của bom dầu, khi trong gian chòi yên tĩnh này có một cô gái ngồi chăm chỉ khâu vá và một ông lão ung dung ngồi uống từng hớp rượu nếp trong veo.

ở phía Hòn Đá Bạc, biển vẫn rì rào vọng tới đây tiếng sóng triền miên không ngớt.

Ông lão chợt hỏi:

- Nè, con có đem mấy cái thơ của thằng Thắng gởi về đó không?

- Dạ có, - Cô gái đáp, rồi hỏi: - Chi vậy nội?

- Con để đó, đem mấy cái thơ ra đọc lại cho nội nghe coi!

Ông lão bảo thế và lại rót rượu ra ly. Cô gái nghe lời ông lão, móc chiếc ví trong túi ra mấy lá thư mà cô xếp rất kỹ sau một tấm ảnh bọc nilông, ảnh một chiến sĩ giải phóng quân vai đeo súng trông vừa hiên ngang vừa chất phác. Đó là cháu của ông lão, người yêu của cô gái.

- Con đọc nghe nội?

- ờ đọc đi. Đọc cho có thứ tự, cái gởi về trước đọc trước, cái gởi về sau đọc sau.

Cô gái khẽ đằng hắng một cái rồi bắt đầu nhỏ nhẻ đọc. Từ lá thư thứ nhất tới lá thư thứ hai, thứ ba, cô đọc đều đều không vấp một chữ. Trong lá thư nào, anh chiến sĩ cũng hỏi thăm sức khỏe của ông lão và cô gái, hỏi thăm vườn chim và xóm bìa rừng. Anh ta hỏi han thiệt là nhiều thứ. Nào là ở vườn dạo này có nhiều chim như trước không, mùa khô vừa rồi có bắt được rùa nhiều không. Anh ta còn hỏi những ống trúm cũ ở nhà đã thay chưa, rồi bảo rằng ở đơn vị rất thèm lươn. Thư anh cũng có kể chuyện đánh chác, nói là đã đánh nhau với lính Mỹ. Anh ta kể lại một trận mới đây, đơn vị anh rình liền ba ngày, hứng tụi Mỹ trên trực thăng đổ xuống như thể hứng sung, hốt sạch không chừa một thằng Mỹ nào kể cả những thằng mới thoạt trông thấy quân ta giương lê ra là nó đã bụm mặt ù té chạy.

Ông lão ngồi nghe đọc thư, cứ gật gù, vê vê chòm râu. Dường như là ông mới nghe đọc những thư ấy lần đầu vậy. Nghe thằng cháu kể chuyện đánh Mỹ, ông lão cứ là mê đi, ông rướn cả người tới, vỗ đùi kêu: "Thiệt là đồ chết nhát mà chỉ giỏi làm phách trên máy bay chớ đối mặt với bộ đội mình thì là đồ khốn!".

Ông la vậy rồi bưng chén cơm và ăn coi ngon lành.

Ông trệu trạo nhai cơm nói:

- Cái thằng Thắng coi bộ thèm lươn thèm rùa dữ rồi, tao biết mà.

- Thơ nào ảnh cũng nói có dịp thì sẽ ghé, mà chớ có thấy ảnh ghé. Gần giáp năm rồi! - Cô gái nói, có ý trách móc.

Ông lão dừng đũa bảo:

- Nói vậy chứ đâu phải dễ ghé con! Tụi nó đâu có rảnh tay, hết trận này là mần ăn tới trận khác. Lóng rày Mỹ nó qua nhiều, bộ đội phải đánh nó liền giết nó mới kịp chớ!

Cô gái lặng lẽ xếp thư cất vào ví. Ông lão ăn xong bữa cơm, vừa xỉa răng vừa nói:

- Con viết thơ cho nó đi nghe. Nói cho nó biết là xóm mình rừng mình mới bị Mỹ liệng bom, bao nhiêu người chết, chim cò rùa rắn hoảng chạy ra sao, viết cho nó hay đi nghe con!

Ông lão dặn thế đoạn bò vào góc chòi, kéo tấm đệm trải ra. Cô gái đi mắc mùng cho ông lão. Một chốc sau ông lão đã cất tiếng ngáy. Cô gái vẫn còn ngồi bên đèn vá một cái áo. Lúc cô vá xong thì đã nghe tiếng gọi í ới ngoài kinh. Chị em du kích đã gọi cô đi gác. Cô gái đứng dậy khoác súng, thổi tắt đèn và ra khỏi chòi.

Gian chòi chỉ còn lại có ông lão nằm ngủ. Tiếng ngáy của ông nghe rất khỏe. Tới khoảng nửa đêm, chợt có tiếng súng nổ rền ngoài phía sông Trẹm. Ông lão giật mình tỉnh dậy. Ban đầu ông còn nằm, về sau súng nổ dữ quá, tiếng "đêka" nổ nghe "phùm phùm phùm" rồi tiếng đại liên, trung liên cứ rành roạch, rành roạch. Ông lão tức khắc ngồi bật dậy: "Chết cha rồi, đánh rồi!". Ông lão thầm la lên. Và cứ như một đứa trẻ, ông lão cứ loai choai trên sàn chòi. Sau cùng, nôn quá, ông chui ra khỏi chòi. Đứng ở sân, ông ngó hướng súng nổ. Nhưng rừng tràm che khuất, đâu để ông ngó thấy được cái gì. Thế là ông lọ mọ chạy ra bờ kinh. ở đây, ông lão thấy được những ánh chớp xanh lè lóe lên như thể trời nhoáng chuyển mưa. ánh chớp đỏ lóe lên một đỗi sau thì tiếng "phùm phùm" mới vọng tới tai ông. "Rõ ràng là đêka rồi, chắc đánh ở Biển Bạch!". Ông lão thầm nghĩ. Khoái quá, ông chạy tới bờ kinh, bật cười kha kha.

Có tiếng xuồng ai dưới kinh đang rẽ nước đi tới. Ông lão quát hỏi. Té ra là xuồng mấy đứa nữ du kích đi tuần về. Tiếng cô cháu dâu hỏi:

- Nội đó hả?

- ờ, tao đây.

- Đánh ở Biển Bạch rồi nội ơi!

- Đánh đồn Biển Bạch hả? Trời đất, tao cũng cầm chắc là đánh Biển Bạch mà!

Vừa lúc mũi xuồng rướn vào bờ, cô gái xách súng nhảy lên lào phào:

- Đúng rồi, đã có thông báo của xã.

- Thông báo gì?

- Thông báo chánh thức đêm nay bộ đội mình tấn công đồn Biển Bạch, xã huy động tất cả lực lượng lát nữa ra bám dài tới bờ sông để sẵn sàng giữ rừng nếu sáng ngày máy bay nó phá rừng nữa.

- Vậy hả? Được rồi, được rồi. Mấy đứa nào dưới xuồng đó bây, về lo chuẩn bị đi!

- Tụi con chuẩn bị hết rồi nội ơi, tính lại rước nội đi luôn thể đây. Bà con trong đội mình hay hết rồi!

Mấy cô gái nói rồi cũng xô nhau nhảy lên hết. Các cô thì thào với ông lão:

- Nội à, nghe đâu mai bộ đội sẽ rút qua đây!

Nghe thấy, ông lão nói như nạt:

- Rút qua đây? ối, không có đâu. Mấy đứa bây làm sao mà biết. Bộ đội người ta có một trăm con đường rút. Chuyện đó làm sao tụi bây biết được!

Tuy nạt thế, nhưng vừa đi trở lên chòi, ông lão nghĩ bụng chừng như mấy đứa nữ du kích nói có lý. Chớ nếu không, sao lại huy động cả xã đến cứu rừng một cách gấp rút như vậy?

Trời vừa rạng sáng, máy bay giặc đã kéo tới vần vũ cánh rừng. Những chiếc phản lực bay rú qua rừng tràm còn ướt sương. Bom dầu bắt đầu nổ "phùm phùm" dọc theo con kinh rừng dài trên mười cây số; một trái bom rơi xuống cách đội cứu rừng của ông Tư Vườn Chim độ hai công đất. Lập tức ông lão vung cuốc ra lệnh mọi người xông tới. Ông lão mở đường để đào mương ngắn cắt ở phía dưới gió. Lúc bấy giờ không biết cái áo trong người ông lão đã liệng đâu mất. Như một viên tướng, ông lão nhảy bổ xông xáo từ chỗ này đến chỗ khác. Trái bom dầu cháy bùng. Hơi bom thổi cái khăn xước trên đầu ông lão bay riệt ra phía sau. Với chiếc cuốc vung lên tới tấp, ông lão cắt mương. Mọi người nối đuôi sau lưng ông, tận lực chém tràm, dọn đất, đào bới. Ngọn lửa khét lẹt từ phía trên gió táp dần xuống phía họ. Mùi xăng nồng nặc tỏa khắp rừng tràm, báo hiệu rằng nó còn tiếp tục cháy rộng ra nữa. Trên đầu mọi người, những chiếc phản lực vẫn vút ngang, hú lên ghê rợn. Súng trường bá đỏ của du kích nổ ầm ầm. Tốp bắn máy bay đều là nữ du kích, trong đó có cô cháu dâu ông lão. Các cô núp dưới những gốc tràm, nghếch nòng súng lên mà bắn đón những con dơi sắt khổng lồ.

Cái mương ngăn cắt ngọn lửa bom trong phút chốc đã thành hình. Cuốc vá xắn đứt những dây choại, dây dớn, những gốc mốp trắng nhểu nước ròng ròng. Đất đào lên được họ xúc đổ dập vào ngọn lửa đang cháy. Được cái đất U Minh này vốn là cội cây mục và lá tràm nên đào cũng không khó. Ông Tư Vườn Chim đưa lưỡi cuốc tới đâu là đất ở đó sụp lở ào ào. Quả là ông cuốc đất dày kinh nghiệm hơn người. Ông cuốc nhanh nhưng không vung cao, do đó ông ít bị mất sức.

ở ven mảng rừng tràm bị phá trống, đội cứu rừng do ông lão chỉ huy dăng ngang đưa mười mấy bộ ngực ra như chống chỏi vầng lửa đang ùa tới. Cái thứ lửa bom này thiệt là hung hiểm làm sao. Nó cháy cuốn tất cả mọi cây tràm tươi, và nếu dại dột đem nước dưới kinh đổ hắt vào thì nó càng cháy lớn hơn. Chỉ có một cách không cho nó cháy lan, là đào mương ngăn cắt.

Cái mương hình vòng cung vây bọc lấy vùng lửa cứ mỗi lúc được đào sâu thêm... Cuối cùng, lúc ngọn lửa phả tới nóng rát, ông Tư thét lớn ra lệnh cho mọi người nhảy lên. Người ta kéo lôi mấy thím nông dân chậm chạp và mấy đứa nhỏ phụ khuân đất ở dưới.

Lửa tràn tới, réo nghe hù hù. Bất ngờ, lửa bị chặn đứng, bởi cái mương vừa đào xong đó. Ông Tư Vườn Chim đưa mắt nhìn ngọn lửa tiu nghỉu la liếm bờ bên kia, thầm nói: "Tao chỉ cho mày cháy một lõm đó thôi, không để mày cháy lần ra đâu!". Và ông khoái trá nhận ra trái bom vừa rồi không phá hoại được bao nhiêu. Xung quanh ông, rừng tràm vẫn vươn những thân trắng lốp, lá tràm vẫn xanh ngắt che rợp trên đầu. Bọn máy bay phản lực bây giờ không dám rà sát nữa. Từ bên dưới, các cô du kích cứ xoay theo gốc tràm mà nổ súng. Tuy thế, chúng vẫn liệng bom dầu bừa bãi. Mấy trái rơi ngay giữa kinh. Dòng kinh nước U Minh ngầu đỏ như máu ấy sôi lên sùng sục.

Đến lúc trời hửng nắng, bọn máy bay giặc lại mở một đợt tấn công dồn dập. Ba trái bom dầu rơi liền nhau, bốc cháy ở quãng rừng do đội ông Tư coi giữ. Ông lão la lên:

- Theo tôi!

Thế rồi, ông hươi cuốc cho mở ngay một đường theo thế hình rắn lượn, vòng vèo vây chặt lấy chỗ bom cháy. Đám người bám theo ông lão như một đoàn múa rồng rắn. Họ lại đốn gốc tràm, chém rễ cây, đào, cuốc. Đường mương ngăn cắt có dài hơn, nên họ phải rải người ra và cuộc chiến đấu của họ lần này so với lần trước gay go gấp bội. Tưởng chừng lần này ngọn lửa sẽ xô giạt họ và cháy lan rộng ra. Đám người lúc ẩn lúc hiện sau vùng lửa khói. Mùi xăng nồng nặc làm cho họ muốn nghẹt thở. Hơi nóng của bom hực lên. Nhưng rồi cái mương lượn vòng quanh lửa ấy cuối cùng sâu xuống được một lớp đất, một lớp nữa, rồi thêm một lớp nữa. Khi vùng lửa đã bị cái mương kỳ diệu ấy hoàn toàn ngăn lại, mọi người khiêng lên khỏi mương một thím nông dân và một thằng bé. Cả hai bị nhựa xăng phết lên người. Ông lão cho khiêng cả hai về xóm.

Từ đấy đến xế chiều, đội cứu rừng của ông lão còn đối phó tới gần một chục trái bom xăng do hai đợt máy bay giặc liệng xuống. Không có ai bị thương vì bom, nhưng có thêm mấy người nữa lả đi. Lúc mặt trời xế bóng, ông lão cùng mọi người dập tắt một đám cháy cuối cùng. Khi mương đã móc xong, ông lão ngã vật ra. Mọi người xúm lại khiêng ông lão lên. Ông lão bất tỉnh, vì quá mệt và vì trên lưng ông bị phỏng nhiều mảng.

Cô cháu dâu và một cô du kích nữa võng ông lão đi qua quãng rừng tràm bị cháy để về vườn chim. Dọc đường, ông lão tỉnh dậy ngơ ngác hỏi khiêng ông đi đâu. Cô gái bảo là khiêng ông về chòi thì ông vùng choàng dậy nhảy xuống, chạy về phía tuyến rừng của ông khi nãy. Nhưng được có mấy bước, ông lão ngã khuỵu xuống. Hai cô gái lại đặt ông lên võng, khiêng đi.

Về tới chòi, cô cháu dâu chạy vội ra bờ kinh ngắt vội mấy lá môn nước, đỡ ông lão dậy, lót lưng cho ông nằm. Từ đó trở đi, mỗi lần tỉnh dậy, ông lão lại hỏi: "Tụi nó còn liệng bom nữa không?"

Cô gái ứa nước mắt lắc đầu.

Mà thiệt, sau cái đám cháy ông lão cứu chữa rồi ngã xuống đó, máy bay giặc không đến nữa. Ngoài chòi, rừng tràm đã tắt nắng. Hoàng hôn U Minh lại đến, cùng với tiếng sóng biển miệt Hòn Đá Bạc vỗ về không ngớt. Vườn chim không xao xác như chiều hôm trước nữa. Có lẽ cò và diệc đã lánh bớt về những cánh rừng còn yên tĩnh.Cái chòi đắm mình trong buổi chiều đổ xuống, trong tiếng rì rào của rừng tràm xao gió và trong tiếng sóng biển đồng vọng. Sau một ngày chiến đầu tận lực, bây giờ ông lão nằm im giữa chòi, lúc tỉnh lại, lúc thiếp đi. Những vết phỏng ở lưng ông lão không nặng, nhưng ông lão mệt đuối, vì đã ba hôm ròng ông dốc tất cả sức lực của tuổi già để giành giật lại từng khoảng rừng tràm.

Đêm xuống dịu dàng như mọi đêm U Minh tháng hạ. Trong bóng đêm nhập nhoạng gian chòi, ông lão lại thiếp đi. Lần này ông lão mơ thấy những cảnh chưa bao giờ ông hằng mơ thấy. Cả rừng tràm bừng lên một sức sống mãnh liệt. Lá tràm chưa có lúc nào xanh tươi đến thế, hương tràm chưa có lúc nào ngát thơm đến thế. Bông tràm rụng trắng cả mặt kinh. Cái vườn chim của ông thì mới lạ lùng hết chỗ nói, tổ chim cứ đong đưa ken sát nhau đến nỗi khó mà nhìn thấy kẻ trời. Ngoài cò và diệc còn có nhiều loại chim lạ lũ lượt bay về hàng đàn, con nào con nấy lông cánh cũng sặc sỡ muôn màu. Ông lão cảm thấy người mình cứ lâng lâng, thấy như mình không còn ở cõi địa giới nữa mà là đang phiêu diêu tới một miền thần tiên cực lạc. Trong mơ, ông còn tới dự đám cưới của cháu. Chỗ đám cưới coi y như chỗ động tiên. Bộ đội giải phóng mặc quân phục mới tinh đang múa hát và uống rượu múc ở kinh lên, vì khi ấy nước dưới kinh đều biến thành rượu cả. Mấy đứa nữ du kích xã chuyên chuốc rượu, chẳng thiếu một đứa nào. Chúng nó ăn vận đẹp quá. Có điều rất lạ trong đám cưới đó sao chỉ có mình ông lão là ở trần, bịt khăn xước, và tay nắm chặt cây cuốc. Ông nhìn người mình, cũng lấy làm kinh ngạc cho mình. Thế rồi bỗng ông nghe tiếng gì y hệt tiếng bom, ông liền vung mạnh cuốc quát bảo tất cả mọi người đi theo ông cứu rừng. Trong tư thế chạy lao lên ông lão đạp mạnh một cái và bừng tỉnh.

