Go Back   Vina Forums > Thư Viện Online > Kho Tàng Truyện > Truyện Tiểu Thuyết - Truyện Dài
Hỏi/Ðáp Thành Viên Lịch Tìm Kiếm Bài Trong Ngày Ðánh Dấu Ðã Ðọc

Trả lời
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
  #1  
Old 09-09-2012, 02:27 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Tội ác và sự trừng phạt - Phần 1 - Chương 16,17,18

TỘI ÁC VÀ SỰ TRỪNG PHẠT


Phần III

Chương 16


Vừa lúc ấy, cánh cửa nhẹ mở và một người con gái bước vào buồng rụt rè đưa mắt nhìn quanh. Mọi người đều ngạc nhiên và tò mò quay lại nhìn nàng
Thoạt tiên Raxkonikov chưa nhận ra ai. Nàng chính là Sofia Xemionovna Marmelazova. Hôm qua chàng mới gặp nàng lần đầu, song thời gian, khung cảnh và cách phục sức của nàng lúc ấy đã khác sâu vào ký ức chàng một hình ảnh khác hẳn. Giờ đây, nàng là một người con gái ăn mặc giản dị và tồi tàn, còn rất ít tuổi, trông như một đứa trẻ; cử chỉ cô dè dặt và lễ độ, nét mặt cởi mở, nhưng hình như có chiều sợ hãi. Nàng mặc một chiếc áo dài rất giản dị tự may lấy ở nhà và đội một chiếc mũ cũ kỹ đã quá mùa, duy chỉ còn chiếc ô hôm qua là vẫn cầm trên tay. Chợt nhìn thấy trong buồng đông người, nàng không những ngượng ngùng mả còn rối trí hẳn hoi, luống cuống như một đứa bé, thậm chí còn toan quay trở ra nữa là khác.
- A! Cô đấy à? - Raxkonikov kinh ngạc cất tiếng hỏi và cũng đâm ra lúng túng.
Ngay lúc ấy chàng hình dung là qua bức thư của Lugin, mẹ và em chàng đã biết ít nhiều về người con gái mà "ai cũng biết là hư hỏng". Chàng vừa phản kháng những lời vu khống của Lugin và tuyên bố chỉ mới gặp người con gái ấy lần đầu tiên thì bỗng dưng nàng lại đến nhà chàng một mình. Chàng cũng nhớ lại là lúc nầy chàng không hề cải chính cái "hư hỏng" mà Lugin đã gán cho nàng. Trong nháy mắt hết thảy nhưng điều vụt thoáng qua tâm trí chàng một cách mơ hồ, hỗn độn. Song nhìn khi chàng thấy con người khôn khổ ấy đã phải chịu bao nhiêu nỗi tủi nhục ê chề đến nỗi chàng bất giác phải thương hại. Khi thấy nàng hoảng hốt toan bỏ chạy. Chàng bỗng cảm thấy xao xuyến như có một cái gì đảo ngược lại trong lòng.
- Tôi không ngờ cô đến, - chàng vội nói và đưa mắt ngăn nàng lại. - Xin mời cô ngồi. Chắc bà Katerina Ivanovna bảo cô đến. Ấy xin lỗi, không phải đấy, mời cô ngồi trên ghế kia.
Thấy Sonya đến, Razumikhin đang ngồi trên một chiếc ghế của Raxkonikov ngay cạnh cửa, đã đứng dậy nhường lối cho nàng.
Lúc đầu Raxkonikov trỏ cho nàng ngồi vào góc đi-văng, chỗ Razumikhin ngồi lúc nãy; nhưng sực nhớ là ngồi trên đi-văng có vẻ "thân mật" quá, chàng vội vàng trỏ sang ghế Razumikhin.
- Còn cậu, cậu ngồi đây, - Chàng vừa nói với Razumikhin vừa trỏ vào góc đivăng, chỗ Zoximov ngồi lúc nãy.
Sonya ngồi xuống, người hầu như run lên vì sợ hãi và rụt rè nhìn hai người đàn bà. Có thể thấy rõ ràng chính nàng cũng không hiểu sao mình lại có thể ngồi bên cạnh họ được. Nghĩ thế, nàng thấy sợ quá, đến nỗi nàng vụt đứng dậy và bối rối nói với Raxkonikov.
- Tôi… tôi… chỉ ghé đây một phút thôi, xin ông thứ lỗi vì đã quấy rầy - nàng ấp úng - Katerina Ivanovna bảo tôi đến vì nhà không còn ai nữa. Dì tôi căn dặn tôi thế nào cũng khẩn khoản mời ông sớm mai… đến dự buổi lễ cầu hòn ở nhà thờ Mitrophan rồi đến nhà chúng tôi… đằng nhà Katerina Ivanovna, xơi bữa tiệc xoàng… cho dì tôi được vinh dự tiếp ông… Dì căn dặn tôi đến nói với ông như vậy.
Sonya líu lưỡi im bặt.
- Tôi sẽ cố gắng… thế nào tôi cũng cố gắng đến! - Raxkonikov lại cũng đứng dậy nói ấp úng câu được câu mất. - Xin cô ngồi lại đã, - chàng bỗng nói, - Tôi có câu chuyện cần nói với cô. Xin mời… hình như cô đang vội? Xin cô vui lòng ở lại độ hai phút nữa… - Và chàng đẩy ghế về phía nàng. Sonya lại ngồi xuống vả lại đưa mắt rụt rè, sợ hãi nhìn hai người đàn bà, rồi bỗng cúi mặt xuống.
Gương mặt nhợt nhạt của Raxkonikov đỏ ửng lên, cả người chàng như điên đảo, mắt chàng sáng quắc.
- Mẹ ạ, - chàng nói, giọng rắn rỏi, đây là Sofia Xemionovna Marmelazova, con gái của ông Marmelazov bất hạnh đã bị xe chẹt hôm qua trước mắt con, như con đã có dịp thưa với mẹ
Bà Punkheria Alekxandrovna nhìn Sonya và hơi nheo mắt lại. Tuy luống cuống trước cái nhìn khẩn khoản và khiêu khích của Rodia, bà cũng không thể bỏ qua điều thích thú đó. Duneska nghiêm trang và chăm chú nhìn thẳng vào khuôn mặt người con gái đáng thương như muốn hỏi han tìm hiểu. Nghe lời giới thiệu, Sonya ngửng đầu lên song lại cúi ngay xuống, lòng càng bối rối hơn.
- Xin cô cho biết - Raxkonikop hỏi vội Sonya - hôm nay ở đằng nhà công việc ra sao? Có gì rắc rối không… về phía cảnh sát chẳng hạn?
- Không ạ, mọi việc đều ổn cả. Với lại, nguyên nhân tai nạn đã quá rõ ràng rồi: họ cũng không quày rầy gì chúng tôi cả; chỉ phải những người cùng trọ họ kêu ca thôi.
- Tại sao ạ?
- Họ kêu là thi hài để mãi trong nhà dạo nầy trời lại nóng bức… có mùi, nên từ buổi cầu kinh chiều nay cho đến mai sẽ đưa đến nghĩa trang trong nhà thờ. Lúc đầu Katerina Ivanovna không thuận, nhưng giờ thì dì cũng thấy là không làm thế nào khác được.
- Vậy là hôm nay à?
- Dì tôi trân trọng mời ông ngày mai đến dự buổi lễ cầu hồn tại nhà thờ, rồi đến đằng chúng tôi dùng bữa tỉệc tang.
- Bà nhà dọn tiệc tang à?
- Vâng ạ, gọi là mấy món xoàng thôi ạ, dì tôi căn dặn tôi đến chân thành cảm tạ ông đã giúp đỡ chúng tôi. Không có ông thì chúng tôi không biết lấy gì lo việc ma chay nữa. - Môi và cằm nàng bỗng run lên, song nàng cố kìm giữ lại và hối hả cúi nhìn xuống đất.
Trong khi hỏi chuyện, Raxkonikov chăm chú nhìn nàng: khuôn mặt nàng nhỏ, rất gầy và xanh, nét không được đều đặn lắm; mũi và cằm nàng nhỏ và hơi nhọn khiến khuôn mặt trông hơi sắc. Cũng không thể nói là nàng xinh được, song đôi mắt xanh của nàng trong sáng lạ thường, và mỗi khi đôi mắt đó sinh động lên, gương mặt nàng trông hiền hậu và chất phác đến nỗi người ta bất giác thấy mình bị thu hút lại gần. Trên khuôn mặt và ngay trên khắp dáng dấp của nàng lại có một nét đặc biệt nữa: tuy đã mười tám tuổi, nhưng trông nàng có vẻ trẻ hơn nhiều, hầu như chỉ là một con bé và điều nầy thỉnh thoảng lại hiện rõ lên một cách ngộ nghĩnh trong một vài cử chỉ của nàng.
- Nhưng không hiểu với số tiền ít ỏi thế thì làm sao Katerina Ivanovna có thể thu xếp mọi việc được, mà lại còn định mở tiệc tang? - Raxkonikov, bám lấy câu chuyện, hỏi tiếp.
- Áo quan thì rất đơn giản thôi ạ… và hết thảy mọi việc cũng đều rất đơn giản, nên cũng không tốn mấy… Vừa rồi chúng tôi với Katerina Ivanovna có tính qua thì thấy cũng còn đủ để dọn bữa tiệc tang… Katerina Ivanovna rất thiết tha muốn làm như vậy. Quả tình, không thể… đó là một điều an ủi đối với dì… Tính dì tôi vốn thế, ông cũng biết…
- Vâng, vâng, tôi hiểu, tôi hiểu lắm… - Có gì mà cô nhìn căn buồng của tôi kỹ thế? Đấy, mẹ tôi cũng nói nó giống như một cỗ quan tài.
- Hôm qua, có bao nhiêu ông đã cho chúng tôi hết! - Sonya chợt nói nhanh, giọng gần như thầm thì, rồi vội và cúi mặt xuống. Môi và cằm nàng lại run run. Từ lúc nãy, căn buồng khốn khổ của Raxkonikov đã đập vào mắt nàng và giờ đây mấy tiếng ấy bỗng dưng cứ tự nó buột ra khỏi miệng nàng. Một giây lát im lặng tiếp theo. Mắt Dunia sáng lên, và bà Punkheria Alekxandrovna cũng nhìn Sonya một cách trìu mến.
- Rodia ạ. - bà vừa nói vừa đứng dậy. - tất nhiên mẹ con ta sẽ ăn bữa chiều với nhau, ta đi thôi, Dunia ạ, còn con, Rodia, con nên đi ra ngoài dạo chơi một lát, xong nằm nghĩ cho khỏe, rồi đến đằng mẹ sơm sớm một chút… Chỉ sợ mẹ và em ngồi đây mãi làm con mệt…
- Vâng, vâng, con sẽ đến, chàng đứng dậy đáp, vẻ vội vàng… - Với lại con cùng bận tí việc.
- Nhưng các vị không đi ăn mỗi người một nơi đấy chứ? - Razumikhin ngạc nhiên nhìn kêu lên. - Cậu định thế nào đấy?
- Được, được tôi sẽ đến, tất nhiên, tất nhiên. Còn cậu ngồi lại đây một phút nữa. Hiện giờ mẹ không có việc gì cần đến cậu ấy chứ? Hay là con giành mất của mẹ?
- Ô không, không đâu. À, anh Dmitri Prokofich, mời anh vui lòng cũng đến dùng bữa chiều với chúng tôi?
- Anh đến nhé! Tôi xin anh. - Dunia nói thêm.
Razumikhin nghiêng mình, gương mặt rạng rỡ lên.
Trong giây lát, mọi người đều cảm thấy ngượng nghịu khác thường.
- Tư biệt Rodia, à quên, có nghĩa là tạm biệt ấy. Mẹ không thích nói từ biệt. Từ biệt chị Naxtaxia… Ồ tôi lại nói từ biệt nữa rồi!
Bà Punkheria Alekxandrovna cũng muốn chào Sonya nhưng rồi luống cuống không biết chào cách nào, đành vội vã ra khỏi phòng.
Nhưng Avdotia Romanovna chừng như đã đợi sẵn đến phiên mình, khi nối chân mẹ đi ngang trước mặt Sonya liền lễ phép và trân trọng cúi đầu chào nàng.
Sonya luống cuống nghiêng mình đáp lễ, vẻ hấp tấp và sợ sệt, một nét đau khổ thoáng hiện trên gương mặt, dường như thái độ lễ phép và trân trọng của Avdotia Romanovna là một, cực hình đối với nàng.
- Dunia, em đi nhé, - Raxkonikov nói khi đã ra đến đầu cầu thang, - đưa tay anh bắt nào?
- Em đã bắt tay anh rồi mà, anh quên rồi sao?
Dunia ngoảnh lại phía chàng, vẻ trìu mến và ngượng nghịu.
- Cũng chẳng sao, đưa anh bắt một lần nữa.
Và chàng xiết chặt mây ngón tay nhỏ nhắn của nàng. Dunia mỉm cười với anh, mặt đỏ ửng, rồi rút vội bàn tay lại và đi theo mẹ, chẳng hiểu tại sao cũng thấy lòng khắp khởi vui sướng.
- Thôi, thế là ổn cả. - chàng trở vào buồng nói với Sonya và nhìn nàng, gương mặt sáng hẳn lên. Cầu Chúa cho kẻ đã chết được yên nghỉ, cho kẻ còn sống được sống thêm! Có phải thế không? Có đúng thế không nào?
Sonya ngạc nhiên nhìn gương mặt rạng rỡ của Raxkonikov; chàng lặng thinh chăm chú nhìn nàng một lúc. Tất cả câu chuyện mà người cha quá cố đã kể về nàng, giờ phút nầy bỗng hiện rõ lên trong ký ức chàng.
- Trời ơi Dunia! - bà Punkheria Alekxandrovna thốt lên khi ra đến ngoài đường, - bây giờ ra khỏi nhà anh con rồi mẹ cứ mừng mừng thế nào ấy, tựa như nhẹ hẳn đi, hôm qua, trên tàu, mẹ có ngờ đâu mẹ sẽ vui mừng khi được từ biệt anh con?
- Mẹ ạ, một lần nữa con nhắc mẹ là anh con đang ốm nặng đấy, chả nhe mẹ không thấy sao? Có thể là vì quá thương mẹ, thương em nên sinh bệnh. Chỉ cản độ lượng là có thể tha thứ cho anh con rất nhiều, rất nhiều, mẹ ạ.
- Chính cô lúc nầy không độ lượng thì có! - Bà Punkheria Alekxandrovna ngắt lời con gái, giọng giận dỗi. - Dunia, con có biết không, mẹ đã ngắm kỹ hai anh em con, con giống hệt như anh con, giống khuôn mặt đã đành nhưng tính tình lại càng giống nhiều hơn: cà hai anh em con đều hay sầu muộn, cả hai đều lầm lì và nóng tính, cả hai đều kiêu hãnh, và hào hiệp. Vì không lý nào anh con lại là một người ích kỷ, đúng thế không, Dunia? Nghĩ đến câu chuyện sẽ xảy ra chiều nay ở đằng nhà ta, lòng mẹ cứ xốn xang lên con ạ.
- Mẹ ơi, đừng lo mẹ ạ, sự việc sẽ xảy ra theo đúng lẽ tự nhiên thôi.
- Nhưng Dunia, con hãy nghĩ tình cảnh mẹ con ta mà xem! Rồi sẽ ra sao nêu Piotr Petrovich cứ một mực như thế? - bà Punkheria Alekxandrovna chợt buột mồm.
- Thế thì ông ta không còn đáng giá là bao nữa! - Dunia nói, giọng xẵng và khinh bỉ.
- Lúc nầy mẹ con ta đi là phải, - bà Punkheria Alekxandrovna vội nói tiếp, anh con đang vội đi đâu đấy thôi để cho nó ra ngoài một tí cho nó thoáng mà thở, chứ cứ ở trong buồng nó thì phát ngột lên ấy… Nhưng ở trong cái thành phố nầy thì lấy đâu ra không khí mà thở kia chứ? Ở ngoài phố mà cứ y như ở trong buồng kín. Trời, thành với phố! Ấy, tránh ra con, khéo lại bị chẹt bây giờ, họ khiêng cái gì kia kìa.) Một chiếc dương cầm thì phải? Họ chen chúc nhau ghê thật… Mẹ cũng sợ người con gái ấy lắm.
- Người con gái nào hở mẹ?
- Thì cái cô Sofia Xemionovna vừa đến đằng anh mày lúc nãy ấy.
- Tại sao mẹ lại sợ?
- Mẹ có linh cám thế nào ấy. Dunia ạ. Tin hay không thì tùy con, nhưng khi cô ta mới bước vào, mẹ đã nghĩ ngay rằng chủ yếu là ở đấy cả.
- Chả có gì ở đấy hết! - Dunia bực mình gắt. - Mẹ thì bao giờ cũng linh với cảm. Anh ấy chỉ mới quen cô ta từ hôm qua thôi, lúc nãy khi cô ta bước vào, anh cũng không nhận ra nữa là!
- Đấy rồi con xem!… Cô ta làm mẹ lo lắmg. Rồi con xeml Rồi con xem! Mẹ sợ quá! Cô ta nhìn mẹ, nhìn mẹ với cặp mắt lạ lùng đến nỗi mẹ ngồi không yên nữa, con có nhớ là anh con đã giới thiệu cô ấy với mẹ con ta thế nào không? Mẹ thấy lạ quá, Piotr Petrovich viết thư nói chuyện cô ấy như thế mà anh con vẫn cứ giới thiệu, và nhất là giới thiệu với con nữa chứ? Thế nghĩa là anh con quý cô ấy lắm.
- Chuyện gì mà họ chả viết! Đấy dạo trước họ đã
viết đủ điều dèm pha mẹ con ta, mẹ quên rồi hay sao? Con thì con tin chắc rằng… cô ta là một cô gái rất tốt và tất cả những lời người ta nói đều là chuyện nhảm.
- Cầu Chúa phù hộ cô ấy?
- Còn Piotr Petrovich chính là một kẻ ngồi lê đôi mách ti tiện - Dunia bỗng thét lên.
Bà Punkheria Alekxandrovna cúi mặt xuống, lặng thinh. Câu chuyện bị bỏ lửng.
- Đây, việc mình cần nói với cậu là thế nầy. - Raxkonikov kéo Razumikhin ra cửa sổ nói
- Thế nghĩa là tôi có thể thưa được với dì Katerina Ivanovna là ông sẽ đến chứ ạ. - Sonya vội nói chen vào và nghiêng mình như muốn chào ra về.
- Một lát nữa đã, Sofia Xemionovna ạ, chúng tôi chẳng có chuyện gì bí mật đâu, cô không làm phiền gì chúng tô đâu… Tôi có câu chuyện nhỏ muốn nói với cô - Đoạn cắt ngang câu nói đang bỏ giở, chàng quay về phía Razumikhin, - Thế nầy nhé. Cậu có biết cái lão… tên gì nhỉ? Porfiri Petrovich ấy mà?
- Biết quá đi ấy chứ, có họ với mình đấy! Nhưng sao kia. - anh ta nói tiếp, vẻ tò mò.
- Có phải hiện nay hắn đang tiến hành điều tra vụ ấy phải không… chậc! Cái vụ giết người ấy mà? Hôm qua tôi có nghe hai cậu nói thế thì phải…
- Phải… Sao nữa? - Razumikhin mở hai mắt tròn xoe ra.
- Hắn ta có hỏi cũng những người cầm đồ, mà tôi cũng có một vài thứ đem cầm ở đằng ấy, đồ lặt vặt thôi, nhưng lại là một chiếc nhẫn con của em tôi tặng làm kỷ niệm hồi tôi lên đường đi Petersbung và chiếc đồng hồ quả quýt bằng bạc của cha tôi. Tất cả cũng chỉ đáng giá năm, sáu rúp gì đó thôi, song đối với tôi lại rất quý, chả là vật kỷ niệm. Bây giờ tôi phải làm thế nào? Tôi không muốn mất những vật ấy, nhất là chiếc đồng hồ, lúc nãy khi nói chuyện đến chiếc đồng hồ của Dunia tôi cứ lo cuống lên, sợ bà cụ đòi xem. Vật duy nhất còn lại của ông cụ tôi đây. Nếu mất thì bà cụ sẽ phát ốm lên được. Đàn bà họ thật…! Thế cậu báo cho tôi biết phải làm như nào nhé? Tôi cũng biết là sẽ phải làm một tờ khai nộp lên đồn. Nhưng nếu trực tiếp với Porfiri, liệu có hơn không? Cậu nghĩ thế nào? Tôi muốn thu xếp việc nầy càng chóng càng tốt. Cậu sẽ thấy là từ đây đến bữa ăn chiều thế nào bà cụ tôi cũng hỏi cho mà xem.
- Không cần gì đồn cảnh sát tất, nhất định trực tiếp với Porfiri thôi! - Razumikhin reo lên, giọng có vẻ phấn khích khác thường. Ồ! Mình mừng quá! Thôi, đi, đi ngay bây giờ, chỉ hai bước thôi; chắc chắn sẽ gặp hắn ta ở nhà.
- Được ta đi đi.
- Hắn ta rất thích làm quen với cậu? Mình đã nói chuyện với hắn về cậu nhiều bận rồi… Mới hôm qua đây nữa… Thế cậu cũng có biết mụ ấy à? À hay lắm! Mọi việc đã ăn khớp với nhau đến là tuyệt. À, phải cô Sofia Ivanovna…
- Sofia Xemionovna, - Raxkonikov đính chính lại - Cô Sofia Xemionovna, đây là Razumikhin, bạn tôi, một người rất tốt.
- Nếu các ông phải đi bây giờ thì… - Sonya nói, mắt không dám nhìn Razumikhin, và điều đó càng làm cho nàng ngượng nghịu thêm.
- Ta đi thì - Raxkonikov quyết định, - cô Sofia Xemionovna, ngày hôm nay tôi sẽ đến đằng cô, nhưng cô cho biết hiện cô ở đâu?
Chàng không có vẻ gì bôi ril, song lại có ý vội vã, và cố tránh mắt Sonya. Sonya nói rõ địa chỉ, mặt đỏ ứng. Cả ba cùng đi ra.
- Cậu không khoá cửa lại à? - Razumikhin hỏi trong khi theo sau chàng bước xuống cầu thang.
- Không bao giờ! - Với lại tôi đã định mua một ổ khoá từ hai năm nay rồi đấy! - Raxkonikov nói tiếp - Diễm phúc thay những kẻ chẳng có gì để đến nỗi phải khoá cửa cả! - Chàng cất tiếng cười quay sang nói với Sonya.
Ra đến ngoài, họ dừng bước dưới cổng.
- Cô rẽ tay phải chứ, cô Sofia Xemionovna? À nầy, cô làm thế nào mà tìm ra được chỗ tôi thế? - chàng hỏi, tựa như muốn gợi một chuyện gì khác với nàng. Chàng muốn nhìn thẳng vào đôi mắt trong sáng và dịu dàng của cô gái, nhưng không hiểu sao chàng không thể nhìn được.
- Hôm qua chính ông có dặn địa chỉ lại cho Poleska đấy ạ.
- Poleska? À, phải… Poleska. Có phải là cô bé, em gái cô phải không? Thế ra tôi có để lại địa chỉ cho em cô à?
- Chả nhẽ ông quên rồi sao?
- Không… Tôi nhớ.
- Hồi trước tôi có nghe cha tôi nói đến ông… Song hồi ấy tôi không biết tên ông, cha tôi cũng không biết nốt. Và hôm nay, tôi đến đây tôi đã biết tên ông từ hôm qua, nên tôi hỏi thăm: "Phải ông Raxkonikov ở đây không?" Tôi không biết là ông cũng phải thuê trọ… Thôi, xin chào hai ông, tôi sẽ thưa với Katerina Ivanovna…
Nàng mừng quýnh lên vì được đi khỏi; nàng bước đi mặt cúi gằm, hối hả cho chóng thoát khỏi tầm mắt của hai người, cho chóng vượt hết cái khoảng hai mươi bước đến chõ rẽ ngoặt sang phải để rồi được thanh thản một mình, và qua khỏi góc phố, lại rảo bước không nhìn ai mà cũng không trông thấy gì xung quanh mình, ngẫm nghĩ, nhớ lại, suy xét từng lời từng chữ mình nói lúc nãy, nhớ lại từng sự việc một. Chưa bao giờ, nàng chưa bao giờ có một cảm giác như vậy. Cả một thế giới mới lạ vụt hiện lên trong tâm hồn nàng, mơ hồ và khó hiểu. Nàng bỗng sực nhớ ra rằng Raxkonikov định sẽ đến nhà mình hôm nay, có thể là sáng nay, có thể là ngay bây giờ.
- Ôi chỉ xin người ấy đừng đến hôm nay, - nàng thầm thì, tim như lặng hẳn đi, tựa hồ muốn van xin ai, như một đứa bé hoảng sợ. - Trời ơi! Lại nhà mình à! Vào cái buồng ấy, người đó sẽ thấy. Ôi! Lạy Chúa
Và trong giây phút ấy, lẽ dĩ nhiên nàng không thể nào chú ý đến một kẻ lạ mặt đang chăm chú theo dõi và bám sát nàng, hắn theo nàng mãi từ khi nàng ra khỏi cổng. Khi Razumikhin, Raxkonikov và Sonya đứng ở vỉa hè nói chuyện ới nhau thì người lạ mặt vừa đi ngang, hắn hầu như bỗng giật mình khi tình cờ thoáng nghe Sonya nói: "Tôi hỏi thăm: có phải ông Raxkonikov ở đây không?" hắn đưa mắt soi mói nhìn lướt qua mọi người, nhất là Raxkonikov, mà Sonya vừa mới gửi chuyện, đoạn hắn nhìn qua ngôi nhà và ghi nhớ lấy tất cả những việc đó, hắn làm trong nháy mắt khi đi ngang qua, hắn làm ra vẻe không chú ý, cứ đi thẳng, nhưng bước chậm dần như muốn chờ đợi.
Hắn rình Sonya. Hắn đã thấy ba người chia tay nhau và Sonya đi riêng ra để về nhà.
"Không biết cô ta ở nhà nào? Mình đã thấy khuôn mặt nầy ở đâu rồi ấy!" - hắn vừa nghĩ thầm, vừa cố nhớ lại nét mặt của Sonya.
Đến góc phố, hắn sang vỉa hè bên kia, ngoảnh lại và thấy Sonya cũng đang đi về phía hắn, không chú ý gì xung quanh cả. Đến chỗ ngoặt, nàng cũng rẽ vào cùng đường với hắn. Hắn liền theo riết nàng không rời mắt dọc theo bờ đường bên kia; đi độ dăm chục bước, hắn lại sang bên vỉa hè Sonya đang đi và theo sau nàng cách chừng dăm bước.
Đó là một người tuổi trạc ngũ tuần, tầm vóc cao hơn trung bình; người đẫy, vai rộng và xuôi nên trông như hơi gù. Hắn ăn mặc bảnh bao và chừng chạc, trông ra dáng một ông lớn. Tay hắn đi đôi găng mới tinh, cầm một cái can trau chuốt, gõ lộc cộc trên vỉa hè theo từng bước chân. Khuôn mặt hắn rộng, gò má cao, trông cũng dễ coi và nước da hồng hào của hắn trông không có vẻ gì là dân Petersbung cả. Tóc hắn hãy còn tốt và một màu vàng hoe, chỉ điểm lưa thưa một vài sợi bạc; râu hắn rậm và xòe rộng ra, màu còn sáng hơn cả tóc hắn nữa, hắn có đôi mắt xanh với cái nhìn lạnh lùng, chăm chú mà tư lự; môi hắn đỏ thắm. Nhìn chung hắn ta rất quắc thước, trông còn trẻ hơn tuổi nhiều.
Khi Sonya rẽ ra kênh đào thì chỉ còn to hai người trên vệ đường. Nhìn kỹ Sonya, hắn kịp nhận thấy cái vẻ tư lự và lơ đãng của nàng. Về đến trước nhà, Sonya rẽ vào cổng: hắn cũng bước theo và có vẻ như hơi ngạc nhiên. Vào trong sân, Sonya rẽ sang phải, đi vào góc sân có cái cầu thang đưa lên buồng nàng.
"Chà!" - người lạ mặt lẩm bẩm và bước theo nàng lên cầu thang. Mãi đến bây giờ, Sonya mới để ý thấy hắn. Đến tầng thứ ba. Sonya rẽ vào hành lang và giật chuông buồng số 9, trước cửa buồng có mấy chữ viết phấn: Kapernaumov, thợ may. "Chà" - người lạ mặt lại lẩm bẩm, ngạc nhiên vì sự ngẫu hợp kỳ lạ nầy, rồi bấm chuông buồng bên cạnh số 8. Hai cửa buồng chỉ cách nhau có sáu bước chân.
- Cô trọ ở nhà Kapernaumov à? - hắn nhìn Sonya, mỉm cười. - Hôm qua ông ta vừa mới chữa cho tôi chiếc gi-lê. Còn tôi, tôi ở đây, bên cạnh, cùng với bà Resslich, Gertruda Karlovna. Thật là một sự tình cờ thú vị.
Sonya nhìn hắn chăm chú.
- Chúng ta là chỗ láng giềng với nhau đấy. - Hắn nói tiếp, giọng đặc biệt vui vẻ - Tôi mới đến Petersbung chỉ được hai hôm nay. Thôi, chào cô, rất mong được gặp lại cô.
Sonya không đáp. Cửa buồng nàng mở, nàng lách người vào. Không hiểu sao, một cảm giác lẫn lộn vừa sợ sệt vừa xấu hổ bổng tràn ngập lòng nàng.
Trên đường đến nhà Porfiri, Razumikhin phấn khởi khác thường.
- Tuyệt thật đấy, - anh lắp đi lắp lại mấy lần - tớ rất thú, rất thú!
"Hắn thú cái gì mới được chứ?" - Raxkonikov nghĩ thầm.
- Nầy, tớ không biết là cậu cùng có cầm đồ ở đằng mụ ấy… thế… thế… đã lâu chưa? Nghĩa là cậu đến đằng mụ ày đã lâu chưa?
"Thằng cha mới ngây ngô làm sao".
- Lúc nào à? - Raxkonikov đáp và dừng lại để suy nghĩ - tôi đến đằng mụ ấy đâu ba ngày trước khi mụ ấy chết thì phải. Với lại, bây giờ tôi cũng không có ý định đến chuộc đồ cầm lại đâu, - chàng nói tiếp, tuồng như có ý vội vã và đặc biệt sốt sắng với những vật đó - vì tôi chỉ còn mỗi đồng rúp bạc trong túi… cũng vì cái cơn mê sảng chết tiệt chiều hôm qua!
Chàng chú ý nhấn mạnh vào hai chữ "mê sảng".
- Phải đấy, đúng, đúng, - Razumikhin vội vã tán thành, cũng chẳng hiểu tại sao - đấy, chính vì thế mà cậu. hôm ấy tớ cũng hơi lấy làm lạ… cậu biết không, trong cơn mê sảng, cậu lúc nào cũng nhắc đến đây chuyền với nhẫn; thôi… đúng… đúng rồi. Rõ! Bây giờ thì rõ cả rồi.
"Ấy đấy! Thế nghĩa là ý nghĩ ấy đã thâm nhập vào trí óc họ! Anh chàng nầy chẳng hạn, một con người có thể vì mình mà chịu đóng đinh trên giá thập tự, rất sung sướng là đã tự giải thích được tại sao mình lại nói đến nhẫn trong cơn mê! Ý nghĩ ấy thật đã neo chặt vào đầu óc tất cả bọn họ rồi".
- Không biết hắn ta có ở nhà không? - chàng cất tiếng hỏi.
- Có chứ, có chứ! - Razumikhin vội đáp. - Hắn ta là một tay rất tốt, đấy, rồi cậu xem, hơi vụng về một tí hắn vẫn là một người lịch thiệp, nhưng đây tớ nói về một phương diện khác. Một tay thông minh, không ngốc tí nào, nhưng mà lại là một kiểu trí tuệ hơi đặc biệt… Một con người hay ngờ vực, hoài nghi, vô sỉ, thích bịp đời. Nghĩa là không phải thích bịp, mà là thích chơi xỏ thì đúng hơn. Phương pháp của hắn là phương pháp cũ dựa trên bằng chứng vật chất, nhưng hắn thạo nghề đấy, khá thạo… Năm ngoái hắn điều tra ra một vụ án mạng hầu như đã mất hết tung tích! Hắn ta rất thích, rất thích làm quen với cậu.
- Sao hắn lại thích quá đến như vậy?
- Không phải là vì… cậu thấy đấy, trong thời gian gần đây khi cậu đang ốm tớ cũng có hay nhắc đến cậu… Hắn ta cũng chú ý nghe… và khi biết cậu là sinh viên trường Luật, vì hoàn cảnh không tiếp tục theo học được, hắn có nói: "Tiếc thật?". Vì thế tớ kết luận là… tớ muốn nói là do tất cả những việc đó chứ không phải chỉ riêng việc kia. Nầy, Rodia, hôm qua khi đi về với cậu, tớ say nên ba hoa nhiều… thành thử tớ cứ sợ cậu hiểu lầm…
- Sao? Hiểu lầm rằng người ta cho mình là điên ấy à? Mà có lẽ thật đấy. - Chàng cười gượng.
- Ờ… ừ à không! Nầy, những chuyện tớ nói hôm qua (và cả những chuyện khác cùng vậy) đều nhảm nhí tất, đều là con đẻ của ma men tất.
- Sao cậu lại tự thanh minh mãi thế! Tôi ngấy lắm rồi - Raxkonikov quát lên với một giọng bực tức cường điệu và có phần giả tạo.
- Tớ biết, tớ hiểu rồi. Cậu cứ tin chắc là tớ hiểu, thậm chí tớ còn thấy xấu hổ khi nói đến chuyện ấy.
- Đã thấy xấu hổ thì thôi, đừng nói nữa!
Hai người lặng thinh. Razumikhin đang phấn khởi đến cực độ. Raxkonikov cũng nhận thấy thế, và chàng chán ghét lạ lùng. Chàng còn lo sợ vì những chuyện Razumikhin vừa nói về Porfiri "Với thằng kia mình cũng phải lòe mới được - chàng suy nghĩ, mặt tái đi, trống ngực đánh thình thình mà phải loè cho tự nhiên hơn nữa. Thật ra, tự nhiên hơn cả là đừng lòe với bịp gì tất. Phải cố sức đừng lòe bịp gì hếtl Không, cố sức thì lại không tự nhiên rồi. Thôi được, để xem sự thể ra sao… rồi sẽ liệu… chỉ lát nữa thôi… không biết mình đến đấy là có lợi hay có hại? Con thiêu thân tự lao vào ánh đèn. Tim mình đập mạnh quá thật chẳng lành!"
- Đây ngồi nhà xam xám nầy - Razumikhin nói.
"Điều quan trọng hơn cả là Porfiri có biết hôm qua mình đến nhà mụ phù thuỷ ấy và hỏi về vũng máu hay không biết. Trước hết, mình phải làm thế nào biết ngay được điều đó trong nháy mắt, bước vào buồng là phải đọc ngay được điều đó trên nét mặt hắn, không thì… dù có thế nào cũng phải biết mới được"
- Nầy, - chàng bỗng quay sang phía Razumikhin với một nụ cười tinh quái, - anh bạn ạ, tôi nhận thấy từ sáng nay anh bạn không được bình thường lắm, cứ cuống cả lên, đúng không?
- Cuống thế nào? Tớ chẳng cuống kiếc tí nào cả. - Razumikhin giận dỗi đáp.
- Không phải đâu, ông bạn ạ, trông rõ quá đi rồi. Lúc nãy cậu ngồi trên ghế dựa mà cứ ngồi tít ra ngoài mép ấy, có bao giờ cậu ngồi thế đâu? Cậu cứ như bị chuột rút ấy, động một tí là giật bắn lên. Mặt cậu khi thì hầm hầm, khi thì ngọt lịm như miếng kem. Cậu lại còn đỏ mặt nữa, nhất là khi người ta mời cậu đến ăn cơm thì cậu đỏ chín cả người lên.
- Nói bậy; tớ có làm sao đâu! Cậu định nói gì thế?
- Định nói rằng cậu nhút nhát như một thằng học sinh vậy! Ấy, đấy, lại đỏ mặt nữa rồi!
- Rõ khỉ!
- Nhưng tại sao cậu lại ngượng kia chứ. Đúng là một chàng Romco! Ấy, khoan hẵng, hôm nay mình sẽ kể lại chuyện nầy ở một nơi nào đấy cho mà xem, ha! ha! ha… Mình sẽ cù cho bà cụ cười một mẻ, và cả ai kia nữa.
- Nầy cậu, đây là chuyện nghiêm túc, tớ không đùa đâu… Sau đó rồi sẽ ra sao, hử đồ quỷ! - Razumikhin đâm hoảng thật sự, người lạnh toát ra. - Cậu sẽ kể những gì với các bà ấy? Tớ thì tớ… thẳng cha khỉ thật?
- Cậu thật là một nụ tầm xuân! Mà như thế lại rất hợp với cậu kia đấy! Một chàng Romco cao mười versok? Nầy, hôm nay cậu rửa ráy cẩn thận quá nhỉ, chải cả móng tay nữa kìa? Thật là chưa từng thấy! Trời ơi, lại xức sáp thơm nữa à? Cúi đầu xuống mình xem tí!
- Rõ khỉ!
Raxkonikov dường như không nhịn được nữa, cười phá lên từng tràng dòn dã suốt trong khoang thời gian hai người cùng bước vào nhà Porfiri Petrovich. Chính Raxkonikov muốn như thế: từ nhà trong người ta có thể nghe thấy tiếng cười ầm ĩ khi hai người vào nhà và vẫn kéo dài khi họ bước vào phòng mắc áo.
- Ở đây không được hở câu nào ra đấy, nếu không, tớ quai vỡ mặt ra - Razumikhin điên tiết rít qua kẽ răng, hai tay nắm chặt lấy vai Raxkonikov.


TỘI ÁC VÀ SỰ TRỪNG PHẠT


Phần III

Chương 17


Raxkonikov đã vào nhà. Chàng bước vào với cái vẻ như đang cố hết sức nhịn cười. Razumikhin ngượng ngùng theo sau, mặt đỏ như hoa vông, nhăn nhúm lại vì tức giận, thân mình dài lêu nghêu trông hết sức vụng về. Bộ mặt và cả dáng người anh lúc ấy thật là một lời giải thích hùng hồn cho tiếng cười của Raxkonikov. Chưa kịp được giới thiệu, Raxkonikov đã nghiêng mình trước chu nhân đang đứng giữa phòng đưa mắt dò hỏi hai vị khách. Vừa bắt tay ông ta, chàng vừa làm ra vẻ cố hết sức nhịn cười và nói lấy đôi ba tiếng gọi là để tự giới thiệu. Song vừa mới nghiêm được nét mặt lại và lúng búng được mấy tiếng chàng đã lại dường như bất giác nhìn về phía Razumikhin, thế là không sao nhịn được nữa: tiếng cười vừa rồi bị nén chặt bao nhiêu, thì nay lại bật ra mạnh bấu nhiêu không sao cưỡng nổi. Cơn giận dữ điên cuồng của Razumikhin tiếp theo tiếng cười "hồn nhiên" đó của Raxkonikov đã tạo cho cái cảnh nầy một vẻ hoan hỉ thành thật và nhất là rất tự nhiên. Razumikhin tựa hồ như cố ý, đang giúp thêm vào màn kịch của bạn.
- Hừm! Đồ quỷ! - Anh gầm lên và vung tay một cái va ngay vào một chiếc ghế con trên đặt một cái cốc trà nhỏ đã uống cạn. Ghế và cốc rơi đánh xoảng một tiếng.
- Tại sao lại phá hoại bàn ghế thế, hở các vị, thiệt hại cho công quỹ đấy? - Porfiri Prtrovich vui vẻ kêu lên.
Màn kịch tiếp diễn như sau: Raxkonikov cười chán chê rồi, tay vẫn để quên trong tay chủ nhân, nhưng vẫn biết giữ mức vừa phải, chàng chờ dịp rút tay ra cho thật nhanh và thật tự nhiên. Razumikhin hết sức luống cuống với chiếc ghế đổ và cái cốc vỡ, ngẩn người ra nhìn mấy mánh cốc, vẻ mặt hầm hầm, đoạn nhổ toẹt một bãi nước bọt và quay phắt ra cửa sổ, đứng quay lưng về phía công chúng, mặt khó đăm đăm, nhìn bâng quơ ra ngoài cửa kính, chắc cũng chẳng trông thấy gì. Porfiri Petrovich cười, ông ta cùng muốn vui chung với khách, nhưng hiển nhiên còn đang chờ đợi người ta giải thích cho. Trong góc phòng, Zamiotov ngồi trên một chiếc ghế dựa. Hắn nhổm dậy khi thấy khách vào, và chờ đợi, môi nhoẻn một nụ cười, vẻ ngỡ ngàng và thậm chí hầu như ngờ vực nữa trước cái cảnh vừa diễn ra, riêng khi nhìn Raxkonikov thì hắn lại có vẻ bối rối nữa. Sự có mặt bất ngờ của Zamiotov khiến Raxkonikov ngạc nhiên và khó chịu.
"Lại thêm một điều cần phải suy xét?" - chàng nghĩ.
- Xin hai ông thứ lỗi. - Raxkonikov mở đầu, cố làm ra vẻ ngượng nghịu.
- Có gì đâu! Tôi rất, thích thú. Các anh đến chơi thật là vui vẻ. Sao, lại không thèm chào hỏi ai nữa kia à? - Porfiri Petrovich hất hàm trỏ Razumikhin nói tiếp.
- Quả tình tôi cũng không hiểu tại sao cậu ta lại tức giận tôi. Dọc dường, tôi chỉ nói là cậu ta giống Romco và và chứng minh cho cậu ta thấy, ngoài ra hình như không còn lý do nào khác.
- Rõ khỉ! - Razumikhin đáp, vẫn không ngoảnh lại - Thế thì chắc phải có những lý do rất nghiêm trọng cậu ấy mới có thể nổi giận lên như vậy vì mỗi một câu nói đùa cỏn con - Porfiri cười xoà.
- Chà, quan dự thẩm toà án đấy nhá! Thôi, ma quỷ bắt hết các cậu đi cho rảnh - Razumikhin cắt ngang và cũng bật cười theo, vẻ mặt vui hẳn lên tuồng như không có việc gì xảy ra cả. Anh đến cạnh Porfiri Petrovich.
- Thôi, đủ rồi! Toàn một lũ ngốc, vào việc thôi! Đây là bạn mình, Rodion Romanovich Raxkonikov, trước hết là vì nghe nói nhiều đến cậu nên muốn làm quen với cậu, sau nữa cùng có tí việc muốn nhờ đến cậu. Kìa, Zamiotov! Sao cậu lại ở đây? Thế hai người có quen nhau à? Từ bao giờ thế?
"Lại chuyện gì thế nầy nữa?" - Raxkonikov hoảng hốt nghĩ thầm.
Zamiotov như có vẻ ngượng nghịu, nhưng chỉ thoáng một chút thôi.
- Ấy chúng tôi mới quen nhau từ hôm qua, ở nhà cậu đấy hắn nói, giọng ung dung.
- Thế thì thật là Trời giữa tớ: tuần trước hắn cứ khẩn khoản mình tìm cách giới thiệu hắn với cậu, thế mà cũng chẳng cần gì kẻ nầy, các người cũng đã đánh hơi được nhau… Thuốc lá cậu đâu? Porfiri Petrovich ăn vận kiểu trong nhà: áo dài ngủ, đồ lót khá sạch, chân đi giầy vải vẹt gót. Đó là một người tuổi trạc ba mươi lăm, vóc dáng người hơi lùn, to béo và hơi có bụng nữa, râu ria cạo nhẵn, tóc cắt ngắn, đầu to tròn, gáy dô ra một cách kỳ quái. Khuôn mặt tuy tròn và béo phị, mũi hơi hếch, nước da vàng vọt song vẫn không thiếu vẻ hoạt bát và lại có phần hóm hỉnh nữa. Lẽ ra khuôn mặt ấy trông còn có vẻ thật thà là khác nếu không có cái thần sắc của cặp mắt sáng loáng như màu nước, ẩn dưới hàng mi bạc phếch luôn luôn hấp háy như muốn ra hiệu cho một người nào. Cái nhìn của cặp mắt đó tương phản lạ kỳ với toàn bộ con người trông như có dáng dấp đàn bà của ông ta và điểm cho nét mặt ông ta một vẻ nghiêm nghị hơn là người ta có thể tưởng khi mới nhác trông.
Vừa nghe nói ông khách có "tí việc" cần bàn với mình, Porfiri Petrovich lập tức mời khách ngồi lên ghế sofa, còn ông ta thì ngồi vào cuối ghế và chú mục nhìn Raxkonikov, chờ đợi chàng trình bày công việc, với cái vẻ quan tâm có dụng công và trang nghiêm quá mức khiến người ta phải lúng túng khó chịu, nhất là người chưa quen biết khi mới gặp lần đầu, và nhất là khi nghĩ rằng điều mình sắp nói ra lại không tương xứng với thái độ chăm chú trịnh trọng khác thường của ông. Nhưng Raxkonikov, qua mấy câu ngắn gọn và mạnh lạc, trình bày việc mình một cách rõ ràng, chính xác và thấy hài lòng với bản thân đến nỗi còn có đủ thì giờ quan sát, Porfiri khá ký. Porfiri Petrovich cũng nhìn khách không rời mắt trong suốt thời gian nói chuyện. Razumikhin ngồi bên kia bàn sốt ruột và háo hức theo dõi câu chuyện, mắt cứ luôn luôn chuyển từ người nầy sang người kia, chẳng chú ý mấy đến phép lịch sự.
"Thằng ngốc!" -Raxkonikov chửi thầm.
- Thế thì anh phải khai với sở cảnh sát. - Porfiri dùng một giọng đặc biệt sự vụ trả lời khách - Anh sẽ viết là vì được tin xảy ra sự kiện như thế - có nghĩa là vụ ám sát - nên cần báo cho viên dự thẩm phụ trách việc đó biết là có những vật nầy vật nọ thuộc quyền sở hữu của anh và anh muốn chuộc lại. Hoặc là thôi cũng chẳng cần rồi người ta sẽ viết cho anh.
- Nhưng phiền một nỗi là hiện nay? - Raxkonikov nói tiếp, cố làm ra vẻ thật ngượng nghịu: tôi cũng không sẵn tiền lắm, và ngay những đồ lặt vặt ấy, tôi cũng không thể… Ông ạ, bây giờ tôi chỉ muốn khai rằng những vật ấy là của tôi, rồi khi nào có tiền…
- Không hề gì - Porfiri Petrovich đáp, có vẻ dửng dưng đối với những lời giãi bày về tiền nong đó, - vả lại, nếu cần anh có thể viết thẳng cho tôi mấy chữ cũng theo kiểu như trên, đại ý: được biết thế nầy thế nọ, và kê khai những vật nầy vật kia là của tôi, yêu cầu.
- Thế viết trên giấy thường có được không? - Raxkonikov vội vã ngắt lời, một lần nữa tỏ ra quan tâm đến mặt tiền nong của công việc.
- Ồ, giấy gì ma chả được? - Và bỗng Porfiri Petrovich nhìn chàng với một vẻ giễu cợt ra mặt, nheo nheo đôi mắt tựa như muốn nháy chàng. Vả chăng, có thể là Raxkonikov tưởng tượng ra thế thôi, vì cái đó chỉ thoáng qua trong giây lát. Song ít nhất cũng phải có một chuyện gì đây. Raxkonikov cứ đinh ninh là ông ta đã nháy mắt với chàng, có trời biết tại sao. Hắn biết!" - Ý nghĩ đó vụt thoáng qua tâm trí chàng như một tia chớp.
- Xin ông thứ lỗi vì đã đến làm phiền ông vì những chuyện không đâu như thế! - chàng nói tiếp, hơi lúng túng. - Những vật ấy đáng giá cả thảy chỉ độ năm rúp, nhưng đối với tôi thì nó quý lắm, vì đó là những vật kỷ niệm của người thân, và xin thú thực là tôi rất lo sợ khi được tin…
- À, à, thế ra hôm qua khi nghe tớ nói với Zoximov là Porfiri đã tiến hành hỏi cung những người có cầm đồ, cậu đã giật nẩy mình lên là vì thế đấy - Razumikhin nói với một dụng ý lộ liễu.
Cái nầy thì thật quá thể. Raxkonikov không chịu được nữa, đưa đôi mắt đen sáng quắc lên giận dữ nhìn Razumikhin Nhưng chàng lại trấn tĩnh được ngay.
- Cậu muốn giễu tôi đấy hẳn? - Chàng nói với một vẻ tức giận giả vờ rất khéo - Tôi xin nhận rằng có lẽ tôi có lo lắng quá nhiều đến những vật mà dưới mắt cậu chỉ là những đồ bỏ đi; nhưng cũng không nên vì thế mà coi tôi là một thằng ích kỷ, một thằng tham lam, vì dưới mắt tôi những vật vô nghĩa đó rất có thể không phải là những đồ bỏ đi. Lúc nãy tôi đã nói với cậu là chiếc đồng hồ bạc chỉ đáng giá vài xu ấy là vật duy nhất của cha tôi còn để lại. Cứ tha hồ mà giễu tôi đi, nhưng kỳ tình mẹ tôi đã lên đây - chàng chợt quay sang nói với Porfiri - và nếu bà cụ biết - chàng lại vội quay về với Razumikhin và cố nói giọng run run, - nếu bà cụ biết chiếc đồng hồ ấy không còn nữa, tôi thề với cậu là bà cụ sẽ chết điếng đi. Ôi! đàn bà họ thật…
- Nhưng có phải thế đâu! Mình không hề có ý như thế. Ý mình trái hẳn lại! - Razumikhin khổ sở kêu lên.
"Thế có được không? Có tự nhiên không? Mình có cường điệu quá không? Raxkonikov lo âu tự hỏi - Sao mình lại nói "đàn bà"?
- Thế ra cụ nhà đã lên đây rồi? - Porfiri Petrovich hỏi, không rõ để làm gì.
- Vâng.
- Lúc nào?
- Chiều hôm qua.
Porfiri lặng thinh như suy tính điều gì.
- Những đồ vật của anh dù sao cũng không thể mất được, - hắn nói tiếp, giọng điềm tĩnh và lạnh lùng. - Mà tôi đợi anh ở đây cũng đã từ lâu.
Rồi, coỉ như khong có việc gì xảy ra, Porfiri sốt sắng trao cái gạt tàn thuốc lá cho Razumikhin, đang thẳng tay gạt tàn thuốc xuống thảm không chút thương tiếc. Raxkonikov giật nẩy mình, nhưng Porfiri dường như không nhìn chàng vì đang bận tâm với điếu thuốc lá của Razumikhin.
- Sao? Cậu đợi cậu ấy à? Thì ra là cậu biết cậu ấy có đồ cầm ở đằng ấy à? - Razumikhin kêu lên.
Porfiri Petrovich quay hẳn sang Raxkonikov nói.
- Cả hai thứ anh đem cầm đằng mụ ấy. - chiếc nhẫn và cái đồng hồ - đều được gói vào một mảnh giấy và tên anh được ghi rõ ràng bằng bút chì trên giấy gói, có cả ngày tháng nhận cầm.
- Sao ông nhớ kỹ thế? - Raxkonikov cười nhạt một cách vụng về, cố nhìn thẳng vào mắt ông ta, nhưng rồi không ghìm nổi và bỗng nói thêm: - Sở dĩ tôi nghĩ thế là vì có lẽ có nhiều khách cầm đồ lắm. Thành thử ông cũng khó lòng mà nhớ hết được. Thế nhưng đằng nầy, ông lại nhớ hết, mà rất rõ và và…
Ngốc thật! Kém lắm! Sao lại thêm câu ấy làm gì.
- Chả là hầu hết các khách cầm đồ đều đã đến gặp tôi, chỉ còn anh là người duy nhất chưa quá bộ đến đây - Porfiri đáp, trong giọng nói thoáng có một sắc thái giễu cợt khá rõ.
- Vừa rồi tôi hơi bị mệt.
Vâng, tôi cũng có nghe nói. Tôi lại nghe nói là anh còn có điều gì bối rối khó chịu nữa. Đấy bây giờ trông anh vẫn còn xanh lắm.
- Có xanh tí nào đâu, ngược tại tôi rất khỏe - Raxkonikov đột nhiên chuyển sang giọng cục cằn và giận dữ ngắt lời.
Cơn giận sôi sục lên trong người chàng, không tài nào nén được. "Cơn giận nầy sẽ phản mình mất - chàng chợt nghĩ "Sao họ lại cứ làm khổ mình như thế"
- "Tôi hơi bị mệt!" - Razumikhin kêu lên - Thật khéo nói. Mãi đến tận hôm qua cũng vẫn còn mê sảng đấy. Nầy Porfiri, cậu có tin được không, cậu ấy vừa mới tấp tểnh đứng dậy được, thế mà Zoximov với mình vừa mới quay lưng một cái là cậu ta mặc quần áo lặng lẽ chuồn đi; lang thang mãi tận đâu gần đến nửa đêm mới về, mà xin nhắc lại là đang mê sảng đấy nhé. Cậu có thể tưởng tượng được không? Một trường hợp đến kỳ quặc?
- Sao? Đang mê sảng à? Có thể như vậy được ư? - Porfiri lắc đầu với một cử chỉ trông như đàn bà.
- Chỉ nhảm? Ông đừng tin? Mà ông cũng có tin đâu - Raxkonikov buột mồm, không nén được cơn thịnh nộ. Nhưng Porfiri có vẻ như không nghe thấy những lời lẽ kỳ quặc đó.
- Nếu không mê sảng thì sao cậu lại có thể đi ra ngoài được? - Razumikhin bỗng nóng mặt lên đáp. - Tại sao cậu lại đi? Đi làm cái gì? Mà tại sao lại len lén như thế? Nào lúc ấy trí óc cậu liệu có còn minh mẫn không? Bây giờ cậu đã khỏi, tớ có thể nói toạc ra với cậu như vậy.
- Hôm qua, mấy cậu làm tôi ngấy quá - Raxkonikov chợt quay sang Porfiri nói với một nụ cười xấc xược và khiêu khích - Tôi phải trốn đi thuê một nơi ở khác, đi cho các cậu ấy không tìm ra được, tôi đã đem theo một mớ tiền. Ông Zamiotov đây cũng có trông thấy số tiền ấy đấy. Thế nào. Ông Zamiotov, hôm qua trí óc tôi có mình mẫn không, hay là mê sảng, ông phân giai hộ cho.
Lúc nầy hình như chàng chỉ muốn xông vào bóp cổ Zamiotov. Chàng khó chịu với cái nhìn và sự im lặng của hắn quá.
- Theo ý tôi thì hôm qua ông đã nói chuyện khá tỉnh táo, khôn ngoan nữa là khác, duy có điều ông quá cáu kỉnh - Zamiotov đáp xẵng.
- Hôm nay, - Porfiri chen vào, Nikodim Phomits có nói với tôi là tối hôm qua lúc đã khuya ông ta có gặp anh trong nhà người công chức vừa bị ngựa xéo.
- Đấy, cứ xét chuyện cái lão công chức ấy thì biết - Razumikhin nói tiếp - có phải là cậu đã hành động như một thằng điên ở nhà lão ấy không nào? Còn được bao nhiêu cậu đã đem cho mụ goá ấy hết để lo việc ma chay! Nếu muốn giúp thì cũng có thể cho mười lăm rúp, hay hai mươi rúp đi nữa, nhưng ít nhất cùng giữ lại lấy vài ba rúp chứ, đằng nầy lại vung hết cả hai mươi lăm rúp kia!
- Thế ngộ nhỡ tôi vừa tìm ra được một kho vàng thì sao? Có thể hôm qua tôi mới đâm ra hào hiệp như vậy. Đấy có ông Zamiotov biết rõ là tôi đã tìm ra được một kho vàng! Xin ông thứ lỗi, - chàng quay sang nói với Porfiri, môi run run, - chúng tôi đã làm mất của ông nữa tiếng đồng hồ vì những chuyện không đâu. Chắc chúng tôi làm ông bực mình lắm?
- Ấy không, ngược lại, ngược lại! Giá anh biết anh đã làm cho tôi quan tâm đến nhường nào! Tôi rất thích được nhìn anh, nghe anh nói, và xin thú thật là tôi rất hài lòng khi thấy anh rốt cục đã có nhã ý đến đây.
- Nhưng phải cho chúng tớ uống nước với chứ? Khô cả cố rồi! - Razumikhin kêu lên.
- Một ý rất hay? Chắc là các vị cùng vui lòng cả. Nhưng trước khi dùng trà có nên làm một tý gì… có "chất" hơn chăng?
- Thôi, vù đi!
Porfiri Petrovich đi sai người đun trà.
Những nghĩ cứ quay cuồng trong đầu óc Raxkonikov. Chàng đang tức lộn ruột lên.
"Tệ nhất là chúng nó cũng chẳng buồn vờ vịt hay giữ lễ tí nào nừa? Nếu mày không hề biết tao thì làm thế nào mày lại nói chuyện về tao với Nikodim Phomits được? Thế nghĩa là bọn chúng cũng không thèm giấu giếm là chúng đang theo vết mình như một bầy chó. Thật là chúng nhổ toẹt vào mặt mình! - Raxkonikov run lên vì tức giận. - Thôi các người cứ đánh trực diện đi chứ đừng vờn ta như mèo vờn chuột nữa! Vì như thế là vô lễ Porfiri ạ, mà có lẽ ta sẽ không cho phép người làm như vậy" Ta sẽ đứng đây và sẽ nói toạc vào mặt các người tất cả sự thật rồi các người sẽ thấy ta khinh các người đến nhường nào! - Chàng mệt nhọc thở hổn hển - "Nhưng, ngộ nhỡ chẳng qua chỉ là một ảo giác của mình thì sao? Nếu đó chí là một ảo giác, nếu mình lẩm từ đầu chí cuối, nổi xung lên một cách khờ khạo, rồi không đóng nổi vai tuồng ti tiện của mình thì sao? Có thể tất cả những lời nói, những cử chỉ ấy đều không có chú ý. Lời lẽ của họ cũng bình thường cả thôi, nhưng cũng có một ẩn ý gì bên trong. Những câu như thế người ta có thể nói trong bất cứ trường hợp nào, nhưng dù sao cũng vẫn có một cái gì đây. Tại sao hắn lại nói "đằng mụ ấy"? Sao Zamiotov lại thêm là mình ăn nói "khôn ngoan"? Tại sao chúng lại nói cái giọng như vậy? Đúng… cái giọng. Razumikhin cũng ngồi đây, sao hắn lại không nghi ngờ gì cả? Cái thằng ngây ngô ấy thì chẳng bao giờ nghi ngờ gì tất! Thôi, mình lại lên cơn sốt rồi! Lúc nầy, có phải Porfiri nháy mắt với mình không nhỉ? Vô lý, chắc là không, sao hắn lại phải nháy mắt với mình kia chứ: Phải chăng chúng định trêu ngươi mình, đó chỉ là ảo giác, hay là chúng nó biết thật… Ngay cả Zamiotov cũng tỏ ra xấc láo. Có thực Zamiotov xấc không? Đêm qua chắc hắn đã nghĩ lại. Mình cùng đã biết, là hắn sẽ nghĩ lại!
Ở đây hắn như ở nhà vậy, thế mà là lần đầu hắn đến đây Porfiri không coi hắn như khách, lão ta ngồi quay lưng lại phía hắn. Chúng nó đã ăn ý với nhau rồi! Chúng nó ăn ý với nhau chính là vì mình. Chắc chắn hai đứa đã bàn về mình trước khi mình đến! Không hiểu chúng nó đã biết là mình có đến đằng ấy chưa? Sao cho nhanh lên chứ. Lúc mình nói là hôm qua mình chuồn đi tìm thuê một nơi ở khác, hắn đã bỏ qua không nêu lại… Mình chuồi câu chuyện thuê nhà vào như thế mà hay đấy, sau nầy sẽ có ích! "Trong cơn mê sảng kia chứ! Ha, ha, ha! Hắn biết tất cả những việc xảy ra tối hôm qua, nhưng lại không biết mẹ mình mới đến? Con mụ phù thuỷ ấy lại ghi ngày tháng bằng bút chì kia à? Chỉ láo, không bịp được ta đâu. Vì đó chưa phải là những sự kiện mà chỉ la một ảo giác thôi! Tang chứng đâu, thử đưa ra xem nào! Ngay cả cái chuyện đi tìm nhà cũng không phải là một tang chứng, mà là chuyện mê sảng; mình biết cách nói với chúng rồi. Chúng có biết chuyện mình đến xem phòng không nhỉ? Chưa biết được điều nầy thì chưa về. Mà sao mình lại đến đây làm gì nhỉ? Bây giờ mình lại nổi giận lên: đó mới thật là một sự kiện! Hà! Sao mình lại nóng nảy thế. Cũng có thể như vậy lại hay, mình đóng vai người ốm mà… Hắn đừng thăm dò mình… hắn sẽ đánh lạc hướng mình. Mà sao mình lại đến đây?" Tất cả những ý nghĩ đó thoảng qua óc chàng như một tia chớp.
Một lát sau Porfiri Petrovich trở lại: trông ông ta vui vẻ hẳn ra.
- Cậu nầy, sau bữa chén tối qua ở nhà cậu, đầu mình cứ… Mà cả người cũng rã ra… - Ông ta vừa cười vừa nói với Razumikhin, giọng khác hẳn.
- Sao? vui chứ? Hôm qua bàn đến điểm thú vị nhất thì mình lại bỏ các cậu. Sau ai thắng?
- Tất nhiên chẳng ai thắng cả. Chúng nó lại chẹo vào cái vấn đề muôn thuở, lại bốc lên mây.
- Rodia nầy, cậu thử tưởng tượng hôm qua họ xoay ra bàn vấn đề: có tội ác hay không? Tớ đã nói với cậu đấy: chúng nó tha hồ phun ra đủ các thứ chuyện nhảm.
- Có gì là lạ! Cũng là một vấn đề xã hội thông thường. - Raxkonikov nói, giọng lơ đãng.
- Vấn đề không phải đặt ra dưới hình thức ấy - Porfiri chêm vào.
- Ô đúng, không hẳn như vậy, - Razumikhin tán thành ngay, vả lại sôi nổi lên như thường lệ - Rodia ạ; cậu thử nghe và cho biết ý kiến nhé. Tớ muốn thế! Hôm qua tớ toát mồ hôi hột ra với họ trong khi đợi cậu tớ cũng có nói với họ là cậu sẽ đến. Thoạt tiên chúng tớ bàn đến quan điểm của bọn xã hội. Còn lạ gì quan điểm ấy nữa: cói ác là một sự phản kháng chống lại cơ cấu bất hợp lý của xã hội, chỉ thế thôi, không hơn không kém, và họ không chịu nhận nguyên nhân nào khác hết.
- Cậu chỉ bịa? - Porfiri Petrovich kêu lên, vẻ phấn khởi trông thấy; ông ta vừa nhìn Razumikhin vừa cười luôn miệng khiến anh lại càng bốc lên ngùn ngụt.
- Quyết không thừa nhận nguyên nhân nào khác - Razumikhin hăm hở nói tiếp - Tớ không bịa đâu? Tớ sẽ giở sách của họ cho cậu xem, theo họ thì tất cả đều là do tác hại của môi trường cả, không có gì khác. Câu nói đầu miệng của họ đấy. Và từ đây suy thẳng ra là nếu tổ chức xã hội cho hợp lý thì mọi thứ tội ác đều sẽ biến đi ngay tức khắc, vì không còn có gì để mà phản kháng nữa, và chỉ trong nháy mắt mọi người đều sẽ trở nên lương thiện. Họ không đếm xỉa gì đến nhân tính cả, nhân tính bị gạt bỏ, nhân tính không đáng kể. Theo họ thì không phải là nhân loại cứ phát triển theo một quy luật lịch sử sinh động rồi cuối cùng sẽ tiến đến tự cái biến thành một xã hội hợp lý; mà ngược lại là một chế độ xã hội, phọt ra từ một bộ óc toán học nào đó, sẽ tức thì tổ chức toàn thể nhân loại lại và trong nháy mắt sẽ làm cho nhân loại công bằng và hoàn thiện, không cần đợi đến sự phát triển của sự sống, bất chấp hết thảy mọi con đường phát triển lịch sử sinh động. Chính vì thế mà họ ghét lịch sử một cách bản năng. Họ nói "lịch sử chỉ rặt những chuyện quái gở và ngu xuẩn" và mọi chuyện chẳng qua đều do ngu xuẩn mà ra cả. Cũng vì vậy họ không ưa cái quá trình sinh động của cuộc sống. Không cần đến tâm hồn sống. Tâm hồn sống đòi hỏi sự sống: nó không phục tùng máy móc, nó có tính đa nghi, nó vốn thoái bộ. Còn thứ tâm hồn của họ thì tuy có mùi xác chết, có thể làm bằng cao su cũng được, nhưng ngược lại nó không có sức sống, không có ý chí, nó ngoan ngoãn, nó không nổi loạn? Và kết quả là họ quy tất cả vào mỗi một việc: xếp gạch, chia dây chia phòng trong cái phalanstère(l). Phalanstère đựng xong xuôi đấy nhưng nhân tíỉnh của các ông thì lại chưa được chuẩn bị, mà nhân tính thì vốn muốn sống, nó chưa hoàn thành cả cái quá trình sinh tử, nó cho rằng bây giờ mà vào nghĩa địa thì hãy còn sớm. Không thể nào chỉ dùng luận lý để vượt qua nhân tính được. Phép luận lý chỉ mới đề ra có ba trường hợp mà thật ra thì có đến hàng triệu! Vất bỏ hết cả mấy triệu trường hợp ấy đi để quy tất cả lại thành mỗi một vấn đề tiện nghi. Cách giải quyết thật đến dễ dàng. Rõ ràng một cách hấp dẫn đấy chứ: chẳng cần gì phải suy nghĩ nữa! Cái chính là đừng suy nghĩ. Mọi bí ẩn của cuộc sống có thể tóm tắt trên hai tờ giấy in!
- Ấy đấy lại bốc lên rồi đấy! Lại dong kèn dong trống lên rồi! Phải giữ lấy tay hắn, - Porfiri cười đoạn quay sang Raxkonikov nói tiếp. - Anh thử tưởng tượng mà xem, hôm qua cũng thế đấy: một bản hợp xưởng sáu giọng trong một căn buồng; mà trước đó lại còn chuốc rượu Punch nữa, anh hình dung được chứ? Không, ông bạn tôi ơi, ông nói sai rồi: "môi trường" có ý nghĩa rất quan trọng trong các vụ án mạng: tôi sẽ chứng minh cho cậu thấy như vậy.
- Tớ cũng biết là nó quan trọng, nhưng cậu thử nói tớ nghe xem: một lão bốn mươi tuổi hiếp một đứa bé mười tuổi, có phải là môi trường đã xúi bẩy lão ta chăng?
- Hiểu một cách chặt chẽ thì cũng có thể nói được là môi trường - Porfiri đáp, vẻ quan trọng lạ thường - Khi một đứa bé rất có thể giải thích bằng ảnh hưởng của môi trường có thể lắm chứ?
Razumikhin cơ hồ như sắp sửa nỗi khùng lên.
- Được rồi - nếu cậu muốn: tớ sẽ chứng minh cho cậu ngay lập tức - anh gầm lên - là sớ dĩ mi cậu bạc chi vì cái tháp chuông nhà thờ Ivan Đại đế cao ba mươi lăm xagien. Tớ sẽ tuần tự chứng minh một cách rõ ràng chính xác, lại có sắc thái tự do chủ nghĩa nữa cho mà xem. Tớ cam đoan như thế. Nào, cậu có cuộc tớ không nào?
- Sẵn sàng! Chúng ta thử nghe xem cậu ấy chứng minh thế nào?
- Cậu thì chỉ vờ vịt suốt, quỷ thật. - Razumikhin nhảy chồm lên vung tay tức giận - Nói với cậu cũng bằng thừa! Rodion nầy, cậu chưa biết hắn đấy thôi, chứ hắn nói thế là cố ý cả đấy. Hôm qua hắn cũng đứng về phe bọn kia để rồi chơi xỏ lại hết thảy bọn chúng. Mà hôm qua hắn nói mới ghê chứ! Còn bọn kia thì cứ nở mày nở mặt ra? Hắn có thể tiếp tục như thế hai tuần liền. Hồi năm ngoái, hắn tự dưng nói cả quyết là sẽ đi tu: suốt hai tháng hắn cứ vẫn một mực như thế. Gần đây hắn lại nảy ra cái ý làm cho chúng mình tin là hắn sắp cưới vợ, là hôn lễ đã chuấn bị xong xuôi. Hắn lại còn may cả quần áo mới nữa. Chúng mình chúc mừng hắn. Thế rồi chẳng có cóc khô gì hết, cô dâu cũng chẳng thấy đâu: chẳng qua chỉ là một ảo ảnh.
- Cậu lại nói sai rồi! Tôi may áo từ trước kia, rồi nhân có bộ quần áo đó, tôi mới nảy ra ý nghĩ lòe các cậu.
- Thật à? Ông hay lòe đến thế cơ à? - Raxkonikov lơ đãng hỏi.
- Thế anh không tin? Được rồi, tôi cũng sẽ lòe cả anh nữa cho mà xem, ha, ha, ha! Không khoan hẵng, để tôi nói hết sự thật với anh đã. Nhân những vấn đề về án mạng, về môi trường, về những con bé ấy, tôi lại nhớ - vả lại bao giờ tôi cũng quan tâm - đến bài báo của anh nhan đề là "Bàn về tột ác"… hay một đầu đề gì tương tự, tôi cũng không nhớ rõ nữa. Cách đây hai tháng tôi đã được hưởng cái thú đọc bài ấy trong tờ "Ngôn luận Thời báo".
- Bài của tôi? Trong "Ngôn luận Thời báo" - Raxkonikov sửng sốt hỏi. - Phải rồi, cách đây sáu tháng khi thôi học, tôi có viết một bài báo bàn về một quyển sách, nhưng tôi gửi đến tờ "Ngôn luận Tuần báo" chứ không phải tờ Ngôn luận Thời báo.
- Thế mà nó lại được đăng trên tờ Ngôn luận Thời báo đấy.
- Thôi phải rồi. Tờ "Ngôn luận Tuần báo" đình bản nên người ta không in được nữa.
- Đúng thế đấy, sau khi đình báo thì tờ "Ngôn luận Tuần báo" hợp nhất với tờ "Ngôn luận Thời báo" nên cách đây hai tháng bài của anh mới thấy đăng trên tờ nầy. Anh không biết sao?
Quả thật Raxkonikov không hề hay biết gì cả.
- Nầy, thế anh phải đòi người ta trả tiền nhuận bút đi chứ? Tính anh kỳ thật? Anh sống cô độc đến nỗi những việc dính dáng mật thiết đến bản thân anh, anh cũng không biết nữa, kể cũng lạ đấy.
- Hoan hô Rodia. Mình cũng không biết đấy nhá! - Razumikhin kêu lên - Ngay hôm nay, mình phải chạy ngay đến phòng đọc tìm một số mới được? Cách đây hai tháng phải không? Ngày nào? Không hề gì, mình sẽ tìm thấy! Hay đấy nhá! Thế mà cậu ta không hề hở ra!
- Nhưng sao ông lại biết bài báo đó của tôi? Tôi ký tắt kia mà?
- Chỉ là một sự tình cờ, mà cũng chỉ mới được mấy hôm nay thôi, do hỏi thăm ông chủ bút có quen… bài báo của anh làm tôi rất chú ý.
- Tôi nhớ là trong bài đó tôi phân tích tâm trạng của một kẻ sát nhân trong suốt quá trình hành động của hắn.
- Đúng thế, anh lại nhấn mạnh rằng hành động của kẻ sát nhân bao giờ cũng đi đối với một trạng thái bệnh tật. Rất độc đáo… rất độc đáo, nhưng thực ra không phải phần đó trong bài báo làm tôi chú ý, mà chính là cái ý anh chen vào cuối bài ấy, nhưng tiếc thay, ý ấy anh chi nói lướt qua thôi và diễn đạt cũng chưa rõ ràng lắm! Tóm lại, nếu anh còn nhớ thì trong đó có ám chỉ rằng trên thế gian nầy có những người có thể… hay nói cho đúng hơn không phải là có thể mà có toàn quyền làm đủ mọi việc ngang ngược, phạm đủ mọi tội ác, và với họ thì luật pháp không đụng chạm đến được.
Lối xuyên tạc vũ đoán và gượng ép đó khiến Raxkonikov mỉm cười.
- Thế nào? Sao? Có quyền phạm tội a? Thế chứ không phải là do "tác hại của môi trường" nữa à? - Razumikhin chen vào, có phần hoảng hốt.
- Không, không, không hẳn là như vậy - Porfiri Petrovich tiếp. - Trong bài của anh ấy, vấn đề là ở chỗ loài người chia ra làm hai loại, loại "bình thường" và loại "phi thường". Loại bình thường thì phải sống phục tòng và không có quyền vượt ra ngoài luật pháp bởi vì, ấy đấy, vì họ là những người bình thường, còn loại phi thường thì có quyền phạm mọi tội ác và có thể vi phạm luật pháp đủ cách, chính bởi vì họ là những con người phi thường: Không biết ý anh có phải như vậy không?
- Thế nào? Không thể như vậy được! - Razumikhin ngơ ngác lẩm bẩm.
Raxkonikov lại cười nhạt. Mới nghe chàng đã biết ngay hắn muốn nói gì và muốn đẩy chàng đến đâu; chàng nhớ lại bài báo chàng đã viết. Chàng quyết nhận lời thách thức.
- Không hẳn như vậy, - chàng đáp một cách giản dị và khiêm tốn. - Tuy vậy tôi cũng xin nhận là ông đã trình bày gần trung thành ý nghĩ của tôi, thậm chí có thể nói hoàn toàn trung thành nữa là đằng khác (chàng dường như lấy làm thích thú khi thừa nhận là "hoàn toàn trung thành"). Chỉ có điểm khác biệt là tôi không hề nhấn mạnh rằng những người phi thường thì nhất thiế phải làm đủ mọi việc ngang ngược như ông nói. Tôi lại còn nghĩ rằng sở kiểm duyệt không đời nào cho in một bài báo như vậy. Tôi chỉ muốn nêu lên rằng con người "phi thường" có quyền, tôi không nói là cái quyền pháp lý mà chỉ là bản thân họ có quyền tự cho phép lương tâm mình vượt qua một số trở lực nào đấy, và chỉ riêng trong trường hợp nào việc thực hiện ý tưởng của họ đòi hỏi thôi (đôi khi ý tưởng đó có thể có một tác dụng cứu vớt nhân loại). Ông nói là bài báo của tôi không được rõ ràng, tôi sẵn sàng giải thích cho ông hiểu trong chừng mực có thể. Có lẽ tôi không nhầm khi nghĩ rằng đó chính là ý thích của ông: vâng, tôi xin chiều ý ông. Theo tôi, nếu vì một trường hợp nào đó mà những phát minh của Kepler, Newton không thể truyền bá được trong nhân loại bằng cách nào khác hơn là hy sinh tính mạng của một người, mười người, trăm người hoặc nhiều hơn thế vì họ ngăn trở sự phát minh đó hoặc làm thành một chướng ngại trên con đường thực hiện, thì Newton sẽ có quyền, và hơn nữa còn có bổn phận… loại trừ cái số mười người, trăm người ấy đi để truyền bá những phát minh của mình ra cho toàn thể nhân loại. Nói như thế không có nghĩa là Newton có quyền tuỳ tiện muốn giết ai thì giết hoặc hằng ngày ra chợ ăn cắp. Hơn nữa, tôi nhớ là đã có phát triển trong bài báo của tôi một ý kiến nói rằng mọi người… đây là nói những người chỉ đạo, những người cầm cân nảy mực cho nhân loại, từ những nhân vật cổ xưa nhất cho đến loại Licurg, Solon, Mohammet, Napoleon và những người sau đó nữa, muôn người như một, không trừ ai, đều là những kẻ tội phạm tất, vì chỉ nguyên cái việc ban hành ra một đạo luật mới tức là đã phải huỷ bỏ đạo luật cũ của tổ tiên để lại và được xã hội coi như thiêng liêng; và dĩ nhiên, họ sẽ không chùn bước dù có phải đổ máu, nếu như máu đó (đôi khi hoàn toàn vô tội, và anh dũng đổ ra để bảo vệ cho đạo luật cũ kia) có thể giúp họ hoàn thành ý đồ. Còn có một điều đáng chú ý là phần đông những vị ân nhân của loài người, những kẻ cầm cân nẩy mực cho xã hội đều là những kẻ khát máu ghê gớm. Tóm lại, tôi kết luận rằng tất cả, không riêng gì những bậc vĩ nhân, mà ngay cả những người chỉ vượt lên trên mức bình thường một tí thôi cũng vậy, nghĩa là tất cả những người có thể nói lên một điều gì mới mới, thì do bản chất của mình, họ đều nhất thiết phải là những kẻ tội phạm, tất nhiên là nhiều hay ít còn tuỳ. Nếu không, họ sẽ khó lòng thoát ra khỏi vết bánh xe cũ, mà nằm yên trong vết cũ thì cũng do bản chất, họ sẽ không thể nào cam tâm được và theo tôi họ còn có bổn phận không được cam tâm nằm yên như thế. Tóm lại. Ông cũng thấy những điều đó không có gì là mới mẻ cả. Nó đã được in ra, được đọc hàng nghìn lần rồi. Còn về chuyện phân ra thành loại người bình thường và phi thường thì tôi cũng thừa nhận là hơi võ đoán, song tôi không hề vạch ra những con số chính xác. Tôi chỉ tin chắc vào ý chủ đạo của tôi thôi. Nội dung của cái ý chủ đạo đó như sau: theo một quy luật của tạo hoá thì loài người, nói chung, chia ra làm hai loại: loại hạ đẳng (gồm những người bình thường) chỉ là những vật liệu dùng để sản sinh ra những kẻ như họ, và loại những người chân chính, những người có thiên bẩm hoặc có tài năng nói lên được một ý mới trong môi trường của mình. Tất nhiên còn có thể chia nhỏ mãi ra nữa, đến vô cùng, song những nét khác biệt của hai loại đó thì khá rõ ràng dứt khoát loại đầu, nghĩa là đám vật liệu nói chung, gồm những người bản tính bảo thủ, yên lành, sống trong sự phục tùng và vốn thích phục tùng. Theo tôi thì họ có bổn phận phải phục tùng vì công dụng của họ là như vậy, và đối với họ việc đó không có gì là nhục nhã cả. Còn đối với loại thứ hai thì họ đều vượt qua pháp luật, họ đều là những kẻ phá hoại hay có khuynh hướng phá hoại, tuỳ theo khả năng. Tội ác của những con người đó dĩ nhiên là tương đối và muốn hình muốn vẻ: với những chủ trương rất khác nhau, phần lớn những người nầy đều đòi phải huỷ bỏ cái hiện tại vì một cái gì tốt đẹp hơn. Nhưng nếu để thực hiện ý tưởng của mình, họ phải dẫm lên trên một xác người, băng qua một con sông máu, thì theo tôi lương tâm họ cũng có quyền cho phép họ làm như thế, song cũng còn phải xét cái ý tưởng kia, xét quy mô của nó nữa, - xin ông chú ý cho điểm nầy. Trong bài báo ấy tôi nói đến quyền phạm tội ác chỉ là theo nghĩa đó (ông nhớ cho rằng cuộc tranh luận của chúng ta xuất phát từ một vấn đề luật pháp đấy). Vả chăng, cũng không có gì đáng phải lo ngại cho lắm: hầu như không bao giờ đám đông thừa nhận cái quyền đó của họ cả, mà lại hành hình họ, treo cổ họ lên (tuỳ theo mức độ) và như vậy là đám đông đã thực hiện đúng cái sứ mệnh bảo thủ của mình, mặc dầu trong những thế hệ sau chính cái đám đông ấy lại sẽ đặt những người bị hành hình đó lên bệ thờ mà hương khói (ít nhiều tuỳ theo mức độ). Loại đầu bao giờ cũng là chủ nhân của hiện tại; loại sau là chủ nhân của tương lai. Loại đầu bảo tồn thế giới và làm cho thế giới tăng thêm về số lượng; loại thứ hai thúc đẩy thế giới và dẫn dắt nó đến mục đích. Mà loại nầy cũng như loại kia đều có đầy đủ quyền tồn tại như nhau. Tóm lại, theo tôi thì tất cả đều có quyền ngang nhau và vive la guerre éternelle (2) tức là cho đến Tân Jerusalem (3) dĩ nhiên!
- Thế anh cũng tin Tân Jerusalem à?
- Tin, - Raxkonikov đáp, giọng rắn rỏi - mặt vẫn cúi gằm xuống đất, vẫn dán mắt vào một điểm đã chọn trên tấm thảm như suốt trong thiên trường ngôn của chàng.
- Thế… anh có tin Thượng đế không? Xin anh bỏ qua cho thói tò mò của tôi.
- Tin! - Raxkonikov ngẩng mặt lên nhìn Porfiri nhắc lại.
- Thế anh có tin sự tích Lazaro phục sinh (4) không?
- Tin, nhưng sao ông lại hỏi như vậy?
- Anh tin theo nghĩa đen chứ?
- Theo nghĩa đen.
- Thế cơ đấy… Tôi cũng chỉ vì tò mò mà hỏi thế thôi. Xin lỗi anh. Nhưng, xin phép anh, ta lại trơ về chuyện ban nãy. Không phải bao giờ người ta cũng hành hình họ dảu; cũng có người…
- Đã chiến thắng trong sinh thời họ? À đúng, cũng có người đã chiến thắng trong sinh thời họ, thế và…
- Chính những người đó lại bắt tay vào hành hình kẻ khác?
- Nếu cần, mà ông cũng biết đấy đa số đều làm như vậy. Nói chung, nhận xét của ông rất tinh tế.
- Cảm ơn anh. Nhưng nầy, anh cho biết là làm thế nào để phân biệt được những con người phi thường ấy với những người bình thường? Mới sinh ra họ đã có một vài dấu hiệu gì hẳn? Tôi muốn nói là trong trường hợp nầy cần phải có một tiêu chuẩn chính xác hơn, hay nói cách khác là phải có một dấu hỉệu bè ngoài rõ rệt hơn: anh bỏ qua cho những thắc mắc tự nhiên ở một con người thực tế và trung tín nhưng trong trường hợp nầy có lẽ cần phải có một cách trang phục đặc biệt chẳng hạn, hay có một dấu vết gì? Vì chắc anh cũng nhận rằng nếu xảy ra một sự nhầm lẫn và một người nào đó thuộc về một loại nầy lại tưởng rằng mình thuộc loại kia rồi quay ra "loại trừ mọi trở lực", như anh vừa nói một cách rất mình xác đó, thì…
- À! trường hợp ấy cũng thường xảy ra luôn. Lời nhận xét nầy lại còn tinh tế hơn lần trước nữa.
- Xin cảm ơn anh
- Không dám. Song cũng xin ông lưu ý là sự nhầm lẫn chỉ có thể có ở trong loại người đầu thôi, nghĩa là "những người bình thường" theo như cách gọi có lẽ cũng không hay ho lắm của tôi. Tuy bẩm sinh họ vẫn có khuynh hướng phục tùng, song vì một sự trở trêu nào đó của tạo hoá mà ngay cả con bò cũng không thoát khỏi, có nhiều người trong bọn họ thích tự cho mình là những kẻ tiên phong, những kẻ "phá hoại" rồi sa vào một "ý mới", mà là một cách hoàn toàn thành thật. Đồng thời họ lại thường không hay chú ý đến những người thực sự mới, thậm chí lại còn khinh miệt những người nầy nữa coi người ta như những kẻ lạc hậu, tư tưởng thấp hèn. Song, theo tôi, đây không thể có một nguy cơ gì nghiêm trọng cả, và ông cũng không có gì đáng phải bận tâm, vì họ không bao giờ đi xa được. Để trị cái thói ngông cuồng ấy, dĩ nhiên cũng nên quất roi vào họ để nhắc nhở cho họ biết thân biết phận nhưng không nên làm gì hơn thế, vả chăng việc nầy cũng chẳng cần ai thi hành cả; tự họ quất vào họ thôi vì họ là những kẻ rất mực luân thường đạo lý, có khi thì làm hộ cho nhau, có kẻ lại tự tay mình quất vào mình… Ngoài ra, họ lại còn quy định ra những hình thức sám hối công khai để tự trừng trị nữa: kết quả thật là đẹp đẽ và bổ ích. Tóm lại ông không có lý do gì để phải lo lắng bận tâm cả… Có một quy luật như thế đấy.
- Ấy ít nhất về mặt ấy anh cũng đã làm cho tôi yên tâm được chút ít, nhưng lại thế nầy mới khó chứ: xin anh cho biết là những kẻ có cái quyền ám hại kẻ khác, những người phi thường ấy, có nhiều không? Lẽ tất nhiên tôi sẵn sàng nghiêng mình trước họ, nhưng dù sao anh cũng phải nhận là nếu họ quá nhiều thì cũng sởn gáy thật đấy, nhỉ?
- Ồ điều nầy nữa cũng xin ông đừng lo, - Raxkonikov nói tiếp, giọng vẫn như cũ - Nói chung, những người có một ý tưởng mới hoặc chỉ có khả năng nói ra một điều gì mới thôi, cũng ít lắm, ít một cách kỳ lạ nữa là khác. Chỉ biết rõ là cách phân phối người thành từng loạt và tiểu loại chắc chắn đã được một quy luật nào đó của tạo hoá quy định một cách chính xác và công bằng. Cái quy luật đó thì dĩ nhiên hiện nay chúng ta chưa biết, song tôi tin là nó tồn tại và sau nầy rồi có lẽ chúng ta sẽ biết. Cái đám đông to lớn, cái mở vật hệu ấy tồn tại trên mặt đất rốt cục cũng chỉ để rồi qua một quá trình bí ẩn nào đó, qua sự giao hợp phức tạp giữa các nói giống, chủng tộc, cố sức sản sinh ra cho được một con người, trong hàng nghìn người khác, ít nhiều có tính dộc lập. Những người có một trình độ độc lập cao hơn thì trong một vạn người mới có được một (đây tôi nói áng chừng thế thôi, cho dễ hiểu). Cao hơn nữa thì trong mười vạn chỉ có một. Và phải đến hàng triệu người mới có được một bậc thiên tài. Còn những vĩ nhân, những người nắm giữ vận mệnh của nhân loại thì có lẽ còn có một người xuất hiện sau khi hàng nghìn triệu người đã bước vào cuộc sống. Tóm lại cũng chưa bao giờ tôi ghé mắt vào cái lò đúc ấy của tạo hoá để xem quá trình nó diễn biến ra sao cả. Song chắc chắn là có và phải có một quy luật nhất định; ở đây không phải có sự ngẫu nhiên được.
- Nầy, sao, cả hai người đùa đấy chứ? - cuối cùng Razumikhin phải kêu lên - Hai người đang xỏ nhau hay sao đấy? Ngồi mà chế ngạo nhau có lạ không chứ? Rodia, cậu nói chuyện đứng đắn đấy chứ?
Raxkonikov lặng lẽ ngẩng bộ mặt nhợt nhạt và gần như buồn rầu lên nhìn bạn, không đáp. Bên cạnh bộ mặt trầm lặng và đau khổ đó, cái vẻ cay độc trâng tráo, lì lợm trêu chọc và vô lễ của Porfiri lại càng có vẻ lạ lùng đối với Razumikhin.
- Nầy cậu, nếu quả thật các cậu nói chuyện đứng đắn thì… Tất nhiên cậu có lý khi nói rằng vấn đề đó không có gì mới và cũng giống những điều mà chúng ta đã đọc, đã nghe hàng nghìn lần rồi, song cái điều thật sự độc đáo ở trong đó, cái ý mà quả thật là của riêng cậu ấy, một ý nghĩ khiến mình phải kinh hãi là cậu chủ trương có thể giet người theo lương tâm, mà, xin lỗi cậu, lại chủ trương một cách cuồng tín như vậy nữa chứ! Cho nên đó mới là cái chủ đạo trong bài báo của cậu. Theo mình, dung thứ kiểu giết người theo lương tâm lại càng kinh khủng hơn là một sự dung thứ chính thức, hợp pháp nữa.
- Rất đúng, thế lại càng kỉnh khủng hơn ấy, - Porfiri đệm theo.
- Không, cậu đi quá xa rồi đấy? Hắn là có một sự nhầm lẫn gì đây! Mình sẽ đọc bài báo… cậu đi quá xa rồi! Cậu không thể nghĩ như vậy được… Mình sẽ đọc.
- Trong bài báo không hề có những ý đó, mà chỉ có những ám dụ thôi! - Raxkonikov nói.
- Đúng, đúng - Porfiri tiếp ngay - bây giờ tôi đã gần thấy rõ được cách anh nhìn nhận tội ác nhưng… Xin anh bỏ qua cho cái tính dai dẳng của tôi (tôi làm phiền anh nhiều quá, chính tôi cũng thấy ngượng) đấy anh xem, lúc nãy anh có nói đi nói lại với tôi là cứ yên tâm về sự lẫn lộn có thể xảy ra giữa hai loại người, song… tuy vậy cũng có một số trường hợp thực tế làm tôi lo lắng. Chẳng hạn, ví thứ có một người đàn ông nào đó, một người thanh niên tự do cho mình là một Licurg hay một Mohammet… tương lai, cố nhiên, rồi anh ta bèn loại trừ tất cả những trở lực ngăn cách anh ta với cái tương lai đó. Anh ta nghĩ là phải thực hiện một cuộc viễn chinh, mà muốn viễn chinh thì phải có tiền… Thế là anh ta bắt đầu kiếm tiền cho cuộc viễn chinh ấy… anh biết chứ?
Zamiotov ngồi trong góc bỗng phì cười. Raxkonikov cũng không hề đưa mắt về phía hắn. Chàng đáp, giọng bình thản:
- Tôi cũng phải thừa nhận rằng những trường hợp như thế quả phải xảy ra. Và nhất là chỉ có những kẻ ngu xuẩn và hợm mình mới mắc vào lưỡi câu ấy; nhất là thanh niên.
- Đấy anh thấy đấy. Thế thì sao?
- Thì thế thôi - Raxkonikov cười khẩy - Không phải là lỗi tại tôi. Sự thể nó như vậy, và mãi mãi sẽ như vậy. Đây như cậu nầy (chàng hất hàm trỏ Razumikhin) vừa nói là tôi dung thứ việc giết người. Vậy thì sao? Chẳng phải xã hội đã được đảm bảo quá đầy đủ với những án đày, những nhà tù, những quan toà, những trại khổ sai rồi hay sao? Lo lắng mà làm gì? Các anh cứ tìm thủ phạm đi thôi!
- Và nếu chúng tôi bắt được hắn?
- Thì hắn phải đền tội.
- Dù sao anh cũng thật là logic. Nhưng còn lương tâm hắn thì sao?
- Cái đó thì có can hệ gì đến ông?
- Là tôi hỏi thế, cũng vì lòng nhân đạo thôi!
- Người mà có lương tâm thì sẽ đau khổ nếu nhận thức được lỗi lầm. Đó chính là hình phạt rồi, không nói chi đến ngục tù nữa!
- Nhưng mà, những bậc thiên tài - Razumikhin hỏi, mày cau lại, - những kẻ được quyền giết người ấy, chắc họ phải không đau khổ tí nào hết, dù đã làm đổ máu?
- Tại sao lại có chữ phải? Ở đây không có sự chuẩn y cũng không có sự cấm đoán nào cả. Ai thương hại nạn nhân thì người ấy đau khổ. Nỗi thống khổ bao giờ cũng là hệ quả tất yếu của một lương tâm rộng lớn và một tâm hồn thâm thuỷ. Những con người thật là vĩ đại, chắc phải chịu một nỗi buồn sâu rộng trên cõi đời nầy, - chàng bỗng nói thêm, giọng trầm ngâm không ăn khớp với phong thái của câu chuyện.
Chàng ngước mắt nhìn mọi người, vẻ tư lự, và cầm lấy mũ. Chàng quá bình thản so với thái độ của chàng lúc nãy khi bước vào, và chàng cũng cảm thấy như vây. Mọi người đều đứng dậy.
- Đây, dù anh có sỉ vả tôi, anh có giận tôi hay không, - Porfiri lại nói như để kết luận - thì quả tình tôi cũng không thể cầm lòng mà - xin anh thứ lỗi - hỏi thêm anh một câu nhỏ nữa (quà thật tôi quấy rầy anh quá) tôi chỉ muốn trao đổi qua một ý nhỏ, chẳng qua chỉ để cho khỏi quên thôi.
- Được, ông cứ nói cái ý nhỏ ấy ra - Raxkonikov đáp, gương mặt nghiêm nghị và nhợt nhạt, đứng trước mặt Porfiri chờ đợi.
- Thế nầy… Thật quả tôi không biết có thể nào cho rõ. cái ý nầy nó cũng quá ư kỳ quặc… một ý nghĩ có tính chất tâm lý học… Thế nầy, khi anh thảo ra bài báo, không thể nào, thì hì… anh lại không tự xem mình là ấy, dù chỉ chút đỉnh thôi, xem mình như một con người phi thường và đang nói lên một ý mới theo cái nghĩa anh hiểu… Có phải thế không nào?
- Rất có thể - Raxkonikov đáp, giọng khinh bỉ. Razumikhin rậm rựt như muốn nói điều gì.
- Đã thế thì phải chăng chính anh có thể… chẳng hạn để giải quyết một số thất bại, khó khăn trong cuộc sống vật chất hoặc để góp phần thúc đẩy bước tiến của toàn thể nhân loại - anh có thể quyết định vượt qua trở lực? Giết người, lấy của chẳng hạn?
Đoạn, hình như Porfiri lại bỗng nheo mắt trái và cười thầm, hệt như lúc nãy.
- Nếu tôi đã vượt qua trở lực tất nhiên tôi sẽ không nói với ông! - Raxkonikov đáp, với một vẻ khinh miệt đầy ý ngạo nghễ và khiêu khích.
- Không phải đâu, tôi chú ý như vậy chỉ để tìm hiểu bài báo của anh rõ hơn về phương diện văn học thôi!
"Hừ, thật là lộ liễu và trâng tráo!" - Raxkonikov kinh tởm nghĩ thầm.
- Xin ông lưu ý cho - chàng xẵng giọng đáp - rằng tôi không tưởng tượng mình là Mohammet hay Napoleon… cũng không phải là một nhân vật nào ở cỡ đó cả; cho nên, tôi không thể trả lời ông một cách thoả đáng là tôi sẽ hành động ra sao nếu ở vào địa vị họ.
- Thôi đi, ở nước Nga chúng ta thì hiện nay ai mà không tự cho mình là Napoleon? - Porfiri bỗng nói với một giọng thân mật khủng khiếp. Lần nầy ngay trong giọng nói của ông ta cũng có một cái gì đặc biệt rõ ràng.
- Không phải là tuần vừa rồi, một Napoleon tương lai đã khử mụ Aliona Ivanovna nhà ta đó sao? - Zamiotov từ trong góc ném ra một câu.
Raxkonikov lặng thinh đưa mắt chăm chú và rắn rỏi nhìn Porfiri. Razumikhin sa sầm mặt xuống. Từ nãy anh đã bắt đầu nghĩ là có một vấn đề gì đây, anh quay mặt giận dữ nhìn quanh. Một phút im lặng nặng nề trôi qua. Raxkonikov quay gót ra về.
- Anh đã đi đấy à! - Porfiri ân cần nói và chìa tay ra, vẻ cực kỳ thân mật. - Rất sung sướng, rất sung sướng được làm quen với anh. Còn về yêu cầu của anh, anh cứ yên chí. Anh cứ viết đại ý như tôi nói. Hay tốt hơn là anh tự đến đằng chỗ tôi làm việc vậy… một ngày nào đó, mai chẳng hạn. Mười một giờ có thể tôi cũng sẽ đến đấy, ta sẽ thu xếp mọi việc và sẽ nói chuyện… Anh lại là một trong những người cuối cùng đến đằng ấy có thể anh sẽ nói cho chúng tôi biết một điều gì chăng. - Ông ta nói tiếp với một vẻ hết sức chất phác.
- Ông muốn chính thức hoi cung tôi theo đúng thủ tục hẳn? - Raxkonikov xẵng giọng hỏi.
- Để làm gì mới được chứ? Lúc nầy thì hoàn toàn chưa cần thiết. Anh không hiểu tôi. Anh thấy đấy, tôi không bỏ lỡ một cơ hội nào và tôi đã nói chuyện với hết thảy những người có cầm đồ, tôi đã thu nhặt được một số bằng chứng ở một số người… Anh lại là người cuối cùng… à, thật là vừa đúng dịp, ông ta reo lên như chợt có điều gì mừng rỡ - tôi nhớ đúng dịp quá, khá thật! - Porfiri quay về phía Razumikhin: cậu có nhớ là cậu đã làm mình bở hơỉ tai với cái thằng Nikolai ấy không… ấy mình biết, chính mình cũng biết, - y quay về phía Raxkonikov, - chính mình cũng biết hắn vô tội, nhưng làm thế nào được? Ấy ngay đến Mitka mà tôi cũng phải làm phiền. Thế đấy. Chuyện tôi muốn hỏi anh chẳng qua chỉ có thể nầy: khi lên thang gác, xin lỗi anh: anh lên đấy khoảng gần tám giờ phải không nhỉ?
Phải - Raxkonikov đáp, đoạn hiểu ngay rằng đáng lẽ mình rất có thể không trả lời như vậy.
Thế khi lên cầu thang vào quâng gần tám giờ, hẳn là anh có thấy ở từng hai trong một căn phòng buồng cửa mở rộng, anh có nhớ không? Có hai người thợ, hay ít nhất anh cũng thấy một trong hai người chứ? Lúc ấy họ đang sơn, anh không chú ý ư? Điều nầy rất quan trọng đối với họ!
- Thợ sơn à? Không, không thấy - Raxkonikov thong thả đáp, tựa như đang lục tìm trong ký ức, trong khi bao nhiêu tinh lực trong người chàng đều căng thẳng lên, trong khi toàn thân chàng đau buốt đến lặng người đi cố đoán xem cái bẫy căng ở chỗ nào, nhỡ ra mình có chỗ nào hớ chăng? - Không, tôi không thấy họ, và tôi cũng không nhớ là có một căn buồng nào mở cửa. Nhưng ở tầng gác thứ tư (giờ thì chàng đã khám phá ra cái bẫy và hân hoan đắc thắng), tôi nhớ là có một công chức đang dọn nhà… trước mặt buồng bà Aliona Ivanovna… Tôi nhớ, cái nầy thì tôi nhớ rõ lắm… có mấy người lính khiêng một chiếc đi-văng, họ ép tôi vào tường… Nhưng mấy người thợ sơn thì không, tôi không nhớ là có họ ở đấy. Và đâu như không hề có một buồng nào mở cửa thì phải. Không, không có.
- Cậu giở cái trò gì thế? - Razumikhin chợt kêu lên, dường như vừa sực tỉnh và hiểu ra. - Nầy, thợ họ quét sơn đúng vào cái ngày xảy ra án mạng, còn cậu nầy đến cách đấy hai hôm kia mà. Cậu hỏi vớ vẫn cái gì thế?
- Chà! mình lại nhầm lẫn rồi! - Porfiri đập trán - Mẹ kiếp, câu chuyện nầy làm mình rối tinh cả óc lên! - Ông ta quay sang Raxkonikov nói tiếp như để xin lỗi. - Cái việc cần biết xem có ai thấy họ trong căn nhà vào quãng tám giờ không nó quan trọng đến nỗi tôi đâm ra tưởng tượng là anh cũng có thể nói cho chúng tôi biết… Tôi thật đến lẫn tất!
- Phải thận trọng hơn một tí chứ - Razumikhin mặt sa sầm xuống.
Mấy câu sau nầy nói ở phòng ngoài. Porfiri Petrovich đưa hai người ra tận cửa một cách hết sức nhà nhặn. Hai người bạn bước ra đường, vẻ mặt lầm lì, cau có, và mấy hước đầu, không ai nói với ai một câu.
Raxkonikov thở ra một tiếng rất dài.