Trước mắt ông lão bây giờ lại là một cảnh mơ nữa. Ngồi sát bên ông là thằng Thắng cháu ông đang nắm tay ông lay gọi:

- Nội ơi, con về đây nè, nội ơi!

Ông lão nhướng mắt nhìn. Đúng thằng Thắng thiệt rồi! Nó mặc quần áo bộ đội, nhưng không phải quần áo mới như hồi nãy, mà là quần áo may bằng vải thô ướt đầm mồ hôi. Hồi nãy ông không thấy nó đeo súng, nhưng bây giờ nó đeo súng, thứ súng gì lạ hoắc ông chưa hề gặp. Trông nó cao lớn hẳn lên. Ông lão cứ ngỡ là mình còn trong chiêm bao. Nhưng không, chỗ ông nằm là chòi chim rõ ràng. Đúng là cái vách lá xé ấy, ngọn đèn bánh ú ấy. Bên cạnh thằng Thắng là vợ chưa cưới của nó. Ông lão trân trối nhìn cháu mình, nghi hoặc. Cô gái run run ôm bàn tay ông lão:

- Anh Thắng, ảnh mới về ngang nội à! Tỉnh lại đi! Nội ơi!

Ông lão chợt thấy lưng mình rát bỏng, đau đớn. Nhờ đó ông mới vỡ lẽ đâu như mình không còn nằm mơ nữa. Trong lúc cô gái lập cập cắt nghĩa cho ông biết là bộ đội từ ngoài sông Trẹm vừa đổ qua rừng, bộ đội đã tiêu diệt đồn Biển Bạch rồi, ông lão ngơ ngác mất một lúc nữa rồi cầm tay đứa cháu:

- Vậy mà... tao cứ tưởng... Tao tỉnh rồi, tỉnh rồi. Thắng ơi, tụi đồn Biển Bạch tan hết rồi hả?

- Tan hết, tụi con còn nhận chìm luôn mấy tàu tiếp vận nữa nội à. Hồi xế, tụi con ở ngoài sông mới bắt đầu băng rừng.

Ông lão nhổm đầu dậy hỏi:

- Sao, rừng còn đi được chớ, chắc chưa cháy hết chớ? Anh em bây giờ có yên không?

- Máy bay rà dữ lắm, nó theo tụi con trọn ngày nay đó nội à. Nhưng tụi con qua rừng bình yên. Máy bay nó đâu có phát hiện nổi. Nhờ rừng mình chưa cháy hết, nhờ rừng còn xanh nhiều. Xã mình giữ rừng hay quá. Nội ơi, nội ở lại rán mạnh, con phải đi ngay bây giờ. Đơn vị con đã lên hết rồi.

Mắt cô gái bắt đầu đỏ hoe, rưng rưng. Ông lão lặng lẽ nhìn cháu. Lát sau ông gật đầu nói:

- ừ, thôi con đi đi, đi cho kịp anh em...

Anh chiến sĩ đứng dậy, xốc lại súng nơi vai. Anh ta nhìn ông lão, nhìn cô gái, và nói với ông lão:

- Con đi nội nghe!

Thình lình anh đưa tay cho cô gái, nhoẻn miệng cười. Hai người bắt tay nhau, người cười người mếu. Anh ta trêu: ... "Du kích gì mà khóc?" Khiến cô gái đang mếu bật cười phì ra. Anh chiến sĩ ngó bao quát gian chòi lần nữa, rồi quay lưng bước ra khỏi chòi. Cô gái bật choàng dậy, chạy theo anh.

Chỉ còn lại ông lão, một mình nằm giữa chòi chim. Bây giờ ông lão mở mắt, tỉnh táo hẳn ra. Ông đang lắng nghe tiếng chân bộ đội hãy còn thình thịch đi ngang và tiếng dầm chèo khua chạm vào mạn xuồng ở dưới kinh. Lâu sau, mọi tiếng động đó im đi, xa đi. Đêm U Minh lại trở về với tiếng sóng biển nghe rùng rùng như những hồi trống, với tiếng gió xào xạc những ngọn tràm cao.

Ông lão Vườn Chim lại thiếp đi.

Không biết ông có mơ giấc mơ nào nữa hay không. Nhưng vẻ mặt ông lão bây giờ trông thanh thản, trông như đang cười.

Cô gái đã trở lại chòi.

Quỳ thụp hai gối xuống sàn chòi, cô cầm một chiếc khăn, mím môi và thấm nhẹ những giọt nước vàng chảy rỉ ra ở lưng và vai ông lão.

1965



Trả Lời Với Trích Dẫn
  #14  
Old 05-30-2004, 08:55 PM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

Xôn xao đồng nước





Luồn qua khỏi cụm tràm xơ xác vì bom đạn, đoàn khách chúng tôi dừng lại trên một bờ trâm bầu rậm lá. Sau kẽ hở của những thân cây trâm bầu nhú gai sắc, cánh đồng ngập nước lấp loáng như một tấm gương lớn. Anh giao liên nhấc cái nón sắt Mỹ trên đầu xuống nói:

- Tới chỗ đổi trực rồi, mình nghỉ đợi bên kia qua, mấy anh lo bẻ lá ngụy trang đi. Cánh đồng mấy anh sắp qua đây rộng tới ba bốn cây số, mà trống lắm!

Nói rồi anh vặt một nhánh trâm bầu trước mặt, giơ tay chỉ:

- Đó, mênh mông vậy đó!

Tôi để nguyên ba lô ngồi bệt xuống, dòm ra đồng. Hồi mùa khô năm ngoái tôi có đi qua đây. Vậy mà bây giờ cách đồng ngó coi khác quá. Ông trời đổ mưa chưa đầy một tháng mà nước đã ngập mênh mông như biển. Tôi đặt balô đứng lên đưa mắt trầm ngâm nhìn quãng đồng lát nữa đây mình sẽ phải vượt qua. Giữa trời trưa không hé một tia nắng, đồng nước nhấp nhô những làn sóng nhỏ, mải miết như trẩy về một bến bờ xa xăm nào. Trên cánh đồng nước đìu hiu đó không có gì ngoài những chòm gáo thưa với những khóm điên điển trổ đầy những bông vàng rực giống như sắc lông chim hoàng yến. Bên trên, bầu trời âm âm một màu tro. Đấy chính là bầu trời Tháp Mười tháng Bảy, trông như thấp hẳn xuống và trĩu nặng những nước. Tôi vừa bẻ vội mấy nhánh trâm bầu để ngụy trang vừa nói với anh giao liên:

- Nè, sao không cho tụi tôi đi đêm, có phải tiện hơn không hở ông bạn trẻ?

Anh giao liên bảo:

- Ôi, bây giờ ban đêm thì có khác chi ban ngày. Ban đêm tụi "cá nhái" đi soi còn dữ nữa đa anh!

Tôi lo lắng ngó nhìn đoàn người chúng tôi. Mười ba người. Súng ngắn thời nhiều mà súng dài thời ít, đâu chỉ có hai cây cạcbin của hai anh chiến sĩ cận vệ trẻ. Ngồi xuống bên cạnh một anh cán bộ đeo khẩu "Braonin Canađa" loại bắn mười lăm phát, tôi nói:

- Anh à, mình đi công tác đeo súng ngắn có gọn, nhưng tác dụng đánh trả kém lắm!

Anh gật đầu:

- ờ, tôi cũng tính kỳ này về đơn vị tôi cũng sẽ rán kiếm một cây cạcbin, hễ đi đường đụng biệt kích là mình có thể té xuống quật lại liền. Hay là gặp trực thăng, mình "chiếu" lên, nó cũng phải kiêng!

Anh giao liên đang ngồi vấn điếu thuốc, chợt nói chen:

- Trời đất, người ta kiếm súng ngắn không ra mà mấy anh chê. Mấy anh không nghe phụ nữ họ hát à?

- Hát sao?

- Súng dài súng lớn em cũng chớ có màng.

Dây dù "côn nớp" mới chính là chàng em yêu!

Anh giao liên đọc luôn câu đó rồi nhoẻn cười một cách rất là hóm. Anh xin tôi lửa đốt thuốc và bật đứng lên, ngó qua ven đồng phía bên kia. Anh nói:

- Bữa nay tới phiên chị Ba trưởng trạm đi chuyển qua, bộ mắc còn lo dỗ con hay sao mà tới trễ quá!

Tôi ngẩng lên:

- ủa, lần trước tôi có qua trạm đó thấy trưởng trạm là anh gì đó mà?

- ờ, anh Ba. Nhưng ảnh đã hy sinh. Cũng trên cánh đồng này, hồi tháng nắng. Bữa đó ảnh bắn cây bá đỏ, tả xông hữu đột với mấy con trực thăng cá nhái, giải thoát cho đoàn khách. ảnh là chồng của chị Ba. ảnh chết rồi, chị Ba mới lên thay. Hoàn cảnh gia đình chị có hơi bê bối, có một đứa con còn nhỏ... Tụi tôi vẫn gọi chị là chị Ba Tương Lai.

Anh cán bộ mang khẩu "Braonin" bảo:

- Chị đó có cái tên nghe hay quá. Thời buổi cách mạng này, anh chị em mình ai cũng đặt tên tốt.

Anh giao liên vội thanh minh:

- Không, cái tên đó không phải do chị Ba tự đặt cho mình đâu. Mấy anh cán bộ, bộ đội qua đường đặt đó chớ. Chẳng là cái trạm của chị hấp dẫn, không "hẻo" như trạm của tụi tôi. ở đó thường có nhiều chất tươi, lươn cá dễ kiếm, nhiều khi có cả dừa xiêm, chuối chín, còn trà thuốc kể như dự trữ thừa sức. Cho nên mấy anh khách thường qua lại đây kêu chỉ là chị Ba Tương Lai, nghĩa là tới trạm của chị thì có tương lai lắm. Tôi nói thiệt, chiều nay mấy anh tới đó rồi biết, đám nữ giao liên em út của chị Ba cũng đông, chớ không phải đều là dân đực rựa như bên trạm tụi tôi đâu!

Dứt câu, anh giao liên lại nhoẻn cười cái nữa, nụ cười này cũng không kém phần ranh mãnh. Những điều mà anh giao liên vừa nói dĩ nhiên là khiến cho cả đoàn khách chúng tôi phấn chấn hẳn lên. Nhưng riêng tôi, cái khiến tôi lưu ý suốt tự nãy giờ chính là chuyện về cái chết của người chồng và sự thay thế của người vợ. Tôi định gợi hỏi thêm, nhưng anh giao liên đã buông chuyện, rướn người đặt ngón tay cái và ngón trỏ vòng quanh mắt ngó qua ven đồng bên kia. Lần này, anh hớn hở reo lên:

- Mấy anh ơi, tôi bỏ ống dòm ngó thấy chị Ba qua rồi. Đó, đó, mấy anh thấy chưa?

Tôi nhỏm dậy, nhìn theo hướng tay của anh giao liên. Quả là thấy có dạng người mặc quần áo đen nhô ra khỏi ven vườn thật. Lát sau, đã thấy nước tóc trắng dưới chân họ. Rõ ràng là họ đã bắt đầu băng đồng. Hình như có hai người. Họ băng ngay về hướng chúng tôi. Lúc ấy chợt có mưa. Mưa rơi nhẹ nhàng, lâm râm khắp mặt đồng nước. Tháng Bảy bao giờ mà chẳng thế. Bầu trời âm âm sũng nước của Tháp Mười rất sẵn sàng mưa. Khi ta nghe hơi gió trở lạnh là sắp mưa đấy thôi. Những cơn mưa nhỏ, những trận mưa to. Trong mưa, cánh cò vẫn bay lả chập chờn từ mặt ruộng nước này tới mặt ruộng nước khác. Và những con le le, bói cá vẫn te rẹt ngoi lặn. Đâu đây nghe vẳng tới tiếng kêu ré của những con trích sống nơi lùm bụi nửa ngập nửa nổi. Cảnh Tháp Mười mưa là cái cảnh quê hương dầm tắm sau suốt sáu tháng ròng chang chang nắng lửa, là cái cảnh lặn lội kiếm ăn miệt mài của con chim ruộng, con cá đồng. Đối với tôi thì cảnh Tháp Mười mưa dễ khơi dậy bao kỷ niệm thấm lòng về những năm tháng gian lao, về những nỗi đắng cay căm uất, về cái thời chúng ta chỉ có trái tim sôi sục mà trong tay chưa có sắt.

Mưa vẫn rơi nhẹ nhàng trên đồng nước. Hai bóng người bên kia mỗi lúc một gần lại. Nếu anh giao liên không nói trước, bây giờ tôi cũng có thể nhận ra họ là phụ nữ. Cả hai đều vén quần lên tới vế, do đó mà tôi biết được nước đồng chỉ lên quá gối một chút. Chốc sau, cơn mưa ngơi ngớt dần, và cánh đồng lại trở nên quang tạnh. Người phụ nữ đi đầu có vẻ cao lớn, còn người đi sau thì thấp bé hơn. Anh giao liên nói:

- Người đi đầu là chị Ba đó.

Dần dà hai người đã hiện rõ trước mặt. Vậy là tôi đã hình dung không đúng cho lắm. Cái chị Ba Tương Lai này cao lớn chớ không nhỏ nhắn như tôi tưởng. Chị ta coi vạm vỡ, tướng đi xốc xáo, và có một cái búi tóc rất to. Còn cách bờ trâm bầu chỗ chúng tôi ngồi nghỉ chừng vài công đất, chị ta đã nói vọng vào nghe oang oang:

- ừ, tới rồi đó hả, mấy ông nhỏ?

Anh giao liên đáp:

- Tới lâu rồi, bộ còn lo dỗ con sao mà tới trễ vậy chị Ba?

- Trễ gì?

Chị Ba Tương Lai bác luôn. Chị hỏi anh giao liên:

- Giấy tờ của mấy ảnh đâu?

Anh giao liên liền giơ cái nón sắt, rút ra một cuộn giấy đi đường đưa cho chị Ba. Chị Ba coi giấy tờ. Đang coi, bỗng chị ngước lên:

- Mấy anh chú ý nghe, tôi xướng danh tánh hễ tôi kêu tên ai, người đó hô "có" giùm!

Thế rồi chị bắt đầu xướng tên chúng tôi, giọng ồ ồ như giọng đàn ông. Anh khách nào đáp "có" thì chị liếc nhìn anh ấy như để nhận mặt. Xong xuôi, chị cuộn mớ giấy nhét vào túi áo, đi lịch phịch từ đằng đầu cho chí đằng đuôi đoàn khách, dòm ngó coi từng nhánh lá ngụy trang. Anh nào ngụy trang kỹ thì chị không nói chi, còn anh nào ngụy trang sơ sài thì chị không chịu:

- Đồng chí làm ơn bẻ ít nhánh trâm bầu giắt thêm cho tôi nhờ coi!

Hoặc chị bác bỏ:

- Ngụy trang như vậy đâu có được!

Bỗng nhiên giọng chị trở nên khe khắt, mà lại có vẻ hơi hách dịch nữa. Tôi cảm thấy thú vị, bởi vì lâu nay tôi thường thấy những cô giao liên năn nỉ thuyết phục khách nhiều hơn, còn ở chị trưởng trạm này chị tỏ rõ chị có cái uy quyền của chị. Nhất là có những anh bạn cùng đi với tôi còn lần chần chưa chịu cải sửa, nên chị ta nói nếu chừng nào tình trạng ngụy trang còn lôi thôi thì chị chưa thể dẫn đi được. ấy, chị dõng dạc nói như thế. Nói rồi còn cười nữa chớ. Nhưng chị chỉ cười mỉm, rồi liền lập nghiêm lại ngay.

Chuyện ngụy trang tất nhiên rồi cũng đâu vào đấy cả. Chúng tôi khoác ba lô lên vai chuẩn bị lên đường. Chị Ba tay cầm trái lựa đạn da láng lận trở vô lưng. Chị nhắc nhở chúng tôi khi đi qua đồng phải cố vượt cho nhanh, càng nhanh càng tốt. Hễ có máy bay cũng cứ bình tĩnh đợi lịnh chị, chớ dứt khoát không được mạnh ai nấy làm theo ý mình. Chị bảo cô nữ giao liên:

- Em dắt mấy anh đi trước, cho giãn cự ly ra chừng hai tầm đất, để chị đi sau.

Đoàn khách chúng tôi lần lượt theo cô giao liên lội xuống đồng nước. Tôi là người đi áp :Dt, tức là sau tôi chỉ còn có chị Ba. Nước đồng sâu quá gối một chút. Đây là cái tháng vất vả nhất cho những ai ngược xuôi qua Đồng Tháp. Thà như đi sớm hơn một tháng thì còn khô, hay là đi muộn hơn một tháng thì lúc đó sẽ được đi xuồng. Chớ bây giờ cỏ Tháp Mười bị mưa còn chưa đủ chết. Biển cỏ dầm mình trong làn nước nửa chua nửa ngọt bởi phèn xì lên và mưa trút xuống. Nước trên đồng nhờ có chất phèn nên trong veo, có thể ngó thấy rõ từng đàn cá chạy, từ con cá rô đen mun tới con cá sặc anh ánh sắc tím. Trên mặt đồng nổi lềnh bềnh nhiều ốc bưu ốc lát, con ốc nào cũng đóng rêu xanh rờn. Ban nãy cánh đồng còn tĩnh lặng, bây giờ tiếng chân chúng tôi lội bì bõm khua động ỏm cả lên. Mưa đã ngớt hẳn. Tôi đi ngang qua những bụi bông súng nở bông to như hoa quỳ, và những cọng bông súng màu vàng rêu lả lay dưới làn nước bị khuấy động làm cho tôi cứ như ngửi thấy mùi mắm kho từ ven xóm ở bên kia phất tới. Đồng bằng tháng nước thiệt không có gì thân thuộc bằng cái mùi mắm kho, khi mà trên đồng đã rất sẵn bông súng. Ven xóm ngan ngát khói lam phía trước mặt chúng tôi mới thiệt là ấm cúng, thiệt là hứa hẹn làm sao. Tôi háo hức muốn tới đó cho sớm sủa, vì ở đó chắc chắn sẽ có đủ những thứ mà khi ở rừng tôi hằng khao khát: này là tiếng hỏi thăm trìu mến của các mẹ già, này là tiếng đánh vần của các em vang vang từ một ngôi trường, rồi thì mùi rơm mục, mùi hương của những bông cau... Xóm làng giải phóng của chúng ta quả là cái đích chan chứa hy vọng của mỗi chặng đường. Khi chân tôi đã thấy mỏi, thì chính làn khói lam trong xóm kia lại như vẫy gọi tôi đi nhanh tới. Thỉnh thoảng tôi dòm ngoái lại phía sau, nhìn bờ cây trâm bầu chỗ xuất phát ban nãy để ước lượng coi mình đã đi bao xa. Rặng trâm bầu ấy cứ lùi dần, mờ dần. Có lẽ chúng tôi đã đi được nửa cánh đồng, hoặc quá nửa một chút. Tuy vậy, chúng tôi cũng chưa được yên tâm. Khi chúng tôi còn lội sồn sộn giữa đồng nước quang trống thế này thì mọi sự bất trắc vẫn còn có thể xảy đến. Tôi còn lạ gì những cuộc đổ quân chớp nhoáng, hỗn hào của tụi trực thăng, và tôi cũng chẳng lạ gì những chiếc L.19 chúa hay bắn rốc két. Đi giữa đồng nước này, tôi có cảm tưởng giống như đang qua sông Tiền sông Hậu. Nói chung đây là cái cảm tưởng thấp thỏm ở những chỗ căng nhất của những lộ trình.

Chị Ba Tương Lai vẫn đi phía sau, cách tôi chừng một công đất. Tôi biết rõ là chị có thừa sức vượt qua tôi, vì chị là dân đồng nước. Đó là tiếng chân chị bỏ xuống nước nghe tom tõm gọn hơ chứ không khua ầm lên như chúng tôi đâu. Tôi nghĩ chị đã đi rốn chậm lại, bởi tôi không tài nào đi nhanh hơn được nữa. Nhưng giá như tôi có nhường chị lên trước, chắc chắn chị cũng sẽ không lên đâu. Dẫu sao, đó cũng là chỗ đi của chị. Những người công tác đường dây bao giờ cũng đi đúng chỗ của họ. Và hầu hết các chỗ ấy đều là chỗ hiểm nguy.

Ven vườn không còn bao xa nữa. Phía trước, cô giao liên dẫn đầu đi rất nhanh. Bỗng nhiên tôi nghe có tiếng gì ù ù. Ban đầu tôi ngỡ là gió lộng. Nhưng ở đằng sau, chị Ba đã la lớn:

- Có hơi "cá nhái" nhen, chuyến đàng trước vượt mau lên!

Tôi lặp lại:

- Có hơi trực thăng đó, đi mau lên anh em!

Cả đoàn người tức khắc hối hả ra sức vượt nhanh. Lát sau, tiếng trực thăng HU.1B vọng tới rất rõ. Tôi nhìn thấy cô giao liên phía trước đã bắt đầu chạy. Rồi cả đoàn chúng tôi đều chạy theo. Tiếng chị Ba vang lên:

- Nó đi về hướng mình đó. Anh em cố rán chạy mau chút nữa đi!

Tôi chạy, và áo quần đều bị ướt hết. Lúc nào mệt quá, tôi dừng lại thở. Bây giờ tiếng trực thăng đã vỗ nghe phành phạch. Vừa may lúc ấy tốp anh em đi đầu đã vô tới mí vườn. Cô giao liên lẫn vào trước. Rồi những anh khách kế đó cũng nhập vào vườn như cô. Tôi mới đứng lại thở được một hơi, liền lập tức chạy tới nữa. Một chiếc trực thăng cá nhái xuất hiện trên vòm trời. Nó lù lù lủi tới, in hình một đốm đen tròn quay trước mặt. Nhìn thấy nó tròn như vậy, tôi càng thêm lo, vì như vậy chính là nó đi ngay về hướng chúng tôi rồi. Tôi chỉ kịp trông thấy chiếc trực thăng cá nhái đó, và bây giờ tôi chỉ biết dồn sức chạy sao cho thiệt nhanh vào mí vườn. Chợt lại thoáng nghe tiếng chị Ba:

- Nó sà xuống nhen. Coi chừng nó bắn!

Chị Ba vừa la lên xong thì một tràng đại liên đã nổ chát chúa. Loạt đại liên từ trên chiếc "cá nhái" bắn kéo dài tới cả phút. Đạn rơi lỏm chỏm ngay trước mặt tôi. Chiếc trực thăng bắn từ mí vườn bắn ra. Đoàn chúng tôi đã lọt vào vườn được một nửa. Chỉ còn lại trên đồng nước sáu người, bốn anh ở trước tôi, và chị Ba ở sau lưng tôi. Chợt một trong bốn anh phía trước đứng lại. Đó là anh cận vệ trẻ. Anh chĩa khẩu cạc bin nhằm trực thăng mà nổ "đoàng... đoàng". ánh lửa nháng lên phía dưới bụng chiếc trực thăng. Cả hai phát đạn của anh bảo vệ đều bắn trúng. Chiếc trực thăng vọt lên cao hơn. Nhưng nó vẫn bay phành phạch, phành phạch. Cái dạ bọc thép của nó đã chịu được hai phát đạn. Nó bay trờ tới, tiếp tục nã đại liên xuống. Tôi chạy rấn trong cơn mưa đạn. Chạy mấy bước thì đã thoát khỏi tầm đạn của chiếc trực thăng bắn xuống. Năm người chúng tôi đều lần lượt vào được mí vườn, nhảy thót lên bờ mương và chạy dọc theo những gốc dừa lùn. Bấy giờ tôi ngoái nhìn ra sau để coi chị Ba vô tới chưa, thì không thấy chị đâu cả. Tôi ngó quá ra đồng nước, bàng hoàng thấy chị còn ở ngoài, mà chiếc trực thăng thì đang sà xuống ngáng ngay đường chạy của chị. Chiếc chong :Dng gỗ ép trên thân máy bay quay chậm lại, bạch bạch. Không nghe chúng nổ súng nữa. Và bóng chị Ba từ từ bị cái lườn to tướng của chiếc trực thăng đang hạ đó che khuất. Máy bay gần như đã đỗ hẳn, nhưng động cơ của nó vẫn gầm vang. Mặt nước cuộn sóng, rập vã vào nhau. Tôi hiểu ngay rằng bọn giặc trên máy bay rắp tâm tính bắt sống chị Ba. Tôi la lên cho mấy anh trước biết. Anh em quay trở lại. Anh nào cũng kêu:

- Trời ơi, chắc tụi nó bắt được chị Ba quá!

Đứng lại ven vườn, chúng tôi nhìn thấy tận mắt bọn Mỹ từ trên máy bay xổ xuống. Anh cận vệ bắn cạcbin chĩa thẳng súng ra đồng:

- Để tôi "giã" nó mấy phát, may ra nó hoảng nó hay lên.

- ừ, bắn đi!

Ba phát "cạcbin" nổ "đoàng đoàng đoàng". Chiếc trực thăng vẫn lì lợm gầm thét. Chốc sau bọn Mỹ túm được chị Ba. Chúng hấp tấp lôi chị đẩy đến cửa hông máy bay. Mấy thằng đứng trên với tay kéo chị Ba lên. Anh cận vệ trẻ lại nổ súng. Anh đứng xổng lưng mà bắn. Bọn Mỹ còn ở dưới rối rít chen nhau nhảy lên. Khẩu đại liên của chúng bắt đầu day họng khạc đạn về phía chúng tôi. Các gốc dừa lùn trên bờ mương bị đạn đại liên cày sướt. Chúng tôi nhảy xuống mương. Đứng dưới mương tôi nghe đạn bay viu víu, và khi tôi chồm lên ghé mắt nhìn ra đồng thì chiếc trực thăng đã từ từ bốc mình lên. Tôi gào:

- Bắn, bắn nó!

Anh cận vệ đã bắn hết một băng đạn, nhưng chiếc trực thăng vẫn không hề hấn gì, nó vẫn cứ ầm ã bay. Tôi thất vọng quá, hai bàn tay cấu nát cả bụi cỏ bờ mương, bất lực nhìn chiếc trực thăng lên cao dần. Tôi nhủ: thôi thế là hết! Chị Ba coi như đã bị chúng bắt đi rồi. Tai tôi tự nhiên váng ù lên, và tiếng chong :Dng trực thăng bành bạch quay nhanh kia như đập túi bụi vào giữa tim tôi. Lòng tôi mỗi lúc càng bị vò xé hơn lên vì suốt nãy giờ tôi nhìn thấy cái ý định chị Ba dùng thân chị làm mồi dụ địch bộc lộ rất rõ. Tôi thẫn thờ nhìn chiếc trực thăng quái quỷ đang bay, khi mà đồng nước bên dưới hãy còn cuồn cuộn, dào sóng. Bỗng có anh kêu:

- Cái gì rớt, cái gì rớt xuống kia kìa!

Nghe tiếng kêu, tôi trố mắt nhìn và thấy có một vật gì như một bóng người vừa thoát ra bên hông chiếc trực thăng, rơi xuống. Tôi thét:

- Trời ơi, in như chị Ba nhảy xuống, mấy anh ơi!

Khi tôi vừa thét lên như thế thì phía chiếc trực thăng đang bay bỗng nổ ầm một tiếng, cả chiếc trực thăng vụt chao nghiêng đi. Kế đó chiếc trực thăng bốc khói cuồn cuộn, rồi lửa bùng dậy đỏ rực. Còn cái bóng đen trên không trung giờ cũng vừa rơi tòm xuống đồng nước. Tôi thấy cái bóng đó nhổm ngay dậy, chạy thẳng vào bờ vườn chúng tôi đang núp.

- Đúng là chị Ba rồi!

Tất cả mấy anh em chúng tôi không ai bảo ai đều vọt lên khỏi mương, chạy ngược ra. Chị Ba bươn bươn, vấp ngã, rồi lại bươn tới. Gần đến chúng tôi, chị dừng lại một chút, rồi vừa đi cà nhắc vừa vuốt nước chảy ròng trên mặt. Chị hổn hển hỏi:

- Mấy anh có... có sao không?

- Không. Còn chị?

- Cũng không... chỉ có cái chân nghe hơi đau chút. Lúc nhảy xuống gần tới tôi co dúm chân lại, vậy mà... mà vẫn bị quệt đất... Bộ... bộ mấy anh tưởng tôi bị... bị nó lượt rồi hả?

- Nghỉ một chút đi, chị Ba.

Chị Ba ngừng nói, thở dồn. Lát sau chị tiếp:

- Nó lôi tôi lên, nó đâu dè tôi lận trái lựu đạn ở lưng quần. Máy bay vừa bay lên, tôi lấy lựu đạn ra rút chốt tống vô đám Mỹ trên máy bay rồi nhảy đại ra cửa...

- Trời đất!...

Anh cận vệ trẻ la lớn và nhảy tới trước mặt chị Ba, khom lưng xuống:

- Chân chị đau, vậy lên lưng tôi cõng chị đi!

- Thôi thôi... ai làm kỳ cục vậy mà.

Trong lúc anh bạn trẻ đòi để được cõng chị Ba, tôi ngẩng nhìn chiếc trực thăng. Nó đang cố gượng bay. Thân hình con "cá nhái" Mỹ khốn kiếp đó đang bốc lửa dữ dội, chao qua chao lại. Lết tới được một quãng ngắn nữa, nó nổ thêm mấy tiếng "phùm phùm" rồi lật ngửa bụng rơi xuống mặt đồng nước bấy giờ cũng vẫn lồng bóng cái bầu trời âm âm một màu tro. Mấy anh em chúng tôi sướng quá, đồng thanh kêu "rớt rồi, rớt rồi!" và nhảy tung tóe cả nước lên đầu lên cổ. Riêng có mỗi chị Ba là vẫn đứng yên. Người đàn bà trưởng trạm to lớn đó chống nạnh đôi tay nơi mạn sượn, đăm đăm ngó mãi về phía cái đống đen lù lù ngút khói của chiếc trực thăng vừa rơi. Tôi chợt nghĩ chỗ đó có thể là chỗ anh Ba chồng chị đã ngã xuống hồi tháng nắng. Rất có thể như vậy. Vì anh giao liên chẳng đã nói cho chúng tôi biết là anh Ba đã hy sinh tại quãng đồng này đó sao. Cả mấy anh em chúng tôi đều im lặng. Chắc ai cũng thoáng có ý nghĩ như tôi.

Bỗng chị Ba bảo:

- Thôi mình đi, mấy anh! Đi về đặng còn báo tin cho mấy ông du kích ra phanh thây nó. Nó cháy dữ quá, chẳng biết súng ống có còn được cây nào không?

1967


Trả Lời Với Trích Dẫn
  #15  
Old 05-30-2004, 08:56 PM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Arrow

:::: P.Nguyên ::::
Bia Ôm





Căn phòng nằm ở từng thứ ba. Những chiếc ghế nệm dài bọc vải nhựa màu đen đặt dọc ba phía vách tường bao lấy chiếc bàn dài la liệt ly thủy tinh, khăn lạnh, và gạt tàn thuốc. Phía vách tường còn lại, đối diện cửa ra vào là chiếc TV và giàn máy Karaoke hiện đại. Đám người cùng ngồi với hắn từ buổi trưa ở cái tiệm ăn đặc sản phía bên kia Kinh Tàu Hũ bây giờ đều có mặt trong phòng, bận rộn ca hát, hút thuốc, uống bia, hoặc sờ mó mấy cô gái non choẹt đang ôm họ chặt cứng như thể họ có thể sổng ra chạy bất cứ lúc nào! Hắn cảm thấy ngạt thở vì mùi son phấn, khói thuốc, tiếng hát âm điệu be bét, tiếng cười tán thưởng gượng gạo, tiếng máy lạnh gầm gừ... Hắn đứng dậy, len qua khoảng cách chật chội giữa chiếc bàn dài và dãy ghế bọc nệm đầy giò cẳng đàn ông đàn bà, miệng lắp bắp lời xin lỗi, tung cửa bước ra ngoàị

Không khí bên ngoài nóng và ẩm. Con đường phía dưới ướt mèm. Một cơn mưa rào mùa Hè vừa đi qua thành phố mà hắn chẳng hay biết gì hết. Hắn nhoài người ra ngoài lan can, cố níu lấy một cành me đẫm nước mưạ Lúc hắn buông tay ra, cành me văng ngược về vị trí cũ, những giọt nước li ti bắn vào mặt hắn mát lạnh. Có tiếng hỏi cất lên từ phía sau:

"Anh mắc tiểu hả? Trong phòng có toa-lét mà!"