Chú thích:
(1) Chỗ ở công cộng của nhân dân (trong chương trình của những người theo chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp (1771-1837)
(2) Chiến tranh vĩnh cửu muôn năm (tiếng Pháp trong nguyên văn).
(3) Tức thiên đường (chữ của các văn kiện thần bí giáo
(4) Lazaro là một người chết đi sống lại do phép lạ của Jesus.



TỘI ÁC VÀ SỰ TRỪNG PHẠT


Phần III

Chương 18



- Tớ không tin! Tớ không thể tin được! - Razumikhin lo lắng nhắc đi nhắc lại trong khi cố hết sức bác bỏ những lý lẽ của Raxkonikov. Họ đã đến nhà trọ Bakaleyev; bà Punkheria Alekxandrovna và Dunia đợi họ ở đấy đã lâu. Trong khi hăng say tranh luận, Razumikhin cứ phút phút lại dừng lại ở dọc đường. Đây là lần đầu tiên họ bàn đến việc ấy một cách không úp mở: chỉ riêng điều đó thôi cũng đã khiến Razumikhin bối rối và xúc động rồi.
- Cậu không tin thì tuỳ, - Raxkonikov đáp với một nụ cười lạnh lùng và uể oải - Xưa nay cậu vẫn thế: cậu chẳng nhận thấy tí gì, nhưng tôi thì tôi cân nhắc từng chữ một.
- Tính cậu đa nghi nên cậu mới cân nhắc… Hừ… quả thật mình cũng thấy giọng của Porfiri khá lạ kỳ và nhất là cái tên Zamiotov vô lại kia nữa! Cậu nói có lý, quả có một cái gì đây… Nhưng tại sao, tại sao mới được chứ?
- Đêm qua, hẳn đã nghĩ lại.
- Không đời nào, ngược lại ấy chứ? Nếu chúng nó có cái ý nghĩ vô lý đó thì lẽ ra chúng phải cố dùng đủ mọi cách để che nó đi, chúng phải giấu kín con bài của chúng để rồi sẽ bắt chộp… Nhưng đằng nầy… thật là trắng trợn và thiếu trận trọng.
- Nếu chúng nắm được những bằng chứng, bằng chứng thật sự ấy, hay ít nhất cũng là những mối nghi ngờ có chút ít cơ sở, thì quả nhiên chúng sẽ cố gắng giấu kín âm mưu của chúng để mong thu được một kết quả khả quan hơn, hơn nữa chúng đã soát nhà tôi từ lâu rồi kia. Nhưng đằng nầy, chúng lại không có bằng chứng, không có lấy một sự kiện nào cả, toàn là ảo giác, toàn là những mối ngờ vực viển vông, không dựa vào cái quái gì cả, cho nên chúng mới cố dùng cái lối trơ tráo ấy để nhát mình… Mà có thể là hắn điên tiết lên vì không tìm được bằng chứng rồi cáu quá mà buột ra như vậy. Cũng có thể hắn còn có ý định gì nữa đây.
Tôi trông hắn cũng thông minh thì phải. Có thể hắn làm ra vẻ hắn biết để nhát mình… ở đây có một vấn đề tâm lý riêng… Cứ phải tìm cách giải thích những thứ đó cũng ngấy thật. Thôi, kệ nó!
- Mà thật là khả ố, khả ố! Tớ hiểu cậu lắm! Nhưng… bây giờ chúng mình đã nói chuyện thẳng thắn với nhau (và như vậy là rất tốt, tớ mừng lắm), tớ xin thú thật với cậu, không quanh có gì, là tớ đã nhận thấy cái ý nghĩ đó trong bọn chúng từ lâu rồi kia, tất nhiên chỉ mới ở trạng thái phôi thai thôi, nhưng dù chỉ phôi thai cũng đã là quá lắm rồi. Làm sao chúng nó lại dám nghĩ như vậy. Không hiểu cội rễ của nó ẩn ở chỗ nào? Giá cậu biết mình điên ruột lên đến nhường nào Gớm chửa? Một sinh viên nghèo khổ, rạc rài đi vì cảnh túng bấn và chứng ưu uất, chỉ còn một ngày nữa là lăn ra ốm mê man, và có thể là đã chớm bệnh sẵn (cậu chú ý điểm nầy); một người giàu tưởng tượng, đầy tự ái, có ý thức về giá trị của mình, một con người đã từng sống trong xó sáu tháng ròng không nhìn thấy ai; áo quần thì rách bươm, giầy thì không đế, phải đứng trước những tên cảnh sát bẩn thỉu, nghe những lời lẽ xấc xược của chúng; rồi chúng lại bất thần tống cho anh ta một tờ hối phiếu đòi anh ta phải trả tiền cho một viên hội thẩm Sebarov nào đó, lại thêm mùi sơn ướt ngập ngụa trong căn phòng kín mít, với nhiệt độ ba mươi độ Reaumer, ngột ngạt lên vì một đống người; lại phải nghe nói đến vụ ám sát một người mà anh vừa mới đến gặp hôm trước, và tất cả những thứ đó trong khi dạ dày đang rỗng tuếch. Làm sao mà lại không ngất đi được? Ấy thế mà chúng dựa vào đấy, dựa vào tất cả những thứ ấy để nghi ngờ Mẹ kiếp? Tớ hiểu rằng chuyện đó thật đáng bực mình, song Rodia ạ, ở địa vị cậu, tớ sẽ cười vào mặt mũi bọn chúng, hay hơn nữa: tớ sẽ nhổ toẹt vào mặt chúng tất, nhổ mạnh vào, nhổ vung ra vài chục bãi ấy với chúng thì phải đối xử như thế mới được, và chấm dứt đi như vậy với chúng. Nhổ lên mặt chúng đi! Can đảm lên! Thật nhục!
"Kể ra hắn trình bày tình hình cũng giỏi đấy!" - Raxkonikov nghĩ thầm.
- Nhổ lên! Nhưng ngày mai lại hỏi cung rồi! - Chàng nói giọng chua chát - Lẽ nào mình lại đi phân trần với chúng? Hôm qua tự dưng hạ mình trước mặt Zamiotov ở quán rượu như vậy, mình đã bực quá đi rồi!
- Mẹ kiếp Tớ sẽ đích thân đến đằng Porfiri. Tớ sẽ lấy tư cách bà con, vắt cho kỳ ra mới thôi, hắn phải dốc hết ra với tớ mới được. Còn Zamiotov thì…
"À, mãi đến bây giờ hắn mới đoán ra?" - Raxkonikov nghĩ thầm.
- Khoan hẵng - Razumikhin bỗng chộp lấy vai chàng quát lên - Vừa rồi cậu nói một điều sai bét! Tớ đã suy nghĩ rồi: Sai bét! Cậu bảo hắn bẫy cậu ở chỗ nào? Cậu cho rằng hắn nhắc đến hai người thợ là để bẫy cậu hẳn? Nghiền ngẫm một tí xem, nếu chính cậu làm cái việc ấy, thì cậu có dại gì lại đi nói rằng cậu có thấy người ta đang sơn nhà và có thấy mấy người thợ sơn? Ngược lại, cho dù cậu có thấy, cậu cũng sẽ nói không. Ai dại gì đi buộc tội cho mình bao giờ?
- Nếu mình có làm việc ấy, chắc chắn mình sẽ nói là có thấy mấy người thợ và căn buồng - Raxkonikov tiếp tục trả lời, vẻ miễn cương, chán ngấy ra mặt.
- Nhưng sao lại nói những điều có hại cho mình?
- Là bởi vì chỉ có những người quê mùa hoặc những kẻ tập sự không mảy may kinh nghiệm mới bạ đâu chối đấy khi bị hỏi cung! Một người có chút ít trí thông minh và kinh nghiệm chắc chắn sẽ cố gắng nhận hết những sự kiện bề ngoài không chối cãi được, chỉ có điều là hắn sẽ tìm ra những nguyên do khác dàn xếp theo một kiểu riêng, làm cho những sự kiện đó có một ý nghĩa hoàn toàn bất ngờ rồi trình bày chúng dưới một dạng thức khác. Chính Porfiri có thể tính toán là mình sẽ trả lời kiểu ấy và nói là có thấy mấy người thợ, đã làm cho lời khai của mình có vẻ đúng sự thật rồi tìm cách giải thích sau.
- Nhưng nếu thế thì Porfiri sẽ trả lời ngay lập tức với cậu rằng trước hôm đó hai ngày chẳng có thợ thuyền nào ở đấy cả, và như vậy nghĩa là cậu đã đến đấy ngay hôm xảy ra vụ án mạng, lúc tám giờ. Thế là cậu sẽ vào tròng một cách dễ dàng như không!
Thì chính hắn tính như vậy đấy: hắn mong rằng mình sẽ không có thì giờ suy nghĩ và ắt sẽ vội trả lời cho thật có lý và cũng mong rằng mình quên là ngày hôm trước không thể có hai người thợ ở đấy được.
- Sao lại có thể quên chuyện ấy được?
- Không có gì dễ hơn! Chính vì những chi tiết, vô nghĩa đó mà những kẻ tinh khôn dễ vào tròng nhất đấy. Càng tinh khôn thì lại càng ít nghi ngờ rằng người ta dùng một thủ đoạn rất đơn gián để cho mình vào tròng. Muốn lừa được kẻ tối xảo quyệt phải dùng những cách tối đơn giản. Porfiri tuyệt nhiên không khờ như cậu tưởng đâu?
- Thằng cha đê mạt thật.
Raxkonikov không nhịn được cười. Nhưng cũng lúc ấy chàng lấy làm lạ với lòng hăm hở và niềm thích thú của chàng trong lời giải thích vừa rồi: trước đó, chàng đã miễn cưỡng nói chuyện một cách chán ngán ủ ê, chỉ vì một mục đích nhất định và vì không có cách nào khác.
"Mình đã bắt đầu thú vị với một số điểm nào đấy rồi sao?" - chàng nghĩ thầm.
Nhưng hầu như ngay lúc ấy, chàng bỗng thấy bồn chồn tựa hồ một ý nghĩa bất ngờ và đượm lo âu vừa chợt đến với chàng. Cảm giác bồn chồn cứ lớn dần trong lòng chàng. Bấy giờ hai người đã đến trước cổng nhà trọ Bakaleyev.
- Cậu vào một mình đi, - Raxkonikov bỗng nói - mình sẽ trở lại ngay tức khắc.
- Cậu đi đâu? Đến nơi rồi còn gì?
- Mình có tí việc… cần phải làm… Nửa tiếng nữa mình sẽ trở lại… Vào nhà cậu cứ nói thế.
- Tuỳ cậu muốn làm gì thì làm chứ tớ sẽ đi với cậu!
- Sao, cậu cũng muốn hành hạ mình nữa - Chàng thét lên, giọng giận dữ, chua chát, ánh mắt tràn đầy tuyệt vọng, đến nỗi Razumikhin phải im bặt không dám cưỡng nữa. Anh đứng một lát trên bậc thềm, nhìn Raxkonikov đang bước nhanh về hướng nhà chàng. Rồi anh nghiến răng, nắm chặt tay lại và thề rằng ngày hôm ấy sẽ đến vắt Porfiri ra như một quả chanh, rồi leo lên gác để an ủi bà Punkheria Alekxandrovna đã bắt đầu lo lắng hoảng hốt vì mãi chưa thấy họ đến.
Khi Raxkonikov gần về đến nhà, thái dương chàng vã mồ hôi, chàng thở nặng nhọc. Chàng leo vội lên thang gác, vào căn buồng vẫn để ngỏ và móc ngay cửa lại. Rồi hoảng hốt và điên dại, chàng lao vào góc buồng chỗ có cái lỗ thủng trên giấy dán tường mà trước kia chàng đã dùng làm nơi giấu đồ đạc, thọc tay vào trong và thăm dò kỵ lưỡng lỗ giấu một lát, sờ sẫm tất cả các kẽ, các nếp của tấm gìấy. Không tìm thấy gì, chàng đứng dậy thở một hơi dài. Lúc nãy khi đến trước nhà Bakaeyev, chàng chợt nghĩ là một đồ vật nào đó, một sợi dây chuyền, một chiếc nhẫn, hoặc một mảnh giấy gói đồ có những giòng ghi chú viết tay của mụ già, rất có thể buột ra và lọt vào một kẽ hở nào chăng, rồi, sau nầy, bất thần lộ ra thành một tang chứng không sao chối cãi được.
Chàng đứng yên như đang trầm tư mặc tưởng, và một nụ cười kỳ lạ, tủi nhục, gần như điên rồ thoáng hiện trên môi chàng. Đoạn, chàng cầm lấy mũ và ra khỏi buồng. Ý nghĩ của chàng cứ rối tinh lên. Chàng bước xuống cầu thang và đi ra cổng vẻ tư lự.
- A, ông ta đây rồi! - một giọng ồm ồm kêu lên.
Chàng ngẩng đầu: người gác cổng đứng trên ngưỡng cứa buồng đang trỏ chàng cho một người thấp bé dáng dấp như một người tiểu thương. Người nầy mặc một chiếc áo dài và một chiếc gi-lê đứng xa trông như một mụ đàn bà nhà quê. Đầu hẩn đội một chiếc mũ cát-két cáu bẩn cúi xuống phía trước và cả người hắn trông như gù. Cứ nhìn bộ mặt hom hem và nhăn nheo của hắn, thì hắn cũng đã phải quá năm mươi, đôi mắt hắn nhỏ và hõm sâu vào trong hốc mắt, có một vẻ gì lầm lì, nghiêm nghị và bất mãn.
- Gì vậy? - vừa hỏi Raxkonikov vừa đi về phía người gác cổng.
Người lạ mặt gườm gườm liếc mắt nhìn chàng, chăm chú quan sát chàng một lát, không vội vã, đoạn chậm rãi quay lưng lại, và, không hé răng, hắn rời khỏi cổng đi ra đường.
- Có chuyện gì thế? - Raxkonikov quát lên.
- A đấy, có người đến hỏi thăm xem có một sinh viên trọ ở đây không, lão ta nói tên cậu và tên của bà chủ trọ ra. Vừa lúc ấy cậu đi xuống, tôi chỉ cậu, thế la lão ta bước. Cậu thấy đấy!
Người gác cổng cũng có vẻ hơi ngạc nhiên, song chỉ một tí thôi. Lão suy nghĩ thêm một lát rồi quay lưng lại và chui vào buồng.
Raxkonikov lao theo người lạ mặt và thấy ngay y đang đi dọc bờ đường bên kia, vẫn với bước chân đều đều chậm rãi, mắt dán xuống đất tựa như đang suy nghĩ điều gì. Chỉ một nhoáng sau chàng đuổi kịp, song cứ đi sau lưng y một lát. Cuối cùng chàng tiến lên ngang hàng và nhìn chéo sang mặt y. Người kia nhìn ra chàng ngay. Mắt hắn đưaq nhanh về phía chàng, nhưng rồi lại cúi xuống. Họ đi cạnh nhau như vậy trong khoảng một phút, không ai nói năng gì.
- Ông có hỏi tôi, nơi người gác cổng? - Cuối cùng Raxkonikov hỏi khẽ.
Người lạ mặt không đáp, cũng không nhìn chàng. Cả hai lại im lặng.
- Nầy, sao thế… Ông đến tìm tôi, sao bây giờ lại kín tiếng thế… thế nghĩa là thế nào? Giọng Raxkonikov đứt quãng, lời nói cứ nghẽn lại như không chịu ra khỏi cổ.
Lần nầy, người lạ mặt ngửng đầu lên và nhìn Raxkonikov với đôi mắt gườm gườm, hiểm độc.
- Quân giết người! - y bỗng nói, giọng rất khẽ nhưng rõ ràng và rành rọt
Raxkonikov đi bên cạnh y. Chân chàng bỗng mềm nhũn ra, sống lưng lạnh toát đi và tim như ngừng đập trong chốc lát, họ đi cạnh nhau như thế độ trăm bước, không nói với nhau một lời.
Người kia vẫn không nhìn chàng.
- Nhưng mà ông… sao… ai là kẻ giết người - Raxkonikov thì thầm rất khẽ.
- Chính mày là kẻ giết người, - người kia nói, - giọng càng rành rọt và càng rắn rỏi hơn. Rồi với một nụ cười hằn học và đắc thắng, hắn lại nhìn thẳng vào gương mặt tái nhợt và đôi mắt đờ đẫn ra của Raxkonikov. Họ ra đến một ngã tư đường. Người lạ mặt rẽ sang trái và đi thẳng không ngoái lại.
Raxkonikov đứng sững tại chỗ, mắt nhìn theo người kia một hồi lâu. Chàng thay người lạ mặt đi được dăm chục bước lại ngoảnh đi nhìn chàng vẫn đang đứng yên ở chỗ cũ. Đứng xa như thế không thể nào phân biệt được rõ, song Raxkonikov cũng có cảm giác như người lạ mặt lại nhìn chàng với nụ cười hằn học và đắc thắng lúc nãy.
Bước chậm chạp, lảo đảo trên đôi chân rã rời, Raxkonikov quay trở về và leo lên buồng, người lạnh toát Chàng bỏ mũ đặt lên bàn và đứng im cạnh bàn không nhúc nhích đến mười phút. Rồi, kiệt sức, chàng nằm lên đi-văng, và với một tiếng kêu khe khẽ, duỗi thẳng đôi chân đau như dần. Mắt chàng nhắm nghiền. Chàng nằm như vậy đến nửa tiếng.
Chàng không nghĩ gì hết. Chỉ một vài ý nghĩ hoặc vài mẩu ý nghĩ, những hình ảnh mơ hồ, hiện lên trong trí chàng không trật tự, không mạch lạc, những khuôn mặt mà chàng đã từng thấy xưa kia hồi còn thơ ấu hay đã gặp một lần đâu đó, và lâu nay chàng không bao giờ còn nhớ lại: cái gác chuông nhà thờ V…, một ván bi-a trong quán rượu, và cạnh bàn cờ một viên sĩ quan nào đó, một mùi thuốc xì-gà trong một hiệu bán thuốc lá ở tầng sâu dưới đất, một tiệm giải khát, một, cầu thang tối đen, nước bẩn chảy lênh láng vỏ trứng vứt bừa bãi, và xa xa, có tiếng chuông nhà thờ ngày chủ nhật từ đâu vọng lại. Những hình ánh đó kế tiếp theo nhau trong một cơn lốc quay cuồng. Cũng có một vài hình ảnh làm chàng thích thú và chàng cố cầm giữ lại, song nó lại tan đi, và có một cái gì ở bên trong đè lên bóng vía chàng, tuy không nặng nề lắm… Thỉnh thoảng chàng còn thấy dễ chịu nữa… cái cảm giác ớn lạnh vẫn chưa hết, nhưng hầu như đó cũng là một cảm giác dễ chịu.
Chợt nghe thấy bước chân vội và và giọng nói của Razumikhin, chàng nhắm mắt giả vờ ngủ. Razumikhin mở cửa và đứng một lúc trên ngưỡng cửa. Đoạn anh rón rén bước vào buồng và thận trọng đến cạnh đi-văng. Có tiếng Naxtaxia thì thầm:
- Đừng phá, để cho cậu ấy ngủ cho đẫy giấc đã, rồi sẽ ăn sau.
- Đúng đấy, - Razumikhin đáp.
Cả hai rón rén bước ra và đóng cửa lại. Nửa tiếng nữa trôi qua, Raxkonikov mở mắt ra vả lại duỗi thẳng người trên đi-văng, hai tay bắt chéo dưới đầu.
"Hắn là ai? Con người trồi từ dưới đất lên ấy là ai? Hắn ở đâu và hắn đã thấy được những gì? Hắn đã thấy hết, không còn nghi ngờ gì nữa? Vậy thì hắn đã nấp ở đâu và đứng ở đâu mà quan sát? Sao mãi đến bây giờ hắn mới lộ mặt? Hắn làm thế nào mà thấy được? Có thể nào như thế được chăng? Hừm! - Raxkonikov nghĩ tiếp, người rùng mình buốt lạnh, - và cái hộp tư trang mà Mikolai tìm thấy sau cánh cửa, lẽ nào lại có thể như vậy? Tang chứng? Chỉ một điểm cỏn con mà đem xét kỹ cũng có thể biến thành một tang chứng bằng cỡ cái kim tự tháp Ai-cập. Một con ruồi bay qua, và nó đã nhìn thấy. Có thế như thế được chăng?".
Chàng bỗng ngao ngán nhận thấy thể chất mình đã suy nhược quá đỗi.
"Lẽ ra mình phải biết trước như thế!" - chàng mỉm cười chua chát - mình cũng đã tiên cảm được tâm trạng của mình, thế thì làm sao mình lại dám cầm một cây rìu và nhúng tay vào máu? Lẽ ra mình phải biết trước chuyện đó mới phải… Ơ, nhưng mình đã biết trước rồi đấy chứ! - chàng thì thào, tuyệt vọng.
Đôi lúc chàng lại đứng sững lại trước một ý nghĩ: "Không, những con người ấy không phải được đúc nên như thế nầy. Người chúa tể thực sự, người được phép làm tất cả mọi việc, bắn phá Toulon, tổ chức một vụ thảm sát ở Paris, bỏ quên đạo quân của mình ở Ai Cập, tiêu phí một nửa triệu người trong chiến dịch Moskva và đánh trống lảng bằng một trò chơi chữ ở Vilna (1); con người đó, đến khi chết người ta dựng tượng cho nó, vậy nghĩa là, với nó, mọi việc đều được phép làm. Không, những con người đó có những tấm thân không phải bằng thịt mà bằng đồng!"
Một ý nghĩ khác ở ngoài lề bất chợt hiện đến, suýt làm cho chàng bật cười lên.
"Napoleon, Kim tự tháp, Waterloo, và một mụ già hom hem nhớp nhúa, vợ goá của một viên thư lại, một mụ chủ hiệu cầm đồ ty tiện có một cái rương bọc đỏ đút dưới giường thì có liên quan gì với nhau? Có ai nuốt trôi được chuyện nầy, ngay cả Porfiri Petrovich nữa?
Làm thế nào cho hắn tin được chuyện nầy? Mỹ học sẽ can thiệp vào đây: "Napoleon mà lại bò xuống dưới gầm giường "mụ già" ấy! Chà, chó má thật!"
Thỉnh thoảng chàng cảm thấy như mình đang mê sảng: chàng đã rơi vào tâm trạng khích động của người lên cơn sốt.
"Con mụ già ấy thì chẳng có nghĩa lý gì! - dòng tư tưởng của chàng cuồn cuộn lên từng đợt một - Mụ già ấy… được, thì cứ cho đó là một sai lầm mà vấn đề không phải ở cái mụ ấy! Mụ già chỉ là một cơn bệnh thôi, mình định vượt qua trở ngại thật nhanh… Không phải mình giết một mạng người; mình biết một nguyên lý; cái nguyên lý ấy thì mình đã giết được rồi, nhưng còn vượt qua thì mình chưa vượt được, mình vẫn còn đứng bên nầy… Mình chỉ mới giết được thôi. Mà ngay việc nầy cũng chưa biết cách làm nữa… Nguyên lý? Tại sao vừa qua cái thằng ngốc Razumikhin lại đi sỉ vả bọn xã hội? Họ là những kẻ cần cù, ham buôn ham bán, họ lo đến "cái hạnh phúc chung"… Không cuộc sống đến với tôi chỉ được sống có một lần thôi và không bao giờ trở lại nữa, tôi không muốn chờ đợi "cái hạnh phúc chung". Tôi muốn bản thân tôi sống, không thì thà đừng sống còn hơn. Còn sao nữa? Tôi chỉ không muốn đành lòng đi qua trước một bà mẹ đói khát mà cứ giữ chịt lấy đồng rúp trong túi để chờ đợi cái "hạnh phúc chung". Cứ nói là "Tôi góp một viên gạch vào hạnh phúc chung, cho nên tôi tìm thấy sự thanh thản trong tâm hồn". Ha ha. Vậy thì tại sao các người lại bỏ sót tôi? Đời tôi chỉ có một lần sống, tôi cũng muốn sống cuộc sống của tôi… Về mỹ học ta chỉ là một con rận, không có gì khác hơn - chàng bật cười lên như một thằng điên - Đúng, quá thật ta là một con rận - chàng nghĩ tiếp, bám lấy cái ý tưởng đó một cách hả hê, vùi đầu vào nó, mân mê nó, đùng nó làm trò tiêu khiển, - đúng thế, trước hết là bởi vì lúc nầy ta đang lập luận rằng ta là một con rận, sau nữa là bởi vì trong một tháng ròng ta đã quấy rầy đức Thượng để chí tôn, đã kêu gào người chứng giám cho rằng ta mưu đồ việc ấy không phải vì miếng da của ta, cũng không phải vì sở thích của ta mà vì ta theo đuổi mục đích tuyệt mỹ và cao quý, ha ha! Thứ ba nữa là bởi vì ta đã đặt ra nguyên tắc phải tiến hành công việc hết sức công mmh, phải cân nhắc nặng nhẹ, phải có mức độ và phải chính xác như số học trong tất cả những con rận sống trên thế gian, ta đã chọn con có hại nhất, và khi giết nó, ta đã đinh ninh tự chủ là chỉ lấy của nó vừa đủ chi dùng cho những bước đầu của ta thôi, không hơn không kém (còn lại thì cũng cho tu viện, theo lời di chúc của nó, ha ha). Ta đích thị là một con rận, - chàng nghiến răng kèn kẹt nghĩ tiếp - bởi vì có thể ta là một cái gì còn ti tiện, còn thối tha hơn cả con rận bị giết, bởi vì ta đã linh cảm trước là ta sẽ tự nói như vậy sau khi giết nó! Có gì so sánh được với nỗi khủng khiếp nầy? Ôi, đê tiện, hèn mạt! Ô, giờ ta mới thực hiểu đấng "tiên tri" (2) cười ngựa, vung gươm: Allah (3) đã phán truyền, hãy vâng mệnh và cúi đầu, hỡi "loài sâu bọ đang run rẩy kia!" Đấng "tiên tri" có lý lắm, khi ông ta đặt ở ngang đường mấy khẩu đội đại bác nh - thật cừ và nã vào cả người ngay lẫn kẻ ác (4) mà không thèm giải thích lấy một lời. Ấy vâng mệnh, bởi con sâu run rẩy kia, và đừng có ước muốn vì đó không phải là việc của mày. Ôi? Không đời nào, ta không đời nào có thể tha thứ cho mụ già ấy!
Tóc chàng bết mồ hôi, đôi môi run run của chàng khô nẻ, tia mắt đờ đẫn của chàng đọng lại trên trần nhà.
"Mẹ ta, em ta, ta yêu họ biết nhường nào! Vì đâu mà nay ta lại ghét họ? Phải, ta ghét họ, ta ghét họ với một cảm giác nhục thể và ta không thể chịu được khi họ ở cạnh ta. Lúc nầy ta đến gần mẹ và ôm hôn mẹ, ta còn nhớ ôm hôn mẹ mà lại nghĩ là nếu mẹ biết. Lúc ấy ta có thể nói chuyện đó với mẹ chăng?
Cái đó chỉ tuỳ ở ta thôi… Hừm. Mụ ấy chắc phải y như ta, chàng cô tập trung tư tưởng nghĩ tiếp dường như đang vật lộn với cơn mê sảng đang tràn dần vào người chàng… - Ôi! giờ đây ta mới căm con mụ ấy làm sao! Mụ già? Hẳn là ta sẽ giết hắn một lần nữa nếu hắn sống lại. Tội nghiệp mụ Lizaveta! Sao mụ ta lại về vào lúc ấy? Mà kể cũng lạ thật sao mình lại hầu như không hề nghĩ đến mụ ta thế nhỉ, cứ như thể mình không giết mụ ta ấy Lizaveta. Sonya! Những con người thật đáng thương, thật hiền lành, có đôi mắt dịu dàng Họ đáng mến quá? Sao họ lại không khóc? Sao họ lại không rên rỉ? Họ hy sinh tất cả… họ có một cái nhìn trầm lặng và dỉu dàng… Sonya, Sonya, Sonya dịu hiền!"
Chàng mê man đi; chàng cũng tự lấy làm lạ không nhớ tại sao bỗng dưng lại thấy mình đứng ngoài đường.
Chiều đã xuống. Bóng tối dần dần dày đặc, ánh trăng rằm mỗi lúc một sáng hơn, song khi trời lại ngột ngạt khác thường. Ngoài đường người qua lại đông đúc, nào là thợ thuyền, nào là những người đi làm công đang đi về nhà, nào là những kẻ đi dạo; không khí phảng phất mùi vôi, mùi bụi, mùi nước đọng. Raxkonikov bước đi, buồn bã lo âu: chàng nhớ rất rõ là mình ra khỏi nhà với một ý định nào đấy, mình có một việc gì phải làm gấp, song đích xác việc gì thì chàng quên mất. Chợt chàng dừng lại và thấy bên kia đường, trên vỉa hè có một người đang vẫy tay ra hiệu cho chàng. Chàng băng qua đường đi về phía người kia, nhưng hắn bỗng quay ngoắt lại bỏ đi thẳng dường như không có chuyện gì xảy ra cả, đầu cúi gằm, không ngoái nhìn lại phía sau không có vẻ gì là vừa ra hiệu gọi Raxkonikov cả. "Kìa hay chưa có thực là hắn gọi mình không? - Raxkonikov tự hỏi, tuy nhiên chàng cũng cứ bước theo.
Chàng đi chưa được mươi bước, bỗng nhận ra được hắn và choáng người đi: chính là lão lái buôn lúc nãy, vẫn mặc cái áo dài ấy, vẫn cái lưng gù ấy. Raxkonikov theo hắn cách một quãng xa xa, trống ngực đập thình thình hai người rẽ vào một ngõ hẻm, người lạ mặt vẫn không hề ngoảnh lại. "Hắn có biết là mình đi theo hắn không?" - Raxkonikov nghĩ thầm. Người lạ mặt đi vào cổng một toà nhà lớn. Raxkonikov bước nhanh đến cổng và đưa mắt nhìn xem lão kia có ngoảnh lại nhìn hoặc gọi mình không. Quả thật khi hắn qua hết vòm cổng, vào đến trong sân, bèn quay phắt người lại và dường như vậy tay ra hiệu cho chàng: Raxkonikov liền đi vào cổng, nhưng vào đến sân thì không thấy người kia đâu nữa. Thế nghĩa là hắn đã lên cầu thang gác đầu tiên bên phải. Raxkonikov lao theo. Quả nhiên từ hai tầng gác trên còn nghe thấy tiếng chân bước thong thả và đều đều. Kỳ lạ thay, cái cầu thang trông như quen quen. Đây là chiếc cửa sổ ở tầng thứ nhất: ánh trăng dọi qua tấm cửa kính, buồn bã và huyền bí; và đây là tầng hai. Kìa, đây chính là căn buồng những người thợ sơn làm việc. Sao chàng lại không nhận ra ngay nhỉ? Những bước chân của người đi trước chàng im bặt.
"Thế tức là hắn đã dừng lại hoặc nấp ở đâu đây". Và đây là tầng thứ ba; có nên lên nữa chăng? Xung quanh im lặng quá; chàng thấy rờn rợn. Nhưng rồi chàng vẫn cứ bước lên. Tiếng bước chân của chính chàng làm cho chàng sợ hãi và lo lắng. Trời ơi, sao tối om thế nầy? Người lạ mặt chắc là nấp trong một xó nào gần đâu đấy. A! Cửa buồng trông ra cầu thang mở rộng!
Chàng suy nghĩ một lát, rồi bước vào. Phòng ngoài tối om và vắng tanh, không một bóng người, không một đồ vật, tuồng như người ta đã dọn đi hết. Chàng rón rén bước vào phòng khách, khắp căn phòng ngập trong ánh trăng vằng vặc, mọi vật đều vẫn y nguyên như cũ: mấy chiếc ghế dựa, tấm gương, chiếc đi-văng vàng và những bức tranh đóng khung. Trăng rằm như một quả cầu bằng đồng đỏ đồ sộ nhìn vào cửa sổ. "Chính vì ánh trăng cho nên mới im lặng quá thế nầy, - Raxkonikov thầm nghĩ - chắc là trăng đang gỡ mối một điều bí ẩn gì đây" Chàng dừng lại, đợi chờ; chàng đợi hồi lâu, và vầng trăng càng yên tĩnh bao nhiêu thì tim chàng càng đập mạnh bấy nhiêu, đến nỗi ngực chàng đau nhói lên.
Xung quanh vẫn im phăng phắc. Bỗng một tiếng rắc khô và gọn vang lên, tựa như có ai bẻ một nhánh củi, rồi mọi vật lại chìm vào im lặng. Một con ruồi thức giấc bay lên đâm vào tấm cửa kính và vo ve rền rĩ.
Ngay lúc ấy trong góc, giữa chiếc tủ con và khung cửa sổ, chàng trông thấy cái gì như một chiếc áo choàng phụ nữ treo trên tường. "Sao lại có một chiếc áo choàng ở đây? - chàng nghĩ - Trước kia có đâu?" Chàng bước rất khẽ lại gần và đoán ra rằng có ai đang nấp ở phía sau chàng. Chàng thận trọng giơ tay vén chiếc áo choàng lên thì thấy có một chiếc ghế dựa, và trên ghế một mụ già đang ngồi, người gập hẳn lại, đầu cúi gằm nên chàng không trông thấy mặt nhưng đó chính là mụ ta.
Raxkonikov đứng nhìn mụ một lảt. "Mụ ta sợ", chàng nghĩ, đoạn từ từ rút rìu ra khỏi quai và giáng lên đỉnh sọ mụ già một nhát, rồi một nhát nữa. Nhưng, lạ hay, bị mấy nhát rìu mà mụ cũng không hề nhúc nhích, tưởng chừng như người mụ làm bằng gỗ. Chàng đâm hoảng, cúi gầm gần hơn để nhìn cho kỹ, nhưng đầu mụ lại càng gục thấp xuống. Chàng cúi rạp xuống sát sàn nhà để nhìn mặt mụ từ dưới lên: chàng nhìn mụ già và chết khiếp đi. Mụ già đang ngồi cười nhăn nhở, một trận cười im lặng mà mụ cố giữ hết sức đừng vang lên thành tiếng để chàng khỏi nghe thấy. Bỗng nhiên chàng thấy như cửa buồng ngủ hé mở và ở bên kia cũng có ai cười nói thì thầm. Chàng như điên như dại, lấy hết sức giáng rìu vào đầu mụ ta, song mỗi nhát rìu giáng xuống thì tiếng cười và tiếng thì thầm lại mỗi lúc một to và rõ thêm; còn mụ già thì rũ ra cười ngặt nghẽo. Chàng toan chạy trốn, nhưng phòng ngoài đã đông nghịt những người, cánh cửa cầu, thang đã mở toang và ở đầu cầu thang, dọc các bậc cấp, từ trên xuống dưới lố nhố những người, chỉ thấy lúc nhúc những đầu là đầu. Mọi người đều nhìn chàng, nhưng lại tìm cách giấu mặt và nín lặng chờ đợi… Tim chàng thắt lại, chân chàng không nhấc lên được, tưởng như đã bắt rễ xuống. Chàng muốn kêu lên một tiếng… và tỉnh dậy.
Chàng khó nhọc thở ra một hơi dài, nhưng lạ thay, giấc mơ tuồng như vẫn tiếp diễn: cửa buồng chàng mở rộng và một người chàng không hề quen biết đang đứng trên ngưỡng cửa chăm chú nhìn chàng.
Raxkonikov chưa kịp mở hẳn mắt ra đã vội nhắm ngay lại. Chàng nằm dán sát xuống đi-văng không cựa quậy: "Có phải giấc mơ của mình tiếp diễn hay không?" chàng tự nhủ vả lại khẽ hé mi mắt ra liếc nhìn: người lạ mặt vẫn đứng nguyên chỗ cũ và tiếp tục nhìn chàng.
Bỗng hắn dè dặt bước qua ngưỡng cửa, khép cửa cẩn thận, tiến lại gần bàn, đợi một lát, mắt vẫn không rời Raxkonikov rồi từ từ, nhè nhẹ ngồi lên chiếc ghế dựa trước bàn, cạnh đi-văng. Hắn đặt mũ xuống sàn nhà, cạnh hắn, hai bàn tay đè lên đầu gậy và tỳ cằm lên bàn tay. Rõ ràng là hắn chuẩn bị chờ đợi lâu. Qua đôi mi he hé mở, Raxkonikov thấy người kia hình như cũng đã đứng tuổi; khổ người chắc nịch, mặt để một bộ râu rậm màu hoe nhạt gần như bạc.
Mười phút trôi qua. Trời còn sáng, nhưng chiều đang xuống dần. Trong buồng im phăng phắc. Từ dưới cầu thang cũng không có một tiếng động khẽ nào vọng lên. Chỉ có tiếng vo ve của một con nhặng to, bay loạng choạng húc vào cửa kính. Cuối cùng, tình huống nầy không sao chịu được nữa. Raxkonikov bỗng vùng dậy và ngồi lên đi-văng.
- Nào, nói đi, ông muốn gì?
- À tôi đã biết mà: ông không ngủ mà chỉ giả vờ ngủ thôi, - người lạ mặt buông một câu trả lời kỳ quặc và điềm nhiên cất tiếng cười.
- Xin phép ông được tự giới thiệu: Arkadi Ivanovich Xvidrigailov.

Chú thích:
(1) Đoạn nầy nhắc tới những hành động của Napoleon
(2) Tức Mohammet Hồi giáo
(3) Thượng đế của Hồi giáo
(4) Ám chỉ một hành động của Napoleon năm 1791
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #2  
Old 09-09-2012, 02:33 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Tội ác và sự trừng phạt - Phần 4 - Chương 19,20,21

TỘI ÁC VÀ SỰ TRỪNG PHẠT


Phần IV

Chương 19


Phải chăng giấc chiêm bao vẫn tiếp tục? - Raxkonikov tự hỏi một lần nữa. Chàng đưa mắt ngờ vực và e dè nhìn người khách bất ngờ.
- Xvidrigailov? Vô lý! Làm gì có chuyện ấy! - cuối cùng chàng ngỡ ngàng nói to lên.
Hình như khách không mảy may lấy làm lạ vì mấy câu chàng vừa thốt ra.
- Tôi đến gặp ông có hai mục đích: trước hết tôi muốn được làm quen với ông, vì từ lâu tôi đã được nghe nói về ông nhiều điều rất lý thú và rất vinh hạnh cho ông; thứ đến, tôi mong rằng ông sẽ vui lòng giúp tôi một việc có liên quan trực tiếp đến quyền lợi của em gái ông, Avdotia Romanovna. Nếu tôi cứ thế nầy đến gặp, không có ai gửi gắm gì, thì do một thành kiến cũ, thậm chí tiểu thư cũng không cho tôi vào sân nữa, còn được ông giúp cho thì ngược lại, tôi hy vọng rằng…
- Ông hy vọng hão rồi, - Raxkonikov ngắt lời.
- Xin hỏi, phu nhân và tiểu thư mới lên hôm qua phải không ạ.
Raxkonikov không đáp.
- Hôm qua, tôi biết. Chính tôi cũng mới đến đây được ba hôm nay. Rodion Romanovich ạ, về việc nầy tôi xin nói với ông như sau, tôi không thấy cần phải tự thanh minh, nhưng cũng xin phép hỏi ông câu nầy: thật ra trong tất cả câu chuyện đó, tôi có làm điều gì đặc biệt tội lỗi không, nghĩ là nói một cách không có định kiến gì, chỉ phán đoán theo lương tri?
Raxkonikov vẫn im lặng nhìn hắn.
- Tôi có đeo đuổi một người thiếu nữ không nơi nương tựa, ngay trong nhà tôi, và đã "đưa những lời rủ rê bỉ ổi xúc phạm đến nàng" chứ gì? (Đấy, tôi tự buộc tội trước rồi đấy!) Nhưng chỉ xem ông thử nghĩ rằng tôi cũng là một con người, et nihil humanum(1). Nói tóm lại, tôi cũng có thể bị sa ngã và đem lòng yêu dấu (cái nầy lẽ dĩ nhiên ý chí của ta không thể can thiệp vào được), đấy chỉ xin ông nghĩ cho như vậy là có thể lý giải được mọi việc một cách hết sức tự nhiên. Vấn đề chung quy như sau; tôi là một con quái vật hay chỉ là một nạn nhân? Ấy, nếu tôi là nạn nhân thì sao? Vì trong khi bàn với người tôi yêu đi trốn sang Mỹ hay sang Thuỵ Sĩ có thể là tôi vẫn ấp ủ những tình cảm hết sức tôn quý, lại còn nghĩ đến việc xây đắp hạnh phúc cho cả hai người nữa! Lý trí vốn phụng sự cho tình cảm mà; có lẽ kẻ bị tôi làm hại nhiều hơn cả lại chính là tôi cùng nên, xin ông tin cho như vậy!
- Nhưng vấn đề hoàn toàn không phải ở chỗ ấy! - Raxkonikov bực bội ngắt lời, - chẳng qua ông là một người ghê tởm. Ông đúng hay không đúng cũng thế thôi, cho nên người ta không thèm nhìn mặt ông, người ta xua đuổi ông, thế thì ông bước đi…
Xvidrigailov bỗng cười phá lên.
- Ông nầy thật… thật khó chơi với ông lắm. - hắn vừa nói vừa cất tiếng cười hết sức thẳng thắn, - tôi cũng định mưu mẹo một tí, nhưng ông lại xoáy ngay vào điểm chính.
- Thì ngay khi nói thế ông vẫn mưu mẹo đấy thôi?
- Sao ạ? Sao ạ - Xvidrigailov vừa nhắc đi nhắc lại vừa cười ha hả - thế nầy thì thật là bonne guerre (2) như người ta thường nói, và mưu mẹo của tôi quả cũng là loại mưu mẹo có thể dung thứ được lắm! Nhưng ông cho tôi nói nốt đã; dù sao tôi cũng xin khẳng định lại rằng giá không có câu chuyện xảy ra trong vườn thì sẽ không có gì rầy rà hết. Marfa Petrovna…
- Nghe nói ông cũng đã cho Marfa Petrovna về bên kia thế giới rồi thì phải? - Raxkonikov ngắt lời một cách thô bạo.
- Ông cùng có nghe nói việc nầy à? Mà không nghe sao được… ấy, về câu hỏi nầy quả tình tôi không biết nói sao, tuy lương tâm tôi hoàn toàn trong sạch trong việc nầy. Nghĩa là xin ông chớ nghĩ rằng tôi sợ lôi thôi nầy nọ, mọi việc đều xảy ra một cách bình thường và đúng lẽ: cuộc điều tra y tế chỉ phát hiện ra rằng đây là một cơn động kinh xảy ra vì mới ăn no và uống đến gần một chai rượu vang mà đã đi tắm ngay, ngoài ra không phát hiện được chút gì thêm nữa… Không ạ, đây, trong một thời gian, nhất là trong khi ngồi trên toa xe lửa lên đây, tôi có nghĩ thế nầy: có phải tôi đã có góp phần vào cái… tai nạn nầy không, vì tôi đã làm cho bà ta bị kích thích về tinh thần hay một cái gì như vậy? Nhưng tôi đã đi đến kết luận rằng chắc chắn không thể như vậy được.
Raxkonikov bật cười.
- Việc gì ông phải lo!
- Sao ông lại cười? Ông thử nghĩ xem: tôi đánh có hai roi nhẹ, thậm chí cũng không có lằn nữa… Xin ông đừng cho tôi là vô sỉ; tôi cũng biết rõ tôi làm như vậy là rất bỉ ổi, vân vân; nhưng tôi cũng biết chắc rằng Marfa Petrovna có lẽ cũng lấy làm hài lòng về sự… có thể nói là sự khiếm nhã của tôi. Câu chuyện về em ông đã được khai thác hết nước hết cái. Marfa Petrovna đã phải ngồi nhà đến ba ngày rồi; không còn chuyện gì để mà đem rêu rao trên phố nữa, vả lại bà ta đã làm mọi người phát chán với bức thư ấy rồi (chắc ông đã nghe nói chuyện đọc thư rồi chứ?). Và bỗng nhiên có hai nhát roi ấy như từ trên trời giáng xuống… Trước hết bà ta sai thắng xe, ngựa… ấy là tôi chưa nói đến những trường hợp đàn bà họ rất thích chí khi bị lăng nhục, tuy bề ngoài tỏ ra phẫn uất. Những trường hợp như vậy thì ai cũng có; thậm chí con người ta còn rất thích, rất thích bị lăng nhục nữa, ông có nhận thấy thế không? Nhưng nhất là đàn bà, thậm chỉ có thể nói họ chỉ biết lấy thế làm vui thôi.
Có lúc Raxkoniko đã toan đứng dậy bỏ đi để chấm dứt cuộc gặp gỡ nầy. Nhưng chàng chợt thấy tò mò thế nào ấy, và dường như còn muốn trù tính điều gì nữa, nên lại ngồi yên.
- Ông thích đánh đập lắm à? - chàng hỏi, giọng lơ đãng.
- Không, không thích lắm, - Xvidrigailov điềm nhiên đáp. - Còn như Marfa Petrovna với tôi thì hầu như không bao giờ đánh nhau. Chúng tôi ăn ở với nhau khá hoà thuận và xưa nay bà ta vẫn hài lòng về tôi. Suốt bảy năm trời chung sống tôi chi dùng roi có hai lần (nếu chưa kể một lần thứ ba nữa, nhưng trường hợp nầy lại hơi khó phân xử): lần thứ nhất là hai tháng sau khi cưới, ngay khi vừa về làng, và lần cuối cùng là lần vừa rồi. Chắc ông đã nghĩ tôi là một quái vật, một kẻ thoái hoá, một tên bạo chúa? Hê - hê hê - hê… À nầy, Rodion Romanovich, chắc ông còn nhớ cách đây mấy năm, từ dạo có những lời "sấm truyền ân đức", công chúng và báo chí đã sỉ nhục một anh chàng quý tộc - tôi quên mất tên - dùng roi đánh một mụ người Đức trong toa xe lửa. Ông còn nhớ không? Dạo ấy, hình như đúng vào năm ấy lại xảy ra cái "hành động quái gở của báo Thế kỷ" (ấy, buổi ngâm bài "Đêm Ai-cập" trước công chúng ấy mà, ông nhớ không?) Đôi mắt đen ấy mà, ôi, thời thanh xuân rực rỡ nay còn đâu! Đấy, ý tôi là thế nầy: tôi hoàn toàn không tán đồng cái ông đã đánh mụ người Đức, bởi vì thật ra không có gì… mà tán đồng! Tuy vậy tôi cũng không thể không tuyên bố rằng đôi khi cũng có những "mụ người Đức" làm mình ngứa chân, ngứa tay đến nỗi tôi thiết tưởng không có một người nào, dù tiến bộ đến đâu chăng nữa, lại dám tin chắc mười phần là mình có thể tự chủ được. Dạo ấy không ai nhìn sự việc cho quan điểm ấy, thế mà đây mới chính là một quan điểm nhân đạo, đung thế đấy.
Nói xong, Xvidrigailov đột nhiên cười phá lên. Raxkonikov thấy rõ ngay rằng con người nầy có một chủ định gì dứt khoát trong đầu óc.
- Chắc ông đã mấy ngày liền không nói chuyện với ai? - chàng hỏi.
- Gần như thế. Sao, chắc ông ngạc nhiên khi thấy tôi dễ dãi?
- Không, tôi ngạc nhiên vì thấy ông dễ dãi quá mức kia.
- Vì tôi không mếch lòng trước những câu hỏi thô bỉ của ông chứ gì? Phải thế không? Nhưng… mếch lòng cái gì? Ông hỏi thế nào thì tôi cũng trả lời thế ấy - hắn nói thêm, vẻ chất phác lạ lùng. - Vì tôi hầu như không quan tâm đặc biệt đến một cái gì cả, - hắn nói tiếp, vẻ như trầm ngâm. - Nhất là bây giờ, tôi không có việc gì bận tâm… Vả chăng, ông cũng có quyền nghĩ rằng tôi muốn gây thiện cảm của ông, nhất là vì tôi đang có việc dính dáng đến lm gái ông, như chính tôi đã nói rõ. Nhưng tôi xin nói thật, buồn lắm! Nhất là ba ngày nay, thành thử tôi còn lấy làm mừng được gặp ông nữa… tôi nói thế nầy ông đừng giận. Rodion Romanovich ạ, chính ông tôi trông cùng kỳ quái lắm, chẳng hiểu tại sao. Cũng tùy ông muốn nghi sao thì nghĩ, nhưng hiện nay ở ông to một cái gì đấy không riêng giây phút nầy nầy mà nói chung hiện nay… ấy. Ấy thôi, tôi xin thôi, ông đừng nhăn mặt! Tôi không đến nỗi là con gấu như ông tưởng đâu!
Raxkonikov, gườm gườm nhìn hắn.
- Có lẽ ông cũng chẳng phải là một con gấu. - chàng nói. - Tôi có cảm tưởng ông là người lịch thiệp hay ít nhất khi cần ông cũng biết tỏ ra mình là người tử tế.
- Nhưng tôi có quan tâm gì mấy đến cảm tưởng của ai về tôi đâu. - Xvidrigailov đáp xẵng, giọng hầu như có vẻ khinh bỉ nữa, - cho nên tôi tự hỏi tại sao lại không làm một kẻ hạ lưu: ở khí hậu ta khoác áo hạ lưu cũng thoái mái lắm và, nhất là nếu mình có xu hướng tự nhiên về phía đó - hắn nói thêm đoạn lại cười ha hả.
- Song tôi nghe nói là ở đây ông có nhiều người quen. Vì ông cũng có "ít nhiều thần thế" như người ta thường nói. Nếu vậy thì ông đến tôi để làm gì, nếu không có những mục đích nhất định?
- Ông nói đúng đấy, quá tôi có nhiều người quen, Xvidrigailov tiếp, không trả lời vào điểm chính, - tôi cũng có gặp họ; chả là tôi lang thang ở đây đã ba ngày nay rồi; tôi nhận ra họ, và hình như họ cũng nhận ra tôi. Tôi ăn mặc cũng tươm tất và cũng được xem là một người có máu mặt. Cuộc cải cách điền địa không động chạm gì đến nhà tôi: đất của tôi toàn là rừng và đồng cỏ nuôi gia súc, thu nhập không hề mất chút nào; nhưng… tôi không tìm đến họ; trước đây tôi cũng đã chán ngấy: tôi đến đã ba hôm nay mà vẫn không chào hỏi ai hết… Lại cái thành phổ nầy nữa! Không biết nó cấu tạo theo cái kiểu gì. Ông thử nói tôi nghe xem! Thành phố của bọn thư lại và đủ các loại thầy dòng (3)! Quả trước kia ở đây tôi cũng không nhận xét được nhiều, tám năm trước đây, khi tôi còn chơi bời ở đây. Bây giờ thì tôi chỉ còn mong vào giải phẫu nữa thôi, thật đấy!
- Giải phẫu thế nào?
- Còn về những thứ câu lạc bộ, những tiệm ăn Dussaud, những sòng bi-a và những thứ gọi là tiến bộ của các ông thì thôi, không có tôi ở đây cũng được, - hắn nói tiếp, không để ý đến câu hỏi của Raxkonikov. - Vả lại hơi đâu đi làm cờ bạc bịp mãi?
- Thế ông cũng đã làm cờ bạc bịp đấy à?
- Không thì biết làm thế nào? Chúng tôi có cả một công ty toàn người rất tử tế cả, cách đây tám năm; chúng tôi chơi cho qua thì giờ; ông ạ, toàn những người lịch thiệp, có cả những nhà thơ, nhưng nhà tư bản. Mà nói chung trong xã hội Nga chúng ta thì những kẻ lưu manh lại là những kẻ lịch thiệp nhất - Ông có để ý thấy không? Và ở nông thôn tôi mới đổ đốn ra như thế nầy. Thế nhưng dạo ấy tôi cũng suýt đi tù vì nợ một thằng cha người Hy-lạp ở Niegan. Đến đây Marfa Petrovna xuất hiện, bà ta thương lượng mặc cả với họ rồi chuộc tôi với số tiền ba vạn rúp (Tôi nợ cả thảy bảy vạn). Chúng tôi cưới nhau và bà ta lập tức chở tôi về làng như chở một kho tàng. Bà ta hơn tôi năm tuổi. Yêu tôi lắm. Bảy năm tôi không ra khỏi làng. Và xin ông lưu ý cho rằng suốt đời bà ta cứ giữ cái tờ biên lai ba vạn rúp ấy để đối phó với tôi, thành thử hễ tôi có ý nho nhoe gì một chút là bà ta lập tức cùm tôi lại! Bà ta không từ đâu? Đàn bà là họ kết hợp được tất cả các thứ đó ở trong người.
- Thế giá không có tờ giấy kia, ông sẽ chuồn chứ?
- Tôi không biết nói với ông thế nào đây? Tờ giấy ấy hầu như không bó buộc gì tôi cả. Tôi chẳng muốn đi đâu và chính bà Marfa Petrovna đã hai lần bàn với tôi đi du lịch ra nước ngoài khi thấy tôi buồn chán! Thế cơ đấy! Trước kia tôi cùng có ra nước ngoài, và lần nào tôi cũng phát buồn nôn lên. Cũng không hẳn như thế, nhưng trông thấy những buổi bình mình trên vịnh Napoli, nhìn mặt bể mà buồn buồn thế nào ấy. Khó chịu hơn cả là tự dưng có một cái gì làm cho mình buồn thật? Không, ở trong nước vẫn hơn: ở đây ít nhất chuyện gì cũng có thể đổ lỗi cho kẻ khác và tự thanh minh cho mình. Có lẽ bây giờ đây tôi sẽ sẵn lòng đi thám hiểm Bắc cực, vì J'ai le vin mauvais (4), tôi ghét uống rượu lắm, mà ngoài rượu ra thì không còn cách gì nữa. Tôi đã thử. À nầy, nghe nói chủ nhật nầy Berg sẽ biểu diễn bay trên một quả khinh khí cầu rất lớn ở vườn Yuxupov, ai muốn cùng đi chỉ phải trả một số tiền nào đó phải không?
- Sao, ông muốn bay à?
- Tôi ấy à? không… là nói thế… - Xvidrigailov lắp bắp, vẻ đăm chiêu.
"Thật ra hắn muốn cái gì thế không biết" - Raxkonikov tự hỏi.
- Không, tờ giấy ấy không bó buộc tôi, - Xvidrigailov trầm ngâm nói tiếp, - tôi không ra khỏi làng là tự ý tôi. Hơn nữa, cách đây gần một năm, nhân ngày lễ thánh của tôi. Marfa Petrovna đã trao lại tờ giấy cho tôi, lại còn biếu thêm một số tiền khá lớn. Chả bà ấy có một số vốn. "Arkadi Ivanovich, ông thấy tôi tin ông đến thế nào, - Phải, bà ta nói thế đấy! Ông không tin bà ta nói thế à? Ông nên biết là tôi đã trở thành một vị điền chủ khá giỏi giang ở trong các làng quanh vùng người ta biết tôi cả. Tôi lại còn đặt mua sách về nữa. Lúc đầu Marfa Petrovna khuyên khích tôi, nhưng rồi lại sợ tôi đọc nhiều quá mụ người đi.
Hình như bây giờ không có Marfa Petrovna, ông buồn lắm thì phải?
- Tôi ấy à? Có lẽ, có lẽ đúng đấy. À nhân thể… ông có tin ma không?
- Ma gì?
- Ma ấy mà, ma thông thường ấy chứ còn ma gì?
- Thế ông tin à?
- Cũng tin mà cũng không, pour vous phaire (5)… Nghĩa là không hẳn là không…
- Ông có trông thấy hay sao?
Xvidrigailov nhìn chàng, và trong khóe mắt hắn có một cái gì kỳ quái:
- Marfa Petrovna có nhã ý trở về thăm tôi, - hắn nói, mồm méo xệch thành một nụ cười kỳ đị.
- Thăm ông là thế nào?
- Về ba lần rồi. Lân thứ nhất tôi trông thấy bà đúng hôm chôn cất, một giờ sau khi tôi ở nghĩa địa về. Đấy là một hóm trước khi tôi lên đường đến đây, lần thứ hai là hôm kia, ở dọc đường, lúc rạng đông, ở ga MalayaViesta, còn lần thứ ba thì cách đây hai tiếng, trong phòng trọ của tôi; lúc ấy trong phòng chỉ có mình tôi
- Trong khi ông thức à?
- Thức. Cả ba lần tôi đều đang thức cả. Bà ta đến, nói chuyện một lát rồi đi ra cửa. Hình như tôi còn nghe cả tiếng chân của bà ấy nữa.
- Không hiểu sao tôi cũng nghĩ là thế nào ông cũng phải gặp những chuyện như thế! - Raxkonikov bỗng thốt ra và lập tức lấy làm lạ về điều mình vừa nói. Chàng đang xúc động mạnh.
- Thế à? Ông nghĩ như thế à? - Xvidrigailov ngạc nhiên hỏi, - Thật thế đấy, tôi đã bảo là giữa hai chúng ta có một điểm gì giống nhau mà.
- Ông chưa hề nói như thế bao giờ! - Raxkonikov đáp xẵng, giọng tức tối.
- Tôi chưa nói?
- Chưa!
- Thế mà tôi cứ ngỡ là có nói rồi. Lúc nãy khi tôi vào thấy ông nằm nhắm mắt giả vờ ngù, tôi đã tự nhủ: "Đúng hắn đây rồi"
- Đúng hắn đây rồi là thế nào? Ông muốn ám chỉ gì? - Raxkonikov quát lên.
- Ám chỉ cái gì ấy à? Quả tôi cũng không biết là cái gì… - Xvidrigailov lúng túng, vẻ thật thà và hình như còn bối rối nữa, hai người im lặng một lát, giương mắt nhìn nhau.
- Thật là vớ vẩn! - Raxkonikov bực bội kêu lên. - Thế những khi bà ấy đến, bà ấy nói với ông những gì?
- Bà nhà tôi ấy à? Ông thử tưởng tượng xem, nói toàn những chuyện vặt vãnh; con người ta kể cũng lạ thật: tôi lại còn nổi giận lên nữa chứ. Lần thứ nhất bà ấy vào (hôm ấy tôi mệt lắm ông ạ: lễ cầu hồn, rồi kinh yên nghỉ, rồi đưa đám, rồi tiệc tang, xong xuôi đâu đấy tôi mới về buồng làm việc ngồi một mình suy nghĩ) bà ấy bước vào cửa nói: "Ông Arkadi Ivanovich ạ, hôm nay ông bận rộn quá quên lên dây đồng hồ ở phòng ăn rồi đấy". Quả nhiên suốt bảy năm nay, tuần nào tôi cũng lên đây đồng hồ lấy, và mỗi khi tôi quên bà ấy lại nhắc.
Hôm sau tôi lên đường đi Petersburg. Lúc ấy vào khoảng rạng đông, tôi vào ga - suốt đêm qua tôi chỉ ngủ gà, ngủ vịt, mỏi rã rời ra, mắt sưng húp, - tôi gọi cà-phê; chợt thấy Marfa Petrovna đến ngồi cạnh tôi, tay cầm một cỗ bài. "Arkadi Ivanovich ạ, tôi bói cho ông một quẻ xem đi đường có bình an không nhé? Bà ta vốn bói bài rất nghiệm. Tiếc quá, sao lúc ấy tôi lại không bảo bà ta bói cho kia chứ! Tôi hoàng hốt bỏ chạy. Vừa may lúc ấy chuông nhà ga cùng réo lên báo giờ tàu chuyển bánh. Hôm nay vừa ăn trưa xong, một bữa ăn rất tồi tệ mang ở hiệu về, bụng nặng trịch, tôi đang ngồi hút thuốc bỗng thấy Marfa Petrovna vào, trang phục rất chững chạc, mình mặc một chiếc áo dài lụa xanh đuôi dài lướt thướt: "Chào ông Arkadi Ivanovich! Ông thấy chiếc áo nầy thế nào? Amxka cũng không may khéo được thế nầy đâu (Amxka là cô thợ khâu của chúng tôi ở trong làng, xưa vốn là nông nô, có đi học may ở Moskva về; cô bé kháu đáo để)
Marfa Petrovna quay người cho tôi ngắm. Tôi ngắm chiếc áo, rồi nhìn kỹ mặt bà ta, tôi nói: "Marfa Petrovna, chỉ có những chuyện vậy ấy mà bà cũng cất công đến nói với tôi làm gì" - "Ô trời ơi, đến quấy rầy ông cũng không được nữa sao!" Tôi trêu tức: Marfa Petrovna ạ, tôi muốn lấy vợ - "Cái đó thì tuỳ ông thôi. Arkadi Ivanovich ạ; mồ vợ chưa xanh có mà ông đã đi lấy vợ khác ngay thì cũng chẳng có gì vinh hạnh lắm đâu. Và dù ông có chọn được người tốt chăng nữa, tôi cũng biết rằng cả người ấy lẫn ông rồi cũng chẳng ra gì, chỉ tổ làm trò cười cho thiên hạ thôi". Nói đoạn bà ta đi ra và tôi ngỡ chừng như nghe tiếng đuôi áo sột soạt trên sàn. Vô lý thật, phải không?
- Nhưng cũng có thể nãy giờ ông nói dối suốt - Raxkonikov nói.
- Tôi ít khi nói dối, - Xvidrigailov đáp, vẻ trầm ngâm và dường như không để ý đến cái giọng thô lỗ của câu hỏi.
- Thế trước đây ông không bao giờ thấy ma à?
- Có chứ, chỉ thấy một lần thôi cách đây sáu năm. Tôi có thằng gia nô tên là Finka; hắn chết vừa mới chôn xong, thế nhưng tôi quên mất, cứ gọi theo thói quen: "Finka: tẩu đâu!", thế là hắn bước vào và đi thẳng đến cái tủ để cái tẩu của tôi. Tôi ngồi nghĩ: "Hắn trả thù mình đây", vì ngay trước khi chết, hắn với tôi có chuyện xích mích khá to. Tôi mới nói: "Sao mày vào phòng tao mà lại dám mặc cái áo rách cùi tay thế hả, cút ngay, đô vô lại!". Hắn quay ra và không bao giờ đến nữa. Dạo ấy tôi không nói với Marfa Petrovna. Tôi cũng toan làm một buổi lễ cầu hồn cho hắn, nhưng rồi cũng ngường ngượng nên lại thôi.
- Ông đi nhờ bác sĩ khám cho.
- Cái đó thì ông không nói tôi cùng hiểu là tôi có bệnh, tuy không biết bệnh gì; theo tôi thì tôi còn khoẻ gấp năm ông đấy, tôi không muốn hỏi ông có tin là người ta có thể thấy ma không. Tôi muốn hỏi ông có tin là có ma không kia?
- Không, không đời nào tôi tin! - Raxkonikov quát to lên, giọng còn có vẻ hằn học nữa.
- Thường người ta nói thế nào nhỉ? - Xvidrigailov lẩm bẩm như nói một mình, mắt nhìn sang bên cạnh, đầu nghiêng nghiêng. - họ nói: "Anh ốm, vậy thì những cái anh thấy hiện lên chỉ là một giấc mê sảng hư ảo mà thôi". Thế nhưng nói như vậy không được lô gích cho lắm. Tôi đồng ý là chỉ có người ốm mới thấy ma; nhưng điều đó chỉ chứng minh rằng ma chỉ có thể hiện lên cho người ốm trông thấy mà thôi, chứ không hề chứng minh rằng bản thân con ma là không có thật.
- Dĩ nhiên là không! - Raxkonikov bực tức nhấn thêm vào.
- Không à? Ông nghĩ thế à? - Xvidrigailov chậm rãi đưa mắt nhìn chàng, nói tiếp. - Thế nếu suy luận thế nầy thì sao. Ông thử nói hộ tôi: "Ma có thể nói là những mảnh vụn, những mẩu đứt đoạn của những thế giới khác, là yếu tố phôi thai của nó. Người khỏe mạnh thì dĩ nhiên không thấy được, vì người khỏe mạnh là thứ người trần tục nhất cho nên chỉ sống cuộc sống trần tục mà thôi, dễ sống một cách trọn vẹn và có khuôn phép. Thế nhưng hễ ốm một cái, hễ cái trật tự bình thường của cõi trần bị phá vỡ thì lập tức bắt đầu thấy lộ ra cái khả năng tồn tại của một thế giới khác: và càng ốm nặng thì lại càng tiếp xúc nhiều hơn với cái thế giới ấy, thành thử khi người ta chết hẳn tức là người ta bước hẳn sang thế giới khác". Tôi đã suy nghĩ vấn đề nầy từ lâu. Nếu ông tin có cuộc sống vị lai thì cùng có thể tin lối suy luận đó.
- Tôi không tin có cuộc sống vị lai. - Raxkonikov nói.
Xvidrigailov ngồi yên, vẻ tư lự.
- Còn nếu ở bên kia chỉ có loài nhện hay một thứ gì như thế thì sao? - hắn chợt hỏi.
"Thằng cha nầy điên" - Raxkonikov thầm nghĩ.
- Đấy ta vẫn hình dung vĩnh hằng như một ý niệm không thể hiểu được, một cái gì to lớn vô cùng. Nhưng tại sao lại nhất thiết phải to lớn: Thế nhỡ ra, thay cho cái đó anh thứ tưởng tượng một căn buồng nhò xíu như cái buồng tắm ám khói ở nhà quê, góc chăng đầy mạng nhện, đấy cái vĩnh hằng chỉ có thế. Ông ạ, đôi khi tôi vẫn tưởng tượng như thế đấy.
- Thế chả nhẽ, chả nhẽ ông không hình dung thấy cái gì công bằng và có sức an ủi hơn thế sao - Raxkonikov thốt lên với một cảm giác khó chịu.
- Công bằng hơn ư? Biết thế nào được, có lẽ chỉnh như thế là công bằng hơn cũng nên, và nếu phải tôi thì tôi sẽ cố ý làm như vậy đấy ông ạ! - Xvidrigailov đáp, môi nở một nụ cười bâng quơ.
Nghe câu trả lời quái gở nầy, Raxkonikov bỗng thấy người lạnh toát. Xvidrigailov ngẩng dầu, nhìn chàng đăm đăm và bỗng cười phá lên.
- Không, ông thử xét điều nầy xem - hăn nói to - cách đây nửa giờ chúng ta chưa gặp nhau, bây giờ chúng ta đang xem nhau là kẻ thù, giữa hai chúng ta có một vấn đề chưa giải quyết, chúng ta đã gạt cái vấn đề ấy sang một bên và đi vào những chuyện văn chương triết lý như thế đấy? Đấy, tôi nói hai chúng ta cùng hội cùng thuyền cả, có đúng không nào?
- Ông làm ơn, - Raxkonikov bực mình đáp, - xin ông bày giải nhanh lên và cho tôi biết ông có nhã ý đến thăm tôi để làm gì… và… và… tôi đang vội, tôi có việc phải đi ngay bây giờ…
- Vâng, vâng được ạ. Em gái ông, Avdotia Romanovna, sắp lấy ông Lugin Piotr Petrovich phải không?
- Ông không thể đừng đã động gì đến em tôi và đừng nhắc đến tên em tôi ở đây hay sao? Thậm chí tôi cũng không hiểu tại sao ông dám mở miệng nói đến tên em tôi trước mặt tôi, nếu quá thật ông là Xvidrigailov?
- Thì tôi đến đây là để nói chuyện cô ấy, làm sao lại không nhắc được?
- Thôi được, ông nói đi, nhưng phải nhanh lên!
- Tôi tin chắc rằng về cái ông Lugin kia, một người có họ với nhà tôi, ông phải có một ý kiến rõ rệt, nếu ông đã gặp Lugin khoảng nửa giờ đồng hồ hay đã từng nghe ai nói về ông ta một cách trung thực và chính xác ông Lugin không xứng đối với Avdotia Romanovna đâu. Theo tôi, trong việc nầy Avdotia Romanovna hy sinh mình một cách khá hào hiệp và vô tư cho… cho gia đình. Qua tất cả những điều tôi đã được nghe nói về ông, tôi có cảm tưởng rằng về phía ông, ông cùng sẽ rất hài lòng nếu cuộc hôn nhân nầy không thành, miễn là quyền lợi của em không bị xâm phạm. Đến nay được trực tiếp làm quen với ông, tôi lại càng tin chắc như thế.
- Còn về phần ông thì như vậy là rất ngây thơ, xin lỗi, tôi muốn nói là rất trơ tráo.
- Tức ông muốn nói rằng tôi muốn kiếm chắc chứ gì ông đừng lo, Rodion Romanovich ạ, tôi mà muốn kiếm chắc thì đời nào tôi lại nói thẳng ra như thế, tôi có phải là một thằng ngốc đâu. Về vấn đề nầy tôi xin bộc lộ với ông một hiện tượng tâm lý kỳ lạ. Lúc nãy khi thanh minh cho mối tình của tôi đối với Avdotia Romanovna, tôi có nói rằng chính tôi là nạn nhân. Thế thì bây giờ xin ông biết cho rằng tôi không còn cảm thấy yêu đương gì nữa hết, thành thử chính tôi cũng lấy làm lạ, vì thật ra trước kia tôi quả có cảm thấy yêu…
- Vì ăn không ngồi rồi và dâm ô, - Raxkonikov ngắt lời.
- Quả nhiên tôi là người dâm ô và ăn không ngồi rồi. Vả chăng em ông có nhiều ưu thế đến nỗi tôi không thể không chịu một ấn tượng nào đó. Nhưng bây giờ chính tôi thấy đó toàn là chuyện nhảm.
- Ông thấy thế đã lâu chưa?
- Tôi đã nhận thấy từ trước, nhưng đến hôm kia, lúc gần đến Petersbung tôi mới biết chắc. Ngay ở Moskva tôi vẫn còn hình dung là mình đang đi ngỏ lời cầu hôn Avdotia Romanovna và kình địch với ông Lugin.
Tôi ngắt lời thế nầy ông bỏ qua cho, ông làm ơn nói ngắn lại và nói thẳng vào mục đích cuộc đến thăm hôm nay có được không? Tôi đang vội, tôi cần đi có tí việc.
- Rất sẵn sàng. Sau khi đến đây và quyết định đi một chuyến… du lịch, tôi muốn dàn xếp một số việc chuẩn bị cần thiết. Con cái tôi ở lại với bà dì; chúng nó có tài sản của mẹ để lại, không phải trông cậy gì vào tôi cả. Mà tôi cũng có ra mặt bố đâu! Tôi chỉ lấy về phần mình những gì Marfa Petrovna đã biếu tôi năm ngoái. Đối với tôi số tiền đó cũng đủ. Xin ông thứ lỗi cho, tôi đi ngay vào vấn đề đây. Trước khi lên đường đi du lịch - vì chuyến du lịch nầy có lẽ sẽ thực hiện - tôi muốn thanh toán dứt khoát với ông Lugin. Không phải vì tôi ghét bỏ gì ông ta lắm, nhưng chính vì ông ta mà sinh ra chuyện xích mích giữa tôi với Marfa Petrovna, khi tôi được biết rằng bà ta đã dàn xếp nên cuộc hôn nhân nầy. Bây giờ tôi muốn nhờ ông thu xếp cho tôi gặp Avdotia Romanovna để phân trần với cô em - trước mặt ông có lẽ càng tốt - rằng trước hết lấy Lugin không những không có chút lợi lộc gì mà lại còn thiệt thòi to nữa là khác. Rồi sau khi xin cô em tha thứ cho những chuyện rầy rà xảy ra trong thời gian gần đây, tôi sẽ xin phép được biếu cô em một vạn rúp để cho cô em dễ bề cự tuyệt ông Lugin, vì tôi biết chắc rằng cô em cũng vui lòng cự tuyệt ông ta, miễn là có khả năng để làm như vậy.
- Nhưng ông điên rồi, điên thật rồi! - Raxkonikov quát lên, vì kinh ngạc nhiều hơn là vì tức giận. - Sao ông dám ăn nói như thế?
- Tôi cũng biết ông sẽ quát lên; nhưng trước hết, tuy tôi không giàu, song số tiền một vạn rúp ấy nay cũng thừa, nghĩa là tôi hoàn toàn không cần dùng đến.
Avdotia Romanovna mà không nhận thì có lẽ tôi sẽ tiêu phí đi một cách rồ dại hơn nữa, đó là một. Sau nữa là lương tâm tôi hoàn toàn trong sạch, tôi biếu như vậy tuyệt nhiên không có suy tính thiệt hơn gì. Ông có tin hay không thì tỳ, sau nầy ông cũng như Avdotia Romanovna sẽ thấy rõ chẳng qua vì tôi đã làm cho cô em rất đáng kính của ông phải chịu nhiều nỗi lo âu phiền hà thật, cho nên tôi thành thực hối hận và chân thành muốn - không phải là chuộc lỗi hay đền bù lại những chuyện rầy rà nọ, - mà chỉ muốn làm một việc gì có ích cho cô em, bở vì quả tình tôi không phải chỉ có thể làm những việc xấu mà thôi. Ví thử tôi có chút suy tính tư lợi gì thì tôi sẽ không đề nghị biếu cô một vạn rúp, vì chỉ cách đây có năm tuần thôi tôi đã có để nghị biếu nhiều hơn. Hơn nữa, chỉ còn ít lâu, rất chóng thôi; tôi sẽ lấy một người con gái, do đó tất nhiên không còn có thể nghi ngờ gì rằng tôi có ý muốn mua chuộc Avdotia Romanovna. Để kết luận, tôi xin nói rằng nếu lấy ông Lugin, Avdotia Romanovna cũng nhận một số tiền như thế, chỉ có điều là của một người khác mà thôi… Xin ông đừng nổi giận, Rodion Romanovich ạ, ông hãy suy xét một cách điềm tĩnh và bình thản.
Trong khi nói như vậy, chính Xvidrigailov cũng hết sức điềm tĩnh và bình thản.
- Xin ông chấm dứt cho! - Raxkonikov nói. - Dù sao thì như vậy cũng là láo xược một cách không thể dung thứ được.
- Không láo xược tí nào đâu. Cứ như thế thì trên đời nầy con người chỉ có thể làm hại con người mà thôi, không có quyền làm là một chút điều thiện, chỉ vì những hình thức thông tục không đâu. Thật vô lý. Ví thử như tôi chết đi chẳng hạn, và để lại số tiền nầy cho em ông trong di chúc, chả nhẽ lúc bấy giờ cô ta cũng khước từ ư?
- Rất có thể.
- Ồ không đâu. Mà thôi, thế cũng được. Nhưng kể ra có một vạn rúp đôi khi cũng hay. Dù sao tôi cũng xin ông nói lại với Avdotia Romanovna cho.
- Không, tôi sẽ không nói lại đâu.
- Nếu vậy, ông Rodion Romanovich ạ, chính tôi buộc lòng phải tìm cách gặp riêng cô em, tức là phải quấy rầy cô ta.
- Nếu tôi nói lại, thì ông sẽ không tìm cách gặp riêng nữa chứ?
- Quả tình tôi không biết nói thế nào đây. Giá được gặp một lần thì hay lắm.
- Ông đừng hòng.
- Tiếc thật. Vả chăng ông không biết rõ tôi. Có lẽ sau nầy ta sẽ thân nhau hơn.
- Ông cho rằng chứng ta sẽ thân nhau hơn?
- Sao lại không kia chứ - Xvidrigailov mỉm cười nói đoạn đứng dậy cầm lấy mũ, - không phải tôi muốn phiền ông làm gì, và khi đi đến đây tôi cũng không dám trông mong gì nhiều, tuy sáng nay dung mạo của ông đã gây cho tôi một ấn tượng rất mạnh…
- Sáng nay? Ông trông thấy tôi ở đâu? - Raxkonikov lo lắng hỏi.
- Tình cờ thôi… Tôi cứ có cảm giác là ông có một cái gì giống tôi… Thôi xin ông đừng lo, tôi không hay nhũng nhiễu đâu; với bọn cờ bạc bịp tôi cũng ăn ý lắm, công tước Xvirbey, một quan đại thần có họ xa với tôi, cũng không đến nỗi khó chịu vì tôi, với phu nhân Prilukova, tôi cũng biết viết vào an-bom mấy chữ về bức "Đức Bà" của Raphaen, với Marfa Petrovna cũng đã sống được bảy năm trời không đi đâu, trong nhà Vyazemxki ở Chợ hàng Rơm tôi cùng đã từng nghỉ đêm hồi trước, và có lẽ tôi còn đi khinh khí cầu với Beng nữa.
- Thôi được. Xin hỏi ông đã sắp đi chưa?
- Đi đâu ạ?
- Thì ông vừa nói là đi một chuyến "du lịch" mà.
- Đi du lịch? À phải? Quả thật tôi có nói chuyện với ông về chuyến du lịch… ấy, đấy là một vấn đề rộng lớn… Giá ông biết việc ông đang hỏi là việc gì! - hắn nói thêm đoạn cười to lên một tràng ngắn. - Có thể tôi không đi du lịch mà lại lấy vợ cũng nên; người ta đang làm mối cho tôi một người.
- Ở đây à?
- Vâng.
- Sao mà chóng thế
Nhưng tôi rất muốn được gặp qua Avdotia Romanovna một lần nữa. Tôi tha thiết xin ông như vậy Thôi, chào ông… à phải! Thế mà quên mất! Trong chúc thư Marfa Petrovna có để lại cho cô em ba nghìn rúp. Cái nầy tôi xin cam đoan là đúng. Một tuần lễ trước khi chết, Marfa Petrovna có viết chúc thư, lúc ấy tôi cũng có mặt. Độ hai ba tuần nữa Avdotia Romanovna có thể nhận tiền mặt.
- Ông nói thật đấy chứ?
- Thật đấy Xin ông chuyến lời lại. Thôi, xin chào ông. Tôi trọ cách đây không xa.
Ra cửa, Xvidrigailov vấp phải Razumikhin.