"Û không, anh chỉ muốn ra ngoài một chút..."

Hắn ngập ngừng ở cuối câu, đầu óc lùng xục dữ dội cái tên của cô gái được cô quản lý trẻ măng "gả" cho hắn ngay từ lúc cả bọn bước vào căn phòng ở lầu ba.

"Sao vậy ông xã? Mỹ Ngọc không làm ông xã vui hả?"

Cô gái đến gần, vòng tay ôm eo lưng hắn nũng nịụ "A, Mỹ Ngọc!" hắn thở phào, đó là tên cô gái.

"Không có đâu," hắn từ tốn trả lời, "tại trong đó ngộp quá!"

"Anh mới đến đây lần đầu ?"

"ờ, lần đầụ"

"Hèn chi em thấy anh lạ ghê! Mấy anh kia thì tới đây hoài"

Ngưng một chút, Mỹ Ngọc hỏi tiếp:

"Anh Việt kiều phải không?"

Hắn cảm thấy bực bực trong người. Hắn thấy mình có khác gì mấy người cùng đi với hắn đâu! Trông vẻ ngoài còn tệ hơn họ là đằng khác! Mấy người đó, kể cả thằng em họ của hắn, ai cũng ăn mặc bảnh bao, da dẻ hồng hào, điện thoại di động bỏ trong cặp da hoặc trong túi quần liên tục kêu reng reng... Chỉ có mỗi mình hắn là không có điện thoại di động. Có lẽ vì vậy chăng?

"Phải đó. Mà sao biết?" Hắn hỏi cộc lốc.

"Tại thấy anh hút thuốc gì lạ quá đó."

Hắn bật cười, nghĩ thầm thì ra là vậỵ Hôm về hắn mang theo một cây thuốc, hút gần hết, còn chưa biết chạy mua ở đâu. Hắn nhận ra ở đây ba số năm và Dunhill là thông dụng nhất. Chắc rồi cũng phải hút ba số năm thôi, hắn tự nhủ.

"Anh về làm ăn hả?" Cô gái lại hỏi.

"Làm ăn gì đâu! Về thăm nhà mà! Bộ anh giống ... Tàu Đài Loan hả?"

"Đâu có. Tại thấy anh đi với mấy anh cán bộ đó. Họ tới đây giao tế hoài hà."

Tối hôm qua thằng em họ gọi điện thoại dặn hắn đừng đi đâu: "Sáng mai em đến đưa anh đi chơi" "Đi đâu?" "Thì mai rồi tính. Bộ anh có hẹn sao?" Hắn có hẹn hò gì đâu! Về được vài hôm, những nơi cần đến đã đến, những người cần gặp đã gặp. Thời gian còn lại không còn đủ cho một chuyến du ngoạn ra hồn, hắn bỏ luôn ý định đi chơi xa như đã dự định. Hắn nghĩ mình lề mề như ông già! Mà cũng già thực rồi chứ còn gì nữa!

Buổi trưa thằng em họ đến đón, đưa đến một quán ăn kín đáo nằm ở phía bên kia Kinh Tàu Hũ. Thằng này ngày xưa hiền khô mà bây giờ coi bộ rành ăn chơi quá mạng, mấy cái quán đặc sản trong hốc kẹt như vầy mà nó cũng tìm ra. Có một nhóm bạn của thằng em đã đến từ trước, đang ngồi quanh chiếc bàn tròn phủ vải trắng nhấm nháp bia Tiger và thảo luận sôi nổi về những món ăn nên gọi cho hôm nay. Chừng mươi phút sau thì hắn hiểu ra đây là những người bạn đồng sự ở cơ quan của thằng em họ. Họ còn trẻ, ăn mặc chững chạc, và đầy tự tin. Đây là thành phần lãnh đạo của một địa phương lớn ở ngoại thành. Hắn được đón tiếp vào bàn niềm nở vừa phi.ị Chẳng ai tỏ vẻ hiếu kỳ về cái mác Việt Kiều của hắn, ngoại trừ một lần anh chàng ngồi kế bên săm soi gói Benson & Hedges màu xanh lá cây và hỏi xin một điếu hút chơi.

Bữa ăn gồm toàn những món lạ hoắc hắn chưa từng được ăn bao giờ, và đắt khủng khiếp. Đám hầu bàn người gốc Hoa lượn tới lượn lui như chong :Dng, mắt chầm chập vào ly bia sủi bọt của hắn chực rót thêm. Đám thực khách ăn uống hoặc hăng hái hoặc uể oải, miệng la hét vào chiếc máy điện thoại di động, nói về những công việc vô cùng xa lạ với hắn. Thằng em họ chắc ngại hắn cảm thấy lạc lõng, cứ quay qua hỏi những câu không đâu vào đâu để cho hắn trả lời, cũng không đâu vào đâu! Khi món cá chình hầm thuốc bắc, sáng chế của anh chàng thủ trưởng trẻ măng, nằm thừa mứa trên chiếc bàn tròn bây giờ trông rất bừa bộn, bữa ăn chấm dứt. Hắn giành trả tiền, thằng em họ gạt đi bảo để cho tài vụ nó lo rồi kéo hắn xuống dưới đường, móc túi lấy điện thoại di động ra gọi mấy chiếc taxi "Bây giờ mình đi bia ôm," nó tuyên bố tỉnh queo.

Hắn vung tay liệng mạnh mẩu tàn thuốc xuống bãi đất nhỏ vuông vức nằm ở góc đường cạnh căn nhà bốn tầng. Hình như chủ nhà đã cho dọn dẹp khoảnh đất này để xây cất gì đó thì phải. Mỹ Ngọc lên tiếng với vẻ thán phục:

"Cái mặt bằng đó bây giờ mắc lắm. Chỗ đó mà xây lên làm tiệm uốn tóc thì hết xẩy đó ông xã!!!"

Cô kéo tay hắn đi trở vào căn phòng lúc nãy, nói tiếp:

"Em mà có đủ tiền em mua cái mặt bằng đó liền tay!"

Căn phòng lúc hắn trở vào trông bừa bãi dễ sợ. Từng cặp từng cặp dính chặt vào nhau trên mấy chiếc ghế bọc da màu đen cười giỡn, ca hát, ăn uống. Hắn len lỏi trở về chỗ của mình, nâng ly bia mát lạnh uống tì tì. Cô gái lúc này đã nhảy tót lên đùi của hắn ngồi gọn lỏn. Xua tay từ chối cái microphone thằng em họ đưa qua, hắn rù rì vào tai cô gái, hỏi han đủ thứ chuyện. Mỹ Ngọc mười tám tuổi, học xong lớp Bảy ở nhà phụ mẹ bán rau cải. Cô làm nghề bán bia ôm được hơn một năm, đang để dành tiền để sang lại một tiệm uốn tóc.

"Bao giờ thì em mới có đủ tiền để sang tiệm?"

"Chắc cũng mấy năm nữa ông xã ơi. Mặt bằng bây giờ mắc quá!" Mỹ Ngọc than thở.

"Làm gì khác không được sao mà phải mở tiệm uốn tóc?"

"Làm gì bây giờ ông xã? Bán cà phê thì tới lúc đó em ... già rồi, khách nào thèm tới uống?"

"Già?" Hắn ngơ ngẩn hỏị

"Thấy chị Tuyết Nga chưa? Chỉ hai mươi bốn rồi đó, không làm được nữa may nhờ chủ thương cho chỉ quản lý tụi em đó!"

"Hai mươi bốn!!!" Hắn lầm bầm, thì ra cô gái sắc sảo mặc chiếc áo đỏ :Di đó mới hai mươi bốn tuổị...

Lúc cả bọn kéo nhau ra về, hắn không còn quan tâm đến việc trả tiền nữa. Đã bảo có tài vụ lo rồi mà!
*
* *

Hắn trở lại quán Cây Đào hai ngày sau cùng với một người bạn. Thằng này ngày xưa nghèo mạt rệp, bây giờ làm giám đốc một xưởng may xuất khẩu gì đó ở Biên Hòạ Hai thằng dắt nhau đi ăn cơm niêu ở Tú Xương, mấy miếng đất nung màu gạch non văng tứ tung khi đám hầu bàn đập vỡ cái niêu đất còn mới tinh lấy ra miếng cơm cháy vàng lườm thơm ngạt mũi. "Mình đi bia ôm!" Thằng bạn nói lúc hai đứa rời quán ăn. "Lại bia ôm?" Hắn cằn nhằn. "Giờ này không bia ôm thì đi đâu?" Thằng bạn tỉnh queo! Hắn thấy thằng bạn mình sao lạ quá đi, chẳng giống hồi đó chút nào! Trông nó chẳng khác gì thằng em họ mình với đám bạn đồng sự của nó, hắn nghĩ. Chắc nó cũng thấy mình khác đi nhiều lắm, hắn nghĩ tiếp. Bỗng dưng hắn nhớ đĩa lòng heo lõng chõng mấy miếng gan miếng huyết và xị rượu thuốc cay nồng ở mấy cái quán cóc dọc chợ Tân Định hai đứa vẫn thường la cà ngày xưa!

Hắn ngồi trong căn phòng nhỏ ở lầu bốn nhẩn nha lột mấy trái vải ngọt lịm bỏ vào miệng nhai :Dp chép, quan sát thằng bạn đang làm ăn ầm ĩ ở chiếc ghế bên kiạ Cô gái còn rất trẻ, trạc tuổi Mỹ Ngọc, và ý định cũng như Mỹ Ngọc, cô có cái tên đẹp như tên ca sĩ. Không biết cô này thích làm gì sau khi giải nghệ, hắn lẩn thẩn tự hỏi: "Kêu đại em nào cho rồi, ở đây thiếu gì cô xuất sắc," thằng bạn đề nghị. "Tao đợi Mỹ Ngọc," hắn trả lời cụt lủn. Lúc nãy cô quản lý cho biết Mỹ Ngọc đang bận khách, nếu hắn có thể chờ khoảng nửa tiếng thì cô sẽ tiếp hắn. Thì chờ vậy, có gấp gáp gì đâu! "Mới về mà đã kết em rồi à?" Thằng bạn hỏi vẻ trêu chọc. Hắn cười cười, không trả lờị

Mỹ Ngọc nhận ra hắn ngay, nhờ vào gói thuốc màu xanh lá cây hắn vất trên chiếc bàn nhỏ. Cô bước đến ôm hắn hôn chùn chụt, mùi Hennessy nồng nặc.

"Em uống rượu mạnh hả?" Hắn hỏi.

"Vậy thôi đừng uống nữa nghe." Hắn tiếp.

Mỹ Ngọc tỉnh bơ khui bia lốp bốp, cụng lon với hắn và thằng bạn.

"Em quen rồi, ông xã. Với lại em phải uống với khách mà!"

"Không uống là bị phạt đó mấy anh ơi!" Cô gái ở trong lòng thằng bạn tiếp lời.

Luật gì mà kỳ cục, hắn lầm bầm.

Hắn có hơi thất vọng. Mỹ Ngọc không có vẻ hào hứng cho lắm khi được hỏi về cái tiệm uốn tóc tương lai của cô. Đã vậy, cứ liên tục khui bia cụng hắn và thằng bạn côm cốp. Thằng bạn cười ha hả, uống cạn ly rồi thò tay qua bàn gỡ gạc tùm lum trên người Mỹ Ngọc. Cô gái trong lòng thằng bạn la oai oái làm như đang ghen tuông ghê gớm! Hắn tham dự vào trò chơi một cách uể oải. Không chơi thì còn biết làm cái gì bây giờ!!!

Cuộc vui chấm dứt có hơi đột ngột. Tự dưng Mỹ Ngọc than nhức đầu. Hắn cằn nhằn một cách xót xa, đã biểu đừng có uống mà không nghe. Cô nhăn nhó ôm đầu chúi vào lòng hắn rên rỉ, em đau quá anh ơi! Hắn luống cuống xoa bóp hai bên màng tang của cô, miệng hỏi thấy đỡ không. Mỹ Ngọc nằm yên được một lúc, chợt vùng ngồi dậy, nắm tay phải thu lại đánh mạnh vào :Dnh đầu mình như để xua đuổi cơn đau khủng khiếp đang hoành hành. Rồi cô bật khóc nức nở, con đau quá mẹ ơi!!! Đến lúc Mỹ Ngọc cong mình dộng đầu thình thình vào vách tường sau lưng, thằng bạn tung cửa chạy đi kêu cô quản lý trẻ tuổi. Hắn kéo Mỹ Ngọc sát vào người, giữ chặt đầu cô vào ngực mình không cho nhúc nhích, một tay móc túi lấy ra nắm tiền đưa cho cô quản lý, miệng lắp bắp, cô chịu khó đưa Mỹ Ngọc đi nhà thương ngay đi. Thằng bạn giật mớ tiền từ tay cô quản lý áo đỏ, tách ra làm hai bảo,"Cái này là tiền bia, cái này để lo cho Mỹ Ngọc. Phần em để anh tính."

"Đ. mẹ, không vui gì hết!" Thằng bạn cằn nhằn lúc hai đứa đi dọc cái lan can hắn và Mỹ Ngọc có lần đứng nhìn cái "mặt bằng" mơ ước của cô hai hôm trước. Hình như người ta sắp xây một cái gì đó trên khoảnh đất trống đó thì phải. Hắn thấy chồng gạch ống màu đỏ và mấy bao xi măng sắp ngay ngắn dọc vách tường của ngôi quán. "Thôi mày đưa tao về ngủ sớm, mai ghé uống cà phê. Cứ đặc sản với bia ôm hoài, tao mệt." Hắn nói với giọng mệt mỏi thực sự

Hai người chưa ra về ngaỵ Chuyện xảy ra thực bất ngờ! Tiếng chân người chạy rầm rập, và tiếng hô hoán vang lên lúc thằng bạn dắt xe ra cổng. "Có người nhảy lầu!!!" Có người nhảy lầu? Hắn hấp tấp chạy băng qua cái sân nhỏ, hướng về phía khoảnh đất trống. Có mấy người trong quán đã có mặt ở đó. Một người đang cúi mình trên thân hình bất động của Mỹ Ngọc khóc rưng rức. Cô nằm nghiêng, mắt mở hé, giòng máu đỏ bầm ứa ra từ một khóe miệng. Hắn quỳ xuống cạnh Mỹ Ngọc, đưa tay vén mớ tóc đen nhánh xõa rũ rươi. Máu cũng đang ứa ra từ lỗ tai Mỹ Ngọc. "Cô ấy chết ngay tức khắc lúc chạm đất," hắn nói với gã thanh niên đang khóc rưng rức ở phía bên kia cái xác bất động của cô. Hắn hy vọng mình đã nói đúng. Có người kéo hắn đứng dậy: "Thôi anh hai đi về ngay đi. Chút nữa công an kéo đến phiền phức. Để tụi này lo công chuyện," người đó bảo hắn.

Hắn rời thành phố hai mươi bốn tiếng đồng hồ sau đó, lòng phân vân về khả năng của một lần trở lại trong tương lai. Trên chuyến bay dài dằng dặc về lại đất Mỹ, hắn ngủ gà gật và có những giấc mơ lộn xộn. Trong một giấc mơ như thế, hắn thấy mình trở lại quán Cây Đào. Một tiệm uốn tóc đẹp đẽ, khang trang mọc lên cạnh quán, ở ngay cái nơi những giòng máu đỏ bầm từ tai miệng Mỹ Ngọc đã chảy ra và thấm vào đất. Hắn không nhớ được tên của tiệm uốn tóc, nhưng nhứt định không phải là "Mỹ Ngọc." Mà hắn cũng không cố nhớ ra. Ơ cái thành phố mà hắn đang rời đi, còn rất nhiều cô gái trẻ măng với cái tên đẹp như tên ca sĩ ! Có khi họ cũng mong được làm chủ một tiệm uốn tóc.

08.97





Trả Lời Với Trích Dẫn
  #16  
Old 05-30-2004, 08:57 PM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Wink

:::: P.Nguyên ::::
Tháp ký ức





I
Năm đó tôi mười một tuổi. Sau mấy năm ròng rã mài đũng quần ở ngôi trường tiểu học dột nát ở làng trên, thuộc nát mấy cuốn Quốc Văn Giáo Khoa Thư, và lãnh những trận đòn thừa sống thiếu chết vì tội trốn học đi bẫy chim đá dế ngoài đồng, tôi may mắn trúng tuyển vào trường trung học công lập cấp tỉnh duy nhứt của tỉnh Quảng Nam, trường Trần Quý Cáp.