Chú thích:
(1) Ý muốn nói "Homo sum et nihil humanum ame alienum put" (Tôi là một con người và không có thuộc tính nào của con người mà tôi không có)
(2) "thẳng thắn" hay "khôn khéo" (tiếng Pháp)
(3) Ý muốn ám chỉ đến các đảng phái cách mạng
(4) Rượu vào tôi rất xấu tính (tiếng Pháp)
(5) Để vừa lòng ông


TỘI ÁC VÀ SỰ TRỪNG PHẠT


Phần IV

Chương 20


Đã gần tám giờ; hai người vội vã đến nhà Bakaleyev để tới trước Lugin.
- Ai thế cậu? - Razumikhin hỏi ngay khi họ ra phố.
- Đó là Xvidrigailov, chính cái lão trang chủ đã làm nhục em tôi khi nó làm gia sư trong nhà lão. Lão ta đeo đuổi nó, thế là Marfa Petrovna vợ lão đuổi nó ra khỏi nhà. Về sau bà ta có xin lỗi nó. Thế rồi bà ta bỗng lăn đùng ra chết. Sáng hay họ nói chuyện là nói về bà ta đấy. Không hiểu sao tôi thấy sợ lão ta lắm. Chôn cất vợ xong, lão lên đây ngay. Lão có vẻ kỳ quặc lắm và hình như đang quyết định một việc gì… Hình như lão có biết một cái gì đây… Phải bảo Dunia coi chừng lão ấy… cái nầy tôi muốn nói với cậu đây, cậu nghe chứ? Coi chừng!
- Liệu lão ấy làm gì được Avdotia Romanovna? Cảm ơn cậu đã nói với mình như thế… ta sẽ đề phòng, đề phòng cho Avdotia Romanovna… Bây giờ lão ở đâu?
- Không biết.
- Sao cậu không hỏi? Chà, tiếc thật! Mà thôi, tớ sẽ tìm ra.
- Cậu trông thấy mặt hắn chứ - Razumikhin hỏi sau một lát im lặng.
- Có trông thấy, có trông thấy hẳn hoi.
- Cậu trông rõ mặt lão ấy chứ? - Raxkonikov hỏi gạn thêm.
- Có chứ, tớ nhớ rất rõ; trong một đám đông hàng nghìn người tớ cũng nhận ra ngay, tớ nhớ mặt dai lắm.
Hai người im lặng.
- Hừm… cái nầy thì… - Raxkonikov lẩm bẩm. - Cậu ạ mình có ý nghĩ là… mình cứ có cảm giác là… đây có lẽ chỉ là mình tưởng tượng ra thôi.
- Cậu nói chuyện gì thế? Tớ chưa hiểu lắm.
- Đấy các cậu đều bảo là mình điên, - Raxkonikov nói tiếp, môi méo xệch thành một nụ cười - bây giờ mình cũng có cảm giác là mình điên thật, và vừa rồi chẳng qua là một bóng ma hiện hình trong cơn mê sảng.
- Cậu nói gì thế?
- Biết đâu đấy! Có thể mình điên thật cũng nên, và tất cả những việc xảy ra mấy hôm nay có lẽ chỉ có trong tưởng tượng của mình…
- Chà, Rodia? Người ta lại làm cậu rối óc lên rồi! Lão ta nói những gì, lão đến có việc gì?
Raxkonikov không trả lời. Razumikhin ngẫm nghĩ một lát.
- Thôi, cậu nghe tớ báo cáo công việc đây, - anh mở đầu. - Tớ có ghé vào cậu, cậu đang ngủ. Sau đó tớ đi ăn cơm chiều rồi đến nhà Porfiri. Zamiotov vẫn ở đấy. Tớ cũng toan nói, nhưng chẳng thành cái gì cả. Không sao nói chuyện thật sự được. Họ có vẻ như không hiểu và không tài nào hiểu được, nhưng cùng chẳng hề bối rối gì. Tớ kéo Porfiri ra cửa sổ và bắt đầu nói, nhưng vẫn chẳng ra sao cả: hắn nhìn một đằng, tớ nhìn một néo. Rốt cục tớ giơ qua đấm lên sát mồm hắn và báo sẽ đấm vỡ óc hắn ra. Hắn chỉ nhìn tớ rồi nhổ toẹt một bãi rồi ra về, đấy chỉ có thế. Thật ngu xuẩn. Zamiotov thì tớ chẳng nói một câu nào. Cậu ạ, tớ cứ nghĩ thế là hỏng bét rồi, nhưng khi đi xuống cầu thang tớ chợt nảy ra một ý nghĩ nó làm tớ nhẹ hắn cả người ra: tại sao tớ với cậu cứ phải lo lắng như vậy? Có gì nguy hiểm cho cậu hay có dính dáng đến cậu cho cam. Đằng nầy có gì đâu? Cậu chẳng có gì dính dáng đến chuyện ấy hết, thế thì cậu cứ kệ mẹ chúng nó; sau nầy ta sẽ cười vào mũi chúng, phải tay tớ thì tớ còn trêu thêm cho chúng rối óc ra nữa ấy. Về sau tha hồ mà xấu hổ! Cậu nhổ toẹt vào; sau nầy sẽ cho chúng một mẻ, còn bây giờ thì cứ, mặc chúng thôi!
- Dĩ nhiên là như thế! - Raxkonikov đáp. "Rồi mai đây cậu sẽ bảo sao?" - chàng nghĩ thầm. Lạ thật, trước nay chưa bao giờ chàng có ý tự hỏi xem Razumikhin sẽ nghĩ gì khi biết sự thật. Nghĩ như vậy, Raxkonikov chảm chú nhìn bạn. Còn như chuyện Razumikhin đến gặp Porfiri thì bây giờ chàng rất ít quan tâm: từ bấy đến nay đã xảy thêm bao nhiêu việc và bao nhiêu việc đã lùi vào hậu cảnh!
Trong hành lang họ chạm trán phải Lugin, ông ta đến đúng tám giờ nhưng còn đang tìm căn buồng trọ của hai mẹ con Dunia, thành thử cả ba người cùng vào một lúc, nhưng không nhìn nhau và không chào nhau. Hai người bạn trẻ vào trước, cờn Piotr Petrovich, để giữ phép lịch sự, nấn ná một lúc trong phòng mắc áo để cởi áo khoác ngoài. Punkheria Alekxandrovna lập tức ra đón ông từ ngoài ngưỡng cửa. Dunia thì chào hỏi anh nàng.
Piotr Petrovich bước vào và cúi chào hai người phụ nữ một cách khá nhã nhặn, tuy vẻbệ vệ còn tăng bội phần. Vả lại trông ông ta cũng có vẻ hơi bàng hoàng, chưa trấn tĩnh lại được. Punkheria Alekxandrovna dường như cũng luống cuống. Bà vội và mời cả ba ông khách ngồi quanh cái bàn tròn, trên có chiếc ấm xamovar đang sôi sùng sục. Dunia và Lugin ngồi đối diện nhau ở hai đầu bàn. Razumikhin và Raxkonikov thì ngồi trước mặt bà Punkheria Alekxandrovna; - Razumikhin ngồi gần Lugin còn Raxkonikov ngồi cạnh em gái.
Họ ngồi im lặng một lát. Piotr Petrovich thong thả rút ra một chiếc mùi soa nhiễu sực mùi nước hoa và xỉ mũi với cái dáng của một người rất có thiện ý nhưng vẫn hơi bị xúc phạm vào phẩm giá và nhất quyết đòi người ta phải phân trần. Khi còn ở phòng ngoài ông ta đã thoáng có ý không cởi áo khoác nữa và bỏ ra về đề trừng phạt một cách đích đáng hai mẹ con Dunia, bắt họ phải nghĩ lại. Nhưng ông ta không dám. Hơn nữa ông ta vốn không thích những tình thế mập mờ, mà lúc nầy thì lại cần phải hiểu cho rõ: nếu người ta đã vi phạm vào điều kiện ông ta đề ra một cách trắng trợn như vậy, tức phải có một cái gì đây, cho nên phải biết rõ thực hư trước đã; sau nầy vẫn còn chán thì giờ trừng phạt, và ông ta chẳng thiếu gì cách.
- Tôi hy vọng rằng vừa qua bà đi đường vẫn được mạnh khoẻ chứa ạ? - Ông ta trịnh trọng nói với Punkheria Alekxandrovna.
- Nhờ ơn Chúa, ông Piotr Petrovich ạ.
- Tôi rất mừng. Còn Avdotia Romanovna cũng không mệt chứ?
- Tôi thì trẻ và khỏe thế nầy nên không mệt, chứ mẹ tôi thì rất khổ - Dunia đáp.
- Biết làm thế nào được; các đường quốc lộ của ta dài lắm. Cái gọi là "nước Nga, mẹ của chúng ta" rộng lớn lắm… Còn tôi thì hôm qua, mặc dầu rất muốn, vẫn không kịp đến đón bà và cô được. Song tôi cũng mong rằng không có gì phiền hà xảy ra cả chứ ạ?
- Ồ có chứ, ông Piotr Petrovich ạ, chúng tôi thật vô cùng bối rối, - Punkheria Alekxandrovna vội trả lời giọng nghe khang khác, - và giả sử hôm qua không phải ông Dmitri Prokofich đến với chúng tôi thì hai mẹ con cũng đến chết mà thôi. Đấy, ông Dmitri Prokofich Razumikhin đấy ạ, - bà nói thêm, giới thiệu anh với Lugin.
- À hôm qua… tôi đã được hân hạnh, - Lugin lắp bắp, mắt liếc nhìn Razumikhin một cách thiếu thiện cảm, rồi cau mày và im bặt.
Nói chung Piotr Petrovich thuộc hạng người có vẻ hết sức nhã nhặn trong khi giao thiệp và cũng tự hào cho mình là nhã nhặn, nhưng hễ có điều gì hơi trái ý một chút là lại hầu như bất giác mất hết những thủ đoạn của mình trong chốc lát và đâm ra giống như những bao bột hơn là giống những trang công tử hoạt bát biết làm cho cử toạ náo nhiệt lên. Mọi người lại im lặng: Raxkonikov thì cứ một mực làm thinh, Avdotia Romanovna thì không muốn nói quá sớm, còn Razumikhin thì chẳng có gì để mà nói, thành thử Punkheria Alekxandrovna lại đâm lo.
- Marfa Petrovna mất rồi, ông có nghe nói không, - bà mở đầu, viện đến cái phương sách tối hậu của mình.
- Có chứ ạ, Tôi đã được biết tin ngay từ đầu và giờ đây cũng xin báo để bà và cô biết rằng Arkadi Ivanovich Xvidrigailov ngay sau khi an táng vợ xong đã hối hả lên Petersburg, ít nhất theo những tin tức chính xác nhất mà tôi đã nhận được là như thế.
- Lên Petersburg? Lên đây? - Duneska lo lắng hỏi lại và đưa mắt nhìn mẹ.
- Đúng thế đấy ạ, và dĩ nhiên không phải không có chủ đích, nếu xét cách ra đi vội vã của ông ta, và nói chung là những việc xảy ra trước đây.
- Trời ơi! Chả nhẽ đến bây giờ mà ông ta vẫn không chịu để cho Duneska yên hay sao? - Punkheria Alekxandrovna kêu lên.
- Tôi thiết tưởng không có gì đáng lo ngại cho lắm, đối với bà hay Avdotia Romanovna cũng vậy, dĩ nhiên là nếu bà và cô không muốn có quan hệ gì với ông ta. Còn về phần tôi, tôi sẽ theo dõi và sẽ tìm ra chỗ trọ của ông ta…
- Ồ ông Piotr Petrovich, ông không biết chứ vừa rồi nghe ông nói thế tôi sợ quá! - Punkheria Alekxandrovna nói tiếp. - Tôi mới gặp ông ấy có hai lần, thế mà tôi đã thấy sợ ông ta lắm, sợ lắm đấy! Tôi tin chắc là chính vì ông ta mà bà Marfa Petrovna chết.
- Về việc nầy chưa thể kết luận được, tôi có những tin tức chính xác. Tôi thừa nhận rằng có thể ông ta đã xúc tiến cho sự việc xảy ra nhanh hơn, có thể nói là bằng cách lăng nhục để gây một ảnh hưởng tinh thần; nhưng về tư cách và đạo đức của con người ấy thì tôi đồng ý với bà. Tôi không biết bây giờ giờ ông ta có giàu không và bà Marfa Petrovna để lại cho ông được những gì; về điều nầy thì chỉ trong một thời hạn rất ngắn nữa tôi sẽ biết, nhưng dĩ nhiên ở chôn Petersburg nầy mà trong tay lại có sẵn ít tiền thì ông ta sẽ lập tức trở về thói cũ. Đó là một con người hết sức truỵ lạc và chết ngập trong các thói xấu xa, trong hạng trác táng không còn ai bì kịp? Tôi có khá đủ cơ sở để ước đoán rằng Marfa Petrovna, chẳng may đã quá yếu mà chuộc nợ cho ông ta tám năm về trước, lại còn cứu giúp cho ông ta về phương diện khác nữa: chỉ nhờ bà ta đã cố gắng và hy sinh nhiều lắm mới im được ngay từ đầu một vụ tội hình, trong đó có cả tính chất man rợ đầy thú tính lẫn một sự hung ác có thể gọi là quái đản, rất có thể làm cho ông ta đi Sibiri một chuyến. Nếu bà muốn biết, thì con người ấy là như vậy đấy.
- Ô trời ơi! - bà Punkheria Alekxandrovna kêu lên.
Raxkonikov chăm chú lăng nghe.
- Có đúng là ông có những tài liệu đích xác về những việc đó không? - Dunia hỏi, vẻ nghiêm nghị và quả quyết - Đó toàn là những điều bí mật mà bà Marfa Petrovna quá cố đã nói riêng cho tôi biết. Cần nêu rõ rằng về quan điểm tư pháp thì vụ nầy rất mờ ám. Trước kia ở đây có một người đàn bà ngoại quốc tên là Resslich, làm nghề cho vay lãi lặt vặt và một số nghề khác. Hình như bây giờ người đó vẫn ở đây thì phải. Từ lâu ông Xvidrigailov đã có những mối quan hệ rất gần gũi và bí mật với mụ Resslich đó. Ở nhà mụ ta có con bé mười lăm hay chỉ là mười bốn tuổi gì đấy thôi, vừa câm vừa điếc, có bà con với mụ ta, đâu như là cháu họ thì phải. Mụ căm ghét đưa bé ấy vô cùng và luôn mồn chửi mắng nó là đồ ăn hại, thậm chi lại còn đánh đập một cách vô nhân đạo nữa. Một hôm người ta thấy nó treo cổ chết trong một gian nhà kho. Cuộc điều tra xác định rằng đây là một vụ tự sát. Vụ nầy kết thúc sau những thử tục tố tụng thường lệ, nhưng về sau lại có người tố giác rằng đứa bé đã bị Xvidrigailov làm nhục một cách tàn nhẫn. Quả tình tất cả những việc rất mờ ám, người tố giác là một người đàn bà Đức khác, hành tung đồi bại và không có tín nhiệm gì cuối cùng lời tố giác ấy cũng bị dìm đi do những cố gắng chạy chọt và đút lót của bà Marfa Petrovna; mọi việc rốt cục chỉ bó hẹp trong phạm vì đồn đại. Tuy vậy, tiếng đồn nầy cũng được khá nhiều người chú ý đến khi còn ở nhà họ, chắc cô Avdotia Romanovna cũng có nghe nói đến chuyện Philip chết cách đã sáu năm hồi còn chế độ nông nô vì bị hành hạ tàn nhẫn.
- Ngược lại tôi nghe nói rằng tên Philip ấy tự thắt cổ chết.
- Đúng như thế đấy ạ, nhưng chính là sự hành hạ, ức hiếp không ngừng của ông Xvidrigailov đã bức tử hắn, hay nói cho đúng hởn, đã đẩy hắn đến cái xu thế muốn tự tử.
- Tôi không biết việc đó. - Dunia đáp xẵng - tôi chỉ nghe được một chuyện rất là kỳ lạ, nói rằng tên Philip ấy có chứng ưu uất thế nào đấy, hắn là một thứ hiền triết tại gia, người ta nói rằng hắn đọc sách nhiều qúa hoá điên và hắn thắt cổ chỉ là vì những lời chế giễu của ông Xvidrigailov chứ không phải vì đòn vọt của ông ta. Dạo còn ở đấy tôi thấy ông ta đối xử với người nhà tử tế lắm, họ còn quý ông ta nữa, tuy quả thật họ cũng buộc tội cho ông đã gây ra cái chết của Philip.
- Cô Avdotia Romanovna ạ, tôi thấy hình như cô bỗng dưng có xu hướng muốn thanh minh cho ông ta thì phải, - Lugin nhận xét, môi tím lại thành một nụ cười khó hiểu - Quả thật ông ta là một người khôn ngoan và giỏi lấy lòng phụ nữ lắm lắm: bà Marfa Petrovna với cái chết kỳ lạ của bà có thể xem là một dẫn chứng đáng buồn. Tôi chỉ muốn giúp cô và bà cụ thân sinh cô một vài ý kiến để đề phòng những âm mưu mới mà ông ta chắc chắn sẽ tiến hành. Còn về phần tôi thì tôi tin chắc thế nào rồi ông ta cũng vào ngồi tù vì nợ. Bà Marfa Petrovna tuyệt nhiên không bao giờ có ý chia gia tài cho ông ta, vì còn phải lo cho con cái, và nếu có để lại cho ông ta ít nhiều chăng thì cũng chỉ là số tiền tối thiều, tạm bợ, vừa đủ chi dùng, mà với những thói ăn chơi như ông ta thì không đủ tiêu xài trong một năm.
- Ông Piotr Petrovich ạ, - Dunia nói, - xin ông đừng nói đến ông Xvidrigailov nữa. Tôi ngấy lắm rồi.
- Ông ta vừa đến tôi xong, - Raxkonikov bỗng lên tiếng lần đầu tiên.
Ai nấy đều nhớn nhác quay cả về phía chàng. Ngay Piotr Petrovich cũng hồi hộp.
- Cách đây một tiếng rưỡi, trong khi tôi đang ngủ, ông ta vào đánh thức tôi dậy và tự giới thiệu. - Raxkonikov nói tiếp. - Ông ta ăn nói khá hoạt bát vui vẻ, và rất tin rằng tôi sẽ kết thân với ông ta. Ông ta rất muốn gặp em đấy, Dunia ạ, và có nhờ anh làm môi giới cho cuộc gặp mặt đó. Ông ta có đề nghị anh một việc và có cho anh biết rằng bà Marfa Petrovna một tuần trước khi chết có viết chúc thư để cho em ba nghìn rúp, và chỉ trong một thời gian ngắn nữa em sẽ nhận được số tiền ấy.
- Lạy Chúa! - bà Punkheria Alekxandrovna kêu lên, tay làm dấu thánh. - Cầu nguyện cho bà ấy đi, Dunia ạ, cầu nguyện cho bà ấy với.
- Sự thật quả đúng thế, - Lugin buột miệng nói.
- Thế rồi sao nữa? - Dunia giục giã.
- Rồi ông ta bảo rằng bản thân ông ta cũng không giàu, toàn bộ gia sản đều để lại cho các con hiện đang ở với bà dì. Sau đó ông ta có nói rằng ông ta trọ cách nhà anh không xa, nhưng ở đâu thì không biết, anh không hỏi…
- Nhưng ông ta muốn bàn gì với Dunia? - Punkheria Alekxandrovna hoảng sợ hỏi. - Ông ta có nói gì với con không?
- Có
- Bàn gì thế?
- Sau con sẽ nói. - Raxkonikov im lặng quay về chén trà.
Piotr Petrovich rút đồng hồ ra xem.
- Tôi cần phải đi có việc, cho nên cũng không làm phiền các vị nữa đâu! - Ông ta nói thêm, vẻ hơi phật ý và rời ghế đứng dậy.
- Ông ở lại tí đã. Piotr Petrovich ạ. - Dunia nói, - vì ông đã định ngồi chơi vơi chúng tôi suốt tối hôm nay kia mà. Hơn nữa trong thư ông lại viết là có việc phải giãi bày với mẹ tôi.
- Đúng thế đấy Avdotia Romanovna ạ. - Piotr Petrovich nói dõng dạc, và lại ngồi xuống ghế, nhưng tay vẫn cầm mũ, - Qua nhiên tôi đã có ý muốn trình bày mấy việc với cô và bà cụ cô lại là những việc rất quan trọng nữa. Nhưng vì anh cô cũng không thể nói lại một số đề nghị của ông Xvidrigailov trước mặt tôi, cho nên tôi cũng không muốn và không thể giải bày… trước mặt người khác… một số điểm tối ư hệ trọng. Hơn nữa lời yêu cầu khẩn thiết và chủ yếu của tôi đã không được thi hành…
Lugin làm ra vẻ mặt chua chát và lặng thinh một cách trang trọng.
- Sở dĩ lời yêu cầu của ông - yêu cầu anh tôi không có mặt trong buổi gặp gỡ nầy - không được thì hành cũng chỉ vì tôi đã một mực khẩn khoản như vậy, - Dunia nói. - Ông có viết rằng ông đã bị anh tôi sỉ nhục; tôi nghĩ rằng việc nầy cần phải làm sáng tỏ ngay và hai người phải hoà giải với nhau. Và nếu anh Rodia quả có xúc phạm đến ông thật, thì anh ấy phải xin lỗi ông, và anh ấy sẽ xin lỗi.
Piotr Petrovich lập tức vững tâm trở lại.
- Cô Avdotia Romanovna ạ, có những lối sỉ nhục mà dù có thiện ý đến đâu cũng không thể quên được. Cái gì cùng có một giới hạn mà nếu vượt qua thì rất nguy hiểm; vì khi đã vượt qua rồi thì không thể quay trở lại được nữa.
- Ý của tôi không hẳn là muốn nói đến chuyện ấy, ông Piotr Petrovich ạ. - Dunia ngắt lời hỏi sốt ruột:
- Xin ông hiểu rõ cho rằng bây giờ, tương lai của chúng ta đều tuỳ ở chỗ việc nầy có được sáng tỏ và dàn xếp ổn thoả chóng vánh hay không. Tôi xin nói thẳng ngay với ông rằng tôi không thể nhìn nhận cách nào khác, và nếu ông có chút nào coi trọng tôi, thì dù có khó khăn thật, chuyện nầy cũng phải chấm dứt ngay hôm nay. Tôi xin nhắc lại rằng nếu anh tôi sai, anh tôi sẽ xin lỗi.
- Tôi là làm lạ ràng cô lại đặt vấn đề như thế, Avdotia Romanovna ạ, - Lugin mỗi lúc một thêm tức tối - Trong khi quý trọng và có thể không ưa một người nào đó trong gia đình cô lắm chứ. Trong khi cầu mong cái diễm phúc được kết hôn với cô, tôi không thể đồng thời lĩnh lấy những nhiệm vụ không ăn khớp với…
- Ồ, ông bỏ cái tính hay mếch lòng ấy đi, Piotr Petrovich ạ. - Dunia bực bội ngắt lời, - Và xin ông hãy là người thông minh và cao thượng như xưa nay tôi vẫn hình dưng ông và đến nay tôi vẫn mong được hình dung như thế. Tôi đã có một lời hứa trọng đại với ông, tôi là vợ chưa cưới của ông; trong việc nầy. Ông có tin tôi hay không thì tuỳ ông, chứ tôi rất đủ khả năng suy xét một cách vô tư. Tôi đứng ra phân xử thế nầy cùng là một việc đột ngột đối với anh tôi cũng như đối với ông. Sau khi đọc bức thư của ông, tôi đã khẩn khoản mời anh tôi đến dự buổi gặp gỡ nầy mà không hề cho anh ấy biết gì về ý định của tôi. Xin ông hiểu cho rằng nếu hai người không hoà giải với nhau, thì tôi đành phải chọn giữa hai người: hoặc là ông, hoặc là anh tôi. chính anh tôi và chính ông, cả hai người đều đặt vấn đề như thế. Tôi không muốn và không có quyền nhầm lẫn khi chọn lựa? Muốn chiều ông, tôi phải đoạn tuyệt với anh tôi; muốn chiều anh tôi, tôi phải đoạn tuyệt với ông. Bây giờ tôi muốn và có thể biết chắc: anh ấy có thật đáng là anh tôi hay không? Còn vẻ phần ông thì ông có coi trọng tôi không, có quý tôi không, ông có đáng là chồng tôi không?
- Avdotia Romanovna ạ, - Lugin nói, giọng khó chịu, - những lời lẽ của cô đối với tôi nó ngụ quá nhiều ý nghĩa, và còn có thể nói nó xúc phạm đến tôi nữa, nếu xét cái cương vị mà tôi đang được hân hạnh đảm đương đối với cô. Chưa nói đến cái lối cân nhắc kỳ quặc và nhục nhã đặt tôi ngang hàng với cái… với người trẻ tuổi xấc xược nầy, những lời lẽ vừa rồi còn ngụ ý rằng tôi không có nghĩa lý gì mấy đối với cô… tôi không thể dung thứ được điều đó trong khi giữa chúng ta có những mối quan hệ và, những cam ước như hiện nay.
- Sao! - Dunia bùng lên, - tôi đặt quyền lợi của ông ngang hàng với tất cả những gì quý giá nhất trong đời tôi, với người mà trước nay tôi vẫn coi như cả cuộc sống của tôi, thế mà ông còn mếch lòng vì tôi đánh giá ông quá thấp ư?
Raxkonikov lặng lẽ mỉm một nụ cười cay độc.
Razumikhin cứ nhấp nhổm ngồi không yên, nhưng Piotr Petrovich như không để đến lời phán bác ấy, ngược lại càng nói ông ta lại càng cáu tiết, giọng càng thêm hống hách như thế đâm ra đắc ý với những lời lẽ của mình.
- Tình yêu đối với người bạn đời tương lai phải vượt lên trên tình thương đối với người anh, - ông ta phát âm từng tiếng một, giọng trịnh trọng, - và dù sao tôi cũng không thể đứng ngang hàng với… Tuy lúc nãy tôi đã nhấn mạnh rằng tôi không muốn và kbông thế giải bày mục đích cuộc đến thăm nầy trước mặt anh cô, bây giờ tôi vẫn thấy cần phân trần với bà cụ thân sinh rất đáng kính của cô một điều tối quan trọng và có liên quan đến phẩm giá của tôi. Hôm qua, con trai bà, - ông ta nói với bà Punkheria Alekxandrovna, - trước mặt ông Razumikhin đây… có phải thế không ạ! Xin lỗi tôi quên mất tên ông, - Lugin nhã nhặn cúi đầu về phía Razumikhin - đã xúc phạm đến tôi bằng cách xuyên tạc những ý nghĩ mà tôi đã trình bày với bà dạo trước trong một buổi nói chuyện riêng bên chén cà phê, cụ thể là theo tôi thì lấy một người con gái nghèo đã từng chịu khổ có lợi cho cuộc sống giữa hai vợ chồng hơn là lấy một người đã quen sống sung túc, vì như vậy tốt hơn về phưong diện luân lý. Con bà đã cố ý khuếch đại ý nghĩa những lời nói của tôi đến mức vô lý, buộc cho tôi có những ý định xấu xa và như chỗ tôi biết thì anh ta đã căn cứ vào một bức thư riêng của bà mà làm như vậy. Tôi sẽ tự xem mình là người có diễm phúc nếu bà có thể cải chính được điều nầy. Được như thế tôi sẽ thấy yên tâm một phần lớn. Xin bà cho biết cụ thể bà đã truyền đạt những câu nói của tôi như thế nào trong bức thư gửi Rodion Romanovich?
- Tôi không nhớ, - bà Punkheria Alekxandrovna luống cuống đáp, - tôi hiểu như thế nào thì tôi truyền đạt lại như thế. Tôi không biết Rodia đã nói lại với ông như thế nào… Có thể nó có cường điệu ít nhiều.
- Nếu bà không gợi ý, thì anh ta không thể cường điệu được.
- Piotr Petrovich ạ, - bà Punkheria Alekxandrovna nghiêm nét mặt nói. - Một bằng chứng tỏ ra rằng tôi với Dunia không hiểu những lời lẽ của ông theo một nghĩa quá xấu, là chúng tôi đang ngồi ở đây.
- Đúng, mẹ ạ! - Dunia tán đồng.
- Thế ra trong việc nầy tôi cũng có lỗi nốt? - Lugin phật ý nói.
- Đây nầy, ông Piotr Petrovich ạ, ông cứ buộc tội mãi Rodion, thế nhưng trong bức thư hồi sáng chính ông cũng đã nói ngoa cho nó đấy thôi, - Punkheria Alekxandrovna vững tâm trở lại, nói thêm.
- Tôi không nhớ là có viết điều gì sai ngoa cả.
- Ông có viết, - Raxkonikov nói rất xẵng, không quay mặt về phía Lugin - là hôm qua tôi đưa tiền cho con gái người bị nạn, trong khi thật ra tôi đưa tiền cho người vợ goá của ông ta chứ không phải cho con gái ông ta. Trước hôm ấy tôi chưa hề trông thấy cô ta bao giờ. Ông viết như vậy để gây xích mích giữa gia đình tôi và muốn thế ông lại còn viết thêm những câu bẩn thỉu về tư cách của một người con gái mà ông không hề biết. Như vậy là nói xấu người ta một cách hèn hạ.
- Xin lỗi ông, - Lugin đáp, người run lên vì tức giận. - sở dĩ trong thư tôi có nói nhiều đến những đức tính và hành vi của ông cũng chỉ vì muốn làm tròn một việc mà mẹ và em ông đã yêu cầu tôi, là kể lại cho họ biết cảm tưởng của tôi đối với ông. Còn về nội dung bức thư tôi viết, thì xin ông cứ thư tìm cho ra một giòng nào không đúng sự thật, nghĩa là ông không tiêu phí hết số tiền ấy, vả trong cái gia đình kia - tức là một gia đình đáng thương - không có những nhân vật đáng khinh bỉ?
- Theo ý tôi thì với tất cả những phẩm giá của ông, ông cũng không bằng ngón tay út của người con gái khốn nạn mà ông dè bỉu.
- Thế nghĩa là ông sẽ không ngần ngại để cho cô ta làm quen với mẹ và em ông?
- Tôi đã làm như thế rồi đấy, ông đã muốn biết, tôi cũng xin nói như vậy. Sáng hôm nay tôi đã để cô ấy ngồi cạnh mẹ tôi và Dunia.
- Rodia! - bà Punkheria Alekxandrovna kêu lên Dunia đỏ mặt; Razumikhin cau mày. Lugin mỉm một nụ cười hiểm độc và khinh bỉ.
- Cô cũng thấy đấy, Avdotia Romanovna ạ, - Ông ta nói, - thế nầy thì cô còn bảo hoà giải làm sao được? Bây giờ tôi hy vọng rằng việc nầy thế là đã phân minh và được giải quyết xong xuôi. Còn tôi thì xin cáo lui để khỏi ngăn trở những nỗi vui mừng của cuộc gặp gỡ gia đình cũng như những câu chuyện kín mà các vị đang cần cho nhau biết (ông ta đứng dậy cầm lấy mũ). Nhưng trước khi cáo từ, tôi cũng xin thưa rằng từ rày tôi hy vọng không phải dự những cuộc dàn xếp như thế nầy nữa. Riêng với bà Punkheria Alekxandrovna kính mến, tôi xin đặc biệt khẩn khoán như vậy, nhất là vì bức thư của tôi viết lại gửi cho bà chứ không phải gửi cho ai khác.
Bà Punkheria Alekxandrovna hơi mếch lòng.
- Ông hạch sách chúng tôi đến thế kia à, ông Piotr Petrovich? Dunia đã nói cho ông biết tại sao chúng tôi không làm trọn yêu sách của ông: đó là một thiện ý của nó. Ông viết thư cho tôi cứ như ra lệnh ấy! Có phải bất cứ ý muốn nào của ông cũng đều phải coi là một mệnh lệnh không? Ngược lại, tôi xin nói cho ông biết rằng bây giờ ông phải đối xử với chúng tôi một cách tế nhị và khoan dung mới phải, vì chúng tôi đã tin cậy ông mà bỏ hết để lên đây, cho nên dù ông không hạch sách thì chúng tôi cũng đã nằm trong tay ông rồi.
- Không hẳn thế đâu bà Punkheria Alekxandrovna ạ, nhất là bây giờ đây, khi đã có tin bà Marfa Petrovna để lại ba nghìn rúp: cứ xem cái giọng điệu mà người ta đang dùng với tôi cũng đủ biết tin ấy đến rất đúng lúc, - Lugin nói thêm, giọng cay cú
- Cứ theo lời nhận xét vừa rồi thì quả có thể đoán rằng trước đây ông vẫn trông mong lợi dụng tình cảnh túng bấn của chúng tôi, - Dunia tức giận nói.
- Nhưng bây giờ ít nhất tôi cũng không còn có thể trông mong như vậy được nữa và nhất là tôi không muốn cản trở ông Rodia Romanovich chuyển đạt những lời đề nghị bí mật của ông Arkadi Xvidrigailov mà tôi thấy rõ là có ý nghĩa tối hệ trọng và có lẽ rất thú vị đối với cô.
- Ôi trời ơi! - Punkheria Alekxandrovna kêu lên.
Razumikhin cứ nhấp nhỏm trên ghế.
- Đến bây giờ mà em vẫn không thấy xấu hổ à, Dunia? - Raxkonikov hỏi.
- Có đấy anh Rodia ạ, - Dunia nói, - Ông Piotr Petrovich xin ông đi khỏi nơi nầy cho! - nàng nói với Lugin, mặt tái mét đi vì tức giận.
Piotr Petrovich hình như không ngờ sự việc lại kết thúc như vậy, ông ta quá tin vào tình cảnh khốn đốn của hai nạn nhân của mình, đến bây giờ ông ta vẫn chưa hiểu ra, ông tái mặt đi, hai môi run bắn lên.
- Cô Avdotia Romanovna ạ, nếu bây giờ tôi bước ra khỏi cửa nầy với những lời tống tiễn như thế, thì xin cô nhớ cho rằng không bao giờ tôi còn quay trở lại nữa. Cô nghĩ cho kỹ đi! Tôi đã nói là làm.
- Trơ tráo đến thế là cùng! - Dunia vụt đứng dậy quát lên - tôi có hề muốn ông quay trở lại đâu kia chứ?
- Sao? Ra thế - ế - ế đấy? - Lugin quát, đến phút cuối cùng vẫn chưa tin là câu chuyện sẽ kết thúc như thế, cho nên đâm ra rối trí hoàn toàn, - À ra thế đấy! Nhưng cô Avdotia Romanovna ạ, xin cô biết chn rằng tôi có thể phản kháng việc nầy.
- Ông có quyền gì mà nói với nó như vậy! - bà Punkheria Alekxandrovna nóng nảy xen vào, - Ông lấy tư cách gì mà phản kháng? Ông tưởng tôi có thể gả con Dunia nhà tôi cho một người như thế sao? Ông đi đi, đi hẳn đi! Chỉ tại chúng tôi tr ót tính một cuộc hôn nhân sai trái như thế, nhất là tôi…
- Nhưng bà Punkheria Alekxandrovna ạ, - Lugin điên tiết lên nói, giọng căm hờn, - bây giờ bà từ bỏ lời bà đã hứa với tôi… và rốt cục dù sao lời hứa ấy đã làm cho tôi phải chịu những khoản chi phí…
Câu cuối cùng nầy ăn nhập với nhân cách của Piotr Petrovich đến nỗi Raxkonikov, nãy giờ tái mặt đi vì tức giận và vì cố sức tự chủ, không sao chịu được nữa và bỗng cười phá lên. Nhưng bà Punkheria Alekxandrovna đã giận điên lên quát:
- Chi phí? Chi phí gì thế? có lê ông muốn nói đến cái rương của chúng tôi chứ gì? Nhưng người đánh xe đã nhận chở không cho ông kia mà. Trời ơi, chúng tôi ràng buộc ông kia đấy! Ông nghĩ lại một chút chứ, ông Piotr Petrovich, chính ông trói chân trói tay chúng tôi lại thì có!
- Thôi đủ rồi mẹ ạ. Con xin mẹ: đủ rồi! - Avdotia Romanovna khẩn khoản. - Piotr Petrovich, xin ông làm ơn đi ngay cho.
- Tôi sẽ đi, chỉ xin nói một câu cuối cùng nữa thôi!
- Ông ta nói thêm, hầu như không còn chút tự chủ nào nữa, - hình như mẹ cô quên bẵng đi rằng tôi đã cam tâm lấy cô mặc dầu những tiếng đồn đại về tư cách của cô đã lan rộng khắp vùng. Tôi đã vì cô mà coi khinh dư luận để phục hồi lại danh giá cho cô, thế thì lẽ ra tôi rất có quyền mong được đền đáp và hơn nữa có quyền đòi hỏi lòng biết ơn của cô… Mãi đến bây giờ tôi mới sáng mắt ra. Bây giờ tôi mới thấy rằng coi khinh dư luận như vậy, tôi đã hành động một cách hết sức nông nổi…
- Hắn muốn người ta bổ đôi đầu hắn ra hay sao thế nhỉ! - Razumikhin quát lên, nhảy chồm dậy, sẵn sàng cho Lugin một bài học.
- Ông là một người độc ác và đê tiện! - Dunia nói.
- Không nói gì nữa hết - Raxkonikov quát lên, tay giữ Razumikhin lại; đoạn tiến đến sát Lugin, chàng nói khẽ, tách rõ từng tiếng;
- Xin ông ra ngay! Không được nói lấy một tiếng nào nữa, nếu không…
Piotr Petrovich nhìn chàng một lát: mặt tái mét và rúm ró lại vì căm giận, rồi quay gót bước ra ngoài. Tât nhiên ít có ai mang theo trong lòng một mối căm thtù sâu cay như mối căm thù của ông ta đối với Raxkonikov bây giờ. Ông ta đổ hết lên đầu chàng và chỉ mỗi mình chàng mà thôi. Có điều đáng chú ý là ngay khi xuống thang gác, ông ta còn tưởng tượng rằng có lẽ cơ sự chưa hẳn đã tuyệt vọng và nếu chỉ kể riêng hai mẹ con thì còn có thể dàn xếp được lắm.

TỘI ÁC VÀ SỰ TRỪNG PHẠT


Phần IV

Chương 21


Đáng chú ý hơn cả là ngay đến phút cuối cùng Piotr Petrovich cũng không ngờ câu chuyện sẽ kết thúc như thế. Ông ta đã vững tâm đến cùng, thậm chí cũng không hề thoáng có ý cho rằng hai người đàn bà cùng khổ và không nơi nương tựa ấy lại có thể thoát ra ngoài uy lực của mình. Sở dĩ ông ta dám tin chắc như vậy là vì cái tính huênh hoang và tự tin cao độ mà giá gọi là tính tự hâm mộ thì đúng hơn cả. Vốn là một người xuất thân chỉ có hai bàn tay trắng, Piotr Petrovich đã quen tật khâm phục mình, tôn sùng trí thông minh và năng lực của mình, thậm chí thỉnh thoảng, nhân lúc không có ai, lại còn mê mải ngắm nghía mặt mình trong gương nữa. Nhưng trên đời cái mà ông ta yêu nhất vả ton sùng nhất là tiền bạc ông kiếm được bằng công sức và đủ các phương tiền khác: nó đưa ông tên ngang hàng với những kẻ có địa vị cao hơn ông.
Vừa rồi khi chua chát nhắc lại cho Dunia rằng ông ta đã câm tâm lấy nàng bất chấp những điều nầy tiếng nọ, Piotr Petrovich nói một cách hoàn toàn thành thật và thậm chí lại còn phẫn uất sâu sắc trước sự "vong ân bội nghĩa" đó. Thế nhưng dạo đến dạm hỏi Dunia ông ta đã biết chắc mười phần rằng những lời đồn đại hoàn toàn vô căn cứ ấy đã được bà Marfa Petrovna bác bỏ trước công chúng và đã từ lâu khắp thị trấn không còn ai tin nữa; mọi người đều hăng hái thanh minh cho nàng. Vả chăng ngay bây giờ ông ta cũng sẵn sàng không chối cãi rằng từ dạo ấy ông cũng biết thế. Tuy vậy ông vẫn đánh giá rất cao cái việc làm quả quyết của ông là đã ra tay tế độ đỡ Dunia lên ngang mình, và vẫn coi đó là một kỳ công. Vừa rồi, nói rõ điều nầy ra với Dunia, chính là ông đã nói lên cái ý nghĩ thầm kín mà ông vẫn hằng nâng niu ấp ủ, và ông không hiểu nổi tại sao những người khác lại không hân hoan khâm phục cái kỳ công của mình. Khi đến thăm Raxkonikov, ông đã bước vào phòng chàng với cảm giác của một vị ân nhân sẵn sàng gặt lấy kết quà những ơn huệ mình đã gieo ra và nghe những lời tán tụng hết sức ngọt ngào. Và dĩ nhiên ngay bây giờ đây trong khi bước xuống thang gác, ông cũng coi như mình bị quên ơn và bị xúc phạm đến cùng cực.
Còn như Dunia thì ông ta không thể hiểu được; từ bỏ nàng đối với ông ta là một việc không sao tưởng tượng nổi. Từ lâu, đã mấy năm nay rồi ông ta khoái trá mơ tưởng đến hôn nhân, nhưng vẫn dằn lòng gom góp cho nhiều tiền bạc và chờ đợi. Ông ta say sưa thầm ước một người con gái có đức hạnh và nghèo (nhất định phải nghèo mới được), rất trẻ, rất xinh, cao thượng và có học thức, rất sợ hãi trước những tai hoạ dồn dập đã trải qua và hoàn toàn phục tùng ông ta, một người con gái suốt đời xem ông ta như vị cứu tinh, vị ân nhân của mình, sùng mộ, quỵ luỵ: thán phục ông ta và chỉ mình ông ta mà thôi. Ông đã xây dựng trong tưởng tượng bao nhiêu cảnh thần tiên, bao nhiêu chuyện khoái lạc trên cái đề tài hấp dẫn và vui thú nầy trong những giờ nghỉ ngơi yên tĩnh! Và đây, giấc mơ bao nhiêu năm qua nay đã gần thành sự thực: nhan sắc và học vấn của Avdotia Romanovna đã khiến ông ta kinh ngạc; tình cảm điêu đứng của nàng đã kích thích ông ta đến cùng cực ở nàng còn có một cái gì hơn cả những điều ông hằng mơ ước: một cái gái kiêu kỳ, cương nghị, có đức hạnh, có học thức và thông minh hơn ông ta (ông ta cũng cảm thấy thế, mà lại sẽ đội ơn ông suốt đời một cách tôi mọi vì cái công ơn tế độ của ông, sẽ sùng kính cúi rạp xuống trước mặt ông, còn ông thì sẽ làm vị chúa tể uy quyền vô hạn… Như có chủ ý, trước đấy ít lâu sau một thời gian dài suy xét và chờ đợi, cuối cùng ông đã nhất quyết thay đổi con đường công danh và bước vào một lĩnh vực hoạt động rộng rãi hơn để dần dần leo lên một môi trường xã hội cao hơn mà ông đã từ lâu mơ ước một cách khoái lạc. Tóm lại, ông ta đã quyết định thăm dò Petersburg. Ông ta biết rằng dùng phụ nữ có thể thu lợi rất nhiều. Nhan sắc của một người đàn bà đức hạnh và có học thức có thể tô điểm cho con đường công danh của ông rực rỡ lạ lùng, thu hút kẻ khác đến cạnh ông, tạo nên một áng hào quang quanh ông… thế mà bây giờ tất cả đều đổ sụp tan tành! Cuộc đoạn tuyệt đột ngột và kỳ quái vừa qua giáng xuống đầu ông ta như một tiếng sét. Đó là một trò đùa gì rất quái gở và vô lý! Ông ta chi mới hơi xấc già một tí; thậm chí ông ta cũng chưa kịp bày tỏ cho hết nữa, ông chỉ đùa nhả hơi quá trớn một chút, thế mà cơ sự lại đi đến một kết cục nghiêm trọng như vậy.
Xét cho cùng ông ta cũng yêu Dunia theo một lối riêng, ông ta đã thống trị nàng trong tưởng tượng - thế mà đùng một cái. Không! Mai, ngay từ ngày mai phải khôi phục, uốn nãn lại, hàn gắn lại, và nhất là phải tiêu diệt cái thằng nhóc con xấc láo ấy đi, vì chính nớ gây ra tất cả. Với một cảm giác khó chịu. Ông ta nhớ đến Razumikhin… nhưng chỉ lát sau ông ta yên tâm hắn về mặt nầy: "Một thằng như thế thì đặt ngang hàng với ta thế nào được!" Nhưng người mà ông ta e sợ thật sự chính là Xvidrigailov… Nói tóm lại, còn phải rầy rà nhiều…
- Không, con mới là người có lỗi hơn cả. - Dunia vừa nói vừa ôm hôn mẹ, - vì con ham tiền nên mới đến nỗi thế, nhưng anh ạ, em thề rằng trước đây em không ngờ hắn lại đê hèn đến thế. Nếu em biết rõ hắn từ trước, không có gì có thể phủ dụ em! Anh đừng kết tội em, anh ạ
- Đội ơn Chúa! Đội ơn Chúa! - Punkheria Alekxandrovna lẩm bẩm, vẻ bàng hoàng như chưa hiểu rõ hẳn những việc vừa xảy ra.
Ai nấy đều mừng rỡ, và năm phút sau họ lại còn cười to lên nữa. Chỉ riêng Dunia thỉnh thoảng tái mặt đi và chau mày khi ôn lại việc vừa qua, bà Punkheria Alekxandrovna cũng không ngờ mình sẽ vui mừng thế nầy. Mới sáng nay thôi bà còn hình dung việc cự tuyệt Lugin như một tai hoạ ghê gớm. Nhưng Razumikhin thì hân hoan đến cùng cực. Anh cùng chưa dám biểu lộ hết niềm hân hoan đó ra, nhưng cứ run run như lên cơn sốt, tựa hồ vừa mới cất được một khối sắt nặngơ hàng chục cân đè lên ngực Bây giờ anh có thể hiến dâng cho họ cuộc đời anh, có thể phụng sự họ… Bây giờ thì việc gì mà anh chẳng làm được. Tuy vậy anh lại càng hoảng hốt xua đuôi những ý nghĩ kéo theo và thấy sợ trí tưởng tượng của mình. Chỉ có Raxkonikov vẫn ngồi nguyên chỗ cũ, vẻ mặt lầm lì và lơ đãng nữa. Chàng là người đã khẩn thiết hơn ai hết đòi phải cự tuyệt Lugin, nhưng bây giờ lại dường như ít quan tâm đến việc vừa xảy ra hơn ai hết. Dunia bất giác nghĩ rằng chàng vẫn giận mình lắm. Bà Punkheria Alekxandrovna sợ sệt đưa mắt nhìn con trai.
- Thế Xvidrigailov nói với anh những gì? - Dunia lại gần anh hỏi.
- À phải! - bà Punkheria Alekxandrovna kêu lên.
Raxkonikov ngẩng đầu lên nói:
- Hắn nhất thiết muốn biếu em một vạn rúp và tỏ ý muốn gặp em một lần nữa trước mặt anh.
- Gặp à! Không đời nào! - bà Punkheria Alekxandrovna kêu lên, - mà sao ông ta lại dám nói chuyện biếu xén tiền nong với nó!
Raxkonikov thuật lại một cách hơi khô khan buổi nói chuyện với Xvidrigailov, bỏ qua chuyện oan hồn Marfa Petrovna hiện về để khỏi phải nói lan man, và vì không muốn nói bất cứ chuyện gì ngoài những điều tối cần thiết.
- Thế anh trả lời ra sao? - Dunia hỏi.
- Lúc đầu anh bảo là sẽ không nói lại với em gì hết. Hắn ta mới tuyên bố là sẽ dùng đủ mọi cách để tìm gặp em cho kỳ được. Hắn bảo rằng tình cảm của hắn đối với em ngày trước chỉ là chuyện vớ vẩn và bây giờ hắn không cảm thấy yêu đương gì nữa hết… hắn ta không muốn em lấy Lugin. Nói chung hắn nói năng rất khó chịu.
- Anh thấy ông ấy thế nào, anh Rodia? Cảm tưởng của anh ra sao?
- Thú thật anh cũng không hiểu rõ chút nào. Xin biếu một vạn đồng nhưng lại nói là mình không giàu. Tuyên bố là sẽ đi đâu đấy, nhưng mười phút sau lại quên khuấy là mình có nói đến chuyện ấy. Bỗng dưng lại nói mình muốn lấy vợ và người ta đã mối lái cho mình rồi… Dĩ nhiên hắn có những mục đích gì đấy, có lẽ là những mục đích xấu xa. Nhưng vẫn khó lòng mà giả định rằng hắn ta có thể hành động một cách ngu xuẩn như thế, nếu quả hắn có những ý định đen tối nhằm hại em; nếu thế thì lạ quá… Dĩ nhiên anh đã thay mặt em dứt khoát khước từ số tiền ấy. Nói chung anh thấy hắn ta rất kỳ dị và… thậm chí còn có những dấu hiệu điên rồ nữa. Nhưng có thể anh nhầm; có lẽ đây chỉ là một lối vờ vĩnh. Cái chết của Marfa Petrovna hình như đã gây cho hắn một ấn tượng khá…
- Lạy Chúa cho linh hồn bà được yên nghỉ! - Punkheria Alekxandrovna thốt lên, - mẹ sẽ suốt đời cầu nguyện cho linh hồn bà ta! Dunia ạ, nếu không có ba ngàn rúp ấy thì bây giờ mẹ con ta sẽ ra sao đây! Lạy Chúa, cứ như trên trời rơi xuống ấy! Ồ, Rodia ạ, sáng nay hai mẹ con chỉ còn vẻn vẹn có ba rúp, mẹ với Dunia cứ tính cách đem cầm chiếc đồng hô càng sớm càng tốt để khỏi hỏi tiền của hắn trước khi hắn đưa.
Dunia hình như ngạc nhiên quá đỗi vì lời đề nghị của Xvidrigailov. Nàng cứ đứng yên suy nghĩ hồi lâu.
- Chắc lão ấy đã bày ra một quỷ kế gì ghê gớm lắm đây! - nàng nói thì thầm một mình, người gần như run lên.
Raxkonikov để ý thấy vẻ hốt hoảng quá đáng của nàng.
- Có lẽ anh sẽ còn phải gặp lão nhiều lần nữa - chàng nói với Dunia.
- Ta sẽ theo dõi hắn. Tôi sẽ tìm ra - Razumikhin quả quyết nói. - Tôi sẽ không rời mắt! Rodia cho phép tôi. Lúc nãy anh ấy nói: "Hãy bảo vệ em tôi". Thế cô có cho phép tôi không, cô Avdotia Romanovna?
Dunia mỉm cười và đưa tay ra cho anh, nhưng gương mặt vẫn giữ vẻ lo lắng. Bà Punkheria Alekxandrovna rụt rè đưa mắt nhìn nàng; tuy vậy, số tiền ba nghìn rúp hình như cũng đã làm cho bà yên lòng.
Mười lăm phút sau mọi người đều bàn tán sôi nổi. Ngay cả Raxkonikov, tuy không góp chuyện, cũng chăm chú lắng nghe một lúc. Razumikhin nói rất hùng hồn.
- Việc gì, việc gì bà và cô phải đi đâu! - anh say sưa nói, giọng nhiệt thành, - về cái thị trấn ấy làm gì? Cái chính là ở đây chúng ta đông đủ và rất cần có nhau, cần lắm, xin hiểu cho tôi! Ấy, ít nhất là một thời gian… Còn tôi thì xin bà và cô xem như một người bạn, một người cộng tác, và xin cam đoan rằng chúng ta sẽ mưu toan một việc rất hay. Đây, tôi sẽ trình bày tỉ mỉ cho các vị nghe cả một kế hoạch! Sáng sớm nay, khi chưa có việc gì xảy ra, tôi đã chợt nghĩ ra được. Số là thế nầy: tôi có một ông chú (tôi sẽ xin giới thiệu để các vị làm quen: một ông già rất tốt và rất đáng kính). Ông ta có một nghìn rúp vốn liếng hiện không cần đến vì vẫn sinh sống bằng sổ hưu bổng. Đã hai năm nay chú tôi cứ nài tôi nhận lấy số tiền một nghìn rúp ấy và hàng năm trả lãi sáu phân cho ông ta. Tôi hiểu thừa đi: chẳng qua ông cụ muốn giúp đỡ tôi; nhưng năm ngoái tôi không cần, còn năm nay tôi cứ mong ông ta lên đây và đã quyết định lấy số tiền đó. Ba người sẽ góp thêm vào đây một nghìn rúp nữa, lúc đầu thế là đủ cho công ty chúng ta. Thế ta sẽ làm gì?
Đến đây Razumikhin bắt đầu trình bày dự định của mình và nói đi nói lại rằng hầu hết bọn chủ hiệu sách và nhà xuất bản của ta đều ít hiểu biết về sách vở cho nên thường làm việc xuất bán rất tồi, còn các nhà xuất bản khá thì nói chung sách bán rất chạy và kiếm được khá nhiều lãi. Chính Razumikhin đang mơ ước nghề xuất bản: anh đã hai năm làm việc cho kẻ khác và biết ba thứ tiếng châu Âu khá thạo; tuy cách đây sáu hôm anh có nói với Raxkonikov là tiếng Đức mình "schwach"(1) để cho chàng chịu cầm lấy nữa số trang dịch và ba đồng rúp tạm ứng: hôm ấy anh nói dối, và Raxkonikov cũng biết thế.
- Việc gì, việc gì chúng ta lại bỏ lỡ cơ hội, trong khi chúng ta nắm được một trong những phương tiện chù yếu: chúng ta có vốn riêng? - Razumikhin sôi nối lên. - Dĩ nhiên cần phải bỏ nhiều công sức, thì ta sẽ ra công, sợ gì, cô Avdotia Romanovna, tôi và Rodion… bây giờ có những nhà xuất bản lãi khá to. Và cơ sở chủ yếu của doanh nghiệp là phải nghĩ xem cụ thể cần dịch những gì! Chúng ta sẽ vừa dịch, vừa xuất bản, vừa học với nhau. Bây giờ tôi có thể giúp ích được, vì tôi có kinh nghiệm. Đã gần hai năm nay tôi lặn lội ở các nhà xuấ bản, và biết hết mánh lới của họ, không có gì hóc hiểm lắm đau, thật đấy! Và việc gì, việc gì cờ đến tay lại không phất! Tôi biết hai ba tác phẩm (tôi vẫn giữ bí mật) mà chỉ riêng cái ý đem dịch và xuất bản thôi cung đủ đưa lại mỗi quyển một trăm rúp rồi, riêng có một quyển thì chỉ riêng cái ý đem dịch thôi có trả tôi năm trăm tôi cũng không lấy. Thế mà nếu đem bán với họ thì có lẽ họ còn phân vân đấy nhé, họ đần lắm! Còn về công việc ấn loát, giấy má, phát hành thì cứ giao cho tôi! Tôi thuộc làu ra rồi! Lúc đầu ta sẽ làm nhỏ đã, rồi dần dần làm ăn to hơn. Ít nhất cũng có miếng ăn và dù sao cũng bù được vốn.
Mắt Dunia sáng long lanh.
- Những điều ông vừa nói làm tôi thích quá, Dmitri Prokofich ạ, - nàng nói.
- Tôi thì dĩ nhiên chẳng biết gì về công việc nầy, - bà Punkheria Alekxandrovna tiếp lời. - có lẽ thế mà hay, nhưng cũng chưa biết chừng. Công việc nầy nó mới quá, không biết thế nào. Dĩ nhiên ta phải ở lại đây đã, ít nhất là một thời gian…
Bà đưa mắt nhìn Rodia.
- Anh nghĩ sao hở anh. - Dunia hỏi.
- Anh nghĩ rằng ý của cậu ấy rất hay, - chàng đáp - Dĩ nhiên chưa nên nghĩ quá sơm đến chuyện thành lập một công ty lớn, nhưng quả có thể xuất bản dăm, sáu quyển chắc chắn thành công. Chính anh cũng biết một tác phẩm nhất định bán chạy. Còn về vấn đề cậu ấy có biết công biết việc hay không thì không còn hồ nghĩ gì nữa: cậu ấy thạo lắm. Vả chăng ta còn khối thì giờ bàn thêm!
- Ura! - Razumikhin reo lên - Bây giờ thế nầy, ở đây có một căn nhà riêng ngay trong toà nhà nầy cùng chủ đấy. Đó là một căn riêng biệt, không ăn thông với những buồng ngủ trọ nầy, có đủ bàn ghế, giá phải chăng, có ba phòng. Iìà và cô hãy tạm ở đấy. Đồng hồ thì mai sẽ mang đi cầm và đem tiền lại, rồi mọi việc sẽ ổn. Cái chính là cả ba người có thể ở chung, cả Rodia nữa… Kìa cậu đi đâu thế Rodia?
- Kìa, Rodia, con đã đi rồi sao? - bà Punkheria Alekxandrovna hỏi, vẻ hoảng hốt.
- Lại bỏ đi vào lúc nầy! - Razumikhin kêu lên.
Dunia nhìn anh, vẻ ngạc nhiên và bỡ ngỡ, tay cầm chiếc mũ lưỡi trai, chàng đang sắp sửa bước ra ngoài.
- Cứ như thể các người đem tôi đi chôn hay vĩnh biệt tôi không bằng, - chàng nói, giọng nghe rất quái gở. Chàng tựa hồ như mỉm cười, nhưng không còn gì khác một cụ cười hơn thế nữa. - Mà biết đâu, có thể chúng ta trông thấy mặt nhau lần nầy là lần cuối cùng, - chàng đột nhiên nói thêm.
Hình như chàng nghĩ thầm một mình như thế, nhưng không hiểu sao buột mồm nói to lên.
- Kia con làm sao thế? - Bà cụ kêu lên.
- Anh đi đâu thế Rodia? - Dunia hỏi, giọng nghe rất lạ.
- Tôi cần phải đi, - chàng đáp bâng quơ, như phân vân không muốn nói rõ. Trên gương mặt xanh xao của chàng hiện rõ một quyết tâm dứt khoát.
- Tôi muốn nói… khi đến đây… tôi muốn nói với mẹ… và em Dunia rằng chúng ta nên xa nhau ít lâu thì hơn. Tôi không được khỏe, trong người thấy bứt rứt lắm… sau tôi sẽ đến, chính tôi sẽ tự đến, khi nào… có thể. Tôi nhớ mẹ và em, tôi thương… Xin cứ mặc tôi! Để cho tôi một mình! Tôi đã quyết định như vậy từ trước… Tôi đã quyết định dứt khoát… Dù có phải thế nào chăng nữa… dù tôi có chết hay không, tôi cũng muốn một mình. Xin quên hẳn tôi đi. Như thế tốt hơn… Đừng hỏi han gì tôi. Khi nào cần, tôi sẽ đến… hay mời mẹ và em đến. Có lẽ mọi việc sẽ được cứu vãn! Còn bây giờ, nếu mẹ và em còn yêu tôi, xin đừng tìm tôi nữa… Nếu không, tôi sẽ thù ghét hai người, tôi cảm thấy thế… Thôi xin từ biệt!
- Trời ơi! - bà Punkheria Alekxandrovna kêu lên.
Cả hai mẹ con đều khiếp sợ đến cùng cực; Razumikhin cũng thế.
- Rodia, Rodia! Ta hoà giải với nhau đi, mẹ con mình sẽ lại như trước! - người mẹ đáng thương kêu lên.
Raxkonikov chậm rãi quay đi và chậm rãi bước ra cửa. Dunia bước theo.
- Anh! Sao anh nỡ xử với mẹ như thế! - nàng thì thào, mắt quắc lên vì căm giận.
Chàng gườm gườm nhìn Dunia.
- Không có gì đâu, tôi sẽ đến, tôi sẽ lui tới - chàng lẩm bẩm như không biết rõ mình định nói gì, đoạn bước ra khỏi phòng.
- Thật là ích kỷ, độc ác, táng tận nhân tình! - Dunia kêu lên.
- Anh ấy điên chứ không phải thế đâu! Anh ấy điên rồi! Chã nhẽ cô không thấy hay sao? Chính cô táng tận nhân tình thì có! - Razumikhin ghé sát vào tai nàng thì thầm giọng khẩn khoản, tay xiết chặt tay nàng.
Bà Punkheria Alekxandrovna như người mất hồn.
Razumikhin quay về phía bà nói vội:
- Tôi trở về ngay! - rồi chạy ra ngoài.
Raxkonikov đợi anh ở cuối hành lang.
- Tôi biết là cậu sẽ chạy ra. - chàng nói. - Cậu hãy quay lại với họ và ở lại với họ… Mai cũng thế, và ở lại mãi mài… Tôi… có lẽ tôi sẽ đến, nếu có thể. Từ biệt cậu.
Đoạn chàng bỏ đi, không chìa tay ra cho bạn.
- Nhưng cậu đi đâu mới được chứ? Cậu làm sao thế? Lẽ nào lại như thế… - Razumikhin thảng thốt nói lắp bắp. Raxkonikov dừng lại một lần nữa.
Tôi nói lần nầy là lần cuối cùng: đừng bao giờ hỏi han gì tôi nữa hết. Tôi không biết nói thế nào để trả lời cậu… Đừng đến nhà tôi. Có lẽ tôi sẽ tự đến đây. Cậu để mặc tôi, còn mẹ và em tôi… thì cậu đừng bỏ họ. Cậu hiểu tôi chưa?
Trong hành lang tối om, hai người đứng cạnh một ngọn đèn, họ im lặng nhìn nhau khoảng một phút.
Suốt đời Razumikhin sẽ nhớ mãi phút nầy. Đôi mắt nẩy lửa của Raxkonikov nhìn trừng trừng vào mắt anh, dường như mỗi lúc một xói sâu thêm vào tâm hồn, vào ý thức anh, Razumikhin giật mình. Dường như vừa có một cái gì khủng khiếp vụt qua giữa hai người. Một ý nghĩ nào đó lóe ra như một lời ám dụ: một cái gì ghê gớm, quái gở vụt hiện lên, và cả hai đều hiểu …
Razumikhin tái nhợt đi như một xác chết.
- Bây giờ thì cậu hiểu rồi chứ? - Raxkonikov bỗng lên tiếng, mặt co rúm lại một cách đau đớn… - Cậu quay lại với họ đi, - chàng nói thêm và quay phắt đi ra khỏi nhà…
Bây giờ tôi sẽ không thuật lại những gì đã diễn ra ở buồng bà Punkheria Alekxandrovna tối hôm ấy, những là Razumikhin quay lại an ủi hai mẹ con ra sao, những là anh quả quyết rằng Rodia đang ốm cần phải nghĩ ngơi, rằng chàng nhất định sẽ trở lại, rằng chàng đang bị khủng hoảng tinh thần, không nên khuấy động thêm; những là anh ta sẽ theo dõi chàng, tìm cho chàng một bác sĩ thật giỏi, hay cả một hội đồng bác sĩ nữa…
Nói tóm lại, kê từ tối hôm ấy Razumikhin đã trở thành người con và người anh trong gia đình họ.

Chú thích:
(1) yếu, kém kinh nghiệm
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #3  
Old 09-09-2012, 02:36 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Tội ác và sự trừng phạt - Phần 1 - Chương 22, 23, 24

TỘI ÁC VÀ SỰ TRỪNG PHẠT


Phần IV

Chương 22


Raxkonikov đi thẳng đến toà nhà lên bờ kênh, nơi Sonya thuê trọ. Đó là một toà nhà ba tầng cũ kỹ sơn mau xanh lá cây. Chàng tìm người gác cổng hỏi thăm và chỉ được những lời chỉ dẫn mơ hồ về chỗ ở ông thợ may Kapernaumov. Chàng tìm lối vào cửa ở góc sân dẫn vào một cầu thang chật và tối, leo lên gác ba và bước vào dãy hành lang chạy dọc theo tầng gác, phía trông ra sân. Chàng đang sờ sẫm đi trong bóng tối, ngỡ ngàng không biết đâu là lối vào nhà ông Kapernaumov, thì bỗng cách chàng ba bước có một cánh cửa mở ra; chàng bất giác nắm lấy cánh cửa.
- Ai đấy? - một giọng đàn bà lo lắng hỏi.
- Tôi… tôi đến cô, - Raxkonikov đáp, đoạn bước vào một gian phòng mắc áo nhỏ xíu. Trên một chiếc ghế gãy có đặt một cây nến cắm vào một cái chân bằng đồng móp méo.
- Ông đấy ư! Trời ơi? - Sonya kêu lên khe khẽ và đứng sững ra.
- Vào cô đi lối nào? Lối nầy à?
Và Raxkonikov, cố tránh nhìn Sonya, bước vội vào phòng.
Một phút sau, Sonya cũng cầm nến bước vào, đặt nến xuống và đứng trước mặt chàng, bàng hoàng đến cực độ xúc động không sao tả xiết và có vẻ hoảng hốt vì cuộc đến thăm đột ngột nầy. Bỗng gương mặt xanh xao của nàng đỏ bừng lên, thậm chí mắt nàng còn rơm rớm lệ nữa… Nàng nghẹn ngào, lòng hổ thẹn pha lẫn một cảm giác ngọt ngào… Raxkonikov vội ngoảnh đi và ngồi xuống chiếc ghế đặt cạnh bàn. Chàng đã có đủ thì giờ nhìn lướt qua gian phòng một lượt.
Đó là một gian phòng lớn nhưng thấp lè tè, gian phòng cho thuê duy nhất của gia đình Kapernaumov: có một cánh cửa đóng kín ăn thông với nhà họ, trổ ở bức tường bên trái. Phía đối diện, ở bức tường bên phải, còn có một cánh cửa nữa bao giờ cũng khoá chặt. Bên kia cửa là một căn nhà khác, mang số khác. Phòng của Sonya giống một nơi chứa đồ cũ hình bốn góc xiên xẹo trông rất chướng mắt, bức tường có trổ ba khung cửa sổ nhìn ra bờ kênh cắt gian phòng thành một đường chéo, thành thử một góc phòng nhọn hoắt thụt vào tận đâu đâu nên khi thiếu ánh sáng không thể nhìn thấy gì trong cái xó sâu hoắm ấy được; còn góc kia thì lại tù một cách kỳ quái. Trong cả gian phòng thênh thang hầu như không bày biện gì cả. Trong góc bên phải kê một cái giường; cạnh giường, về phía cửa ra vào, có một chiếc ghế. Cũng sát bức vách có kê giường, ngay bên cánh cửa ăn thông sang buồng bên, đặt một cái bàn gỗ mộc, trên trải một chiếc khăn bàn màu xanh xanh; bên bàn có hai chiếc ghế đan. Sát bức tường đối diện, gần cái góc nhọn, có kê một chiếc tủ ngăn nhỏ bằng gỗ mộc trông như chơ vơ giữa khoáng không. Đồ đạc trong phòng chỉ có thế. Giấy dán tường màu vàng vàng, xơ xác và ám khói, đen xỉn lại ở các góc; chắc mùa đông ở đây ấm thấp và rét mướt lắm. Cảnh nghèo túng đập ngay vào mắt; ngay ở giường ngủ cũng không có rèm che.
Sonya lặng lẽ nhìn người khách đang tự tiện chăm chú xem xét phờng nàng, và cuối cùng bắt đầu sợ run lên như đứng trước một vị quan toà, trước kẻ định đoạt số phận mình.
- Tôi đến muộn… mười một giờ rồi phải không? - chàng hỏi, mất vẫn không ngước lên nhìn nàng.
- Vâng ạ, - Sonya lẩm bẩm. - À phải: đúng đấy ạ! nàng bỗng rối rít lên như đã tìm thấy lối thoát - đồng hồ bên ông chủ nhà mới đánh đấy… tôi có nghe… đúng đấy ạ …
- Tôi đến thăm cô lầnn cuối cùng đây - Raxkonikov nói tiếp lầm lì, mặc dầu chàng đến lần nầy mới là lần thứ nhất - có lẽ tôi không gặp cô nữa.
- Ông… đi xa?
- Tôi chưa biết… mai sẽ rõ.
- Thế mai ông không đến nhà Katerina Ivanovna nữa à? - giọng Sonya run run.
- Chưa biết… Sáng mai sẽ rõ cả… Nhưng tôi đến đây không phải vì việc ấy. Tôi muốn nói với cô một điều… - Chàng ngước đôi mắt đăm chiêu lên nhìn nàng và chợt nhật ra rằng trong khi mình ngồi, nàng vẫn đứng trước mặt.
- Sao cô lại đứng thế… Cô ngồi xuống đi. - chàng nói, giọng bỗng thay đổi hẳn, dịu dàng, ôn tồn.
Nàng ngồi xuống. Chàng nhìn nàng một lát, vẻ ân cần và gần như thương xót.
- Cô gầy quá! Tay cô kìa, cứ trong suốt đi! Ngón tay như ngón tay người chết.
Chàng cầm lấy tay nàng, Sonya mỉm cười yếu ớt.
- Tôi xưa nay vẫn thế, - nàng nói.
- Hồi còn ở nhà cũng thế à?
- Vâng.
- Tất nhiên thôi? - chàng dằn giọng nói, và vẻ mặt, giọng nói của chàng bỗng lại thay đổi hẳn. Chàng đưa mắt nhìn quanh lần nữa.
- Cô thuê phòng nầy của nhà Kapernaumov à?
- Vâng ạ…
- Họ ở bên kia, sau cánh cửa nầy à?
- Vâng… họ cũng ở một căn buồng như thể nầy.
- Cả nhà ở một buồng à?
- Vâng ạ - Tôi mà ở buồng nầy thì ban đêm sợ lắm, - chàng nhận xét, vẻ mặt lầm lầm.
- Gia đình ông chủ rất tốt, họ đối xử tử tế lắm, - Sonya đáp, vẫn có vẻ như chưa trấn tỉnh lại được và chưa hiểu rõ lắm. - Bàn ghế đồ đạc… đều của nhà chủ cả. Họ tốt lắm, trẻ con cũng hay sang tôi chơi…
- Nhà họ nói lắp phải không?
- Vâng ạ… Ông ta vừa nói lắp vừa thọt. Cả bà vợ cũng thế. Không hẳn là nói lắp, nhưng cứ câu được câu mất. Bà ấy tốt lắm. Ông ấy trước kia làm gia nô cho người ta. Con đến bảy đứa… chỉ có đứa đầu nói lắp, còn mấy đứa kia chỉ đau ốm thường thôi… chứ không nói lắp… Thế sao ông biết nhà ấy ạ? - nàng nói thêm, hơi ngạc nhiên.
- Dạo trước ông thân sinh cô có kể hết cho tôi nghe. Về cô ông ta cũng đã kể hết… Cả chuyện cô ra đi lúc sáu giờ rồi gần chín giờ cô trở về, cả chuyện Katerina Ivanovna quỳ bên giường cô.
Sonya luống cuống.
- Hôm nay tôi dường như có gặp, - nàng thì thầm, giọng rụt rè.
- Gặp ai?
- Cha tôi. Tôi đang đi dọc phố gần đây thôi, ở đầu góc phố nầy ấy, khoảng gần mười giờ, chợt thấy ai như cha tôi đi ở phía trước. Có lẽ đúng là cha tôi. Tôi đã định ghé vào Katerina Ivanovna.
- Cô đi dạo à?
- Vâng, - Sonya thì thầm nói ngắc ngứ rồi luống cuống cúi mặt xuống.
- Khi cô còn ở nhà, Katerina Ivanovna đã nhiều lần suýt đánh cô phải không?
- Ồ không, ông nói gì thế, không phải đâu! - Sonya nhìn chàng, vẻ hơi hoảng sợ.
- Thế cô yêu bà ấy à?
- Dì tôi? Sao lại không! - Sonya rên rỉ, giọng đau đớn, hai tay bỗng chắp lại. - Ồ! Ông không… Giá ông biết rõ dì tôi. Dì ấy thật như trẻ con ấy… Dì ấy buồn phiền quá… đâm ra như người loạn óc. Trước kia dì ấy thông minh biết mấy… dì ấy cao thượng quá… tốt quá! Ông không biết gì cả, không biết gì cả… trời ơi?
Sonya nói như tuyệt vọng, lòng xúc động và đau đớn, hai tay vặn vào nhau. Đôi má nhợt nhạt của nàng lại đỏ ửng lên, mặt nàng lộ vẻ đau khổ. Có thể thấy rõ rằng người ta vừa chạm vào một chỗ rất đau trong tâm hồn nàng, và nàng tha thiết muốn bày tỏ, muốn nói lên điều gì đề bênh vực Katerina Ivanovna. Một niềm thương xót không thể nào nguôi được, nếu có thể nói như thế, bỗng hiện rõ trên từng nét mặt của nàng.
- Đánh ư! Sao ông lại nói thế? Trời ơi, dì ấy mà lại đánh tôi! Mà dì ấy có đánh chăng nữa thì đã sao! Thì sao nào? Ông không biết. Ông không biết gì hết… Khổ thân dì ấy quá. Ôi, khổ thân quá! Lại đau ốm… dì ấy tìm công bằng… Dì ấy trong sạch. Dì ấy tin rằng đâu đâu cũng phải có sự công bằng, và đòi hỏi nhu thế… Và dù có bị tra tấn nhục hình dì ấy cũng không đời nào làm một việc không công bằng. Dì ấy không thấy rằng ở đời nầy không thể có công bằng được, nên cứ uất ức… Thật như đứa trẻ, như đứa trẻ. Dì tôi công bằng lắm, công bằng lắm.
- Rồi đây cô sẽ ra sao?
Sonya nhìn chàng có ý hỏi.
- Bây giờ cả nhà trông vào cô. Mà trước kia thì cũng thế, cha cô trong khi say rượu cũng đến xin tiền cô thôi. Nhưng bây giờ cô liệu sao?
- Tôi không biết, - Sonya buồn rầu đáp.
- Họ vẫn ở đằng ấy à?
- Tôi không biết, dì tôi đang nợ tiền thuê nhà.
Nghe nói hôm nay bà chủ nhà báo sẽ đuổi đi, và Katerina Ivanovna nói là không thèm ở lại một phút nào nữa.
- Sao bà ấy gan thế? Trông mong vào cô à?
- Ồ không phải. Ông đừng nói thế… Tôi với dì ấy chỉ là một thôi, - Sonya bỗng lại sôi nổi lên, thậm chí còn bực tức nữa, trông hệt như một con chim bạch yến hay một loài chim nhỏ nào đang nổi giận. - Thì dì tôi còn biết làm thế nào nữa? Làm thế nào, làm thế nào? - Nàng hỏi, giọng nóng nảy và xúc động. - Hôm nay dì đã khóc hết cả nước mắt! Dì ấy loạn trí óc, ông không để ý hay sao? Dì ấy loạn óc đấy, khi thì dì ấy lo cuống lên như đứa trẻ, không biết, ngày mai làm thế nào cho tươm tất, có đủ đồ nhắm và các thứ… Khi thì vặn hai cánh tay vào nhau, khạc ra máu, khóc lóc, rồi bỗng dưng cứ nện đầu vào tường như tuyệt vọng làm liều. Rồi sau đó lại nguôi nguôi. Dì vẫn hy vọng ở ông, dì ấy nói bây giờ ông là người cứu giúp dì ấy, dì ấy sẽ tìm được chỗ vay ít tiền và đem tôi trở về thành phố cũ của dì ấy lập một trường ký túc cho con gái nhà quý tộc, sẽ cho tôi làm giám thị, và sẽ bắt đầu một cuộc sống mới, một cuộc sống tươi đẹp, dì ấy ôm chầm lấy tôi, hôn tôi, an ủi tôi, dì ấy tin như thế? Tin vào những chuyện hoang đường như thế! Làm sao có thể cãi lại dì ấy được? Thế mà suốt ngày hôm nay dì lau chùi, sửa sang, yếu như thế mà bê cả một thùng nước lớn lên phòng, thở dốc ra ngồi ngã xuống giường; hồi sáng tôi với dì ấy ra chợ mua giầy cho Polenka và Lena, vì giầy chúng rách cả rồi, nhưng không đủ tiền trả, còn thiếu nhiều lắm, thế mà dì ấy đã chọn được hai đôi giầy thật xinh, vì dì ấy có khiếu thẩm mỹ lắm, ông không biết đấy… Thế là dì ấy khóc oà lên trong cửa hiệu, trước mặt những người bán hàng, vì thiếu tiền. Trông dì ấy thương quá!
- Thế thì cô… sống như thế nầy chẳng có gì là lạ. - Raxkonikov nói, môi nở một nụ cười chua chát.
- Thế ông không thấy thương hay sao? Ông không thương à? - Sonya lại bùng lên, - tôi biết ông có bao nhiêu đã đem cho hết dì tôi, tuy chưa thấy dì. Giá ông thấy hết, trời ơi? Và đã bao lần, bao nhiêu lần tôi làm cho dì tôi phải khóc! Mới tuần trước đây thôi! Ôi, tôi thật tệ quá! Chỉ một tuần trước khi cha tôi chết. Tôi tàn nhẫn quá! Mà đã bao nhiêu lần như thế rồi. Suốt ngày hôm nay tôi nhớ lại mà đau lòng quá!
Sonya vặn hai cánh tay trong khi nói, xót xa với những kỷ niệm ấy.
- Thế ra chính cô tàn nhẫn à?
- Phải, chính tôi, chính tôi? Hôm ấy tôi đến nhà, - nàng vừa nói tiếp vừa khóc - cha tôi nói: "Con đọc cho bố nghe một chút. Sonya. Bố nhức đầu lắm, con đọc đi… sách đây" - đó là một quyển sách nhỏ mượn của ông Lebeziatnikov, ông Andrey Xeminovich ấy. Ông ta ở bên cạnh, lúc nào cùng kiếm được những quyển sách thật ngộ nghĩnh. Tôi nói: "Con phải đi đây", tôi không muốn đọc, tôi đến cốt để cho Katerina Ivanovna xem cái cổ áo; số là bà Lizaveta làm nghề buôn đồ cũ có mang lại cho tôi mấy chiếc cổ áo và măng-sét rẻ tiền, nhưng xinh xắn và còn mới, có thêu hoa. Katerina Ivanovna thích lắm, dì ấy đeo vào áo và đứng soi gương, dì ấy thích lắm, thích lắm; dì bảo: "Cho dì, Sonya nhé, dì van Sonya đấy". Dì ấy "van" tôi, vì dì ấy thích quá. Thế nhưng dì ấy có đeo vào đâu? Xin là xin thế thôi, chẳng qua dì ấy sực nhớ lại những ngày vui thuở trước Dì ấy mê mải ngắm nhìn mình trong gương, thế nhưng có còn chiếc áo nào nữa đâu, không còn lấy một chiếc, không còn gì hết, đã mấy năm nay rồi Katerina Ivanovna không bao giờ xin gì ai hết, chính dì ấy có gì cũng đem cho người ta thì có, thế mà lúc ấy dì đã hỏi xin tôi, đủ biết dì ấy thích đến nhường nào! Thế mà tôi tiếc không muốn cho, tôi nói: "Di Katerina Ivanovna, dì đeo vào đâu? Tôi nói thế đấy "đeo vào đâu". Đáng lẽ tôi không được nói như thế! Dì ấy cứ nhìn tôi, dì ấy buồn vì tôi đã từ chối, dì ấy khổ tâm đến nỗi trông tội nghiệp quá chừng… Không phải dì ấy buồn vì mấy chiếc cổ áo đâu, mà vì tôi đã từ chối dì, tôi biết. Ôi! Giá có cách nào chữa lại, xoá bỏ những lời ấy đi… Tôi thật tệ quá! Nhưng nói làm gì… Ông thì ông có cần gì biết!
- Cô có biết bà Lizaveta buôn đồ cũ đấy à?
- Ông cũng biết sao? - Sonya hỏi lại, hơi ngạc nhiên.
- Katerina Ivanovna ho lao rất nặng, chẳng còn sống được bao lâu nữa đâu, - Raxkonikov nói sau một phút im lặng, không trả lời vào câu hỏi.
- Ồ không đâu, không phải đâu! - Và Sonya bất giác nắm lấy hai tay chàng như van xin chàng đừng để cho dì nàng chết.
- Bà ấy chết đi còn hơn.
- Không, sao lại hơn? Không phải thế, hoàn toàn không phải như thế! - nàng hoảng hốt nhắc đi nhắc lại vẻ như không biết mình nói gì.
- Còn các em thì sao? Cô cho chúng đi đâu, nếu không đem về ở với cô?
- Ồ, tôi cũng không biết nữa!… - Sonya kêu lên vẻ hầu như tuyệt vọng, hai tay ôm lấy đầu. Có thể thấy rõ rằng chính nàng cũng đã nghĩ đến điều đó nhiều lần lắm rồi, Raxkonikov chị nhắc lại khiến nàng hoảng sợ một lần nữa thôi.
- Thế nếu trong khi Katerina Ivanovna còn sống, cô sinh bệnh phải vào nhà thương thì sao? - chàng hỏi một cách phũ phàng.
- Ồ, sao ông lại nói thế! Không thể nào như thế được! - Và khuôn mặt Sonya nhăn nhúm lại vì một nỗi kinh hoàng ghê gớm.
- sao lại không thể được? - Raxkonikov cười gằn nói tiếp - Cô có được bảo hiểm đâu! Đến lúc ấy họ sẽ ra sao? Cả nhà sẽ kéo nhau đi lang thang ở ngoài đường, bà ấy sẽ vừa ho vừa xin bố thí và sẽ đập đầu vào tường như hôm ấy, lũ trẻ sẽ khóc. Bà ta sẽ gục xuống, họ sẽ đưa vào đồn cảnh sát, vào nhà thương, bà ta sẽ chết, còn lũ trẻ…
- Ồ không! Chúa không để như vậy? - cuối cùng Sonya thốt ra từ lồng ngực nghẹn ngào. Nàng lắng nghe, nhìn chàng với đôi mắt van lơn, hai tay chắp lại thành một lời cầu khẩn im lặng, như thế mọi sự đều tuỳ thuộc ở chàng.
Raxkonikov đứng dậy đi đi lại lại trong phòng.
Một phút trôi qua. Sonya đứng im, đầu cúi gầm, hai tay buông thõng, dáng rũ rượi.
- Không dành dụm được à? Không để dành được ít nhiều phòng khi bất trắc hay sao? - Chàng bỗng dừng lại trước mặt Sonya, hỏi.
- Không, - Sonya nói thì thầm. -Dĩ nhiên là không
- Cô đã thử chưa? - chàng nói thêm, giọng gần như ngạo nghễ.
- Thử rồi!
- Và thất bại! Thì dĩ nhiên phải thế! Còn hỏi làm gì?
Chàng lại đi bách bộ trong phòng. Một phút nữa trôi qua.
- Thế không phải ngày nào cô cũng có khách à?
Sonya càng bối rối thêm, mặt nàng lại đỏ bừng lên.
- Không, - nàng gượng gạo trả lời.
- Hẳn Polenka rồi cũng phải thế, - chàng nói đột ngột.
- Không! Không. Không thể được, không! - Sonya thét lên như người tuyệt vọng, tường chừng có ai vừa lấy dao đâm vào người nàng. - Chúa không đời nào để cho một việc ghê tởm như thế xảy ra được.
- Vẫn để xảy ra khối việc như vậy đấy!
- Không? Không! Chúa sẽ che chở cho Polenka, Chúa! - nàng nhắc đi nhắc lại, như người mất hồn.
- Mà có lẽ cũng chẳng làm gì có Chúa hết, - Raxkonikov đáp, vẻ dường như hả hê, rồi nhìn nàng cười phá lên.
Mặt Sonya chợt biến sắc đi một cách khủng khiếp, các thớ thịt trên mặt giật lên từng đợt. Nàng nhìn Raxkonikov với một vẻ oán trách không sao tả nổi, nàng muốn nói điều gì, nhưng không sao nói ra được, chỉ bưng mặt khóc nức nở.
- Cô nói Katerina Ivanovna loạn óc; chính cô cũng loạn óc đấy, - chàng nói sau một lát im lặng.
Khoảng năm phút trôi qua. Chàng vẫn lặng thinh đi đi lại lại không nhìn nàng. Cuối cùng chàng đến cạnh nàng, mắt sáng quắc. Chàng nắm lấy hai vai Sonya và nhìn thẳng vào gương mặt ướt đám nước mắt của nàng. Luồng mắt của chàng khô, sắc, nóng như một tia lửa, môi chàng rung mạnh… bỗng chàng quỳ sụp xuống sàn nhà và hôn lên chân nàng. Sonya hoảng hốt lùi lại như tránh một người điên. Vả quả nhiên trông chàng chẳng khác một người điên thật.
- Ông làm gì thế? Với tôi mà ông lại… thế ư? - Nàng nói lắp bắp, mặt tái đi, và tim nàng bỗng thắt lại đau nhói.
Chàng vụt đứng dậy.
- Không phải tôi cúi lạy em, tôi cúi lạy trước sự thống khổ của loài người. - chàng nói, giọng quái gở, và bỏ ra cửa sổ. - Em nghe đây, - một phút sau chàng quay lại nói thêm - lúc nầy tôi vừa nói với một kẻ kiêu căng là hắn không bằng ngón tay út của em… và hôm nay tôi để em ngồi bên cạnh em gái tôi như vậy là một điều vinh dự đối với nó.
- Ồ sao ông lại nói thế? Lại nói trước mặt em ông? - Sonya hoảng hốt kêu lên, - ngồi với tôi mà là một vinh dự! Nhưng tôi làm gì còn… danh tiết. Trời ơi, sao ông lại nói thế?
- Tôi nói về em như thế, không phải vì em mất danh tiết, vì tội lỗi của em, mà vì nỗi đau khổ vô hạn của em. Em là một người tội lỗi, đầy tội lỗi, đúng như thế, - chàng nói thêm, giọng gần như phấn khởi, - và tội lỗi của em càng nặng hơn nữa là vì em hy sinh, đày doạ mình một cách vô ích. Còn gì khủng khiếp hơn phải sống trong đống bùn nhơ mà em ghê tởm, và đồng thời chính em cũng biết (chỉ cần mở mắt ra thôi) rằng làm như vậy chẳng cứu được ai và chẳng có ích gì cho ai chút nào hết! Em thử nói tôi nghe - chàng nói như nỗi khùng lên - làm sao trong tâm hồn em lại có thể pha lẫn những điều nhơ nhuốc, hèn hạ như vậy với những tình cảm thiêng liêng, trái ngược hẳn lại? Thà đâm đầu xuống sông mà chết cho xong có phải là công bằng hơn, công bằng hơn không biết bao nhiêu mà kể, mà lại khôn ngoan hơn nữa không?
- Thế rồi họ sẽ ra sao? - Sonya hỏi, giọng yếu ớt, mắt nhìn chàng chua xót, nhưng hình như không hề ngạc nhiên về cái ý chàng vừa gợi lên. Raxkonikov nhìn nàng với đôi mắt kỳ dị.
Chàng đã đọc thấy tất cả qua mỗi một cái nhìn của nàng. Thế ra chính nàng cũng đã có ý nghĩ đó. Có lẽ đã nhiều lần trong cơn tuyệt vọng nàng suy nghĩ thật sự đến việc kết liễu ngay một lúc cho xong hết mọi sự, và nàng đã nghĩ một cách chín chắn đến nỗi bây giờ nàng hầu như không lấy làm lạ nữa. Thậm chí nàng cũng không để ý thấy lời lê của chàng tàn nhẫn như vậy, và dĩ nhiên cũng không để ý đến ý nghĩa những lời trách móc và nhất là cách chàng nhìn nỗi ô nhục của nàng, và Raxkonikov cũng thấy rõ như vậy.
Nhưng chàng cũng hoàn toàn hiểu nàng bị giầy vò đau đớn khủng khiếp đến nhường nào khi nghĩ đến tình canh ô nhục của mình. Vậy thì cái gì cho đến nay, cái gì đã có thể ngăn chặn quyết tâm tự vẫn của nàng? Nghĩ đến đây chàng mới hiểu hết được mấy đứa trẻ mồ côi khốn khổ và người đàn bà ho lao dở điên dở dại cứ đập đầu vào tường kia có ý nghĩa như thế nào đối với nàng.
Tuy vậy chàng cũng lại thấy rõ rằng nhân cách của Sonya cũng như nếp giáo dục của nàng không thể nào cho phép nàng sống mãi như vậy. Song chàng vẫn băn khoãn không hiểu tại sao nàng lại có thể sống trong tình trong đó lâu như vậy mà không phải điên, nếu không đủ can đảm tự tử" Dĩ nhiên chàng hiểu rằng tình cảnh của Sonya là một hiện tượng ngẫu nhiên trong xã hội, tuy tiếc thay tuyệt nhiên không phải là một hiện tượng cá biệt và ngoại lệ. Nhưng chính tính chất, ngẫu nhiên ấy, nếp giáo dục ấy và cả quãng đời về trước nữa lẽ ra có thể giết chết nàng ngay từ khi bước những bước đầu trên con đường nhơ nhuốc nầy. Vậy thì cái gì đã nâng đỡ nàng? Hẳn không phải là thói dâm ô truỵ lạc. Rõ ràng cuộc sống ô nhục nầy chỉ chạm đến nàng một cách cơ học; sự truỵ lạc thật sự vẫn chưa thấm chút nào vào lòng nàng: chàng thấy rõ như vậy; nàng đang đứng trước mặt chàng như một cảnh thực…
"Nàng có ba con đường. - chàng thầm nghĩ: - nhảy xuống sông, vào nhà thương điên, hay… hay rốt cục lao mình vào truỵ lạc, trí tuệ u mê đi, tâm hồn sắt lại". Ý nghĩ sau cùng nầy khiến chàng ghê tởm hơn cả, nhưng chàng là một kẻ hoài nghi, chàng còn trẻ tuổi, chàng xa rời cuộc sống, vì vậy chàng tàn nhẫn, cho nên không thể không tin rằng lối thoát sau cùng, tức sự truỵ lạc, là lối thoát dễ có cơ thực hiện hơn cả.
"Nhưng chẳng lẽ lại như thế thật, - chàng ngạc nhiên thầm nghĩ, - chẳng lẽ ngay cả con người vẫn còn giữ được một tâm hồn trong sạch nầy rốt cục cũng sẽ tự giác vươn tới cái hố nhơ bẩn, thối tha ấy? Phải chăng xu thế ấy đã bắt đầu, và sở dĩ nàng còn chịu đựng được cho đến nay chỉ vì dâm ô truỵ lạc đối với nàng không còn ghê tởm mấy nữa? Không, không thể như thế được! - chàng nhẩm kêu lên, như Sonya lúc nãy, - không, sở dĩ cho đến nay nàng vẫn chưa tự tử là vì sợ có tội (1) vì nghĩ đến họ, đến những người ấy. Sở dĩ cho đến nay nàng vẫn chưa điên… Nhưng ai bảo nàng chưa điên? Có thật nàng vẫn tỉnh trí hay không? Có thể nào lại nói năng như nàng? Lẽ nào người tỉnh trí lại suy luận như nàng. Lẽ nào có thể ngồi ngay trên miệng hố thối tha của sự truỵ lạc đang hút mình xuống, mà lại xua tay, bịt tai khi người ta nói đến nguy cơ của mình? Nàng làm sao thế, hay là nàng chờ đợi một phép thần thông? Chắc hắn là như thế. Tất cả những điều đó chẳng phải là những dấu hiệu điên rồ sao?".
Chàng kiên trì giữ lấy ý nghĩ nầy. Lối thoát ấy còn làm chàng hài lòng hơn bất cứ lối thoát nào khác.
Chàng bắt đầu nhìn nàng chăm chú hơn.
- Thế cô hay cầu nguyện Chúa lắm phải không Sonya? - chàng hỏi.
Sonya lặng thinh. Chàng đứng cạnh, đợi nàng trả lời.
- Ví thử không có Chúa, tôi sẽ ra sao? - nàng thì thầm rất nhanh, vẻ cương quyết mắt bỗng sáng lên, nhìn chàng một thoáng, tay xiết mạnh tay chàng.
"Đấy đúng như thế!" - chàng nhĩ.
- Thế Chúa làm gì cho em? - chàng tiếp tục dò xét Sonya. Im lặng hồi lâu, như không trả lời được, lồng ngực yếu đuối của nàng phập phồng vì xúc động.
- Ông im đi! Đừng hỏi nữa ông không xứng đáng! - nàng bỗng kêu lên, nghiêm nghị và giận dữ nhìn chàng.
"Đúng thế thật! Đúng thế thật!" - chàng đinh ninh tự nhủ.
- Chúa làm tất cả! - nàng thì thầlm nói nhanh, mắt lại nhìn xuống.
"Lối thoát đây rồi! Đây chính là cách giải thích lối thoát" - chàng tự nhủ, mắt tò mò nhìn nàng hau háu.
Với một cảm xúc mới mẻ, kỳ lạ, gần như đau đớn, chàng nhìn chăm chăm khuôn mặt xanh xao, gầy gò, với những nét sắc và không đều đặn ấy, đôi mắt xanh dịiu hiền có thể ném ra những tia lửa ấy sáng lên vì một cảm xúc mãnh liệt và khắc khổ, cái thân hình nhỏ bé đang run lên vì uất ức và căm giận, và càng thấy tất cả những cái đó thật kỳ lạ, hầu như vô lý. "Đúng là một kẻ ngây dại, một kẻ dại" (2) - chàng nhẩm đi nhẩm lại. Trên tủ ngăn có một quyển sách. Trong khi đi đi lại lại trong phòng, mỗi lần đi ngang chàng vẫn đé thấy nó. Bây giờ chàng cầm nó lên xem. Đó là pho Tân ước bằng tiếng Nga. Quyển sách đóng bìa da, đã cũ kỹ, nhàu nát.
- Sách ở đâu thế nầy? - Chàng hỏi Sonya đang đứng ở chỗ cũ, cách bàn ba hước.
- Có người đem đến cho tôi. - nàng đáp, vẻ như miễn cưỡng, mắt nhìn phía khác.
- Ai đem đến?
- Bà Lizaveta. Tôi nhờ bà ấy kiếm hộ.
"Lizaveta! Lạ thật!" - chàng nghĩ thầm. Mỗi lúc chàng lại càng có cảm giác là tất cả những gì có liên quan đến Sonya cũng đều lạ lùng, kỳ diệu. Chàng đem sách đến gần ngọn nên và bắt đầu giở xem.
- Đoạn nào có chuyện Lazaro? - chàng hỏi đột ngột.
Sonya vẫn nhìn mãi xuống đất, không đáp. Nàng đứng hơi nghiêng người về phía bàn.
- Chuyện Lazaro sống lại ở chỗ nào? Cô tìm hộ tôi đi, Sonya.
Nàng liếc mắt nhìn chàng.
- Không phải ở đấy đâu, trong thiên Phúc âm thứ tư kia… - nàng thì thầm, vẻ nghiêm nghị, vẫn đứng yên.
- Cô tìm hộ và đọc cho tôi nghe đi, - chàng nói đoạn ngồi xuống, khuỷu chống lên bàn, hai tay nâng cằm, mắt trân trân nhìn sang một bên, lắng tai chờ đợi "Nội ba tuần nữa xin mời cô đến một nơi cách đây bảy dặm(3). Chính ta hình như cũng sẽ đến đấy, nếu không phải là một cái gì còn tệ hơn nữa" - chàng lẩm bẩm một mình.
Sonya ngần ngừ bước lại gần bàn… Nàng chưa tin lắm vào cái ý muốn kỳ quặc của Raxkonikov. Song nàng vẫn cầm lấy sách.
- Chả nhẽ ông chưa đọc à? - nàng hỏi, mắt ngước nhìn chàng qua bàn. Giọng nàng mỗi lúc một thêm nghiêm nghị.
- Đã lâu rồi… Hồi tôi còn đi học. Cô đọc đi.
- Thế ông không nghe đọc ở nhà thờ à?
- Tôi… không đi nhà thờ. Còn cô có hay đi không?
- Kh - không, - Sonya thì thầm, Raxkonikov cười nhạt.
- Tôi hiểu… Thế mai cô cũng không đi làm lễ an táng cha cô à?
- Tôi sẽ đi. Tuần trước tôi cũng có đến… làm lễ cầu hồn.
- Cho ai?
- Cho Lizaveta. Bà ấy bị giết bằng rìu.
Cân não chàng mỗi lúc một thêm khích động. Chàng bắt đầu thấy choáng váng.
- Cô thân với bà Lizaveta à?
- Vâng… Bà ấy tốt lắm… bà ấy đến đây… thỉnh thoảng thôi… đến luôn không tiện. Bà ấy với tôi cùng đọc và nói chuyện. Bây giờ bà ấy đang được chiêm ngưỡng thượng đế.
Âm hưởng những từ như rút trong sách ra nầy gợi lên trong lòng chàng một ấn tượng kỳ lạ. Lại thêm những câu chuyện trò bí mật gì giữa hai người… giữa hai người ngây dại ấy.
"Rồi mình cũng dâm ra ngây dại nốt mất thôi! Một chứng hay hay đấy?" - chàng nghĩ. - Đọc đi! - chàng bỗng quát lên, giọng hạch sách và cáu kỉnh.
Sonya vẫn do dự. Tim nàng đập nạnh. Nàng không dám đọc. Raxkonikov nhìn "người điên khốn nạn" với đôi mắt hầu như đau xót.
- Ông nghe làm gì? Ông có tin đạo đâu? - nàng thì thầm rất khẽ, như nghẹt thở.
- Đọc đi tôi muốn thế! - chàng dằn giọng, - cô đọc cho Lizaveta nghe thì được kia mà?
Sonya giở sách ra và tìm đoạn ấy. Tay nàng run lập cập giọng nàng khần đi. Nàng hai lần toan đọc mà vẫn không phát âm ra được chữ đầu.
"Vậy có một người đau, tên gọi Lazaro, vốn người Béthani(4)…" - cuối cùng nàng đọc lên một cách khó nhọc, nhưng từ chữ thứ năm trở đi, giọng nàng vỡ ra đứt ra như sợi dây đàn quá căng. Hơi thở nàng nghẽn 1ại, ngực nàng tức tối. Raxkonikov hiểu được một phần tại sao Sonya phân vân không muốn đọc cho chàng nghe, và càng hiểu ra, chàng lại càng gắt gỏng và nằng nặc đòi nàng đọc một cách thô bạo. Chàng hiểu quá rõ rằng bây giờ nàng rất khổ tâm khi phải bộc lộ những cảm xúc của mình. Chàng đã hiểu rằng những cảm xúc ấy quả nhiên làm thành điều bí ẩn thật sự của nàng, có lẽ đã từ lâu có lẽ từ hồi nàng mới lớn lên, khi còn ở với gia đình, bên cạnh người cha khốn nạn và người dì ghẻ điên rồ vì đau khổ, bên cạnh mấy đứa trẻ đói khát, giữa những tiếng quát tháo và mắng mỏ tục tằn. Nhưng đồng thời giờ đây chàng đã biết, và biết chắc chắn, rằng tuy nàng thấy bồn chồn và vô cùng sợ hãi trước một điều gì khi bắt đầu đọc, nhưng vẫn háo hức muốn đọc lạ lùng, và đọc cho chàng nghe nhất là bây giờ rồi, "sau nầy dù có thể nào cũng mặc!"… Chàng đọc thấy điều đó trong mắt nàng, chàng hiểu nỗi xúc động hưng phấn của nảng… Nàng cố tự chủ cố nuốt cơn nghẹn ngào dâng lên ngang cổ ngay từ câu đầu, và đọc tiếp chương thứ mười một trong thiên Phúc âm của Thánh Joan. Nàng đọc đến câu thứ 19:
"Có nhiều người Judé đã đến để đặng an ủi Martha và Maria về sự anh chết. Martha nghe Đức Chúa Jésus đến, bèn đi đón Người, nhưng Martha thì ngồi tại nhà. Martha thưa cùng Đức Chúa Jésus rằng: Lạy Chúa, nếu Chúa có lại đây, thì anh con đã chẳng chết. Mà bây giờ con cũng biết mọi điều Người sẽ xin Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời ắt ban cho".
Đến đây nàng lại ngừng đọc, hổ thẹn cảm thấy trước rằng mình sẽ run, giọng mình lại sẽ vỡ.
"Đức Chúa Jésus phán rằng: anh người sẽ sống lại. Martha thưa rằng: Con vẫn biết rằng đến sự sống lại ngày cuối cùng, anh con sẽ sống lại. Đức Chúa Jésus phán rằng: ta là sự sống lại, và là sự sống. Kẻ nào tin ta thì dẫu chết đi rồi, cũng sống lại. Còn ai sống và tin ta thì muốn đời chẳng hề chết. Người tin điều đó chăng? Người thưa rằng…"
Sonya khó nhọc thở lại cho đều, rồi cao giọng đọc tách bạch từng chữ, như đang truyền giảng trước một đám đông tín đồ.
"Đức Chúa, phải, tôi tin chúa là Đấng Christo, con Đức Chúa Trời, là Đấng sẽ đến thế gian".
Nàng toan dừng lại ngước mắt lên nhìn chàng, nhưng lại hối hả ghìm mình lại và đọc tiếp, Raxkonikov ngồi nghe không nhúc nhích, không ngoảnh lại, khuỷu tay vẫn chống lên bàn, mắt nhìn sang một bên, Sonya đã đọc đến câu 32:
"Nhưng Maria, lúc đã tới nơi Đức chúa Jésus đứng, vừa thấy Ngài thì sấp mình xuống chân Ngài mà rằng: Lạy Chúa! Nếu chúa có tại đây, thì anh tôi đã không chết! Đức Chúa Jésus thấy người khóc, và những người Judé đi cùng người cũng khóc, bèn đau lòng cảm động mà phán rằng: các người đã chôn người ở đâu? Chúng thưa rằng: Lạy Chúa, xin hãy lại coi. Đức Chúa Jésus khóc. Người Judé bèn nói rằng: kìa, Người yêu Lazaro là dường nào! Có một vài người trong chúng nói: Người đã mở mắt kẻ mù được, há chẳng có thể cũng làm cho người nầy không chết sao?"
Raxkonikov bồi hồi quay lại nhìn nàng. Phải, đúng như thế! Nàng đã run lên cầm cập trong một cơn sốt thật sự. Chàng đã biết trước như thế. Nàng đã sắp đọc đến những lời nói về cái phép lạ lớn lao, kỳ diệu nhất và một cảm giác hân hoan cao cả tràn ngập lòng nàng. Giọng nàng sang sảng như tiếng chuông, chan chứa một niềm hân hoan đắc thắng, lại càng vang lên mạnh mẽ. Những giòng chữ cứ nhoà đi trước mắt nàng, mắt nàng tốt sầm lại, nhưng nàng đã thuộc lòng những câu đang đọc. Đến câu cuối cùng: "Người đã mở mắt kẻ mù được…" nàng hạ thấp giọng xuống, nhiệt thành diễn đạt ý ngờ vực trách móc và chê bai của những người Judé mù quáng, thiếu lòng tin, mà chỉ một phút nữa, như bị sét đánh sẽ phủ phục xuống khóc và tin… "Cả chàng nữa, chàng cũng là một kẻ mù quáng và thiếu lòng tin, chỉ lát nữa chàng cùng sẽ được nghe và cũng sẽ tin. Phải, phải! Lát nữa thôi, ngay bây giờ" - nàng mơ ước, lòng khấp khởi chờ đợi.
"Bấy giờ, Đức Chúa Jesus lại đau lòng nữa, bèn đến phần mộ: một là một cái hang, trước cửa hang nầy có một phiến đá chặn lại. Đức Chúa Jésus phán rằng: hãy cất phiến đá đi. Martha là em gái ké chết thưa rằng: Lạy Chúa đã có mùi, vì chưng người nằm đó đã bốn ngày rồi".
Nàng nhân thật mạnh hai chữ "bốn ngày".
"Đức Chúa Jésus lại phán: ta há chẳng từng nói với người rằng nếu ngươi tin thì sẽ thấy sự vinh hiển của Đức Chúa Trời sao? Ấy vậy, họ lăn hòn đá đi khỏi hang kẻ chết đương nằm. Đứa Chúa Jésus bèn nhướng mắt lên trời mà rằng: thưa cha, tôi tạ ơn Cha đã nhận lời tôi. Tôi cũng biết Cha vẫn hằng nhận lời tôi, nhưng tôi nói vậy là vì có đoàn dân nầy đứng quanh đây, ngõ hầu họ tin rằng ấy chính Cha là Đấng đã sai tôi đến. Ngài nói xong, bèn kêu lên một tiếng lớn rằng: "Lazaro! hãy ra". Và kẻ chết đi ra…".
Nàng đọc to lên, giọng trang trọng, nàng run lên và lạnh toát đi, như thể chính mắt nàng trông thấy.
"… chân tay buộc bằng vải liệm và mặt thì phủ khăn. Đức Chúa Jésus phán cùng chúng rằng; hãy mở cho người, và để người đi. Bấy giờ có nhiều người Judé đã đến cùng Maria và thấy sự Đức Chúa Jésus làm, bèn tin Ngài".
Nàng không đọc tiếp, và không thể đọc tiếp nữa; nàng gấp sách lại và nhanh nhẹn rời ghế đứng dậy.
- Tích Lazaro sống lại đến đây là hết, - nàng nói thì thầm, giọng nghiêm khắc, đoạn đứng yên, người quay sang một bên, không dám ngước mắt lên nhìn chàng, dường như có ý e thẹn. Nàng vẫn run như đang cơn sốt. Mẩu nến đã lụi xuống rất lâu trong chiếc đế đèn mó méo, hắt một ánh sáng lù mù lên kẻ sát nhân và cô gái điếm tụ họp một cách kỳ lạ trong gian phòng khốn khổ, trước pho sách vĩnh hằng. Hơn năm phút trôi qua.
- Tôi đến đây để bàn một việc. - Raxkonikov bỗng cau mày nói to lên. Đoạn đứng vậy lại gần Sonya.
Nàng lặng lẽ ngước mắt lên nhìn chàng. Anh mắt chàng khắc khổ lạ thường, phản chiếu một quyết tâm dữ dội.
- Hôm nay tôi đã ruồng bỏ những người thân, - chàng nói - ruồng bó mẹ và em tôi. Bây giờ tôi sẽ không đến với họ nữa. Tôi đã cắt đứt hết mọi liên hệ.
- Tại sao? - Sonya sửng sốt hỏi.
Cuộc gặp gỡ ban sáng với mẹ và em chàng đã để lại trong lòng nàng một ấn tượng phi thường, tuy chính nàng cũng không sao định rõ. Nàng hầu như kinh hãi khi nghe tin chàng đoạn tuyệt với họ.
- Bây giờ tôi chỉ còn có em nữa mà thôi - chàng nói tiếp - Ta cùng đi… rồi đã đến đây. (chúng ta đều là những kẻ bị nguyền rủa, chúng ta hãy cùng đi khỏi nơi nầy. - Mắt chàng sáng long lanh.
"Như người dở điên dở dại!" - đến lượt Sonya thầm nghĩ.
- Đi đâu? - nàng hỏi, giọng khiếp sợ, và bất giác lùi lại.
- Nào tôi có biết? Tôi chỉ biết là ta sẽ cùng đi một đường, tôi biết chắc, thế thôi. Cũng một mục đích!
Nàng nhìn chàng, không hiểu. Nàng chỉ hiểu rằng chàng đau khổ ghê gớm, vô hạn.
- Nếu em nói với họ, sẽ chẳng có ai hiểu gì hết. Chàng nói tiếp. - Còn tôi, tôi đã hiểu, tôi cần có em, cho nên tôi đã đến em.
- Em không hiểu. - Sonya thì thầm.
- Sau nầy em sẽ hiểu. Chẳng phải em cùng đã làm như tôi sao? Em cũng đã vượt qua… em cũng đã cam tâm vượt qua. Em đã tự đầy đoạ thân mình, em đã hãm hại đời… mình (cũng thế thôi), lẽ ra em có thể sống bằng trí tuệ, bằng lương tri, nhưng em lại kết liễu trên khu chợ… Nhưng em không chịu đựng được đâu và nếu em ở một mình em phát điên như tôi. Ngay giờ đây em cũng đã hoàn toàn như người điên; thế thì ta hãy cùng đi trên một con đường! Ta đi đi!
- Tại sao? Tại sao ông lại nói thế! - Sonya nói, lòng xúc động lạ lùng trước những lời lẽ của Raxkonikov.
- Tại sao ư? Tại vì không thể sống mãi như thế nầy tại vì thế đấy! Rốt cục cũng phải suy nghĩ nghiêm túc: và thẳng thắn, chứ không thể kêu khóc như trẻ con rằng Chúa sẽ không để như thế. Nếu mai đây người ta đưa em vào nhà thương thật thì sẽ ra sao? Bà ấy, vừa điên rồ vừa ho lao, chẳng mấy lâu nữa sẽ chết, còn lũ trẻ? Polenka có thể nào không hư hỏng? Chả nhẽ em không trông thấy những đứa trẻ bị mẹ sai đi ăn xin ở cac góc phố? Tôi đã tìm biết những bà mẹ ấy sống ở đâu va hoàn cảnh như thế nào. Ở đây trẻ con không còn là trẻ con được nữa. Có đứa lên bảy đã truỵ lạc, trộm cắp. Thế mà trẻ con là hình ảnh của Chúa Cơ-đốc, vương quốc của Đức Chúa trời là của chúng". Chúa đã phán cho chúng hằng được kính, được yêu, chúng là nhân loại tương lai…
- Thế thì biết làm thế nào, làm thế nào? - Sonya khóc nức nở từng cơn, hai tay vặn vào nhau, nhắc đi nhắc lại.
- Làm thế nào ư? Cắt đứt vĩnh viễn tất cả những gì cần cắt đứt, chỉ có thể thôi; và gánh lấy nỗi khổ?
- Sao? Em không hiểu? Sau nầy em sẽ hiểu… Tự do và quyền lực nhất là quyền lực! Phải có quyền lực đối với lũ sâu bọ run rẩy, đối với cả cái tổ kiến ấy! Đấy là mục đích! Em nhớ lấy! Đó là lời trăn trối của tôi! Có lẽ tôi nói chuyện với em lần nầy là lần cuối cùng. Nếu ngày mai tôi không đến nữa, em sẽ nghe người ta nói hết mọi chuyện. Đến lúc ấy em hãy nhớ những lời nầy. Rồi về sau, qua năm tháng, đến một lúc nào đấy em sẽ hiểu ý nghĩa những lời nầy. Nếu mai tôi còn đến đây, tôi sẽ nói cho em biết ai đã giết Lizaveta. Từ biệt em!
Toàn thân Sonya run lên vì hoảng sợ.
- Thế ra ông biết ai giết? - nàng hỏi, người lạnh toát đi vì sợ hãi, mắt ngơ ngác nhìn chàng.
- Tôi biết và tôi sẽ nói… cho em biết, chỉ mình em thôi! Tôi đã chọn em. Tôi đến em không phải để xin em tha thứ, mà chỉ để nói cho em biết thôi. Tôi đã chọn em từ lâu, ngay từ khi cha em nói chuyện em cho tôi nghe, và khi Lizaveta hãy còn sống, tôi đã nghĩ đến việc nầy. Thôi chào em. Em đừng đưa tay ra. Mai?
Chàng đi ra, Sonya nhìn theo chàng như nhìn một người điên: nhưng chính nàng cũng như điên như dại, và nàng cũng cảm thấy thế. Đầu nàng choáng váng.
"Trời ơi! làm sao người ấy lại biết ai đã giết Lizaveta? Những câu nói ấy nghĩa là gì? Lạ quá! Nhưng đồng thời ý nghĩ ấy vẫn không đến với nàng. Không hế. Không hề…". Ồ, chắc người phải khổ sở vô cùng! Người ấy đã ruồng bỏ mẹ và em, lại sao. Việc gì đã xảy ra? Người ấy định làm gì? Người ấy đã nói với nàng những gì thế? Người ấy hôn chân nàng và nói, nói… phải, người ấy đã nói rõ như thế, là thiếu nàng người ấy không thể sống được… Trời ơi!".
Suốt đêm hôm ấy Sonya sốt và mê sảng. Đôi khi nàng giật mình choàng dậy, khóc, tay vặn vào nhau, có khi lại chìm vào một giấc ngủ li bì của người sốt, và nàng mơ thấy Polenka, Katerina Ivanovna, Lizaveta, buổi đọc Phúc âm và người ấy… chàng, với khuôn mặt xanh xao, đôi mắt nẩy lứa… Chàng hôn chân nàng, khóc… Trời ơi!
Sau cánh cửa bên phải, cánh cửa ngăn phòng Sonya với các phòng ở của bà Gertruda Karlovna Resslich, có một căn buồng trung gian từ lâu bỏ trống mà bà Resslich có ý định cho thuê, trên cổng vào có một tấm biển và trên các tấm kính cửa sổ trông ra bờ kênh có dán những mảnh giấy cho biết rõ ý định đó. Lâu nay Sonya đã quen coi đó là một gian phòng không có người ở. Thế nhưng suốt tối hôm ấy ông Xvidrigailov đã đứng trong phòng ấy ghé sát vào cánh cửa nghe trộm. Khi Raxkonikov đi ra, ông ta đứng ngẫm nghĩ một lát, rón rén trở về buồng mình giáp gian phòng bỏ trống, lấy một chiếc ghế dựa và lặng lẽ đặt vào sát cánh cửa thông sang buồng Sonya. Ông ta thấy cuộc nói chuyện vừa qua rất lý thú và đáng chú ý, nó làm cho ông ta rất hài lòng, hài lòng đến nỗi ông ta đưa chiếc ghế sang để sau nầy, ngay như ngày mai chăng hạn, khỏi phải chồn chân đứng suốt một tiếng đồng hồ; từ rày phải có chỗ ngồi cho thật thoải mái để hưởng một khoái cảm trọn vẹn về đủ mọi phương diện.

Chú thích:
(1) Đối với những người Cơ đốc giáo, tự tử là "trọng tội"
(2) Nguyên văn "jurodivaia" ở Nga có những người ngây dại được những người mê tín coi là "người của Chúa", bản thân họ cũng thường mộ đạo đến mức cuồng si
(3) Cách Petersburg bảy dặm có một nhà thương điên
(4) Những đoạn trích Phúc âm ở đây đều sao theo bản Kinh thánh bằng tiếng Việt của Société biblique britannique et étrangère( Thượng Hải 1925, có sửa lại đôi chút hơi khác với các bản La tinh, Nga và Pháp.



TỘI ÁC VÀ SỰ TRỪNG PHẠT


Phần IV

Chương 23


Sáng hôm sau, đúng mười giờ, khi Raxkonikov bước vào đồn cảnh sát, đến phòng viên dự thẩm và nhờ vào báo với Porfiri Petrovich là mình đã đến, chàng phải lấy làm lạ không hiểu sao mãi người ta vẫn chưa tiếp chàng: ít nhất đến mười phút sau mới có lệnh mời chàng vào. Thế mà chàng cứ dự tính là lẽ ra chàng vừa đến họ đã vồ ngay lấy chàng mới phải. Trong khi đó chàng vẫn đứng trong phòng khách, quanh chàng có nhiều người đi lại, toàn là những người chẳng có vẻ gì chú ý đến chàng cả. Ở phòng sát bên trông giống như một phòng giấy, có mấy viên thư lại đang ngồi viết và có thể thấy rõ là trong bọn họ không hề có ai hay biết gì về cái tên Raxkonikov. Chàng đưa mắt lo lắng và ngờ vực dò xét quanh mình, xem thử đâu đây có một tên lính áp giải nào, một đôi mắt bí mật nào theo dôi chàng, để chàng khỏi lén đi đâu chăng? Nhưng không hề có một dấu hiệu nào tương tự: chỉ thấy những viên thư ký quen đang bận bịu với những công việc lặt vặt và những người không hề để ý đến chàng: bây giờ chàng có muốn đi khắp các phương trời cũng chẳng ai biết. Mỗi lúc chàng một thêm vững tâm nghĩ rằng nếu con người bí mật hôm qua, cái bóng ma từ dưới đất trồi lên ấy biết hết và trông thấy hết, thì lẽ nào người ta lại để cho chàng ung dung đứng đợi như thế nầy? Và chẳng lẽ người ta lại ngồi yên cho đến mười một giờ đợi đến khi chàng tự nguyện dẫn xác đến? Thế nghĩa là người ấy chưa tố giác gì, hay… hay chẳng qua chính hắn cũng chẳng biết gì, chẳng trông thấy gì nốt (mà trông thấy làm sao được kia chứ!), vậy thì tất cả những việc xảy ra hôm qua chỉ là một ảo ảnh, bị trạng thái kích động và trí tưởng tượng bệnh tật của chàng phóng đại ra. Giờ đây ôn lại tất cả những việc ấy và chuẩn bị bước vào cuộc chiến đấu sắp tới, chàng bỗng cảm thấy mình run, và thậm chí còn thấy giận sôi lên khi nghĩ rằng mình run sợ trước tên Porfiri Petrovich khả ố. Đối với chàng, điều khủng khiếp nhất là phải gặp lại con người ấy: chàng căm thù hắn vô cùng, vô hạn, thậm chí còn sợ lòng căm thù ấy làm cho mình hở miệng mà tiết lộ. Chàng tức giận đến nỗi lập tức thôi run; chàng sửa soạn bước vào với một vẻ lạnh lùng xấc xược và tự hứa với mình là sẽ cố lặng thinh, có chú ý nhìn và lăng nghe càng nhiều càng tốt, ít nhất lần nầy phải thắng cho kỳ được cái bản năng dễ khích động một cách bệnh tật của mình.
Ngay lúc ấy họ gọi chàng vào phòng giấy Porfiri Petrovich.
Porfiri Petrovich đang ngồi một mình trong phòng làm việc. Đó là một gian phòng không lớn mà cũng không nhỏ: trong phòng có một cái bàn viết đặt trước một chiếc đi-văng bọc vải sơn, một cái bàn đựng giấy tờ; một cái tủ đặt trong góc và mấy cái ghế dựa - toàn là những đồ đạc của công sở, bằng gỗ vàng đánh bóng.
Trong một góc, trên bức tường phía sau, hay nói cho đúng hơn là trên tấm gỗ ngăn ở phía sau, có một cánh cửa đóng kín: sau tấm gỗ ấy chắc phải còn những gian khác nữa. Khi Raxkonikov vào, Porfiri Petrovich lập tức khép cánh cửa chàng vừa bước qua, và trong phòng chỉ còn lại hai người. Porfiri Petrovich đón khách một cách hết sức vui vẻ và niềm nở, và chỉ mấy phút sau, Raxkonikov mới nhận thấy một vài dấu hiệu tỏ ra ông ta hơi lúng túng, cứ như thể có ai vừa làm cho ông ta ngạc nhiên một cách đột ngột hay bất chợt thấy ông ta đang làm một việc gì vụng trộm.
- A, anh bạn rất đáng kính! Anh đến sào huyệt chúng tôi rồi… - Porfiri chìa cả hai tay ra nói. - Nào, cậu ngồi đây! Hay có lẽ, anh không thích tôi gọi "anh bạn" hay… "cậu" tout court? (1). Xin anh đừng cho là tôi quá suồng sã… Đây ạ, mời anh ngồi lên chiếc đi-văng nầy.
Raxkonikov ngồi xuống, mắt vẫn chăm chú nhìn Porfiri.
Mấy chữ "đến sào huyệt chúng tôi rồi", cậu xin lỗi về cách xưng hô, hai chữ Pháp "tout court", v.v… đều là những dấu hiệu tiêu biểu. "Chà, hắn chìa cả hai tay ra cho mình, nhưng không đưa tay nào cho mình bắt cả, hắn rụt lại rất đúng lúc" - chàng thoáng nghĩ, lòng nghi ngại. Hai người theo dõi nhau, nhưng hễ hai luồng mắt gặp nhau một cái là nhanh như chớp, họ nhìn ngay sang phía khác.
- Tôi đem mảnh giấy nầy đến… về cái đồng hồ… ấy ạ Viết thế nầy được chưa ạ, hay phải viết lại?
- Cái gì? Giấy à? Được, được… anh đừng bận tâm, thế nầy được rồi, - Porfiri Petrovich nói liến thoắng như đang vội đi đâu, đoạn cầm giấy xem. - Phải đúng thế nầy đây. Không cần gì hơn nữa. - Ông ta vẫn nói liến thoắng, đoạn đặt tờ giấy xuống bàn. Rồi một phút sau, trong khi đã nói sang chuyện khác, ông ta lại cầm lên và đem cất vào bàn đựng giấy.
- Hôm qua hình như ông có nói rằng ông muốn hỏi tôi… chính thức… về quan hệ giữa tôi với người… bị giết? - Raxkonikov mở đầu, - "Sao mình lại nói hình như - ý nghĩ ấy vụt qua óc như một tia chớp. - Mà sao mình lại lo ngại vì đã nói hình như - một ý nghĩ khác lập tức kế theo, nhanh như luồng điện.
Và chàng chợt cảm thấy rằng trong chốc lát, chỉ cần tiếp xúc với Porfiri Petrovich một cái, chỉ cần hai câu nói, hai tia mắt, là tính đa nghi của chàng đã tăng lên đến mức quái dị… và như vậy hết sức nguy hiểm: thần kinh bị khích động, càng thêm hồi hộp. "Nguy to! Nguy to! Ta lại sẽ lỡ lời".
- Vâng - vâng - vâng. Xin anh đừng ngại! Ta còn đủ thì giờ, còn đủ thì giờ, - Porfiri Petrovich lắp bắp.
Ông đi đi lại lại bên bàn viết, nhưng hình như chẳng có mục đích gì cả, khi bước ra cửa sổ, khi lại gần bàn đựng giấy, khi lại đến bàn viết, khi thì cố tránh khóe nhìn ngờ vực của Raxkonikov, khi thì lại dừng phắt tại chỗ nhìn trừng trừng vào mắt chàng. Những lúc ấy trông cái bóng dáng thấp bé, mập mạp và tròn trình của ông ta thật là kỳ quái, cứ như một quả bóng lăn lông lốc khắp phòng, hễ gặp phải tường là bật trở lại.
- Ta còn nhiều thì giờ, còn nhiều thì giờ! Anh có hút thuốc không? Anh có thuốc đấy chứ! Đây, thuốc lá đây - ông vừa nói vừa đưa cho khách một điếu - Anh ạ, tôi tiếp anh ở đây, còn chỗ ở của tôi thì ở ngay bên kia vách… phòng của sở cắt cho tôi đây, còn bây giờ thì tôi tạm thời ở chỗ khác, vì đây đang còn phải sửa sang lại đôi chút. Cũng gần xong rồi… Được Nhà nước cắt cho chỗ ở cùng là một chuyện thú vị, anh nhỉ? Anh nghĩ sao?
- Phải, thú vị lắm, - Raxkonikov đáp, mắt nhìn Porfiri gần như ngạo nghễ.
- Thú vị lắm, thú vị lắm… - Porfiri Petrovich nhắc đi nhắc lại, như chợt nghĩ đến một điều gì khác hẳn, - Phải thú vị lắm! - cuối cùng ông nói to gần như reo lên, dừng phắt lại cách Raxkonikov hai bước và nhìn thẳng vào mặt chàng. Cái lối nhắc đi nhắc lại một cách ngốc ngếch rằng được Nhà nước cắt chỗ ở cho là một chuyện thú vị ấy thật quá tương phàn với cái nhìn nghiêm trang, thâm trầm và bí ẩn của ông ta lúc bấy giờ. Nhưng điều đó lại càng làm cho cơn giận của Raxkonikov sôi sục lên, chàng không sao nén nổi một lời khiêu khích ngạo nghễ và khá liều lĩnh:
- Ông nầy, - chàng bỗng hỏi, mắt nhìn Porfiri gần như xấc xược và tựa hồ cảm thấy khoái lạc với cái vẻ xấc xược ấy hình như có một quy tắc tư pháp, một biện pháp mà các vị dự thẩm đều dùng, là thoạt tiên nói những chuyện xa xôi, những chuyện vặt vãnh không đâu hay thậm chí nói đến một việc nghiêm trang nào ngoài rìa để làm cho người bị hỏi cung vững tâm hay nói cho đúng hơn, xao lãng đi, để ru ngủ sự đề phòng của người rồi đột nhiên giáng lên đỉnh đầu người ta một câu hỏi hết sức bất ngờ và nguy hiểm; có phải thế không? Hình như xưa nay trong cái tập điều lệ, quy chế nhất nhất đều có nhắc đến biện pháp nầy thì phải?
- À thế ra… Ông cho rằng tôi nói đến chuyện phòng phiếc là để thế đấy phỏng? - Nói đoạn Porfiri Petrovich nháy mắt một cái; một vẻ cười cợt ranh mãnh thoáng lướt qua mặt ông ta, những nếp nhăn trên trán lặn đi, hai con mắt ti hí nheo lại, các nét mặt giãn ra rồi ông ta bỗng phá lên cười một thôi dài, rung cả người lên, mắt nhìn thẳng vào mặt Raxkonikov.
Raxkonikov cũng gượng gạo cất tiếng cười, nhưng khi Porfiri thấy chàng cười theo, lại càng cười sặc sụa đến nỗi mặt đỏ tía lên, thì Raxkonikov kinh tởm. Cơ chừng không còn giữ gìn gì được nữa: chàng im bặt, cau mày và quắc mắt căm giận, nhìn không chớp vào mặt Porfiri suốt trận cười dường như cố ý kéo dài vô tận của y. Vả chăng, rõ ràng là cả hai bên đều thiếu thận trọng: hoá ra Porfiri Petrovich đã cười vào mặt khách, trong khi khách phát uất lên vì tiếng cười của ông ta, thế mà ông ta cũng không lấy gì làm ngượng cả. Raxkonikov rất chú ý đến điều nầy: chàng đã hiểu rằng vừa qua Porfiri Petrovich chẳng thấy ngượng chút nào, mà ngược lại, chính chàng có lẽ đã rơi vào tròng; chàng hiểu rằng ở đây hiển nhiên có một chứ ý gì mà chàng không biết, rằng có lẽ mọi việc đã bố trí xong xuôi và chỉ lát nữa sẽ lộ rõ ra, phơi trần ra…
Chàng lập tức đi thẳng vào đề, đứng dậy cầm lấy mũ:
- Porfiri Petrovich, - chàng nói, giọng quả quyết, nhưng cũng để lộ khá rõ sự bực tức. - Hôm qua ông có ngỏ ý muốn tôi đến đây để ông hỏi cung gì đấy. Chàng nhấn mạnh đặc biệt hai tiếng "hỏi cung". Tôi đã đến, và ông cần gì xin cứ hỏi, nếu không xin để tôi về. Tôi đang vội, tôi có tí việc. Tôi cán đến dự lễ an táng người công chức bị ngựa xéo mà ông, cũng có biết … - Chàng nói thêm rồi lập tức phát cáu lên vì đã nói thêm như vậy, rồi sau đó lại càng bực tức hơn nữa vì đã phát cáu lên như thế, - tôi chán ngấy những chuyện nầy rồi. Ông thấy không, ngay từ lâu rồi… và cùng một lần vì thế mà tôi phát ốm, nói tóm lại. - chàng gần như quát lên, vì cảm thấy câu nầy lại càng không đúng chỗ hơn nữa, nói tóm lại: một là ông hỏi tôi đi, hai là để cho tôi về ngay… và nếu có hỏi thì xin hỏi cho đúng thủ tục! Bằng không, tôi sẽ không cho phép; vì vậy, trong khi chờ đợi, xin chào ông, và hiện nay ông với tôi không còn chuyện gì để mà nói nữa…
- Trời ơi Anh làm sao thế? Hỏi anh cái gì mới được chứ" - Porfiri Petrovich kêu lên, lập tức đổi giọng, đổi vẻ mặt và thôi cười ngay trong nháy mắt, - Xin anh đừng lo, anh ạ, - Ông ta nói, giọng vồn vã, rồi lại hùng hục đi bách bộ khắp phòng, xong lại đến mời Raxkonikov ngồi xuống, - còn chán thì giờ anh ạ, còn chán thì giờ, với lại những cái đó toàn là chuyện không đâu cả! Trái lại tôi rất mừng là anh đã đến chỗ chúng tôi. Tôi tiếp anh như tiếp một người khách. Còn về trận cười chết tiệt của tôi thì xin anh bỏ qua cho, Rodion Romanovich ạ. Có đúng tên anh là Rodia Romanovich không nhỉ? Tên ông cụ thân sinh anh là Roman phải không? Thần kinh tôi dễ kích thích lắm, lời nhận xét hóm hỉnh của anh làm tôi buồn cười quá; đôi khi tôi cười cứ rung bắn lên như qua bóng cao su suốt nửa giờ liền… Tôi hay cười lắm. Tạng tôi thế nầy, tôi còn sợ bị bại liệt nữa kia. Nhưng anh ngồi xuống chứ, ai lại thế? Ngồi đi, anh bạn ạ, không tôi lại nghĩ là anh giận…
Raxkonikov im lặng lắng nghe và quan sát, mặt vẫn cau có giận dữ. Tuy vậy chàng cũng ngồi xuống, nhưng tay vẫn không bò mũ.
- Anh bạn Rodion Romanovich ạ, tôi xin nói với anh một điều về bản thân tôi, có thể nói là để anh hiểu rõ đặc tính của tôi, - Porfiri nói tiếp, vẫn đi lại lăng xăng trong phòng và vẫn tránh mắt Raxkonikov như ban nãy. - Anh ạ, tôi là người độc thân, không hay giao thiệp và ít người biết tên, hơn nữa lại là một người hết thời, một người bỏ đi, một người đã mụ mằn đã mốc meo lên rồi và… và… anh có nhận thấy điều nầy không, anh Rodion Romanovich là ở nước ta, nhất là trong các giới Petersbung của chúng ta, nếu hai người thông minh chưa quen lắm nhưng có thể nói là coi trọng nhau, như anh với tôi chẳng hạn, ngồi lại với nhau, thì thường hàng nửa giờ vẫn không tài nào tìm ra một đề tài nói chuyện, - cứ ngồi trơ ra nhìn nhau, ngượng nghịu. Ai ai cũng có đề tài nói chuyện, các bà chẳng hạn… Những giới xã giao thượng đẳng chẳng hạn, bao giờ cũng có chuyện mà nói, cest de rigueur(2), còn hạng người trung lưu như chúng ta thì lại hay ngượng và ít nói… Ấy là tôi nói những người biết nghĩ ấy. Thế thì tại sao, anh thứ nghĩ xem, tại sao lại như thế? Tại chúng ta không quan tâm gì đến các vấn đề xã hội, hay tại chúng ta vốn rất trung thực cho nên không muốn lừa dối nhau, tôi cũng không biết nữa. Hả? Anh nghĩ sao? Kìa, anh để mũ xuống chứ, cứ như anh định đi ngay ấy, quả tình cũng khó coi lắm… Trái lại, tôi rất mừng…
Raxkonikov đặt chiếc mũ lưỡi trai xuống và lặng thinh, vẻ nghiêm trang và cau có, lắng nghe câu chuyện rỗng tuếch và đầu Ngô mình Sở của Porfiri. "Phải hắn định nói chuyện nhảm như thế để làm mình xao nhãng sức chú ý thật chăng?".
- Tôi sẽ không mời anh xơi cà phê đâu, đây không phải chỗ; nhưng tại sao lại không ngồi giải trí lấy dăm phút với bạn bè, - Porfiri nói không ngớt miệng, - Anh ạ, những thứ công vụ nầy nọ, nhưng tôi cứ đi đi lại lại thế nầy anh đừng phật ý nhé; anh bỏ qua cho, anh bạn ạ, tôi rất sợ làm anh phật ý, nhưng tôi không thể thiếu vận động được. Tôi phải ngồi suốt ngày nên cũng muốn đi lại lấy dăm phút… bệnh trĩ mà… tôi vẫn chữa bằng thể dục; nghe nói có những ông tư vấn, những ông tư vấn quốc gia hắn hỏi, và ngay cả những ông tư vấn cơ mật nữa cũng vui lòng nhảy dây; thời buổi khoa học là thế đấy… thế đấy… Còn về những công vụ ở đây, những việc hỏi cung và những thủ tục nầy nọ… ấy, anh vừa có nhã ý nhắc đến chuyện hỏi cung… quả nhiên, anh Rodion Romanovich ạ, xin anh biết cho rằng những cuộc hỏi cung ấy đôi khi còn làm cho người hỏi rối trí hơn cả người bị hỏi nữa kia… Về điều nầy, vừa rồi anh bạn vừa có một nhận xét hoàn toàn đúng đắn, mà lại dí dỏm nữa (thật ra Raxkonikov không hề nhận xét gì như thế cả). Cứ rối tung lên? Phải, rối tung lên! Và trở đi trở lại vẫn chỉ có thế, như cái trống ếch ấy! Sắp cải cách đến nơi, ít nhất cũng mong họ đổi cách gọi cho, hê hê hê! Còn như về cái biện pháp tư pháp của chúng tôi - như anh đã gọi một cách dí dỏm - thì tôi hoàn toàn đồng ý với anh. Thì anh bảo người bị cáo nào, ngay cả tên mu-gích dần độn nhảt cũng thế, người bị cáo nào mà không biết rằng thoạt tiên người ta bắt đầu hỏi những câu vu vơ để ru ngủ mình (theo cách nói rất tài tình của anh) rồi bỗng nhiên bổ thắng vào sọ, bổ thẳng sống rìu, hê hê hê, vào chính giữa sọ, theo cách ẩn dụ rất tài tình của anh hê - hê! Thế ra anh nghĩ rằng tôi nói đến chuyện chỗ ở là muốn… hê - hê? Anh có khiếu châm biếm đấy. Ấy, tôi không làm như thế đâu? À phải, nhân nói đến chuyện nầy lại nhớ đến chuyện kia, vừa rồi anh cũng có nhã ý nhắc đến thủ tục, ấy, thủ tục hỏi cung ấy mà… Nhưng thủ tục là cái gì? Anh ạ, trong nhiều trường hợp thủ tục chỉ là chuyện nhảm. Đôi khi nói chuyện thân mặt như chỗ bạn bè lại có lợi hơn. Thủ tục không mất đi đâu, xin anh cứ yên tâm; nhưng xin hỏi thủ tục thực ra là cái gì? Trong bất cứ trường hợp nào thủ tục cũng không có quyền làm vướng chân người hỏi cung. Công việc của người dự thẩm có thể nói là một thứ nghệ thuật tự do hay một cái gì như thế… hê - hê - hê!
Porfiri Petrovich dừng lại một phút đề thở. Ông ta cứ thế tuôn ra từng tràng những câu rỗng tuếch, vô nghĩa lý, nhưng thỉnh thoảng lại đột ngột chen vào những chữ đầy ần ý rỏi lại lập tức quay ra nói chuyện phiếm. Bây giờ ông ta gần như chạy khắp phòng, hai cẳng chân béo phị bước mỗi lúc một nhanh, mắt nhìn xuống đất, tay phải để sau lưng, tay trái khua lia lịa, làm đủ các thứ cử chỉ không ăn khớp tí nào với lời nói của ông ta. Raxkonikov chợt nhận thay rằng trong khi chạy qua chạy lại trong phòng, có đôi lần hình như ông ta dừng chân bên cánh cửa một khoảnh khắc, có vẻ như nghe ngóng… "Hắn chờ đợi cái gì hay sao thế?".
- Ấy quả nhiên anh nói đúng hoàn toàn đấy, - Porfiri nói tiếp, mắt nhìn Raxkonikov một cách vui vẻ và hồn nhiên lạ thường đến nỗi chàng phải giật mình đề phòng, - Đúng thật đấy, anh có nhã ý chê điều các thủ tục tư pháp một cách thật dí dỏm mà lại rất đúng đắn, hê - hê! Những biện pháp tâm lý học thâm thuỷ của chúng tôi (dĩ nhiên cũng chỉ một số nào thôi) qua nhiên cũng hết sức buồn cười, mà có lẽ lại còn vô ích nữa, nếu nói bị hình thức cản trở. Phải, tôi lại xin nói đến thủ tục: ấy, nếu tôi được giao cho điều tra một vụ nào đấy, và biết rằng, hay nói cho đúng hơn, nghi ngờ rằng người nầy người nọ là thủ phạm… Hình như anh học luật thì phải?
- Vâng, trước kia tôi học luật.
- Ấy thế thì đây là một thí dụ có thể có ích cho anh về sau, nghĩa là anh đừng nghĩ rằng tôi dám lên mặt dạy anh: đã viết được một bài báo về tội ác như thế còn khiến ai dạy! Không đâu; chẳng qua tôi chỉ đánh bạo trình bày một sự kiện, một dẫn chứng nhỏ đấy, chẳng hạn tôi cho rằng người nầy, người kia, người nọ là thủ phạm, thì xin hỏi việc gì tôi lại làm phiền đến họ quá sớm, mặc dầu cứ cho là tôi có bằng chứng dế buộc tội họ đi nữa? Chẳng hạn có người thì phải bắt ngay, nhưng có người thì tính chất lại khác, đúng thế đấy, thế thì việc gì không để cho hắn trong chơi trong thành phố ít lâu? Hê - hê! Ấy, tôi thấy hình như anh chưa thật hiểu, vậy tôi xin nói rõ hơn: chẳng hạn tôi bắt đầu sớm quá, thì như vậy có lẽ tôi đã cho hắn một chỗ dựa tinh thần, có thể nói như thế, hê - hê! Anh cười à? (Raxkonikov không hề có ý muốn cười: chàng mím môi ngồi im, đôi mắt nảy lửa không rời mắt Porfiri Petrovich). Nhưng thật ra nó như thế đấy, nhất là đối với một số người nào đó, vì người ta mỗi người một tính, và chúng tôi chỉ biết dựa vào kinh nghiệm thực tế mà thôi! Vừa rồi anh có nhã ý nhắc đến bằng chứng; thì ta cứ cho là phải có bằng chứng đi, nhưng anh ạ, bằng chứng phần nhiều đều to hai mặt; tôi là một người dự thẩm, nghĩa là một con người yếu đuối, xin nhận như vậy: trong bụng cũng muốn tiến hành điều tra một cách rõ ràng như toán học, cùng muốn kiểm được một bằng chứng hiển nhiên như hai lần hai là bốn! Một bằng chứng trực tiếp, không chối cãi vào đâu được! Nhưng nếu bắt người không đúng lúc, tuy biết đích xác đó chính là thủ phạm, thì như vậy là tự tước bỏ mất phương tiện tiếp tục buộc tội, tại sao? Tại vì làm như vậy tức là đã cho hắn một tình thế xác định, có thể nói như thế, làm cho hắn yên chí và vững tâm, thế là hắn sẽ rụt sâu vào vỏ: hắn sẽ hiểu rằng hắn là một tù nhân. Nghe nói ở Sevaxtopol ngay sau trận Alma, những người có trí tuệ rất lo quân địch đánh vào không biết lúc nào và chiếm ngay Sevaxtopol; nhưng khi thấy quân địch muốn tiến hành một cuộc vây hãm chính quy và bắt đầu xây công sự, thì họ yên tâm và vui mừng không biết bao nhiêu mà kể: như thế nghĩa là ít nhất hai tháng nữa cuộc vây hãm chính quy kia mới kết thúc bằng trận đánh chiếm thành phố? Anh lại cười rồi, lại không tin à? Dĩ nhiên anh cũng đúng. Đúng, đúng! Đó vẫn là những trường hợp cá biệt, tôi cũng nghĩ thế; trường hợp vừa nêu lên là một trường hợp cá biệt đấy! Nhưng anh Rodion Romanvôvich thân mến ạ, trong khi đó cần phải nhận rõ điều nầy: cái trường hợp chung chung mà các, thủ tục và quy tắc tư pháp ghi trong sách vở nhằm giải quyết và vẫn được ứng dụng để giải quyết, lại là một trường hợp không hề có, chính là vì bất cứ vụ án nào cũng là một vụ án mạng chẳng hạn, hễ đã xảy ra trong thực tế thì lập tức chuyển thành một trường hợp hoàn toàn cá biệt và đôi khi không có chút gì giống các vụ trước. Đôi khi có những trường hợp hết sức khôi hài. Ấy, tôi cứ để cho một vị nào đó hoàn toàn tự do: không bắt bớ, không quấy rầy gì cả, nhưng làm thế nào để cho ông ta từng giờ từng phút biết rằng - hay ít nhất cùng nghi ngờ rằng tôi biết hết từ đầu chí cuối, rằng tôi suốt đêm ngày theo dõi ông ta, rình mò ông ta không lơi một phút, tôi cứ để cho ông ta nghi ngờ và lo sợ thường xuyên như thế, xin cam đoan là thế nào ông ta cũng cuống lên, tự dẫn xác đến và có lẽ lại còn hớ hênh để lộ ra một cái gì giống như hai lần hai là bốn, một cái gì có vẻ toán học, ấy thế mới thú chứ. Điều đó có thể xảy ra với một anh mu-gích quê kệch mà cũng có thể xảy ra với một anh em của chúng ta, một con người hiện đại, mà lại có nhiều sở trường về một mặt nào đó nữa, đã từng có trường hợp như thế đấy! Bởi vì, anh bạn thân mến ạ, một điều rất quan trọng là phải hiểu người kia sở trường mặt nào. Lại còn thần kinh nữa, thần kinh nữa chứ, anh quên mất cái nầy! Chả là bây giờ những con người như thế đều đau ốm, dễ khích động! Lại thêm cái chứng sưng mặt nữa, sưng mặt nặng ấy. Và cũng xin nói rằng nhiều khi đó là thứ nguồn quặng đấy. Việc gì tôi lại phải lo vì hắn đi lại tự do trong thành phố? Cứ để cho hắn dạo chơi, tạm thời cứ để cho hắn dạo chơi đã; vì dù sao tôi cũng biết là con mồi của tôi không bao giờ bỏ tôi mà lẩn đi đâu cả kia mà! Vả lại lẩn đi đâu mới được chứ? Hê - hê! Ra nước ngoài à? Một người Hà Lan thì trốn ra nước ngoài, chứ hắn thì không đâu. huống chi tôi vẫn theo dòi và hơn nữa đã có cách đề phòng. Trốn vào những nơi thâm sơn cùng cốc của tổ quốc chăng? Nhưng ở đấy toàn những gã mu-gich Nga chân chính, những gã mu-gích thâm căn cố đế: một người có học như ngày nay thì thà vào ngục còn thích hơn là sống với bọn mu-gích của chúng ta, hề - hề! Vì đối với họ, bọn mu-gích cùng chẳng khác gì người ngoại quốc!
Nhưng những cái đó toàn là chuyện vặt, chuyện bề ngoài. Trốn là thế nào! chỉ là chuyện hình thức, cái chính không phải ở chỗ đó; hắn không trốn không phải chỉ vì không biết trốn đi đâu: hắn không trốn thoát tôi vì những nguyên do tâm lý học kia. Nghe cùng hay đấy chứ nhỉ! Vì một định luật của tự nhiên, hắn không trốn dù có chỗ để mà trốn cũng vậy. Anh đã trông thấy một con bướm trước ngọn nến chưa? Ấy, hắn cứ thế mà luấn quẩn mãi xung quanh tôi như con bướm quay cuồng xung quanh ngọn nến; tự do đối với hắn không còn có gì thú vị nữa, hắn sẽ nghĩ ngợi, rối trí, quằn quại, làm cho mình mắc míu thêm như vưóng vào lưới, tự dày vò mình đến chết đi được! Chưa đủ: chính hắn sẽ chuẩn bị cho tôi một tấn trò toán học gì như kiểu hai lần hai là bốn, miễn là tôi cho hắn một thời gian giải lao cho lâu lâu. Và hắn sẽ quay tròn, quay tròn mãi xung quanh tôi mỗi lúc một gần lại và… hớp! Hắn sẽ chui tọt vác mồm tôi, tôi sẽ nuốt chửng, thú vị thật, hê - hê - hê! Anh không tin à?
Raxkonikov không đáp, chàng ngồi yên, không cử động, mặt tái mét, mắt vẫn chăm chăm nhìn vào mặt Porfiri.
"Bài học hay đấy - chàng nghĩ, người lạnh toát ra. - Bây giờ không còn là cái kiểu mèo vờn chuột như hôm qua nữa. Hắn không dại gì phô trương sức mạnh của hắn ra và… mách nước cho mình một cách vô ích: hắn thông minh hơn thế nhiều… Đây có một mục đích khác. Mục đích gì? A, đừng hòng, ông bạn ạ. Ông doạ dẫm tôi. Ông mưu mẹo với tôi à? Ông không có bằng chứng, và con người hôm qua không hề có. Chẳng qua ông muốn làm tôi rối trí, muốn trêu cho tôi tức lên trước, rồi khi tôi đã khùng lên thì chộp chứ gì? Đừng hòng, hớ rồi! Nhưng sao hắn lại mách nước cho mình đến mức ấy để làm gì? Hắn trông mong vào bộ dây thần kinh ốm yêu của mình chắc. Không đâu, ông bạn ạ đừng hòng, hớ rồi đấy, mặc dầu ông đã có sửa soạn một cái gì đây… Nào, thử xem ông sửa soạn cái gì?"
Và chàng lấy hết sức bình sinh ra chuẩn bị đón lấy cái tai hoạ khủng khiếp và chưa hề hay biết kia.
Nhiều lúc chàng muốn chồm lên bóp cổ Porfiri chết tươi ngay tại chỗ. Từ khi bước vào đây, chàng đã sợ cơn giận đó. Chà ng cảm thấy môi khô lại, tim đậ p thình thình, nước bọt sùi ra mép. Nhưng chàng vẫn quyết im lặng không nói một câu nào khi chưa đến lúc. Chàng hiểu rằng đó là chiến thuật tất nhất ở tình thế chàng, vì làm như vậy không những chàng sẽ không lỡ lời mà trái lại còn làm cho kẻ thù tức tối khi thấy mình lặng thinh, và có lẽ chính hắn còn lỡ lời ra với mình nữa. Ít nhất chàng cũng hy vọng như vậy.
- Không, anh không tin, tôi biết, anh vẫn nghĩ rằng tôi đùa nhảm, - Porfiri nói tiếp, mỗi lúc một vui lên, thích chí cười hềnh hệch luôn mồm và lại bắt đầu chạy loanh quanh trong phòng. - Dĩ nhiên anh nghĩ phải; trời sinh tôi ra người ngợm như thế nầy, thành thứ chỉ gợi lên cho người ta những ý nghĩ hài hước mà thôi; tôi là một thằng hề; nhưng tôi đã nói và xin nhắc lại với anh một lần nữa rằng anh nên bỏ qua cho tôi, một người già cả. Anh Rôđỉôn Romanvôvich ạ. anh hãy còn trẻ, có thể nó; là đang tuổi hoa niên cho nên cũng như toàn thể lớp thanh niên, anh trọng trí tuệ con người hơn cả. Sự sắc sảo nhạy bén của trí tuệ và những sự suy diễn trừu tượng của lý trí quyến rũ anh rất mạnh.
Và như vậy là giống hệt như cái Hofkriegsrat của Áo ngày trước chẳng hạn, trong chừng mực tôi có thể xét đoán qua các biến cố quân sự, trên giấy thì họ đánh tan quân Pháp và bắt Napleon làm tù binh, và trong khi họ ngồi trong phòng giấy mà tính toán với suy diễn một cách vô cùng sắc bén, thì tưởng Mark đã đầu hàng cùng với cả quân đoàn ông ta, hê - hê - hê! Tôi biết, tôi biết anh Rodion Romanovich ạ, anh đang cười tôi, vì tôi là công chức mà cứ thích lấy dẫn chứng trong lịch sử quân sự. Biết làm thế nào được, tôi có cái tật là thích việc quân sự và thích đọc các bản thông báo quân sự chắc hẳn tôi đã chọn sai nghề. Lẽ ra tôi phải đeo đuổi nghiệp quân sự mới phải. Có lẽ cũng chẳng thành một Napoleon đâu, nhưng cũng phải lên đến chức thiếu tá hê - hê - hê? Ấy đấy còn bây giờ, anh bạn thân mến ạ tôi sẽ nói cho anh biết chi tiết việc kia, nghĩa là cái trường hợp cá biệt ấy: thực tế và nhân tính là điều quan trọng, anh ạ, và đôi khi nó làm điên đảo sự tinh toán sáng suốt nhất? Ấy, anh nên tin lời một người già cả tôi nói thật đấy, Rodion Romannovich (trong khi nói nhưvậy, Porfiri Petrovich tuy chỉ vẻn vẹn ba mươi lăm tuổi, nhưng quả nhiên cùng trông như già hẳn đi: ngay cả giọng nói của ông ta cùng thay đổi, người khọm rọm lại), - hơn nữa tôi là người ngay thật… Tôi có phải là người ngay thật không nào? Theo anh thì sao? Hình như ngay thật hẳn hoi chứ còn gì nữa: những chuyện như thế mà tôi cứ nói toang ra cho anh biết, lại không đòi đên bù gì cả. hê - hê ấy thế đấy, tôi xin nói tiếp: trí tuệ sắc sảo là một điều rất quý; đó có thể nói là một sự tô điểm của thiên nhiên và là một nguồn an ủi của cuộc sống, và nó có thể bày ra đủ các trò quỷ thuật đến nỗi một anh dự thẩm tội nghiệp nhiều khi không biết đằng nào mà lần nữa; vả lại hắn ta còn bị trí tưởng tượng của hắn mê hoặc nữa, vì hắn ta cũng là người thôi! Nhưng nhân tính lại cứu trợ cho anh dự thẩm tội nghiệp kia, thế mới chết chứ! Và chính đó là điều mà lớp thanh niên say mê trí tuệ không nghĩ đến, trong khi "bước qua mọi trở lực" (như anh đã nói một cách hết sức sắc sảo và tinh tế). Cứ thử cho rằng hắn lừa dối, - hắn đây tức là con người ấy, cái trường hợp cá biệt, incognito(3) ấy, - mà lừa dối một cách tài tình, khôn ngoan hết sức: có vẻ như sắp đắc thắng đến nơi rồi, hắn bắt đầu khoái trá thưởng thức những kết quả của cái trí tuệ sắc sảo của hắn, thế nhưng đùng một cái đúng vào chỗ thú vị nhất, đúng vào chỗ giật gân nhất, hắn lăn ra bất tỉnh. Thì cứ cho là hắn đang ốm, không khí trong phòng có khi cũng ngột ngạt thật, nhưng dù sao cũng lạ? Dù sao cũng gợi lên một ý! Hắn lừa dối một cách ưu việt, nhưng lại không biết trù liệu đến nhân tính. Hiểm nhất là chỗ ấy đấy. Một lần khác, mải say sưa với cái trí tuệ sắc bén của mình, hắn bắt đầu lòe người đang nghi ngờ hắn, hắn làm như cố ý tái mặt đi để đùa chơi, nhưng hắn tái mặt một cách quá tự nhiên, quá giống nhự thật, thế là lại gợi thêm một ý nữa? Tuy thoạt tiên người kia mắc lỡm thật, nhưng đêm về nghĩ lại, không biết mình có lầm lẫn hớ hênh gì chăng. Ấy cứ mỗi bước lại như thế mãi: Gì nhỉ; hắn bắt đầu đi quá bước, hắn đến những nơi không ai hỏi. hắn, hắn luôn mồm nói đến những chuyện lẽ ra phải im đi, hở ra những câu bóng gió nầy nọ, hề - hề… rồi lại tự dẫn xác đến hỏi: tại sao chưa bắt tôi đi… hề - hê - hê.
Điều đó có thể xảy ra với một con người hết sức sắc sảo một nhà tâm lý học và là một nhà văn. Nhân tính là một tấm gương, một tấm gương trong suốt nhất! Hãy nhìn vào gương mà thưởng ngoạn, thế đấy! Kìa sao anh tái mặt đi thế, Rodion Romanovich, anh ngạt thở à, hay tôi mở cửa sổ ra nhé?
- Ồ xin ông đừng bận tâm, - Raxkonikov nói to lên, rồi bỗng cười ha hả, - Xin ông đừng bận tâm!
Porfiri dừng lại trước mặt chàng, đợi một lát rồi bỗng cười theo. Raxkonikov rời đi-văng đứng dậy, trận cười như lên cơn của chàng đột nhiên ngừng bặt.
- Porfiri Petrovich? - chàng nói to, tách bạch từng tiếng, tuy chân chàng run rấy chỉ chực khuỵu xuống, - bây giờ tôi đã thấy rõ ông nghi tôi giết hai chị em mụ già. Về phần tôi, tôi xin tuyên bố với ông rằng chuyện nầy đã làm tôi phát ngấy lên từ lâu rồi. Nếu ông thấy mình có quyền truy tố tôi trước pháp luật thì cứ truy tố đi; nếu ông thấy cần bắt, thì bắt đi. Nhưng cười vào mặt tôi và hành hạ tôi thì không được đâu, tôi không cho phép ông làm như vậy…
Môi chàng bỗng run lên, mắt chàng lóe lên một ánh căm giận điên cuồng, và giọng nói của chàng, nãy giờ bị kìm hãm, vang lên lanh lảnh.
= Tôi không cho phép ông làm như vậy! - chàng bỗng quát lên, lấy hết sức lực giáng mạnh quả đấm xuống bàn, - Ông nghe ra chưa. Porfiri Petrovich? Tôi không cho phép?
- Ối trời ơi, lại làm sao rồi! - Porfiri Petrovich kêu lên, vẻ hoảng hốt đến cùng cực. - anh! Rodion Romanovich! Kìa cậu! cậu làm sao thế?
- Tôi không cho phép! - Raxkonikov lại quát lên một lần nữa.
- Khẽ chứ anh bạn ạ! Không người ta nghe thấy mất. họ sẽ đến đây! Biết nói với họ ra sao. Anh thử nghĩ xem! - Porfiri Petrovich thì thầm, vẻ hoảng hốt, mặt ghé sát vào mặt Raxkonikov.
- Tôi không cho phép, tôi không cho phép! - Raxkonikov lắp đi lắp lại như cái máy, nhưng bất giác cũng thì thầm rất khẽ.
Porfiri quay phắt đi và chạy ra mở cửa sổ.
- Phải mở ra cho thoáng! Anh uống tí nước, anh bạn ạ, anh vừa lên cơn đấy! - y toan chạy ra cửa sai bưng nước, nhưng vừa may trong góc phòng có một cái bình thuỷ tinh đựng nước lã.
- Anh ạ, uống đi - y vồn vã đem nước lại cho Raxkonikov, nói thì thầm, - may ra sẽ đỡ… - vẻ sợ hãi và ngay cả vẻ thương cảm của Porfiri nữa trông tự nhiên đến nỗi Raxkonikov im bặt và bắt đầu nhìn ông ta với một trí tò mò man dại. Tuy vậy, chàng cũng không uống nưức.
Rodion Romanovich! Anh ạ, anh mà cứ thế thì rồi đến phát điên lên mất, tôi cam đoan như vậy, chà! Kìa anh uống đi! Ít nhất cùng uống lấy một ngụm!
Hắn ép chàng cầm cốc nước lên. Như cái máy, chàng nâng cốc đưa lên môi, nhưng chợt trấn tĩnh lại, chàng lại ghê tởm đặt cốc xuống bàn, phải, anh vừa lên cơn một chút đây! Cứ như nầy thì bệnh cũ của anh lại tái phát mất đấy anh bạn ạ, - Porfiri Petrovich nói, ân cần như một người bạn: song vẫn có vẻ hơi hoang mang. - Trời ơi! Anh chẳng biết nương nhẹ mình tí nào cả? Ngay như Dmitri Prokofich hôm qua có đến tôi. - đã đành tính tình tôi cay độc, khó chịu thật đấy, nhưng ai lại vì thế mà suy diễn quá đáng như vậy bao giờ! Trời ơi, hôm qua anh về rồi, Dmitri Prokofich dặn trong khi chúng tôi đang ăn bữa trưa, cậu ấy nói huyên thiên, tôi không chen được một câu nào, chỉ đớ người ra mà nghe; ấy, tôi nghĩ… chà, rõ thật! Có phải anh bảo cậu ấy đến không? Kìa anh ngồi xuống chứ, tôi van anh, anh ngồi xuống chứ!
- Không, tôi không bảo? Nnưng tôi biết Razumikhin có đến ông, và đến để làm gì, - Raxkonikov đáp xẵng.
- Anh biết à?
- Biết. Thế thì sao nào?
- Thì thế nầy, anh Rodion Romanovich ạ, số là tôi còn biết nhiều kỳ công của anh nữa kia; tôi biết hết! Tôi biết chuyện anh đi thuê nhà ra sao, giữa lúc đêm hôm, trời đã tối mịt, anh lại giật chuông, lại nói đến vũng máu, làm cho mấy người thợ và mấy người gác cổng không còn hiểu ra làm sao nữa. Tôi cùng hiểu tâm trạng của anh lắm, tâm trạng lúc bấy giờ ấy… dù sao cứ như thế rồi anh đến phát điên lên mất, thật đấy! Anh loạn óc mất! Lòng căm phẫn của anh sôi sục lên mãnh liệt, một lòng căm phẫn cao quý vì thấy mình bị xúc phạm, lúc đầu là số phận xúc phạm đến anh, kể đến là bọn cảnh sát, thế là anh đâm đầu đến nơi nầy nơi nọ để… có thể nói là để bắt mọi người nói rõ ra và chấm dứt ngay mọi sự, vì những mối nghi ngờ ngu xuẩn ấy đã làm anh phát ngấy lên rồi. Có phải thế không nào? Tôi đoán đúng tâm trạng anh đấy chứ? Nhưng cứ cái lối ấy, anh không những làm cho mình loạn óc lên mà ngay cả Razumikhin nhà ta nữa. Anh cũng làm hắn loạn óc nốt; vì cậu ấy tốt lắm, không thể hiểu được chuyện ấy đâu, chính anh cũng biết đấy. Anh thì có bệnh, cậu ấy thì có đức, và bệnh của anh rốt cục sẽ lây sang cậu ấy… Anh ạ, lúc nào anh bình tâm lại, tôi sẽ kể… kìa anh ngồi xuống chứ, tôi van anh. Anh nghĩ đi một chút, anh trông nhợt hẳn đi; kìa anh ngồi xuống đi.
Raxkonikov ngồi xuống, cơn run đã qua, khắp người chàng nóng hâm hấp. Chàng sững sờ lắng nghe giọng nói của Porfiri Petrovich đang hoảng hốt và ân cần săn sóc chàng. Nhưng chàng không mảy may tin lời ông ta nói, tuy cảm thấy có một xu hướng kỳ lạ muốn tin những lời đó. Những câu nói bất ngờ của Porfiri về chuyện đi thuê nhà làm cho chàng choáng hẳn người đi. "Thế ra hắn biết chuyện ấy rồi ư?" - chàng chợt nghĩ - mà lại đem ra kể với mình!".
- Vâng, trong kinh nghiệm thực tế của chúng tôi đã từng có một trường hợp gần đúng như thế, một trường hợp tâm lý học, bệnh lý học như thế, - Porfiri nói liến thoắng. - Có một người tự gán cho mình tội sát nhân, mà lại gán thế nầy nữa kia: hắn ta dựng ra cả một cảnh tượng hoang đường, đưa ra những bằng chứng, kể lại cặn kẽ từng chi tiết, làm mọi người không biết đằng nào mà lần nữa, để làm gì? Quả tình hắn cũng có can dự vào vụ án mạng nhưng một phần nào thôi, và hoàn toàn không có chủ tâm, đến khi hắn biết là mình vô tình nối giáo cho bọn sát nhân, hắn đâm ra buồn phiền, lo sợ đến nói loạn óc lên, tưởng tượng đủ thứ, rốt cục phát điên hắn hỏi và đinh ninh rằng mình chính là kẻ giết người! Nhưng về sau toà thượng thẩm khám phá ra vụ nầy, người khốn nạn kia được xử trắng án và gửi vào nhà tế bần. May mà có toà thượng thẩm. May thậ - ật, chậc - chậc - chậc! nhưng như thế rồi sẽ ra sao hở anh bạn? Cứ thế có thể lên cơn sốt nóng khi thần kinh đã quá khích động, rồi đang đêm đi giật chuông và hỏi những thuyện máu me! Qua kinh nghiệm tôi đã biết tường tận cái tâm lý đó. Đôi khi nó cứ xui người ta nhảy, từ trên cửa sổ hay trên gác chuông xuống, và cảm giác ấy có một cái gì quyến rũ lạ thường… Chuyện giật chuông cũng thế thôi… Do bệnh tật đấy Rodion Romanovich ạ, do bệnh tật mà ra cả! Anh coi thường bệnh tình của anh quá đấy. Lẽ ra anh phải hỏi ý kiến một ông thầy thuốc có kinh nghiệm, chứ đừng có bám lấy anh chàng béo ấy… Anh mê sảng đấy! Những việc anh làm đều do mê sảng mà ra cả đấy?
Trong phút chốc mọi vật như quay cuồng lên xung quanh Raxkonikov.
"Phải chăng, phải chăng bây giờ hắn vẫn nói dối? - Chàng thoáng nghĩ - Không thể được, không thể được!, - chàng gạt ý nghĩ ấy đi, cảm thấy trước rằng nó sẽ làm mình giận sôi lên, nổi khùng lên, và cơn giận có thể làm mình phát điên được.
- Không phải tôi mê sảng mà làm như vậy đâu, tôi tinh đấy! - chàng quát lên, trong khi cô vận dụng hết sức xét đoán để nhìn sâu vào thủ đoạn của Porfiri - Tôi vẫn tỉnh đấy, vẫn tỉnh đấy! Ông nghe ra chưa? Vâng, tôi nghe, tôi hiểu? Ngay hôm qua anh cũng nói là không mê sảng. Thậm chí còn nhấn mạnh đặc biệt là không mê sảng! Anh nói gì tôi cũng hiểu hết!
Chà!… Anh nghe tôi, anh Rodion Romanovich kính mến của tôi ạ, đây cứ lấy một việc nầy chẳng hạn. Ví thử anh quả là thủ phạm hay có can dự vào cái vụ án chết tiệt nầy thật, thì đời nào anh lại nhấn mạnh rằng mình làm những việc ấy trong lúc hoàn toàn tỉnh táo, chứ không phải trong cơn mê sảng? Mà lại cứ khăng khăng một mực nhấn mạnh đặc biệt vào chỗ đó nữa, - anh thử nghĩ xem, có thể nào như thế được không? Theo tôi thì hoàn toàn ngược lại mới phải. Ví thử anh có ẩn ý gì thì lẽ ra phải quả quyết rằng mình đang mê sảng mới đúng! Có phải thế không nào? Thế chứ gì?
Trong câu hỏi nầy nghe như có một cái gì tinh quái, Raxkonikov né người lùi sát lưng tựa vào chiếc đi-văng để tránh Porfiri Petrovich đang chồm vào chàng, và ngỡ ngàng nhìn trân trân vào mặt hắn.
- Hay như về việc Ruzumikhin chẳng hạn, hôm qua cậu ta đến là tự ý mình hay do anh dặn thế lẽ ra anh phải nói là cậu ta tự ý đến, và giấu chuyện mình có dặn dò đi! Thế nhưng chính anh có giấu đâu! Anh lại còn nhấn mạnh rằng chính mình dặn cậu ta đến!
Raxkonikov không hề nhấn mạnh như thế. Chàng thấy lạnh buốt ở sống lưng.
- Ông cứ dối trá mãi, - chàng nói chạm rãi: giọng u uất môi rúm lại thành một nụ cười đau đớn - Ông lại muốn cho tôi thấy rằng ông biết hết hành tung của tôi, biết trước tất cả những câu trả lời của tôi, - chàng cảm thấy mình không còn đủ sức cân nhắc lời lẽ cho kỹ lưỡng được nữa, - Ông muốn doạ tôi… hay chẳng qua ông nhạo báng tôi…
Chàng vẫn nhìn trừng trừng vào Porfiri trong khi nói, rồi bỗng một cơn giận điên cuồng, vô hạn lại lóe lên trong mắt chàng.
- Chỉ dối trá! - chàng quát lên. - Chính ông cũng biết rất rõ rằng thủ đoạn lợi hại nhất của kẻ phạm tội là cố sức không giấu giếm những điều không giấu giếm được Tôi không tin ông đâu!
- Cái anh nầy ngộ nghĩnh thật! - Porfiri cười hì hì, - không biết đằng nào mà lần nữa; anh có một định kiến gì ăn sâu vào óc ấy. Thế anh không tin tôi à? Tôi thì tôi xin nói với anh rằng anh tin tôi đấy, anh đã tin được một phần tư, nhưng tôi sẽ làm cho anh tin tôi cả bốn phần, vì tôi thành thật mến anh và thành tâm mong điều lành điều tốt cho anh.
Môi Raxkonikov run lên.
- Vâng, tôi mong thế, tôi sẽ nói dứt khoát cho anh biết, - hắn nói tiếp, khẽ cầm lấy cánh tay Raxkonikov ở phía trên khuỷu tay một chút, - tôi xin nói rằng: anh phải coi chừng cơn bệnh. Hơn nữa gia đình anh lại vừa mới đến đây; anh phải nhớ đến họ. Anh nên âu yếm vỗ về cho họ yên lòng mới phải, đằng nầy anh chỉ làm họ lo sợ…
- Việc gì đến ông? Sao ông lại biết? Việc gì ông phải quan tâm đến thế? Thế ra ông theo dòi tôi, và ông muốn cho tôi biết như thế?
- Kìa! Thì chính anh cho tôi biết cả, chứ còn ai! Anh không để ý rằng trong khi nóng nảy anh đã nói cho tôi và cho nhiều người khác biết trước mọi chuyện rồi sao? Dmitri Prokofich Razumikhin hôm qua cũng cho tôi biết nhiều chi tiết rất thú vị. A, vừa rồi anh ngắt lời tôi, chứ tôi muốn nói rằng mặc dầu anh thông minh sắc sảo như thế, nhưng cứ cái tính đa nghi ảy, anh không còn nhìn sự việc một cách tỉnh táo được nữa đâu. Đấy cứ trở lại chuyện cái chuông chẳng hạn, một của quý như thế, một sự kiện như thế (vì đó là cả một sự kiện) mà tôi lại cứ đem ra nói bô bô lên với anh, tôi, một viên dự thẩm! Thế mà anh không thấy gì à? Nếu tôi có ý nghi ngờ anh một mảy may, đời nào tôi lại làm như thế! Trái lại, lúc đầu tôi phải ru ngủ ý đề phòng của anh và giả vờ như không biết việc nầy, để đánh lạc hướng anh rồi đột nhiên, như bổ sống rìu xuống đỉnh sọ (theo lối nói của anh), hỏi đốp vào mặt: "Thưa ngài, thế ngài có nhã ý đến làm gì trong phòng người bị giết lúc mười một giờ tối? Tại sao ngài lại giật chuông? Tại sao ngài lại hỏi đến vũng máu? Tại sao ngài lại lừa mấy người gác cổng và rủ họ lên gặp quận trưởng?". Lẽ ra tôi phải làm như thế mới phải, nếu tôi có chút nào nghi ngờ anh. Lẽ ra phải lấy khẩu cung anh theo đúng thủ tục, ra lệnh khám nhà và có lẽ giam anh nữa…
Đằng nầy tôi lại không làm như thế, nghĩa là tôi không nghi ngờ gì anh! Nhưng anh chẳng thấy gì cả, vì anh mất khả năng nhìn sự việc một cách tinh táo rồi, xin nhắc lại như vậy.
Raxkonikov run bắn cả người lên, thành thử Porfiri Petrovich trông thấy quá rõ.
- Chỉ dối trá! - Chàng quát lên, - tôi không biết chủ ý của ông, nhưng biết là ông nói dối… Lúc nãy ông nói khác hẳn, tôi không nhầm được đâu. Ông nói dối!
- Tôi mà nói dối ư? - Porfiri đáp, hình như đã nổi nóng lên, nhưng vẫn giữ vẻ hết sức tươi cười ngạo nghễ và như thế không hề chấp đến ý kiến của Raxkonikov đối với mình. - Tôi nói dối ư… Thế vừa rồi tôi xử lý với anh như thế nào (tôi, một viên dự thẩm), chính tôi mách rõ cho anh tất cả các phương tiện bào chữa, tôi phân tích cho anh thấy hết cái tâm lý ấy: "Tôi ốm đau tôi mê sảng, lại bị xúc phạm trong một tâm trạng u uất như vậy, lại bọn cảnh binh nhũng nhiễu và vẫn vẫn… Hê - hê - hê! Tuy nhân thể cũng xin nói rằng tất cả những phương tiện bào chữa tâm lý học ấy, những lý do và những lối chống chế ấy hết sức bấp bênh, mà lại có hai mặt; ừ thì nói là "bệnh hoạn, mê sảng, chiêm bao, mơ màng, mất trí nhớ", được cả, nhưng xin hỏi anh, tại sao trong cơn bệnh, trong khi mê sảng anh chỉ mơ thấy những chuyện ấy thôi, chứ không mơ thấy cái gì khác. Có thể mơ thấy nhiều chuyện khác lắm chứ? Có phải không nào? Hê - hê - hê.
Raxkonikov kiêu hãnh và khinh bỉ nhìn hắn.
- Tóm lại, - Chàng nói to và dằn giọng, vừa nói vừa khẽ ẩy Porfiri ra, đứng dậy. - tóm lại, tôi muốn biết ông có công nhận tôi hoàn toàn ở ngoài vòng tình nghi hay không, ông nói đi, ông Porfiri Petrovich, ông hãy nói cho chắc chắn và dứt khoát, và nói nhanh lên, ngay bây giờ!
- Chà, thật là gay go? Chơi với anh gay go thật đấy, - Porfiri kêu lên, vẻ hết sức tươi cười, ranh mãnh, không mảy may bối rối. - Nhưng tại sao anh lại phải biết, anh muốn biết nhiều như thế để làm gì, trong khi người ta chưa hề quấy rầy đến anh. Anh thật như đứa trẻ con: đưa lửa đến đây, nào nào? Tại sao anh lại phải lo lắng đến thế? Tại sao anh lại hỏi chúng tôi những câu như thế? Vì lý do gì? Ha hê - hê - hê?
Một lần nữa. - Raxkonikov như điên như dại quát lên:
- Xin nhắc lại rằng tôi không thể nào chịu được nữa cái…
- Cái tình trạng mập mờ nầy chứ gì? - Porfiri tiếp luôn.
- Đừng có trêu gan tôi! Tôi không chịu đâu… Tôi bảo với ông ta là tôi không chịu! Tôi không thể và không muốn! Ông nghe chưa, nghe chưa? - Chàng lại nện quả đấm lên bàn lần nữa.
- Kìa khẽ chứ, khẽ chứ! Người ta nghe thấy đấy? Tôi xin nói thật cho anh biết, anh liệu hồn. Tôi không đùa đâu! - Porfiri nói thì thầm, nhưng lần nầy trên gương mặt ông ta không còn cái vẻ hốt hoảng và chất phác hơi đàn bà như lúc nãy nữa; trái lại, bây giờ ông ta ra lệnh hẳn hỏi, giọng nghiêm khắc, mày cau lại và dường như gạt phăng một lúc tất cả những thái độ mập mờ bí ẩn trước đây. Nhưng điều đó chỉ thoáng qua trong chóc lát. Đang bàng hoàng, Raxkonikov điên tiết hẳn lên; nhưng lạ thay, chàng lại một lần nữa tuân theo mệnh lệnh nói khẽ, tuy cơn giận điên cuồng của chàng đã lên đến cực điểm.
- Tôi không để cho ông giầy vò tôi đâu! - Chàng thì thào như lúc nãy, trong giây lát đau xót và căm hờn nhận rõ rằng mình không thể không phục tùng mệnh lệnh của hắn, và nghĩ như vậy lại càng điên tiết thêm, - Ông bắt tôi đi, khám xét đi, nhưng xin ông làm đúng thủ tục chứ không được đùa với tôi! Ông không được…
- Thôi anh đừng lo đến thủ tục làm gì - Porfiri ngắt lời với nụ cười ranh mãnh như trước và dường như khoái trá ngắm nghía Raxkonikov, - anh ạ, tôi mời anh đến đây như chỗ người nhà, hoàn toàn đứng trên tình bạn…
- Tôi không thèm cái tình bạn của ông, tôi nhổ toẹt vào! Ông nghe ra chưa? Bây giờ tôi lấy mũ đi về đây. Ấy bây giờ ông nói sao, nếu ông có ý định bắt.
Chàng cầm lấy mũ và đi ra cửa.
- Thế anh không muốn xem trò vui bất ngờ à? - Porfiri cười hềnh hệch, đoạn lại nắm lấy cánh tay chàng ở phía trên khuỷu một chút và giữ chàng lại ở ngưỡng cửa. Hắn mỗi lúc một thêm vui và thêm vẻ cợt nhả ra mặt, khiến Raxkonikov không sao tự chủ được nữa.
- Trò vui gì? Cái gì thế - Chàng dừng phắt lại hỏi và sợ hãi nhìn Porfiri.
- Ấy cái trò vui bất ngờ của tôi nó đang ngồi sau cánh cửa kia, hê - hê - hê! - Hắn giơ ngón tay chỉ cánh cửa đóng kín trên tấm ván ngăn gian phòng ở của hắn.
- Tôi lại còn khoá cửa lại cho nó khỏi trốn đi kia.
- Cái gì thế ở đâu? Cái gì? - Raxkonikov lại gần cánh cửa, toan mở ra, nhưng cửa đã khoá chặt.
- Khoá rồi anh ạ, chìa khoá đây!
Quả nhiên y rút trong túi ra một cái chìa khoá, đưa ra cho chàng xem.
- Mày vẫn nói láo! - Raxkonikov thét lên, không sao ghìm mình được nữa, - mày nói láo, quân xỏ lá!
Chàng lao vào Porfiri. Ông ta lùi ra phía cửa ngoài, nhưng không chút sợ sệt.
- Tao hiểu hết rồi! - Chàng chồm vào người y. - Mày nói láo, mày có trêu tức tao, để tao tiết lộ ra…
- Nhưng còn có cách nào tiết lộ nhiều hơn thế được nữa hả anh bạn, Rodion Romanovich. Anh mất tự chủ rồi còn gì. Đừng có quát tháo! Tôi gọi người vào đây.
- Mày nói láo, chẳng có trò gì đâu! Mày cứ gọi người vào đây! Mày biết tau đau ốm nên muốn khích cho tao điên tiết lên, để tao tiết lộ ra, mưu mô của mày là như thế đấy! Không được, mày cứ thử đưa bằng chứng ra đây xem! Tao hiểu hết rồi! Mày không có bằng chứng nào hết, mày chỉ đoán mò một cách bẩn thỉu, vô lý, như kiểu thằng Zamiotov! Mày biết tính tao, cho nên mày muốn khích cho tao nổi khùng lên, rồi đưa một lũ cố đạo, một lũ nhân chứng ra để làm cho tao hết vía đi chứ gì… Mày đang đợi chúng phỏng? Mày đợi cái gì? Ở đâu? Đưa vào đây xem nào!
- Nhân chứng gì hở anh bạn! Con người ta thật khéo tưởng tượng! Dù có theo thủ tục như anh nói nữa thì làm như thế cũng không được, anh bạn ạ, anh chẳng hiểu công việc tí nào… Nhưng thủ tục không mất đi đâu tự anh sẽ thấy… - Porfiri vừa lẩm bẩm vừa lắng nghe những tiếng động ngoài cửa.
Quả nhiên lúc bây giờ ngay trước cửa vào, ở phòng bên nghe như có tiếng ồn ào.
- À chúng đến đấy phỏng! - Raxkonikov quát lên. - mày cho đi gọi chúng đến chứ gì! Mày đợi chúng chứ gì! Mày trù tính… Nào, thì cho cả lũ vào đây: nhân chứng, đại biểu, mày muốn thứ gì cũng được, nào? Tao sẵn sàng! Sẵn sàng…
Nhưng đến đây xảy ra một biến cố kỳ dị, bất ngờ so với quá trình diễn biến bình thường của sự việc đến nỗi cả Raxkonikov lẫn Porfiri Petrovich đều không sao lường trước được một cách kết thúc như vậy.