Hôm đi coi bảng, tôi chẳng có hy vọng gì mấy. Tỉnh Quảng Nam có đến hàng trăm xã ấp, mỗi xã có một trường Tiểu Học, mỗi trường Tiểu Học có một lớp nhất, tức là lớp Năm sau này. Mỗi lớp nhất có khoảng năm chục đứa học trò mà trong đó có tới bốn mươi đứa tham gia cuộc thi tuyển, tính ra không dưới năm ngàn thí sinh. Trường Trần Quý Cáp có sáu lớp đệ thất, cao lắm khoảng ba trăm học sinh được tuyển vào mỗi năm, còn mấy ngàn đứa kia thì có nhiều hy vọng về nhà ... chăn trâu trừ phi được cha mẹ cho vào bán công hoặc tư thục. Lúc còn học tiểu học, tôi thích chơi nhiều hơn thích học, những con cá rô cá cấn, chim giồng giộc chim sâu trông hấp dẫn hơn những bài địa dư sử ký, bị thầy bắt quỳ gai mít hoài mà vẫn chứng nào tật nấỵ Tuy nhiên, bà nội tôi tin tưởng mãnh liệt vào câu học tài thi phận, vả lại thi cử là chuyện thiên kinh địa nghĩa nên cuối cùng mẹ tôi vắt cho tôi một mo cơm nắm, dúi vào tay tôi mấy đồng bạc để đi "xe điện" - danh từ dân địa phương dùng để gọi xe đò - xuống Hội An dự thi.

Chen lấn mãi mới đến gần được tấm bảng gỗ có dán danh sách thí sinh trúng tuyển, tôi dự định sẽ đọc cái danh sách từ dưới lên, chừng năm mươi hàng mà chưa thấy tên mình thì tốt hơn chui trở ra cho đỡ mất thì giờ. Ai dè mới đọc được có mấy hàng đã thấy tên mình. Tôi dụi mắt hai ba lần, đọc lại cho kỹ vẫn thấy tên mình còn sờ sờ ở đó bèn mừng rỡ mở một đường máu chui ra khỏi cái đám con nít đang xô đẩy nhau, chửi mắng nhau, la hét, cười khóc ồn ào như cái chợ nhỏ. Thằng bạn cùng làng cũng vừa mới thoát ra khỏi cái đám đông hỗn tạp, mặt mày tái mét, thở hổn hển hỏi tôi:

"Bộ mày đậu rồi hay sao mà nhảy tưng tưng vậy?"

"Đậu rồi. Còn mày?"

"Tao đậu bình thứ. Còn mày?"

"Tao không biết. Tên tao ở hàng thứ năm."

Thằng bạn tròn mắt ngạc nhiên:

"Thứ năm? Vậy là mày đậu ưu rồị"

Hắn gãi đầu có vẻ suy nghĩ, nói tiếp:

"Hồi nãy tao xem bảng kỹ lắm mà tại sao không thấy tên màỵ "

Tôi bỏ mặc thằng bạn đứng ngẩn ngơ, đi bộ ra bến xe đón xe đò về nhà.

Việc tôi đậu vào đệ thất trường công lập, dù đậu hạng bét, là một sự kiện đáng kể cho gia đình tôi, vốn gồm có bà Nội, Mẹ tôi, tôi và ba đứa em gái còn nhỏ xíụ Mấy năm về trước, sau khi đã chán công việc sản xuất và dưỡng dục nhi đồng, Ba tôi quay lưng lại người vợ đáng thương và bầy con nheo nhóc, bỏ đi giang hồ vặt, lâu lắm không nghe tin tức. Mẹ tôi ở lại một mình tảo tần buôn bán, nuôi nấng bầyácon. Bây giờ thằng con lớn được vào trường tỉnh học, bà vừa mừng lại vừa lo bởi vì chỉ còn vài tuần nữa là thằng con phải đi xa trọ học.

Làng tôi cách thị xã Hội An --còn được gọi là Phố hay Faifo-- khoảng gần ba chục cây số. Muốn đến thị xã, tôi phải đi bộ bốn năm cây số, băng qua chiếc cầu xe lửa dài ngoằng bắc ngang qua con sông Thu Bồn nước trong veo, rồi leo lên cái "xe điện" duy nhất của tuyến đường Kỳ Lam - Hội An để kết thúc cuộc hành trình. Gần đến Vĩnh Điện, quận lỵ Điện Bàn, xe đi ngang qua tháp Chàm Bàng An, một di tích lịch sử. Ngôi tháp cổ xây bằng gạch nung, lâu ngày rêu phong bám đầy, đứng im lìm, sừng sững nhìn xuống con đường trải đá lầm bụi chạy dài từ quận lỵ về đến vùng núi non tiếp cận dãy Trường Sơn. Cây tháp chứng nhân của một triều đại đã suy tàn mà mỗi khi nhìn thấy đã gợi trong tôi những ấn tượng mạnh mẽ, những cái tên như Chế Mân, Chế Củ, những Lý Thường Kiệt, Trần Khắc Chung, những câu chuyện huyền hoặc về những người dân của một quốc gia đã bị xóa tên.

Vậy là tôi bắt đầu cuộc đời trọ học từ lúc còn rất trẻ. Cứ mỗi vài tuần tôi lại đáp xe đò từ tỉnh lỵ về, băng qua chiếc cầu xe lửa bằng sắt, sãi những bước chân nôn nao trên con đường đất khi thì nứt nẻ mấp mô, khi thì lầy lội trơn trợt, bỏ lại sau lưng những ruộng lúa nghèo nàn, những bãi dâu tươi tốt, những rặng tre xào xạc, tiếng rầm rập của những máy dệt vải bằng gỗ, tiếng sè sè cũa những chiếc trục ươm tơ, lòng hớn hở khi nhìn thấy cái hàng rào quen thuộc có những bông hoa dâm bụt đỏ :Dị Rồi có tiếng con chó Vàng sủa ăng ẳng mừng rỡ, tiếng mấy đứa em kêu réo om sòm "Mẹ ơi anh Hai về," rồi bà Nội đứng ở ngưỡng cửa đưa bàn tay nhăn nheo có dính những vệt vôi ăn trầu lên xoa đầu đứa cháu nhỏ hỏi han "Con đi đường xa có mệt không," rồi Mẹ đôi má ửng hồng bên ánh lửa rơm nhìn tôi mỉm cười dịu dàng "Mẹ biết thế mô con cũng về bửa ni, cái con mắt trái hắn giựt giựt từ hồi sáng tới chừ . "

Rồi trong bữa ăn tối thế nào cũng có hoặc là nồi canh cá diếc nấu rau răm, hoặc là "trả" cá đồng kho khô, những món ăn mà tôi ưa thích. Dưới ánh đèn dầu, gia đình tôi quây quần vui vẻ bên nồi cơm độn bắp bốc khói, nói chuyện không ngừng. Mấy đứa em tôi hỏi tôi hàng trăm lần về những chiếc "xe điện," xe "bình bịch" mà họa hoằn lắm chúng mới có dịp thấy, những con khỉ đá, chó đá ở chùa Cầu, những đoàn hát bội nổi tiếng chúng chưa bao giờ được xem. Mẹ tôi bận rộn suốt buổi cơm, la đứa này, nạt đứa kia "Con gái chi mà cái miệng xon xỏn," hỏi tôi về việc học hành, ăn ở "Họ có cho con ăn uống đàng hoàng không? Tối mi ngủ có treo mùng không, hay là cứ làm biếng ngủ trần để muỗi cắn mi chết." Tôi biết Mẹ đang vui bởi vì tôi và mấy em tôi cũng đang vui. Thỉnh thoảng tôi bắt gặp trong mắt Mẹ long lanh một nụ cười lặng lẽ hiếm hoi kể từ khi bà phải một mình gồng gánh gia đình trong đơn chiếc, từ khi "Vai xuân thì bánh mật ngả màu đen" (1) bởi cái gánh hàng nặng trĩu bà mang đi mang về hàng vài mươi cây số mỗi ngày để kiếm tiền nuôi nấng bầy con. Rồi hôm sau tôi lại quay về tỉnh lỵ nơi có căn nhà nhỏ mà tôi và những thằng bạn đồng cảnh ngộ đang ở trọ.

Trường có sáu lớp đệ thất thì hết năm lớp dành cho học sinh với ngoại ngữ chính là Pháp văn. Tôi được đưa vào đệ thất 3, ngồi ngay sau lưng đám học trò con gái. Học trò nhà quê lên tỉnh học dễ bị ăn hiếp. Chỉ cần nhìn cái mặt ngơ ngáo, quần áo lôi thôi, đôi dép râu thô kệch để lòi đôi bàn chân sứt sẹo vì lội ruộng bắp, đá banh bòng banh bưởi là biết ngaỵ Trong lớp tôi có mấy đứa chuyên môn đi bắt nạt mà đứng đầu là thằng Bạọ Thằng này tên giống như người, mặt mày bặm trợn, lổ mũi lúc nào cũng đỏ bóng như trái cà chuạ Nó thích bắt nạt tôi, chẳng biết vì lý do nào. Nạn nhân kế tiếp phải kể đến Phạm Dó. Thằng này đáng lẽ tên Phạm Gió hay Trúng Gió thì mới phù hợp với câu tên sao người vậy. Phạm Dó người nhỏ xíu, ốm tong ốm teo, nhà ở bên kia sông, nơi gọi là Cẩm Giàng Cẩm Phả gì đó. Tôi đã nghèo mà thằng này còn nghèo hơn, đi học mang đôi dép làm bằng mo cau kéo lệt xệt dọc hành lang nghe muốn điếc con ráy. Mỗi lần thấy đám thằng Bạo là mặt mày nó tái mét, tay chân giật đùng đùng như mắc phong, mắt lác xệch đi, ngay cả thằng Bạo trông thấy cũng phát ớn, bỏ đi tìm tôi hay Vĩnh Hoành để trêu ghẹọ Vĩnh Hoành dòng dõi hoàng tộc, vai vế ngang hàng với công dân Vĩnh Thụy, vị hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn. Đám thằng Bạo tước đoạt của thằng này khá nhiều tư trang vật dụng, ngay cả cây viết "Pilot" mới toanh cũng đổi chủ ngay từ lúc Vĩnh Hoành mang đến trường lần đầụ Tôi vốn nhát gan, thấy đám cô hồn là lo kiếm đường dông trước, vậy mà cũng không thoát tay tụi nó. Có lần thằng Bạo làm quá, đẩy tôi té đập đầu vào vách tường thiếu điều long óc. Tôi giận quá quên cả sợ, vác chiếc ghế dựa của ông thầy rượt nó chạy lòng vòng cái hành lang dài ngoằng của sáu lớp đệ thất. Sau lần đó, tôi có biệt danh là "Trừ ... Bạo", và không còn bị ăn hiếp nữạ

Giáo sư Việt văn kiêm hướng dẫn lớp đệ thất 3 là thầy Kham, Tôn Thất Kham. Theo chỗ tôi biết, thầy là người nhạy cảm và rất thương học trò. Vài tháng sau khi trường khai giảng, vùng tôi ở bị mấy cơn lụt lội, hoa màu bị tàn phá, chợ búa đóng cửa cả tháng. Mẹ tôi không đi buôn bán được, thiếu tiền trả tiền trọ học cho tôi. Tôi nhờ người quen giới thiệu đến một lò bánh mì dưới phố để xin lãnh bánh mì đi bán buổi tối phụ với Mẹ trả tiền cho chủ trọ. Mỗi đêm tôi hăng hái vác cái bao tải chứa những ổ bánh mì thơm tho nóng hổi đi vào các khu xóm rao bán. Có lần tôi đang ngoác miệng rao inh ỏi "Bánh mì nóng dòn đây" bỗng có tiếng ai nghe quen quen gọi lại hỏi mua. Đến gần, tôi nhận ra thầy Kham. Thầy trò nhìn nhau ngỡ ngàng. Hình như mắt thầy hơi ươn ướt. Cuối cùng thầy dành mua hết những ổ bánh mì còn lại của buổi tối. Tôi còn nhỏ, đầu óc khờ khạo nhưng cũng biết là thầy muốn giúp mình, chứ thầy cũng ở trọ đi dạy học làm gì mà một mình có thể ăn hết chừng ấy bánh mì trong một vài hôm. Từ đó thầy có vẻ quan tâm đến tôi một cách đặc biệt, và đáp lại, tôi cũng chịu khó học hành đàng hoàng trong giờ Việt văn.

Chiếc bàn học dành cho học trò con gái phía trước tôi có đến hai chị lớn ngồị Chị lớn là danh từ chung lũ học trò con trai dùng để gọi những nữ học sinh lớn tuổi mà không biết vì lý do nào lại được sắp vào cái lớp con nít này. Chị Bích Ngọc và chị Thuận là hai nhân vật ưa thích của tôi. Hai chị đều lớn hơn tụi tôi năm, sáu tuổi, vào khoảng mười sáu hay mười bảy gì đó trong khi đám còn lại cả trai lẫn gái mới có mười một, mười hai tuổi. Chị Bích Ngọc tóc dài, chị Thuận tóc quăn, hai người đều ... dễ thương. Tôi biết được điều đó qua miệng mấy anh lớn học trên đệ nhị cấp hay lảng vảng ngoài hành lang nhìn vào. Riêng tôi và mấy thằng quỷ sứ ngồi cùng bàn đồng ý là mấy chị rất tốt bụng. Trong giờ học, thay vì ... thả hồn ra cửa sổ, chúng tôi để hết tinh thần vào việc chọc phá mấy chị lớn, từ việc cột mấy vạt áo dài lại với nhau cho đến việc dán những tờ giấy vẽ hình nhăng nhít vào tóc vào áo của mấy chị, chúng tôi đều thực hiện với một lương tâm chức nghiệp rất cao. Kết quả vô cùng vẻ vang. Hai chị dắt chúng tôi ra cái quán nước nhỏ xíu của vợ chồng bác gác trường, mua cho chúng tôi kẹo mè xững và kẹo "nougat" sau khi bắt chúng tôi long trọng thề thốt sẽ không bao giờ tái diễn những hoạt động có tính cách phản nghệ thuật như vậy nữa.

Niên học đầu tiên rồi cũng qua đi, đánh dấu bởi những chuyến đi cắm trại ở cửa Đại, ở đó chúng tôi đốt lửa trại thi đua văn nghệ. Cũng trong niên học này, tôi quen biết Thước, người bạn cùng lớp mới mười hai tuổi đã biết làm thơ, biết đọc Ngàn Khơi và Tiểu Thuyết Thứ Bảy, những tạp chí văn chương dành cho người lớn. Rồi những lần theo Phạm Dó qua bên kia sông thăm gia đình hắn, cái gia đình nghèo rách mùng tơi mà vô cùng hiếu khách. Rồi những trò đùa nghịch ngợm, độc ác một cách vô tội của tuổi thơ, những con sâu đo gớm ghiếc làm lũ học trò con gái khóc thét, cuống cuồng sợ hãi. Rồi những buổi tối lang thang dọc bờ sông Phố, nơi có cái rạp chiếu bóng duy nhất của thị xã, để xem người lớn câu cá hanh bằng những cây cần trúc dài ngoằng. Và khi những chùm hoa phượng rực rỡ nở ra trên những tàng cây xanh ngắt trong sân trường, chúng tôi tặng nhau lưu bút, hẹn sẽ gặp lại vào mùa Thu tới.

II
Thầy Kham không còn là thầy hướng dẫn của chúng tôi. Thầy ở lại với đám học trò mới của lớp đệ thất 3. Giáo sư Việt văn kiêm hướng dẫn của đệ lục 3 là đàn bà, đàn bà đẹp. Cô giáo tên Tố Quyên, người Bắc. Lúc thầy giám thị đưa cô vào để giới thiệu cho cả lớp, đám học trò con trai đứa nào đứa nấy im thin thít, trống ngực đập còn hơn trống làng. Bởi vì cô trẻ quá, đẹp quá, giọng Bắc Kỳ êm quá, và trông cô.... dễ thương quá. Sau buổi học đầu tiên, thằng Thước, thi sĩ nhi đồng, về nhà làm ngay mười mấy bài thơ tình ướt át gọi gió than mây.
Vào giữa niên học, cô Tố Quyên cho chúng tôi bình giảng truyện ngắn Vàng Tháp Hời của Vũ Hạnh. Đã hơn ba mươi năm, những chi tiết của câu chuyện tôi không còn nhớ nữa, chỉ nhớ đại khái là có hai anh em nhà kia rủ nhau đi tìm vàng trong một ngôi tháp cổ của dân tộc Chiêm Thành, cuối cùng vì một trong hai người nghe lời xúi dục của ngoại nhân mà gây nên cảnh huynh đệ tương tàn. Vào thời điểm đó, đối với tôi câu chuyện chỉ có tính cách ngụ ngôn kiểu tục ngữ "Một giọt máu đào hơn ao nước lã" hoặc Quốc Văn Giáo Khoa Thư "Bó Đũa". Sau này tôi mới hiểu rõ hơn. Riêng cô Tố Quyên, tôi có thể đóan chắc mục đích của cô là thuần túy văn học, và một trong những mục tiêu của cô là giúp chúng tôi định nghĩa và phân tích hai chữ hy vọng.

"Hy vọng luôn luôn hướng về tương lai," cô Tố Quyên giải thích, "hai anh em trong bài viết này hy vọng rằng họ sẽ tìm được kho vàng chôn giấu trong cái tháp Chàm cổ kính." Tôi đưa tay lên phản đốị "Hy vọng không nhất thiết phải hướng về tương lai! Trước khi đi tìm vàng, hai người hy vọng đã có một kho tàng trong cái tháp Hời. Có vàng hay không có vàng trong cái tháp Hời là chuyện của quá khứ. Do đó, trong trường hợp này, hy vọng đã hướng về quá khứ." Đám học trò con trai, ngoại trừ thằng Thước, vỗ tay tán thành ầm ĩ. Hơi ngạc nhiên về cái lý luận ... bá láp của tôi, cô Tố Quyên bắt cả lớp im lặng rồi giải thích rằng có vàng trong tháp Hời, đối với hai anh em trong câu chuyện, là một niềm tin, không phải hy vọng. Với lối lý luận cù nhầy, lũ chúng tôi vẫn khăng khăng cho rằng hy vọng có tính cách ... hai chiều, không phải một chiều như cô đã khẳng định. Không còn "hy vọng" thuyết phục chúng tôi, cô Tố Quyên trong lúc "tuyệt vọng" bèn ... khóc. Sau này, trong cuộc đời ba chìm bảy nổi của mình, tôi cũng đã có dịp chứng kiến đàn bà khóc, có khi vì tôi, có khi vì tình địch của tôi, có khi vì một lý do nào khác, cũng có khi không vì lý do nào hết. Nói chung đàn bà trông đẹp và dễ thương hơn khi họ khóc, nhưng tôi chưa thấy ai khóc ... đẹp bằng cô Tố Quyên. Lúc đó bao nhiêu hùng tâm tráng chí của lũ chúng tôi xẹp xuống như bánh xe đạp cán đinh, nếu cô có bảo hy vọng nằm ở ... hướng Tây chúng tôi cũng chịu nữạ Nhưng đã trễ. Cô khóc, rồi cô bỏ đi. Bỗng dưng tôi trở thành tên tội phạm hàng đầu. Đám học trò con gái nhìn tôi với những cặp mắt giận dữ. Thằng Thước từ mãi dưới cuối lớp chạy lên đòi ăn thua đủ với tôi, ngay những đứa mới cách đây mấy phút đã mạnh mẽ ủng hộ cái hy vọng hai chiều cũng quay ra đả kích tôi dữ dội. Phần thì băn khoăn không biết rồi cô Tố Quyên có còn trở lại dạy chúng tôi nữa hay không, phần thì lo lắng vì bỗng dưng trở thành chánh danh hung thủ, tôi buồn bã ngồi tẩn mẩn cột tóc của hai chị lớn ngồi bàn trên lại với nhau.

Cuối cùng rồi cô Tố Quyên cũng trở về, với một đạo binh. Cho đến giây phút đó, và ngay cả sau này trong cuộc đời đi học của mình, chưa bao giờ chúng tôi được chứng kiến một cuộc phô trương lực lượng quy mô như vậy. Ngoại trừ thầy Hiệu Trưởng, từ thầy Hiệu Phó, thầy Tổng Giám Thị cho đến các thầy đang dạy lớp chúng tôi, và ngay cả các thầy dạy các lớp đệ nhị cấp, đều hiện diện. Lũ học trò nhìn nhau, mặt cắt không còn hạt máụ Trước mặt chúng tôi là cái tập hợp chọn lọc của ngành giáo dục quốc gia, lò đào tạo nhân tài và niềm kiêu hãnh của tỉnh Quảng Nam, người nào người nấy trông đằng đằng sát khí. Các thầy lần lượt lên phát biểu, nói cho đúng hơn, sỉ vả chúng tôi. Cuộc sỉ vả kéo dài tưởng như vô tận, dù mỗi thầy chỉ nói có vài ba phút. Cô Tố Quyên là người phát biểu sau cùng. Cô không sỉ vả chúng tôi, cô chỉ nói nhẹ nhàng, "Cô hy vọng rằng từ nay về sau các em sẽ thảo luận các nghi vấn với cô một cách nghiêm chỉnh hơn." Chúng tôi đều ghi nhận cái tín hiệu cô gởi, từ nay về sau, thì tương lai, hy vọng chỉ hướng về tương lai.

Cái biến cố đáng ghi nhớ đó rồi cũng qua đi, năm học thứ hai ở ngôi trường tỉnh lỵ rồi cũng qua đi. Trong những năm tháng còn lại ở phố Hội, tôi có thêm nhiều bạn bè, nhiều kỷ niệm. Vào mùa lũ lụt, tôi thường ra bờ sông để xem người ta kéo vó. Đôi khi tôi theo chủ nhà trọ xuống biển cửa Đại, cái bãi biển hoang vắng với rừng phi lao xanh ngắt, để câu cá hồng cá hanh. Thỉnh thoảng tôi lại đạp xe qua chùa Cầu, chiếc xe nhảy lộc cộc trên những thanh gỗ lót đường. Hoặc ra xóm Mới - bây giờ chắc đã cũ lắm rồi - với những con đường lầm cát, nơi có nhà thằng Thước. Hắn vẫn chưa chịu cho tôi xem mấy bài thơ hắn làm cho cô Tố Quyên.

Năm thứ ba ở trường Trần Quý Cáp đánh dấu những biến động lịch sử mà cái tuổi non nớt của tôi không đủ kiến thức để nhận định. Cuộc đảo chánh tháng mười một năm sáu mươi ba đối với tôi là cơ hội để được nghỉ học đi biểu tình, đón người hùng cách mạng Tôn Thất Đính, và những điều tương tự. Cũng trong thời gian đó, làng tôi càng ngày càng trở nên mất an ninh. Đã có những cuộc ám sát, khủng bố thực hiện bởi phía bên kia, những cuộc hành quân lùng sục của phía bên này. Đã có những lần về thăm nhà, giữa đêm khuya tôi giật mình thức giấc bởi tiếng đạn tầm xa gầm rú bay ngang qua nóc nhà hoặc tiếng súng vang rền từ phía bên kia sông.

Cơn lụt khủng khiếp năm sáu mươi bốn đẩy tôi lìa xa vĩnh viễn ngôi trường tỉnh lỵ. Nhà chúng tôi đã bị sập bởi cơn bão mấy tháng trước đó, những cây cột tre tạm bợ không chịu nổi giòng nước lũ, lại một lần nữa tan tành trong cơn Hồng Thủỵ Cơn lụt vô tiền khoáng hậu kéo đến từ những dãy núi xa bên kia sông Cái, cày xới những sườn đồi, bật tung cây cối, ào ạt tràn xuống khu đồng bằng nghèo nàn của miền Trung, cuốn đi những bãi dâu xanh, những nong tằm vàng óng, những mái nhà tranh, những căn nhà ngói, những vườn cây trái, những mạng người. Cũng may mà gia đình tôi đều được an toàn. Trong những ngày tháng kế tiếp, gia đình tôi sống qua ngày bằng lu bắp khô còn sót lại, những hạt bắp khô cứng, nhạt nhẽo cầy xới cuống họng của bầy con đói khát và trái tim của người mẹ đơn chiếc. Mẹ tôi quyết định đưa chúng tôi vào miền Nam tìm kế sinh nhai.

Chia tay với cái thành phố càng ngày càng trở nên quen thuộc không phải là chuyện dễ dàng. Tôi luyến tiếc nhìn hàng phượng vĩ với những chùm hoa đỏ nở muộn, những con sâu đo gớm ghiếc, cái quán nước nghèo nàn của bác gác trường. Tôi còn nhớ cái mùi khăm khẳm đặc biệt của những con ruốc làm mắm phơi trên những vĩ tre dọc lề đường, tô bún bò Huế có miếng thịt đùi thơm tho, những cây "sê ri" với chùm trái chín mọng trồng dọc con đường khu tôi ở trọ. Tôi còn nhớ mối tình con nít vụng dại với đứa em gái của thằng bạn cùng lớp, lá thư viết hai tháng chưa dám gởi đi, nụ hôn đầu tiên trên môi đứa con gái mười ba tuổi bởi thằng con trai mười bốn tuổi sướng tê ngườị

Rất lâu sau này tôi có một lần về thăm chốn cũ. Cái thành phố ngày xưa bỗng như nhỏ lại. Cỡi chiếc xe gắn máy mượn của đứa cháu, tôi dừng lại trước cổng trường. Những cây phượng ngày xưa vẫn còn đó, cằn cỗi hơn, thiếu vắng những chùm hoa rực rỡ. Có lẽ vì trái mùa, mà cũng có lẽ vì "nhân khứ tận." Đám bạn học ngày xưa cũng đã tản lạc phương nào, những cái tên của dĩ vãng, thầy Hoàng Trung, thầy Kham, cô Tố Quyên, thằng Bạo, Phạm Dó, Vĩnh Hoành, Huỳnh bá Thước, Tường Vi bỗng dưng nghe buồn như thơ Vũ Đình Liên. Cuộc viếng thăm Hội An của tôi rất ngắn ngủi. Trên đường về thăm làng cũ, tôi có dịp thấy lại ngôi tháp Chàm Bàng An. Vẫn sừng sững, vẫn rêu phong, nhưng cái âm u, bí ẩn đã không còn. Chỉ còn là một nhân chứng u sầu với tiếng thở dài phiền muộn mỗi khi ngọn gió đồng thổi qua cái :Dnh tháp dột nát.

oOo

Bây giờ là sáu giờ sáng. Tôi có thói quen dậy sớm, ngồi một mình ở chiếc bàn ăn nhỏ. Trước mặt tôi là ly cà phê nóng với cái hương vị lai căng -- cà phê bột của Mỹ và sữa đặc có đường hiệu Ông Thọ -- và điếu thuốc lá đầu ngày. Có lần tôi đọc một truyện ngắn, hình như của Phan Du, về một ngọn đèn vàng ở một góc cầu thang nào đó đã nhắc nhở tác giả về một ánh đèn vàng ở một nơi chốn khác trong quá khứ. Ngọn đèn đã như chiếc chìa khóa thần diệu mở ra một ngăn kéo của ký ức, ở đó tác giả tìm thấy lại hình ảnh của người tình chìm khuất. Còn tôi? Chìa khóa nào đã mở ra cho tôi tuổi hoa niên, ngôi tháp Chàm đổ nát, mái trường thân yêu, những cái tên đã tưởng không bao giờ còn nhớ nổi, nụ hôn đầu đời sướng tê người, chùm hoa phượng đỏ rực, và những con sâu đo gớm ghiếc? Tôi không biết. Tôi chỉ biết cám ơn cái quyền lực huyền nhiệm nào đó đã cho tôi khả năng sống lại những kỷ niệm xa xưa.

Tôi mong một ngày nào đó được gặp lại Thước để xin hắn tập thơ hắn làm cho cô Tố Quyên vào năm mười hai tuổi, nếu hắn còn sống và còn giữ tập thơ. Tôi cũng rất mong gặp lại cô Tố Quyên để hỏi cô một lần nữa "Phải chăng hy vọng chỉ hướng về tương laỉ" Nếu phải thì buồn quá, bởi vì chẳng lẽ những ngăn kéo ký ức tôi mở ra cùng với ly cà phê lai căng và điếu thuốc đầu ngày chỉ chứa có mỗi một niềm tuyệt vọng thôi sao?

Mùa thu 94.



Trả Lời Với Trích Dẫn
  #17  
Old 05-30-2004, 08:58 PM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