Chú thích:
(1) Gọn lỏn (tiếng Pháp)
(2) Nhất thiết phải như thế (tiếng Pháp)
(3) Ấn danh (tiếng Ý)


TỘI ÁC VÀ SỰ TRỪNG PHẠT


Phần IV

Chương 24


Về sau, khi hồi tưởng lại giây phút đó, Raxkonikov hình dung sự việc xảy ra như sau:
Tiếng ồn ào bên kia cửa ra vào bỗng tăng lên rất nhanh, và cánh cửa mở hé ra.
- Cái gì thế? - Porfiri Petrovich bực tức quát lên. - Ta đã dặn…
Thoạt tiên không có tiếng trả lời, nhưng cũng có thể đoán được là sau cánh cửa có một tốp người, hình như đang cố xô một người ra.
- Kìa, cái gì thế hả? - Porfiri Petrovich hỏi lại, giọng lo lắng.
- Chúng tôi giải tên tù đến, tên Mikolai đấy ạ, - Có tiếng ai đáp.
- Khoan hẵng! Dẫn đi! Đợi đã… Sao lại cho hắn vào đây? Lộn xộn quá chừng! - Porfiri chồm ra cửa quát lên.
- Nhưng hắn… - giọng nói lúc nầy cất lên nhưng rồi bỗng ngừng bặt.
Khoảng hai giây sau nghe có tiếng vật nhau huỳnh huỵch, rồi như có ai đẩy mạnh một người khác ra, rồi một người mặt tái mét bước thẳng vào phòng giấy Porfiri Petrovich.
Thoạt trông, dáng vẻ người ấy rất lạ. Hắn nhìn trân trân phía trước, nhưng tựa như không trông thấy gì cả. Mắt hắn ánh lên một quyết tâm dứt khoát nhưng mặt hắn lại nhợt nhạt như người chết, tưởng chừng như hắn đang bị đưa đi hành hình. Đôi môi trắng bệch của hắn khẽ run run.
Hắn còn rất trẻ, ăn mặc như hạng bình dân, tầm vóc trung bình, người gầy, tóc cắt thành hình cái gáo, nét mặt thanh tú và trông như khô khan. Người bị hắn xô lao vào phòng theo hắn trước tiên và nắm được vai hắn: đó là người lính đi áp giải, nhưng Mikolai quẫy tay một cái khiến hắn phải thả ra một lần nữa.
Một đám người hiếu kỳ xúm xít ngoài cửa. Có mấy người chực len vào. Tất cả những việc kể trên đều diễn ra trong một khoảnh khắc.
- Ra đi đã, chưa đến lúc! Đợi ta gọi hẵng vào chứ? Sao lại dẫn hắn đến sớm thế? - Porfiri Petrovich làu bàu, vẻ bực bội hết sức và dường như cuống quít lên.
Nhưng Mikolai bỗng quỳ xuống.
- Làm cái gì thế? - Porfiri quát, vẻ sửng sốt.
- Tôi có tội! Tôi xin thú! Tôi là kẻ giết người - Mikolai nói, giọng như hơi ngắc ngứ, nhưng khá to.
Mọi người lặng đi trong khoảng mười giây, như thể đều bị cấm khẩu; thậm chí người lính áp giải còn né người ra xa Mikolai, lùi dần về phía cửa và đứng sững ra đấy.
- Cái gì thế? - Porfiri Petrovich trấn tĩnh lại quát Tôi… là kẻ giết người… - Mikolai nhắc lại sau một phút im lặng.
- Sao… mày… Sao… Mày giết ai?
Porfiri Petrovich bối rối ra mặt. Mikolai lại im lặng một giây.
- Tôi giết Aliona Ivanovna và em gái bà ta, Lizaveta Ivanovna, tôi… giết… bằng rìu. Tôi bị quẫn trí… - vẫn quỳ như cũ, hắn nói thêm, rồi lại im bặt.
Porfiri Petrovich đứng yên một lát như suy nghĩ điều gì, nhưng rồi bỗng vùng vằng xua tay đuổi mấy người nhân chứng bất ngờ kia đi. Họ lui ra ngay, và cánh cửa khép lại. Porfiri đưa mắt về phía Raxkonikov đang đứng trong góc phòng ngây dại nhìn Mikolai, toan đi về phía chàng nhưng bỗng dừng lại nhìn chàng một lát rồi lập tức đưa mắt sang phía Mikolai, rồi lại nhìn sang Raxkonikov, rồi lại nhìn Mikolai, rồi đột nhiên như nổi xung lên, lại xông vào hắn.
- Mày đã vội nói chuyện quẫn trí với tao làm gì? - Porfiri quát lên, giọng gần như hằn học. - Tao đã hỏi mày có mù quáng hay không đâu, nói đi: mày giết người hả?
- Tôi là kẻ giết người… tôi xin cũng khai… - Mikolai nói.
- Chà? Mày giết bằng gì?
- Bằng rìu ạ. Tôi đã giấu sẵn.
- Chà! Vội thế! Một mình mày à?
Mikolai không hiểu câu hỏi.
- Một mình mày giết à?
- Một mình tôi. Còn Mitka không có tội tình gì, nó không can dự vào việc nầy.
- Nầy đừng có vội nói chuyện Mitka! Chà!… Thế lúc ấy mày làm thế nào chạy xuống thang gác? Mấy người gác cổng trông thấy cả hai đứa chúng mày kia mà?
- Đó là tôi muốn đánh lạc hướng… cho nên… mới chạy với Mitka, - Mikolai đáp vội, vẻ như đã nhằm sẵn từ trước.
- Thôi, đúng thật rồi! - Porfiri căm giận quát lên, - người ta mớm cho nó cái gì là nó tuôn ra y như thế! - y lẩm bẩm nói một mình: và chợt trông thấy Raxkonikov. Hình như ông ta mải chú ý đến Mikolai đến nỗi trong chốc lát quên bẵng cả Raxkonikov đi. Bây giờ sực nhớ ra và thậm chí còn lộ vẻ bối rối…
- Rodion Romanovich, anh ơi! Xin lỗi anh nhé, - y bước vội về phía chàng, - thế nầy không ổn đâu; xin anh… anh ở đây chẳng có ích lợi gì cả… chính tôi cũng… anh thấy đấy, thật là những chuyện bất ngờ! Xin mời anh…
Rồi cầm tay chàng, Porfiri chỉ ra cửa.
- Hình như ông không ngờ thì phải? - Raxkonikov nói, dĩ nhiên chàng cùng chưa hiểu gì lắm, nhưng đã có đủ thời giờ vững tâm hẳn trở lại.
- Thì anh cũng có ngờ đâu, anh bạn! Kìa tay anh vẫn còn run bắn lên kia kìa, hê hê…
Nhưng anh cũng run đấy thôi, ông Porfiri Petrovich ạ?
- Tôi cũng run. Tôi cũng không ngờ!
Hai người đã ra đến cửa. Porfiri sốt ruột đợi Raxkonikov ra.
- Thế ông không cho tôi xem cái trò bất ngờ kia nữa à? - Raxkonikov hỏi.
- Nói thì ra dáng thế, nhưng răng cứ đánh vào nhau côm cốp, hề hề. Anh có khiếu châm biếm lắm. Thôi, xin chào anh.
- Theo tôi thì xin vĩnh biệt mới đúng.
- Cái đó còn tuỳ ý Chúa, còn tuỳ ý Chúa! - Porfiri lẩm bẩm: môi có rúm lại thành một thứ nụ cười.
Khi đi qua vẫn phòng sở cảnh sát, Raxkonikov nhận thấy có nhiều người chăm chú nhìn chàng. Ở phòng mắc áo trong đám đông chàng kịp nhận ra hai người gác cổng ở nhà ấy. Hai người mà tối hôm kia chàng đã rủ lên quận cảnh sát. Họ đang đứng đợi cái gì không rõ. Nhưng vừa ra đến đầu thang gác, chàng bỗng nghe giọng nói của Porfiri Petrovich léo nhéo ở sau lưng. Ngoảnh lại, chàng thấy y đang chạy theo, thở hổn hển.
- Xin thưa một câu nữa, anh Rodion Romanovich ạ, về tất cả những việc nầy thì xin tùy ý Chúa, nhưng dù sao theo thủ tục sau nầy cùng cần hỏi thêm anh dăm câu… cho nên chúng ta sẽ còn gặp nhau đấy, thế đấy!
Và Porfiri tươi cười dừng lại trước mặt chàng.
- Thế đấy - Y nhắc lại.
Có thế phỏng đoán rằng y còn muốn nói gì nữa, nhưng chẳng hiểu sao không nói ra được.
- Còn tôi thì tôi xin ông bỏ qua cho những chuyện ban nãy, ông Porfiri Petrovich ạ… tôi hơi nóng, - Raxkonikov nói; bấy giờ chàng đã hoàn toàn vững tâm trở lại, đến nỗi cứ muốn lên mặt khiêu khích hắn chơi, một ý muốn không sao cưỡng nổi.
- Không sao, không sao, - Porfiri đáp, vẻ hầu như mừng rỡ… - Chính tôi cũng thế… Tính tôi thật độc địa, rất ân hận, rất ân hận. Đấy, chung ta sẽ còn gặp nhau. Nếu Chúa thuận tình, ta sẽ còn gặp nhau nhiều, còn gặp nhau nhiều?
- Và sẽ biết nhau đến nơi đến chốn? - Raxkonikov đệm thêm.
- Và sẽ biết nhau đến nơi đến chốn, - Porfiri Petrovich tán đồng, và nheo mắt nhìn chàng, vẻ rất nghiêm trang. - Bây giờ anh đi dự lễ thánh?
- Lễ an táng.
- À quên, lễ an táng! Anh chú ý giữ gìn sức khỏe nhé, sức khỏe ấy…
- Còn về phần tôi thì không biết chúc ông thế nào đây! - Raxkonikov đáp, chàng đã bước xuống cầu thang nhưng lại ngoảnh về phía Porfiri, - tôi cũng muốn chúc ông thành công, nhưng ông cũng thấy đấy, chức vụ của ông nó khôi hài quá.
- Sao lại khôi hài? - Porfiri Petrovich lúc bấy giờ đã quay đi, cùng lại lập tức vểnh tai lên.
- Còn sao nữa, đấy như cái thằng Mikolai khốn khổ kia chắc đã bị ông hành hạ giầy vò theo cái kiểu tâm lý học của ông mãi cho đến khi nó chịu nhận mới thôi; chắc suốt đêm suốt ngày ỏng cứ nhắc đi nhắc lại với hắn: "Mày là kẻ giết người, mày là kẻ giết người…" Thế rồi đến bấy giờ hắn chịu nhận, ông lại bắt đầu nhồi vào sọ hắn một bài khác: "Mày nói láo không phải mày là kẻ giết người! Mày không thể là kẻ giết người được. Người ta mớm cho cái gì cũng nói ra y như thế?". Đấy, như thế mà còn bảo cái nghề của ông không khôi hài nữa hay sao?
- Hê - hê - hê? Thế ra anh cũng để ý vừa rồi tôi có nói với Mikolai là "mớm cho cái gì hắn cũng nói" à?
- Sao lại không để ý?
- Hê - hê! Anh sắc sảo lắm, sắc sảo lắm. Cái gì anh cũng nhận thấy hết. Thật là một bộ óc có khiếu châm biếm! Anh đã bấm đúng vào phím hài hước… hê - hê! Nghe nói trong số các nhà văn thì Gogol là người có khiếu ấy nhiều hơn cả phải không?
- Phải, Gogol.
- Phải, Gogol… xin chào, rất mong được gặp ông lại - Xin chào, rất mong được gặp ông lại…
Raxkonikov đi thẳng về nhà. Chàng mệt mỏi và hoang mang đến nỗi về đến nhà, chàng thả mình rơi phịch xuống đi-văng và ngồi thừ ra như thế trong mười lăm phút, chi để cho đỡ mệt và sắp xếp lại được phần nào những ý nghĩ đang rối tung lên trong đầu. Về Mikolai chàng cũng không buồn tìm cách cắt nghĩa xem sao nữa: chàng cảm thấy mình sửng sốt quá chừng, chàng thấy rằng trong những lời thú nhận của Mikolai có một cái gì vô lý, kỳ lạ mà hiện nay chàng không tài nào hiểu nổi. Nhưng những lời thú nhận đó là một việc có thật. Chàng thấy rõ ngay những hiệu quả của việc ấy trước sau rồi người ta cũng phát hiện ra hắn nói dối, và lại sẽ quay sang chàng. Nhưng ít nhất từ giờ cho đến khi ấy chàng cũng được tự do và nhất thiết phải làm một cái gì để tự vệ, vì nguy cơ nầy không sao tránh khỏi.
Nhưng nguy đến mức nào? Tình hình bắt đầu rõ nét ra; khi nhớ lại đại khái cuộc nói chuyện với Porfiri, chàng không khỏi một lần nữa rùng mình khiếp sợ. Dĩ nhiên chàng chưa biết hết chủ tâm của Porfiri, chưa thể hiểu thấu được tất cả những mưu mô của y lúc bấy giờ. Nhưng thủ đoạn của y cũng đã lộ rõ một phần, và dĩ nhiên, hơn ai hết. Raxkonikov hiểu rõ "nước cờ" của Porfiri đáng sợ đến nhường nào. Chí một chút nữa thôi là chàng đã có thể tiết lộ hoàn toàn, lần nầy có bằng chứng hẳn hỏi. Biết rõ cái tâm lý bệnh tật của chàng và ngay từ đầu đã nắm vững và soi thấu vào tim gan chàng. Porfiri đã hành động một cách tuy quá mạnh dạn, nhưng hầu như chắc chắn, không còn nghi ngờ gì nữa, lúc nãy Raxkonikov đã sơ hở quá nhiều, nhưng vẫn chưa đến nỗi tiết lộ những sự việc cụ thể; tất cả vẫn còn là tương đối. Nhưng dù sao, liệu bây giờ chàng có quan niệm được sự việc vừa xảy ra một cách đúng đắn hay không? Liệu chàng có lầm không? Hôm nay Porfiri muốn đưa đến kết quả nào? Cụ thể hắn muốn gì? Có thật là hắn đang chờ đợi một cái gì không?
Ví thử không có Mikolai xuất hiện bất thình lình làm cho cơ sự hỏng bét ra, hai người sẽ chia tay nhau như thế nào?
Porfiri đã để lộ gần hết các nước cờ của ông ta; dĩ nhiên như vậy cũng liều lĩnh, nhưng quả ông ta đã cố để lộ ra; và Raxkonikov có cảm tưởng rằng nếu Porfiri còn biết gì hơn, y cũng sẽ để lộ ra nốt. Cái "trò bất ngờ" ấy là cái gì? Một trò đùa dai chăng? Nó có nghĩa gì không? Nó có thể che giấu một cái gì giổng như một sự kiện, một lời buộc tội có căn cứ không? Con người hôm qua chăng? Hắn biến đi đàng nào? Hôm nay hắn ở đâu? Vì nếu Porfiri có nắm được một cái gì chắc chắn, thì dĩ nhiên cái đó phải có liên quan đến người hôm qua…
Chàng ngồi trên đi-văng, đầu gục xuống, hai khuỷu tay chống lên đầu gối, hai bàn tay bưng lấy mặt. Khắp người chàng vẫn còn run lên từng cơn. Cuối cùng chàng đứng dậy, lấy mũ, nghĩ ngợi một lát và bước ra cửa.
Không hiểu sao chàng cứ có cảm giác là ít nhất ngày hôm nay chàng có thể coi như mình ở ngoài vòng nguy biến. Chàng chợt thấy vui vui trong lòng: chàng muốn đi cho nhanh đến nhà Katerina Ivanovna. Đến dự lễ an táng thì dĩ nhiên là muộn mất rồi, nhưng dự tiệc tang thì còn kịp, và ở đây, chỉ lát nữa, chàng sẽ được gặp Sonya.
Chàng dừng lại suy nghĩ, và một nụ cười yếu ớt hiện lên trên môi chàng.
- Hôm nay! Ngay hôm nay! - Chàng nhẩm đi nhẩm lại một mình, - phải, ngay hôm nay: Phải thế mới được…
Chàng toan mở cửa thì đột nhiên cánh cửa tự nó mở ra. Chàng giật mình nhảy lùi lại. Cánh cửa mở từ từ và nhè nhẹ, và một bóng người bỗng hiện ra: con người hôm qua, con người từ dưới đất trồi lên.
Hắn dừng lại trên ngưỡng cửa, im lặng nhìn Raxkonikov và bước một bước vào phòng. Hắn vẫn y như hôm qua, cũng cái dáng dấp ấy, cũng ăn mặc như thế, nhưng vẻ mặt và khóe mắt của hắn đã thay đổi hắn: hôm nay trông hắn buồn rười rượi; hắn đứng yên một lát rồi buông một tiếng thở dài nặng trĩu. Chỉ thiếu đường hắn áp lòng bàn tay lên má, ngả đầu sang một bên nữa là sẽ trông hệt như một mụ đàn bà.
- Ông muốn gì? - Raxkonikov lặng người đi, hỏi.
Người kia im lặng một lát rồi bỗng cúi xuống gần sát đất chào chàng, ngón đeo nhẫn trên bàn tay phải chạm xuống sàn nhà.
- Ông làm gì thế - Raxkonikov kêu lên.
- Tôi có tội, - hắn đáp khẽ.
- Tội gì?
- Tội đã có ác ý với ông.
Hai người nhìn nhau một lát.
- Hôm ấy tôi bực quá. Hôm ấy ông đến đằng kia, có lẽ là đang say, bảo hai người gác cổng lên quận vả lại hỏi đến vũng máu, tôi rất bực mình khi thấy họ cứ để mặc ông, cho ông là người say rượu. Tôi giận đến nỗi đêm ấy không ngủ được nữa. Chúng tôi nhớ lại địa chỉ của ông, và hôm qua chúng tôi đã đến đây hỏi…
- Ai đến? - Raxkonikov ngắt lời, trong giây lát chàng đã bắt đầu nhớ ra.
- Tức là tôi ấy, tôi đã xúc phạm đến ông.
- Thế ông là người ở trong nhà ấy à?
- Vâng, tôi cùng ở đấy, lúc ấy tôi cùng đứng ở cổng với họ, ông quên rồi sao? Tôi cũng có một cửa hiệu ở đằng ấy, đã lâu. Chúng tôi làm nghề thuộc da lông thú, lĩnh việc về nhà làm… hôm ấy tôi bực nhất…
Và Raxkonikov bỗng nhớ lại rõ mồn một cả cái cảnh ngày hôm kia dưới cổng; chàng nhớ rằng ngoài hai người gác cổng còn có mấy người nữa đứng đấy, trong số đó có cả những người đàn bà. Chàng nhớ lại một giọng nói bảo cứ dẫn thẳng chàng lên quận. Diện mạo người nói câu ấy thì chàng không nhớ và ngay bây giờ chàng cũng không nhận ra, nhưng chàng vẫn còn nhớ là hôm ấy chàng có quay lại trả lời hắn…
Té ra cả cái cơn khiếp sợ ngày hôm qua của chàng chỉ vì thế. Khủng khiếp nhất là nghĩ rằng mình suýt chết, suýt làm hại mình chỉ vì một việc vô nghĩa như vậy. Thế nghĩa là ngoài chuyện đi thuê phòng và hỏi đến vũng máu ra, người kia không thể kể gì nữa cả. Thế nghĩa là Porfiri cũng không nắm được gì, không có gì hết, ngoài cái cơn mê sảng ấy, không có lấy một sự kiện nào ngoài cái tâm lý ấy ra, một căn cứ hai mặt, không có gì chắc chăn. Thế nghĩa là nếu không có sự kiện gì xuất hiện thêm nữa (mà nó không thể xuất hiện được, không được xuất hiện, không được) thì… thì chúng liệu có thể làm gì được chàng? Dù cho chúng có bắt chàng đi nữa, thì chúng lấy bằng cớ ở đâu mà kết tội chàng? Vả như thế cũng có nghĩa là mãi đến giờ, mãi vừa rồi Porfiri mới hiểu chuyện chàng đi "thuê phòng", chứ trước đấy hắn không hề hay biết gì.
- Chính ông đã nói với Porfiri hôm nay… là tôi có đến đằng ấy? - Chàng kêu lên, chợt nẩy ra một ý đột ngột.
- Porfiri nào? viên dự thẩm à?
- Tôi nói đấy. Hai người gác cổng không chịu đi, cho nên tôi đi!
- Hôm nay?
- Tôi đến trước ông có vài phút. Tôi đã nghe họ nói, nghe hết, tôi biết ông ấy hành tội ông như thế nào.
- Ở đâu? Thế nào? Lúc nào?
- Thì ngay ở đấy, sau cánh cửa ngăn ấy; tôi ngồi suốt ở đấy!
- Sao? Thế ra ông là cái "trò vui bất ngờ" ấy đấy phải không? Sao lại có thể như thế được nhỉ? Ông thử nói rõ ra xem?
- Thấy hai người gác cổng không chịu nghe tôi đi lên quận - người kia nói - vì đã muộn rồi, họ nói thế, hơn nữa lại sợ các quan mắng vì không lên báo ngay lúc ấy tôi bực mình quá mất cả ngủ, thế rồi tôi đi dò xem ông ở đâu. Hôm qua tôi đã dò được, thế là sáng hôm nay tôi lên quận. Lần thứ nhất tôi đến thì ông ta đi vắng. Một giờ sau tôi lại đến, thì họ knông tiếp, lần thứ ba họ mới cho vào. Tôi mới kể hết cho ông ta biết, thế là ông ta lồng lộn lên chạy khắp phòng, đấm ngực thùm thụp: "Quân kẻ cướp, chúng mày làm ăn với tao như thế à? Tao mà biết thế thì tao cho lính đến giải hắn về đồn ngay!" Rồi ông ta chạy ra gọi một người nào đến rồi kéo ra một góc nói thầm thì xong lại đến hỏi tôi và chửi vung lên một hồi. Tôi thuật hết lại cho ông ta biết và nói rằng hôm qua, khi tôi nói câu ấy, ông không dám trả lời gì cả và không nhận ra tôi. Ấy thế là ông ta lại chạy lồng lộn, đấm ngực, tức giận điên cuồng, rồi khi có người vào báo là ông đến, ông ta mới bảo tôi ra ngồi sau tấm ván ngăn, ngồi cho yên, có nghe gì cùng không được cựa quạy. Ông ta thân hành ra lấy một chiếc ghế và khoá trái tôi lại, "có lẽ ta sẽ gọi đến anh", ông ấy bảo thế. Và sau khi họ dẫn Mikolai đến. Ông vừa đi được một chút thì ông ấy tha tôi về ngay: "ta sẽ còn gọi anh đến hỏi nữa", ông ấy bảo thế…
- Trong khi ông ở đây, hắn có hỏi Mikolai à?
Ông vừa ra khỏi thì ông ấy cũng dẫn tôi ra luôn, rồi mới bắt đầu hỏi Mikolai.
Người tiểu thương ngừng nói và bỗng lại cúi mình chào, ngón tay chạm xuống sàn.
- Xin ông tha thứ cho tôi đã tố giác, làm hại ông.
- Cháu sẽ tha tội cho ông, - Raxkonikov đáp, và chàng vừa dứt lời thì người kia lại cúi chào một lần nữa, nhưng lần nầy không chào sát đất mà chỉ nghiêng mình thôi, chậm rãi quay đi và bước ra khỏi phòng.
"Toàn những bằng cứ hai mặtt. Bây giờ thì toàn những bằng cứ hai mặt thôi" - Raxkonikov nhẩm đi nhẩm lại, rồi bước ra khỏi phòng, vững tâm hơn bao giờ hết.
"Bây giờ ta sẽ con vật lộn với nhau" - Chàng tự nhủ với một nụ cười hằn học trong khi bước xuống thang gác. Nhưng chàng hằn học là hằn học với bản thân mình, chàng khinh bỉ và hổ thẹn nhớ lại cái thái độ "hèn nhát" của mình.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #4  
Old 09-09-2012, 02:40 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Tội ác và sự trừng phạt - Phần 1 - Chương 25, 26

TỘI ÁC VÀ SỰ TRỪNG PHẠT


Phần V

Chương 25


Buổi sáng kế theo cuộc giãi bày tai hại đối với Piotr Petrovich đã diễn ra giữa ông ta với Dunia và Punkheria Alekxandrovna, cũng đã có tác dụng làm cho ông ta tỉnh ngộ. Ông ta dần dần buộc lòng phải nhận rằng việc vừa rồi quả là một sự kiện có thật và không sao hoán cái được nữa, mặc dầu ông ta hết sức khó chịu và vẫn thấy đó là một việc hầu như hoang đường, tuy đã xảy ra thật, nhưng vẫn vô lý hết sức, không thể nào tưởng tượng được. Lòng tự ái bị tổn thương cắn rứt tâm can ông suốt đêm hôm ấy như một con rắn độc. Bước xuống giường, Piotr Petrovich lập tức đến soi gương. Ông ta lo sợ không biết đêm qua trằn trọc như vậy, mặt mình có vàng võ đi chăng?
Song về mặt nầy thì hiện không có gì đáng lo ngại: nhìn vào cái dung mạo quý phái, trắng trẻo và hơi phát phì ra trong thời gian gần đây, Piotr Petrovich trong chốc lát lại thấy nguôi lòng, tin chắc mình sẽ lại kiếm được ý trung nhân ở một nơi nào khác, có lẽ lại còn tươm hơn ai kia nữa; nhưng chỉ trong khoảnh khắc ông lại sực nhớ ra và nhổ toẹt sang một bên, khiến ông bạn trẻ cùng trọ một phòng là Andrey Xemionovich Lebeziatnikov phải mỉm cười: một nụ cười lặng lẽ nhưng đầy ý nhạo báng. Piotr Petrovich để ý thấy nụ cười và lập tức ghi vào số ký ức. Trong thời gian gần đây ông ta đã ghi vào số ký ức rất nhiều điều về ông bạn trẻ. Lòng căm giận của ông càng tăng gấp bội khi ông chợt nghĩ ra rằng đáng lẽ không nên cho Lebeziatnikov biết những chuyện xảy ra hôm qua. Đó là việc sai lầm thứ hai ông đã vì nóng nảy mà mắc phải trong ngày hôm ấy: trong cơn tức giận ông đã thỏ lộ quá nhiều… Rồi suốt buổi sáng hôm đó, những chuyện bực mình cứ liên tiếp dồn đến. Ngay như ở Nguyên lão viện, công việc ông đang lo toan cũng thất bại. Nhưng người làm ông bực mình nhất là cái lão chủ căn nhà ông đã thuê để chuẩn bị cưới vợ và chịu xuất tiền tu sửa, một lão thợ thủ công người Đức mới giàu lên: lão ta một mực không chịu huỷ bỏ giao kèo và khăng khăng đòi thực hiện từng khoản một, mặc dầu Piotr Petrovich đã giao lại cho lão căn nhà hầu như đã được tu sửa thành một căn nhà mới. Ở cửa hàng đồ gỗ cũng vậy, họ nhất định không chịu trả lại một rúp nào trong số tiền đặt cọc mua hàng, tuy ông chưa chở về nhà lấy một chiếc bàn, một chiếc ghế nào cả. "Chả nhẽ ta lại ẵm một mụ vợ khác mà cưới để có cơ dùng bàn ghế".
Piotr Petrovich nghiến răng càu nhàu một mình, nhưng cũng lúc ấy một ý nghĩ tuyệt vọng lại thoáng hiện lên: "Nhưng có lẽ nào việc nầy lại hỏng bét không phương cứu chữa? Lẽ nào lại không cố thử một lần nữa xem sao? Hình ảnh quyến rũ của Dunia một lần nữa lại xói vào tim ông ta nhức nhối. Piotr Petrovich đau khổ sống qua giờ phút nầy, và dĩ nhiên nếu giờ đây có thể ước nguyện cho trời tru đất diệt Raxkonikov, ông ta sẽ khấn to lời ước nguyện đó lên ngay lập tức.
"Ngoài ra mình lại còn phạm một sai lầm nữa là không hề đưa tiền cho họ, - Ông nghĩ thầm trong khi buồn rầu trở về phòng Lebeziatnikov - mẹ kiếp, không hiểu sao mình lại đâm ra bùn xỉn thế? Thậm chí mình cũng không biết tính lỗ lãi nữa. Mình trù tính để cho họ túng bấn ít lâu để rồi họ xem mình như một vị cứu tinh, thế mà lại để họ bay biến đi mất! Xì! Không, giá thời gian qua mình thí cho họ độ một nghìn rưỡi đề mua đồ cưới, mua quà cáp, sắm ít hộp đồ tư trang vụn vặt và ít vải vóc hay những của khỉ gì đấy ở hiệu Knop hay hiệu tạp hoá Anh, thì công chuyện sẽ tươm tất hơn… và vững chắc hơn! Họ sẽ không từ khước một cách dễ dàng như thế nầy! Cái hạng người ấy mà đã từ khước thì thế nào cũng tự cho mình có bổn phận trả lại hết các thứ quà cáp và tiền bạc, mà trả thì khó, tiếc lắm! Mà lương tâm cũng không yên: ai lại đi đuổi một người xưa nay vẫn hào phóng và tế nhị như vậy? Hừm! Mình hớ to rồi? Đoạn nghiến răng kèn kẹt một lần nữa, Piotr Petrovich chửi mình là đồ ngốc… chửi thầm, cố nhiên.
Đi đến kết luận đó, ông ta về nhà cau có và hằn học gấp bội so với khi ông ta đi. Những công việc sửa soạn dọn tiệc tang ở nhà Katerina Ivanovna cùng thu hút trí tò mò của ông một phần. Từ hôm qua ông ta đã có nghe phong thanh về bữa tiệc tang nầy; ông lại còn nhớ mường tượng rằng họ có mời ông thì phải; nhưng vì đang mải lo việc riêng nên ông không chú ý gì đến những chuyện ấy ông bèn vội vàng sang hỏi bà Lippevekzen đang lăng xăng bên chiếc bàn đã trải khăn ăn trong khi bà Katerina Ivanovna còn bận ngoài nghĩa địa: thì được biết rằng bữa tiệc tang sẽ tổ chức trọng thế, hầu hết các khách trọ trong nhà đều được mời đến, ngay cả những người không quen người quá cố, cho chí ông Andrey Xemionovich cũng vậy tuy cách đây không lâu ông ta có chuyện xích mích với Katerina Ivanovna, và cuối cùng là chính bản chân ông Piotr Petrovich không những được mời mà lại còn được mong mời thiết tha nữa, vì ông hầu như là vị khách trọng yếu nhất trọ trong nhà nầy. Đến như bà Amalya Ivanovna cũng được mời mọc một cách kính cẩn, bất chấp những chuyện lôi thôi trước đây, cho nên bây giờ bà ta đang lo lắng dọn dẹp, sai bảo như bà chủ nhà, và hầu như cũng cảm thấy thú vị trong việc nầy. Hơn nữa bà ta lại ăn mặc rất sang, tuy là kiểu áo tang nhưng cũng may bằng lụa mới tinh, ren thùa lộng lẫy, và rất lấy làm hãnh diện với cách trang phục đó. Những tin tức thu lượm được gợi cho Piotr Petrovich một ý định, và ông trở về phòng riêng, tức là phòng của Andrey Xemionovich Lebeziatnikov, trong một tâm trạng có phần đăm chiêu tư lự. Số là ông cũng được biết rằng trong các khách khứa được mời đến dự tiệc có cả Raxkonikov.
Andrey Xemionovich suốt buổi sáng hôm ấy ở nhà. Giữa ông ta với Piotr Petrovich đã hình thành những mối quan hệ kỳ lạ, song cũng có phần tự nhiên: Piotr Petrovich khinh miệt và thù ghét ông ta không bỏ đâu cho hết hầu như ngay từ hôm đầu đến ở đât, nhưng mặt khác lại dường như có ý sợ ông ta. Lên Petersburg, Piotr Petrovich đến ở nhà Andrey Xemionovich không phải chỉ vì tính tằn tiện bủn xỉn: hình như đó chính là lý do chủ yếu, nhưng ngoài ra lại còn một lý do khác nữa. Hồi còn tỉnh nhỏ ông ta đã có nghe nói Andrey Xemionovich, người trước kia được ông ta làm giám hộ, là một trong những người thanh niên tiến bộ hăng hái nhất và hơn nữa còn đóng một vai trò quan trọng trong một số tổ chức ly kỳ, gần như huyễn hoặc. Điều đó gieo một ấn tượng khá mạnhvào óc Piotr Petrovich. Tất cả những tập đoàn đó, gồm những kẻ có thế lực, biết nhiều, khinh miệt và lên án mọi người, đã từ lâu gây nên trong lòng Piotr Petrovich một mối sợ hãi đặc biệt song cũng hết sức mơ hồ. Dĩ nhiên, nhất là hồi ở tỉnh nhỏ, ông ta không thể nào có một khái niệm chính xác hay dù chỉ gần đúng thôi cũng vậy, về những việc đại loại như thế. Cũng như mọi người, ông có nghe nói có những đảng phải gọi là tiến bộ, hư vô chủ nghĩa, những phải tố cáo v.v, nhất là ở Petersburg; nhưng cũng như nhiều người khác, ông ta phóng đại và bóp méo ý nghĩa những danh từ nầy đến mức quái gở. Đã mấy năm nay ông ta sợ nhất những vụ tố cáo công khai, và đó chính là điều chủ yếu khiến ông luôn luôn lo lắng quá mức, nhất là khi tính chuyện dọn lên Petersbung hoạt động. Về mặt nầy ông phát hoảng lên như trẻ nhỏ thường phát hoảng. Cách đây mấy năm, hồi còn ở tính nhỏ, khi mới bắt đầu xây dựng sự nghiệp, ông đã gặp hai trường hợp những nhân vật khá quan trọng bị tố cáo công khai một cách tàn nhẫn, lại là những người ông ta vẫn bấu víu, nương tựa. Một trong hai vụ đó kết thúc một cách đặc biệt nhục nhã cho người bị tố cáo, còn vụ kia thì thậm chí đã suýt thành chuyện lôi thôi to. Chính vì thế cho nên Piotr Petrovich đã định hễ đến Petersbung là tìm hiểu ngay tình thế, và nếu cần, phải đón trước và lấy lòng "các thế hệ trẻ". Về mặt nầy ông trông mong vào Andrey Xemionovich và khi đến thăm Raxkonikov chẳng hạn, ông cũng đã tuôn ra được dăm câu học lỏm. Dĩ nhiên chẳng mấy lâu ông ta đã có đủ thì giờ thấy rõ Andrey Xemionovich là một con người hết sức tầm thường và khá ngờ nghệch. Nhưng điều đó không hề mảy may làm cho Piotr Petrovich thay đổi định kiến và vững tâm thêm.
Dù ông có thấy rõ rằng bọn tiến bộ cũng đều là những tay ngốc nghếch cả, thì ông cũng không bớt lo lắng chút nào. Nói cho đúng ra. Ông không hề quan tâm đến những học thuyết, tư tưởng, hệ thống mà Andrey Xemionovich không ngớt nhồi vào tai ông. Ông có một mục đích riêng. Ông chỉ cần biết ngay: càng sớm càng tôi, là tình hình ở đây ra sao? Những con người ấy có thế lực hay không? Bản thân có điều gì đáng sợ không? Nếu ông mưu toan việc nầy việc nọ thì họ có tố cáo hay không, nếu họ tố cáo, thì cụ thể họ sẽ lên án cái gì, và đặc biệt hiện nay họ đang tố cáo cái gì. Thế vẫn chưa đủ: liệu có cách gì ẩn ý với họ và lợi dụng họ, nếu quá họ có thế lực thật? Có cần phải làm như thế không? Chẳng hạn, liệu có thể nhờ chính họ làm trung gian đề ngấm ngầm xây dựng một cái gì trên con đường sự nghiệp không. Nói tóm lại, trước mắt có đến hàng trăm vấn đề.
Andrey Xemionovich là một người công chức khẳng kheo, nước da vàng vọt, người thấp bé, râu và tóc vàng một cách kỳ lạ, rất hãnh diện với bộ ria má tia thành cốt-lét. Hơn nữa ông ta luôn luôn đau mắt. Tính ông ta hơi nhu nhược, nhưng ăn nói thì lại khá chững chạc quả quyết và đôi khi còn rất bạo miệng nữa: lối ăn nói đó bao giờ cũng gây một sự tương phản buồn cười với dáng người loắt choắt của ông ta. Ở nhà bà Amalya Ivanovna ông được liệt vào hạng khách trọ đứng đắn, nghĩa là không rượu chè bê tha và trả tiền nhà sòng phẳng. Tuy có những đức tính đó, Andrey Xemionovich quả nhiên vẫn hơi khờ khạo. Ông ta nhiệt thành hướng theo phái tiến bộ và "các thế hệ trẻ của chúng ta". Đó là một trong vô số những hạng nhãi con quặt quẹo dốt nát, hợm hĩnh và tầm thường làm thành cái lũ ô hợp bao giờ cũng chộp lấy tư tưởng thời thượng nhất để rồi lập tức làm cho nó hoá ra dung tục, biến tất cả thành một thứ biếm hoạ, mặc dầu cũng có khi họ phụng sự những lý tưởng đó một cách hết sức chân thành.
Và chăng, Lebeziatnikov tuy là người rất tốt bụng, nhưng cũng bắt đầu thấy khó chịu với người cùng trọ và là người giám hộ cũ của mình: Piotr Petrovich. Cả hai bên đều đâm ra có ác cảm với nhau như vậy một cách tự phát. Tuy Andrey Xemionovich quả có khờ khạo thật, nhưng dần dần cũng bắt đầu thấy rõ Piotr Petrovich lợi dụng mình và trong thâm tâm vẫn khinh miệt mình, rằng "con người nầy có một cái gì không thật". Andrey Xemionovich đã thử trình bày cho ông ta nghe về hệ thống của Fourier và học thuyết Darwin, nhưng Piotr Petrovich, nhất là ít lâu nay, bắt đầu có thái độ quá ngạo nghễ trong khi nghe, và mấy ngày vừa qua lại còn lên tiếng chửi bới nữa. Số là do bản năng ông ta đã bắt đầu hiểu ra rằng Lebeziatnikov không những là một kẻ tầm thường và ngốc nghếch, mà có lẽ lại còn là một tay khoác lác nữa, và không hề có thế lực gì đáng kể ngay trong tập đoàn của hắn cũng vậy, chẳng qua chỉ được người ta mớm lại cho thôi: hơn nữa, ngay cả cái nghề của hắn ta là nghề tuyên truyền, có lẽ hắn cùng không biết cho đến nơi đến chốn, cho nên thường hay lúng túng quá mức, còn nói gì đến chuyện hắn có thể tố cáo ai. Nhân tiện cũng xin nói qua rằng mươi ngày gần đây, nhất là hồi đầu, Piotr Petrovich vui lòng nhận những lời tâng bốc khá kỳ quặc của Andrey Xemionovich, nghĩa là ông ta lặng thinh không cãi lại khi Andrey Xemionovich gán cho ông cái sẵn sàng góp phần vào việc xây dựng một "công xã" mới sắp tổ chức ở một nơi nào trên phô Mesanxkaya; hay là không cản trở Dunia, nếu ngay trong tháng đầu chung sống, cô ta nảy ra ý bắt nhân tình chẳng hạn; hoặc giả không rửa tội cho con cái sau nầy v.v… và v.v… đại loại như thế. Theo thói thường, Piotr Petrovich không cải chính những đức tính mà người ta gán cho mình, dù nó có kỳ quặc như thế nữa thì ông cũng để yên, vì bất cứ lời tâng bốc nào cũng đều làm cho ông thích thú.
Sáng hôm ấy Piotr Petrovich vừa đi đổi mấy xấp giấy bạc về, đang ngồi trước bàn đếm lại. Andrey Xemionovich, xưa nay hầu như không bao giờ có tiền, đang đi lại trong phòng và vờ làm ra vẻ như nhìn những xấp giấy bạc ấy một cách dửng dưng, thậm chí còn khinh bỉ nữa. Ngược lại, Piotr Petrovich không đời nào có thể tin rằng Andrey Xemionovich thật tình có thể nhìn mớ tiền ấy một cách thản nhiên; về phần mình Andrey Xemionovich lại chua chát nghĩ rằng quả nhiên Piotr Petrovich có thể nghĩ về mình như vậy, có lẽ lại còn hài lòng vì có dịp trêu thêm ông bạn trẻ với mấy xấp giấy bạc bày la liệt trên bàn, nhắc cho ông bạn nhớ đến cái thân phận hẩm hiu của mình và thấy hết sự khác nhau rõ rệt giữa hai người.
Lần nầy Andrey Xemionovich thấy Piotr Petrovich có vẻ cáu bẩn và lơ đãng hơn hẳn mọi khi, tuy ông ta đã bắt vào câu chuyện ưa thích nhất là việc thành lập một "công xã" đặc biệt. Những câu nhận xét và bắt bẻ nhát gừng mà Piotr Petrovich thốt lên trong khi thấy những hòn xâu kêu lách cách trên chiếc bàn tính, lộ rõ ý giễu cợt vô lề và cố tình. Nhưng Andrey Xemionovich vốn là người "nhân đạo", nghĩ rằng tâm trạng Piotr Petrovich là do cuộc đoạn tuyệt với Dunia hôm qua mà ra, và nóng lòng muốn chuyển câu chuyện sang vấn đề ấy; ông ta có những ý kiến rất tiến bộ và có tác dụng tuyên truyền để đem nói về việc nầy, có thể an ủi ông bạn đáng kính, và "chắc chắn" sẽ giúp cho ông ta tiến bộ thêm.
- Ở nhà cái mụ… cái bà quả phụ ấy dọn tiệc tùng gì thế? - Piotr Petrovich bỗng ngắt lời Andrey Xemionovich ở đoạn lý thú nhất.
- Làm như thể ông không biết ấy? Hôm qua tôi đã trình bày cho ông nghe ý kiến của tôi về các thứ lễ nghi ấy rồi mà… Bà ta cũng có mời cả ông nữa, tôi nghe nói thế. Hôm qua chính ông cũng có nói chuyện với bà ta…
- Tôi không thể ngờ cái con mẹ ngốc nghèo kiết ấy lại đem hết số tiền của cái thằng ngốc kia cho ra dọn tiệc. Ngay lúc nãy đi ngang qua nhà mụ, tôi cũng vẫn lấy làm lạ: sửa soạn nhặng xị cả lên, lại có cả rượu riếc nữa! Mụ ta đã mời được mấy người có ma nó biết là hạng người nào! - Piotr Petrovich nói tiếp, luôn luôn đặt câu hỏi và gợi cho Lebeziatnikov nói, hình như đang có một chủ ý gì trong đầu. - Sao? Ông bảo mụ ta mời cả tôi à? - Ông bỗng ngẩng đầu lên hỏi. - Lúc nào? Tôi không nhớ. Dù sao tôi cũng không đến. Tôi đến làm gì? Hôm qua tôi chỉ nhân tiện nói qua với mụ là với tư cách quả phụ của một người công chức đang túng bấn, mụ có thể nhận được một số tiền trợ cấp tạm thời chi dụng trong một năm. Có lẽ vì thế mà mụ ta mời tôi chăng? Hê - hê!
- Tôi cũng không có ý định đến dự, - Lebeziatnikov nói.
- Còn phải nói! Đã thẳng tay đánh người ta còn đến làm gì: cũng ngượng chứ, hê - hê!
- Ai đánh? Đánh ai? - Lebeziatnikov bỗng sửng cồ lên, mặt đỏ gay.
- Thì tháng trước ông đánh cái mụ Katerina Ivanovna chứ còn ai nữa! Hôm qua tôi có nghe nói… Tư tưởng của các ông là thế đấy? Cứ nói bênh vực phụ nữ mãi. Hê - hê - hê!
Và Piotr Petrovich có vẻ như hả dạ, lại bắt tay vào gẩy bàn tính.
- Chỉ là chuyện nhảm, chuyện vu khống! - Lebeziatnikov lồng lên (ông ta rất sợ nhắc đến chuyện nầy) - hoàn toàn không phải như thế! Việc xảy ra khác hẳn… Ông nghe nhầm đấy; chuyện đồn bậy? Hôm ấy tôi chỉ tự vệ mà thôi. Chính mụ ta giương nanh giương vuốt ra xông vào tôi trước… Mụ ta vặt mất của tôi cả một bên ria má… Tôi thiết tưởng người ta có quyền bảo vệ thân thể mình chứ. Hơn nữa tôi không cho phép ai hành hung tôi hết… Nguyên tắc của tôi là như vậy. Vì thế kia là lộng hành. Ông bảo tôi phải làm thế nào: cứ đứng ì ra đấy cho mụ ta đánh à? Tôi chỉ ấy mụ ta ra thôi!
- Hề - hê - hê! - Lugin vẫn cười hằn học.
- Ông gây chuyện với tôi là vì chính ông đang cay cú còn như cái chuyện nhảm ấy thì quyết không dính dáng gì đến vấn đề phụ nữ? Ông hiểu sai rồi; tôi còn nghĩ rằng nếu đã cho là phụ nữ dính dáng với nam giới về mọi phương diện, ngay cả về thể lực nữa, như người ta đã khẳng định, thì trong trường hợp nầy cũng phải bình đẳng chứ. Dĩ nhiên sau đó tôi nghĩ ra rằng kỳ thực không thể đặt vấn đề đó ra, vì ẩu đả là không được rồi, và trong xã hội tương lai không thể có ẩu đã… và dĩ nhiên trong chuyện ẩu đá mà cũng đòi hỏi bình đẳng thì thật chướng, tôi không đến nỗi ngu như thế… tuy vẫn có ẩu đả, nghĩa là sau nầy sẽ không còn, nhưng bây giờ thì vẫn còn… Xì! Quỷ thật! Nói với ông thật khó? Tôi không đến dự tiệc tang không phải vì chuyện ấy Tôi không đến chỉ vì muốn giữ nguyên tắc: để khỏi tham gia vào một hủ tục, chỉ có thế! Vả chăng cũng có thể đến để cười cho vui thế thôi… Nhưng tiếc là không có mấy ông cố đạo. Giá có thì thế nào tôi cũng đến.
- Nghĩa là ông định ngồi vào bàn của người ta mà ăn rồi nhổ vào đĩa và nhổ luôn vào mặt những người đã mời ông ăn chứ gì?
- Tuyệt nhiên không phải là phi nhổ, mà là phản đối! Vì một mục đích tốt. Như vậy tôi có thể gián tiếp góp phần tuyên truyền cho tư tưởng tiến bộ. Mọi người đều có nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục tư tưởng tiến bộ, có lẽ càng mạnh càng tốt, tôi sẽ có thể gieo rắc một tư tưởng, một hạt giống. Và từ hạt giống ấy sẽ nẩy ra một sự kiện. Như thế thì có gì xúc phạm đến họ? Lúc đầu họ sẽ mếch lòng nhưng về sau chính họ sẽ thấy là tôi giúp ích cho họ. Đấy như người ta buộc tội cho cô Terebieva (cô ta bây giờ đã vào "công xã") vì khi cô ta bỏ gia đình ra đi và… trao thân cho kẻ khác. Cô ta đã viết thư cho cha mẹ nói là không muốn sống giữa những thành kiến cũ và muốn tự do kết hôn; người ta bảo như thế quá thô bạo đối với cha mẹ, lẽ ra nên nương nhẹ họ, viết cho dịu dàng hơn. Theo tôi thì đó toàn là chuyện nhảm, quyết không cần dịu dàng gì cả, mà trái lại, trái lại, đây chính là nơi cần phản đối thật mạnh. Kìa như bà Varentx chung sống với chồng bảy năm, bỏ hai con lại rồi viết thư nói dứt khoát với chồng: "Tôi đã nhận thức rằng sống với ông tôi không thể có hạnh phúc được. Tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho ông đã lừa dối tôi, giấu giếm không cho tôi biết rằng có một cơ cấu xã hội khác mà phương tiện tổ chức là công xã. Cách đây không lâu một con người hào hiệp đã cho tôi biết điều đó, tôi đã trao thân cho người ấy và sẽ cùng người ấy xây dựng công xã. Tôi nói thẳng ra như thế, vì tôi cho rằng lừa dối ông là bất lương. Ông muốn thu xếp cho bản thân như thế nào thì tuỳ ông. Ông đừng hòng kéo tôi trở lại, ông lạc hậu quá rồi. Tôi muốn được hạnh phúc". Đấy, viết loại thư nầy là phải viết như thế!
- Cái cô Terebieva ấy chính là người mà dạo trước ông có nói là đã tự do kết hôn đến lần thứ ba đấy phải không?
- Xét cho đúng ra thì chỉ mới lần thứ hai! Mà dù có đến lần thứ tư, lần thứ mười lăm đi nữa thì cũng có can hệ gì. Và nếu có lúc nào tôi tiếc rằng cha mẹ tôi đã mất đi thì đó chính là lúc nầy, dĩ nhiên. Tôi lại còn có mấy lần mơ ước rằng nếu họ còn sống, tôi sẽ phản kháng cho họ một mẻ ra trò! Tôi sẽ cố ý làm như vậy… Tôi sẽ cho họ biết tay, chà! Tôi sẽ cho họ thấy! Họ sẽ được một mẻ kinh ngạc. Thật tiếc là tôi chẳng còn còn ai!
- Để cho họ kinh ngạc chứ gì? Hê - hê! Thôi được, ông muốn làm gì thì cứ làm: - Piotr Petrovich ngắt lời, - nhưng nầy, ông thử nói tôi nghe một chút: ông có biết con gái người quá cố thì phải, cái cô gầy gầy ấy mà! Những điều họ đồn về cô ta hoàn toàn đúng đấy chứ?
- Thì đã sao? Theo tôi, nghĩa là theo quan điểm riêng của tôi, đó chính là một tình trạng hết sức bình thường của phụ nữ. Sao lại khờng? Nghĩa là distinguons(1). Trong xã hội hiện thời dĩ nhiên nó không phải là bình thường lắm, vì đó là một tình trạng bất đắc dĩ, chứ trong xã hội tương lai thì nó hoàn toàn binh thường, vì đó là một cách sống tự do. Mà ngay bây giờ cô ta cũng có quyền: cô ta đã từng đau khổ, và đó là cái vốn của cô ta, có thể nói là cái tư bản mà cô ta có toàn quyền sử dụng. Dĩ nhiên trong xã hội tương lai sẽ không cần có vốn gì nữa; nhưng vai trò của người gái điếm sẽ được xác định theo một hướng khác, sẽ được xác định một cách công bằng hợp lý. Còn riêng cả nhân Sofia Xemionovna thì hiện nay tôi coi hành vi của cô ta như một sự phản kháng cụ thể và kịch liệt chống lại cơ cấu xã hội và do đó tôi hết sức kính trọng cô ta; thậm chí nhìn cô ta tôi còn thấy hả lòng hả dạ nữa.
- Thế mà người ta kể với tôi rằng ông đuổi cô ta ra khỏi nhà trọ nầy!
Lebeziatnikov nổi khùng lên.
- Đó lại là một lời vu khống - Ông ta thét lên. - Hoàn toàn, hoàn toàn không phải thế? Đó là cái mụ Katerina Ivanovna mụ ấy nói bậy như thế, vì mụ chẳng hiếu gì sất! Mà tôi cũng không hề đeo đuổi cô Sofia Xemionovna. Chẳng qua tôi chi muốn giúp cô ta tiến bộ thôi, một cách hoàn toàn vô tư, nhằm cổ vũ tinh thần phản kháng trong cô ta… Tôi thì tôi chỉ cần sự phản kháng, còn bản thân Sofia Xemionovna thì lẽ tự nhiên không thể trọ ở đây được nữa rồi?
- Ông rủ cô ấy tham gia công xã chứ gì?
- Ông cứ nhạo báng mãi, mà nhạo báng một cách vụng về nhạt nhẽo, xin nói rõ như thế. Ông không hiểu gì hết? Trong công xã không làm gì có những vai trò như thế. Công xã lập ra chính là để đừng có những vai trò như thế nữa. Trong công xã vai trò đó thay đổi hẳn thực chất của nó, và cái gì ở đây là ngu xuẩn thì ở đấy lại là thông minh, cái gì trong hoàn cảnh hiện nay là phi tự nhiên thì trong công xã lại sẽ thành ra hoàn toàn tự nhiên. Tất cả đều tuỳ ở chỗ con người sống trong hoàn cảnh nào và môi trường nào. Tất cả đều do môi trường, bản thân con người chẳng là cái gì hết. Còn đối với Sofia Xemionovna thì cho đến nay tôi vẫn là chỗ thân tình: điều đó là một bằng chứng có thể cho ông thấy rõ rằng cô ta chưa bao giờ xem tôi là một kẻ thù, một người đã xúc phạm đến cô ta. Phải! Ngay bây giờ tôi cũng đang lôi kéo cô ta vào công xã, nhưng trên những cơ sở khác hẳn, khác hẳn! Có gì mà ông cười! Chúng tôi muốn thành lập một công xã riêng, đặc biệt, nhưng trên những cơ sở rộng rãi hơn trước. Chúng tôi cải tiến thêm các (quan điểm của chúng tôi. chúng tôi phủ nhận nhiều hơn! Giá Dobroliubov sòng lại, tôi sẽ tranh luận với ông ta! Còn như Bielinski thì tôi sẽ trị cho một mẻ. Trong khi chờ đợi, tôi tiếp tục giáo dục Sofia Xemionovna. Bản chất cô ta hết sức tốt đẹp!
- Ấy thế là ông lợi dụng cái bản chất tốt đẹp ấy chứ gì? Hê - hê!
- Không, không! Ồ, không Ngược lại ấy chứ?
- Làm gì có chuyện ngược lại! Hê - hê - hê… Nói thế mà nghe được!
- Ông phải tin mới được chứ! Vì lý do gì tôi lại đi che giấu ông, ông thử nói xem! Trái lại, chính tôi cũng lấy làm lạ: đối với tôi cô ta có vẻ trình bạch và cả thẹn đến mức sợ sệt quá mức ấy!
- Còn ông thì dĩ nhiên là ông giáo dục… hê hê! Ông chứng minh cho cô ta thấy rằng e thẹn như thế là ngớ ngẩn chứ gì?
- Hoàn toàn không phải, hoàn toàn không phải như thế! Sao ông lại hiểu chữ giáo dục một cách thô thiển và - nói vô phép - ngu xuẩn như thế? Ông không hiểu gì hết? Trời ơi, ông còn… lạc hậu quá? Chúng tôi đi tìm tự do cho phụ nữ, còn ông thì trong óc chỉ rặt một chuyện ấy… Trong khi gạt hẳn sang một bên vấn đề trinh tiết và tính cả thẹn của phụ nữ, xem đó là những chuyện vô ích, thậm chí là những thành kiến hủ lậu, tôi vẫn hoàn toàn, hoàn toàn dung thứ thái độ e dè của cô ta đối với tôi, vì đó là ý chí, là quyền của cô ta. Dĩ nhiên nếu cô ta tự nói với tôi: "Em thèm khát anh", thì tôi sẽ tự cho mình là người diễm phúc, vì tôi rất thích cô gái nầy; nhưng hiện nay, ít nhất là hiện nay không có ai cư xử với cô ta một cách lễ độ và kính cẩn hơn tôi, không có ai coi trọng nhân phẩm của cô ta hơn tôi… tôi đợi chờ và hy vọng - Chỉ có thế thôi!
- Tốt hơn ông nên tặng cô ta một cái gì, tôi cuộc là ông chưa nghĩ đến việc ấy đấy.
- Ông không hiểu gì hết, tôi đã nói mà! Dĩ nhiên tình cảnh cô ta là như thế, nhưng đây là một vấn đề khác! Khác hẳn! Chẳng qua ông khinh miệt cô ta. Vừa trông thấy một việc mà ông tưởng lầm là đáng khinh, ông đã không chịu nhìn một con người bằng một con mắt nhân đạo nữa. Ông chưa biết bản chất cô ta ra sao! Tôi chỉ bực mình là gần đây cô ta chẳng đọc gì cả và không mượn sách của tôi nữa. Trước kia cô vẫn mượn đấy. Cũng đáng tiếc là mặc dầu cô ta có một tinh thần phản kháng mạnh mẽ và cương quyết, như hành động của cô, ta đã cho thấy một lần, cô ta vẫn dường như ít tính độc lập? Ít sức phủ nhận, cho nên không dứt hẳn được ra khỏi một số thành kiến và… tư tưởng ngu xuẩn. Tuy vậy, có một số vấn đề cô ta hiểu rất rõ. Chẳng hạn, cô ta hiểu rất thấu đáo vấn đề hôn tay, nghĩa là nếu một người đàn ông hôn tay một người đàn bà, tức là đã có một quan niệm bất bình đắng xúc phạm tới phụ nữ. Chúng tôi có thảo luận vấn đề nầy, và tôi đã lập tức truyền đạt lại cho cô ta. Về các hiệp hội công nhân ở Pháp cô ta cũng nghe khá chăm chú. Hiện nay tôi đang giải thích cho cô ta hiểu vấn đề tự do vào phòng người khác trong xã hội tương lai.
- Lại chuyện gì nữa thế?
- Gần đây chúng tôi có thảo luận vấn đề: một thành viên công xã có quyền vào phòng một thành viên khác không, dù là đàn ông hay đàn bà, bất cứ vào lúc nào… rốt cục chúng tôi đã giải quyết là có quyền…
- Thế nếu lúc ấy người kia đang thoả mái những nhu cầu thiết yếu thì sao, hê - hê!
Andrey Xemionovich nổi giận lên.
- Ông thì cứ nói mãi đến những "nhu cầu" chết tiệt ấy! - Ông ta hằn học quát lên, - Chà, tôi thật bực mình vì khi trình bày cho ông nghe quan điểm tôi đã nhắc quá sớm đến những nhu cầu chết tiệt ấy! Mẹ kiếp! Đó là một vấn đề gay go nhất đối với những người như ông, và tệ hơn cả là các ông chưa biết đầu đuôi ra sao đã chế nhạo rồi! Cứ như thể mình đúng lắm ấy! Cứ như thể dáng lấy làm tự hào lắm! Xì! Tôi đã nhiều lần khẳng định rằng đối với những người mới tập tõm thì không có cách nào khác là trình bày vấn đề nầy sau cùng, khi họ đã tin chắc vào hệ thống, khi họ đã có trình độ kha khá và có định hướng. Ấy, ông thử hỏi xem ông thấy có gì đáng thẹn và đáng khinh trong cái hố vệ sinh chẳng hạn? Tôi thì tôi sẵn sàng tiên phong đi dọn bất cứ hố vệ sinh nào! Thậm chí ở đây cũng không có gì là hy sinh cả! Đây chỉ là một công việc, một hoạt động cao quý, hữu ích cho xã hội, không thua kém bất cứ hoạt động nào khác, mà lại còn hơn mọi hoạt động của một Raphaen hay một Puskin nào đó chẳng hạn, vì có ích hơn.
- Và cao quý hơn, cao quý hơn, hê - hê…
- Thế nào là cao quý hơn? Tôi không thể quan niệm rằng từ nay có thể dùng để đánh giá hoạt động của con người được "cao quý hơn", "hào hiệp hơn", toàn là chuyện nhảm nhí, chuyện vô lý, những từ cũ kỹ đầy thành kiến, mà tôi nhất định phủ nhận! Cái gì có ích cho nhân loại thì cái ấy cao quý. Tôi chỉ hiểu có một từ: có ích. Ông muốn cười thì cứ cười, nhưng sự thật nó như thế đấy!
Piotr Petrovich cười ha hà. Ông ta vừa đếm tiền xong và đem cất đi nhưng vẫn còn để lại một phần ở trên bàn, không biết để làm gì. Cái vấn đề "hố vệ sinh" nầy tuy tầm thường như vậy, song cũng đã mấy lần làm cho Piotr Petrovich và ông bạn trẻ xung đột với nhau.
Sở dĩ những cuộc xung đột ấy đâm ra ngớ ngẩn, ngu xuẩn cũng chỉ vì Andrey Xemionovich nổi giận thật sự.
Lugin thì nhân dịp đó để giải khuây, và lúc nầy ông ta đặc biệt thấy muốn trêu gan Lebeziatnikov.
- Chỉ tại hôm qua ông bị thất bại cho nên ông mới cáu kỉnh và nhiễu sự thế! - Cuối cùng Lebeziatnikov thốt lên. Nói chung, tuy có tính "độc lập" và nhiều tinh thần "phản kháng" như vậy, không hiểu sao ông ta vẫn không dám chống chọi với Piotr Petrovich và vẫn giữ một thái độ kính nể hình như đã quen từ mất năm trưức.
- Tốt hơn là ông thử nói xem. - Piotr Petrovich cắt ngang, giọng trịch thượng và bực dọc, - Ông có thể… hay nói cho đúng hơn: có thật ông thân với người con gái nói trên không, và ông có thân với cô ta đến mức có thể mời cô ta vào đây, trong phòng nầy, ngay bây giờ không? Hình như họ ra nghĩa địa giờ đã về cả rồi thì phải… Tôi nghe tiếng họ đi lại rộn rịp lắm… Tôi có việc cần gặp cô ta một tí.
- Nhưng ông gặp làm gì? - Lebeziatnikov ngạc nhiên hỏi.
- Tôi cần gặp thế thôi. Nay mai tôi sẽ đi, cho nên tôi muốn nói cho cô ta biết… Vả chăng cũng xin ông ngồi đây trong khi tôi nói chuyện. Như thế lại còn tốt hơn nữa là khác. Nếu không, có trời biết ông sẽ nghĩ những gì.
- Tôi chẳng nghĩ gì sất… Tôi chỉ hỏi thế thôi, và nếu ông có việc cần, thì không có gì dễ hơn là gọi cô ta lên đây nữa. Tôi xuống ngây đây. Còn tôi thì xin ông tin chắc cho rằng tôi sẽ không làm phiền hai người đâu.
Quả nhiên, chừng năm phút sau Lebeziatnikov trở lại với Sonya. Nàng bước vào với một vẻ ngạc nhiên đến cực độ, vẫn như thường lệ, nàng đâm ra luống cuống. Trong những trường hợp như vậy bao giờ nàng cũng luống cuống, nàng rất sợ những người mới gặp, những cuộc làm quen; trước kia, hồi còn bé đã thế, bây giờ lại càng sợ hơn… Piotr Petrovich tiếp đón nàng một cách "ân cần và lễ độ", song vẫn có một sắc thái thân mật cợt nhả nào đấy. Vả chăng theo ý Piotr Petrovich thì đó là một thái độ rất ổn đáng đối với một người bệ vệ đáng kính như ông ta khi đứng trước một con người trẻ tuổi và cod phần thú vị như vậy.
Ông vội vàng "khuyến khích" cho Sonya vững tâm, mời nàng ngồi trước bàn, đối diện với ông. Sonya ngồi xuống, đưa mắt nhìn quanh - nhìn Lebeziatnikov, nhìn mớ tiền để trên bàn, rồi lại nhìn Piotr Petrovich và không rời mắt ra nữa, như thể mắt nàng đã dán chặt vào ông ta. Lebeziatnikov đi ra phía, cả Piotr Petrovich đứng dậy, ra hiệu cho Sonya cứ ngồi và ra cửa chặn Lebeziatnikov lại.
- Cái thằng Raxkonikov có đấy không? Đến chưa? - Ông ta hỏi thì thầm.
- Raxkonikov đến rồi đấy. Sao? Phải, đến rồi… Mới vừa vào, tôi có trông thấy! Sao?
- Ấy, nếu thế tôi tha thiết xin ông ở lại đây với tôi, đừng để tôi ngồi một mình với cái cô gái nầy. Chuyện thì chẳng có gì, nhưng nhỡ người ta dị nghị nầy nọ. Tôi không muốn Raxkonikov mách lại với họ rằng… Ông có hiểu tôi muốn nói gì không?
- À, tôi hiểu, tôi hiểu! - Lebeziatnikov chợt đoán ra. - Phải, ông có quyền… Dĩ nhiên theo ý riêng tôi thì ông lo ngại như vậy cũng hơi quá, nhưng… dù sao ông cũng có quyền. Tôi ở lại cũng được. Tôi sẽ đứng đây, cạnh cửa sổ, và sẽ không làm phiền ông… Theo tôi thì ông có quyền.
Piotr Petrovich trở lại ngồi trên đi-văng, đối diện với Sonya, chăm chú nhìn nàng, rồi bỗng làm ra mệt vẻ mặt cực kỳ trang trọng, lại có phần nghiêm khắc nửa như muốn nói: "Nầy cô, đừng có nghĩ xằng đấy nhé". Sonya đâm ra luống cuống hẳn hoi.
- Cô Sofia Xemionovna, trước hết xin cô chuyển lời cáo lỗi của tôi cho mẹ cô… Hình như bà Katerina Ivanovna là người thay thế cho mẹ cô phải không ạ?
Piotr Petrovich mở đầu một cách trang trọng nhưng cũng khá ôn tồn. Có thể thấy rõ ông ta có những ý định hết sức thân thiện.
- Vâng ạ, đúng thế đấy ạ, thay cho mẹ tôi đấy ạ, - Sonya đáp hấp tấp và sợ sệt.
- Ấy đã thế thì cô chuyển hộ lời cáo lỗi của tôi, là vì những hoàn canh không tuỳ thuộc ý tôi, tôi buộc lòng phải vẳng mặt trong bữa chén… và trong bữa tiệc tang, tuy mẹ cô đã có nhã ý mời.
- Vâng ạ, tôi sẽ xin nói lại ngay bây giờ, - đoạn Sonya vội vã đứng dậy.
- Nhưng hết ạ, - Piotr Petrovich ngăn nàng lại, miệng mỉm cười, vì thấy nàng ngờ nghệch, lại không biết phép lịch sự, - Cô Sofia Xemionovna thân mến ạ, nếu cô nghĩ rằng chỉ vì một việc nhò mọn chỉ liên quan đến tôi như vậy mà tôi lại dám phiền đến cô và mời một thiếu nữ như cô đến phòng tôi, thì cô quả không biết rõ tôi mấy. Tôi có một mục đích khác.
Sonya hấp tấp ngồi xuống. Những tờ giấy bạc ngũ sắc còn bày ngổn ngang trên bàn lại lấp loáng trước mắt nàng, nhưng nàng vội vã quay mặt đi, ngẩng lên nhìn Piotr Petrovich: nàng chợt thấy rằng nhìn tiền bạc của người khác là một việc tối bất chính, nhất là đối với một người như nàng. Nàng đã toan nhìn vào đôi kính tay gọng vàng của Piotr Petrovich đang cầm ở tay trái và chiếc nhẫn to bản rất đẹp mặt hố phách, đeo ở ngón giữa bàn tay ấy, nhưng rồi nàng lại đột nhiên quay đi, và không biết nhìn đi đâu cho ổn, nàng lại nhìn thẳng vào mắt Piotr Petrovich. Ông ta im lặng một lát, vẻ còn bệ vệ hơn trước nữa, rồi nói tiếp.
- Hôm qua, nhân đi qua nhà, tôi có dịp trao đổi mấy lời với bà Katerina Ivanovna bất hạnh. Chỉ cần hai câu cũng đủ cho tôi thấy rằng bà đang ở trong một tình trạng… phi tự nhiên, nếu có thể nói như thế…
- Vâng ạ… phi tự nhiên, - Sonya vội vã tán đồng.
- Hay nói cho đơn giản, dễ hiểu hơn, là một tình bệnh hoạn.
- Vâng, đơn giản và để… vâng ạ, bệnh hoạn.
- Thế đấy. Cho nên, vì lòng nhân đạo và - à - à… có thể nói là vì lòng trắc ẩn, tôi có ý muốn về phần mình làm một việc gì có ích, vì đã thấy trước số phận khốn đốn không sao tránh khỏi của bà. Mà hình như cả gia đình bây giờ cũng chỉ biết trông vào cô nữa thôi.
- Xin phép ông, - Sonya bỗng đứng dậy, - Cho tôi được hỏi: hình như hôm qua ông có nói chuyện với dì tôi rằng có thể được một số tiền trợ cấp phải không ạ! Vì hôm qua dì tôi có bảo là ông sẽ lo cho dì tôi được hưởng trợ cấp. Có phải thế không ạ?
- Hoàn toàn không phải như thế, và về một phương diện nào đó, lại còn vô lý nữa là khác. Tôi chỉ muốn ám chỉ đến chế độ trợ cấp tạm thời cho quả phụ một công chức chết trong khi thừa hành nhiệm vụ, ấy là nói nếu có người che chở cho. Nhưng hình như ông thân sinh cô không những làm việc chưa đủ thời hạn, mà gần đây lại không làm gì cả nữa. Nói tóm lại, tuy cũng có thể hy vọng đấy, nhưng rất mong manh, vì trong trường hợp nầy thật ra không hề có quyền được trợ cấp, mà trái lại nữa là khác… Thế mà bà ta đã nghĩ đến tiền trợ cấp, hê - hê - hê! Bà ta kể cũng nhanh nhảu nhật!
- Vâng ạ, về số tiền trợ cấp… Vì dì tôi vốn cả tin và tốt bụng, mà người tốt bụng thì cái gì cũng tin, và… và trí óc dì tôi lại như thế… vâng ạ… xin phép ông…, - Sonya nói đoạn lại đứng dậy để đi ra.
- Xin cô ngồi lại, cô chưa nghe hết.
- Vâng ạ, tôi chưa nghe hết, - Sonya lắp bắp.
- Thế thì cô ngồi xuống.
Sonya hết sức lúng túng ngồi xuống, lần nầy là lần thứ ba - Thấy tình cảnh bà ta với lũ con thơ côi cút như vậy tôi… cũng muốn, như tôi đã nói, giúp đỡ phần nào gọi là trong chừng mực có thể, chứ không hơn được. Chẳng hạn có thể tổ chức lạc quyên, hay gọi là xổ số gì đấy trong những trường hợp như thế nầy, những người thân, hay những người lạ có thiện ý muốn giúp đỡ cũng thế, thường làm như vậy. Đây tôi muốn nói với cô chuyện ấy may ra có thể.
- Vâng ạ, được ạ… Xin Chúa ban phúc cho ông đã… - Sonya nói lắp bắp, mắt nhìn Piotr Petrovich đăm đăm.
- Có thể, nhưng… sau ta sẽ bàn, nghĩa là cũng có thể bắt đầu ngay hôm nay. Đến tối ta sẽ gặp nhau bàn bạc và có thể nói là đặt một cơ sở cho việc nầy. Bây giờ tối xin mời cô cứ ghé lại đây. Tôi hy vọng rằng Andrey Xemionovich cũng sẽ… tham dự, nhưng… ở đây có một việc cần phải bàn trước và bàn kỹ. Chính vì thế mà tôi đã phải phiền đến cô, Sofia Xemionovna ạ. Cụ thể là theo tôi, nếu đưa tiền cho bà Katerina Ivanovna thì nguy hiểm không thể làm như thế được. Chính bữa tiệc tang hôm nay cũng chứng tỏ điều đó. Có thể nói là không có lấy một miếng bánh để dành đến ngày mai và… đấy, một đôi giầy cũng không có, thế mà lại mua cả rượu Rom Yamaik, rượu Madera và cả cả-phê nữa thì phải. Khi đi ngang tôi có trông thấy. Đến mai tất cả sẽ đổ lên đầu cô, kể cả việc kiếm miếng bánh qua bữa, thật là vô lý. Cho nên theo ý riêng tôi, cuộc lạc quyên phải tiến hành sao cho bà quả phụ khốn khổ đừng biết là có tiền, mà chỉ có cô biết thôi chẳng hạn. Có đúng không?
- Tôi không biết ạ Chỉ có hôm nay dì tôi mới thế… cả đời chỉ có một lần… dì tôi rất muốn nhắc nhở, cho hương hồn… dì tôi rất thông minh ạ. Vả chăng cũng tuỳ ý ông: tôi sẽ rất, rất… cả nhà sẽ đội ơn ông… Và Chúa sẽ… cả lũ trẻ mồ côi cũng sẽ…
Sonya không nói hết được. Nàng khóc oà lên.
- Được! Thế thì cô lưu ý cho; còn bây giờ xin cô vui lòng nhận tạm cho số tiền nhỏ mọn nầy, của cá nhân tôi gửi để giúp mẹ cô. Tôi thiết tha mong rằng tên tôi sẽ không được nhắc đến. Đấy… vì chính tôi cũng đang có nhiều việc phải lo, nên tôi không thể giúp nhiều hơn.
Và Piotr Petrovich cẩn thận vuốt thẳng một tờ giấy mười rúp, đưa cho Sonya. Sonya đỏ mặt cầm lấy, đứng phắt dậy lẩm bẩm câu gì không rõ và hối hả cúi chào. Piotr Petrovich trang trọng đưa nàng ra cửa. Nàng bước vội ra ngoài, lòng bồi hồi day dứt, và trở về phòng Katerina Ivanovna, hết sức bối rối.
Suốt thời gian hai người nói chuyện, Andrey Xemionovich khi thì đứng ở cửa sổ, khi thì đi bách bộ trong phòng, không muốn phá ngang câu chuyện; khi Sonya đã ra khỏi, ông ta vội đến cạnh Piotr Petrovich và long trọng chìa tay ra:
- Tôi đã nghe hết và trông thấy hết, - Andrey Xemionovich nói, đặc biệt nhấn mạnh hai chữ "trông thấy" - Thật là cao quý, và tôi muốn nói là nhân đạo! Ông muốn tránh cảm ơn, tôi thấy rồi! Và tuỳ theo nguyên tắc tôi thú thật là không thể đồng tình với lối ban ơn cá nhân, vì không những nó không thể tiêu diệt cái ác tận gốc mà còn nuôi dưỡng thêm, tuy vậy tôi cũng không thể không thừa nhận rằng tôi rất thích khi thấy hành động của ông, vâng, vâng, rất thích.
- Chà; chỉ là chuyện vặt! - Piotr Petrovich lẩm bẩm, vẻ hơi bối rối, mắt nhìn Lebeziatnikov có chiều lấm lét.
- Không, không phải là chuyện vặt! Một người đã bị lăng nhục và đang bực bội vì chuyện hôm qua như ông mà, lại có - thể nghĩ đến nỗi khổ của người khác… tuy hành động vừa rồi của ông là một sai, lầm về mặt xã hội, - một người như vậy cũng rất đáng kính phục! Thậm chí tôi không ngờ ông có thể hành động như thế, ông. Piotr Petrovich ạ, hơn nữa là vì những quan niệm của ông… Ồ! quan niệm của ông cản trở ông nhiều quá! Như câu chuyện hôm qua chẳng hạn, đã làm ông xúc động quá đáng. - Ông Andrey Xemionovich thật thà kêu lên, và ông ta lại thấy có thiện cảm với Piotr Petrovich lạ lùng. Mà tại sao, tại sao ông lại nhất thiết phải bám lấy cuộc hôn nhân ấy, cuộc hôn nhân hợp pháp ấy, hở ông Piotr Petrovich rất nhã nhặn, rất cao thượng của tôi? Việc gì ông cứ phải cần đến cái tính chất hợp pháp ấy trong hôn nhân? Ấy. Ông có đánh tôi cũng được, nhưng xin nói rằng tôi rát mừng, rất mừng khi thấy cuộc hôn nhân không thành, Và ông vẫn được tự do, đối với nhân loại, ông vẫn chưa phải, là người bỏ đi? Tôi rất mừng…ông thấy không, tôi đã nói hết ý nghĩ của tôi ra rồi đấy!
- Sở dĩ tôi cần đến hôn nhân hợp pháp như thế là vì tôi không muốn tự do kết hôn như các ông để rồi phải mọc sừng và nuôi con kẻ khác, - Lugin đáp lấy lệ. Ông ta đang mải bận tâm nghĩ một, điều gì lung lắm.
- Con cái à? Ông đề cập đến con cái? - Andrey Xemionovich giật mình như con chiến mã nghe thấy tiếng kèn trại - Con cái là một vấn đề xã hội và là một vấn đề quan trọng vào bậc nhất, tôi đồng ý như thế: nhưng vấn đề con cái phải giải quyết cách khác, thậm chí có một số người hoàn toàn phủ nhận con cái cũng như bất cứ cái gì có dính dáng đến gia đình. Tôi sẽ nói chuyện con cái sau, còn bây giờ, hẵng bàn đến chuyện mọc sừng đã. Xin thú thật đấy là nhược điểm của tôi. Cái danh từ tục tĩu, sặc mùi trại lính, đầy tính chất Puskin nầy thậm chí cũng không thể nào có được trong vốn từ vựng tương lai. Mà sừng là cái gì? Ờ, thật là sai lạc! Sừng nào? Sao lại sừng? Thật là nhảm nhí! Trái lại trong chế độ hôn nhân tự do không thể có chuyện mọc sừng được! Mọc sừng chỉ là hậu quả tự nhiên của bất cứ cuộc hôn nhân hợp phảp nào, có thể nói là một sự chỉnh lý, một sự phản kháng, cho nên hiểu theo nghĩa nầy mỏc sừng không có gì là nhục nhã. Và giả sử tôi sẽ kết hôn một cách hợp pháp - ấy là nói giả dụ một chuyện vô lý như thế - thì tôi sẽ còn lấy làm mừng khi được mang cặp sừng chết tiệt của ông, lúc đó tôi sẽ bảo vợ tôi: "Mình ạ, trước nay tôi chỉ yêu mình, nhưng đến bây giờ thì tôi lại còn kính phục mình nữa, vì mình đã biết "phản kháng". Ông cười à? Chỉ vì ông không đủ sức gạt bỏ các thành kiến cũ? Mẹ kiếp, tôi cũng hiểu nỗi khó chịu của kẻ bị lừa trong hôn nhân hợp pháp; nhưng đó chỉ là cái hậu quả bỉ ổi của một sự việc bỉ ổi, trong đó cả hai người đều bị hạ phẩm giá. Còn đến khi sừng cắm công khai như trong hôn nhân, tự do thì nó không còn nghĩa lý gì nữa và thậm chí không, còn gọi là sừng nữa. Ngược lại, vợ ông có làm như vậy thì cùng chỉ chứng tỏ cho ông thấy rằng bà ta kính trọng ông, cho rằng ông không đời nào đi cản trở hạnh phúc của bà ta, và ông tiến bộ đến mức không nghĩ đến chuyện trả thù chỉ vì bà ta đi lấy chồng khác. Mẹ kiếp, đôi khi tôi mơ ước là nếu tôi đi lấy chồng… Chậc! nếu tôi cưới vợ (theo chế độ hôn nhân tự do hay hợp pháp cũng thế thôi), thì tôi sẽ thân hành dẫn một tình nhản đến cho vợ tôi, nếu vợ tôi mãi không bắt được nhân tình, tôi sẽ nói: "Mình ạ, tôi yêu mình, nhưng tôi lại còn muốn hơn thế nữa: tôi muốn mình kính trọng tôi đấy!" Tôi nói thế có đúng không, có đúng không nào? Piotr Petrovich vừa nghe vừa cười hềnh hệch, nhưng không có vẻ chăm chú lắm. Thậm chí ông cũng chẳng nghe mấy đỗi nữa. Quả nhiên ông ta đang suy nghĩ một điều gì khác, và cuối cùng Lebeziatnikov cũng nhận thấy thế. Thậm chí Piotr Petrovich còn có vẻ bứt rứt, hai tay cứ xoa vào nhau, vẻ mặt tư lự. Tất cả những điều đó, sau nầy Andrey Xemionovich sẽ suy xét và nhớ lại…

Chú thích:
(1) Ta phải phân biệt (tiếng Pháp)