Người đàn ông không cười





Bầu trời hiện ra xanh thẳm, gợi nhớ thứ đồ sứ tuyệt đẹp. Tôi nằm trên giường, đầu óc chỉ mãi theo dõi sắc nước trong dòng sông buổi sớm thay đổi ra sao.
Người diễn viên, đóng vai chính trong bộ phim của chúng tôi đúng mười ngày nữa phải trở về với công việc ở một nhà hát, do đó tuần tới phải quay thông tầm cả ngày lẫn đêm. Với tư cách tác giả kịch bản, trong khâu quay phim, tôi không có việc gì đáng kể. Nhưng sau những đêm không ngủ, môi tôi se lại, nứt nẻ và con mắt thì đau nhức bởi ánh sáng :Di chang trên trường quay. Đêm qua, tôi lại trở về khách sạn khi mọi vì sao đã tắt hết trên nền trời; cố nhiên là người mệt mỏi vô hạn.
Nhưng sắc trời gợi nhớ tới chất đồ sứ tuyệt vời kia lập tức khiến lòng tôi dịu lại. Trong tâm trí tôi hiện lên những hình ảnh đẹp và rất nhiều bóng dáng yêu kiều. Trước tiên, tôi hình dung lại cái phố Xitdô đầy sức quyến rũ. ở đó tôi từng ngồi ăn ở khách sạn "Cơridăngtêma", gần chiếc cầu lớn. Qua khung cửa sổ tầng ba, tôi mãi ngắm màu xanh rực rỡ của cây cối trên :Dnh núi Higaxi. Cả ngọn núi như nằm trong lòng bàn tay. Cảnh tượng bình thường, nhưng do chỗ vừa từ Tokyô tới, tôi không khỏi kinh ngạc trước vẻ tươi tắn của đám lá non mới nhú. Rồi tôi nhớ tới những mặt nạ sân khấu treo ở một cửa hàng đồ cổ. Những mặt nạ cười, loại đã lâu đời lắm.
- Chết thật ! ý nghĩ hay đấy chứ !
Quá vui bởi một ý đồ sáng tạo nảy ra bất thần, tôi vớ ngay giấy bút và lia thật nhanh. Tóm lại là tôi muốn chữa lại cảnh cuối cùng trong kịch bản. Đánh dấu chấm hết vào cuối bản thảo xong, tôi thấy chưa yên, còn chua thêm một ít dòng để dặn riêng đạo diễn.
Cảnh cuối cùng trong bộ phim tôi viết theo lối ước lệ. Trong các khuôn hình ở phần kết này, các vai chính sẽ hiện ra trong những mặt nạ cười.
Viết về một thực tại hắc ám tôi đã cố nhiên, nhưng không sao điểm thêm vào trong phim được một ít nụ cười tươi tắn. May quá, bây giờ, ít ra là ở đoạn kết, hiện thực sẽ bớt nặng nề đi, các mặt nạ với nụ cười nhân hậu.
Cuộn bản thảo lại, tôi tính chuyện gửi nó tới xưởng. Trong phòng làm việc chẳng còn gì ngoài chồng báo xếp trên bàn.
Trước mắt tôi chỉ có người phụ nữ bán căng tin đang nhặt vỏ báo trước xưởng làm đạo cụ trang trí.
- Phiền bà chuyển hộ cái này tới tận tay đạo diễn ngay khi ông ta tỉnh dậy, - tôi nói thêm khi chuyển cho người đàn bà phong bì bản thảo.
Trong kịch bản này của tôi, hành động chính xảy ra tại một bệnh viện tâm thần. Nhưng sau nhiều ngày quan sát những cảnh quay cuộc sống của đám người mất trí, tôi đâm hoảng: nếu không tìm ra bằng được một ít tia sáng tươi vui nào đó để rọi vào câu chuyện tâm tối khủng khiếp này, bộ phim chắc chắn bị đổ. Nhưng một cái happy ending cần thiết không sao tìm nổi - đấy vốn là một đặc điểm trong cách viết của tôi, dấu vết của một lối nhìn u ám. Do đó, tôi mừng đến mức khó nói nên lời, khi nghĩ ra cảnh mặt nạ. Tôi vui vẻ hẳn lên khi hình dung ra đoạn cuối phim mọi bệnh nhân trong viện, không trừ một ai, hiện ra trong những mặt nạ đang cười. Thật là một cảnh comic :Di sáng.
Những tấm kính dầy dùng làm mái che xưởng phim dường như đã thu vào mình tất cả sắc xanh. ánh sáng ban ngày nuốt dần cái màu xanh thẳm từng gợi nhớ tới màu sứ xơtô tuyệt diệu trên trời. Tâm hồn hoàn toàn tưh thái, tôi quay về khách sạn, và thiếp đi một lúc hết sức khoan khoái.
Người được cử đi mua mặt nạ quay về xưởng vào lúc mười một giờ đêm.
- Từ sáng đến giờ, tôi phóng ô tô đến tất cả các cửa hàng đồ chơi ở Kiôtô - Ông ta kể, - nhưng không tìm đâu được một mặt nạ ra hồn. Chỉ có loại này...
- Để tôi xem nào - tôi bảo, và khi ông ta mở túi ra, tôi chỉ còn cách quay đi thất vọng - ồ... à... Cái này thì chưa được.
- Tôi cũng đã đoán thế, - người nhân viên phụ trách đạo cụ buồn bã gật đầu. - Tôi còn nhớ mang máng rằng ở một cửa hàng nào đó, tôi đã nhìn thấy một mặt nạ rất hợp, nên cả ngày đi sục khắp mọi cửa hàng, vậy mà vẫn công cốc...
Tôi nói gần như phát khóc, khi mâm mê trên tay chiếc mặt nạ kỳ cục, chỗ lồi chỗ lõm.
- Tôi tính mặt nạ là muốn dùng thứ mặt nạ sử dụng trên sân khấu. Nó kia. Bản thân mặt nạ phải là một tác phẩm nghệ thuật thực thụ. Còn thứ đồ giả này đưa ra chỉ tổ mua cười.
Nhìn vào chiếc mặt nạ màu nâu với cái lưỡi thò ra đỏ :Di trông rất rợ, tôi nói thêm:
- Tôi cần thứ mặt nạ trắng, nhẵn, lôi cuốn người ta bằng nụ cười hiền dịu. Mang thứ mặt nạ này lên phim trước hết trông cứ tối sầm.
- Chuyện khó gỡ đây, - đạo diễn cười khi cho trường quay tạm ngừng công việc và nhìn vào chiếc mặt nạ - Hay ta cứ lấy mấy cái này, quét màu vào dùng tạm vậy.
Sáng mai đã bắt đầu quayđoạn cuối: các thứ mua ở cửa hàng đồ chơi không dùng được, nhưng muốn tìm cho ra thứ mặt nạ cổ như tôi muốn thì không còn thời gian, rút cuộc đạo diễn đề nghị: hay cùng lắm, ta tự làm lấy một ít mặt nạ bằng các loại xen-luy-lô có ở xưởng.
- Không, - tôi phản đối, - giữa hai con đường chỉ được chọn một: hoặc tìm cho ra những mặt nạ có giá trị nghệ thuật thực thụ; hoặc ý định của tôi phải tạm gác lại.
- Biết thế, hãy để tìm thêm chuyến nữa. Bầy giờ mười một giờ. ở khu Tân Kiôtô có lẽ phố xá chưa đóng cửa hết đâu.
- Anh đi với tôi ? - Tôi tỏ ý hoan hỉ.
Chúng tôi lên xe, phóng thẳng trên con đập qua sông. Trên bờ sông đối diện, ở khu bệnnh viện đa khoa, các cửa sổ còn để đèn, ánh sáng lấp lánh trên mặt nước. Thật khó hình dung là sau những cửa sổ đó, các bệnh nhân đang quằn quại trong bệnh tật. "Nếu như không tìm thấy những mặt nạ thích hợp - tôi tự nhủ - không khéo trong đoạn kết phim, mình phải đưa ra hình ảnh những khuôn mặt cửa sổ bệnh viện :Di sáng trong đêm và đổ bóng trên mặt sông ?"
Cùng với người phụ trách khâu kịch bản, tôi la cà khắp cửa hàng đồ chơi ngay trước khi các cửa hàng này kịp đóng cửa. Cũng mua được khoảng hai chục mặt nạ phụ nữ, loại mặt tròn, bồi bằng giấy. Nhưng vẫn chưa phải thứ mặt nạ tôi cần. Trông chúng có đẹp thật, nhưng còn xa mới đáng gọi là những chế phẩm có ý nghĩa nghệ thuật thực thụ. Còn phố Xitdô thì các nhà đã đóng cửa đi ngủ cả.
- Ráng chờ chút xíu, - người phụ trách khâu kịch bản rẽ vào một phố nhỏ. - Ngõ này có nhiều cửa hàng đồ cổ chuyên bán các đồ cúng Phật ngày xưa. Tôi ngờ may ra có thể có các thứ đạo cụ dùng trong sân khấu Nô.
Nhưng tất cả các cửa hàng trong ngõ đều đã đóng cửa. Tôi ghé mắt qua lỗ khóa gần như hết tất cả các cửa hàng đó.
- Được, bảy giờ sáng mai tôi sẽ có mặt ở đây, - người đồng hành của tôi quả quyết. - Bây giờ đang đêm, chắc cũng chưa cần làm gì vội.
- Mai tôi sẽ đi với anh. Xin nhớ đánh thức tôi dậy.
Nhưng anh ta không đánh thức tôi, mà đi một mình, và khi tôi đến xưởng mọi người đang bắt tay vào quay đoạn cuối. Rút cuộc, người ta cũng tìm được năm mặt nạ cổ đẹp không chê vào đâu được. Theo đúng ý đồ của tôi, lẽ ra cần đến hai mươi hoặc hơn nữa, ba mươi chiếc. Nhưng chỉ cần năm cái loại này, những nụ cười kì diệu chắc đã đủ sức thức dậy trong lòng người xem những cảm giác cao thượng tốt đẹp. Lòng tôi dịu lại, tôi cảm thấy mình đã hoàn thành nghĩa vụ với những con người bị bệnh tâm thần mà cuộc sống của họ được sử dụng làm cơ sở cho kịch bản.
- Mặt nạ rất quý, tôi không mua nổi nên đành thuê tạm, - người phụ trách kịch bản nói. - Chỉ bôi bẩn một chút thôi, người ta sẽ không nhận trả lại.
Sau khi đã dặn dò đủ điều những người sử dụng mặt nạ, chúng tôi yêu cầu họ rửa tay cẩn thận trước khi cầm vào chúng. Ai nấy nâng niu, như những của quý.
Nhưng khi quay xong vẫn không trách khỏi có chuyện: một trong năm mặt nạ bị ố một vệt vàng trên má.
- Tai họa ! - Người phụ trách kịch bản kêu lên buồn bã. - Hay ta thử cố tẩy đi...
- Thôi được, - tôi an ủi anh ta. -Tôi xin trả tiền và lấy cái mặt nạ ấy vậy.
Thật ra lâu nay, tôi vẫn có ý tìm một mặt nạ loại đó. Tôi thường ước ao con người ta trong tương lai, phải có khuôn mặt đầy ánh sáng và lương thiện, với những nụ cười rạng rỡ như vậy.
Trở lại Tokyo, tôi lập tức rẽ về nhà và từ đó, đến thăm vợ tôi đang nằm bệnh viện. Bọn trẻ trong nhà cũng đang ở đấy thăm mẹ. Chúng truyền tay nhau chiếc mặt nạ, tỏ ý thích lắm. Tôi càng lấy làm hài lòng.
- Bố, bố thử đeo xem sao ! - Một đứa đưa mặt nạ cho tôi.
- Bố không thích.
- Bố cứ thử đeo xem.
- Không !
- Bố đeo cơ... - Thằng con trai nhỏ nhất nói giọng nũng nịu và nhón chân lên, toan ấn vào mặt tôi. Tôi bắt đầu cáu, nhưng may, vợ tôi đã lên tiếng cứu vãn.
- Thôi con. - Vợ tôi khẽ quát thằng nhỏ.
- Hay ta đeo cho mẹ vậy ! - Lũ trẻ cùng cười rúc rích và quay cả về phía mẹ.
- Không được làm thế các con, mẹ đang ốm !
Tôi định ngăn chúng lại, nhưng đã muộn.
Một điều khủng khiếp nào đó đã xảy ra khi chiếc mặt nạ được đeo vào mặt người vợ ốm đang nằm trên giường.
Tôi vội giỡ chiếc mặt nạ khỏi mặt nàng. Vợ tôi thở hổn hển. Nhưng tôi ngạc nhiên bởi một điều khác. Khi tôi vừa gỡ mặt nạ ra, khuôn mặt nàng hiện ra xấu xí một cách thậm tệ gần như trở thành kì quái. Tôi rợn cả tóc gáy khi nhìn vào khuôn mặt phờ phạc đó. Người tôi thảng thốt như lần đầu tiên trong đời nhìn thấy nó. Chỉ cần chiếc mặt nạ tuyệt vời đặt trên khuôn mặt vợ tôi chốc lát, lập tức tôi cảm thấy tất cả vẻ xấu xí của nó. Hơn nữa, không phải chỉ xấu xí, khó coi, khuôn mặt đó giờ đây còn hiện ra héo hon, trầm uất đến cực độ. Ngay khi đã gỡ khỏi chiếc mặt nạ xinh đẹp kia một lúc, khuôn mặt đó vẫn hiện ra đặc biệt thảm hại, nhạt nhẽo.
- Bây giờ bố đeo thử xem, bố ! - Lũ trẻ bắt đầu xoay sang tôi. - Bây giờ đến lượt bố.
- Đủ rồi, buông ra ! - Tôi nói xẳng và kịp đứng lên.
Nếu tôi đeo mặt nạ vào và sau đó gỡ nó ra, biết đâu, trong mắt vợ tôi, tôi chả hiện ra kỳ cục đến quá quỷ sứ !
Cái mặt nạ xinh đẹp thật xảo quyệt. Nó làm nảy sinh trong tâm trí tôi một mối nghi ngờ khủng khiếp: hay khuôn mặt vợ tôi - mà bấy lâu tôi quen thấy, với nụ cười dịu dàng nhân hậu - chẳng qua cũng chỉ là một thứ mặt nạ ? Phải chăng nụ cười trên khuôn mặt người phụ nữ cũng là được tạo ra như chiếc mặt nạ đã được tạo ra như thế này ?
Quỷ tha ma bắt những cái mặt nạ này ! Quỷ tha ma bắt những thứ được bày vẽ này đi !
Tôi quyết định phải lập tức gửi tới xưởng phim ở Kyoto một bức điện trong đó viết "Bỏ ngay các đoạn phim sử dụng mặt nạ". Nhưng rồi tôi xé bức điện thành từng mảnh nhỏ.



Trả Lời Với Trích Dẫn
  #18  
Old 05-30-2004, 08:59 PM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

:::: Khái Hưng ::::
Anh Phải Sống





Trên đê Yên Phụ một buổi chiều mùa hạ.

Nước sông Nhị Hà mới bắt đầu lên to, cuồn cuộn chảy, tưong muốn lôi phăng cái cù lao ở giữa sông đi.

Theo dòng nước đỏ lờ đờ, những thân cây, những cành khô từ rừng về nổi lềnh bềnh, như một dãy thuyền nhỏ liên tiếp chạy thật nhanh tới một nơi không bờ không bến.

Ðứng trên đê, bác phó nề Thức đưa mắt trông theo những khúc gỗ ấy tỏ ý thèm muốn, rồi quay lại, đăm đăm nhìn vợ, hỏi thầm ý kiến. Người vợ, ngắm sông, ngắm trời, lắc đầu thở dài, nói:

-- Gió to quá, mà đám mây đen kia ở chân trời đùn lên mau lắm. Mưa đến nơi mất, mình ạ !

Người chồng cũng thở dài, đi lững thững. Rồi bỗng dừng lại, hỏi vợ:

-- Mình thổi cơm chưa ?

Vợ buồn rầu đáp:

-- Ðã. Nhưng chỉ đủ cơm cho hai con ăn bữa chiều hôm nay.

Hai vợ chồng lại im lặng nhìn nhau... Rồi hình như cùng bị một vật, một định kiến nó thôi miên, nó kiềm áp, hai người đều quay lại phía sông. Những thân cây vẫn phăng phăng trôi giữa dòng nước đỏ.

Chồng mỉm cười, cái cười vơ vẩn, bảo vợ:

-- Liều !

Vợ lắc đầu không nói. Chồng hỏi:

-- Mình đã đến nhà bà Ký chưa ?

-- Ðã.

-- Thế nào ?

-- Không ăn thua. Bà ấy bảo có đem củi vớt đến, bà ấy mới giao tiền. Bà ấy không cho vay trước.

-- Thế à ?

Hai chữ "thế à" rắn rỏi như hai nhát bay cuối cùng gõ xuống viên gạch đặt trên tường đương xâỵ Thức quả quyết sắp thi hành một việc phi thường, quay lại bảo vợ:

-- Này ! Mình về nhà, trông coi thằng Bò.

-- Ðã có cái Nhớn, cái Bé chơi với nó rồi.

-- Nhưng mình về thì vẫn hơn, cái Nhớn nó mới lên năm, nó trông nom sao nổi hai em nó.

-- Vậy thì tôi về... Nhưng mình cũng về chứ đứng đây làm gì ?

-- Ðược, cứ về trước đi, tôi về sau.

Vợ Thức ngoan ngoãn, về làng Yên Phụ.

<><><><><><><><><><><><><><><><><><><>

Tới nhà, gian nhà lụp xụp, ẩm thấp, tối tăm, chị phó Thức đứng ở ngưỡng cửa, ngắm cái cảnh nghèo khó mà đau lòng.

Lúc nhúc trên phản gỗ không chiếu, ba đứa con đang cùng khóc lóc gọi bu. Thằng Bò kêu gào đòi bú. Từ trưa đến giờ, nó chưa được tí gì vào bụng.

Cái Nhớn vỗ em không nín cũng mếu máo, luôn mồm bảo cái Bé:

-- Mày đi tìm bu về để cho em nó bú.

Nhưng cái Bé không chịu đi, nằm lăn ra phản vừa chưởi vừa kêu.

Chị phó Thức vội chạy lại ẵm con, nói nựng:

-- Nao ôi ! Tôi đi mãi để con tôi đói, con tôi khóc.

Rồi chị ngồi xuống phản cho con bú. Song thằng Bò, ý chừng bú mãi không thấy sữa, nên mồm nó lại nhả vú mẹ nó ra mà gào khóc to hơn trước.

Chị Thức thở dài, hai giọt lệ long lanh trong cặp mắt đen quầng. Chị đứng dậy, vừa đi vừa hát ru con. Rồi lại nói nựng:

-- Nao ôi ! Tôi chả có gì ăn, hết cả sữa cho con tôi bú !

Một lúc thằng bé vì mệt quá, lặng thiếp đi. Hai đứa chị, người mẹ đã đuổi ra đường chơi để được yên tĩnh cho em chúng nó ngủ.

Chị Thức lẳng lặng ngồi ôn lại cuộc đời đã qua. Bộ óc chất phát của chị nhà quê giản dị, không từng biết tưởng tượng, không từng biết xếp đặt trí nhớ cho có thứ tự. Những điều chị nhớ lại chen chúc nhau hỗn độn hiện ra như những hình người vật trên một tấm ảnh chụp. Một điều chắc chắn, chị ta nhớ ra một cách rành mạch, là chưa bao giờ được hưởng chút sung sướng thư nhàn như những người giàu có.

Năm mười hai, mười ba, cái đĩ Lạc, tên tục chị phó Thức, xuất thân làm phu hồ. Cái đời chị, nào có chi lạ. Ngày lại ngày, tháng lại tháng, năm lại năm...

Năm chị mười bảy, một lần cùng anh phó Thức cùng làm một nơi, chị làm phu hồ, anh phó ngõa. Câu nói đùa đi, câu nói đùa lại, rồi hai người yêu nhau, rồi hai người lấy nhau.

Năm năm ròng trong gian nhà lụp sụp ẩm thấp, tối tăm ở chân đê Yên Phụ, không có một sự gì êm đềm đáng ghi chép và hai cái đời trống rỗng của hai con người khốn nạn, càng khốn nạn khi họ đã đẻ luôn ba năm ba đứa con.

Lại thêm gặp buổi khó khăn, việc ít, công hạ, khiến hai vợ chồng loay hoay, chật vật suốt ngày này sang ngày khác vẫn không đủ nuôi thân, nuôi con.

Bỗng mùa nước mặn năm ngoái, bác phó Thức nghĩ ra được một cách sinh nhai mới. Bác vay tiền mua một chiếc thuyền nan, rồi hai vợ chồng ngày ngày chở ra giữa dòng sông vớt củi. Hai tháng sau, bác trả xong nợ, lại kiếm được tiền ăn tiêu thừa thải.

Vì thế năm nay túng đói, vợ chồng bác chỉ mong :Dng tới ngày có nước to.

Thì hôm qua, cái ăn, trời bắt đầu đưa đến cho gia đình bác.