TỘI ÁC VÀ SỰ TRỪNG PHẠT


Phần V

Chương 26


Khó lòng mà nói cho đúng những nguyên nhân nào đã xui khiến bộ óc rối loạn của Katerina Ivanovna nảy ra cái ý bày bữa tiệc tang rồ dại nầy. Quả nhiên, bà ta đã phải tiêu vào đấy gần đến mười rúp trong số hơn hai mươi rúp của Raxkonikov cho để lo việc chôn cất. Có lẽ Katerina Ivanovna tự cho mình có bổn phận tỏ lòng sùng kính hương hồn chồng "cho tươm tất", để những người cùng trọ và nhất là bà Amalya Ivanovna biết rằng chồng bà "không những không thua kém gì họ, mà lại còn khá hơn nhiều nữa" và trong bọn họ không ai có quyền được "vênh mặt" lên với ông ta. Có lẽ nguyên nhân chính trong việc nầy là "tính tự hào của người nghèo" khiến nhiều người đem hết những đồng cô-pếch cuối cùng còn dành dụm được ra tiêu pha, vào những lễ nghi bắt buộc cho mọi người trong xã hội, không trừ một ai, cố hết sức làm sao cho khỏi "thua kém người ta" và để cho người ta khỏi "chê cười". Cũng rất có thể Katerina Ivanovna muốn chứng tỏ ngay trong dịp nầy, đúng vào giờ phút nầy, khi tưởng chừng như bà ta đã bị mọi người ruồng bỏ, cho những "kẻ cùng trọ ti tiện và xấu xa" ấy thấy rằng mình không những "biết cách sống và biết cách tiếp đãi", mà hơn nữa đã được giáo dục để sống một cuộc đời khác hẳn, trong một "gia đình quý phái, hơn nữa có thể nói là quý tộc thượng lưu, gia đình của một vị đại tá", chứ tuyệt nhiên không phải để lau sàn và đêm đêm giặt quần áo rách cho con. Những cơn tự hào và sĩ diện đến cùng cực ấy thỉnh thoảng vẫn thấy có ở những người nghèo khổ nhất, khiếp nhược nhất và đôi khi trở thành một nhu cầu cấp thiết không sao cưỡng được. Hơn nữa, Katerina Ivanovna lại không phải hạng người dễ khiếp nhược: có những trường hợp có thể làm cho bà điêu đứng, nhưng làm cho bà khiếp nhược nghĩa là làm cho bà hoàng sợ phải tuân theo ý mình, thì không thể được. Ngoài ra, Sonya rất có căn cứ khi nói rằng trí não của bà bắt đầu rối loạn.
Thật ra điều nầy chưa có thể nói một cách dứt khoát và chắc chắn, nhưng gần đây, suốt một năm nay quả nhiên bộ óc khốn khổ của bà đã trải qua quá nhiều cơn thử thách gian truân đến nỗi không thế nào khỏi bị tổn thương ít nhiều: Bệnh ho lao phát triển mạnh: theo lời các bác sĩ, cũng góp phần tác hại đến trí năng. Rượu không có nhiều và cũng không được mấy thứ, rượu Madera không có, chẳng qua người ta phóng đại ra thế. Nhưng dù sao cũng có rượu: có vodka, rượu rhum và rượu Porto, toàn là mạt hạng cả, nhưng cũng đủ dùng. Các món ăn thì ngoài bánh bột gạo cổ truyền ra còn có ba, bốn món (trong đó có cả bánh rán thịt) đều được nấu nướng trong nhà bếp của bà Amalya Ivanovna; ngoài ra người ta còn đặt hai ấm xamovar để dọn trà và rượu Punch sau bữa ăn. Chính Katerina Ivanovna đã thân hành đi mua sắm với một người Ba Lan ốm đói không hiểu tư đầu đến trọ ở nhà bà Lippevekzen, hắn lập tức tự nguyện đi theo giúp đỡ Katerina Ivanovna, suốt ngày hôm qua và sáng hôm nay hắn đầu tắt mặt tối chạy hết nơi nầy đến nơi khác, lưỡi thè ra, và hình như cố sao cho mọi người chú ý đến chi tiết nầy. Động một là hắn bỏ đi tìm cho được đích thân Katerina Ivanovna, chạy mãi ra tận Goxtiny Dvor (1) tìm bà, luôn mồm gọi: "Pani Chorunzhina"(2), rốt cục làm cho bà phát chán ra, tuy lúc đầu bà nói là không có con người "tận tuỵ và hào hiệp" ấy thì bà không biết xoay xở ra sao nữa. Katerina Ivanovna có một tính đặc biệt là hễ gặp bất cứ người nào cũng vội tô điểm ngay cho họ những màu sắc rực rỡ và, tốt đẹp nhất, ca ngợi tâng bốc không tiếc lời, đến nỗi người ta phát ngượng lên, bịa ra những sự việc không hề có để khen ngợi họ, đồng thời lại thành thật và quả quyết tin rằng những sự việc ấy có thật, rồi về sau bỗng tỉnh ngộ ra, bà hắt hủi, phỉ nhổ và xua đuổi con người mà chỉ cách đây mấy tiếng đồng hồ bà dốc lòng sùng bái.
Bẩm sinh bà vốn có tính mau cười, vui vẻ và chan hoà, nhưng vì phải trải qua những tai hoạ và thất bại liên tiếp, bà quay ra mong muốn và khăng khăng đòi hỏi mọi người phải sống cho hoà thuận vui vẻ và không ai được sống cách khác, đòi hỏi đó cực đoan đến nỗi một sự ngang chướng cỏn con nào, một thất bại nhỏ nhặt nào trong cuộc sống cũng lập tức làm cho bà nổi xung lên, và chỉ trong khoảnh khắc, đang ấp ủ những niềm hy vọng và mơ ước tươi đẹp nhất, bà bỗng quay ra nguyền rủa số mệnh, vớ được cái gì cũng xé, cũng vứt tung ra và đập đầu vào tường chan chát. Bây giờ cũng vậy, bà Amalya Ivanovna bỗng dưng đâm ra có một ý nghĩa quan trọng và được Katerina Ivanovna kính trọng khác thường, có lẽ cũng chỉ vì bữa tiệc nầy và vì bà Amalya Ivanovna đã hết lòng tham gia lo việc sửa soạn; bà ta nhận lấy việc bày bàn, kiếm khăn, đĩa v.v… và nấu nướng các món ăn trong nhà bếp của mình. Trong khi ra nghĩa địa, Katerina Ivanovna đã giao cho bà toàn quyền hành động, để cho bà tuỳ tiện liệu lấy.
Quá nhiên, mọi việc đều được chuẩn bị chu đáo: bàn trải khăn khá sạch, các thứ đĩa, cốc, chén, dao, nĩa thì dĩ nhiên rất ô hợp, đủ các kiểu và đủ các cỡ khác nhau, mượn của mỗi nhà mỗi ít, nhưng đến giờ đã định, mọi thứ đã bày biện đầy đủ đâu ra đấy, và Amalya Ivanovna, cảm thấy mình đã làm tròn phận sự một cách vẻ vang, ra đón những người mới về với một vẻ tự hào khá rõ rệt, phục sức sang trọng, đội mũ chụp mới dính dải tang, mình mặc áo dài đen. Vẻ tự hào nầy tuy rất chính đáng, song không hiểu sao không vừa ý bà Katerina Ivanovna: "Cứ như thể không có bà Amalya Ivanovna thì người ta không bày được bàn ấy". Bà cũng không có thiện cảm gì hơn đối với cái mũ chụp mới dính dải tang: "Hay là con mẹ người Đức đần độn nầy đâm ra kiêu hãnh vì bà thương tình mà thuận giúp đỡ bọn khách trọ nghèo hèn tội nghiệp? Thương tình! Thôi xin lỗi! Ông thân sinh Katerina Ivanovna, ngày xưa làm đại tá và suýt lên chức tổng trấn, đã mấy lần mở tiệc thết đến bốn mươi tân khách, và cái hạng như mụ Amalya Ivanovna cha căng chú kiết nào, nói cho đúng hơn, là Amalya Ludvigovna, thì có muốn vào làm bếp cũng đừng hòng…". Tuy vậy. Katerina Ivanovna cũng tự chủ sẽ không để lộ những cảm nghĩ của mình ra quá sớm, tuy bà đã định bụng là hôm nay thế nào cũng phải cho mụ ta một bài học cho mụ biết thân biết phận, nếu không thì có trời biết mụ còn sẽ lên mặt đến thế nào. Trong khi chờ đợi, Katerina Ivanovna chỉ tỏ ra một thái độ lạnh nhạt.
Một chuyện rầy rà khác cũng góp phần làm tăng thêm tâm trạng cáu bẳn của Katerina Ivanovna: trong số những người cùng trọ được mời đến dự đám tang, chỉ có mỗi một mình anh chàng người Ba Lan đã xoay xở thế nào có đủ thì giờ ghé vào nghĩa địa, ngoài ra hầu như không có ai đi cả; còn đến dự tiệc tang thì trong bọn họ chỉ có những người hèn mọn và nghèo khổ nhất, trong đó lại có mấy người ăn mặc không còn ra cái thể thống gì nữa, trông như một lũ ma dại. Còn những người hơi có vai vế, hơi ra dáng một chút thì dường như đều cố tình bảo nhau không đến. Piotr Petrovich Lugin chẳng hạn, có thể nói là người khách trọ oai vệ nhất ở đây, cũng không đến. Ấy thế mà tối hôm qua Katerina Ivanovna đã trót loan báo cho khắp mọi người - nghĩa là Amalya Ivanovna, Polenka, Sonya và anh chàng Ba Lan - biết rằng con người tối cao quý, tối hào hiệp nầy, vốn có tiền của và thế lực khó ai bì kịp xưa kia là bạn ông chồng trước của bà, đã từng được cha bà tiếp đón trong nhà, có hứa là sẽ tìm đủ mọi cách lo cho bà một số lương quả phụ khá cao. Ở đây cũng xin nói rõ rằng sở dĩ Katerina Ivanovna có khoe khoang tiền của và thế lực của người nào, thì đó tuyệt nhiên không phải vì vụ lợi, tính toán riêng tư gì cả, bà khoe khoang như vậy một cách hoàn toàn vô tư có thể nói là để trút bớt nỗi lòng, chì vì cái thú được khen ngợi người ta và làm tăng phẩm giá của người được khen lên. Ngoài Lugin ra, và chắc là vì "noi gương ông ta", còn có "cái tên chó đểu" Lebeziatnikov cũng không đến nốt. "Không biết cái thằng cha nầy cho mình là cái thá gì? Người ta chỉ vì thương tình mà mời hắn đến, và cũng vì hắn ở chung phòng với ông Piotr Petrovich, lại có quen với ông ta, nên không mời không tiện". Lại còn có một bà thuộc hạng lịch duyệt và cô "con gái quá thì" của bà không đến dự: bà nầy tuy mới đến ở nhà bà Lippevekzen trong vòng hai tuần nay, song cùng đã mấy lần kêu ca về những tiếng ồn ào từ căn nhà của gia đình Marmelazov vang lên, nhất là khi ông chồng quá cố đi uỏng rượu say khướt trở về.
Dĩ nhiên Katerina Ivanovna cũng biết thế, vì bà Amalya Ivanovna, cứ mỗi lần chửi nhau với Katerina Ivanovna, và doạ đuổi cả mấy mẹ con ra khỏi nhà, lại rống tướng lên rằng họ quấy rầy "những khách trọ đáng kính mà họ không bén đến gót chân". Giờ đây Katerina Ivanovna có ý mời hai mẹ con bà ta, những kẻ mà bà không "bén đến gót chân", vì một lý do nữa là từ trước đến nay mỗi khi tình cờ gặp nhau, bà kia lại khinh bỉ quay mặt đi - Ấy để cho bà ta biết rằng "nhà nầy cao thượng hơn nhiều, không hề để tâm thù vặt", và để họ thấy rằng Katerina Ivanovna vốn không quen sống trong một tình cảnh như thế nầy. Bà đã định tâm thế nào cũng phải nói đến chuyện nầy trong bữa ăn, cũng như nhắc đến cái chức tổng trấn của ông cụ, và đồng thời cũng dám chỉ rằng khi gặp bà không việc gì phải ngoảnh mặt đi một cách ngu xuẩn như vậy. Lại còn có một ông trung tá to béo không chịu đến (thật ra đó là một đại uý tham mưu giải ngũ), nhưng sau mới biết là ngay từ sáng hôm qua ông ta đã say bí tỉ "chẳng còn chân cẳng đâu mà lê đi nữa". Nói tóm lại, chỉ thấy anh chàng người Ba Lan rồi đến một viên thư lại gầy còm câm như hến, mặc áo đuôi tôm cáu ghét, mặt đầy mụn nhọt, người hôi hám kinh tởm; rồi đến một ông già điếc đặc và gần như mù tịt, ngày trước làm ở một trạm bưu chính nào đấy, trọ ở nhà bà Amalya Ivanovna không biết từ đời nào, do ai nuôi và để làm gì. Lại còn có một lão trung uý về hưu nghiện ngập, thật ra chỉ là một nhân viên quân lương, có một lối cười ông ổng hết sức khả ố, vả lại không mặc gi-lê "có chết người không chứ"! Một lão cha căng chú kiết nào cứ thế ngồi vào bàn, thậm chí cũng chẳng chào hỏi gì Katerina Ivanovna, và cuối cùng là một nhân vật vì không có áo khoác nên định xuất đầu lộ diện trong một cái áo dài mặc ngủ, nhưng cái nầy thì thật quá ư thất lễ, cho nên nhờ những cố gắng của Amalya Ivanovna và anh chàng Ba Lan, hắn đã tị tống cổ ra ngoài. Nhưng anh chàng Ba Lan lại rủ ở đâu đến hai anh chàng Ba Lan nữa, xưa nay chưa từng trọ ở nhà bà Amalya Ivanovna và trong nhà nầy chưa có ai trông thấy mặt bao giờ.
Những điều đó làm cho Katerina Ivanovna hết sức khó chịu. "Thế nầy thì sửa soạn, là dọn cho ai?". Để cho đủ chỗ, người ta đã phải dọn cho mấy đứa trẻ ăn trên một cái hòm đặt ở góc sau, không cho chúng ngồi ở chiếc bàn lớn chưa chi đã choán hết cả phòng. Hai đứa bé ngồi trên chiếc ghế dài, còn Polenka lớn nhất phải trông coi em, cho chúng ăn và chùi mũi cho chúng "cho ra dáng con nhà quý phái". Nói tóm lại, Katerina Ivanovna buộc lòng phải tiếp mọi người một cách long trọng gấp bội và thậm chí với vẻ khỉnh khỉnh nữa. Có một số khách bị bà nhìn một cách, nghiêm khắc đặc biệt và mời ngồi với một giọng trịnh thượng.
Không hiểu sao Katerina Ivanovna cho rằng bà Amalya Ivanovna phải chịu trách nhiệm về những người không đến, cho nên bỗng quay ra ăn nói hết sức khinh xuất với bà ta, khiến bà ta nhận thấy ngay và mếch lòng không sao tả xiết. Một sự khởi đầu như vậy không thể báo hiệu điều gì tốt lành về sau cả. Cuối cùng, mọi người ngồi vào bàn.
Raxkonikov đến gần đúng vào lúc họ từ nghĩa địa trở về, Katerina Ivanovna mừng quýnh lên, trước hết vì chàng là "người có học duy nhất trong cả đám tân khách, và như mọi người đều biết, đang chuẩn bị để hai năm nữa bước lên bục giáo sư ở trường đại học Petersburg", sau nữa là vì thoạt mới vào chàng đã kính cẩn xin lỗi bà ngay, vì đã không đến dự lễ an táng được mặc dầu rất muốn. Bà ta cứ vồ vập lấy chàng, mời chàng ngồi ngay bên tay trái mình (bên phải là bà Amalya Ivanovna), và tuy phải luôn luôn xắng xở trông nom cho người nhà bưng thức ăn cho đúng chỗ và múc đủ cho các tân khách, tuy những cơn ho đau đớn cứ phút phút lại làm bà nghẹt thờ, không nói được hết lời (hình như hai ngày qua bà ho nặng hơn trước rất nhiều), bà vẫn nói chuyện không ngớt với Raxkonikov, vội vã thầm thì bày tò với chàng tất cả những cảm xúc tích tụ lại ttong lòng và nỗi căm phẫn chính dáng của mình khi thấy bữa tiệc tang thất bại; tuy vậy cơn phẫn uất của bà 1uôn luôn xen những tiếng cười hết sức vui vẻ không sao nhịn được, nhằm chế giễu các tân khách quây quanh bàn nhưng chủ yếu là chế giễu đích thân bà chủ nhà.
- Lỗi tại con tu hú nầy cả. Ông hiểu tôi muốn nói ai chứ: nói mụ ấy, mụ ấy đấy! - Katerina Ivanovna bắt đầu trỏ bà chủ nhà cho chàng. - Ông thử nhìn mụ mà xem: mắt mụ đang long lên sòng sọc, mụ biết tôi đang nói chuyện về mụ, nhưng không hiểu nói gì, tức lồi cả mắt lên. Xì, thật như con cú! Ha - ha - ha? - Một cơn ho cắt ngang tiếng cười. - Mụ đội cái mũ chụp ấy để khoe cái gì nhỉ? - Bà lại ho - Ông có để ý thấy không, mụ ta cứ muốn mọi người tưởng mụ ta che chở cho tôi, và mụ đến dự thế nầy là vinh hạnh cho tôi lắm. Tôi tưởng mụ là người tử tế, nhờ mụ mời những khách cho kha khá một chút và phải là những người có quen với nhà tôi, thế mà ông xem, mụ ta mời những ai: toàn một lũ hề ở đâu ấy! Một lũ vô lại ông thử xem cái thằng cha mặt bẩn kia kìa: một thứ sên đi hai chân! Còn mấy thằng Ba Lan kia… ha - ha - ha! - tiếng cười chuyến thành tiếng ho - Chúng chưa từng đến đây bao giờ, từ thuở cha sinh mẹ đẻ tôi chưa bao giờ trông thấy mặt chúng: thế thì xin hỏi ông chúng đến đây làm cái gì? Chúng ngồi cạnh nhau, trông nghiêm chỉnh ra phết.
- Nầy, pane(3) - bà ta bỗng quát gọi một người trong bọn họ. - Pane đã ăn chả rán chưa? Ăn nữa đi, uống bia đi, uống bia đi! Không uống vodka à? Ông xem kìa: hắn đứng phắt dậy chào, ông xem, ông xem chắc là đói meo ra, tội nghiệp! Thôi được cho chúng ăn. Miễn là đừng có làm ồn, ít nhất cũng phải thế… quả tình tôi chỉ sợ cho mấy cái thìa bạc của bà chủ nhà! Amalya Ivanovna? - bà bỗng quay sang bà chủ nhà nói khá to, - nhỡ họ có cuỗm mất thìa của bà thì tôi không chịu trách nhiệm đâu, xin nói trước như vậy! Ha - ha - ha! - Bà cười phá lên một tràng, ngoảnh về phía Raxkonikov hất hàm chỉ bà chủ nhà, rất thích thú với câu nói kháy. - Không hiểu! Lần nầy mụ ta vẫn không hiểu? Cứ ngồi há hốc mồm ra, ông xem như một con cú, thật y như con cú, trên mào có thắt dải ruy băng mới, ha - ha - ha…
Đến đây tiếng cười lại chuyển thành một trận ho dữ dội kéo dài đến năm phút. Một vệt máu dính trên khăn tay, trán toát mồ hôi hột. Bà lặng lẽ đưa cho Raxkonikov xem vệt máu, và chưa kịp thở bà ta lại thì thầm nói với chàng sôi nổi, mà nổi lên những đám đo đỏ:
- Ông thử xem, tôi đã nhờ mụ ta làm một việc có thể nói là hết sức tế nhị, là mời bộ hai mẹ con cái bà thượng lưu kia, ông có hiểu tôi đang nói đến ai không? Ở đây cần phải xử sự thật tinh tế, khéo léo, thế mà mụ đã làm thế nào không biết đến nỗi cái mụ nhà quê ngốc nghếch mới lên tỉnh kia, cái thứ không đáng một trinh mà cũng lên mặt, chỉ vì mụ ta là vợ goá một thằng cha thiếu tá nào đấy lên đây xin lương quả phụ, luồn lọt khắp các công sở, năm mươi tuổi đầu mà còn đánh phấn, thoa son và nhuộm tóc (ai mà chả biết), một thứ người mạt hạng như thế mà mời không thèm đến, thậm chí cũng không thèm cho người đến cáo lỗi, nếu quả không thân hành đến được, thật đến cái lễ độ tối thiểu cũng không biết! Tôi không hiểu tại sao ông Piotr Petrovich cũng không đến. Còn Sonya đâu? À, nó đây rồi, thật là may! Sao Sonya, con đi đâu thế? Đám tang bố mà cũng đến muộn thì lạ thật. Rodion Romanovich, ông cho nó ngồi cạnh với. Chỗ của con đây, Sonyeska… muốn ăn gì thì cứ ăn đi, ăn món cá nấu đông nầy ngon hơn nầy, chả rán sẽ bưng lên ngay. Bọn trẻ có rồi chú. Polenka, đằng ấy có đủ món cho các con không? - Bà ta lại ho một chập, - Thôi được. Lena phải chp ngoan nhé, Kotia đừng có đu đưa hai chân; phải ngồi cho ra dáng con nhà quý phái. Con nói gì Sonyeska?
Sonya vội và chuyển ngay lời cáo lỗi của Piotr Petrovich, cố nói cho thật to để mọi người đều nghe, dùng những lời lẽ thật lịch sự tao nhã, thậm chí, còn cố ý thêm thắt và tô điểm vào nữa. Nàng nói thêm rằng Piotr Petrovich có dặn thưa lại là hễ có dịp ông sẽ đến ngay để nói chuyện riêng về công việc và bàn xem sau nầy có thể làm gì, mưu tính những gì, v.v…
Sonya biết rằng nói như vậy sẽ làm cho Katerina Ivanovna yên lòng và khuây khoả, sẽ mơn trớn lòng tự ái và nhất là sẽ thoả mãn được tính kiêu hãnh của bà. Nàng vội vàng chào Raxkonikov rồi ngồi xuống cạnh chàng và tò mò liếc nhanh về phía chàng. Tuy vậy suốt từ đấy về sau nàng cứ tránh nhìn chàng và tránh nói chuyện với chàng. Nàng lại còn có vẻ lơ đãng nữa, tuy vẫn nhìn vào mặt Katerina Ivanovna để cho bà vui lòng. Nàng cũng như Katerina Ivanovna đều không mặc tang phục, vì không có áo; Sonya đã chọn một chiếc áo nâu, chiếc áo thẫm màu nhất, đem mặc, còn Katerina Ivanovna thì mặc chiếc áo dài độc nhất còn lại, bằng vải in màu xin xỉn có sọc. Những lời nhắn nhủ của Piotr Petrovich được tiếp đón rất niềm nở.
Katerina Ivanovna trang trọng nghe Sonya truyền đạt, rồi vẫn giữ cái vẻ trang trọng ấy, bà hỏi thăm sức khỏe Piotr Petrovich, đoạn quay ngay sang Raxkonikov nói thì thầm, nhưng nghe rất to, rằng quả tình một con người oai vệ và đáng kính như Piotr Petrovich mà rơi vào một "đám người kỳ quặc" như thế nầy thì rất lạ, tuy ông ta rất tận tuỵ với gia đình bà và vốn là bạn cũ của cụ thân sinh bà.
- Cho nên tôi đặc biệt cảm ơn ông, Rodion Romanovich ạ, vì ông đã không khinh rẻ lòng hiếu khách của tôi, ngay trong một hoàn cảnh như thế nầy, - Bà nói khá to, - vả chăng tôi cũng biết rằng chỉ vì thương tình chồng tôi mà ông giữ lời hứa.
Rồi bà ta lại nhìn qua đám khách khứa một lượt, vẻ kiêu hãnh và đường bệ, rồi bỗng tỏ vẻ ân cần đặc biệt hỏi to ông già điếc ngồi bên kia bàn, xem ông ta có muốn ăn thêm thịt rán không, và người ta đã rót rượu Porto cho ông ta chưa. Ông già không đáp và hồi lâu không hiểu người ta hỏi gì mình, tuy những người ngồi cạnh cứ huých vào người ông ta để cười với nhau, ông ta chỉ há móm ngơ ngác nhìn quanh, khiến cho mọi người càng cười già.
- Rõ là đồ ma dại! Xem kìa, xem kìa? Họ đưa hắn đến làm gì thế không biết? Còn như Piotr Petrovich thì xưa nay tôi vẫn tin tưởng? - Katerina Ivanovna nói tiếp với Raxkonikov - và dĩ nhiên ông ta không giống… - Bà quay sang Amalya Ivanovna nói to và xẵng, vẻ nghiêm khắc đến nỗi bà chủ nhà đâm hoảng lên, - không giống cái bọn nạ giòng diêm dúa nhà bà: bọn ấy thì có muốn xin vào nấu bếp ở nhà cha tôi cũng không được đâu. Giá nhà tôi còn sống mà tiếp họ thì thật vinh dự cho họ, vả chăng có tiếp cũng chỉ vì nhà tôi rất thương người đó thôi.
- Vâng ạ. Ông nhà rất hay rượu; ông uống nhiều lắm! - lão nhân viên quân lương về hưu bỗng rống tưởng lên trong khi nốc chén rượu thứ mười hai.
- Sinh thời nhà tôi quả có cái tật ấy, ai cũng biết thế, - Katerina Ivanovna chộp ngay lấy câu nói của lão nhân viên quân lương - nhưng nhà tôi là người hiền lành và cao thượng, biết kính trọng gia đình, biết thương vợ thương con; chỉ phải cái nhà tôi vì tốt bụng mà quá tin những kẻ xấu xa truỵ lạc, bạ ai cũng kết bạn đánh chén, toàn là những hạng không bén đến gót giầy nhà tôi! Rodion Romanovich ạ, ông thử tưởng tượng: khi liệm tôi tìm thấy trong túi nhà tôi một con gà bằng bột ngào đường: say như chết rồi mà vẫn còn nhớ đến con.
- Gà à? Bà nói là một con gà à? - lão nhân viên quân lương kêu lên.
Katerina Ivanovna không thèm đáp. Bà quay ra suy nghĩ điều gì và cất tiếng thở dài.
- Chắc ông cũng nghĩ như mọi người rằng tôi đối xử với nhà tôi quá nghiệt ngã. - bà nói tiếp với Raxkonikov. - Thật ra không phải thế! Ông ấy rất nể tôi, nể lắm! Ông ấy tốt bụng lắm! Nhiều khi tôi thương nhà tôi quá. Có những lúc ông ngồi trong xó nhìn tôi tội nghiệp quá, cũng muốn vỗ về, an ủi ông ấy, nhưng rồi lại nghĩ bụng: "Dịu dàng với ông ta thì ông ta lại chè chén mất thôi", phải nghiêm may ra mới giữ được ít nhiều.
- Vâng, có khi phải túm lấy tóc lôi xềnh xệch ấy, đã nhiều lần rồi đấy, - lão nhân viên quân lương lại rống lên và rót thêm một cốc vodka nữa.
- Không phải chỉ túm tóc mà thôi đâu! - Katerina Ivanovna cắt ngang - Có những thằng ngốc còn phải lấy chổi mà quét ra khỏi nhà ấy. Đây là tôi nói kẻ khác chứ không phải nói nhà tôi đâu.
Những đám đỏ trên má Katerina Ivanovna mỗi lúc một thêm thẫm màu, ngực bà phập phồng. Chỉ thêm chút nữa là bà sẵn sàng gây sự. Có nhiều người cười khúc khích, rõ ràng là họ thích chí lắm. Có mấy người huých lão nhân viên quân lương và nói thì thầm với lão hẳn là muốn xúi bẩy thêm.
- Vậy xin hỏi bà vừa nói, nghĩa là… vừa rồi… bà định ám chỉ… vị nào ở đây?
- Thôi chả cần! Chỉ nhảm! Một mụ đàn bà goá ấy mà! Thôi bỏ qua cho mụ ấy…
- Cho qua! - đoạn lão ta lại nốc rượu.
Raxkonikov im lặng ngồi nghe, trông ông thấy ghê tởm. Chàng chỉ ăn qua loa lấy lệ những thứ atêTina Ivanovna bò vào cho chàng, mà cũng chỉ để bà ta khỏi mếch lòng. Chàng chăm chú nhìn Sonya. Nhưng Sonya bấy giờ mỗi lúc một thêm lo âu và sợ hãi; nàng cũng cảm thấy bữa tiệc sẽ không kết thúc êm thấm, và lo sợ theo dõi thái độ mỗi lúc một thêm cáu gắt của Katerina Ivanovna. Vả lại nàng cũng biết rằng nguyên nhân chính đã làm cho hai người đàn bà mới lên Petersbung từ khước lời mời của Katerina Ivanovna một cách khinh miệt như vậy chính là nàng, Sonya. Chính Amalya Ivanovna có nói với nàng rằng bà mẹ còn lấy làm khó chịu khi nghe mời và hỏi: "Làm sao tôi lại có thể để cho con gái tôi ngồi cùng bàn với cái ngữ ấy?". Sonya cảm thấy Katerina Ivanovna đã biết được việc nầy, và đối với bà, một điều gì xúc phạm đến Sonya còn quan trọng hơn là xúc phạm đến bản thân bà, đến con cái bà, đến cha bà nữa, tóm lại đó là điều sỉ nhục đau đớn nhất đối với Katerina Ivanovna. Sonya lại biết rằng bà sẽ không sao nguôi lòng nếu "chưa nói được cho hai con mẹ nhà quê diêm dúa kia biết rõ chúng đều là v.v…"
Vừa lúc ấy, như cố tình, có một người nào ngồi ở cuối bàn nhờ chuyển đến cho Sonya một cái đĩa trên đặt hai quả tim nặn bằng ruột bánh mì đen có một mũi tên xuyên qua. Katerina Ivanovna lồng lên và lập tức chõ về phía cuối bàn nói to lên rằng kẻ nào vừa làm như vậy hẳn là mục "con lừa say rượu".
Amalya Ivanovna cũng linh cảm thấy có triệu chứng bất thường, đồng thời thái độ khinh khỉnh của Katerina Ivanovna cũng làm cho bà ta bầm gan tím ruột đi. Muốn cho không khí đỡ nặng nề và lái cho khách khứa chú ý sang hướng khác nhân thể cũng để đề cao mình lên trước mặt mọi người, bà ta bỗng dưng bắt vào kể lể rằng một người quen của bà là ông "Karl ở hiệu thuốc" có một đêm đang đi trên xe ngựa thì bỗng "người ténh xe muốn giết ông ta và Karl fan nài xin hắn từng giết, chắp tay khoóc loóc mãi, sộ khiếp fa ti". Katerina Ivanovna cũng mỉm cười, nhưng lại nhận xét ngay rằng Amalya Ivanovna không nên kể chuyện bằng tiếng Nga.
Amalya Ivanovna lại càng thêm tức, và cãi lại rằng ông. "Vater aus Berlin" (4) của bà ta "là một nhân vật rất trọng yếu và hai tay bao giơ cũng thò vào túi quần".
Katerina Ivanovna, tính vốn dễ cười, không sao nén được nữa và cười phá lên như nắc nẻ, đến nỗi Amalya Ivanovna mất hẳn tự chủ.
- Con mẹ mới lố làm sao! - Katerina Ivanovna lại vui vẻ thì thầm với Raxkonikov, - định nói hai tay bỏ túi mà thành ra thò tay móc túi người ta, hi - hi! Và ông có nhận thấy không, ông Rodion Romanovich, tất cả những bọn ngoại quốc ở Petersbung ấy mà, nhất là bọn Đức ở đâu đâu kéo sang ta, đều ngu hơn người mình cả? Ông cũng thấy đấy, ai đời lại đi kể rằng "Karl ở hiệu thuốc sộ khiếp fa ti" (thằng cha thật dát như cáy) và đáng lẽ trói gô thằng đánh xe lại, thì đằng nầy lại "chắp tay khoóc loóc fan xin". Chao ôi, ngốc ơi là ngốc! Thế mà tưởng là cảm động lắm đấy, và cũng không hề ngờ mình ngốc đến thế nào? Theo tôi thì thằng cha mắm muối gạo tiền say be bét kia còn khôn hơn nhiều; ít nhất cũng thấy được rằng hắn đã say mèm, bao nhiêu trí khôn trút vào đấy cốc hết rồi, còn mấy lão kia thì đều ra vẻ nghiêm trang đứng đắn cả… Đấy, mắt mụ ta cứ long lên sòng sọc. Tức lắm! Tức tắm đấy! Ha - ha - ha! - tiếng cười của bà lại chuyển thành một cơn ho.
Vui lên, Katerina Ivanovna mê mải kể hết chuyện nầy đến nọ, và đột nhiên nói rằng với số lương quả phụ xin được bà ta sẽ mở một ký túc xá cho con gái quý tộc ở tình nhà. Bà ta chưa lần nào nói riêng với Raxkonikov về việc nầy, cho nên lập tức say sưa đi vào những chi tiết đầy sức quyến rũ đối với bà. Bà bỗng lấy ở đâu ra một tấm "Bằng khen", chính tấm bằng mà mồ mả ông Marmelazov đã nói chuyện với Raxkonikov dạo trước trong tiệm rượu, khi kể rằng hôm làm lễ tốt nghiệp Katerina Ivanovna đã nhảy điệu khăn san "trước mặt quan tổng trấn và nhiều nhân vật khác". Bây giờ tấm bằng khen ấy hẳn là đang được dùng làm một chứng chỉ tỏ ra rằng Katerina Ivanovna có đủ quyền mở ký túc xá; nhưng nó được để dành chủ yếu là để trị cho "hai con mẹ nhà quê diêm dúa" kia một mẻ ra trò, nếu chúng đến dự tiệc tang, và cho chúng thấy rõ rằng Katerina Ivanovna vốn là con nhà quý phái, "có thể nói là quý tộc thượng lưu vào bậc nhất nữa, là con một quan đại tá, và chắc chắn bà hơn xa những thứ đàn bà chuyên chạy chọt cầu may ở đâu mọc ra nhan nhản trong mấy năm gần đây". Tấm bằng khen lập tức được truyền qua tay các ông khách say mèm, và Katerina Ivanovna cũng cứ để yên, vì trong bằng quá có viết en toutes lettres(5) rằng bà ta là con gái một vị tư vấn hoàng cưng được thưởng huân chương bội tinh, và như vậy tức cũng gần như một vị đại tá.
Bốc đồng lên, Katerina Ivanovna quay ra kể lể dài dòng về đủ các thứ chi tiết nầy nọ trong cuộc sống êm đềm và tươi đẹp sau nầy ở T, nào là mình sẽ mời các giáo viên trung học về dạy trong trường ký túc, nào là trước kia mình học tiếng Pháp với một ông thầy Pháp tên là Mango, một ông già dáng kính nay đang yên dường tuổi già ở T… và chắc chắn sẽ nhận lời đến dạy với một số lương hết sức phải chăng. Cuối cùng bà cũng nhắc đến Sonya: nàng sẽ "cùng về T… với bà để giúp đỡ bà trong mọi việc". Nhưng đến đây ở cuối bàn bỗng có ai phì cười lên. Katerina Ivanovna lập tức cố làm ra vẻ khinh khỉnh không nghe thấy tiếng cười ở cuối bàn, nhưng lại lập tức cố ý cất cao giọng lên, say sưa nói về những năng lực của Sofia Xemionovna, chắc chắn có thể làm người cộng tác đắc lực của bà, nói đến "tính dịu hiền, kiên nhẫn, lòng hy sinh, tâm hồn cao thượng, và học vấn" của nàng, vừa nói vừa vỗ vỗ lên má Sonya, rồi đứng dậy ôm nàng hôn hai lần, rất thắm thiết. Sonya đỏ bừng mặt, còn Katerina Ivanovna thì bỗng khóc oà lên, rồi lại nhận xét ngay rằng mình là "một con mẹ ngốc yếu thần kinh, lại đang lúc hoang mang quá sức", rằng "đã đến lúc phải kết thúc, bây giờ ăn xong rồi, phải dọn trà lên thôi".
Ngay lúc ấy Amalya Ivanovna, trong lòng đã giận sôi lên vì suốt câu chuyện không được góp một câu nào, thậm chí người ta cũng chẳng thèm nghe bà nói nữa, liền đi một, nước liều cuối cùng.
Bà ta giấu vẻ bực dọc, đánh bạo nói với Katerina Ivanovna một điều nhận xét hệ trọng và sâu sắc, là trong trường ký túc tương lai phải chú ý đặc biệt đến áo quần lót của các nữ sinh (die Wasche), phải giữ sao cho nó thật sạch, và "nhất tịn cần phải có một pà (die Dame) rất tốt để trôông nom áo quần cho chu đáo", và thứ đến là phải cấm "các cô con kái trẻ toọc trộm tiểu thuyết pan tệm". Katerina Ivanovna, bấy giờ quả nhiên đang hết sức hoang mang, mệt mỏi và phát chán lên với bữa tiệc, lập tức "cắt ngang" Amalya Ivanovna, nói rằng bà ta chỉ "nói nhảm" và chẳng hiểu gì hết; rằng lo đến áo quần lót (die Wasche) là việc của người quản lý chứ không phải của bà hiệu trưởng một trường ký túc quý phái; còn như chuyện đọc tiểu thuyết thì chỉ nói như vậy thôi cũng đã quá khiếm nhã rồi, và xin bà ta im đi cho. Amalya Ivanovna nổi khùng lên nói rằng bà ta có "thiện ý", bà ta rất muốn "tiều lènh tiều tốt, rằng người ta "mãi không chịu trả tiền nhà (des Geld)" cho bà. Katerina Ivanovna lập tức "trả miếng", nói rằng bà ta nói dối chứ "thiện ý" gì mà thiện vì ngay từ hôm qua, khi thì hài chồng bà còn nằm trẹn bàn, bà ta đã làm tình làm tội về chuyện nhà cửa rồi.
Bà Amalya Ivanovna liền nhật xét một cách rất ăn nhịp với câu trên, là bà ta "tã mồi các pà kia, nhưng họ không tến, vì họ là người quý phái khôông thể tến nhà người khóông quý phái được". Katerina Ivanovna lập tức "nhấn mạnh" rằng một mụ cầu bơ cầu bất như bà ta thì làm gì có tư cách phán đoán thế nào là quý phái thật, thế nào là quý phái giả. Amalya Ivanovna không chịu được nữa, bèn tuyên bố rằng ông "Vater aus Berlin" của bà ta là một người "rốt, rốt quan troọng, khi nào ti hai tay cũng thò fào túi, mồm thở puf!, puf!" và để cho mọi người hình dung thật rõ ông Vater, bà ta đứng phắt dậy, thọc cả hai tay vào túi, phồng má lên, mồm phát ra những âm thanh mơ hồ nghe như puf! puf! làm cho khách khứa cười rộ lên: họ cố ý cười như vậy để khuyến khích bà Amalya Ivanovna, vì biết trước thế nào cũng có một cuộc xung đột. Nhưng thế nầy thì Katerina Ivanovna không còn tài nào chịu được nữa, liền "nhấn mạnh" cho mọi người đều nghe thấy, rằng có thể bà Amalya Ivanovna xưa nay không có Vater gì cả, bà ta chẳng quả là một mụ kiều dân "Phần Lan ở Petersburg", chắc chắn trước đây đi ở nấu bếp cho nhà ai, có lẽ còn tệ hơn thế nữa. Mặt bà Amalya Ivanovna đỏ ửng lên như con tôm luộc, và bà tru tréo lên rằng chính Katerina Ivanovna mới "không hề có Vater" còn bà ta thì có ông "Vater aus Berlin", mặc áo đuôi tôm dài thế nầy nầy, mồm lúc nào cũng puf! puf! puf!.
Katerina Ivanovna khinh bỉ nói rằng dòng dõi của bà thì ai nấy đều biết và ngay trong tấm bằng khen nầy có ghi bằng chữ in rằng cha bà là một quan đại tá; còn như bố bà Amalya Ivanovna (là nói giả dụ như bà ta có bố thật đi nữa) thì chắc hẳn chỉ là một gã kiều dân Phần Lan ở Petersbung làm nghề bán sữa; nhưng đúng hơn cả là bà ta chẳng hề có bố chút nào, vì cho đến nay vẫn không rõ phụ danh bà ta là gì; gọi là Amalya Ivanovna hay Ludvigovna? Đến đấy bà Amalya Ivanovna như điên như dại nện quả đấm lên bàn, rít lên rằng bà ta là Amal Ivan chứ không phải Ludvigovna, rằng cha bà "tên là Johann, trước làm đến chức thị trưởng" còn cha bà Katerina Ivanovna thì "chưa pao giờ làm thị trưởng". Katerina Ivanovna liền đứng dậy, và với một giọng có vẻ bình tĩnh (tuy mặt bà tái mét, ngực phập phồng dữ dội), nói với bà ta rằng nếu một lần nữa bà ta còn "dám cả gan đặt cái ông Vater chết tiệt ấy ngang hàng với cha bà, bà sẽ giật phăng cái mũ chụp kia dẫm nát ra". Nghe thấy thế, Amalya Ivanovna lồng lộn chạy khắp phòng, gân cổ tru tréo lên rằng bà ta là chủ nhà nầy và Katerina Ivanovna phải "cuốn kói ti ngay lệp tíc!", đoạn chẳng hiểu sao lại cuống cuồng chạy đi thu vén các thìa bạc ở trên bàn. Trong phòng huyên náo hẳn lên; trẻ con khóc oà. Sonya chạy ra toan giữ Katerina Ivanovna; nhưng khi Amalya Ivanovna bỗng léo nhéo những gì về cái thẻ vàng, Katerina Ivanovna ẩy Sonya và xông vào Amalya Ivanovna để thực hiện lời hăm doạ lúc nãy về cái mũ chụp. Nhưng vừa lúc ấy cánh cửa vụt mở, và Piotr Petrovich Lugin hiện ra trên ngưỡng cửa. Ông ta đứng yên đảo mắt nhìn qua các khách khứa một lượt, vẻ chăm chú và nghiêm nghị. Katerina Ivanovna đâm bổ về phía ông ta.

Chú thích:
(1) Một khu buôn bán gồm nhiều cửa hiệu chiếm bốn phố ở Petersburg
(2) Bà trung uý (tiếng Ba Lan)
(3) Các ông (tiếng Ba Lan)
(4) Ông bố ở Berlin
(5) Rõ ràng, phân minh (tiếng Pháp)
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #5  
Old 09-09-2012, 02:44 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Tội ác và sự trừng phạt - Phần 1 - Chương 27, 28

TỘI ÁC VÀ SỰ TRỪNG PHẠT


Phần V

Chương 27


- Piotr Petrovich! - bà kêu lên, - ít nhất cũng có ông bênh vực chúng tôi! Xin ông nói cho con mẹ ngu đần kia biết rằng nó không được ăn nói như vậy với một người quý phái gặp lúc sa cơ, pháp luật không cho phép như vậy… tôi sẽ kêu lên tận quan Tổng trấn tư lệnh… Mụ sẽ phải chịu trách nhiệm… Xin ông hãy nhớ đến sự tiếp đãi của cha tôi, xin ông che chở lũ trẻ côi cút.
- Xin lỗi bà… Xin lỗi, xin lỗi bà, - Piotr Petrovich xoa tay gạt đi, - bà cũng biết thừa rằng tôi không hề có cái hân hạnh được quen biết cụ nhà… xin lỗi bà! (có tiếng ai cười phá lên) còn như những chuyện cãi cọ liên miên giữa bà với bà Amalya Ivanovna thì tôi không có ý định cany dự vào… Tôi chỉ vì có việc cần… muốn thưa chuyện nga với con ghẻ của bà, cô Sofia… Ivanovna thì phải? Cho phép tôi vào…
Đoạn Piotr Petrovich vòng qua một bên Katerina Ivanovna, bước về phía Sonya đang đứng ở góc đối diện.
Bà Katerina Ivanovna đứng sững ra ở chỗ cũ, như bị sét đánh. Bà không hiểu nổi làm sao Piotr Petrovich lại phủ nhận sự tiếp đãi của cha bà. Sau khi bịa ra cái chuyện tiếp đãi ấy, chính bà cũng tin chắc rằng đó là một chuyện có thật, như tin một điều gì thiêng liêng. Cái giọng khô khan, có vẻ sự vụ, thậm chí lại đầy ý hăm doạ và khinh bỉ, cũng khiến bà choáng người đi. Và không hiểu sao ai nấy đều dần dần im lặng khi ông ta xuất hiện. Cái vẻ "chững chạc và trang nghiêm" của ông ta quá lạc điệu trong đám khách khứa nầy đã đành, nhưng ngoài ra còn có thể thấy rằng ông ta đến đây đã có một việc gì quan trọng lắm, chắc hẳn phải có một lý do gì khác thường mới có thể đưa ông ta quá bộ đến đây cho nên mọi người đều chắc mẩm rằng ngay bây giờ sẽ có một biến cố gì xảy ra. Raxkonikov, bấy giờ đang đứng cạnh Sonya, né sang một bên để nhường lối cho ông ta vào; Piotr Petrovich hình như không trông thấy chàng. Một phút sau Lebeziatnikov cũng hiện ra ở ngưỡng cửa; ông ta không vào phòng, chỉ đứng nhìn, vẻ tò mò đặc biệt, gần như ngạc nhiên; ông ta lắng tai nghe, nhưng hình như hồi lâu có điều gì không hiểu ra được.
- Xin lỗi các ngài, hình như tôi đến làm phiền các ngài, nhưng việc nầy khá quan trọng, - Piotr Petrovich nói trống không giữa đám khách; - tôi còn lấy làm mừng rằng ở đây có đông người chứng kiến. Thưa bà Amalya Ivanovna, tôi xin bà lấy tư cách chủ nhà mà chú ý đến những điều tôi sắp nói với cô Sofia Ivanovna đây. Cô Sofia Ivanovna, - ông ta quay sang nói với Sonya đang hết sức ngạc nhiên và chưa chi đã hoảng sợ - ngay sau khi cô rời khỏi căn phòng tôi ở với ông bạn tôi là Andrey Xemionovich Lebeziatnikov trên bàn tôi thấy mất một tờ ngân phiếu quốc gia trị giá một trăm rúp. Nếu cô có cách nào biết được và nói rõ cho tôi biết hiện nó ở đâu, thì tôi xin lấy danh dự mà cam đoan trước tất cả các nhân chứng ở đây rằng việc nầy sẽ không có hậu quả gì. Bằng không, tôi buộc lòng phải dùng đến những biện pháp rất cương quyết, và đến lúc ấy cô chỉ nên tự trách mình mà thôi…
Trong phòng im phăng phắc. Ngay cả mấy đứa trẻ đang khóc cũng nín bặt. Sonya mặt tái mét đứng im nhìn Lugin, không biết trả lời ra sao cả. Nàng có vẻ như vẫn chưa hiểu ra. Mấy giây rồi qua.
- Nào, cô định thế nào? - Lugin hỏi, mắt nhìn Sonya trừng trừng.
- Tôi không biết… Tôi không biết gì cả… - mãi hồi lâu Sonya mới nói, giọng yếu ớt.
- Không biết? Cô không biết ư? - Lugin hỏi lại và im lặng một lát nữa - Xin cô nghĩ cho chín, cô ạ, - Ông ta nói, giọng nghiêm khắc, nhưng vẫn như khuyên nhủ, - Cô nghĩ kỹ đi, tôi thuận để cho cô suy nghĩ thêm một lát. Xin cô thấy cho rằng nếu không biết chắc, dĩ nhiên một người có kinh nghiệm như tôi không đời nào lại liều lĩnh đi buộc tội thẳng cho cô như vậy; vì nếu buộc tội trực tiếp, bằng phát ngôn, nhưng lại phát ngôn sai, hay chỉ nhầm thôi cũng thế, thì về một phương diện nào đó chính tôi phải chịu trách nhiệm sau nầy. Tôi biết như thế lắm. Sáng nay vì có việc cần tôi đã đem đổi một số ngân phiếu tín dụng trị giá cả thảy gần ba nghìn rúp. Trong ví tôi còn ghi rõ số tiền đó. Khi về nhà - Có ông Anđey Xemionovich chứng thực việc nầy, - tôi đem tiền ra đếm, và đếm được hai nghìn ba trăm rúp, tôi bỏ số tiền đó vào ví, rồi đút ví vào túi áo trong. Trên bàn còn lại chừng năm trăm rúp tiền giấy, trong số đó có ba tờ bạc một trăm rúp. Ngay lúc ấy cô đến (do chính tôi mời) - và suốt thời gian sau cô có vẻ hết sức bối rối, đến nỗi trong khi đang nói chuyện, không hiểu tại sao cô đã ba lần đứng dậy hấp tấp định bỏ đi, tuy câu chuyện chưa nói hết. Andrey Xemionovich có thể chứng thực những điều đó. chắc chính cô cũng sẵn lòng xác nhận trước mặt mọi người rằng sở dĩ tôi nhờ ông Andrey Xemionovich mời cô vào chỉ là đề bàn với có về tình cảnh goá bụa bơ vơ của mẹ kế cô là bà Katerina Ivanovna (vì tôi không đến dự lễ tang được), và bàn cách tổ chức lạc quyên, xổ số hay làm một việc gì tương tự để giúp đỡ bà ta. Cô có cảm ơn tôi và thậm chí còn ứa nước mắt ra nữa (tôi kể hết ra như vậy, trước hết là để cô nhớ lại, sau nữa là để cô thấy rằng những chi tiết dù nhỏ nhất cũng không bị xoá mờ trong trí nhớ của tôi). Sau đó tôi lấy một tờ giấy bạc mười rúp ở trên bàn đưa biếu cô nhân danh cá nhân tôi, gọi là tạm giúp đỡ mẹ cô lần đầu. Tất cả những việc đó Andrey Xemionovich đều có trông thấy. Sau đó tôi tiễn cô ra cửa, - trong khi cô vẫn luống cuống như trước, - rồi ngồi lại một mình với Andrey Xemionovich nói chuyện trong khoảng mười phút, đoạn sau khi Andrey Xemionovich ra ngoài, tôi lại ngồi vào bàn đếm nốt chỗ số tiền còn lại mà tôi đã định cất riêng ra. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy thiếu một tờ giấy bạc một trăm rúp. Cô thứ nghĩ mà xem: Andrey Xemionovich thì tôi không thể nào nghi ngờ được, ngay chỉ giả thiết như vậy thôi tôi cùng đã lấy làm xấu hổ rồi. Tôi cũng không thể nào đếm nhầm được, vì một phút trước khi cô vào tôi đã tính toán xong xuôi và thấy tổng số tiền chúng như đã tính. Xin cô nhận cho rằng, khi nhớ lại cái vẻ luống cuống, vội vàng muốn bỏ đi của cô, nhớ lại rằng cô đã để hai tay lên bàn một lát, và cuối cùng xét đến hoàn cảnh xã hội của cô và những thói quen gắn liền với hoàn cảnh đó, tôi đã kinh hãi - Có thể nói như vậy - và thậm chí đã phải bất đắc dĩ, buộc lòng đi đến một mối nghi ngờ tuy có tàn nhẫn thật, nhưng đúng đắn! Xin nói thêm và nhắc lại rằng tuy tôi có đủ căn cứ hiển nhiên để tin chắc điều đó, tôi cũng hiểu rằng trong khi buộc tội như thế nầy vẫn có điều nguy hiểm cho tôi Nhưng cô cũng thấy đã tôi đã không trù trừ, tôi rất phẫn uất, và xin nói rõ là vì sao: thưa cô chỉ vì sự vong ân hết sức bỉ ổi của cô! Thật là quái gở! Chính tôi mời cô đến để bàn cách giúp đỡ người mẹ kế khốn khổ của cô, tôi đã chắt bóp tiền riêng của tôi ra để biếu cô mười rúp, thế mà cô đền đáp lại ngay tức khắc bằng một hành động như vậy! Không được, như thế không tốt một chút nào. Cô thử nghĩ mà xem; hơn nữa, với tư cách một người bạn, (vì giờ phút nầy cô không còn có thể có một người bạn nào tốt hơn tôi nữa) tôi xin cô phản tỉnh! Bằng không, tôi quyết không dung tha! Thế nào?
- Tôi không lấy gì của ông cả, - Sonya hoảng hốt trả lời, - Ông có cho tôi mười rúp, đây xin ông lấy lại. - Sonya rút trong túi ra một chiếc khăn tay, tìm núi thắt mở ra, rút tờ giấy bạc mười rúp và chìa ra cho Lugin.
- Còn một trăm rúp nữa, cô không thú nhận - Lugin nói giọng trách móc và cương quyết, không cầm tờ giấy bạc.
Sonya thảng thốt nhìn quanh. Mọi người đều nhìn nàng với những bộ mặt dữ tợn, nghiêm khắc, ngạo nghễ, thù hằn. Nàng nhìn Raxkonikov… chàng đứng sát tường, tay khoanh trước ngực, và đang nhìn nàng với đôi mắt nẩy lửa.
- Trời ơi! - Sonya buột mồm kêu lên.
- Thưa bà Amalya Ivanovna, bây giờ cần phải báo sở cảnh sát, cho nên rất mong bà cho gọi người gác cổng đến đây, - Lugin nói khẽ, giọng lại còn có vẻ mơn trớn dịu dàng nữa.
- Gott der barmherzigel(1). Tôi tã piết tó là con an káp mà? - Amalya Ivanovna vỗ tay đánh đét một cái.
- Bà biết thế ư? - Lugin tiếp lời, - thế thì chắc trước đây ít ra bà đã có một số căn cứ nào đấy để kết luận như vậy. Thưa bà Amalya Ivanovna rất kính mến, xin bà nhớ cho những lời bà vừa nói trước mặt đông đủ nhân chứng.
Xung quanh bỗng bàn tán xôn xao lên cả một lượt. Mọi người đều nhớn nhác.
- Sa - ao - ao? - Katerina bỗng như bừng tỉnh, quát lớn, và như một cái lò xo bật tung lên, bà chồm về phía Lugin, - Sao? Ông buộc cho nó cái tội ăn cắp à? Sonya ấy à? Chao ôi, quân hèn mạt, quân hèn mạt! - Và lao vào Sonya, bà ôm chầm lấy nàng trong đôi tay khô đét vững như hai gọng kìm.
- Sonya! Sao con dám cầm của hắn mười rúp! Con ngốc quá đi mất? Đưa đây! Đưa ngay mười rúp ấy đây - nầy.
Và giật tờ giấy bạc trong tay Sonya, Katerina Ivanovna lấy hai tay vò nát ra rồi ném thẳng vào mặt Lugin. Nhúm giấy trúng vào mặt ông ta và nấy xuống sàn. Amalya Ivanovna vội chạy đến nhặt.
Piotr Petrovich nổi giận.
- Giữ con mẹ điên kia lại! - Ông quát.
Lúc bấy giờ bên cạnh Lebeziatnikov còn có mấy người nữa đứng ở ngưỡng cửa nhìn vào, trong số đó có cả hai mẹ con người đàn bà mới đến Petersburg.
- Sao? Điên à? Mày bảo ta điên ấy à? Đồ ngu - u - u! - Katerina Ivanovna rít lên the thế. - Chính mày mới là đồ ngu, cái quân cạo giấy ở toà án kia, đồ hèn mạt! Sonya, Sonya mà lại đi lấy tiền của hắn? Sonya mà lại đi ăn cắp? Nó còn bố thí cho mày nữa ấy, đồ ngu! - Và Katerina Ivanovna cất tiếng cười điên dại - Các ông các bà có trông thấy thằng ngu kia không? - bà chạy nhớn nhác bên nầy bên kia, chỉ Lugin cho mọi người xem. - Thế nào! - Cả mày nữa ư? - Bà trông thấy bà chủ nhà, - Cả mày cũng xác nhận là nó ăn cắp hẳn, con mẹ súc sinh Phổ-lỗ-sĩ kia, đồ cẳng gà mặc váy xòe! Chà, bọn chúng mày, bọn chúng mày? Nhưng nó có bước ra khỏi phòng đâu, vừa ở phòng mày xuống là nó ngồi xuống cạnh ông Rodion Romanovich ngay kia mà! Chúng mày cứ soát người nó đi! Nó chưa đi đâu cả nó mà có lấy thì tiền vẫn còn trong người nó! Tìm đi kìa tìm đi, tìm đi! Nhưng hễ chú mày không tìm thấy thì liệu hồn đấy, nhãi con ạ! Tao sẽ chạy lên đến tận hoàng thượng, tao sẽ quỳ trước chân Sa hoàng nhân từ khoan dung, ngay bây giờ, ngay hôm nay! Tao là đứa mồ côi! Họ sẽ cho tao vào!(2). Mày tưởng họ không cho sao? Đừng hòng, tao sẽ vào kỳ được! Tao sẽ vào đến nơi! Mày thấy nó hiền lành thế định ức hiếp nó phải không? Mày trông mong vào đấy hẳn? Nhưng tao thì không phải tay vừa đâu, chú mày ạ? Mày sẽ biết tay tao! Tìm đi! Tìm đi kìa, tìm đi!
Và Katerina như điên như dại lay mạnh Lugin, kéo ông ta về phía Sonya.
- Tôi sẵn sàng, và xin chịu trách nhiệm, nhưng xin bà bình tâm cho, xin bà binh tâm Tôi đã thấy quá rõ rằng bà không phải tay vừa! Thế… thế… bây giờ làm thế nào? - Lugin lắp bắp, - việc nầy phải làm ở sở cảnh sát mới được… tuy… vả chăng ở đây cũng đã có đủ nhân chứng lắm rồi… Tôi sẵn sàng… Nhưng dù sao một người đàn ông cũng khó lòng… vì khác giới… Giá được bà Amalya Ivanovna giúp cho… tuy lẽ ra không thể làm như vậy… làm thế nào ạ?
- Ai cũng được? Ai muốn thì cứ việc soát? - Katerina Ivanovna quát lên - Sonya, lật túi ra cho chúng nó xem! Đây, đây! Mày xem đây, đồ quái vật, túi không đây nầy, chỉ có cái khăn tay, trong túi không có gì hết, mày thấy chưa! Còn túi kia, đây, đây! Mày thấy chưa! thấy chưa?
Và Katerina Ivanovna không những lộn túi Sonya ra, mà lại còn lần lượt kéo tung cả hai lần vải túi ra ngoài. Nhưng đến cái túi thứ hai ở bên phải thì bỗng thấy văng ra một mảnh giấy. Mảnh giấy bật tung lên vẽ thành một đường vòng cũng trên không rồi rơi xuống cạnh chân Lugin. Mọi người đều trông thấy. Có mấy người kêu lên. Piotr Petrovich cúi xuống, dùng hai ngón tay nhặt tờ giấy giơ lên cho mọi người xem và giăng hẳn nó ra. Đó là một tờ ngân phiếu một trăm rúp gấp tám lại. Piotr Petrovich đưa tay vòng khắp bốn phía để mọi người thấy rõ tờ giấy bạc.
- Tồ ăn cắp! Xéo ngay ra khỏi nhà tao! Gọi kénh sát kẻnh sát! - Amalya Ivanovna tru tréo lên, - phải tày chúng ti Xipiri! Xéo ngay!
Khắp bốn phía nỗi lên nhớng tiếng ồ à. Raxkonikov lặng thinh nhìn Sonya chằm chặp, thỉnh thoảng lại đưa mắt sang Lugin, nhưng rất nhanh. Sonya vẫn đứng ở chỗ cũ như người mất hồn; nàng hầu như không ngạc nhiên được nữa. Bỗng khắp mặt nàng đỏ bừng lên; nàng kêu một tiếng và giơ hai tay bưng mặt.
- Không, không phải tôi! Tôi không lấy! Tôi không biết! - nàng kêu lên mấy tiếng não lòng và lao về phía Katerina Ivanovna. Bà ôm chầm lấy nàng và xiết chặt vào lòng, như muốn che chở nàng chống lại tất cả.
- Sonya! Sonya Dì không tin đấu! Con thấy đấy, dì có tin đâu! - Katerina Ivanovna kêu lên, bất chấp sự thật sờ sờ ra đấy, bà lay lay người nàng trong tay như ru một đứa trẻ, hôn lấy hôn để lên khắp mặt nàng, rồi chộp lấy hai tay nàng mà hôn tới tấp. - Con mà lại đi ăn cắp! Sao nó ngu thế! Trời ơi! Các người ngu lắm, ngu lắm! - bà quát to lên với mọi người - nhưng các người có hề biết tấm lòng nó ra sao đâu, nó là người thế nào, các người có biết đâu! Nó mà lại đi lấy tiền! Nó sẵn sàng cởi bỏ chiếc áo cuối cùng của nó đem bán đi, nó sẵn sàng đi chân không để cho các người hết, nếu các người cần, nó như thế đấy! Nó đi lĩnh thẻ vàng vì con tôi chết đói, nó bán mình nuôi mẹ con tôi! Ôi, ông ơi là ông ơi! Ông có thấy không, ông có thấy không? Tiệc tang của ông thế nầy đây! Trời ơi! Kìa bênh nó với chứ, sao các người cứ đứng ỳ ra thế! Rodion Romanovich! Sao ông mà cũng không bênh nó với? Ông cũng tin hay sao? Các người không đáng ngón tay út của nó, cả lũ các người ấy cả lũ, cả lũ! Trời ơi! Bênh cho nó với chứ!
Tiếng khóc của Katerina Ivanovna, người đàn bà cô quả ho lao, hình như đã gây một ấn tượng rất mạnh trong đám khách. Có một cái gì thật thảm thê: đau khổ đã cùng cực trong khuôn mặt tiều tụy héo hon vì bệnh tật, mếu máo vì đau dớn, trong đôi môi khô cằn rớm máu, trong tiếng gào khản đặc, trong tiếng khóc nức nở như tiếng khóc trẻ con, trong lời van xin đầy lòng tin cậy ngây thơ và tuyệt vọng ấy đến nỗi mọi người hình như đều động lòng thương hại cho người đàn bà khốn nạn. Ít nhất Piotr Petrovich cùng thương hại ngay.
- Bà! Bà ơi? - Ông ta kêu lên, giọng oai vệ, - việc nầy không can hệ đến bà! Không ai dám buộc tội bà xúi giục hay đồng loã, huống chi chính bà đã phát hiện sau khi lộn túi áo cô ấy ra: thế nghĩa là bà không hề hay biết gì. Tôi rất sẵn lòng thương hại nếu cảnh… bần cùng đã bức bách cô Sofia Xemionovna, nhưng thưa cô tại sao cô lại không chịu thú nhận? Sợ nhục chăng? Lần nầy là lần đầu? Có lẽ cô rối trí quá? Cũng dễ hiểu thôi, rất dễ hiểu… thế nhưng tại sao lại đâm đầu vào một tình huống như vậy! Thưa các ngài! - Ông ta nói với tất cả các khách khứa - thưa các ngài! Vì lòng trắc ẩn, và có thể nói là thương xót, có lẽ tôi sẵn sàng tha thứ, ngay đến bây giờ cũng vậy, mặc dầu đã bị xúc phạm đến nhân phẩm. Thưa có, mong rằng nỗi hổ thẹn hôm nay sẽ là một bài học cho cô về sau - Ông ta nói với Sonya - Còn việc nầy thì đến đây xem như chấm dứt. Thế cũng đủ rồi!
Piotr Petrovich liếc nhìn Raxkonikov. Hai luồng mắt gặp nhau. Cái nhìn nảy lửa của Raxkonikov như muốn thiêu Lugin ra tro. Trong khi đó Katerina Ivanovna hình như không nghe thấy gì nữa, bà ôm Sonya vào lòng hôn lấy hôn để như người điên. Mấy đứa trẻ cũng xúm quanh đưa đôi tay nhỏ bé ôm lấy nàng, còn Polenka, chưa hiểu rõ đầu đuôi ra sao, cũng đầm đìa nước mắt, khóc nấc lên từng cơn và úp khuôn mặt xinh xắn sưng húp vì khóc lên vai Sonya.
- Thật là hèn hạ - một tiếng nói rất to bỗng vang lên ở ngoài cửa.
Piotr Petrovich vụt ngoảnh lại.
- Hèn hạ đến the là cùng! - Lebeziatnikov nhắc lại nhìn thẳng vào mắt Lugin.
Piotr Petrovich dường như giật mình. Mọi người đều nhận thấy thế. (Về sau họ nhớ lại điều nầy).
Lebeziatnikov bước vào phòng.
- Thế mà ông dám viện tôi ra làm nhân chứng? - Ông ta nói trong khi bước về phía Piotr Petrovich.
- Thế nghĩa là thế nào, Andrey Xemionovich? Ông muốn nói gì thế? - Lugin lẩm bẩm.
- Như thế nghĩa là ông… là một kẻ vu khống, tôi muốn nói thế đấy! - Lebeziatnikov nói, giọng sôi nổi; đôi mắt lươn kèm nhem nhìn Lugin một cách nghiêm nghị. Ông ta đang giận sôi lên. Raxkonikov hau háu nhìn ông ta như muốn ghi nhớ và cân nhắc từng chữ. Mọi người lại im thin thít. Piotr Petrovich hầu như có vẻ bối rối, nhất là những phút đầu.
- Nếu ông muốn nói với tôi… - ông lắp bắp, - nhưng ông làm sao thế? Ông có tỉnh trí không?
- Tôi thì rất tỉnh trí, còn như ông là… một thằng bịp bợm. Chao ôi, sao có thể hèn hạ đến thế! Tôi đã nghe hết, tôi cố ý đợi nghe để hiểu cho hết, bởi vì xin thừa nhận rằng mãi cho đến đây câu chuyện vẫn chưa hẳn là có logic… Nhưng ông làm như thế để làm gì thì tôi chưa hiểu nỗi Nhưng tôi làm gì mới được chứ. Xin ông thôi cho cái lối phóng đoán xằng bậ ấy! Hay có lẽ ông quá chén rồi?
- Có lẽ chính ông mới quá chén, chứ không phải tôi đồ hèn? Tôi tuyệt nhiên không bao giờ uống rượu, nguyên tắc của tôi là như thế! Các ngài thử tưởng tượng: chính ông ta, chính tay ông ta đưa tờ giấy một trăm rúp ấy cho Sofia Xemionovna, - tôi có trông thấy, tôi có chứng kiến, tôi sẵn sàng thề như vậy! Chính ông ta, chính ông ta! - Lebeziatnikov nhắc lại với mọi người.
- Mất trí rồi hay sao thế, đồ nhãi con? - Lugin rít lên, - Chính cô ta đang đứng sờ sờ trước mặt ông kia kìa, chính cô ta vừa mới xác nhận ở đây, trước mặt mọi người rằng ngoài mười rúp ra, cô ta không lấy gì của tôi nữa hết. Thế thì làm sao lại có thể nói là chính tôi đưa?
- Tôi có trông thấy, tôi trông thấy! - Lebeziatnikov dằn giọng quát lên, - và tuy làm như vậy là trái với quan điểm của tôi, tôi cũng sẵn sàng tuyên thệ trước toà án ngay bây giờ, bất cứ thề như thế nào cũng được, vì tôi đã trông thấy ông bí mật dúi ngầm cho cô ta! Nhưng tôi lại tưởng ông muốn giúp ngầm cô ta có ngốc không chứ! Khi ông tiễn cô ta ra cửa, cô ta có quay lại để bắt tay ông. Một tay ông giơ ra bắt, còn tay kia ông đã ngầm đút vào túi cô ta một tờ giấy bạc. Tôi trông thấy! Tôi có trông thấy.
Lugin tái mặt đi.
- Ông nói nhảm gì thế! - Ông ta trâng trâng tráo tráo - Ông đứng ở cửa sổ làm sao trông thấy tờ giấy bạc được? Ông mê sảng đấy… mắt kém nhìn thế kia. Ông nói mê rồi!
- Không, không mê sảng đâu! Tuy đứng xa, tôi vẫn trông thấy hết, và tuy đứng ở cửa sổ cũng khó nhìn rõ thật - Ông nói đúng đấy, - nhưng vì một trường hợp đặc biệt: tôi biết chắc rằng đó là một tờ giấy bạc một trăm rúp, bởi vì khi ông trao cho cô Sofia Xemionovna tờ giấy mười rúp, - Chính tôi trông thấy, - Ông cũng lấy luôn một tờ giấy trăm rúp ở trên bàn (cái đó tôi thấy rõ vì lúc ấy tôi đứng gần ngay bàn, và vì ngay lúc ấy tôi chợt nảy ra một ý nghĩ riêng cho nên tôi không quên rằng ông có cầm tờ giấy bạc đó). Ông gấp nó lại và từ đó trở đi cứ cầm suốt trong tay. Sau đó tôi lại suýt quên khuấy đi nhưng khi ông đứng dậy, ông đã chuyển tờ giấy bạc từ tay phải sang tay trái và suýt buột tay đánh rơi; đến đây tôi lại sực nhớ ra, bởi vì ý nghĩ lúc nãy lại đến với tôi, cụ thể là tôi nghĩ rằng ông muốn kín đáo làm ơn cho cô ta; không cho tôi biết. Ông có thể hình dung tôi bắt đầu theo dõi ra sao, ấy thế là tôi trông thấy ông đút được tờ giấy bạc vào túi cô ấy. Tôi trông thấy, tôi có trông thấy tôi sẵn sàng thề như vậy.
Lebeziatnikov gần như thở không ra hơi nữa. Khắp bốn phía bắt đầu nổi lên những tiếng xì xào mỗi lúc một đầy ý ngạc nhiên; nhưng cũng có cả những tiếng gầm gừ đầy vẻ doạ nạt. Moi người đều xấn về phía Piotr Petrovich, Katerina Ivanovna lao đến Lebeziatnikov.
- Andrey Xemionovich Tôi trót nhầm, trước đây tôi không hiểu ông! Xin ông bênh vực cho nó! Chỉ có một mình ông bênh vực nó! Nó là đứa mồ côi, Chúa đã sai ông đến! Andrey Xemionovich, ông ơi, ông tốt quá, quý hoá quá!
Và Katerina Ivanovna, hầu như không biết mình đang làm gì nữa, quỳ sụp xuống trước mặt Lebeziatnikov.
- Toàn chuyện nhảm! - Lugin thét lên, như điên như dại, - Ông nói toàn chuyện nhảm. "Tôi quên, tôi nhớ, tôi quên" - thế là cái gì! Hoá ra tôi cố ý đút vào túi cho cô ta à? Để làm gì? Vì mục đích gì? Có quan hệ gì giữa tôi với cái thứ…
- Để làm gì ư? Đấy, chính cái đó tôi cũng không hiểu, còn những điều tôi kể thì hoàn toàn đúng sự thật. Ông là một người bẩn thỉu, độc ác, tôi không nhầm đâu vì tôi nhớ rất rõ tôi đã nghĩ gì về việc nầy khi tôi cảm ơn và bắt tay ông. Ông ngầm đút tiền vào túi cô ta để làm gì? Nghĩa là tại sao lại nhất thiết phải lén lút mới được? Chả nhẽ chỉ vì muốn giấu tôi, vì biết rằng quan điểm của tôi ngược hẳn lại và tôi pủù nhận lối gia ơn cá nhân, vốn là một biện pháp không triệt để tí nào? Thế là tôi kết luận rằng quá thật ông thấy ngượng mặt với tôi khi đem cho một món tiền như vậy và ngoài ra, tôi nghĩ có lẽ ông muốn làm cho cô ấy ngạc nhiên sau nầy khi bỗng tìm thấy cả một tờ giấy bạc một trăm rúp trong túi, bởi vì có những vị ân nhân rất thích tô điểm iệc thiện của mình theo kiểu ấy, tôi biết. Sau đó tôi lại còn nghĩ rằng ông muốn thứ thách cô ta, nghĩa là muốn xem thứ khi thấy tờ giấy bạc rồi, cô ta có đến cảm ơn không? Rồi tôi lại nghĩ là ông muốn tránh những lời cảm ơn và muốn rằng, như câu ngạn ngữ thường nói:"tay phải không nên biết"(3)… nói tóm lại, một cái gì như thế… Phải, lúc ấy tôi nảy ra nhiều ý nghĩ linh tinh lắm, thành thử tôi định gác lại để sau nầy nghĩ thêm: nhưng cũng không muốn để lộ cho ông biết rằng tôi đã rõ điều bí mật của ông, vì làm như thế không được tế nhị. Tuy nhiên tôi lại nay thêm một ý nghĩ khác: nhỡ ra Sofia Xemionovna chưa kịp hay biết gì đã đánh rơi mất tờ giấy bạc thì sao? Cho nên tôi quyèt định đến đây gọi riêng cô ra ngoài và báo cho cô biết là ông có đút một trăm rúp vào túi cô. Nhưng nhân tiện tôi có ghé qua phòng bà và cô Kobyliatnikhov để đưa cho họ quyển "Đại cương về phương pháp tích cực" và đặc biệt giới thiệu bài báo của Piderit (cả bài của Wagner nữa). Sau đó tôi đến đây thì vừa được chứng kiến một chuyện lạ lùng thế nầy. Đấy, thứ hỏi tôi làm sao có thể có những ý nghĩ, những điều suy luận đó, nếu quả tôi không trông thấy ông đút một trăm rúp vào túi cô ta?
Khi Andrey Xemionovich kết thúc đoạn diễn vẫn rườm rà và rút ra một kết luận logic như vậy, ông ta mệt lử ra, thậm chí mồ hôi còn chảy ròng ròng trên mặt. Than ôi! Dù nói tiếng Nga, ông ta cũng không biết cách trình bày cho chỉnh (vả chăng ông cũng không biết thứ tiếng nào khác), thành thử nói xong ông kiệt lực hắn, thậm chí còn có vẻ như gầy xọp đi sau cái kỳ công biện hộ đó, tuy vậy, những lời lẽ của ông cũng gây được một ấn tượng hết sức mạnh mẽ. Ông nói say sưa, quả uyết đến nỗi rõ ráng mọi người đều tin ông.
Piotr Petrovich cảm thấy tình thế rất nguy ngập.
- Trong đầu óc ông nảy ra những câu hỏi vớ vẩn nầy nọ thì việc gì đến tôi? - ông ta quát lên. - Đó không phải là một bằng chứng! Có thể ông cảm thấy thế thôi, còn tôi, tôi xin thưa rằng ông nói dối, ông ạ! Ông nói dối, ông vu khốông tôi vì có điều gì thù oán tôi, cụ thể là ông thù tôi đã không tán thành những quan điểm phóng túng và vô đạo của ông về xã hội, thế đấy!
Nhưng lối cãi bay nầy không có lợi gì cho Piotr Petrovich cả. Ngược lại, khắp bốn phía có tiếng xì xào bất bình nổi lên.
- À ra mày muốn lái vào đấy? - Lebeziatnikov quát lên. - Mày nói dối! Cứ gọi cảnh sát lại đây, ta sẽ thề? Chỉ có một điều tôi chưa hiểu: hắn liều lĩnh làm một việc hèn hạ như thế để làm gì! Ồ, con người sao mà khốn nạn, đê hèn!
- Tôi có thể cắt nghĩa tại sao ông ta lại làm một việc liều lĩnh như thế, và nếu cần, tôi cũng sẽ xin thề! - mãi đến giờ Raxkonikov mới lên tiếng, giọng rắn rỏi, đoạn bước lên phía trước.
Trông chàng có vẻ quả quyết và điềm tĩnh. Không hiểu sao chỉ thoạt nhìn chàng mọi người đều thấy rõ ngay rằng chàng biết rõ sự tình, và câu chuyện đã sắp đến chỗ kết thúc.
- Bây giờ thì tôi đã hiểu hết, - Raxkonikov nói thẳng với Lebeziatnikov - Ngay từ đâu tôi đã nghi ngờ rằng có một âm mưu gì bỉ ổi trong việc nầy; sở dĩ tôi ngờ là vì một hoàn cảnh đặc biệt mà chỉ một mình tôi được rõ, và bây giờ xin nói ra cho mọi người cũng biết cơ sự do đã mà ra cả! Ông Andrey Xemionovich những lời quý báu của ông đã cho tôi thấy rõ hắn rồi. Xin tất cả các ngài lắng tai nghe tôi nói. Cái ông nầy - Chàng chỉ Lugin - cách đây ít lâu có cầu hôn em gái tôi là Avdotia Romanovna Raxkonikova. Nhưng đến khi lên Petersbung thì hôm kia, ngay buổi gặp gỡ đầu tiên giữa ông ta với tôi, chúng tôi đã xích mích với nhau, và tôi đã đuổi ông ta ra khỏi nhà: có hai người có thể xác nhận việc đó. Ông ta là người rất hiểm độc. Hôm kia tôi cũng chưa biết ông ta trọ ở đây, tại phòng ông, ông Andrey Xemionovich, cho nên ngay hôm chúng tôi cãi cọ nhau, tức hôm kia, ông ta đã thấy tôi lấy tư cách là bạn của ông Marmelazov quá cố giao lại cho bà quả phụ của ông là Katerina Ivanovna một ít tiền đề lo việc chôn cất. Ông ta bèn viết ngay cho mẹ tôi một bức thư nói rằng tôi đã lấy hết tiền không phải trao cho bà Katerina Ivanovna, mà là để đem cho cô Sofia Xemionovna đồng thời dùng những lời lẽ hết sức đê hèn đề nhắc đến… đến tính cách của Sofia Xemionovna, nghĩa là muốn ám chỉ rằng tôi có những quan hệ bất chính với Sofia Xemionovna. Ông ta làm như vậy, chắc các ngài cùng hiểu là để gây xích mích giữa tôi với mẹ và em tôi, muốn gợi cho họ nghĩ rằng tôi đem hết số tiền cuối cùng họ dành lại để giúp tôi ra phung phí vì những mục đích bất chính. Tối hôm qua, trước mặt cả ba người: mẹ tôi, em tôi và Piotr Petrovich, tôi đã phục hôi lại sự thật và chứng minh rằng tôi trao tiền cho bà Katerina Ivanovna để lo việc chôn cất chứ không phải đưa cho cô Sofia Xemionovna, và mãi đến hôm kia tôi không hề được quen biết cô Sofia Xemionovna, thậm chí cùng chưa bao giờ trông thấy mặt cô ấy nữa. Ngoài ra tôi có nói thêm rằng ông Piotr Petrovich Lugin với tất cả những phẩm cách quý giá của ông, cũng không đáng gì ngón tay út của cô Sofia Xemionovna - người mà ông đã nói xấu thậm tệ như vậy. Khi ông ta hỏi: "liệu tôi có dám để cô Sofia Xemionovna ngồi cạnh em gái tôi không" tôi đã trả lời rằng việc đó tôi đã làm ngay sáng hôm ấy.
Căm tức vì thấy mẹ và em tôi không chịu nghe lời xúc xiểm của ông ta mà bất hoà với tôi, Piotr Petrovich liên tiếp buông ra những lời hỗn xược không thể nào dung thứ được. Một cuộc đoạn tuyệt dứt khoát đã xảy ra, mẹ con chúng tôi đã đuổi ông ta ra khỏi nhà. Tất cả những việc đó đều xảy ra tối hôm qua. Bây giờ xin các ngài lưu ý đặc biệt đến điều nầy: các ngài thử tưởng tượng xem nếu bây giờ ông ta chứng minh được rằng Sofia Xemionovna là một người ăn cắp, thì trước hết ông ta sẽ chứng minh được cho mẹ và em tôi thấy rằng những mối nghi ngờ của ông ta có phần đúng, rằng ông ta nổi giận khi tôi đặt cô Sofia Xemionovna ngang hàng với em tôi là có lý, rằng sở dĩ ông ta công kích tôi chính là để báo toàn danh dự cho em gái tôi, tức vợ chưa cưới của ông ta. Nói tóm lại, qua những việc đó, ông ta còn có thể làm cho tôi xích mích trở lại với người nhà, và dĩ nhiên ông ta cũng hy vọng chuộc lại lòng họ. Đấy là chưa nói ông ta còn trả được thù riêng với cá nhân tôi, vì ông có cơ sở để ước đoán rằng danh dự và hạnh phúc của cô Sofia Xemionovna đối với tôi rất quý. Những điều ông ta đã trù tính là như vậy! Tôi hiểu việc nầy như thế đấy! Nguyên nhân trước sau chỉ có thể và không thể có nguyên nhân nào khác được?
Raxkonikov kết thúc như vậy, hay gần như vậy, lời của chàng chốc chốc lại bị ngắt quàng vì những tiếng ồ, à trong đám công chúng đang lắng tai nghe rất chăm chú. Nhưng tuy mấy lần bị ngắt quãng như vậy, chàng vẫn nói rất sắc sảo, điềm tĩnh, chính xác, rõ làng và quả quyết. Giọng nói đanh và sắc, cách nói quả quyết và vẻ mặt nghiêm nghị của chàng gây nên trong lòng mọi người một ấn tượng vô cùng mành liệt.
- Đúng, đúng như thế đấy! - Lebeziatnikov phấn khởi xác nhận. - rất nhiên phải như thế, vì khi cô Sofia Xemionovna vừa bước vào phòng chúng tôi, ông ta có hỏi tôi ngay: "Ông đã đến chưa? Tôi có trông thấy ông trong đám khách khứa của bà Katerina Ivanovna không?" Ông ta gọi tôi ra cửa sổ, hỏi nhỏ như vậy Thế nghĩa là ông ta cần ông nhất thiết phải mặt ở đấy mới được! Đúng thế đấy, đúng cả đấy!
Lugin im lặng mỉm cười khinh bỉ. Tuy vậy, mặt ông ta cũng tái mét đi. Hình như ông ta đang cố nghĩ cách thoát khỏi tình trạng nầy. Có lẽ giá có thể bỏ đi ngay ông ta sẽ rất hài lòng, nhưng lúc bấy giờ thì hầu như không thể bỏ đi được; làm như vậy có khác gì trực tiếp công nhận những lời buộc tội ông là đúng, và thú nhận rằng mình đã vu khống Sofia Xemionovna thật! Hơn nữa đám khách khứa, đã hăng tiết sân vì hơi men, bấy giờ đang nổi giận thực sự. Lão nhân viên quân lương tuy chưa hiểu rõ đầu đuôi cho lắm, cũng quát tháo to hơn ai hết và đề ra những biện pháp khá rầy rà cho Lugin. Nhưng cũng có những người không say; đó là những người khách thuê nhà từ khắp các buồng kéo đến. Cả ba anh chàng người Ba Lan đều nóng mắt lên đến cực độ, luôn mồm quát: "pane laidak!"(4) và lầu bầu trong miệng những lời đe doạ hằng tiếng Ba Lan. Sonya lắng nghe, tinh thần căng thẳng, nhưng dường như cũng chưa hiểu hết, tựa hồ vừa tỉnh một cơn mê. Nàng chỉ nhìn Raxkonikov không rời mắt, cảm thấy chàng chính là lực lượng hao vệ mình. Katerina Ivanovna thở phều phào một cách khó nhọc và hình như đã mệt lả ra. Trông ngơ ngác hơn cả là bà Amalya Ivanovna: bà ta đứng đực ra, mồm há hốc và hình như không có ý nghĩ gì trong đầu hết. Hà ta chỉ hiểu rằng Piotr Petrovich đã bị tưng hửng thế nào đấy.
Raxkonikov toan xin phép nói thêm, nhưng người ta không để cho chàng nói hết: mọi người đều quát tháo và chen chúc quanh Lugin, thì nhau chửi bới và đe doạ.
Nhưng Piotr Petrovich không hoảng hốt. Thấy âm mưu buộc tội Sonya đã hoàn toàn thất bại, ông ta lập tức viện đến lối trơ tráo.
- Xin phép các ngài, xin các ngài đừng chen, cho tôi đi đi! Ông ta vừa nói vừa len qua đám đông, - và xin các ngài dừng doạ; tôi cam đoan là sẽ chẳng có chuyện gì hết, các ngài chẳng dám làm gì đâu, tôi không phải hạng nhát gan đâu, ngược lại các ngài sẽ phải chịu trách nhiệm về việc nầy: các ngài đã bưng bít một vụ tội hình. Con ăn cắp nầy đã bị vạch mặt quá rõ, tôi sẽ truy tố cho mà xem. Toà án người ta không mù quáng và say rượu như thế nầy, họ không đời nào đi tin hai tên vô thần khét tiếng, chuyên đem những tư tưởng tự do xúi bẩy người ta làm loạn. Chúng nó buộc tội tôi để trả thù riêng, và chính chúng cũng đã ngu xuẩn thú nhận như thế… Vâng phải, xin phép các ngài!
- Ông phải cuốn gói ra khỏi phòng tôi ngay; xin ông vui lòng xéo đi nơi khác, từ rày đừng có nhìn mặt tôi nữa! Thế mà tôi đã tốn bao nhiêu hơi sức trình bày cho hắn nghe… suốt hai tuần liền!
- Thì chính tôi đã bảo với ông là tôi sẽ đi kia mà, ông Andrey Xemionovich, ngay từ khi ông còn giữ tôi ở lại; bây giờ tôi chỉ xin nói thêm rằng ông là một thằng ngốc. Tôi xin chúc cho cái óc ngu độn và cặp mắt mù loà của ông chóng khỏi. Xin phép các ngài, xin phép!
Ông ta đã len được ra cửa; nhưng lão nhân viên quân lương không muốn để cho ông ta đi ra một cách dễ dàng như vậy, lão với lấy một cái cốc để trên bàn đang tay ném Piotr Petrovich, nhưng cái cốc lại bay thẳng vào người bà Amalya Ivanovna. Bà ta tru tréo lên, còn lão nhân viên quân lương thì mất thăng bằng vì vung tay quá đà, nặng nề ngã chúi xuống gầm bàn.
Piotr Petrovich trở về phòng, và nửa giờ sau không còn thấy tăm hơi ông ta trong nhà nầy nữa. Sonya bẩm tính vốn nhút nhát; trước đây nàng cũng biết rằng muốn làm hại nàng không có gì dễ bằng, và bất cứ ai cũng có thể tha hồ sỉ nhục nàng, hầu như không sợ bị rầy rà gì cả. Nhưng dù sao cho đến phút nầy nàng vẫn tưởng có thể tránh tai hoạ bằng cách thận trọng giữ gìn ý tứ, bằng thái độ hiền lành, nhịn nhục trước mọi người. Giờ đây nàng đã tỉnh ngộ một cách quá đau xót.
Dĩ nhiên nàng có thể nhẫn nại cắn răng chịu đựng tất cả - ngay chuyện nầy cũng thế. Nhưng phút đầu nàng đã khổ tâm quá đỗi. Tuy nàng đã thắng và đã được thanh minh, - khi phút hoảng sợ và sửng sốt ban đầu đã qua, khi nàng đã hiểu rõ sự tình. Cảm giác bơ vơ và si nhục vẫn nhức nhối trong tim nàng. Nàng bắt đầu lên cơn ưu uất. Cuối cùng, không chịu được nữa, nàng lao ra khỏi phòng và chạy về nhà. Bấy giờ Lugin đi mới ra được một lát. Khi chiếc cốc ném trúng vào người bà Amalya Ivanovna khiến khách khứa cười rộ lên, bà ta cũng không sao cưỡng nổi hơi men bốc lên ngùn ngụt trong đầu. Rít lên như người hoá dại, bà ta xông vào Katerina Ivanovna mà bà cho là đã gây nên mọi chuyện.
- Xéo ngay khỏi nhà nầy! Ngay lập tức! Đi! - Và bà bắt đầu vơ tất cả những đồ đạc của Katerina Ivanovna ở trong tầm tay bà, vứt bừa ra giữa sàn. Katerina Ivanovna bấy giờ đã kiệt sức nằm vật ra giường, thở hổn hển, mặt tái nhợt, gần như đã ngất đi. Thấy thế bà nhảy xuống giường và xông vào Amalya Ivanovna.
Nhưng làm sao chọi nổi: Amalya Ivanovna hất tung bà lên như một chiếc lông gà.
- Sao! Họ vu khống một cách vô đạo như thế chưa đủ hay sao, mà con mẹ kia còn sinh sự với tôi! Gớm chưa! Chồng tôi vừa chôn xong, họ ăn uống của tôi no nê rồi họ đuổi tôi ra đường với lũ trẻ mồ côi! Nhưng tôi biết đi đâu? - người đàn bà khốn khổ vừa gào lên vừa nấc và thở hổn hển. - Chúa ơi là Chúa! - bà bỗng hét to, mắt sáng quắc, - Chả nhẽ không còn lẽ công bằng nữa hay sao? Nếu Chúa không che chở lũ mồ côi chúng tôi thì còn che chở ai nữa? Đề rồi xem! Trên đời còn có toà án, còn có công lý, tôi sẽ đi tìm! Đợi đấy, đồ vô đạo! Polenka, con ở nhà trông các em, rồi mẹ sẽ về. Đợi mẹ ở ngoài đường cũng được? Để rồi xem trên đời nầy còn có công bằng nữa không?
Rồi trùm 1ên đầu cái khăn dạ xanh mà ông Marmelazov quá cố đã nhắc đến trong khi kể chuyện cho Raxkonikov nghe, Katerina Ivanovna chen qua đám khách trọ say khướt vẫn còn chen chúc lộn xộn ở trong phòng; và vừa kêu gào khóc lóc vừa chạy ra đường, với một mục đích mơ hồ là đi tìm công lý cho kỳ được, ngay lập tức, bằng bất cứ giá nào Polenka sợ hãi nép vẫn góc phòng với hai đứa bé, người run cầm cập ngồi trên chiếc hòm ôm chặt hai em, đợi mẹ về. Amalya Ivanovna lồng lộn chạy khắp phòng, rít lên the thé, luôn mồm than thở, vớ được cái gì cũng vứt xuống đất. Khách khứa thì gân cổ lên nói mỗi người một phách, người thì bàn nốt về sự việc vừa xảy ra, người thì cãi cọ chửi bới nhau; có người lại cất tiếng hát nghêu ngao…
"Bây giờ ta cũng phải đi thôi - Raxkonikov nghĩ. Nào, Sofia Xemionovna, thử xem bây giờ cô sẽ nói gì!"
Và chàng đi đến nhà Sonya.