Nghĩ đến đó, Lạc mỉm cười, se sẽ đặt con nằm yên trên cái tã, rồi rón rén bước ra ngoài, lên đê, hình như quả quyết làm một việc gì.



<><><><><><><><><><><><><><><><><><><>




Ra tới đê, Lạc không thấy chồng đâu.

Gió vẫn to, vù vù gầm thét dữ dội và nước vẫn mạnh, réo ầm ầm chảy quanh như thác. Lạc ngước mắt nhìn trời; da trời một màu đen sẫm.

Chị đứng ngẫm nghĩ, tà áo bay kêu phần phật như tiếng sóng vỗ mạnh vào bờ. Bỗng trong lòng nẩy ra một ý tưởng, khiến chị hoảng hốt chạy vụt xuống phía đê bên sông.

Tới chỗ buộc thuyền, một chiếc thuyền nan, Lạc thấy chồng đương ra sức níu lại cái gút lạt. Chị yên lặng đăm đăm đứng ngắm đợi khi chồng làm xong công việc, mới bước vào thuyền hỏi:

-- Mình định đi đâu ?

Thức trừng mắt nhìn vợ, cất tiếng gắt:

-- Sao không ở nhà với con ?

Lạc sợ hãi ấp úng:

-- Con... nó ngủ.

-- Nhưng mình ra đây làm gì ?

-- Nhưng mình định đem thuyền đi đâu ?

-- Mình hỏi làm gì ? Ði về !

Lạc bưng mặt khóc. Thức cảm động:

-- Sao mình khóc ?

-- Vì anh định đi vớt củi một mình, không cho tôi đi.

Thức ngẫm nghĩ, nhìn trời, nhìn nước, rồi bảo vợ:

-- Mình không đi được... nguy hiểm lắm.

Lạc cười:

-- Nguy hiểm thời nguy hiểm cả... Nhưng không sợ, em biết bơi.

-- Ðược !

Tiếng "được" lạnh lùng, Lạc nghe rùng mình. Gió thổi vẫn mạnh, nước chảy vẫn dữ, trời mỗi lúc một đen. Thức hỏi:

-- Mình sợ ?

-- Không.

Hai vợ chồng bắt đầu đưa thuyền ra giữa dòng, chồng lái, vợ bơi. Cố chống lại sức nước, chồng cho mũi thuyền quay về phía thượng du, nhưng thuyền vẫn bị trôi phăng xuống phía dưới, khi nhô, khi chìm, khi ẩn, khi hiện trên làn nước phù sa, như chiếc lá tre khô nổi trong vũng máu, như con muỗi mắt chết đuối trong nghiên son.

Nhưng nửa giờ sau, thuyền cũng tới được giữa dòng. Chồng giữ ghì lái, vợ vớt củi.

Chẳng bao lâu thuyền đã gần đầy, và vợ chồng sắp sửa quay trở vào bờ thì trời đổ mưa... Rồi chớp nhoáng như xé mây đen, rồi sấm sét như trời long đất lở.

Chiếc thuyền nan nhỏ, đầy nước, nặng trĩu.

Hai người cố bơi nhưng vẫn bị sức nước kéo phăng đi...

Bỗng hai tiếng kêu cùng một lúc:

-- Trời ơi !

Thuyền đã chìm. Những khúc củi vớt được đã nhập bọn cũ và lạnh lùng trôi đi, lôi theo cả chiếc thuyền nan lật sấp...

Chồng hỏi vợ:

-- Mình liệu bơi được đến bờ không ?

Vợ quả quyết:

-- Ðược !

-- Theo dòng nước mà bơi... Gối lên sóng !

-- Ðược ! Mặc em !

Mưa vẫn to, sấp chớp vẫn dữ. Hai người tưởng mình sống trong vực sâu thẳm. Một lúc sau, Thức thấy vợ đã đuối sức, liền bơi lại gần hỏi :

-- Thế nào ?

-- Ðược ! Mặc em !

Vợ vừa nói buông lời thì cái đầu chìm lỉm. Cố hết sức bình sinh, nàng mới ngoi lên được mặt nước. Chồng vội vàng đến cứu. Rồi một tay xốc vợ một tay bơi. Vợ mỉm cười, âu yếm nhìn chồng. Chồng cũng mỉm cười. Một lúc, Thức kêu:

-- Mỏi lắm rồi, mình vịn vào tôi, để tôi bơi ! Tôi không xốc nổi được mình nữa.

Mấy phút sau, chồng nghe chừng càng mỏi, hai cánh ta rã rời. Vợ khẽ hỏi:

-- Có bơi được nữa không ?

-- Không biết. Nhưng một mình thì chắc được.

-- Em buông ra cho mình vào nhé ?

Chồng cười:

-- Không ! Cùng chết cả.

Một lát -- một lát nhưng Lạc coi lâu bằng một ngày -- chồng lại hỏi:

-- Lạc ơi ? Liệu có cố bơi được nữa không ?

-- Không ?... Sao !

-- Không. Thôi đành chết cả đôi.

Bỗng Lạc rung khẽ nói:

-- Thằng Bò ! Cái Nhớn ! Cái Bé ! ... Không ? ... Anh phải sống !

Thức bỗng nhẹ hẳn đi. Cái vật nặng không thấy bám vào mình nữa. Thì ra Lạc nghĩ đến con đã lẳng lặng buông tay ra để mình xuống đáy sông, cho chồng đủ sức bơi vào bờ.



<><><><><><><><><><><><><><><><><><><>




Ðèn điện sáng rực xuống bờ sông. Gió đã im, sóng đã lặng. Một người đàn ông bế một đứa con trai ngồi khóc. Hai đứa con gái nhỏ đứng bên cạnh. Ðó là gia đình bác phó Thức ra bờ sông từ biệt lần cuối cùng linh hồn kẻ đã hy sinh vì lòng thương con.

Trong cảnh bao la, nước sông vẫn lãnh đạm chảy xuôi dòng.


Trả Lời Với Trích Dẫn
  #19  
Old 06-03-2004, 02:45 PM
CoBe_LanhLung CoBe_LanhLung is offline
Junior Member
 
Tham gia ngày: Jun 2004
Nơi Cư Ngụ: * Bang Tuyet *
Bài gởi: 23
Send a message via MSN to CoBe_LanhLung Send a message via Yahoo to CoBe_LanhLung
Default

wow doc song co ngay dui mat qua' :lol: Lanh LUng cung rang het minh doc sap song roi thank u nhieu :rolleyes: chuyen de xuong qua'
__________________
~@-@~ Happiness Is Easy To Find, But Difficult To Keep ~@-@~
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #20  
Old 06-10-2004, 12:45 PM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

Phải ho lao mới được



Chúng tôi lấy nhau, sự thể là như vậy... Con người khi lấy vợ rồi thì phải làm gì? Thì anh lấy vợ làm gì, một khi còn chưa biết điều gì đáng phải làm? Bây giờ thì tôi biết rõ lắm rồi! Người ta lấy vợ xong, việc đầu tiên là phải có than cho mùa đông. Tôi bèn đi hỏi bạn bè xem làm việc đó thế nào?

-Ô hô! - họ nói - Anh đừng hòng mua được.

-Sao lại thế?

-Anh không thể nào mua được chứ sao nữa!

-Nhưng tôi có quyền cơ mà! Ôi, Ala!

Tất cả những kẻ nào bảo tôi: "Cậu đừng hòng mua than" đều được tôi lên lớp cho một bài ra trò về quyền công dân!

Tôi đến nhà trưởng phố. Sau khi chờ 10' cho ông lão dứt cơn ho, tôi hỏi:

-Cụ ủng hộ phe nào ạ?

-Phe dân chủ! - Ông cụ làu nhàu nói.

-Hay lắm! Cháu cũng ủng hộ phe dân chủ - tôi đáp - Cháu ở phố nọ, số nhà nọ, cháu muốn mua than. Cụ giúp chúng cháu với.

-Thế là từ trước đến nay anh mua than ở đâu?

-Cháu đã mua than bao giờ đâu. Ðây là lần đầu tiên cháu định mua đấy.

-Thế đầu đuôi làm sao mà anh lại đến đây?

-Thưa cụ, cháu vừa mới cưới vợ. Trước kia thì cháu thế nào cũng xong. Bây giờ cháu muốn mua than để đôi chim trong tổ uyên ương chúng cháu được sưởi ấm vào mùa đông.

Anh mang giấy chứng nhận nơi ở cũ của anh và của vợ anh đến đây.

Thế là các điện khẩn, điện hoả tốc, điện kèm cước phí trả lời bay đi tứ tung, và một tháng rưỡi sau chúng tôi nhận được giấy chứng thực. Lần này trưởng phố bảo:

-Anh phải viết đơn cho sở phân phối than.

Chúng tôi nộp đơn. Họ đưa cho tờ giấy bảo là để trưởng phố điền vào. Nào ai bảo là tôi không mua được than nào?!

Chúng tôi cầm tờ giấy. Trưởng phố điền vào. Chúng tôi lại mang đến sở phân phối than. Cần một chữ ký! Thế là xo...o...ong! Giờ thì cứ để họ xem tôi có mua được than hay không? Chữ ký có đây rồi. Phải, thưa các ngài, dân ta là cứ muốn mọi thứ kề sẵn miệng cơ! Bảo là "cho tôi một tấn than" rồi muốn người ta để than cho ngay lập tức cơ! Như thế mà được à! Ðây có phải quầy bán thức ăn đâu! Ðến quầy bán thức ăn cũng phải xếp hàng đợi đến lượt nữa là! ở đây lại có ngần ấy công thức, họ phải có việc gì mà làm chớ. Lại cần thêm một chữ ký nữa...

Khi đã lấy đủ các chữ ký, viên công chức ngồi tận bàn ngoài cũng mỉm cười hỏi:

-Than à?

-Vâng! Than ạ! - tôi xác nhận.

Nụ cười của viên chức công càng nở thêm ra:

-Ra anh muốn mua than đấy.

Tôi vốn ưa những người vui tính. Và tôi đáp, cố mỉm cười như viên công chức niềm nở vui tính này:

-Vâng! Than! Ông xem, tôi muốn mua ít than ấy mà!

Không biết các bạn có để ý thấy hầu hết các công chức của chúng ta đều có bộ mặt nhăn nhó khoong? Thế mà viên công chức này thì lại vui tính cười sằng sặc. Ông ta cười tướng lên:

-Thế nghĩa là than đấy!

Tôi cũng cười to gần như ông ta:

-Than, hẳn rồi! Than ấy mà!

Viên công chức lại càng cười khoẻ. Ông ta cười hô hố, còn tôi thì sao, chả lẽ tôi đứng nhìn à? ừ thì tôi cũng cười. Khi người bạn đang tiếp chuyện mình cười, lẽ nào anh lại nhăn nhó. Ông ta cười, và tôi cũng cười. Cứ thả sức cho hai ta cùng vui.

-Thế ra, hahaha! Là than đấy! Haha! Haha!...

Một khi người ta đã đến cơn cười thì khó lòng mà nín lại được. Tôi càng cười to hơn:

-Than!... Hahahaha!...

Chúng tôi ôm bụng mà cười đến chảy cả nước mắt. Chỉ thêm tí nữa là tôi ngất đi mất.

-Ra là than à? Hahahaha!...

-Hahaha!... Than, hẳn đi rồi!...

-Thế thì không có.

-Sa...a...ao! Không có? Thế sao ông lại cười?

-Không có, thế nên tôi mới cười. Hahahaha!...

Bây giờ thì đáng lẽ tôi không còn cười được nữa, mà phải khóc kia, nhưng tôi không kìm lại được. Chúng tôi cười vô hồi kỳ trận, cười không tự chủ được nữa. Nhờ giời là họ đặt tôi ngồi xuống ghế, cho cốc nước, bóp má mấy cái và cho ngửi nước đái quỉ. Khi hơi hồi lại, tôi hỏi:

-Thế là chúng tôi không mua than được à?

-Ðến ngay bán cho các khách hàng quen chúng tôi cũng đã chật vật lắm rồi, huống chi ông là người mới. Ông thì chẳng có đâu.

-Ðược rồi, nhưng lúc trời đông mưa rét thì tổ uyên ương của chúng tôi sẽ ra sao?

-Ông có thể mua than với một điều kiện.

-Ðiều kiện gì?

-Nếu trong nhà ông có ai bị tê thấp, ông mang giấy chứng nhận lại đây, chúng tôi sẽ bán cho ông một phần tư tấn.

-Nhà ta có ai bị tê thấp không? - tôi gào lên từ ngưỡng cửa.

Bà mẹ vợ vội đáp:

-Lạy giời, tìm được thuốc rồi à? Ðã mười năm nay mẹ đến khổ vì bệnh tê thấp. Chỉ có giời biết được là thế nào!

Bà mẹ vợ đã mở miệng thì còn đủ mọi chuyện... Vậy mà cũng có khi bệnh tê thấp của bà mẹ vợ lại được việc đấy. Và chúng tôi lấy được giấy chứng nhận.

Chà, nếu lần này mà tôi mua được than thì không hiểu tôi sẽ làm gì với những kẻ bảo tôi: "Cậu không mua nổi than đâu!" Hừ, những giống bi quan! Ðang có người ốm thì ai lại đi bán than cho người khoẻ cơ chứ. Cứ bị tê thấp đi, người ta sẽ bán than cho.

Tôi mang giấy chứng nhận đến.

-Giấy này không hợp lệ.

Hẳn họ nghĩ là giấy làm giả mạo.

Kể ra thì họ cũng có lý. Bây giờ thiếu gì các kỹ sư ẩm muội, các bác học giả danh, các thầy kiện cãi láo, các bác sĩ giả hiệu: họ làm sao mà biết được là bác sĩ thật hay giả đã cấp giấy chứng nhận. Vì thế nên họ đòi giấy chứng nhận của nội đồng y khoa cấp. Không lẽ cả hội đồng là giả hiệu được!

Thủ tục xin giấy chứng nhận của hội đồng y khoa xem ra còn rắc rối hơn việc mua than nhiều!

Ðến đây thì đừng có tiếc công, cứ cậy cục đến cùng! Một tháng sau, tôi lấy được giấy chứng nhận của hội đồng.

Tôi tóm tờ giấy và bây giờ mới yên lòng.

Tôi đem giấy cho họ.

-Rất đáng tiếc là... không được!

-Sao? Giấy chứng nhận đây mà!

-Giấy chứng nhận của ông là giấy chứng nhận có bệnh tê thấp.

-Thì chính các ông đòi giấy chứng nhận bị tê thấp mà. Giá các ông có đòi giấy chứng nhận mắc bệnh ung thư thì chúng tôi cũng đem đến được.

-Trước kia chúng tôi có bán than cho người bị tê thấp, nhưng nay than lại ít hơn trước nên chúng tôi không bán cho người bị tê thấp nữa.

-Nguy to rồi!... thế chúng tôi lấy gì mà sưởi tổ ấm uyên ương?

-Nhà ông có ai bị lao không?

-Không!

-Không thì chúng tôi biết làm thế nào? Muốn mua than thì phải bị ho lao mới được.

Hừ, tôi ghét những giống bi quan ấy làm sao! Họ bảo: "người ta không bán than đâu.". Họ chẳng bán cho người bị ho lao đấy là gì?

Các bạn cứ xem, nhờ giời, chúng tôi còn khoẻ mạnh sống qua được mùa đông này, đến sang năm tất cả nhà sẽ được mua than cho mà xem. Vì nói gì thì nói, chứ cứ sống ở chỗ lạnh lẽo không có gì sưởi ấm thì chắc chắn là được ho lao rồi.

Tất nhiên là nếu đằng nào cũng phải bán than cho những người bị ho lao thì giá cứ bán ngay cho họ trước khi mắc bệnh có phải tốt hơn không... Không, như thế không được.

Mà nếu bao giờ chúng tôi bị ho lao, có khi họ lại sẽ bảo: "Muốn mua than thì trước hết anh phải chết đi đã. Chúng tôi chỉ bán than để đun nước lau rửa cho người chết thôi."

Thế mà có kẻ dám bảo: "người ta không bán than đấy". Ðã có sự qui định, có luật lệ đặt ra để thi hành. Nếu anh không chết đi thì họ làm sao mà bán than cho anh được? Chuyến này tôi mua được than, tôi sẽ chở đến và vãi ra trước mũi những kẻ nào bảo "Cậu đừng hòng mua than" cho mà xem.


Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời


Ðiều Chỉnh
Xếp Bài

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
Bạn không được quyền gởi bài
Bạn không được quyền gởi trả lời
Bạn không được quyền gởi kèm file
Bạn không được quyền sửa bài

vB code đang Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển đến


Múi giờ GMT. Hiện tại là 02:43 AM.


Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2025, Jelsoft Enterprises Ltd.