Chú thích:
(1) Lạy Chúa từ bi (tiếng Đức)
(2) Theo phong tục cũ, Sa hoàng phải cho những người mồ côi trực tiếp khiếu nại nếu bị ai ức hiếp, lăng nhục, và phải bênh vực họ.
(3) Một câu ngạn ngữ phổ biến ở nhiều nước châu Âu: "Tay phải không nên biết đến những việc tay trái làm"
(4) Ông nầy là đồ bịp bợm



TỘI ÁC VÀ SỰ TRỪNG PHẠT


Phần V

Chương 28


Raxkonikov đã đứng ra bênh vực Sonya một cách hăng hái và mạnh dạn chống lại Lugin, tuy tâm hồn chàng cũng đang mang nặng một nỗi dau khổ và khủng khiếp không bờ bến. Nhưng sau những cực hình sáng nay, chàng dường như cũng vui mừng vì đã có dịp khuây khoả những ấn tượng nặng nề không sao chịu được nữa, đó là chưa nói đến bao nhiêu cảm xúc riêng tây và sâu kín đã thúc đẩy chàng bênh vực Sonya. Hơn nữa, chàng luôn luôn nghĩ đến buổi gặp mặt sắp tới với Sonya và ý nghĩ đó có những lúc khiến chàng hết sức bồn chồn lo sợ: chàng đã nói cho nàng biết ai đã giết Lizaveta, chàng biết trước rằng đó là một cực hình ghê gớm, và dường như cố khoát tay xua đuổi hình ảnh ấy đi. Cho nên, khi ra khỏi nhà Katerina Ivanovna chàng đã thách thức: "Nào, Sofia Xemionovna, bây giờ cô sẽ nói gì?"
Cũng chỉ vì một tâm trạng hưng phấn bề ngoài sau khi thắng được Lugin. Nhưng trong tâm hồn chàng đã diễn ra một hiện tượng kỳ dị. Khi tới đến căn nhà của Kapernaumov, chàng bỗng thấy bủn rủn hắn ra vì kiệt sức và sợ hãi. Chàng dừng lại trước cửa, lòng ray rứt vì một câu hỏi kỳ lạ: "Có nên nói ai đã giết Lizaveta không? Câu nói nầy thật kỳ lạ bởi vì ngay lúc ấy chàng chợt cảm thấy rằng chẳng những không thể nào không nói ra đã đành, mà ngay đến trì hoãn giờ phút ấy lại dù chỉ một thời gian ngắn thôi cũng không thể được. Chàng chưa biết rõ tại sao lại không thể được, chàng chỉ cảm thấy thế, và cái ý thức đau xót rằng mình bất lực trước sự tất yếu hầu như đè bẹp chàng xuống. Để khỏi phải nghĩ ngợi và khổ sở, chàng hối hả mở cửa phòng và đứng trong khung cửa nhìn Sonya.
Nàng đang ngồi chống khuỷu tay lên chiếc bàn con, hai tay bưng mặt, nhưng trông thấy Raxkonikov, nàng vội vàng đứng dậy ra đón chàng, như thể vẫn đợi chàng từ nãy.
- Không có ông, không biết tôi sẽ ra sao? - nàng nói nhanh khi giáp mặt chàng ở giữa phòng.
Hẳn là nàng chỉ chực chàng đến để nói ngay mỗi câu ấy. Nói xong, nàng chờ đợi.
Raxkonikov đi về phía bàn và ngồi xuống chiếc ghế nàng vừa ngồi lúc nãy. Nàng đứng trước mặt chàng, cách chàng hai bước, đúng hệt như hôm qua.
- Thế nào, Sonya? - Chàng nói, rồi bỗng cảm thấy giọng mình run run - Cả cái vụ vừa qua đều dựa vào "hoàn cảnh xã hội của cô và những thói quen gắn liền với nó" kia mà. Lúc nầy cô có hiểu điều đó không?
Gương mặt nàng lộ vẻ đau khổ.
- Nhưng xin ông đừng nói với tôi như hôm qua! - nàng ngắt lời chàng. - Xin ông đừng nói. Thế nầy tôi cũng đã khổ lắm rồi…
Nàng hối hả mỉm cười, sợ nhờ ra lời trách móc không vừa lòng chàng. Lúc nãy tôi dại dột bỏ đi. Không biết bây giờ ở đằng ấy ra sao? Vừa rồi tôi đã định quay trở lại đằng ấy nhưng cứ nghĩ là… Ông sắp đến đây.
Chàng kể lại cho Sonya biết rằng Amalya Ivanovna đã đuổi gia đình nàng ra khỏi nhà, và Katerin Ivanovna đã chạy đi "tìm công lý" ở đâu đâu không rõ.
- Ồ trời ơi! - Sonya kêu lên, - ta lại đằng ấy ngay Đoạn nàng vớ lấy áo choàng vai.
- Mãi mãi vẫn cứ thế! - Raxkonikov bực tức quát lên. - Cô chỉ biết nghĩ đến họ thôi! Cô ở đây với tôi một lát đã.
- Thế còn… Katerina Ivanovna?
- Katerina Ivanovna thì không thể thiếu cô được đâu bà ấy đã chạy ra khỏi nhà, tất phải tự đến đây thôi - Chàng xẵng giọng nói thêm - Nếu bà ấy đến mà không có cô ở nhà, thì chính cô lại sẽ là người có lỗi…
Sofia phân vân bứt rứt ngồi xuống ghế.
Raxkonikov im lặng, mắt nhìn xuống đất nghĩ ngợi điều gì.
- Cứ cho là vừa rồi Lugin không muốn thế, - Chàng mở đầu, không nhìn vào Sonya - Nhưng nếu hắn muốn thế hay định tính toán điều gì, hắn sẽ cho cô vào tù, nếu không có Lebeziatnikov với tôi, phải không?
- Vâng, - nàng nói, giọng yếu ớt - Vâng! - nàng nhắc lại, vẻ lơ đãng và lo lắng.
- Mà quả nhiên tôi có thể không có mặt ở đấy! Còn như Lebeziatnikov thì hoàn toàn chỉ vì tình cờ mà đến.
Sonya lặng thinh.
- Thế nếu cô vào tù thì sao? Cô có nhớ hôm qua tôi nói gì không?
Nàng vẫn không đáp. Raxkonikov đợi một lát.
- Thế mà tôi cứ tưởng cô lại sẽ kêu lên: "Ồ, ông đừng nói nữa, ông thôi cho!" - Raxkonikov cười, nhưng có vẻ gượng gạo. Một phút sau chàng hỏi: - Sao, lại im lặng à? - Phải nói chuyện gì chứ? Đây, tôi đang muốn biết cô sẽ giải quyết "vấn đề" nầy ra sao, như Lebeziatnikov thường nói (chàng có vẻ như bắt đầu lúng túng). Không, thật đấy, tôi không đùa đâu. Sonya ạ, cô cứ giả sử cô đã biết hết những ý định của Lugin từ trước, nghĩa là biết chắc rằng những âm mưu của hắn sẽ hãm hại Katerina Ivanovna và lũ trẻ; và phụ thêm vào đấy cả cô nữa (vì cô chỉ xem mình như một cái gì rất phụ). Polenka cũng thế… vì nó cũng chỉ có con đường ấy. Ấy, nếu bây giờ để cho cô quyết định cho ai được sống ttên đời nầy: để cho Lugin sống mà làm những việc bỉ ổi, hay để cho Katerina Ivanovna phải chết? Cô sẽ quyết định ra sao: trong hai người đó thì ai phải chết? Tôi hỏi cô như vậy.
Sonya lo lắng nhìn chàng. Trong những lời lẽ ngập ngừng ấy tựa hồ muốn ám chi xa xôi một điều gì, nàng nghĩ như có một âm hưởng thật kỳ lạ.
- Tôi đã cảm thấy từ trước là ông sẽ hỏi một điều gì như vậy - nàng nói, mắt nhìn chàng dò hỏi.
- Được cứ cho là như thế; nhưng cô cũng cứ thử nói là cô quyết định ra sao?
- Sao ông lại hỏi một điều không thể có được? - Sonya khó chịu đáp.
- Thế nghĩa là thà cứ để cho Lugin sống và làm bậy? Cô cũng không dám quyết định điều đó nữa sao?
- Nhưng tôi làm thế nào biết được ý định của Chúa… Mà ông cứ hỏi gì những chuyện không thể hỏi được như thế? Những câu hỏi trống rỗng ấy đề làm gì? Làm sao điều đó lại có thể do tôi quyết định được? Ai cho phép tôi phân xử người nào được sống, người nào phải chết?
- Ý định của Chúa đã can thiệp vào rồi thì chẳng còn biết làm thế nào nữa, - Raxkonikov hậm hực càu nhàu.
- Cần gì ông cứ nói thẳng ra thì hơn! - Sonya đau đớn kêu lên, - Ông lại muốn bày chuyện gì nữa. Chả nhẽ ông đến đây chỉ để làm khổ tôi?
Nàng không dằn lòng được nữa, oà lên khóc nức nở. Chàng nhìn nàng, lòng buồn rười rượi quên bẵng năm phút trôi qua.
- Em nói đúng đấy Sonya ạ, - Cuối cùng chàng nói. Chàng như bỗng thay đổi hẳn cái giọng làm ra vẻ trâng tráo và thách thức một cách bất lực không còn nữa. Ngay cả tiếng nói cũng yếu đi. - Hôm qua chính tôi có nói với Sonya là tôi sẽ đến không phải để xin tha thứ, thế mà nay tôi lại hầu như mở đầu bằng một lời cầu xin tha thứ… Tôi nói đến Lugin và đến ý Chúa là để… xin tha thứ đấy Sonya ạ…
Chàng muốn mỉm cười, nhưng chỉ có một cái gì bất lực và đang dở hiện lên trên gương mặt xanh xao của chàng. Chàng cúi đầu giơ tay bưng lấy mặt.
Và đột nhiên một cảm giác căm thù cay cú kỳ lạ, bất ngờ đối với Sonya vụt thoáng qua lòng chàng. Như kinh ngạc và hoảng sợ trước cảm giác đó, chàng vụt ngẩng đầu lên và chăm chú nhìn nàng; nhưng chàng bắt gặp luồng mắt lo âu và ái ngại của nàng đang hướng về phía mình: khóe mắt ấy chan chứa tình yêu; lòng căm thù của chàng vụt biến đi như một bóng ma.
Không phải chàng căm thù; chàng đã lẫn lộn cảm xúc nầy với cảm xúc khác. Cảm xúc ban nãy chỉ có nghĩa là giờ phút ấy đã đến.
Chàng lại lấy tay bưng mặt và gục đầu xuống. Bỗng chàng tái mặt đi rời ghế đứng dậy nhìn Sonya, và không nói một câu, chàng như cái máy ngồi sang giường nàng.
Trong tri giác của chàng, phút ấy sao giống hệt như khi chàng đứng sau lưng mụ già, cây rìu đã rút ra khỏi quai, và cảm thấy "không thế để lỡ một khoánh khắc nào nữa".
- Ông làm sao thế? - Sonya sợ sệt hỏi.
Chàng không nói được. Chàng hoàn toàn không đoán trước là mình sẽ nói rõ sự thật, như thế nầy, và không sao hiểu nổi việc gì đã xảy đến với mình. Sonya khẽ bước lại gần chàng, ngồi lên giường và chờ đợi, mắt nhìn chàng không chớp. Tim nàng khắc khoải đập mạnh. Tình thế không sao chịu được nữa. Chàng ngoảnh mặt tái nhợt về phía náng, môi chàng như cố sức nói ra điều gì, nhưng chỉ rúm ró lại, bất lực. Một cảm giác sợ hãi tràn qua lòng Sonya.
- Ông làm sao thế? - nàng hỏi lại, hơi né mình ra.
- Không sao đâu Sonya ạ, đừng sợ… Chỉ là chuyện nhảm! Phải, xét cho cùng thì chỉ là chuyện nhảm, - Chàng lẩm bẩm, vẻ như người đang mê sảng không biết mình nói gì. - Tại sao tôi chỉ đến làm khổ một mình em thôi? - Chàng bỗng nhìn nàng nói thêm. - Phải. Tại sao? Tôi cứ tự hỏi mãi câu nầy Sonya ạ…
Có lẽ chàng đã tự đặt cho mình câu hỏi ấy cách đây mười lăm phút, nhưng bây giờ chàng nói trong trạng thái bất lực hoàn toàn, hầu như không còn ý thức về mình nữa và cảm thấy toàn thân run lên lẩy bẩy.
- Trời ơi, anh khổ quá? - nàng nhìn chàng, đau đớn.
- Chỉ là chuyện nhảm! thế nầy, Sonya ạ - Không hiểu sao trong khoâng hai giây chàng bỗng mỉm một nụ cười nhợt nhạt, yếu ớt - Sonya có nhớ là hôm qua tôi định nói với Sonya điều gì không?
Sonya lo lắng chờ đợi.
- Khi ra về, tôi có nói rằng có lẽ tôi sẽ vĩnh biệt Sonya; nhưng nếu hôm nay tôi đến, tôi sẽ nói cho Sonya biết… ai đã giết Lizaveta.
Nàng bỗng run bắn cả người lên.
- Ấy cho nên hôm nay tôi đến để nói cho Sonya rõ đấy.
- Thế ra hôm qua anh nói thật ư… - nàng khó nhọc thì thào, - sao anh lại biết? - nàng hỏi nhanh như chợt tỉnh. Sonya bắt đầu thở một cách khó nhọc. Mặt nàng tái dần đi.
- Tôi biết.
Nàng im lặng một lát.
- Họ tìm ra người ấy rồi sao? - nàng hỏi, giọng rụt rè.
- Không, chưa tìm ra.
- Thế sao anh lại biết được điều đó? - Cũng sau một phút im lặng nàng lại hỏi, giọng thì thào rất khẽ.
Chàng ngoảnh về phía nàng và đăm đăm nhìn nàng không chớp.
- Em đoán xem, - Chàng nói, môi lại mỉm nụ cười mếu máo và yếu ớt hồi nãy.
Khắp người nàng như có những đợt có giật chạy qua.
- Nhưng anh… sao anh lại, nhát em như thế? - nàng nói, miệng mỉm cười như đứa trẻ con.
- Thế tức là tôi với người ấy phải là chỗ rất thân tình… tôi mới biết được, - Raxkonikov nói tiếp, mắt vẫn nhìn không chớp vào mắt nàng, như thể không đủ sức gỡ mắt nhìn đi nơi khác. - người ấy… không định giết Lizaveta… Chỉ vì… tình cờ mà phải giết… Người ấy định giết mụ già… trong khi mụ ấy ở nhà một mình, người ấy đến… Nhưng Lizaveta chợt trở về… cho nên người ấy… giết luôn cả bà ta.
Thêm một phút kinh hoàng trôi qua. Hai người vẫn chăm chú nhìn nhau.
Thế Sonya không đoán được ư? - Chàng bỗng hỏi, với cái cảm giác như đang lao từ trên tháp chuông xuống.
- Kh… không. - Sonya thì thào rất khẽ.
- Thử nhìn kỹ xem.
Và chàng vừa nói dứt câu, một cảm giác cũ quen thuộc, bỗng lại như một tảng băng tràn vào tâm hồn chàng tê buốt: chàng nhìn nàng và trong gương mặt nàng chàng bỗng trông thấy mặt Lizaveta. Chàng nhớ lại rõ mồn một vẻ mặt Lizaveta khi chàng cầm rìu xấn đến, còn bà ta thì lùi vào tường, tay giơ ra phía trước một vẻ sợ hãi ngây thơ trên gương mặt, đúng như trẻ con khi chúng kinh hãi nhìn chăm chăm vào vật làm cho chúng sợ, bước thụt lùi và giơ hai bàn tay bé nhỏ ra phía trước, chỉ chực khóc oà lên. Giờ đây Sonya cũng gần hệt như thế cũng có vẻ bất lực, hoảng sợ như thế, nàng sửng sốt nhìn chàng một lát rồi bỗng giơ tay trái ra phía trước, mấy ngón tay khẽ chạm vào ngực chàng, và từ từ rời đi-văng đứng dậy, mỗi lúc một né xa người ra, mắt nhìn chàng mỗi lúc một đờ đẫn sửng sốt. Nỗi sợ hãi của nàng vụt truyền sang chàng: cùng đúng vẻ kinh hoàng ấy hiện lên gương mặt chàng, chàng cũng bắt đầu nhìn nàng y như thế, và thậm chí hầu như còn mỉm một nụ cười trẻ con như nàng nữa.
Em đoán ra rồi chứ? - mãi hồi lâu chàng mới thì thầm.
- Trời ơi! - một tiếng rú khủng khiếp bật ra từ lồng ngực chàng. Nàng bủn rủn ngã xuống giường, mặt úp lên gối. Nhưng chỉ một thoáng sau nàng vụt nhổm dậy, nhanh nhẹn nhích lại gần nắm lấy hai tay chàng trong mấy ngón tay xiết chặt như những gọng kìm và mắt lại bắt đầu nhìn trừng trừng như dán chặt vào mặt chàng. Qua cái nhìn cuối cùng, tuyệt vọng nầy nàng có tìm thấy một tia hy vọng cỏn con nào. Nhưng không còn gì mà hy vọng nữa; không còn hồ nghi gì được nữa; quả đúng như thế. Mãi về sau, khi nhớ lại giây phút nầy, nàng vẫn còn thấy lạ lùng quái dị: tại sao lúc ấy nàng lại hiểu ngay rằng không còn nghi ngờ gì được nữa? Dù sao cũng không thể nói là nàng đã có lúc tiên cảm thấy một cái gì như thế kia mà? Thế nhưng giờ đây chàng vừa nói ra nàng đã chợt có cảm giác như mình quả nhiên đã linh cảm được điều đó từ trước.
- Thôi, Sonya ạ, đủ rồi? Đừng giầy vò tôi nữa - Chàng van nài, giọng đau dớn.
Chàng tuyệt nhiên không có ý định thú thật với nàng theo kiểu ấy, nhưng rồi kết quả lại cứ như thế.
Như không còn tự chủ được nữa, nàng đứng phắt dậy và đi ra giữa phòng, hai tay vặn vào nhau, nhưng rồi quay phắt trở lại ngồi xuống cạnh chàng, vai kề gần sát vào vai chàng. Rồi không nhiên, như bị đâm nhói vào ngực, nàng giật mình, kêu lên một tiếng và tự dưng quỳ sụp xuống trước mặt chàng.
- Sao anh lại tự hãm hại mình như thế! - nàng tuyệt vọng thốt lên và đứng dậy ôm choàng lấy chàng, xiết thật chặt.
Raxkonikov né ra và mỉm cười nhìn nàng:
- Em lạ quá, Sonya ạ, sau khi anh đã nói như thế mà em lại ôm hôn anh. Em điên rồi hay sao?
- Không, bây giờ trên đời không còn ai bất hạnh hơn anh nữa! - nàng kêu lên, như điên như dại, không nghe thấy lời chàng vừa nói, và bỗng khóc nức nở như lên cơn động kinh.
Một cảm giác đã từ lâu không thể nghiệm bỗng tràn vào tâm hồn chàng như một đợt sóng, và lòng chàng dịu hẳn đi. Chàng không cưỡng lại cảm giác đó: hai giọt lệ trào lên rưng rưng trên mi mắt chàng.
- Thế em không bỏ anh ư, Sonya? - Chàng nói, mắt nhìn nàng gần như với một niềm hy vọng:
- Không, không; không đời nào, dù anh có phải đi đâu! Sonya thét lên, - em sẽ theo anh, anh đi đâu em cũng sẽ theo anh! Ồ, trời ơi? Ôi, sao tôi khổ thế nầy! Mà tại sao, tại sao em lại không biết anh từ trước! Tại sao anh không đến sớm hơn? Trời ơi?
- Thì anh đến đây thôi.
- Nhưng mãi bây giờ mới đến! Ôi, bây giờ biết làm thế nào! Bên nhau, bên nhau! - nàng nhắc đi nhắc lại như người mất hồn vả lại ôm lấy chàng, - Em sẽ đi đày với anh!
Chàng như chợt giật nảy mình, nụ cười lúc nầy, hằn học và gần như ngạo nghễ, lại hiện lên trên môi chàng.
- Sonya ạ, có lẽ tôi chưa có ý muốn đi đày đâu, - Chàng nói.
Sonya đưa mắt rất nhanh nhìn chàng.
Sau cảm giác xót thương nhiệt thành và day dứt lúc đầu đối với kẻ bất hạnh, lòng kinh hãi đối với kẻ giết người lại tràn ngập lòng nàng. Trong giọng nói đột nhiên thay đổi của chàng, nàng chợt nghe ra giọng nói của kẻ sát nhân. Nàng kinh ngạc nhìn chàng. Nàng chưa biết gì hết, chưa biết tại sao, làm thế nào lại như vậy, và như vậy để làm gì. Hây giờ tất cả những câu hỏi ấy cùng một lúc bùng lên trong ý thức của nàng. Và nàng lại không tin: "Anh ấy, anh ấy mà lại là kẻ giết người! Có thể thế được chăng".
- Nhưng làm sao thế nầy! Tôi đang ở đâu thế nầy! - nàng kinh ngạc thốt lên như vẫn chưa tỉnh lại, - làm sao anh, một người như thế… mà lại có thể làm việc ấy? Làm sao thế!
- Thì để lấy của mà lại. Thôi đi, Sonya! - Chàng trả lời, như có ý mệt mỏi và thậm chí bực tức nữa.
Sonya đứng yên như đớ người ra, nhưng rồi bỗng kêu lên:
- Anh đói? Anh… muốn giúp mẹ? Phải không?
- Không phải, Sonya ạ, không phải đâu, - Chàng lẩm bẩm, quay mặt đi, đầu gục xuống, - tôi không đến nỗi đói đến thế… quả nhiên tôi có muốn giúp mẹ, nhưng… cũng không hẳn như thế… đừng giầy vò tôi nữa Sonya ạ!
Sonya chắp tay lại.
- Nhưng chả nhẽ lại có thể như thế thật! Trời ơi, sự thật gì mà khủng khiếp thế! Ai mà tin được? Làm sao, làm sao mà anh, người đã đem cho những đồng tiền cuối cùng của mình, lại có thể giết người để lấy của! Chao ôi! - nàng bỗng rú lên, - số tiền anh cho Katerina Ivanovna… số tiền… Trời ơi, chả nhé đó lại chính là số tiền…
- Không đâu Sonya ạ, - Chàng hối hả ngắt lời, - không phải số tiền ấy đâu, Sonya đừng lo! Đó là tiền của mẹ tôi gửi một nhà buôn chuyển lại, tôi nhận được trong khi ốm, đúng vào hôm tôi đem cho… Razumikhin có thấy … chính anh ấy nhận hộ tôi… tiền ấy là của tôi của chính tôi, cửa tôi thật.
Sonya bỡ ngỡ nghe chàng nói và cố hết sức hiểu cho được ít nhiều.
- Còn số tiền kia… vả chăng, tôi cũng không hề biết ở đấy có tiền bạc gì không, - Chàng khe khẽ nói thêm, dường như đang mải đăm chiêu suy nghĩ, - lúc ấy tôi có tháo ở cổ mụ ấy ra một cái bóp tiền bằng da để… đựng đầy căng như thế nầy, nhưng cũng không mở ra xem; chắc là vì không có thì giờ… Đấy, còn mấy thứ đồ đạc, những dây chuyền với lại cúc áo gì đấy… tất cả các thứ ấy cùng với cái bóp tiền tôi đều chôn dưới một tảng đá trong một cái sân ở đại lộ V., ngay sáng hôm sau… Bây giờ các thứ vẫn còn ở đấy…
Sonya cố sức lắng nghe.
- Thế thì tại sao… sao anh nói: để lấy của, mà lại không lấy gì cả? - nàng nói nhanh, như người chết đuối cố blu lấy cọng rơm.
- Tôi không biết… tôi chưa quyết định được là sẽ lấy hay không lấy số tiền ấy, - Chàng nói, vẻ lại tư lự, rồi bỗng sực tỉnh, chàng cười khảy một tiếng ngắn. - Chà, bây giờ tôi nói nghe dớ dẩn quá, phải không?
Sonya thoáng có ý nghĩ: "Anh ấy điên chăng?".
Nhưng nàng lại chặn ngay ý nghĩ đó lại: không, đây có một cái gì khác. Nàng không hiểu được, nàng không hiểu gì hét
- Sonya, em biết không, - Chàng bỗng nói như say sưa hứng khởi: - Em ạ, em nghe tôi nói đây: giá tôi giết người vì đói, - Chàng nói tiếp, nhấn mạnh từng chữ và nhìn nàng, vẻ bí ẩn nhưng chân thành, - thì bây giờ… tôi sẽ sung sướng lắm! Em nên biết điều đó! - Nhưng em thì em có cần gì. - Chàng lại quát lên sau một lát im lặng, thậm chí còn có vẻ như tuyệt vọng nữa, - tôi có thú nhận là tôi đã làm một việc xấu xa, thì em cũng có cần gì? Em có cần gì cái đắc thắng ngu xuẩn ấy? Chao ôi, Sonya, giờ đây tôi đến em có phải vì thế đâu!
Sonya loại toan nói điều gì, nhưng rồi vẫn lặng thinh.
- Sở dĩ hôm qua tôi bảo em đi với tôi là vì tôi chỉ còn mỗi mình em nữa mà thôi.
- Anh bảo em đi đâu? - Sonya hỏi, rụt rè.
- Không phải đi ăn trộm, đi giết người đâu, em đừng lo, không phải thế đâu, - Chàng cười gằn chua chát, - Chúng ta khác nhau lắm… Mà Sonya ạ, mãi đến bây giờ, đến phút nầy tôi mới hiểu rõ hôm qua tôi bảo em đi đâu. Còn hôm qua, khi bảo em đi, chính tôi cũng không hiểu là đi đâu. Chung quy tôi chỉ muốn xin em một điều, tôi đến cũng chỉ vì một điều duy nhất: em đừng bỏ tôi. Em không bỏ tôi chứ, Sonya?
Nàng siết tay chàng.
- Mà tại sao ta lại nói với cô ấy, tại sao ta lại bộc lộ với cô ấy làm gì? - một lát sau chàng lại tuyệt vọng kêu lên, mắt nhìn nàng với một cảm giác xót xa vô hạn, - đây bây giờ em đang đợi tôi cắt nghĩa. Sonya ạ em đang đợi, tôi biết lắm; nhưng tôi sẽ nói gì với em đây? Em sẽ không hiểu gì đâu, chỉ thêm đau khổ thôi… vì tôi mà khổ! Đấy, em khóc. em lại ôm lấy tôi - tại sao em lại ôm lấy tôi? Tại vì tôi không chịu đựng được một mình: phải đem trút lên vai người khác: "em cũng đau khổ đi, như thế sẽ đỡ cho tôi" - em có thể yêu được một kẻ hèn hạ như thế ư?
- Nhưng anh cũng đau khổ kia mà? - Sonya kêu lên.
Cái cảm xúc hồi nãy lại như một đợt sóng tràn vào lòng chàng và trong một khoảnh khắc lại làm cho lòng chàng dịu xuống.
- Sonya, tâm hồn anh độc ác lắm, em phải nhớ lấy: em sẽ hiểu được rất nhiều. Anh đến đây chính là vì anh độc ác. Có những người họ không đến như thế đâu. Còn anh là một thằng tồi… một kẻ hèn hạ! Nhưng… thôi, mặc? Vấn đề không phải ở đấy… Bây giờ cần phải nói, mà anh thì không biết mở đầu ra sao…
Chàng ngừng lại, trầm ngâm.
- Chao ôi, anh với em khác nhau quá! - Chàng lại kêu lên, - không xứng đôi tí nào. Mà tại sao, tại sao anh lại đến làm gì. Không bao giờ anh có thể tha thứ cho mình việc ấy!
- Không, không phải đâu, anh đến là tốt! - Sonya thốt lên, - Cho em biết thì hơn? Hơn nhiều!
Chàng nhìn nàng, đau xót.
- Mà thật như thế - Chàng nói như vừa nghĩ ra một điều gì, - Quả nhiên sự việc đã xảy ra như thế! Đấy anh muốn làm một Napoleon, cho nên anh giết người… Bây giờ em hiểu chứ?
- K… không. - Sonya thì thầm, vẻ rụt ra và ngây thơ - nhưng… anh nói đi, anh nói đi! Em sẽ hiểu, em sẽ tự mình hiểu hết! - nàng van vỉ Raxkonikov.
- Em sẽ hiểu ư? Thôi được, để rồi xem!
Chàng im lặng suy nghĩ hồi lâu.
- Số là thế nầy: Có lần anh tự đặt cho mình câu hỏi sau đây: chẳng hạn, nếu Napoleon ở vào địa vị anh, và trên con đường xây dựng sự nghiệp của ông ta không có trận Toulon, không có chiến dịch Ai Cập, không có cuộc hành quân qua Mont Blanc: thay cho những sự kiện đẹp đẽ và hùng vĩ ấy chỉ có một mụ già lố bịch, vợ goá một viên thư lại nào đó, cần phải giết để lấy số tiền cất trong rương mụ ta (để xây dựng sự nghiệp mà em hiểu chứ?) Đấy liệu Napoleon có quyết định giết hay không, nếu không có cách nào khác? Liệu ông ta có thấy ngượng vì việc đó chẳng hùng vĩ tí nào và quá… quá tội lỗi không? Đấy, thế thì anh xin nói với em rằng "vấn đề" nầy đã giầy vò anh rất lâu, đến nỗi anh thấy xấu hổ kinh người lên, khi rốt cục anh đột nhiên nghĩ rõ ràng không những ông ta sẽ không thấy ngượng mà thậm chí cũng không hề thoáng có ý nghĩ rằng việc đó không hùng vĩ… và thậm chí ông ta cũng không thể nào hiểu được: ngượng cái gì mới được chứ? Chỉ cần ông ta không có con đường nào khác, ông ta sẽ bóp cố mụ già chết không kịp ngáp, chẳng nghĩ ngợi lôi thôi gì hết! Thế là anh… cũng không nghĩ ngợi lôi thôi gì nữa… anh đã giết… theo gương kẻ có uy tín… Và sự việc đã xảy ra đúng như thế! Em buồn cười à? Phải, Sonya ạ, trong việc nầy, cái đáng buồn cười hơn cả là sự việc có thể đã xảy ra đúng như thế…
Sonya không thấy buồn cười chút nào.
- Anh cứ nói thẳng ra… đừng ví dụ gì cả thì hơn, - nàng nói, giọng còn rụt rè hơn nữa, khẽ đến nỗi chỉ nghe loáng thoáng.
Chàng quay mặt lại buồn rầu nhìn Sonya và cầm lấy tay nàng.
- Lần nầy nữa, em cũng nói đúng, Sonya ạ. Quả nhiên đó toàn là chuyện nhảm, hầu như chỉ là những lời ba hoa rỗng tuếch! Em cũng biết đấy, mẹ anh hầu như chỉ có hai bàn tay trắng. Em gái anh có được ăn học chăng cũng là chuyện tình cờ, buộc lòng phải đi làm gia sư cho người ta. Họ chỉ biết hy vọng vào anh nữa mà thôi. Anh đi học, nhưng không đủ tiền theo học đành phải tạm ra khỏi trường. Mà dù có kéo dài được như thế nầy chăng nữa, thì chừng mươi mười hai năm sau (nếu hoàn cảnh thuận lợi) anh cũng có thể hy vọng trở thành một ông giáo hay một viên công chức lương mỗi năm một nghìn rúp… (Chàng nói như đọc một bài học thuộc lòng). Trong khi đó thì mẹ anh đã héo hon đi vì làm lụng vất vả và buồn phiền, anh thì dù sao cũng không an ủi được mẹ, còn em gái… Ấy, còn số phận em gái anh thì còn có thể tệ hơn nữa! Mà lẽ nào có thể đành tâm suốt đời thờ ở với mọi việc, quay mặt đi để khỏi thấy sự đời, quên cả mẹ mình, cam tâm để cho người ta xúc phạm tới em gái mình chẳng hạn? Để làm gì? Phải chăng để rồi sau khi chôn cất mẹ và em, lại kiếm thêm một gia đình khác: cưới vợ, sinh con đẻ cái, rồi lại bỏ cho chúng nghèo khổ, đói khát? Ấy… đấy anh mới quyết định là lấy được tiền của mụ già rồi, sẽ dùng để chi tiêu trong những năm đầu, không làm khổ mẹ nữa, bảo đảm cho mình đủ tiền theo học đại học, rồi sau khi tốt nghiệp cũng có đủ phương tiện bước những bước đầu - và tất cả những việc đó phải làm một cách thẳng tay, triệt để, sao cho có thể thu xếp thật ổn sự nghiệp sau nầy và bước vào một con đường mới, một cuộc sống tự lập… Ấy, chỉ có thế… Lẽ dĩ nhiên anh giết mụ già ấy như vậy là xấu… thế là đủ rồi!
Chàng có vẻ như kiệt lực khi kéo lê cho đến hết câu chuyện. Chàng cúi đầu.
- Trời ơi, không phải thế, không phải thế đâu, - Sonya lo sợ kêu lên, - Chả nhẽ lại có thể như thế… không, không phải, không phải…
- Chính em cũng thấy là không phải! Nhưng anh thì anh nói thật đấy, sự thật là như thế!
- Nhưng sự thật gì mà lạ thế? Trời ơi!
- Anh chỉ giết một con rận thôi, Sonya ạ, một con rận bẩn thỉu, vô dụng, nguy hại.
- Người mà lại là rận à!
- Nhưng anh cũng biết đó không phải là một con rận, - Chàng đáp, mắt nhìn nàng rất gở - Nhưng xét ra thì anh nói nhảm, Sonya ạ, - Chàng nói thêm, - anh có cái thói nói nhảm từ lâu rồi; em nói đúng. Ở đây có những nguyên nhân khác hẳn, khác hẳn! Đã từ lâu anh không nói chuyện với ai, Sonya ạ… Bây giờ anh thấy nhức đầu lắm.
Mắt chàng ánh lên như đang lên cơn sốt. Chàng hầu như đã lâm vào trạng thái mê sảng; một nụ cười lo âu thấp thoáng trên môi chàng. Qua tâm trạng khích động đã thấy lộ rõ một sự kiệt quệ ghê gớm. Sonya hiểu chàng đau khổ đến chừng nào. Nàng cũng bắt đầu thấy chóng mặt. Lời lẽ chàng nói nghe kỳ dị quá: dường như cũng có thể hiểu được một chút gì, nhưng…
"Nhưng làm sao thế! Làm sao! Trời ơi!" Và nàng tuyệt vọng vặn hai cánh tay vào nhau.
- Không, Sonya ạ, không phải thế! - Chàng lại nói, vụt ngẩng đầu lên như thế một giòng ý nghĩ đột ngột lại đến khích động chàng, - không phải thế? Tốt hơn… em cứ giả sử… Phải! Như vậy quả có hơn thật! Em cứ giả sử anh là người ích kỷ, hay ganh tị, độc ác, hèn hạ, hay oán thù, ấy… và có lẽ còn có chiều hướng phát điên nữa. (Thôi cứ nói phăng ra một lượt cho xong! Trước đây người ta cũng có nói đến chứng điên của anh, anh đã để ý thấy thế!) Đấy, lúc nấy anh có nói với em rằng anh không đủ tiền theo học đại học. Thế nhưng em có biết không? Có thể là anh vẫn có đủ tiền đấy? Mẹ anh sẵn sàng gửi đủ học phí cho anh, còn tiền mua sắm áo quần, giầy dép và tiền ăn thì anh sẽ tự kiếm lấy được, chắc chắn như thế? Dạy học cũng có thể kiếm được khá: họ trả mỗi lần năm mươi cô-pếch, Razumikhin vẫn làm ăn khá lắm! Nhưng anh phát bẳn lên và không chịu làm. Đúng là phát bẳn (chữ nầy hợp lắm). Anh rút sâu vào trong xó như con nhện. Em có vào cái chuồng chó của anh rồi, em thấy đấy! Em có biết rằng những trần nhà thấp lẽ tè và những căn buồng chật chội nó đè ép tâm hồn và trí tuệ con người ra sao không? Trời ơi, sao anh căm thù cái chuồng chó ấy đến thế! Thế nhưng anh vẫn không muốn đi ra khỏi buồng. Anh cố tình không chịu ra! Hằng mấy ngày liền anh không ra ngoài, không muốn làm việc đến ăn cũng không buồn ăn nữa, cứ nằm dài ra. Chị Nataxia có bưng lên thì ăn dăm ba miếng, không bưng lên thì thôi, cú nhịn cả ngày; vì hằn học mà cố tình không hỏi. Ban đêm thì không có đèn đóm gì hết, anh cứ nằm trong bông tối, còn kiếm tiền mua nến thì anh không buồn kiếm. Lẽ ra phải học, nhưng sách thì anh đem bán hết rồi, còn những cuốn vở và những tập ghi chép để trên bàn thì bụi phủ dày đến một phân. Anh thích nằm nghĩ mông lung hơn. Anh cứ nghĩ mãi… Và anh cứ nằm mơ luôn, những giấc chiêm bao linh tinh, kỳ dị, không cần nói ra làm gì! Nhưng mãi đến lúc ấy anh mới bắt đầu mơ tưởng là… Không, không phải thế! Anh lại kể sai mất rồi! Em thấy không, dạo ấy anh cứ tự hỏi; sao mình lại ngu đến nỗi biết chắc rằng những người khác ngu, mà lại không muốn cho mình thông minh hơn lên? Sonya ạ, về sau anh vỡ nhẽ ra rằng nếu đợi cho mọi người khôn lên thì lâu quá… Về sau anh lại biết được rằng việc đó sẽ không bao giờ có cả con người ta không thay đổi, và không ai cải tạo được họ hết, đừng có phí sức làm gì cho mệt! Phải, thế đấy! Đó là quy luật của họ… Quy luật đấy Sonya ạ! Thế đấy! Và Sonya ạ, bây giờ anh biết rằng ai có một trí tuệ và một tinh thần vững mạnh thì kẻ đó chính là chúa tể của họ! Ai có thừa quả cảm, thì kẻ đó có lý đối với họ. Ai có gan nhổ toẹt vào tất cả, thì kẻ ấy là người cầm cân nấy mực cho họ, và ai táo bạo hơn cả, thì kẻ ấy có lý hơn cả? Xưa nay vẫn thế và mãi mãi sau nầy vẫn thế! Chỉ có kẻ nào mù mới không nhìn ra thôi!
Trong khi nói, Raxkonikov tuy vẫn nhìn Sonya, nhưng không còn để tâm xem nàng có hiểu hay không nữa. Cơn sốt đã hoàn toàn khống chế chàng. Chàng như đang say sưa trong một cõi hoan lạc hắc ám (Quả nhiên đã quá lâu chàng không nói chuyện với ai) Sonya hiểu ra rằng cái giáo lý đen tối ấy đã trở thành tín ngưỡng và luật pháp của chàng.
- Sonya ạ, dạo ấy anh đã nghĩ ra rằng - Chàng say sưa nói tiếp - quyền lực chỉ vào tay kẻ nào dám cúi mình xuống nắm lấy nó. Ở đây chỉ có một điều kiện duy nhất: chỉ cần đủ gan dạ? Dạo ấy, lần đầu tiên trong đời anh đã nghĩ ra một điều mà trước anh, chưa bao giờ có ai nghĩ ra cả? Chưa hề có ai! Anh bỗng thấy rõ như ban ngày rằng cho đến nay chưa có ai dám và sau nầy cũng sẽ không có ai dám, khi thấy tất cả những thành kiến ấy nó vô lý đến nhường nào, cầm ngay lấy đuôi cái của khỉ ấy mà quẳng mẹ nó về nhà ma! Anh… anh muốn có gan làm việc ấy, nên anh đã giết… anh chỉ muốn tỏ ra mình có gan làm thôi, Sonya ạ, chung quy nguyên nhân chỉ có thế!
- Ồ anh im đi, anh im đi! - Sonya chắp tay kêu lên. - Anh đã xa rời Chúa, nên Chúa đã trừng phạt anh, để anh rơi vào tay quỷ Satan…
- À nầy, Sonya ạ, những khi anh nằm trong bóng tối tưởng tượng liên miên như vậy, chính là quỷ Satan cảm dỗ anh đấy phải không?
- Anh im đi! Anh không được đùa như thế, anh là kẻ báng đạo, anh không hiểu gì hết? Trời ơi! Anh ấy sẽ không hiểu gì hết, không hiểu tí gì đâu!
- Em đừng nói thế, Sonya ạ, anh có đùa tí nào đâu, chính anh cũng biết là quỷ đã lôi kéo anh. Đừng nói nữa, Sonya ạ, đừng nói nữa! - Chàng khẩn khoản nhắc đi nhắc lại, vẻ lầm lì. - Anh biết hết. Tất cả những điều đó anh đã nghĩ đi nghĩ lại, thì thầm tự nhủ mãi khi nằm trong bóng tối… Tất cả những vấn đề đó anh đã đem ra tranh luận mãi với mình: cho đến chi tiết, nhỏ nhặt nhất, và bây giờ anh đã biết hết, biết hết! Sao dạo ấy anh chán những chuyện ba hoa nầy đến thế! Anh muốn quên hết đi và bắt đầu lại từ đầu, Sonya ạ, và thôi đừng ba hoa nữa. Mà chả nhẽ em lại cho rằng anh cứ nhắm mắt đưa chân như một thằng ngốc? Anh đã đi như một người minh mẫn, và chính điều đó đã hãm hại anh! Và chả nhẽ em lại tưởng anh không biết rằng ví thử anh bắt đầu tự hỏi, tự chất vấn xem mình có quyền nắm quyền lực hay không, thì sẽ thấy mình không có quyền? Nay nếu anh đặt câu hỏi: con người có phải là một con rận không, thì sẽ thấy rằng con người không phải là một con rận đối cới anh, nó chỉ là một con rận đối với người nào không hề nghĩ đến vấn đề đó, và cứ đi thẳng, không hề tự hỏi gì cả… Một khi anh đã bứt rứt mấy ngày liền với câu hỏi: giá Napoleon ở vào cảnh ấy, ông ta có làm hay không? Thì như vậy tức là anh đã cảm thấy rõ ràng mình không phải là Napoleon… Anh đã phải chịu đựng sự dằn vặt của tất cả những ý nghĩ không đâu ấy, Sonya ạ, và chỉ muốn thoát hẳn ra cho nhẹ bớt: Sonya ạ, anh muốn giết người không phải biện luận, giết vì mình, cho mỗi một mình mình thôi! Trong vấn đề nầy anh không muốn dối trá, dù với bản thân cùng vậy Anh giết người không phải để giúp mẹ - đó chỉ là chuyện nhảm? Anh giết người không phải để nắm lấy phương tiện và quyền hành rồi đứng ra làm kẻ ban ơn cho nhân loại. Nhảm hết! Anh chỉ giết thôi; giết cho mình, cho mỗi mình mình, còn như sau đó có trở thành ân nhân của ai không hay suốt đời như một con nhện giăng lưới bắt hết mọi người để hút lấy máu tuỷ của họ, thì lúc ấy đối với anh chắc chẳng có gì quan trọng hết! Và cái chính là khi anh giết không phải anh cần tiền, Sonya ạ; anh cần cái khác kia, chứ tiền thì không cần đến thế… Bây giờ anh đã biết hết những cái đó… Em hiểu cho anh, có lẽ nếu anh đi lại con đường ấy, anh sẽ không bao giờ giết người lần nữa. Hồi ấy anh cần biết một cái khác, một động cơ khác đã thúc đẩy bàn tay anh; hồi ấy anh cần biết, và biết cho thật nhanh, xem anh có phải là một con rận như mọi người khác, hay là một con người? Anh có thể vượt qua trở lực hay không? Anh có dám cúi mình xuống nắm lấy quyền lực hay không? Anh là một con sâu bọ run rẩy, hay là kẻ có quyền.
- Giết người? Anh có quyền giết người - Sonya chập hai tay lại.
- Chà - à, Sonya! - Chàng bực bội kêu lên, toan cãi lại nhưng rồi im lặng khinh bỉ. - Đừng ngắt lời tôi, Sonya ạ! Tôi chỉ muốn chứng minh cho Sonya thấy rõ một điều, là hồi ấy quỷ đã cám dỗ tôi, rồi sau đó mới giảng giải cho tôi hiểu rằng tôi không có quyền đi đến đấy vì tôi cũng là một con rận như mọi người thôi! Quỷ đã nhạo báng tôi, cho nên tôi mới đến tìm Sonya đấy! Sonya tiếp khách đi? Giá tôi không phải là một con rận, thì liệu tôi có đến đấy không? Sonya ạ, dạo ấy khi tôi đến nhà mụ già, tôi chỉ muốn duyệt thử thôi… Sonya nên biết như thế!
- Thế rồi anh giết? Anh giết!
- Nhưng giết, như thế nào chứ? Ai đời lại giết như thế? Ai lại đi giết người như tôi giết hôm ấy? Rồi có dịp tôi sẽ kể cho Sonya nghe chuyện tôi đi giết người… Có phải tôi giết mụ già đâu? Tôi giết tôi, chứ không phải giết mụ già? Đến đấy, tôi đã tự tiêu diệt ngay tức khắc, vĩnh viễn tự tiêu diệt!… Còn mụ già ấy thì quỷ nó giết chứ không phải tôi… Thôi đủ rồi, Sonya ạ, đủ rồi! Để cho tôi yên, - Chàng bỗng kêu lên, giọng lo sợ điên cuồng, - Để mặc tôi!
Chàng chống khuỷu tay lên hai đầu gối và đưa hai bàn tay áp chặt lấy đầu như hai gọng kìm.
- Anh khổ quá đi mất - Sonya bật ra tiếng kêu đau xót.
- Đấy bây giờ biết làm thế nào đây, em nói đi! - Chàng vụt ngẩng đầu lên hỏi và nhìn nàng: mặt rúm ró hắn đi vì tuyệt vọng.
- Làm thế nào! - nàng đứng phắt dậy kêu lên, và mắt nàng nãy giờ vẫn ứa lệ, bỗng sáng quắc lên. - Đứng dậy!
Nàng nắm lấy vai Raxkonikov, chàng nhổm dậy, nhìn nàng hầu như kinh ngạc.
- Anh hãy đi ngay bây giờ, ngay phút nầy, ra đứng ở ngã tư đường, hãy quỳ xuống hôn mặt đất mà anh đã làm ô uế, rồi hãy nghiêng mình trước cả thiên hạ, khắp bốn phương trời, và hãy nói to lên với mọi người: "Tôi là kẻ sát nhân?". Lúc ấy Chúa trả lại cuộc sống cho anh. Anh đi chứ? Anh đi chứ?
Nàng hỏi dồn, người run bần bật như lên cơn; nàng nắm lấy hai tay chàng, xiết chặt trong tay mình và nhìn chàng với đôi mắt nẩy lửa.
Chàng kinh ngạc và thậm chí còn choáng người đi trước sự phấn khích đột ngột của Sonya.
- Em muốn nói đến tù đày hay sao đấy, Sonya? Phải đi thú tội chứ gì? - Chàng hỏi, vẻ mặt sa sầm.
- Phải nhận lấy khổ nhục để chuộc tội, cần phải như thế đấy.
- Không! Tôi không đi đâu Sonya ạ.
- Thế anh sẽ sống ra sao, sống ra sao? Anh sẽ sống với cái gì? - Sonya kêu lên. - Bây giờ còn sống thế nào được? Anh sẽ nói năng với mẹ anh ra sao? Trời ơi, mẹ và em gái anh bây giờ sẽ ra sao đây? Nhưng tôi nói gì thế nầy? Anh đã từ bỏ mẹ và em rồi kia mà? Anh đã từ bỏ họ rồi, từ bỏ rồi! Trời ơi! - nàng kêu lên, - Chính anh ấy cũng đã biết hết! Nhưng làm thế nào, làm thế nào có thể sống thiếu loài người được! Bây giờ anh sẽ ra sao đây!
- Đừng trẻ con, Sonya ạ, - Chàng nói khẽ. - Tôi có tội gì trước loài người? Sao tôi lại phải đi? Tôi sẽ nói với họ những gì? Tất cả những thứ đó chỉ là ảo ảnh… Chính họ thì giết hại hàng triệu người, thế mà lại còn cho là một ân đức. Họ là những kẻ lừa đảo, hèn hạ, Sonya ạ! Tôi không đi đâu. Tôi sẽ nói gì với họ, nói rằng tôi đã giết, nhưng không dám lấy tiền, chỉ đem giấu dưới tảng đá? - Chàng nói thêm với một nụ cười chua chát. - Chính họ sẽ cười tôi, họ sẽ nói: không lấy là ngu. Vừa tồi vừa ngu! Họ sẽ không hiểu gì đâu, Sonya ạ, họ sẽ không hiểu, và không xứng đáng để hiểu. Sao tôi lại phải đi? Tôi không đi. Đừng trẻ con, Sonya ạ…
- Anh sẽ khổ suốt đời, anh sẽ khổ vô cùng, - nàng nhắc đi nhắc lại, hai tay đang về phía chàng, van lơn, tuyệt vọng.
- Có lẽ tôi nói mình như vậy, Vẫn hơi quá, - Chàng nói, vẻ lầm lì, như đang suy nghĩ miễn man, - Có lẽ tôi vẫn là một con người chứ không phải là một con rận, và tôi tự lên án mình như vậy cũng khí vội… Tôi sẽ còn vật lộn.
Một nụ cười ngạo nghễ hiện trên môi chàng.
- Chịu đựng một nỗi thống khổ như thế! Mà lại chịu đựng suốt đời, suốt đời! Tôi sẽ quen đi… - Chàng nói, vẻ ủ dột và trầm ngâm, một phút sau, chàng tiếp. - Sonya ạ, thôi, khóc lóc thế đủ rồi, bây giờ phải bận đến công việc: tôi đến để nói với Sonya rằng bây giờ họ đang tìm tôi, đang truy nã tôi…
- Trời! - Sonya hoảng hốt kêu lên.
- Sao em lại kêu lên như thế! Chính em muốn tôi đi đày thế mà bây giờ lại hoảng sợ là làm sao? Nhưng tôi không để cho họ bắt đầu. Tôi sẽ còn vật lộn với họ, họ sẽ không làm được gì đâu. Họ không có bằng chứng thật sự. Hôm qua tôi nguy to, tưởng đã mạt kiếp rồi; nhưng hôm nay tình thế lại khả quan hơn. Bằng chứng của họ đều hai mặt cả, nghĩa là những lời buộc tội của họ đều có thể xoay ngược trở lại, theo chiều hướng có lợi cho tôi, em hiểu không? Tôi sẽ xoay chuyển được vì bây giờ tôi đã biết cách… Nhưng chắc chắn họ sẽ bắt tôi tống ngục. Giá không có một việc tình cờ xảy ra, có lẽ ngay hôm nay họ đã bắt rồi, chắc thế, cũng có thể là hôm nay họ sẽ còn bắt tôi… Nhưng không sao đâu Sonya ạ; giam ít lâu rồi phải thả ra thôi… vì họ không có lấy một chứng cớ nào ra hồn, và sau nầy cũng sẽ không tìm được, tôi cam đoan như thế. Còn như những cái họ nắm được thì không đủ để buộc tội người ta. Thôi, đủ rồi… Tôi chỉ muốn nói cho Sonya biết… Với em gái và mẹ tôi thì tôi sẽ cố tìm cách làm thế nào cho họ khuây khoả, cho họ khỏi hoảng sợ… Vả chăng em tôi bây giờ hình như cũng được bảo đảm rồi… do đó cả mẹ tôi cũng thế… Ấy, chỉ có thế tuy nhiên Sonya cũng nên cẩn thận. Khi nào tôi vào tù, em sẽ vào thăm tôi chứ?
- Ồ, em sẽ vào, em sẽ vào!
Hai người ngồi cạnh nhau, buồn rầu, ủ dột, như vừa bị một trận bão đánh dạt vào một bờ bến vắng tanh.
Chàng nhìn Sonya và cảm biết tình yêu của nàng đối với mình lớn lao đến nhường nào, và lạ thay chàng bỗng khổ sở, đau xót khi thấy mình được yêu như thế. Phải, đó là một cảm giác thật kỳ lạ và khủng khiếp!
Đến với Sonya, chàng đã cảm thấy là tất cả niềm hy vọng, là lối thoát duy nhất của mình; chàng muốn trút bớt dù chỉ một phần những nỗi thống khổ của chàng, và giờ đây, khi nàng trao cả trái tim cho chàng, chàng bỗng cảm thấy mình khổ hơn trước không biết bao nhiêu mà kể.
- Sonya ạ, - Chàng nói, - thôi, em đừng vào tù thăm anh thì hơn.
Sonya không đáp, nàng khóc. Mấy phút trôi qua.
- Anh có đeo thánh giá trong người đấy không? - nàng bỗng hỏi đột ngột, như chợt nhớ ra.
Thoạt tiên chàng không hiểu câu hỏi.
- Anh không có, anh không đeo à? Đây, anh cầm lấy cái nầy, bằng gỗ huyền bá. Em còn một chiếc khác, bằng đồng, của Lizaveta cho. Em với Lizaveta đổi cho nhau, Lizaveta cho em chiếc thánh giá ấy, còn em cho bà ta một bức tượng thánh nhỏ. Bây giờ em sẽ đeo chiếc thánh giá của Lizaveta, còn anh đeo chiếc nầy. Anh cầm lấy… của em đấy! Của em mà - nàng khẩn khoản - Chúng ta sẽ cùng đau khổ, thế thì hãy cùng đeo giá thập tự!
- Em đưa đây! - Raxkonikov vừa nói vừa chìa tay ra nhận. Chàng không muốn làm Sonya phiền lòng.
Nhưng rồi chàng lập tức rụt tay lại.
- Bây giờ khoan đã, Sonya ạ. Sau thì hơn, - Chàng nói thêm cho nàng yên lòng.
- Phải, phải sau thì hơn, sau thì hơn, - nàng hăng hái tán thành. - Khi nào anh đi đón lấy đau khổ, anh sẽ đeo. Anh đến em, em sẽ đeo vào cho anh, chúng ta sẽ cầu nguyện một lát và sẽ đi.
Vừa lúc ấy có ai gõ cửa ba tiếng.
- Sofia Xemionovna, tôi vào được không? - Có tiếng ai nghe rất quen hỏi một cách lễ độ.
Sonya hoảng hốt chạy ra cửa. Khuôn mặt nhợt nhạt và mái tóc vàng hoe của Lebeziatnikov ngó vào phòng.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #6  
Old 09-09-2012, 02:45 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Tội ác và sự trừng phạt - Phần 1 - Chương 29

TỘI ÁC VÀ SỰ TRỪNG PHẠT


Phần V

Chương 29


Lebeziatnikov có vẻ lo lắng lắm:
- Tôi đến tìm cô đây, Sofia Xemionovna ạ. Xin lỗi Tôi cũng nghĩ là sẽ gặp ông ở đây, - Ông ta bỗng nói với Raxkonikov - Nghĩa là tôi không nghĩ gì, như vậy, nhưng tôi lại nghĩ… Ở đằng nhà, bà Katerina Ivanovna phát điên rồi, - Ông ta bỗng bỏ Raxkonikov quay sang Sonya nói.
Sonya kêu lên một tiếng.
- Nghĩa là ít nhất cũng có vẻ như thế. Vả chăng… chúng tôi ở đằng ấy chẳng biết làm thế nào cả, thế mới chết Bà ấy về nhà, hình như đến đâu đấy rồi bị người ta đuổi thì phải, có lẽ còn bị đánh đập nữa… Ít ra cũng có vẻ như thế… Bà ấy chạy đến nhà ông thủ trưởng Xemion Zakharovich, nhưng ông ta không có nhà; ông ta đang dự tiệc ở nhà một ông nào ấy, cũng làm tướng. Cô thử tưởng tượng, bà ấy xông thẳng đến chỗ dọn tiệc có chết không… đến nhà ông tướng kia ấy, rồi, cô thử tưởng tượng mà xem, bà ấy cứ nằng nặc gọi cho được ông thủ trưởng của Xemion Zakharovich ra cho bà ấy gặp, hình như lại bắt ông ta rời bàn tiệc đi ra ngoài mới chết chứ! Cô cũng hình dung được hậu quả ra sao. Dĩ nhiên là họ đuổi bà ấy ra; bà ấy có kể là chính bà chửi ông ta và ném cái gì vào đầu ông ta ấy. Còn có thể ức đoán rằng… tôi cũng không hiểu nỗi tại sao họ không bắt bà ấy! Bây giờ bà ấy đang kể lể cho mọi người nghe, cho cả bà Amalya Ivanovna nữa, nhưng bà nói khó hiểu lắm, cứ vật vã kêu gào luôn mồm… À phải, bà ấy bảo là bây giờ mọi người đều ruồng bỏ bà ấy rồi, thì bà sẽ đem con ra đường quay phong cầm cho chúng múa hát, bà cũng sẽ múa hát để xin tiền, và ngày ngày sẽ đến đứng dưới cửa sổ vị tướng kia… "Để cho thiên hạ đều thấy cảnh con cái một viên chức nhà nước vốn dòng dòi quý tộc mà phải đi ăn xin ở ngoài phố!". Bà ấy đánh đập mấy đứa, làm chúng khóc inh lên. Bà ấy dạy cho Lena hát bài "Khutorok", dạy cho thằng bé múa, dạy cho cả Polenka Mikhailovna nữa, bao nhiêu áo quần bà ấy xé hết; bà làm cho bọn trẻ mấy cái mũ gì trông như mũ kép hát; còn riêng bà ấy thì định cầm một cái chậu thau đi đánh, thay cho dàn nhạc… Bà ấy không chịu nghĩ gì hết. Cô thử tưởng tượng xem thế có chết không! Không thể để như thế được…
Lebeziatnikov toan nói tiếp nữa, nhưng Sonya nghe đến đây, thở không ra hơi nữa, bỗng chộp lấy chiếc áo choàng vai và chiếc mũ chạy ra ngoài, vừa chạy vừa mặc áo, Raxkonikov ra theo, Lebeziatnikov nối gót chàng.
- Chắc chắn là điên rồi! - Ông ta nói với Raxkonikov trong khi hai người cùng ra phố, - Tôi nói "có vẻ như thế" chỉ vì không muốn làm cho Sofia Xemionovna sợ đó thôi. Nghe nói đó là những cái u trong phổi người ho lao nó lan lên đến óc đấy; rất tiếc là tôi không biết y học. Dù sao tôi cũng đã cố khuyên can bà ấy nhưng bà ấy một mực không nghe.
- Ông có nói chuyện mấy cái u với bà ấy à?
- Không hẳn là chuyện mấy cái u. Vả lại có nói bà ta cũng chẳng hiểu nào. Nhưng tôi nói thế nầy: nếu dùng logic để khuyên bảo một người nào rằng người đó thật ra không có lý do gì phải khóc cả, thì họ sẽ thôi khóc. Cái đó đã rõ. Thế ông cho rằng người đó sẽ không thôi khóc à?
- Nếu thế thì cuộc sống sẽ dễ dàng quá, - Raxkonikov đáp.
- Xin phép ông, xin phép ông; dĩ nhiên Katerina Ivanovna thì khó mà hiểu được; nhưng ông có biết không ở Paris người ta đã tiến hành nhiều cuộc thí nghiệm quan trọng về khả năng chữa bệnh điên mà chỉ dùng cách thuyết phục bằng logic đây. Ở đấy có một vị giáo sư, mới chết cách đây ít lâu, một nhà bác học có uy tín, chủ trương rằng có thể chữa bằng cách ấy. Ý căn bản của ông ta là trong cơ thể của người điên không có sự rối loạn gì đặc biệt, và bệnh điên có thể nói là một sự sai lầm về logic, một sự sai lầm trong cách phán đoán, một cách nhìn nhận sai lầm đối với sự vật ông ta lần lượt bác bỏ những ý kiến của người bệnh và - Ông thử tưởng tượng mà xem - nghe nói ông ta đã đạt một số kết quả? Nhưng vì đồng thời ông ta còn dùng cả biện pháp tắm hương sen nữa, cho nên những kết quả của cách trị liệu đó dĩ nhiên cũng có chỗ đáng nghi ngờ… ít nhất cũng có vẻ như thế…
Raxkonikov đã thôi nghe từ lâu. Về đến ngang nhà, chàng gật đầu chào Lebeziatnikov và rẽ vào cổng. Lebeziatnikov sực tỉnh, ngơ ngác nhìn quanh rồi đi thẳng.
Raxkonikov vào đứng ở chính giữa buồng chàng.
"Mình rẽ vào nhà để làm gì?". Chàng nhìn những tờ giấy dán tường vàng vàng đã sờn rách, lớp bụi, chiếc đi-văng… Từ dưới sân đưa lên những tiếng gõ gì không ngớt, nghe nhói cả tai; hình như có ai đang đóng một cái gì ở đâu đây, một cái đinh thì phải… Chàng đến cạnh cửa sổ, kiễng chân lên và nhìn xuống sân hồi lâu, vẻ hết sức chăm chú. Nhưng dưới sân vắng ngắt, không trông thấy người đóng đinh ở đâu cả. Phía trái, bên dãy nhà ngang, đây đó có mấy khung cửa sổ để ngỏ; trên bậu cửa sổ có mấy chậu hoa dương hải đường xơ xác. Ngoài cửa sổ có vắt quần áo… Tất cả những thứ đó, chàng đã thuộc lòng, chàng quay trở vào và ngồi lên đi-văng.
Chưa bao giờ, chưa có bao giờ chàng cảm thấy mình cô độc ghê gớm đến thế! Phải rồi, chàng lại một lần nữa cảm thấy rằng có lẽ mình căm thù Sonya thật, ngay bây giờ, sau khi đã làm cho nàng khổ sở hơn trước. "Tại sao mình lại đến xin nước mắt của nàng? Tại sao mình lại nhất thiết phải đầu độc đời nàng như vậy? Ôi, hèn hạ quá!
- Ta sẽ cứ một thân một mình! - Chàng bỗng quả quyết thốt lên, - Nàng sẽ không phải vào ngục làm gì?
Dăm phút sau chàng ngẩng đầu lên và mỉm một nụ cười kỳ dị. Một ý nghĩ lạ lùng vừa chợt đến. "Có lẽ trong ngục thích hơn thật" - Chàng chợt nghĩ.
Chàng không nhớ rõ mình ngồi trong buồng bao lâu với những ý nghĩ mơ hồ cứ chen chúc hàng mớ trong đầu như vậy. Bỗng cửa buồng mở và Avdotia Romanovna bước vào. Thoạt tiên nàng dừng lại ở ngưỡng cửa nhìn chàng như lúc nãy chàng nhìn Sonya rồi nàng bước vào và ngồi xuống chiếc ghế trước mặt chàng, chỗ nàng đã ngồi hôm qua. Chàng im lặng nhìn em, vẻ như không có ý nghĩ gì trong óc hết.
- Anh đừng giận, anh ạ, em chỉ đến gặp anh một phút, - Dunia nói. Vẻ mặt nàng tư lự, nhưng không nghiêm khắc. Mắt nàng nhìn trong sáng và dịu dàng.
Chàng thấy rõ rằng cả người con gái nầy nữa cũng đến chàng với lòng yêu thương.
- Anh ạ, bây giờ em biết hết, biết hết rồi. Dmitri Prokofich đã kể chuyện, giảng giải cho em rõ hết đầu đuôi. Người ta đang truy nã đang làm khổ anh vì một mối nghi ngờ ngu xuẩn, khá ố… Dmitri Prokofich có nói với mẹ rằng không có gì nguy hiểm cả và anh hoảng sợ như vậy là hão huyền. Em không nghĩ như thể và hoàn toàn hiểu lòng anh phẫn uất đến chừng nào, em hiểu rằng lòng phẫn uất ấy có thể để lại những dấu vết mãi mãi không xoá mờ được. Em sợ thế lắm. Về việc anh từ bỏ mẹ và em, em không phê phán gì và không hề dám phê phán; xin anh tha thứ cho em đã có lần trách móc anh. Chính em cũng tự nguyện thấy rằng nếu em có một nỗi buồn cay cực như vậy em cũng sẽ xa lánh mọi người. Em sẽ không kể cho mẹ biết gì về việc nầy, nhưng em sẽ luôn luôn nói chuyện với mẹ về anh và thay mặt anh mà nói rằng chỉ ít bữa nữa anh sẽ đến. Anh đừng lo lắng cho mẹ; em sẽ làm cho mẹ yên tâm; nhưng anh cũng đừng làm khổ mẹ, - anh đến lấy một lần thôi cũng được; anh phải nhớ rằng đó là mẹ anh! Bây giờ em đến đây chỉ để nói rằng nếu nhỡ anh có cần đến em hay cần đến… cả cuộc đời của em hay có cần gì nữa… thì anh cứ gọi em, em sẽ đến. Thôi, em đi nhé!
Nàng quay phắt lại và đi ra cửa.
- Dunia? - Raxkonikov gọi giật nàng lại, đứng dậy và lại gần nàng, - anh Razumikhin Dmitri Prokofich ấy, là một người rất tốt.
Mặt Dunia hơi ửng đỏ.
- Thế sao? - nàng hỏi sau một phút chờ đợi.
- Anh ấy là người chí thú, cần cù, ngay thậtt và biết yêu tha thiết… Thôi từ biệt Dunia.
Dunia đỏ bừng mặt lên, rồi bỗng lo lắng hỏi:
- Kìa, làm sao thế anh, chúng ta chia tay nhau vinh viễn thật hay sao mà anh trối trăn như vậy?
- Cũng thế thôi… em đi đi…
Chàng quay mặt đi và ra đứng cạnh cửa sổ. Nàng đứng yên một lát lo lắng nhìn chàng rồi lui ra, lòng bồn chồn lo sợ.
Không, lòng chàng không lạnh nhạt với em. Có một giây phút, giây phút cuối cùng, chàng thấy thiết tha muốn ôm lấy em thật chặt và vĩnh biệt em, thậm chí còn nói rõ sự thật nữa, nhưng rồi dù chỉ đưa tay ra cho em chàng cũng không dám. "Có lẽ về sau nó sẽ giật mình khi nhớ lại rằng mình đã ôm hôn nó, nó sẽ bảo là mình ăn cắp chiếc hôn của nó!". "Liệu người con gái nầy có chịu đựng được không"
Mấy phút sau chàng lại tự nhủ:
"Không, không chịu nổi đâu; những người như thế không chịu được đâu! Họ không bao giờ chịu được…".
Và chàng nghĩ đến Sonya.
Một luồng hơi mát từ cửa sổ lùa vào. Bên ngoài, ánh sáng đã dịu xuống. Chàng bỗng vớ lấy mũ và ra ngoài.
Dĩ nhiên chàng không thể, mà cũng không muốn lo nghĩ đến tâm trạng bệnh tật của mình. Nhưng tất cả nỗi lo lắng liên miên và cơn khủng hoảng tinh thần ấy không thể không để lại những hậu quả. Và sở dĩ chàng không lên cơn sốt li bì thật sự có lẽ cũng chính là vì tâm trạng lo âu không ngớt ấy vẫn còn nâng chàng đứng vững trên đôi chân, vẫn khiến chàng tỉnh táo, nhưng hình như một cách giả tạo, nhất thời.
Chàng đi lang thang không chủ đích. Mặt trời đang lặn. Ít lâu nay, chàng bắt đầu cảm thấy lo âu khác thường. Trong mối lo âu ấy không có gì thật da diết, nung nấu cho lắm; nhưng nó toả ra một cái gì trường tồn, vĩnh cửu, chàng tiên cảm thấy mối lo âu lạnh lẽo đầy tử khí ấy sẽ kéo dài hết năm nầy qua năm khác không cùng, chàng mường tượng đến cuộc sống vĩnh hằng trên "khoảng không gian hẹp có mấy tấc". Chiều xuống, cảm giác ấy thường lại bắt đầu giầy vò chàng mành liệt hơn nữa.
- Đấy, cứ có những lúc nhu nhược hết sức ngu xuẩn, thuần tuý nhục thể như vậy, lệ thuộc vào một buổi mặt trời lặn nào đấy, thì sao tránh khỏi làm những việc ngu ngốc! Không những đến tìm Sonya, mà lại còn đến tìm cả Dunia nữa cũng nên. - Chàng hằn học lẩm bẩm.
Có ai quát gọi chàng, chàng ngoái lại, Lebeziatnikov đang chạy về phía chàng.
Ông thử tưởng tượng xem, tôi vừa lại đằng ông, tôi đi tìm ông đây. Ông thử tưởng tượng mà xem, bà ấy thực hiện ý định thật: bà ấy dắt con đi rồi! Tôi với Sofia Xemionovna chật vật mãi mới tìm được. Bà ấy đang đánh chiếc soong gõ nhịp bắt lũ trẻ nhảy múa. Chúng nó khóc. Họ dừng lại ở các ngã tư đường và trước các cửa hàng. Một đám đông ngu xuẩn chạy theo họ. Ta đi đi.
- Còn Sonya? - Raxkonikov lo lắng hỏi trong khi rảo bước theo Lebeziatnikov.
- Thật như điên như dại. Nghĩa là không phải Sofia Xemionovna như điên như dại mà là Katerina Ivanovna ấy; vả chăng cả Sofia Xemionovna nữa cũng như điên như dại. Còn Katerina Ivanovna thì điên dại hẳn hoi rồi. Tôi xin nói với ông là bà ta đã loạn óc hoàn toàn. Người ta sẽ bắt họ vào sở cảnh sát. Ông có thể hình dung việc đó sẽ có tác dụng như thế nào… Bây giờ bà ấy đang ở ngoài kênh, ở đầu cầu X, chỉ cách nhà Sofia Xemionovna một quãng. Gần đây thôi.
Trên bờ kênh, cách đầu cầu không xa và chỉ cách chỗ Sonya trọ có hai nhà, có một đám đông đang xum xít lại. Đông hơn cả là những đứa trẻ, trai có gái có.
Đứng trên cầu đã nghe thấy giọng nói khàn khàn: đứt quãng của Katerina Ivanovna. Và quả nhiên đó là một cảnh tượng kỳ quặc có sức thu hút đám đông ở ngoài phố. Katerina Ivanovna mặc chiếc áo dài cũ, choàng khăn san bằng dạ, đầu đội chiếc mũ rơm rách nát vẹo sang một bên trông không còn ra cái hình thù gì nữa.
Bà ta quả nhiên đã loạn trí hẳn hoi rồi. Bà mệt nhọc thở hồn hển. Gương mặt ho lao thiểu não của bà trông đau đớn hơn bao giờ hết, hơn nữa ở ngoài phố, dưới ánh nắng, người ho lao bao giờ trông cũng đau yếu và tiều tuỵ hơn ở nhà, nhưng bà vẫn giữ trạng thái phấn khích, mỗi lúc một thêm cáu bẳn. Bà xông vào mấy đứa trẻ quát mắng chúng, năn nỉ chúng, bày cho chúng nhảy ra sao, hát những gì ngay trước mặt đám đông, quay ra giảng giải cho chúng hiểu tại sao lại cần phải thế, phát ngán lên trước cái óc chậm hiểu của chúng, đánh đập chúng… Rồi chưa bày vẽ xong, bà đã quay ra nói với đám đông; hễ thấy người ăn mặc hơi kha khá một chút dừng lại xem, bà ta lập tức quay ra phân trần cho họ rõ đây là những đứa trẻ "con nhà quý phái, thậm chí có thể nói là quý tộc thượng lưu nữa" mà bây giờ đến nông nỗi nầy đây! Nếu nghe trong đám đông có tiếng cười hay một câu nói gì có ý khích bác, bà lập tức xấn vào những kẻ xấc xược và bắt đầu chửi nhau với họ. Có mấy người cười thật, mấy người khác lắc đầu; nói chung ai nấy đều tò mò muốn xem cánh người đàn bà điên với lũ trẻ sợ sệt. Cái ông mà Lebeziatnikov có nói đến thì lúc bấy giờ không thấy đâu, ít nhất là Raxkonikov không nhìn thấy, nhưng thay cho tiếng gõ soong Katerina Ivanovna bắt đầu vỗ hai bàn tay khô đét vào nhau đánh nhịp bắt Polenka hát, còn Lena và Kolia thì nhảy múa; đồng thời chính bà ta cũng cất tiếng hát đệm theo, nhưng hễ cứ hát được đến nốt thứ hai là một cơn ho đau đớn lại nổi lên cắt đứt ngay giọng hát khiến bà tuyệt vọng nguyền rủa bệnh ho chết tiệt và thậm chí còn khóc nữa. Làm cho bà bực tức hơn cả là tiếng khóc và nỗi sợ hãi của Kolia và Lena. Quả như Lebeziatnikov nói, bà ta đã cố gắng trang phục cho lũ trẻ theo kiểu những người đi hát rong. Bà cho đứa con trai đội một chiếc khăn làm bằng thứ vải gì đỏ và trắng để làm một người Thổ nhĩ kỳ. Nhà không còn đủ giẻ để trang phục cho Lena; nó chỉ đội chiếc mũ chụp đỏ bằng lông lạc đà của mồ ma ông Xemion Zakharovich, có cắm một mảnh lông đà điểu trắng từ đời bà nội Katerina Ivanovna để lại và lâu nay vẫn cất trong rương, coi là bảo vật của gia đình. Polenka thì mặc chiếc áo dài thường ngày. Nó cứ nhìn mẹ rụt rè và ngơ ngác, không rời mẹ một bước, cố nuốt nước mắt. Nó cũng đoán chừng được rằng mẹ nó điên, và luôn lo lắng đưa mắt nhìn quanh. Đường phố và đám đông làm cho nó sợ khiếp vía đi. Sonya lẽo đẽo theo sau Katerina Ivanovna mà khóc lóc, phút phút lại van xin bà về nhà. Nhưng Katerina Ivanovna không hề lay chuyển.
- Thôi đi Sonya, thôi đi! - bà nói nhanh, giọng hấp tấp, vừa nói vừa ho và thở hổn hển. - Con chẳng biết con van xin cái gì đâu, con như đứa trẻ ấy. Dì đã bảo là dì không trở về nhà con mẹ Đức say rượu ấy nữa đâu mà. Cứ để cho mọi người, cho cả thành Petersbung nầy thấy cảnh con cái một người quý tộc suốt đời trung thành phụng sự Nhà nước, và có thể nói là chết trong khi thừa hành nhiệm vụ, phải đi hành khất ra sao. - Katerina Ivanovna đã có đủ thì giờ để tưởng tượng ra rằng chồng mình "chết trong khi thừa hành nhiệm vụ, và cứ nhắm mắt tin vào chuyện hoang đường đó. - Phải để cho cái tên tướng quèn khốn nạn ấy thấy rõ. Mà con ngốc lắm, Sonya ạ: bây giờ nhà có còn gì mà ăn nữa đâu, con thử xem? Mẹ con dì đày đoạ như thế là đủ rồi, dì không muốn thế nữa đâu! Ồ, Rodion Romanovich, cậu đấy à! - Bà chợt trông thấy Raxkonikov, liền reo lên và lao về phía chàng, - Xin cậu làm ơn giảng giải cho con bé ngốc nghếch nhà tôi hiểu rằng không còn có cách gì nữa đâu! Ngay như bọn hát rong cũng kiếm được tiền; còn như mẹ con tôi thì ai cũng phân biệt được ngay, họ sẽ biết ngay chúng tôi là một gia đình quý phái cô quả, sa cơ lỡ vận phải đi hành khất, rồi cái tên tướng quèn ấy sẽ bị cách chức cho mà xem! Ngày nào chúng tôi cũng sẽ đến hát dưới cửa sổ lão ta, và khi nào hoàng thượng ngự giá, tôi sẽ quỳ xuống, cho lũ trẻ đứng ra trước và chỉ cho Ngài xem: "Lạy Chúa chúng con, xin người che chở!". Ngài là cha của những kẻ côi cút Ngài rất khoan dung, Ngài sẽ che chở mẹ con tôi, cậu sẽ thấy, còn như viên tướng quèn kia thì Ngài sẽ… Lena! Tenez - vous droitel (l). Còn thằng Kolia, chốc nữa mày phải nhảy lại đấy. Sao mày khóc? Lại khóc rồi! Thì mày sợ cái gì, cái gì nào, thằng ngốc kia! Trời ơi! Tôi biết làm ăn thế nào với chúng nó bây giờ, cậu Rodion Romanovich? Cậu không biết chứ chúng nó ngu dại lắm kia Con cái như thế thì còn biết làm ăn thế nào được!
Bà ta suýt khóc (nhưng vẫn không ngớt nói liến thoắng), chỉ cho chàng xem mấy đứa trẻ đang khóc thút thít. Raxkonikov cũng cố thử khuyên giải cho bà ta về nhà. Chàng còn mong tác động vào lòng tự ái, nói rằng bà ta mà lại đi hát rong giữa phố như bọn quay phong cầm thì không tiện, vì bà sắp sửa làm hiệu trưởng một trường ký túc dành cho con gái quý tộc…
- Trường ký túc, ha - ha - ha! Rõ khéo hão huyền! - Katerina Ivanovna thét lên. Mấy tiếng cười lại chuỵển thành một cơn ho dữ dội, - Không, Rodion Romanovich ạ giấc mơ ấy qua rồi! Mọi người đều ruồng bỏ mẹ con tôi rồi! Còn cái tên tướng quèn ấy… Cậu ạ, tôi đã ném một lọ mực vào đầu hắn, - Ở đấy, trong căn phòng gia nhân vừa đúng có một lọ mực đặt bên tờ giấy ghi tên những người ra vào: tôi đến ghi tên rồi cầm luôn lọ mực ném hắn, xong tôi bỏ chạy. Ôi, họ đê tiện, đê tiện quá! Nhưng thôi, nhổ toẹt vào, bây giờ tôi sẽ tự tay nuôi chúng, không thèm xin xỏ đứa nào hết? Mẹ con tôi làm khổ nó thế là đủ rồi! - Bà trỏ Sonya - Polenka, mày xin được bao nhiêu nãy giờ, đưa xem nào? Sao? Cả thảy chỉ có hai cô-pếch à? Trời ơi, chúng thật tệ mạt! Chúng chẳng buồn cho, chỉ chạy theo, thè lưỡi ra mà xem! À, cái thằng ngợm kia cười cái gì thế? - Bà chỉ một người đứng trong đám đông - Cũng chỉ vì cái thằng Kolia nó tối dạ quá, đến khổ với nó! Con làm sao thế Polenka? Phải nói tiếng Pháp với mẹ chứ, Parlez - moi francais(2). Mẹ đã dạy cho con nói, con đã thuộc được mấy câu kia mà! Nếu không thì lấy gì cho người ta phân biệt được các con là con nhà tử tế, có giáo dục, chứ tịnh không phải như bọn hát rong; chúng ta có đi hát những điệu thô tục gì đâu, ta sẽ hát một bài tình ca cao quý… A phải! Hát gì bây giờ nhi? Các người cứ ngắt lời tôi mãi, trong khi… Ấy, cậu Rodion Romanovich ạ, chúng tôi dừng lại đây để chọn xem nên hát bài gì, - hát bài gì cho thằng Kolia nó cũng múa theo được… vì cậu thử tưởng tượng xem, chúng tôi ra đi thế nầy mà chẳng có chuẩn bị gì cả; phải làm thế nào bàn nhau tập dượt thật chu đáo rồi sẽ ra đại lộ Nevxki: ở đây mới có nhiều người thượng lưu, họ sẽ chú ý đến chúng tôi ngay. Lena biết hát điệu "Khutorok"… Nhưng lúc nào cũng "Khutorok", "Khutorok", ai mà chả hát được bài ấy! Chúng ta phải hát bài gì tế nhị hơn nhiều kia… Nào, con có nghĩ thêm được bài gì không, Polenka, ít nhất con cũng phải giúp mẹ với chứ! Chả nhẽ lại đi hát bài "Anh phiêu kỵ chống gươm" hay sao? À, ta sẽ hát bài "Cinq sous"(3) bằng tiếng Pháp. Mẹ dạy cho các con rồi kia mà, dạy rồi. Cái chính là hát bằng tiếng Pháp thì họ sẽ thấy ngay các con là con nhà quý tộc, như thế sẽ cảm động hơn nhiều… Lại còn có thể hát: "Malborough s'en va-t-en guerre" nữa! Đó đúng là một bài hát trẻ con, các nhà quý tộc nhà nào cũng ru con bằng bài ấy.
"Malborough s'en va-t-en guerre
Ne saint quand revienda(4)
Bà cất tiếng hát… - Nhưng không, hát bài "Cinq sous" hơn? Nào, Kolia, chống tay cạnh sườn nhanh lên, còn con, Lena, con cũng quay mặt sang phía kia kìa, mẹ với Polenka sẽ vỗ tay hát theo.
Cinq sous, cinq sous
Pour monter notre ménage…(5)
- Hì - thì - hì! - Cười được mấy tiếng bà lại ho lên một tràng. - Nắn áo lại, Polenka, vai chảy xuống rồi kia, - bà hổn hển nói qua trận ho. - Bây giờ các con phải ăn mặc cho thật đứng đắn, đi đứng cho thật chững chạc để mọi người thấy rõ các con là con nhà quý phái. Đã bảo là xu-chiêng phải may dài hơn mà phải xấp hai lần vải vào! Thế mà dạo ấy con Sonya lại cứ nói đi nói lại là: "Ngắn nữa vào, ngắn nữa vào", thành thử bây giờ trông con bé không còn ra cái gì nữa… Kìa, lại khóc cả lũ rồi! Sao mà ngốc thế hả, việc gì mà khóc? Nào, Kolia, bắt đầu đi, nhanh lên, nhanh lên, nhanh lên! Ồ, thằng bé thật không sao bảo được! Cinq sous, cinq sous… Lại một tên lính! Nầy, anh cần cái gì hả?
Quả nhiên có một viên cảnh binh đang rẽ đám đông len vào. Nhưng vừa lúc ấy có một viên công chức bệ vệ trạc năm mươi tuổi, mặc phẩm phục có choàng thêm áo ca-pốt, cổ đeo huân chương (điều nầy làm cho Katerina Ivanovna rất hài lòng, và cũng có ảnh hưởng đối với người cảnh binh), tiến đến gần và lặng lẽ đưa cho Katerina Ivanovna một tờ giấy bạc ba rúp màu xanh lá cây. Gương mặt ông ta lộ vẻ thương xót chân thành. Katerina Ivanovna cầm lấy tờ giấy bạc và cúi chào ông ta một cách lễ độ, thậm chí trịnh trọng nữa.
- Xin đa tạ ngài, - bà ta mở đầu, giọng trịch thượng, những nguyên nhân đã buộc chúng tôi… cầm lấy tiền, Polenka. Con thấy không, vẫn có những người cao thượng và hào hiệp sẵn lòng giúp đỡ một người đàn bà quý tộc đáng thương trong cơn hoạn nạn. Thưa ngài, trước mắt ngài là những đứa trẻ mồ côi, con nhà quý phái, hơn nữa có thể nói là có liên hệ với những nhà quý tộc thượng lưu vào bậc nhất… Thế mà cái tên tướng quèn ấy cứ ngồi ăn chim giẽ… lão ta dẫm chân dẫm cẳng kêu là tôi đến quấy rầy lão ta… "Bẩm quan lớn, tôi nói thế, xin quan lớn che chở cho lũ trẻ mồ côi, vì quan lớn vốn biết rõ mồ mả ông Xemion Zakharovich nhà tôi, và vì một kẻ đốn mạt nhất trong những kẻ đốn mạt đã vu khống con gái của nhà tôi ngay hôm nhà tôi mất…" Lại tên lính kia! Xin ngài che chở cho với! - Bà kêu lên, van xin viên công chức, - sao tên lính kia cứ xấn vào tôi thế ở phố Mesanxkaya chúng tôi đã gặp phải một tên như thế, phải trốn lên đây… thì việc gì đến mày nào, đồ ngốc!
- Vì ở ngoài phố cấm không được thế. Xin dừng làm mất thể thống.
- Chính mày không ra cái thể thống gì thì có! Tao đi thế nầy cũng như những người hát rong thôi, việc gì đến mày?
- Về việc hát rong thì phải có giấy phép, còn như bà thì bộ dạng bà như thế làm phiên nhiễu người qua đường. Bà ngụ ở đâu ạ?
- Giấy phép? - Katerina Ivanovna gào lên. - Tôi vừa mới chôn cất chồng tôi sáng nay thì làm gì có giấy phép!
- Bà ơi, bà ơi, xin bà bình tâm lại! - Viên công chức mở đầu: - Ta đi đi, tôi sẽ đưa bà về. Ở đây đông người thế không tiện… Bà đang ốm…
- Thưa ngài, thư ngài, ngài không biết gì hết - Katerina Ivanovna quát lên, - Chúng tôi sẽ lên đại lộ Nevxki… Sonya! Sonya! Nó đâu rồi thế? Cùng khóc nốt? Kìa các người làm sao cả lũ thế… Kolia, Lena, các con chạy đi đâu? - Bbà bỗng hoàng hốt kêu lên, - Ôi, lũ trẻ khờ dại nầy! Kolia, Lena, chúng nó chạy đi đâu thế không biết?
Số là Kolia và Lena, sợ khiếp vía đi trước đám người hiếu kỳ và những lởi quát mắng của người mẹ điên rồ, rồi cuối cùng lại thấy người cảnh binh đến, hẳn là để bắt chúng mang đi đâu không rõ, bỗng như đã bàn trước với nhau, cầm tay nhau cắm cổ chạy. Bà Katerina Ivanovna khốn khổ vừa kêu khóc vừa đâm bổ theo chúng. Bà ta vừa chạy vừa khóc và thở hổn hển, trông thật kỳ quặc và thương tâm. Sonya và Polenka cũng chạy theo bà ta.
- Bảo chúng nó trở lại đi, Sonya, bảo chúng nó trở lại! Chao ôi, con cái ngu dại, bất hiếu đến thế thì thôi!
- Polenka? Bắt chúng nó lại… Chỉ vì chúng mày, mẹ mới…
Bà đang mải chạy bỗng vấp chân ngã nhoài ra.
- Ngã bật máu ra rồi! Trời ơi! - Sonya cúi xuống người bà, kêu lên. Ai nấy đều chạy lại xúm quanh.
Raxkonikov và Lebeziatnikov ở trong số những người chạy đến trước tiên; viên công chức cùng hấp tấp chạy lại và sau ông ta là viên cảnh binh. Hắn càu nhàu: "Chà, mẹ kiếp!", và khoát tay bực bội, cảm thấy trước rằng câu chuyện trở nên rầy rà.
- Đi đi Đi đi! - hắn xua đuổi những người đang chen chúc ở xung quanh.
- Sắp chết rồi? - Có ai kêu lên.
- Bà ta điên! - một người khác nói.
- Lạy Chúa cứu chở! - một người đàn bà vừa làm dấu thánh vừa nói. - Đã giữ được hai đứa trẻ nhỏ lại chưa? À dẫn về kia rồi, cô chị bắt chúng lại được rồi… xem kìa, lù nhãi con!
Nhưng khi nhìn kỹ Katerina Ivanovna, họ thấy rõ không phải bà vấp vào đá bật máu ra như Sonya tưởng, vũng máu nhuộm đỏ đá lát đường là máu ộc từ trong ngực bà ra.
- Cái nầy thì tôi biết, tôi đã từng trông thấy, - viên công chức nói nhỏ với Raxkonikov và Lebeziatnikov, - bệnh ho lao đấy: máu cứ ộc ra làm cho người bệnh nghẹn thở. Tôi có người bà con, cách đây không lâu tôi có được chứng kiến, máu cứ thế thổ ra đến một cốc rưỡi… đột nhiên thổ ra… Nhưng biết làm thế nào đây, bà ấy chết ngay bây giờ thì sao?
- Đưa về đây đây, về nhà tôi! - Sonya van lơn, - tôi ở đằng nầy nầy… Kia, nhà tôi kia, cách đây hai nhà… Về nhà tôi, nhanh lên, nhanh lên! - nàng vật vã van nài mọi người. - Mời bác sĩ cho với… Trời ơi!
Nhờ người công chức ra sức giúp đỡ, mọi việc cũng thu xếp được khá ổn, ngay cả viên cảnh binh cũng khiêng hộ Katerina Ivanovna một tay. Khi họ khiêng được vào nhà Sonya, bà ta đã hầu như người hấp hối. Họ đặt bà lên giường. Máu vẫn còn chảy, nhưng bà ta hình như đã bắt đầu hơi tỉnh. Ngoài Sonya ra, cùng bước vào phòng một lúc có Raxkonikov và Lebeziatnikov, người công chức và viên cảnh binh. Trước khi khiêng vào phòng viên cảnh binh đã đuổi đám đông đi - trong số đó có mấy người theo vào đến tận cửa - bắt họ phải giải tán. Polenka cầm tay Kolia và Lena dắt về. Hai đứa bé run cầm cập và khóc thút thít. Ở nhà ông Kapernaumov cũng có người chạy xuống: đích thân ông ta, chân thì thọt, mắt thì chột, hình thù cổ quái, râu má và tóc mọc dựng đứng lên từng chòm tua tủa; vợ ông ta, mặt hình như ngày xưa đã bị một phen hoảng sợ thái quá nên cứ giữ mãi vẻ hoảng sợ ấy, và mấy người con của họ nét mặt đã cứng đờ ra như gỗ vì luôn luôn phải ngạc nhiên, miệng há hốc. Giữa đám công chúng ấy đột nhiên thấy cả Xvidrigailov xuất hiện.
Raxkonikov ngạc nhiên nhìn hắn, không hiểu hắn từ đâu xuất đầu lộ diện ra và không nhớ là có thấy hắn đứng trong đám đông.
Họ nói chuyện mời bác sĩ và linh mục. Người công chức tuy có thì thầm với Raxkonikov rằng mời bác sĩ bây giờ hình như cũng vô ích, nhưng vẫn ân cần cho người đi mời. Chính Kapernaumov lĩnh lấy việc đó.
Trong khi đó Katerina Ivanovna đã thở lại được đều máu đã tạm cầm. Bà đưa đôi mắt đau đớn, nhưng chăm chú và soi mói nhìn Sonya đang lấy khăn tay lau những hột mồ hôi trên trán bà, mặt tái mét, người run lẩy bẩy; cuối cùng bà nhờ nâng người dậy. Họ đỡ hai bên đặt bà ngồi trên giường.
- Mấy đứa bé đâu? - bà nói, giọng yếu ớt. - Con đưa chứng về rồi chứ Polenka? Ôi con cái ngốc quá? Tại sao các con lại bỏ chạy… ôi!
Máu lại ứa ra trên dôi môi khô héo của bà. Bà đưa mắt nhìn quanh một lượt.
- Thế ra phòng con ở như thế nầy đây, hở Sonya! Dì chưa đến con lần nào… dì đã phải… - Bà nhìn Sonya, đau đớn - Mẹ con dì đã hút hết máu của con rồi Sonya ạ… Polenka, Lena, Kolia, lại đây… Ấy, chúng nó đây, Sonya ạ đông đủ cả đây, con nhận lấy chúng… dì trao cho con… còn dì thì hết rồi… vũ hội đã mãn! Ha!… Các người buông tôi ra, ít nhất cũng cho tôi chết cho yên…
Họ lại để bà nằm lên gối.
- Cái gì? Linh mục à? Không cần… Tiền đâu mà thừa thãi thế? Tôi không có tội gì! Không rửa tội thì Chúa cũng phải tha cho tôi… Chính Chúa cũng biết tôi đau khổ đến thế nào… Còn Chúa không tha thì cũng chẳng cần!
Katerina Ivanovna mỗi lúc một lâm vào trạng thái mê sảng vật vã. Thỉnh thoảng bà giật mình, đảo mắt quanh phòng, nhận ra mọi người trong khoảng một phút, nhưng tỉnh được một lát rồi lại mê man ngay. Bà thở khò khẽ khó nhọc, nghe như có cái gì lục xục trong cổ.
- Tôi nói với lão ấy: "Bẩm quan lớn…" - bà thét lên, cứ mỗi tiếng lại dừng lại thở, - Cái mụ Amalya Ludvigovna ấy… Chao ôi, Lena; Kolia! Hai tay chống cạnh sườn, nhanh lên, nhanh lên, glissé - glissé, pas-de-basque!(6). Cộp gót giầy xuống… Phải cho duyên dáng con ạ. Du hast Diamanten und Perlen…(7). Thế nào nữa nhỉ? Giá hát đước bài nầy…
Du hast die shousten Augen
Madchen, was wilist du mehr(8)
Phải rồi, chứ còn gì nữa! Was wilist du mehr, - rồi nó phải nghĩ ra chứ, cái thằng đần ấy. À phải, thế nầy nữa chứ:
Dưới nắng trưa oi ả!
Trong một thung lũng… miền Dagetxtan(9)
Ôi hồi xưa mẹ yêu quá… Mẹ yêu đến mê say bài tình ca nầy, Polenka ạ! con biết không, cha con… hồi sắp lấy mẹ, vẫn hát… Ôi, những ngày ấy! Giá bây giờ mẹ con mình hát bài nầy! Nào, sao nhỉ, sao nhỉ… mẹ quên đi mất… kìa các con thử nhớ lại xem nào, thế nào nhỉ? - Katerina Ivanovna xúc động đến cực điểm; bà cố sức nhỏm dậy. Cuối cùng, bà cất giọng khàn khàn, đứt đoạn the thé lên nghe mà rợn cả người, cứ hát được một tiếng lại thở hổn hển, vẻ như mỗi lúc một thêm sợ hãi.
Dưới nắng trưa oi ả!
Trong một thung lũng… miền Dagetxtan
Một mảnh chì trong ngực…
- Bẩm quan lớn! - bà bỗng thét lên một tiếng xé ruột xé gan, nước mắt chảy ròng ròng, - Xin quan lớn che chở lũ trẻ mồ côi! Ngài còn nhớ sự tiếp đãi ân cần của mồ ma ông Xemion Zakharovich… Có thể nói quý tộc thượng lưu nữa là khác! Chà! - bà giật mình, chợt tỉnh lại và đưa mắt nhìn mọi người vẻ như kinh hãi, nhưng rồi bà nhận ngay ra Sonya.
- Sonya, Sonya! - bà nói, giọng dịu dàng và âu yếm, như thể lấy làm lạ sao lại có nàng ở trước mặt. - Sonya yêu quý, con cũng ở đây ư?
Họ lại đỡ bà ngồi dậy.
- Thôi! Đã đến lúc… Vĩnh biệt cuộc sống đoạ đày! Con ngựa khổ đã kiệt sức rồi! Nó chết to - o - oi rồi! - bà thét lên, giọng tuyệt vọng và hằn học, rồi buông đầu rơi phịch xuống gối.
Bà lại mê man, nhưng cơn mê cuối cùng nầy không lâu. Khuôn mặt võ vàng, khô héo của bà bỗng ngảa hẳn ra phía sau, miệng há hốc ra, hai chân rướn thẳng đờ. Bà thở hắt ra một tiếng dài dằng dặc và tắt nghỉ.
Sonya gieo mình lên xác bà, đang hai tay ôm chầm lấy và lặng người đi, đầu nép vào lồng ngực khô héo của người chết. Polenka sụp xuống hôn chân mẹ, khóc nức nở. Kolia và Lena, vẫn chưa hiểu việc gì vừa xảy ra, nhưng cũng linh cảm thấy một điều gì rất khủng khiếp dang cả hai tay ôm lấy nhau, mắt nhìn trừng trừng vào mặt nhau, và bỗng nhiên cùng một lúc há miệng ra và cùng cất tiếng hét lên. Cả hai đều vẫn ăn mặc như phường trò: một đứa đội khăn Thổ, đứa kia dội mũ chụp cắm mánh lông đà điểu.
Không biết làm thế nào mà tấm "bằng khen" kia lại bỗng dưng ở trên giường, bên cạnh Katerina Ivanovna, nó nằm ở đấy, ngay ở bên gối; Raxkonikov trông thấy. Chàng ra đứng ở cửa sổ. Lebeziatnikov vội vã ra theo.
- Chết rồi! - Lebeziatnikov nói.
- Rodion Romanovich, tôi có câu chuyện nhỏ cần nới với cậu, - Xvidrigailov lại gần nói. Lebeziatnikov lập tức nhường chỗ cho hắn và lịch thiệp lảng đi.
Xvidrigailov dìu Raxkonikov đang ngạc nhiên ra một góc xa hơn nữa.
- Tất cả những món phiền phức nầy, nghĩa là việc chôn cất nầy nọ, tôi sẽ lo liệu hết. Cậu cũng biết đấy, việc nầy sẽ tốn tiền, mà tôi thì đã có lần nói với cậu là tôi có một số tiền thừa. Hai đứa nhóc kia với con Polenka thì tôi sẽ cho vào một cô nhi viện nào kha khá và cho mỗi đứa một số vốn là một nghìn rưỡi rúp chờ cho đến khi chúng thành niên, để Sofia Xemionovna có thể yên tâm hoàn toàn. Với lại tôi cũng sẽ kéo cô ta ra khỏi cảnh lầm than, vì cô ta là một người con gái tốt có phải không nào? Ấy đấy, thế thì xin cậu nói lại với Avdotia Romanovna rằng tôi đã sử dụng số tiền một vạn rúp của cô ấy như thế đấy?
- Ông ra tay làm một việc nghĩa như thế có mục đích gì? - Raxkonikov hỏi.
- Chà - à! Thật là người đa nghi! - Xvidrigailov cười xoà. - Thì tôi đã bảo là số tiền ấy tôi không cần đến mà lại. Thế sao, cậu không thể tin rằng tôi có thể chỉ vì nhân đạo, thế thôi, hay sao? Vì bà ta đâu phải là một "con rận" (lão giơ ngón tay chỉ vào góc phòng nơi người chết đang nằm) như một mụ già cho vay lãi nào đấy. Đấy cậu cũng phải thừa nhận rằng, đấy, thật thế "để cho Lugin sống mà làm những việc bị ổi, hay để cho bà ta phải chết?". Và nếu tôi không giúp, thì Polenka chẳng hạn, cũng sẽ đi theo con đường đó thôi mà…
Lão nói mấy câu đó với một vẻ cười cợt ranh mãnh, như một người đang nháy mắt ra hiệu, trong khi vẫn nhìn Raxkonikov không rời mắt. Raxkonikov tái mặt đi người lạnh toát ra, khi nghe chính những câu mình đã nói với Sonya. Chàng hấp tấp lùi lại và ngây dại nhìn Xvidrigailov.
- Tạ - tại sao… Ông lại biết? - Chàng thều thào, thở không ra hơi nữa.
- Thì tôi ở đây, bên kia vách, tôi trọ ở nhà madame Resslich mà lại. Bên nầy là ông Kapernaumop, bên kia là madame Resslich một người bạn cũ rất tận tuỵ với tôi. Tôi là chỗ láng giềng đấy ạ.
- Ông?
- Tôi, - Xvidrigailov nói tiếp, cười rung cả người lên, - và tôi có thể lấy danh dự mà nói với cậu, cậu Rodion Romanovich thân mến ạ, rằng tôi thấy cậu có những cái thú vị lạ thường. Tôi đã bảo là chúng ta sẽ kết thân với nhau mà, tôi đã nói trước với cậu như thế. Và đây chúng ta đã kết thân. Rồi cậu sẽ thấy tôi là người dễ tính nhường nào. Cậu sẽ thấy rằng với tôi cậu còn có thể sống được lắm…

Chú thích:
(1) Đứng cho thẳng (tiếng Pháp).
(2) Cô hãy nói tiếng Pháp với tôi (tiếng Pháp)
(3) Năm xu (tiếng Pháp)
(4) Malborough đi đánh giặc không biết bao giờ sẽ về
(5) Năm xu, năm xu, để chúng tôi thu xếp nhà cửa.
(6) Những danh từ vũ đạo (tiếng Pháp), chỉ hai bước nhảy
(7) Cô có kim cương và ngọc trai (tiếng Đức).
(8) Cô có đôi mắt đẹp nhất đời. Cô gái kia ơi, cô còn muốn gì hơn nữa (tiếng Đức) - Thơ của Henrich Heine (sao không được đúng).
(9) Thơ của Lermontov.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #7  
Old 09-09-2012, 02:48 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Tội ác và sự trừng phạt - Phần 6 - Chương 30, 31, 32

TỘI ÁC VÀ SỰ TRỪNG PHẠT


Phần VI

Chương 30


Raxkonikov bắt đầu sống qua một thời gian kỳ lạ: như thể một màn sương mù bỗng buông xuống trước mặt chàng và giam hãm chàng trong một cảnh cô đơn nặng nề, không lối thoát. Lâu mãi về sau, khi nhớ lại thời gian nầy, chàng mới hiểu ra rằng ý thức của chàng đôi khi như lu mờ hẳn lại và cứ thế, trừ một vài quãng hở ngắn, kéo dài mãi cho đến tai hoạ cuối cùng. Chàng đã hoàn toàn thấy rõ rằng trong thời gian ấy chàng nhầm lẫn rất nhiều, chẳng hạn về thời gian và thời hạn xảy ra một vài sự việc; ít nhất là về sau, khi nhớ lại và cố gắng lý giải những ký niệm ấy, chàng đã biết thêm nhiều về bản thân mình, nhờ những tài liệu do người khác cũng cấp cho. Chẳng hạn, việc nầy thì chàng lại lẫn với việc nọ; có việc chàng cho là hậu quả của nó một sự kiện nào đó chỉ có trong tưởng tượng của chàng mà thôi. Đôi khi chàng bỗng thấy bồn chồn lo lắng một cách đau đớn khổ sở, thậm chí còn đâm ra sợ sệt hoảng hốt nữa. Nhưng chàng nhớ lại rằng cũng có những phút, những giờ, và có lẽ cả những ngày nữa, chàng hoàn toàn dừng dưng; tâm trạng đó đến với chàng như để đối lập với tâm trạng sợ hãi về trước, nó giống như trạng thái dửng dưng bệnh tật của một số người hấp hối. Còn nói chung thì trong những ngày cuối cùng nầy chính chàng cũng lại dường như cố gắng trốn thoát cho khỏi hiểu một cách mình mẫn và trọn vẹn tình cảnh của mình; một số sự kiện liên quan đến cuộc sống hàng ngày, vốn đòi hỏi được giải thích ngay, đặc biệt khiến chàng khổ tâm; nhưng chàng sẽ sung sướng biết chừng nào nếu được giải thoát, được trốn khỏi những mối lo âu mặc dầu trong tình cảnh chàng mà quên lãng những mối lo âu ấy thì có thể lâm vào nguy cơ diệt vong hoàn toàn không sao tránh khỏi.
Làm cho chàng lo sợ nhất là Xvidrigailov; thậm chí còn có thể nói rằng chàng dường như chỉ nghĩ đến Xvidrigailov nữa thôi. Từ khi Xvidrigailov nói ra những lời lẽ quá rõ ràng và quá nguy hiểm đối với chàng trong căn buồng của Sonya, trong giờ lâm chung của Katerina Ivanovna, giòng tư tưởng thường ngày của chàng dường như đã rối loạn đi. Nhưng mặc dầu sự kiện mới nầy làm cho chàng lo lắng đến cùng cực, Raxkonikov hình như vẫn không vội tìm cách lý giải nó. Thỉnh thoảng, khi bỗng dưng tình cờ đến một khu phố xa vắng, hẻo lánh nào, ngồi trong một tiệm rượu thảm hại nào đó, một mình một bàn suy nghĩ miễn man, và hầu như cũng không nhớ tại sao mình lại đến đây, chàng bỗng sực nhớ đến Xvidrigailov: chàng bỗng lo lắng nhận thức được một cách quá rõ ràng là phải thương lượng với con người ấy càng sớm càng tốt, và quyết định dứt khoát những gì có thể quyết định được. Có lần đi lang thang ra ngoài cửa ô, chàng lại còn mường tượng rằng mình ra đây đợi Xvidrigailov vì hai người đã hẹn gặp nhau ở đây Một lần khác, gần tảng sáng chàng thức dậy thì thấy mình nằm giữa đất, cạnh những bụi rậm, và hầu như không hiểu sao mình lại ở đấy. Vả chăng trong khoảng hai ba ngày sau cái chết của Katerina Ivanovna chàng đã có hai lần gặp Xvidrigailov, lần nào cũng hầu như gặp ngay trong phòng Sonya, chàng ghé vào đấy để làm gì thì chính chàng cũng không rõ, và lần nào cũng chỉ ghé khoảng một phút. Lần nào hai người cũng trao đổi với nhau vài câu vắn tắt, và không bao giờ đã động đến cái điểm chính yếu, như thể tự nhiên giữa hai người đã có mặc ước với nhau là tạm thời không nói đến việc đó. Xác Katerina Ivanovna vẫn còn quàn trong quan tài. Xvidrigailov chạy ngược chạy xuôi lo liệu cho đám tang. Sonya cũng rất bận. Lần gặp sau cùng, Xvidrigailov cho Raxkonikov biết rằng về mấy đứa con của Katerina Ivanovna thì lão đã thu xếp xong xuôi đâu vào đấy cả; nhờ có quen nơi nầy nơi nọ, lão đã tìm được mấy nhân vật giúp lão gửi ngay cả ba đứa trẻ mồ côi vào những viện cô nhi rất thích hợp với chúng; những món tiền ký quỹ cho chúng cũng giải quyết được nhiều việc vì trẻ mồ côi mà có vốn thì gửi dễ hơn con cái hạng bần cùng nhiều. Lão còn nói thêm những gì gì về Sonya, hứa có dịp sẽ thân hành đến gặp Raxkonikov và nói quả là "mong được bàn bạc với chàng; có những việc rất cần nói chuyện với chàng…". Câu chuyện giữa hai người được trao đổi ở phòng mắc áo, đầu cầu thang.
Xvidrigailov nhìn đăm đăm vào mắt Raxkonikov rồi sau một lát im lặng, đột nhiên hạ giọng xuống hỏi:
- Nầy, Rodion Romanovich, sao trông cậu thảng thốt thế? Thật đấy! Cậu nghe, cậu nhìn, nhưng xem ra thì hình như cậu không hiểu gì hết. Cậu phải can đảm lên. Đây, ta nói chuyện một chút: chỉ tiếc là tôi đang bận quá: việc mình lẫn việc người… Chà, Rodion Romanovich, - lão bỗng nói thêm. - người ta ai cũng cần không khí, không khí… trước hết phải có không khí!
Lão bỗng né ra một bên để nhường lối cho ông linh mục và người giúp lễ đang đi vào. Họ đến làm lễ cầu hồn. Theo yêu cầu của Xvidrigailov, lễ cầu hần được cử hành hai lần một ngày đúng nghi thức, Xvidrigailov bỏ đi. Raxkonikov đứng yên suy nghĩ một lát rồi theo ông linh mục vào phòng Sonya.
Chàng đứng trên lối vào, lễ cầu hồn bắt đầu, lặng lẽ nghiêm trang, buồn bã. Từ hồi còn bé, chàng đã có một cảm giác nặng nề, một nỗi sợ hãi thần bí khi nghĩ đến cái chết và cắm thấy nó lẩn quất đâu đây; vả lại đã lâu chàng không dự lê cầu hồn nào. Hẳn nữa ở đây còn có một cái gì khác, quá khủng khiếp, đáng lo sợ.
Chàng nhìn mấy đứa trẻ: chúng đều quỳ bên quan tài. Polenka khóc. Sau lưng chúng, Sonya cầu nguyện se sẽ; hình như nàng đang rụt rè khóc thầm. "Ra trong mấy ngày nay nàng không nhìn ta lần nào và không nói với ta một lời nào" - Raxkonikov chợt nghĩ. Ánh nắng chiếu vào phòng sáng rực; khói trầm hương bay cuộn lên nghi ngút; người linh mục đọc: "Xin chúa ban cho bằng an". Raxkonikov đứng dự suốt buổi lễ. Khi làm dấu ban phước lành và cáo từ ra về, người linh mục đưa mắt nhìn quanh, vẻ kỳ lạ. Sau buổi lễ Raxkonikov đến cạnh Sonya. Nàng bỗng cầm lấy hai tay chàng và gục đầu vào vai chàng. Cử chỉ giản dị ấy khiến Raxkonikov hết sức kinh ngạc; chàng còn thấy nó kỳ quặc nữa: lạ thật, nàng không chút nào thấy ghê sợ không mảy may thấy kinh tởm chàng, tay nàng không hề thoáng run lên chút nào! Đây quả thật là lòng nhẫn nhục không bờ bến. Dù sao đó cũng là ý nghĩ của chàng. Sonya không nói gì hết. Raxkonikov xiết tay nàng rồi ra về. Chàng thấy lòng nặng trĩu.
Giá giờ phút nầy có thể bỏ đi đâu mà sống một mình, dù có phải sống như thế suốt đời chăng nữa, thì chàng sẽ cho mình là người diễm phúc. Nhưng khổ một nỗi trong thời gian gần đây, tuy hầu như lúc nào chàng cũng một mình, nhưng chàng không sao cảm thấy mình được ngồi riêng lại với mình cả. Có những lần chàng đã tình cờ ra ngoại thành, bước lên con đường thiẻn lý, thậm chỉ có lần chàng còn đến một khu rừng nhỏ nữa; nhưng những nơi ấy càng hẻo lánh vắng vẻ, thì chàng lại dường như càng cảm thấy một cái gì gần gũi và đáng lo sợ đang lẩn quất đâu đây, một cái gì không hẳn là ghê rợn, nhưng hầu như rất đáng bực mình, thành thử chàng hối hả trở về thành phố, trà trộn vào đám đông, ghé vào quán rượu, quán giải khát, đi ra chợ tầm tầm hay chợ Hàng Rơm. Ở đây chàng thấy để chịu hơn và hầu như cô đơn nữa.
Trong một quán rượu, vào lúc xế chiều, khách khứa đang hát. Chàng ngồi nghe họ hát suốt một tiếng đồng hồ và nhớ rằng mình còn thấy thích thú nữa. Nhưng về sau chàng lại bỗng đâm ra lo lắng; cứ như thể lương tâm bắt đầu cắn rứt chàng. "Đấy, mình ngồi nghe hát thế nầy, nhưng việc mình đang cần làm có phải thế đâu! Chàng thoáng nghĩ. Nhưng rồi chàng lại hiểu ngay ra rằng không phải chỉ có điều nầy khiến chàng lo lắng, còn có một cái gì đòi hỏi phải giải quyết ngay không chậm trễ, nhưng cái đó thì không thể nào lý giải được mà cũng không thể nào diễn đạt ra bằng lời được. Tất cả đều rối bết lại thành một cục. "Không, thế nầy thì thà phải tranh đấu còn hơn, thà một lần nữa phải đương đầu với Porfiri, với Xvidrigailov còn hơn… Sao cho chóng có được một lời thách thức nào, một kẻ nào tấn công ta… Phải! phải!"
Chàng ra khỏi quán và cắm cổ đi thật nhanh, gần như chạy. Nghĩ đến mẹ và Dunia, không hiểu sao chàng bỗng thấy sợ cuống cuồng lên. Chính đêm ấy, khi gần tảng sáng, chàng đã thức giấc giữa những khóm cây rậm trên đảo Krextovxki, người sốt run cầm cập; chàng về đến nhà thì trời đã sáng. Ngủ được mấy tiếng thì cơn sốt qua khỏi, nhưng chàng thức dậy muộn: lúc bấy giờ đã hai giờ trưa. Chàng sực nhớ ra rằng hôm nay chính là ngày đã chọn để đưa ma Katerina Ivanovna, và lấy làm mừng rằng mình đã không đến dự. Naxtaxia đưa thức ăn lên cho chàng; chàng ăn uống rất ngon miệng, gần như ngốn ngấu. Trí óc chàng đã mình mẫn hơn, chàng thấy bình tĩnh hơn ba ngày gần đây. Thậm chí chàng còn thoáng lấy làm lạ về những cơn hoảng sợ cuống cuồng trước đây. Cửa mở, và Razumikhin bước vào.
- À ăn đấy hở, thế tức là không ốm!
Razumikhin nói, với lấy chiếc ghế và ngồi vào bàn, đối diện với Raxkonikov. Anh đang lo, và cũng không có ý muốn giấu nỗi lo ấy. Anh nói năng có vẻ bực bội rõ rệt, nhưng nói từ tốn, không cao giọng. Có thể nghĩ rằng anh vừa nẩy ra một ý định gì riêng, một ý định đặc biệt nữa là khác. Anh mở đầu, giọng cả quyết:
- Cậu ạ, mình thì mình kệ xác cả lũ các cậu, nhưng cứ theo những điều hiện nay mình thấy được thì rõ ràng là mình không thể hiểu một tí gì; xin cậu đừng tưởng mình đến đây để cật vẫn cậu, mình nhổ toẹt vào! Mình không cần! Bây giờ dù cậu có thổ lộ hết những chuyện bí mật của các cậu với mình, có lẽ mình còn không thèm nghe nữa là khác, mình sẽ nhổ toẹt một bãi mà bỏ đi. Mình chỉ đến để tự mình nghiệm lại cho thật dứt khoát; trước hết là có thật cậu điên hay không? Đấy cậu cũng thấy; có người tin chắc rằng (ấy, những người ấy là ai thì cậu cũng biết) có lẽ cậu điên hay sắp phát điên đến nơi rồi. Mình thú thật với cậu là chính mình cũng có chiều muốn xiêu về ý kiến nầy khá mạnh, trước hết là căn cứ vào những hành động ngu xuẩn và có phần khả ố của cậu (những hành động ấy không thể nào cắt nghĩa được) và sau nữa là căn cứ vào cách cậu cư xử với mẹ và em cậu gần đây. Nếu không phải, là một thằng điên thì chỉ có một con quai vật, một tên đốn mạt mới có thể xử với họ như cậu; vậy phải kết luận rằng cậu là một thằng điên…
- Cậu gặp họ đã lâu chưa?
- Vừa gặp xong. Thế còn cậu thì không gặp họ từ lúc nào? Cậu lẩn đi đằng nào mà mất mặt thế, cậu thử nói xem mình đến tìm cậu đã ba lần mà không gặp. Mẹ cậu ốm khá nặng từ hôm qua. Bà cụ định đến thăm cậu; Avdotia Romanovna ra sức can ngăn nhưng bà cụ một mực không chịu nghe, cụ bảo: "Nếu nó ốm, nếu nó bị loạn óc, mà mẹ nó không săn sóc nó thì còn ai?" Thế là mình với Avdotia Romanovna, phải đưa bà cụ đến đây, vì không lẽ để mặc bà cụ đi một mình? Suốt dọc đường, mãi cho đến khi vào sát cửa nhà cậu chúng mình cứ van xin bà cụ yên tâm. Vào nhà, chả thấy cậu đâu cả; bà cụ ngồi ở chỗ nầy đây. Bà cụ ngồi như thế đến mười phút, Avdotia Romanovna với mình thì im lặng đứng cạnh. Bà cụ đứng dậy nói: "Nó đi đâu vắng, thế tức là nó vẫn khoẻ; nhưng quên cả mẹ, làm mẹ mà phải đứng ở cửa xin chút tình thương như xin của bố thí thì thật là ngang chướng và đáng hổ thẹn". Bà cụ trở về nhà và nằm xuống giường, bây giờ đang sốt: "Tôi biết nó có thì giờ để đến với người của nó" Ý bà cụ muốn nói "người của nó" đây là Sofia Xemionovna, vị hôn thê hay tình nhân của cậu gì đấy, tớ cũng không biết nữa. Vừa rồi tớ lập tức đến nhà Sofia Xemionovna vì tớ muốn tìm biết cho tường tận, - tớ đến thì thấy một cỗ quan tài đặt ở trong nhà, lũ trẻ thì khóc. Sofia Xemionovna đang ướm thử áo tang cho chúng. Cậu thì chẳng thấy đâu cả. Tớ xem một lúc, xin lỗi rồi ra về, thuật lại sự tình cho Avdotia Romanovna rõ. Thế nghĩa là tất cả những chuyện kia đều nhảm nhí hết, chẳng phải người của cậu gì sốt, đúng hơn cả là cậu điên. Nhưng đến đây thì lại thấy cậu ngồi chén thịt bò ngốn ngấu như thể đã ba ngày không ăn. Cứ cho rằng người điên cũng vẫn ăn như thường, nhưng mặc dầu cậu chưa nói với tớ câu nào, tớ cũng thấy ngay là cậu không điên! Tớ sẵn sàng thề như vậy. Gì thì gì chứ nhất định là không điên. Cho nên ma quỷ bắt tất cả bọn cậu đi cho rảnh, vì ở đây có một điều bí ẩn, một chuyện bí mật gì đây; còn như tớ thì tớ không hơi đâu mà đi vắt óc nghĩ cho ra những chuyện bí mát của các cậu. Cho nên tớ chỉ ghé qua chửi cậu dăm câu, - anh đứng dậy, kết luận - Cho nó hả dạ, còn bây giờ thì tớ biết tớ phải làm gì rồi!
- Thế bây giờ cậu định làm gì?
- Bây giờ tớ định làm gì thì có việc gì đến cậu?
- Xem chừng đấy, rồi cậu sẽ quay ra rượu chè mất thôi!
- Sao… sao cậu lại biết?
- Thôi đi, có gì mà chẳng biết.
Razumikhin lm lặng một lát.
- Cậu xưa nay vẫn là người có trí xét đoán rất tinh và chưa bao giờ, chưa hề điên bao giờ cả, - anh bỗng nói, giọng, nhiệt thành. - Đúng thế đấy: tớ sẽ uống rượu! Thôi, tớ về nhé? - Đoạn anh quay gót đi.
- Đâu hôm kia thì phải, tôi có nói chuyện với em gái tôi về cậu đấy Razumikhin ạ!
- Về tớ! Nhưng mà… hôm kia thì cậu gặp cô ấy ở đâu được? - Razumikhin bỗng dừng phắt lại, thậm chí còn hơi tái mặt đi nữa. Có thể thấy rằng tim anh bắt đầu đập mạnh trong lồng ngực, chầm chậm và căng thẳng.
- Dunia có đến đây, đến một mình, ngồi đây nói chuyện với tôi.
- Dunia?
- Phải, Dunia.
- Thế cậu nói gì… tớ muốn hỏi là cậu nói chuyện gì về tớ?
- Tôi bảo Dunia rằng cậu là một người rất tốt, trung thực và cần cù. Còn như cậu yêu Dunia thì tôi không cần nói ra, vì chính nó cũng biết.
- Chính cô ấy cũng biết?
- Gì mà không biết! Dù tôi có đi đâu, dù tôi có mệnh hệ nào cậu cũng nên ở lại che chở mẹ và em tôi. Tôi "phó thác" hai người lại cho cậu đấy, Razumikhin ạ. Tôi nói như vậy bởi vì tôi biết chắc mười phần là cậu yêu Dunia, tôi tin chắc ở tấm lòng trong sạch của cậu. Tôi lại còn biết rằng nó có thể yêu cậu và hơn nữa, có lẽ nó đã yêu cậu rồi cũng nên. Bây giờ cậu thấy thế nào hơn thì cậu cứ định liệu lấy: có nên rượu chè hay không thì tuỳ cậu đấy.
- - Rodia… cậu ạ… Ấy… Chà, quỷ thật? Thế còn cậu thì định đi đâu? Cậu thấy không, nếu đó toàn là chuyện bí mật cả thì thôi! Nhưng tớ… tớ sẽ biết được điều bí mật ấy… Và tớ tin chắc rằng đó là một chuyện gì hết sức vớ vẩn, nhảm nhí không đâu, chắc chắn như thế, và chỉ do một mình cậu bày đặt ra cả. Nhưng cậu là một người hết sức tốt! Tốt vô cùng!
- Tôi còn muốn nói thêm một điều nữa, nhưng cậu cứ cắt ngang, tôi muốn nói là lúc nãy cậu nghĩ rất phải khi quyết định không tìm biết những chuyện bí mật, những điều bí ẩn ấy. Tạm thời cậu hãy cứ để mặc đấy, đừng bận tâm. Đến lúc rồi cậu sẽ biết hết, biết đúng vào lúc cần biết. Hôm qua có một người nói với tôi là con người cần không khí, cần không khí, không khí! Bây giờ tôi định đến gặp người ấy hỏi xem người ấy nói như vậy có ngụ ý gì.
Razumikhin đứng yên, vẻ trầm ngâm và xúc động như đang suy xét điều gì.
"Cậu ấy có tham gia một âm mưu chính trị gì đây! Chắc chắn như thế! Và chắc là nay mai sắp tiến hành một việc gì quyết liệt - Chắc chắn như thế! Không thể nào khác được, và… cả Dunia cũng biết… - anh bỗng thầm nghĩ.
- Thế ra Avdotia vẫn lui tới nhà cậu, - anh nói, dằn từng chữ - Còn cậu thì đang định gặp một người có nói rằng cần có nhiều không khí hơn, nhiều hơn nữa và có thể nghĩa là bức thư ấy… cũng nằm trong phạm vi nầy, - anh kết luận như tự nhủ một mình.
- Thư nào?
- Cô ấy có nhận được một bức thư, vừa nhận được hôm nay, bức thư làm cô ấy lo lắng lắm. Rất lo lắng. Lo lắng quá đỗi nữa là khác. Tớ quay ra nói đến cậu. Cô ấy liền bảo tớ im. Rồi sau đó… cô ấy bảo có lẽ chỉ nay mai chúng ta sẽ xa nhau, rồi quay ra cảm ơn tớ rất nhiệt thành; sau đó cô ấy về phòng riêng khoá trái cửa lại.
- Nó có nhận được một bức thư à? - Raxkonikov hỏi lại, vẻ trầm ngâm.
- Phải, một bức thư, thế cậu không biết à? Hừm.
Cả hai người im lặng một lát.
- Thôi tớ về, Rodion nhé. Cậu ạ,… đã có lúc tớ, nhưng thôi, tớ về nhé, cậu thấy không, đã có lúc tớ… Thôi tớ về đây? Tớ cũng đang có việc… Tớ sẽ không uống rượu đâu. Bây giờ thì không cần… cậu chỉ nói láo!
Razumikhin hấp tấp ra về; nhưng khi ra khỏi cửa và đã đóng cửa sắp kín lại anh bỗng mở ra nói, mắt nhìn đi nơi khác:
- À nầy? Cậu còn nhớ vụ án mạng ấy chứ, chậc cái lão Porfiri ấy mà. vụ giết mụ già ấy mà? Ấy, thế thì tớ nói cho cậu biết là đã tìm ra tên giết người rồi, hắn đã thú tội và đưa ra đầy đủ bằng chứng. Cậu thử tưởng tượng, đó chính là một trong hai người thợ sơn, cậu nhớ chứ, dạo trước tớ vẫn bênh vực đấy? Cậu có thể tin được không: cả cái vụ đánh nhau, cười đùa ầm ĩ trên thang gác với thằng bạn trong khi người gác cổng với hai nhân chứng lên phòng mụ già, đều là do hắn bày ra để đánh lạc hướng. Cái thằng chó con ấy khôn ngoan mà tinh trí thật! Thật khó mà tin; nhưng chính hẳn giảng giải và thú nhận hết! Dạo trước tớ bị mắc lỡm to! Bây thì thì tớ đã thấy đây chỉ là một thiên tài về thuật vờ vĩnh khôn ngoan, một thiên tài về môn đánh lạc hướng điều tra hình pháp, - Cho nên chẳng có gì đáng lấy làm lạ cho lắm cả! Những người như thế cũng có thể có lắm chứ? Còn như việc hắn không chịu nổi mà phải thú nhận, thì làm như thế tớ lại càng tin hơn nữa. Như thế có lý hơn… Nhưng dạo ấy tớ mắc lỡm to mắc lỡm một cách tệ hại! Tớ đã bốc đồng lên vì hai thằng ấy!
- Cậu thử nói hộ tôi nghe, ai cho cậu biết chuyện ấy và tại sao cậu lại quan tâm đặc biệt như vậy? - Raxkonikov hỏi, vẻ xúc động rõ rệt.
- Lại còn tại sao! Tại sao tớ quan tâm! Thế mà cũng hỏi! Tớ biết chuyện ấy là do Porfiri, và mấy người khác nữa. Nhưng chính hắn cho tớ biết hấu hết mọi chuyện.
- Porfiri ấy à?
- Porfiri.
- Thế hắn… hắn bảo sao? - Raxkonikov hỏi, vẻ hớt hải.
- Hắn cắt nghĩa cho tớ rõ ràng lắm. Cắt nghĩa theo lối riêng của hắn, dùng tâm lý học.
- Hắn cắt nghĩa à? Chính hắn tự cắt nghĩa cho cậu rõ?
- Chính hắn, chính hắn; thôi tớ về đây! Sau nầy tớ sẽ kể rõ thêm, chứ bây giờ tớ đang có việc. Dạo trước… đã có một lúc tớ nghĩ… Nhưng thôi; sau hẵng hay! Bây giờ thì việc gì tớ lại đi rượu chè. Không rượu cậu cũng làm cho tớ say khướt rồi. Tớ say rồi đấy Rodia ạ! Bây giờ thì không rượu tớ cũng say, thôi tớ về nhé, tớ sẽ ghé cậu, chỉ nay mai thôi.
Razumikhin đi ra.
"Đúng cậu ấy có tham gia một âm mưu chính trị rồi, chắc chắn, chắc chắn như thế! - Razumikhin quyết định dứt khoát trong bụng, trong khi thong thả xuống thang gác. - Cậu ta lôi cả em gái vào cuộc nữa; cái đó có lẽ rất thích hợp, rất thích hợp với tính cách của Avdotia Romanovna. Hai anh em vẫn có hẹn hò với nhau… Chính cô ấy cũng có nói xa xôi với mình. Cứ xét những lời lẽ, những câu nói xa gần… bóng gió của cô ấy thì đúng là như thế! Nếu không thì làm thế nào cắt nghĩa được cái mở bòng bong nầy? Hừm! Thế mà mình cứ tưởng… Trời ơi, mình nghĩ ra những chuyện như thế có chết người không chứ! Phải, đó là một ý nghĩ u mê ám chướng, mình thật có lỗi với cậu ấy! Chính cái hôm đứng ở bên ngọn đèn mình đã nảy ra cái ý ấy. Xì! Thật là một ý nghĩ xấu xa, thô bỉ, hèn hạ! Thằng Mikonka thú nhận như vậy là khá lắm… Vả lại tất cả những việc xảy ra trước kia thì bây giờ đã quá rõ! Căn bệnh của cậu ấy, những hành động kỳ quái kia, mà ngay cả dạo trước nữa, dạo còn ở trường đại học ấy, lúc nào cũng thấy cậu ấy lầm lì, cau có lạ lùng… Nhưng bây giờ lại có cái bức thư ấy là thế nào? Chắc cũng có một cái gì đây. Thư của ai gửi thế nhỉ? Mình ngờ là… Hừm. Thôi được, mình sẽ biết tất".
Anh sực nhớ đến Dunia và suy nghĩ đến tất cả những gì có liên quan đến nàng, và thấy tim mình lịm đi. Anh cắm cổ chạy.
Razumikhin vừa ra khỏi thì Raxkonikov đứng dậy: quay ra cửa sổ, húc đầu vào góc nầy góc nọ như thế đã quên bẵng mất kích thước chật hẹp của căn buồng, rồi… lại ngồi xuống đi-văng. Chàng như đã đổi mới hoàn toàn; lại một cuộc đấu tranh - thế nghĩa là lối thoát đã tìm thấy! Phải, thế nghĩa là đã tìm thấy một lối thoát! Chứ không thì mọi việc sẽ bế tắc quá, chàng sẽ bị dồn vào thế bí, chàng sẽ ngạt thở ghê gớm, sẽ u mê đi mất.
Ngay từ dạo gặp Mikonka trong phòng Porfiri chàng đã bắt đầu ngạt thở vì không có lối thoát, vì chật chội.
Sau Mikonka lại đến cuộc nói chuyện ở nhà Sonya, cũng ngay hôm ấy; chàng đã tiến hành và kết thúc cuộc giãi bày hoàn toàn không giống tí nào với cách chàng đã hình dung trước kia… thế nghĩa lả chàng đã suy nhược đi trong chốc lát, suy nhược đến cùng cực rồi! Ngay trong một lúc! Mà hôm ấy chàng cũng đã thú nhận với Sonya, tự chàng thú nhận, chân thành thú nhận rằng chàng không thể mang cái gánh nặng ấy trong lòng một mình mà sống được! Còn Xvidrigailov là cả một bài tính đố… Xvidrigailov khiến chàng lo âu, quả có thế, nhưng hình như không phải về phương diện ấy. Với Xvidrigailov có lẽ cũng sắp phải đấu tranh. Có lẽ Xvidrigailov là cả một lối thoát cũng nên, nhưng Porfiri thì lại là chuyện khác.
Thế là Porfiri tự ý cắt nghĩa cho Razumikhin hiểu, dùng tâm lý học mà cắt nghĩa, hắn lại bắt đầu đưa cái tâm lý học chết tiệt của hắn vào đây rồi! Porfiri à? Nhưng làm sao Porfiri lại có thể tin, dù chí một phút thôi, rằng Mikonka là thủ phạm, sau khi giữa hắn với chàng dạo ấy, trước khi gặp Mikonka, đã diễn ra một cuộc chạm trán mà không có cách giải thích nào có thể cắt nghĩa đúng được, trừ một cách duy nhất (Mấy ngày hôm nay Raxkonikov đã nhiều lần thoáng nhớ lại từng mảng một trong buổi gặp gỡ với Porfiri lần ấy; giá nhớ lại toàn bộ thì chàng sẽ không tài nào chịu nổi). Dạo ấy những câu nói, những cử chỉ, những cái nhìn trao đổi với nhau, giọng nói dùng trong khi đối đáp và nói chung tất cả đã đi đến những mức độ cùng cực, đến nỗi sau đó Mikonka (mà Porfiri đã đoán biết được tỏng tong trong ngay từ lời nói và cử chỉ đầu tiên) Mikonka không thể là người có khả năng làm lung lay tận gốc những định kiến của hắn được.
Thế kia mà! Ngay cả Razumikhin cũng còn bắt đầu nghi ngờ nữa là! Cuộc nói chuyện trong hành lang, bên ngọn đèn, không phải không để lại một dấu vết gì. Thế là cậu ta lao đến tìm Porfiri… Nhưng hắn lòe cậu ta như vậy là để làm gì? Hắn có mục đích gì mà lại lái cho Razumikhin quay sang Mikonka như thế? Vì chắc chắn là hắn cố nghĩ ra một mưu mẹo gì đấy, hắn có những ý định gì đấy, nhưng cụ thể là ý định gì? Quả nhiên từ buổi sáng hôm ấy cho đến nay cũng đã khá lâu, quá lâu nữa là khác, mà Porfiri vẫn im hơi lặng tiếng. Ấy, như thế lại càng nguy hơn…
Raxkonikov cầm lấy mũ lưỡi trai, ngẫm nghĩ một lúc rồi đứng dậy để mở cửa. Trong suốt thời gian ấy, đây là ngày đầu tiên chàng cảm thấy mình ít ra cũng tỉnh trí. "Phải thanh toán với Xvidrigailov mới được - chàng nghĩ, - và dù có thế nào cũng phải thanh toán ngay, càng sớm càng tốt; hình như cái lão nầy cũng đợi mình tự dẫn thân đến thì phải". Và giây phút ấy từ cõi lòng đã mệt mỏi của chàng bỗng trỗi dậy một mối căm thù dữ dội đến nỗi chàng có thể giết ngay Xvidrigailov hay Porfiri. Ít nhất chàng cũng cảm thấy rằng nếu không phải ngay bây giờ, thì sau nầy chàng có thể đủ sức làm việc đó. "Rồi sẽ xem, rồi sẽ xem" - Chàng tự nhủ.
Nhưng chàng vừa mở cánh cửa trông ra phòng ngoài thì bỗng vấp ngay phải đích thân Porfiri. Ông ta đến tìm chàng. Raxkonikov đớ người ra một lát.
Lạ thay, chàng không ngạc nhiên lắm khi trông thấy Porfiri và hầu như không thấy sợ. Chàng chỉ giật mình, nhưng chỉ trong khoảnh khắc chàng đã định thần lại rất nhanh. "Có lẽ đã đến đoạn kết! Nhưng làm sao hắn lại lặng lẽ tới đây như một con mèo, mình chẳng nghe thấy gì cả? Hay hắn đứng rình ở ngoài từ nãy?".
- Chắc anh không ngờ có khách, anh Rodion Romanovich nhỉ, - Porfiri Petrovich cười lớn. - Đã lâu tôi muốn ghé anh, hôm nay nhân đi ngang, tôi nghĩ bụng: tại sao không ghé vào nói chuyện dăm phút. Anh định đi đâu đấy? Tôi sẽ không ngồi lâu đâu. Đây, chỉ hút xong điếu thuốc nầy là tôi về, anh cho phép nhé!
- Nhưng ông ngồi xuống chứ, ông Porfiri Petrovich, mời ông ngồi, - Raxkonikov nói, có vẻ bằng lòng và thân mặt, đến nỗi thật tình chàng cũng sẽ tự lấy làm lạ nếu chàng còn đủ sức tự quan sát. Nỗi lo sợ của chàng trước đấy đã tiêu tan không còn lấy một dấu vết! Đôi khi, bị một tên cướp bắt, người ta có thể sợ cuống cuồng lên trong khoảng nửa giờ, nhưng đến khi tên cướp kề dao vào cổ hẳn hoi thì lại không còn thấy sợ hãi gì nữa. Raxkonikov kéo ghế ngồi ngay trước mặt Porfiri và nhìn thẳng vào y, không hề chớp mắt.
Porfiri nheo nheo đôi mắt và bắt đầu châm thuốc lá hút.
"Nào, nói đi, nói đi kìa, - Câu ấy như chỉ chực buột ra tự đấy lòng Raxkonikov. - Nào, sao thế, sao mãi mày không nói thế hả?".


TỘI ÁC VÀ SỰ TRỪNG PHẠT


Phần VI

Chương 31


- Chà, thuốc với men! - mãi hồi lâu, châm thuốc hút và thở ra một làn khói, Porfiri mới lên tiếng, - Chỉ tổ hại, nhưng tôi không bỏ được. Sinh ho, sinh suyễn ra,:ổ thì rất như cào. Tôi nhát gan lắm anh ạ, hôm qua tôi có đến bác sĩ B, mỗi bệnh nhân lão ta khám đến nữa tiếng là tối thiểu; lão vừa nhìn tôi vừa cười nữa kia, lão gõ gõ, nghe nghe, rồi nói: "Anh đừng hút thuốc nữa thì hơn; phổi anh rạc ra rồi". Ấy, tôi làm thế nào bỏ thuốc được? Tôi biết lấy gì mà thay vào đấy? Tôi không uống rượu, thế mới khổ, hê - hê - hê, tôi không uống rượu mới chết chứ! Vì tất cả đều là tương đối Rodion Romanovich ạ, cái gì cũng tương đối thôi!
"Sao thế nhỉ, hắn lại quay ra dùng cái phương sách cũ hay sao?" - Raxkonikov kinh tởm nghĩ thầm. Đột nhiên chàng sực nhớ lại cả buổi nói chuyện cuối cùng, cách đấy không lâu, giữa hai người, và cái cảm giác hôm ấy lại tràn vào lòng chàng như một đợt sóng.
- Tối hôm kia tôi có ghé anh đấy. Anh không biết à? - Porfiri Petrovich nói tiếp: mắt đảo quanh phòng - Ghé vào phòng nầy đấy, chính gian phòng nầy. Hôm ấy tôi cũng có việc đi qua đây. Tôi tự nhủ:; nào, ta vào thăm anh ấy một chút. Tôi ghé vào thì thấy phòng mở cửa toang hoang; tôi dòm vào phòng, đợi một lát, rồi đi ra, cũng không báo cho người ở của anh biết nữa. Thường anh không đóng cửa à?
Mặt Raxkonikov mỗi lúc một sa sầm xuống. Porfiri như thể đã đoán được ý nghĩ của chàng.
- Tôi đến để giãi bày với anh, anh Rodion Romanovich thân mến ạ, để giãi bày đấy! Tôi cần và có nhiệm vụ phải giãi bày với anh, - Ông ta nói tiếp, miệng mỉm cười, thậm chí còn giơ tay vô khe lên đầu gối Raxkonikov, nhưng hầu như ngay lúc ấy gương mặt ông ta bỗng đâm ra có vẻ nghiêm nghị và ưu tư, thậm chí còn đượm buồn nữa, khiến Raxkonikov rất ngạc nhiên. Chàng chưa bao giờ thấy và cũng không hề ngờ Porfiri có được một vẻ mặt như vậy. - Lần trước giữa anh với tôi đã diễn ra một cuộc nói chuyện thật kỳ lạ. Rodion Rômnovich ạ. Mà có lẽ ngay cuộc gặp mặt đầu tiên giữa chúng ta cũng đã khác thường, nhưng hồi ấy… Thôi, bây giờ thì chuyện ấy đã qua, không nhắc làm gì nữa! Thế nầy đãy: có lẽ tôi rất có lỗi đối với anh; tôi cũng càm thấy thế. Anh còn nhớ chúng ta chia tay nhau thế nào không? Lúc ấy bao nhiêu giây thần kinh của anh đều rung điên lên như dây đàn, gối thì run bần bật, mà tôi cũng thế. Anh ạ, thậm chí còn có thể nói rằng hồi ấy ta cư xử với nhau chẳng ổn tí nào, thật chẳng ra người quân tử. Thế nhưng dù sao chúng ta vẫn là những người quân tử, hay nói cho đúng hơn, dù sao chúng ta chủ yếu vẫn là những người quân tử, cái đó phải hiểu mới được. Anh cũng nhớ đấy, sự thể đi đến nông nỗi thậm chí không còn ra cái thể thống gì nữa là khác.
"Sao hắn lại nói thế nhi, hắn cho mình là người thế nào?" - Raxkonikov kinh ngạc tự hỏi, ngẩng đầu lên và giương to mắt nhìn Porfiri.
- Tôi đã nghĩ lại và thấy rằng bây giờ chúng ta thẳng thắn với nhau thì hơn, - Porfiri Petrovich nói tiếp đầu hơi ngả về phía sau, mắt nhìn xuống, như thể không muốn cho nạn nhân cứ phải bối rối vì cái nhìn của mình, và từ bỏ những thủ đoạn, mưu mẹo đã dùng trước kia - Vâng, những mối ngờ vực và những cuộc tiếp xúc như thế không thể kéo dài mãi được. May mà lần ấy có Mikonka nó giải quyết hộ, chứ không thì tôi cũng không biết sự thể giữa chúng ta còn đi đến đâu. Hôm ấy cái thằng tiểu thủ công chết tiệt ấy ngồi trong phòng tôi, sau bức vách ấy: anh có hình dung được không? Tất nhiên bây giờ anh biết chuyện ấy rồi; vả lại chính tôi cũng biết là về sau hắn có đến anh; nhưng hôm ấy anh có phỏng đoán một điều không đúng tôi không hề cho người đi gọi ai cả và cũng chưa hề ra lệnh gì cả. Chắc anh sẽ hỏi: tại sao tôi lại chưa ra lệnh? Biết nói thế nào với anh đây: chính tôi đầu óc dường như cũng đã rối tinh lên với tất cả những chuyện đó. Chẳng qua tôi chỉ cho gọi mấy người gác cổng lại, thế thôi (chắc khi đi ngang anh cũng có trông thấy mấy người gác cổng), hồi ấy có một ý nghĩ vụt qua óc tôi nhanh như một tia chớp; anh thấy không, hồi ấy tôi đã tin chắc rồi đấy, Rodion Romanovich ạ. Tôi nghĩ: thôi thế cũng được, tuy tạm thời tôi để sống mất cái nầy, nhưng rồi tốt sẽ vớ được cái khác, nhưng ít nhất cái gì đã nắm được rồi thì tôi không để sống đâu. Tính anh dễ khích động lắm Rodion Romanovich ạ, bản chất anh nó thế. Dễ khích động quá mức nữa là khác, đó là một trong những nét căn bản trong tính cách của ạnh, mà tôi có thể hy vọng là đã hiểu thấu được phần nào. Ấy lẽ dĩ nhiên ngay như hồi ấy tôi cũng đã có thể đủ óc suy xét để thấy rằng không phải bao giờ cũng tìm được một người tự đến thổ lộ hết tâm can ra với mình. Tuy đôi khi cũng có người như thế, và nhất là khi đã làm cho người ấy sốt ruột đến mất cả tự chủ, nhưng dù sao cũng hiếm. Không, chính dạo ấy tôi cũng biết thế. Tôi nghĩ: miễn sao có được một bằng chứng nhỏ, rất nhỏ cũng được, một thôi, nhưng phải là một cái gì có thể nắm được trong tay, phải là một bằng chứng cụ thể chứ không phải chỉ có mỗi cái thứ tâm lý học ấy.
Bởi vì, tôi nghĩ, nếu một người đã phạm tội thì dĩ nhiên dù sao cũng có thể chờ đợi ở người đó một cái gì cụ thể; còn có thể trông mong một kết quả hết sức bất ngờ nữa là khác. Hôm ấy tôi trông mong ở tính khí của anh đấy Rodion Romanovich ạ, tôi trông mong ở tính khí của anh nhiều hơn cả! Hôm ấy tôi rất hy vọng ở anh.
Nhưng ông, nhưng sao bây giờ ông cứ nói như thế mãi, - hồi lâu Raxkonikov mới nói lắp bắp, thậm chí cũng không cân nhắc câu hỏi của mình cho lắm.
"Hắn nói cái gì thế, - Chàng bàng hoàng tự hỏi, - Chả nhẽ hắn cho mình là vô tội thật hay sao?".
- Sao tôi lại nói như thế! Tôi đến đây là để phân trần với anh, có thể nói tôi xem đó là một bổn phận thiêng liêng của tôi. Tôi muốn trình bày cho anh rõ hết tất cả những việc đã qua, kể hết ngọn ngành câu chuyện "hiểu lầm" giữa chúng ta. Tôi đã làm cho anh khổ sở rất nhiều, anh Rodion Romanovich ạ. Tôi không phải là một con quái vật. Vì tôi cũng hiểu một người nghèo khổ, nhưng kiêu hãnh, có bản lĩnh và nóng nảy - nhất là nóng nảy - như anh, có thể đau khổ đến nhường nào khi phải chịu đựng tất cả những cái đó? Dù sao tôi cũng coi anh là một người hết sức cao thượng, hơn nữa còn có những nét đại lượng nữa là khác, tuy tôi không phải đã đồng ý với tất cả các quan niệm của anh: điều đó tôi tự thấy có bổn phận nói thẳng từ trước, một cách hoàn toàn thành thực, vì trước hết tôi không muốn lừa dối. Khi mới được biết anh, tôi đã thấy có cảm tình với anh. Tôi nói thế chắc anh nghĩ mà buồn cười lắm nhỉ? Anh có quyền cười. Tôi biết rằng ngay khi nhác trông thấy tôi, anh đã không ưa gì tôi, vì thật ra cũng chẳng có gì đáng ưa cả. Nhưng anh muốn nghĩ thế nào thì nghĩ, chứ về phần tôi thì bây giờ tôi muốn dùng đủ mọi cách để xoá bỏ ấn tượng cũ và chứng tỏ rằng tôi là người có tình cảm và có lương tâm. Tôi xin thành thật mà nói như vậy.
Porfiri Petrovich ngừng lại một lát, vẻ trang trọng. Raxkonikov chợt thấy một nỗi kinh hãi mới mẻ tràn vào lòng. Nghĩ rằng Porfiri coi mình là người vô tội, chàng bỗng bắt đầu thấy sợ.
- Tuần tự kế hết cho anh rõ những việc đó đột nhiên khởi đầu ra sao thì chắc không cần - Porfiri Petrovich nói tiếp, - thậm chí tôi thiết tưởng làm như vậy là thừa nữa. Mà tôi cũng khó lòng kể hết được. Bởi vì biết làm thế nào trình bày cho cặn kẽ được? Thoạt tiên có những tiếng đồn. Những tiếng đồn ấy ra sao, do ai đưa đến tai tôi và vào lúc nào… và vì đâu mà chính anh lại đây vào đây - những cái đó tôi nghĩ cùng thừa nốt. Riêng về phần tôi thì sự việc bắt đầu từ một chuyện tình cờ, chỉ từ một chuyện tình cờ hoàn toàn, chuyện nầy rất có thể xảy ra mà cũng rất có thể không xảy ra, chuyện gì thế? Hừm, tôi nghĩ cũng chẳng có gì cân phải nói. Dạo ấy trong đầu óc tôi tất cả những thứ đó, những tiếng đồn và những chuyện ngẫu nhiên ấy, khớp lại thành một ý nghĩ duy nhất. Tôi cũng xin thành thực thú nhận, vì đã thú nhận thì phải thú nhận cho hết, dạo ấy chính tôi tấn công anh trước đấy. Những chữ của mụ già ghi trên các đồ cầm chẳng hạn, và vân vân, vân vân, đều là những chuyện vặt. Những cái như thế thì có thể kế hàng trăm. Dạo ấy tôi cũng có dịp biết được chuyện xảy ra ở vẫn phòng quận cảnh sát, cũng là một cách tình cờ, không phải vì vô tình nghe ai nói, mà do một nhân vật đặc biệt, một nhân vật trọng yếu, kể lại. Người ấy đã thấm nhuần việc nầy một cách sâu sắc lạ lùng mà tự mình lại không biết. Tất cả những chuyện đó đều làm thành một cái vòng lẩn quấn, một vòng lẩn quần, anh Rodion Romanovich thân mến ạ! Và ở đây làm sao cho khỏi quay đầu về một hướng nhất định? Một trăm con thỏ không bao giờ thành một con ngựa, một trăm mối ngờ vực không bao giờ thành một bằng chứng. Ấy có một câu tục ngữ Anh nói như thế đấy, và nói như thế là khôn ngoan không gì bằng, nhưng hãy cứ thử kiềm chế dục vọng mà xem, dục vọng ấy; vì làm dự thẩm thì cũng vẫn là một con người. Đến đây tôi lại nhớ tới cái bài báo nhỏ của anh, đăng trong tờ tạp chí ấy, anh nhớ chứ, ngay hôm đầu tiên anh đến gặp tôi, chúng ta đã bàn khá kỹ đấy. Lần ấy tôi có trêu tức anh, nhưng là để gợi cho anh đi xa hơn nữa. Xin nhắc lại, anh nóng nảy và ốm yếu lắm, Rodion Romanovich ạ. Anh lại táo bạo, kiêu hãnh, thâm trầm và đã xúc cảm, xúc cảm rất nhiều: những cái đó thì tôi đã biết từ lâu. Tất cả những cảm giác ấy tôi đều có biết, và khi đọc bài báo của anh, tôi cảm thấy như đọc một cái gì quen thuộc. Nó đã hình thành trong những đêm không ngủ, khi tim anh trỗi dậy đập thình thình trong một tâm trạng say sưa cuồng nhiệt, mà anh phải cố trấn áp. Ở những người trẻ tuổi, lòng cuồng nhiệt đầy kiêu hãnh bị trấn áp như vậy rất nguy hiểm. Dạo ấy tôi trêu anh, còn bây giờ thì tôi xin nói rằng nhìn chung tôi rất thích bài báo ấy, nghĩa là thích trên quan điểm tài tử; đó là lần thử bút đầu tiên của một người trẻ tuổi, nhiệt thành. Khói ảo, sương mù, một sợi tơ đồng rung lên lanh lảnh trong sương khói. Bài báo của anh kỳ quặc và vô lý, nhưng trong đó cũng thoáng thấy lòng chân thành, một niềm kiêu hãnh trẻ trung, bất khuất, một sự táo bạo của kẻ cùng đường; bài ấy mù mờ lắm, và như thế là tốt. Tôi đã đọc qua bài của anh, nhưng tôi đã gác nó lại. "Ấy, một con người như thế nầy không thể chỉ dừng lại ở đây!" Đấy, bây giờ anh thử nói tôi nghe, sau những việc như thế thì làm sao cho khỏi bị lôi cuốn vào những việc kế theo? Ồ, trời ơi? Thì tôi có dám nói gì đâu? Bây giờ đây tôi có khẳng định gì đâu? Lúc ấy tôi chỉ nhận xét. Tôi nghĩ: cái gì thế nầy nhỉ? Chẳng có gì hết, đúng là chẳng có gì, và có lẽ tuyệt nhiên không có gì hết. Cho nên tôi bị lôi cuốn vào đấy kể cũng thật ngang chướng: tôi đã có sẵn Mikonka trong tay, mà lại có sự kiện hẳn hỏi nữa, muốn nói gì thì nói, chứ đó vẫn là những sự kiện! Và hắn cũng có những điểm đáng chú ý về tâm lý, cần phải quan tâm đến hắn; vì vấn đề ở đây là vấn đề sống chết. Bây giờ tôi phân trần những việc ấy với anh để làm gì? Để cho anh biết và để khối óc cũng như con tim của anh đừng buộc tội tôi là dạo ấy đã hành động một cách tàn ác. Không tàn ác đâu, tôi xin thành thật nói như vậy, hê - hê! Anh tưởng sao: dạo ấy tôi không soát nhà anh phỏng? Có chứ, có đấy anh ạ, hê - hê, có soát đấy trong khi anh đang ốm nằm liệt giường. Không phải soát chính thức, và không phải tôi thân hành đến soát nhưng có soát đấy. Chúng tôi đã xem xét phòng anh đến tận chân tơ kẽ tóc, ngay từ khi mới chớm có ý nghi ngờ; nhưng - umsonst (1)! Tôi nghĩ: bây giờ con người ấy sẽ đến, sẽ tự đến, chỉ nay mai thôi; nếu là thủ phạm thì thế nào cũng sẽ đến. Và anh có nhớ ông Razumikhin đã ba hoa với anh những gì không? Đó là do chúng tôi bố trí để làm cho anh khích động, chúng tôi cố ý phao tin ra để cho Razumikhin nói lại với anh: mà cậu ấy thì lại là người không thể kiềm chế được lòng căm phẫn. Thoạt tiên cơn phẫn nộ và sự táo bạo ngang nhiên của anh đập ngay vào mắt ông Zamiotov: ấy, tự dưng đang ngồi trong quán rượu lại quát tướng lên: "Chính tôi giết!" Quá táo bạo đấy, quá xấc xược: tôi mới nghĩ: nếu chính anh là thủ phạm, thì anh quả là một đối thủ đáng sợ! Dạo ấy tôi nghĩ như thế đấy. Tôi bèn chờ đợi. Tôi ra sức chờ đợi anh, còn Zamiotov thì lúc ấy đã bị anh áp đảo, và… chính vấn đề là ở cái tâm lý hai mặt ấy cả đấy! Ấy, thế là tôi đợi anh, và quả nhiên Chúa đã tựa tôi: anh đến! Trống ngực tôi cứ đánh thình thình. Chà! Dạo ấy sao anh lại đến làm gì? Tiếng cười ấy, tiếng cười của anh khi bước vào nhà, anh còn nhớ chứ, lúc ấy tôi đã đoán được hết như nhìn qua một lớp kính trong suốt, và ví thử tôi không chờ anh một cách đặc biệt như vậy thì tôi đã chẳng nhận thấy gì trong tiếng cười của anh đâu. Tinh thần đã được chuẩn bị sẵn là như thế đấy. Và hôm ấy cái ông Razumikhin à? Còn tảng đá kia nữa, anh có nhớ không, táng đá mà ở phía dưới anh giấu các thứ ấy mà? Ấy, tôi cứ có cảm giác như thể đang trông thấy trước mắt, trong một vườn rau nào đấy - vì anh có nói với Zamiotov, rồi lần thứ hai lại nói ở nhà tôi, là anh giấu trong một mảnh vườn rau phải không? Ấy thế là chúng tôi đâm đầu vào phân tích bài báo của anh, rồi đến khi anh trình bày, mỗi tiếng anh nói ra nghe cứ như có hai nghĩa, tưởng chừng như có một ý gì nấp ở bên dưới! Thế đấy, anh Rodion Romanovich, tôi cứ thế đi mãi đến những cột trụ cuối cùng, rồi cụng trán vào đấy và sực tỉnh. Tôi tự nhủ: mình làm gì thế nầy! Vì nếu muốn thì tất cả những thứ đó, tôi bảo thế, cho chỉ những nét nhỏ nhặt nhất, đều có thể cắt nghĩa theo hướng khác, mà như thế lại có vẻ tự nhiên hơn nữa. Thật là một cực hình! "Không, tôi nghĩ bụng, giá có được một bằng chứng nhỏ thì hơn! "Rồi đến khi nghe nói chuyện anh đến giật chuông, tôi cứ lặng người đi, thậm chí còn run bắn lên nữa. "À, tôi nghĩ bụng, cái bằng chứng nhỏ ấy đây rồi! Chính nó đây?" Vả chăng lúc ấy tôi cũng không suy xét gì nữa, tôi không muốn, chỉ có thể thôi. Giây phút ấy tôi sẵn sàng vung ra một nghìn rúp tiền riêng nếu có thể được tận mắt nhìn anh khi anh đi sóng đôi với cái lão tiểu thủ công ấy hàng trăm bước, sau khi lão nói thẳng vào mặt anh: "quân giết người!", đi suốt một trăm bước như thế mà không dám hỏi lại… Thế còn cái cảm giác lạnh buốt trong tuỷ xương sống nữa. Chuyện cái chuông ấy, trong khi đang ốm, nửa mê nữa tỉnh? Ấy thế, Rodion Romanovich ạ, thế thì những trò đùa của tôi dạo ấy có gì đáng cho anh lấy làm lạ? Mà tại sao anh lại đến đúng vào lúc ấy? Dường như cũng có ai xui khiến anh ấy, thật đấy, và ví thử lúc ấy không có Mikonka xen vào thì… thế anh còn nhớ Mikonka hôm ấy chứ? Anh nhớ rõ chứ? Thật là một tiếng sét ngang tai! Chính là một lưỡi tầm sét từ trên trời giáng xuống! Thế rồi tôi đón tiếng sét ấy ra sao? Tôi không tin lấy một mảy may, chính anh cũng thấy đấy! Biết thế nào được. Sau đấy, anh đi rồi, hắn trả lời nhiều điểm rất có lý, đến nỗi tôi cũng phải lấy làm lạ, thế nhưng tôi cũng không hề tin lấy một chữ! Có một định kiến vững như bàn thạch là thế đấy? Tôi nghĩ bụng: không phải đâu, xin lỗi! Mikonka thì có dính dáng gì vào đấy?
- Vừa rồi Razumikhin có nói với tôi rằng đến bây giờ ông cũng vẫn buộc tội cho Mikonka và chính ông đã quả quyết với Razumikhin như thế…
Chàng thấy nghẹt thở, không nói được hết câu. Nãy giờ, lòng hồi hộp không sao tả xiết, chàng lắng nghe người đã soi thấu vào ruột gan chàng nay đang từ bỏ những ý nghĩ của chính bản thân. Chàng không dám tin, và không tin. Trong những lời lẽ hãy còn lập lờ của Porfiri, chàng háo hức tìm kiếm để bắt cho được một cái gì chính xác hơn, dứt khoát hơn.
- Cái ông Razumikhin ấy nữa! - Porfiri Petrovich reo lên, như thể vui mừng vì câu hỏi của Raxkonikov nãy giờ vẫn im lặng, - Hê - hê - hê… Cái ông Razumikhin ấy thì phải gạt ra xa: hai người là đủ, người thứ ba đừng có xen vào! Razumikhin thì khác hẳn, đó lại là một người ngoài cuộc, cậu ta chạy đến tìm tôi, mặt tái mét… Thôi, kệ cậu ta, đừng lôi vào đấy làm gì! Còn về Mikonka thì anh có muốn biết bản chất nó thế nào không, nghĩa là theo như tôi quan niệm ấy? Trước hết hắn còn là một đứa trẻ vị thành niên, không hắn là một thằng nhát, chỉ thế thôi, như kiểu một nghệ sĩ nào đấy. Thật đấy, tôi nói về hắn như vậy anh đừng cười. Hắn là người có tâm hồn, có một trí tưởng tượng rốt phóng túng. Hắn biết hát, biết nhảy, biết kể chuyện, nghe nói hắn kể chuyện hay đến nỗi người ở nơi khác cũng kéo đến nghe. Hắn có đi học, tính hắn hay cười: động một tí hắn đã cười ngặt nghẽo: hắn uống rượu cho kỳ say mê man, không phải vì trác táng, chẳng qua nhân dịp có ai phục rượu cho hắn, uống như trẻ con ấy. Dạo ấy hắn ăn cắp mà cũng không biết là mình ăn cắp; vì "nhặt dưới đất thì sao lại bảo là ăn cắp?" Thế anh có biết hắn thuộc một dòng biệt giáo không? Cũng không hẳn là biệt giáo, mà chỉ là một giáo phái thôi; trong họ hắn đã có những người đi hành hương, và cách đây ít lâu khi còn ở trong làng hắn đã được một vị thánh lão(2) chỉ giáo cho trong hai năm liền. Tôi biết được những điều đó là do Mikonka và những người đồng hương của hắn ở Zaraixk cho biết. Lại thế nầy nữa chứ hắn muốn trốn vào sa mạc ở! Hắn mộ đạo lắm, đêm đêm vẫn cầu nguyện chúa, thường đọc các sách cổ, sách "chân chính", đọc đến mụ người ra. Petersbung đã có tác dụng rất mạnh đối với hắn, nhất là nữ giới, rồi thì rượu chè nữa. Hắn rất dễ chịu ảnh hưởng, thế là hắn quên mất vị thánh lão, quên hết. Tôi được biết là có một hoạ sĩ ở đây rất mến hắn, ít lâu nay đã bắt đầu lui tới nhà hắn, nhưng bỗng lại xảy ra vụ nầy? Ấy thế là hắn đâm cuống, toan treo cổ tự tử! Đi trốn! Trong dân gian họ quan niệm về pháp lý của ta như thế thì biết làm thế nào? Có người nghe nói hai tiếng "xử án" là đã sợ hết vía rồi. Lỗi tại ai? Đó là một vấn đề mà các toà án mới phải giải đáp. Ồ? Chỉ cần Chúa ban cho họ cái khả năng ấy? Thế rồi đến khi vào tù, hình như hắn nhớ lại vị thánh lão đức độ kia, nhớ lại Kinh thánh.
Anh Rodion Romanovich ạ, anh có biết trong bọn hắn có những kẻ quan niệm mấy chữ "đau khổ" như thế nào không" "đau khổ" đây không phải là để hy sinh cho anh, mà chỉ vì "cần phải đau khổ" thôi; thế nghĩa là phải nhận lấy đau khổ, và nếu nhận từ tay nhà chức trách, thì lại càng phải cam tâm. Dạo trước tôi có biết một tù nhân rất hiền lành suốt năm ngồi trong ngục đọc Kinh thánh bên ánh lửa lò sưởi, đọc mãi đâm ra loạn cả óc anh ạ. Thế rồi một hôm hắn bỗng dưng cạy một viên gạch ném vào viên cai ngục, tuy viên cai ngục chẳng hề xúc phạm đến hắn. Nhưng thế nầy mới lạ: hắn cố ý ném chệch đi vài tấc để đừng trúng phải viên cái ngục! Ấy, anh cũng thừa biết một tù nhân dùng khí giới đánh lại nhà chức trách thì sẽ kết liễu như thế nào: hắn "chịu đau khổ" đấy. Thế cho nên bây giờ tôi cũng nghi là Mikonka muốn "chịu đau khổ" hay một cái gì tương tự như thế. Cái đó tôi biết chắc, còn có cả bằng chứng hẳn hỏi nữa. Chỉ có điều hắn không biết là tôi biết. Sao, anh không tin là trong đám người ấy có thể có những kẻ điên rồ như thế à? Thường vẫn có luôn ấy. Bây giờ ông thánh lão lại bắt đầu có tác dụng, nhất là sau khi thắt cô lại càng nhớ. Vả chăng, hắn sẽ tự đến kể hết cho tôi nghe thôi. Anh tưởng hắn chịu đựng được à? Rồi mà xem, hắn sẽ lại phản cũng thôi. Hàng giờ một tôi đợi hắn đến cái chính những lời cũng khai trước đây. Tôi đã đem lòng yêu mến cái thằng Mikonka ấy, và tôi đang khảo sát hắn rất kỹ. Không biết ý anh thế nào nhỉ? Hê - hê… Có những điểm hắn trả lời tôi rất rành mạch, chắc hắn đã biết thêm được những tài liệu cần thiết. Hắn chuẩn bị rất khéo; nhưng có những điểm khác thì thật như sa xuống bùn, hắn không biết lấy một tí gì, không biết gì hết, mà cũng không ngờ là mình không biết nữa? Không đâu, anh Rodion Romanovich ạ, ở đây không phải Mikonka! Đây là một cái gì huyền hoặc, đen tối, một cái gì hiện đại, một trường hợp của thời đại ta, thời đại mà lòng người đã bị vẩn đục, thời đại mà người ta thường nhắc đến câu "máu làm cho người ta mát dạ", thời đại mà tiện nghi được coi như cứu cánh duy nhất của cả cuộc đời. Ở đây có những mơ ước sách vở, ở đây có một quả tim đã bị lý thuyết kích thích; ở đây có thể thấy một quyết tâm bước cái bước đầu tiên, nhưng là một loại quyết tâm đặc biệt, - người đó quyết định hành động, nhưng lại cứ như thể đâm đầu từ trên núi xuống hay gieo mình từ trên một tháp chuông, đi làm tội ác mà chân cứ như thể không phải chân mình nữa. Vào nhà thì quên đóng cửa lại, giết người, giết hai người một lúc, theo lý thuyết Giết người, nhưng rồi cũng không biết cách lấy tiền, vớ được cái gì thì lại đem giấu dưới một tảng đá. Người ấy khổ sở ghê gớm biết chừng nào khi đứng sau cánh cửa trong khi người ta đang đập cửa và giật chuông, rồi về sau, khi căn nhà đã bỏ trống, trong khi đang dở mê dở tỉnh, người ấy lại đến để nhớ lại tiếng chuông, đến vì lại thấy cần cái cảm giác lạnh buốt sau sống lưng… Thì cứ cho rằng người đó đang ốm, thế nhưng lại thế nầy nữa: giết người, nhưng lại coi mình là người lương thiện, coi khinh thiên hạ, làm ra vẻ một vị thiên thần sầu muộn. Không. Mikonka không dính dáng đến vụ nầy, anh Rodion Romanovich thân mến ạ, không phải Mikonka!
Sau tất cả những điều đã nói, nghe giống như những lời đính chính, mấy câu sau cùng nầy thật quá đột ngột. Toàn thân Raxkonikov run bắn lên như bị đâm xuyên qua người.
- Thế thì… ai… ai giết? - Chàng buột mồm hỏi, giọng ngắc ngứ. Porfiri Petrovich vụt ngả người vào lưng tửa ghế đi-văng, như thế quá kinh ngạc vì câu hỏi bất ngờ đó
- Ai giết ư? - Ông ta nhắc lại, như thể không dám tin ở tai mình nữa, - Thì anh giết chứ ai, Rodion Romanovich? Chính anh giết đấy… - Ông ta thì thào nói thêm, giọng hoàn toàn quả quyết.
Raxkonikov chồm dậy, đứng yên một vài giây rồi lại ngồi xuống, không nói một lời. Những thớ thịt trên khắp mặt chàng cứ giật lên từng đợt nhỏ lăn tăn.
- Môi lại run lên như lần trước rồi đấy, - Porfiri Petrovich lẩm bẩm, giọng nghe như có vẻ thương xót. Y im lặng một lát rồi nói tiếp: - Anh Rodion Romanovich ạ hình như anh hiểu chưa đúng ý tôi, cho nên anh mới ngạc nhiên như thế. Tôi đến đây chính là để nói cho hết và thanh toán việc nầy một cách thẳng thắn.
- Không phải tôi giết, - Raxkonikov nói khẽ, như những đứa trẻ nhỏ khi bị bắt quả tang.
- Không, chính anh giết đấy, Rodion Romanovich ạ, chính anh chứ không còn ai vào đây nữa hết, - Porfiri thì thầm, vẻ nghiêm khắc và quả quyết.
Hai người im lặng đến mươi phút, một khoảng im lặng kéo dài đến mức kỳ dị. Raxkonikov chống khuỷu tay lên bàn và lặng lẽ đưa mấy ngón tay lên vò tóc.
Porfiri diềm tĩnh ngồi yên, chờ đợi. Bỗng Raxkonikov đưa mắt khinh bỉ nhìn Porfiri.
- Ông lại giở cái lối cũ ra rồi, ông Porfiri Petrovich ạ! Lại những thủ đoạn ấy, sao mãi ông không biết chán?
- Chà thôi, bây giờ tôi còn thiết gì đến thủ đoạn. Ví thử ở đây có những nhân chứng thì lại là chuyện khác đằng nầy chỉ có anh với tôi rỉ tai cho nhau nghe. Chính anh cũng thấy đấy, tôi đến anh không phải để lùng bắt anh như lùng bắt một con thỏ. Anh có nhận hay không thì giờ phút nầy đối với tôi cũng thế thôi. Chỉ riêng một mình tôi với thâm tâm tôi, không cần đến anh, tôi cũng đã biết chắc.
- Nếu thế thì anh đến đây làm gì? - Raxkonikov bực dọc hỏi. - Tôi xin hỏi lại một câu đã cũ: nếu ông cho tôi là thủ phạm, tại sao ông không tống giam tôi đi?
- Câu hỏi đến là ngộ! Xin trả lời từng điểm một: thứ nhất, trực tiếp hạ lệnh bắt anh, tôi chẳng có lợi gì hết.
- Không có lợi! Ông đã tin chắc như thế, thì tất phải…
- Chà, tôi tin chắc thì đã sao? Tất cả những cái đó tạm thời vẫn chỉ là những ý nghĩ riêng của tôi thôi. Mà việc gì tôi lại đưa anh vào yên nghỉ trong ấy? Chính anh cũng biết thế, cho nên anh mới yêu cầu. Nói giả dụ tôi đưa anh ra đối chứng với lão tiểu thủ công kia, và anh nói với lão: "Bác say sao? Có ai trông thấy tôi đi với bác? Lúc ấy chẳng qua tôi cho bác 1à một gã say rượu, mà quả tình bác cũng say rượu thật", - Ấy nếu thế thì tôi biết nói gì với anh, hơn nữa là lời của anh có vẻ có lý hơn lời của lão ấy, vì trong những điều lão khai chỉ có mặt tâm lý mà thôi, - mặt mũi như thế mà lại đi nói chuyện tâm lý thì thật khó nghe - Còn anh thì anh đánh trúng ngay vào điểm nút: vì cái lão khốn kiếp ấy vốn rượu chè be bét, ai cũng biết. Mà bản thân tôi cũng đã mấy lần thú thật với anh rằng cái tâm lý học ấy có hai mặt, và mặt thứ hai là có phần có lý hơn, còn như ngoài cái đó ra thì tôi chưa có gì để buộc tội anh cả. Và nếu mặc dầu như vậy tôi vẫn cứ cho bắt anh và tôi đến đây (trái với thủ tục thường lệ) để báo cho anh biết trước, thì tôi vẫn xin nói thẳng với anh (cũng trái với thủ tục) rằng làm như vậy không có lợi cho tôi. Ấy đấy còn điểm thứ hai là tôi đến anh vì…
- Sao, thứ hai là… - Raxkonikov vẫn còn thở hổn hển.
- Là vì, như lúc nãy tôi đã nói, tôi tự thấy có bổn phận phân trần với anh. Tôi không muốn anh cho tôi là đồ quái vật hơn nữa là vì tôi thành thật có thiện cảm với anh, anh có tin hay không thì tuỳ. Thứ ba, là do đó, tôi đến anh để trực tiếp và thẳng thắn đề nghị với anh ra tự thú. Như vậy sẽ có lợi cho anh hơn không biết bao nhiêu mà kể, mà cũng có lợi cho tôi hơn, vì tôi sẽ trút được một gánh nặng. Sao, anh thấy tôi làm như vậy có thẳng thắn hay không?
Raxkonikov ngẫm nghĩ một lát:
- Ông Porfiri Petrovich ạ, chính ông cũng nói, chỉ có những tài liệu tâm lý học thôi, nhưng ông lại đi vào toán học. Thế nếu ngay bây giờ đây ông cũng nhầm thì sao?
- Không Rodion Romanovich ạ, tôi không nhầm. Tôi có một bằng chứng. Dạo ấy tôi đã tìm được bằng chứng đó: nhờ Trời gửi cho.
- Bằng chứng gì?
- Tôi sẽ không nói cho anh biết đâu: anh Rodion Romanovich ạ. Mà dù sao bây giờ tôi cũng không có quyền trì hoàn nữa; tôi sẽ cho bắt anh. Thế thì anh suy xét đi; bây giờ đối với tôi đằng nào cũng thế thôi, cho nên tôi nói là nói cho anh. Thật đấy, Rodion Romanovich ạ, như thế tốt hơn.
Raxkonikov cười gằn, vẻ hằn học:
- Thế thì không những buồn cười, mà lại còn trơ trẽn nữa. Ấy, cho dù tôi có là thủ phạm chăng nữa (điều nầy tôi không hề thừa nhận) thì việc gì tôi lại đến tự thú với các ông, trong khi chính ông cũng nói rằng vào đấy tôi sẽ được yên nghỉ?
- Chao ôi, anh Rodion Romanovich ạ, anh đừng hiểu sát từng chữ quá: có thể chẳng yên nghỉ chút nào đâu! Vì đây chỉ là một lý thuyết, mà lại là một lý thuyết riêng của tôi, thứ hỏi tôi thì có uy quyền gì đối với anh? Có lẽ ngay bây giờ đây tôi cũng đang giấu giếm anh một điều gì đấy. Vì chả nhẽ tôi lại cứ mang ra phô bày hết với anh, hê - hê! Vấn đề thứ hai: có lợi gì? Thế anh có biết làm như vậy anh sẽ được giảm tội như thế nào không? Nếu anh ra đầu thú đúng vào lúc nầy? Chỉ xin anh suy nghĩ một chút mà xem Đúng vào lúc một kẻ khác đã đứng ra nhận tội và làm rối tung cả lên. Còn về phần tôi, tôi xin lấy danh Chúa mà thề rằng tôi sẽ thu xếp, xoay xớ "ở đằng ấy" thế nào cho việc anh ra thú có vẻ như hoàn toàn bất ngờ. Chúng ta sẽ thủ tiêu hết cái "tâm lý học" kia đi, tôi sẽ biến tất cả những mối ngờ vực đối với anh thành con số không, thành thử tội ác của anh sẽ được xem như do một trạng thái mê muội của trí tuệ mà ra, vì thật tình mà nói, nó chính là do trạng thái mê muội mà ra đấy. Tôi là một người trung thực, Rodion Romanovich ạ, và tôi sẽ giữ lời hứa!
Raxkonikov buồn rầu lặng thinh và cúi đầu; chàng suy nghĩ hồi lâu, rồi cuối cùng lại mỉm cười, nhưng nụ cười của chàng bây giờ đã dịu dàng và buồn bã:
- Chà thôi, không cần! - Chàng thốt lên, như thể không muốn giấu giếm gì Porfiri nữa. - Không việc gì phải thế! Tôi không cần các anh giảm tội chút nào!
- Ấy chính đó là điều tôi vẫn sợ! - Porfiri nói tiếp giọng sôi nổi và như thể bất giác buột mồm. - Chính là tôi vẫn sợ anh không cần đến sự khoan nhượng của chúng tôi!
Raxkonikov buồn rầu và nghiêm nghị nhìn Porfiri.
- Đừng anh ạ, anh chớ khinh rẻ cuộc sống! - Porfiri nói tiếp - nó hãy còn dài lắm. Sao lại không cần giảm tội, sao lại không cần! Anh thật nóng nảy!
- Cái gì hãy còn dài?
- Cuộc sống! Anh là cái thứ tiên tri gì, phỏng anh biết được bao nhiêu? Anh hãy tìm, rồi anh sẽ thấy. Có lẽ Thượng đế đã đợi anh ở bước ngoặt nầy. Vả lại cũng không phải xiềng xích suốt đời kia mà…
- Sẽ giảm tội… - Raxkonikov bật cười.
- Thế sao, hay là anh bị một cảm giác xấu hổ của hạng trưởng giả giữ lại? Có lẽ anh thấy xấu hổ như thế thật mà không biết, vì anh còn trẻ lắm? Thế nhưng người như anh lẽ ra không nên sợ sệt hay xấu hổ khi ra tự thú mới phải?
- Chà - à! Tôi nhổ toẹt vào! - Raxkonikov thều thào, vẻ khinh bỉ và ghê tởm, như thể không buồn nói nữa. Chàng lại nhổm dậy như muốn đi đâu, nhưng rồi lại ngồi xuống, vẻ tuyệt vọng rõ rệt.
- Anh nhổ toẹt vào à! Anh đã mất tin tưởng và tưởng đâu tôi phỉnh phờ anh một cách thô lậu; nhưng anh đã sống được bao lâu? Phỏng anh hiểu được bao lắm? Anh nghĩ ra một học thuyết, rồi thấy nó tan vỡ anh đâm xấu hổ vì rốt cục thật chẳng độc đáo chút nào! Rốt cục chỉ thành một việc hèn hạ, quả có thế, nhưng anh vẫn chưa phải là một kẻ hèn hạ đến thế! Ít nhất, anh cũng không bới óc suy nghĩ gì lâu, anh lập tức đi đến những hành động cực đoan. Anh biết tôi coi anh là người như thế nào không? Tôi cho rằng anh là một trong những kẻ mà dù người ta có moi từng khúc ruột ra vẫn mỉm cười đứng nhìn bọn đao phủ, miễn là tìm được một niềm tin hay một thượng đế. Ấy, rồi anh sẽ tìm thấy, và anh sẽ sống. Trước hết, đã từ lâu anh cần phải thay đổi không khí. Kể ra đau khổ cũng là một điều tốt Anh hãy đau khổ đi một chút. Có lẽ Mikonka cũng có lý khi hắn muốn đi tìm đau khổ. Tôi biết anh không có đức tin, nhưng anh cũng đừng triết lý nhiều quả làm gì; anh hãy tự phó thác hẳn cho cuộc sống, không suy xét; anh đừng lo, nó sẽ đưa anh dạt vào bờ và sẽ nâng anh đứng dậy. Vào bờ nào? Sao tôi lại biết? Tôi chỉ tin rằng anh còn có thể sống được. Tôi biết rằng bây giờ anh nghe tôi nói như nghe một bài thuyết giáo đọc thuộc lòng; nhưng có thể sau nầy anh sẽ nhớ lại, và có lúc nó sẽ có ích cho anh; chính vì thế tôi mới nói. Anh chỉ giết một mụ già, như thế còn may đấy. Chứ nếu anh nghĩ ra một thuyết nào khác nữa thì có lẽ còn làm một việc quái gở gấp trăm triệu lần! Có lẽ cũng nên tạ ơn Thượng đế; anh biết thế nào được: có lẽ Thượng đế còn che chở cho anh để sau nầy anh làm một việc gì đấy. Anh phải có một tâm hồn rộng lớn và phải bớt sợ sệt đi. Phải chăng anh thấy khiếp hãi khi đứng trước việc lớn phải làm? Không, ở đây mà khiếp sợ thì xấu hổ lắm. Anh đã đi một bước như vậy thì phải vững tâm lên. Đây là vấn đề công bằng. Anh hãy làm đúng những điều mà lẽ công bằng đòi hỏi. Tôi biết rằng anh không tin, nhưng tôi cam đoan là cuộc sống sẽ chiếm phần thắng. Sau nầy rồi anh sẽ yêu mến nó. Bây giờ thì anh chỉ cần không khí, không khí, không khí!
Raxkonikov giật mình.
- Nhưng ông là ai thế hở - Chàng quát lên, - Ông là cái thứ tiên tri gì? Ông đứng trên những đỉnh cao thâm nghiêm, tĩnh mịch nào để ban bố cho tôi những lời sấm truyền như vậy?
- Tôi là ai ư? Tôi là một người bỏ đi, không hơn không kém. Có lẽ cũng là một người biết cảm xúc, biết thương xót, có lẽ cũng hiểu biết ít nhiều, nhưng vẫn là người hoàn toàn bỏ đi. Còn anh thì khác: Thượng đế đã chuẩn bị cho anh một cuộc sống (và biết đâu đấy, tất cả những chuyện đó sẽ tiêu tan như mây khói trong lòng anh, không còn để lại một chút gì). Ấy, bây giờ anh chuyển thành một loại người khác, thì đã sao? Với một tâm hồn như anh, chả nhẽ anh lại đi tiếc rẻ cuộc sống tiện nghi? Cho là anh sẽ cách biết mọi người một thời gian dài đi nữa, không ai trông thấy, thì anh có cần gì? Vấn đề không phải là thời gian, vấn đề là chính bản thân anh. Anh hãy trở thành một mặt trời, rồi mọi người sẽ trông thấy anh. Muốn làm mặt trời thì trước hết phải là mặt trời. Sao anh lại mỉm cười: chắc anh buồn cười vì thấy một người như tôi mà lại lên cái giọng Schiller chứ gì? Tôi xin đánh cuộc là anh cho rằng bây giờ tôi vẫn tìm cách phỉnh anh! Ấy, có lẽ tôi phỉnh anh thật cũng nên, hê - hê - hê? Rodion Romanovich ạ có lẽ anh đừng quá tin vào những lời tôi nói, thậm chí cũng đừng bao giờ tin lấy một chữ nào, bản chất tôi nó như thế, tôi xin thừa nhận; chỉ xin nói thêm điều nầy: tôi là người gian giảo hay là người trung thực thì có lẽ bản thân anh có thể phân định lấy.
- Bao giờ ông định bắt tôi?
- Tôi có thể để cho anh đi dạo chơi một ngày rưỡi hoặc hai ngày nữa. Anh suy nghĩ đi một chút, anh bạn ạ, anh cầu nguyện Chúa đi một chút. Như thế sẽ có lợi hơn, thật đấy, có lợi hơn.
- Thế nếu tôi trốn thì sao? - Raxkonikov hỏi, môi mỉm một nụ cười kỳ dị.
- Không, anh không trốn đâu. Một gã mu-gích có thể trốn, một gã theo một giáo phái thời thượng có thể trốn; đó là một kẻ đi nhai lại ý nghĩ của người ta, chỉ cần giơ ngón tay ra cho hắn xem, là suốt đời hắn sẽ tin bắt cứ điều gì anh muốn! Còn như anh thì anh không còn tin vào cái thuyết của mình nữa rồi, thế thì anh trốn đi với cái gì. Trốn tránh như thế thì được cái gì? Sống trốn tránh rất khó khăn và cực nhục, mà anh thì trước hết cần có cuộc sống và một vị trí nhất định, một bầu không khi của mình mà trong cuộc sống ấy thì làm sao có được một bầu không khi của anh? Anh có trốn đi rồi cũng sẽ quay trở lại thôi. Anh không thể thiếu chúng tôi được. Còn nếu tôi giam anh vào ngục thì chỉ một tháng, hai tháng, cho là ba tháng đi, anh sẽ sực nhớ đến những lời tôi nói, rồi anh sẽ tự mình ra thú nhận mà có lẽ chính anh cũng không ngờ nữa. Trước đấy một giờ anh cũng chưa biết là mình sẽ ra thú. Tôi lại còn tin chắc rằng anh sẽ nghĩ đến chuyện "chịu đau khổ"; bây giờ thì anh không tin lời tôi, nhưng rồi anh sẽ đi đến chỗ đó. Vì đau khổ là một việc lớn lao, anh Rodion Romanovich ạ; anh đừng thấy tôi béo ra vì cuộc sống sung túc mà cười, tôi biết lắm, trong đau khổ có cả một lý tưởng. Mikonka nghĩ đúng. Không, anh không trốn đấu, Rodion Romanovich ạ.
Raxkonikov đứng dậy cầm lấy mũ. Porfiri Petrovich cũng đứng dậy.
- Anh sắp đi chơi à? Tối nay trời tốt đấy, miễn là đừng có giông. Vả chẳng có giông mà lại hơn, cho nó mát trời ra. - Porfiri cũng cầm lấy mũ.
- Ông Porfiri Petrovich ạ, - Raxkonikov dằn mạnh từng tiếng, vẻ nghiêm nghị, - Ông đừng có tưởng là vừa rồi tốt đã thú nhận với ông. Ông là một người kỳ quặc, và tôi có nghe ông nói cũng chỉ vì hiếu kỳ mà thôi. Còn thì tôi chưa hề thú nhận với ông điều gì cả… Ông nhớ lấy.
- Được thì tôi xin nhớ, xem kìa: lại còn run nữa. Anh cứ yên chí, anh bạn ạ; tôi sẽ chiều theo ý anh. Anh đi dạo đi một lát; nhưng cũng không nên đi chơi nhiều quá. Tôi còn có một điều muốn yêu cầu anh, phòng khi có xảy chuyện gì bất trắc, - Ông ta hạ giọng nói thêm, - đây là một điều tế nhị, mà rất quan trọng: nếu, nhỡ may (cái nầy thì tôi cũng không tin và tôi nghĩ anh không thể làm như vậy được), nếu nhỡ ra trong khoảng bốn năm mươi tiếng đồng hồ sắp tới anh có nảy ra cái ý kết liễu vụ nầy một cách khác, một cách quái gở nào đấy, như tự sát chẳng hạn (một giả định rất vô lý, xin anh bỏ qua cho) thì xin anh để lại một mảnh giấy viết vắn tắt nhưng rõ ràng. Đấy, hai giòng chữ, chỉ hai giòng ngắn ngủi thôi, anh nên nhắc luôn cả tảng đá kia nữa: như thế cao thượng hơn. Thôi chào anh… Chúc anh có những ý tưởng tốt lành, khởi đầu may mắn!
Porfiri đi ra, người hơi lom khom và dường như tránh nhìn Raxkonikov. Raxkonikov ra cửa sổ, sốt ruột và bực bội chờ cho Porfiri có đủ thì giờ ra phố và đi được một quãng xa xa. Đoạn chàng cũng hấp tấp ra khỏi phòng.

Chú thích:
(1) Vô hiệu (tiếng Đức)
(2) Xtarext một bô lão được xem là bậc thánh hiền.



TỘI ÁC VÀ SỰ TRỪNG PHẠT


Phần VI

Chương 32


Chàng vội vã đến nhà Xvidrigailov. Chàng có thể hy vọng những gì ở con người nầy thì chính chàng cũng không biết. Nhưng trong con người ấy dường như ẩn náu một quyền lực nào đấy đối với chàng. Một khi đã nhận thức được điều đó, chàng không sao yên tâm được nữa, và hơn nữa bây giờ lại đã đến lúc cần phải gặp hắn.
Dọc đường, có một vấn đề khiến chàng băn khoăn khổ sở: Xvidrigailov đã gặp Porfiri chưa?
Cứ theo những điều chàng biết được thì chưa, chàng sẵn sàng thề như thế? Chàng suy nghĩ thêm, suy nghĩ nữa, ôn lại suốt buổi nói chuyện vừa rồi với Porfiri, và kết luận: không, hắn chưa gặp, chắc chắn là chưa! Nhưng nếu chưa gặp, thì liệu sau nầy hắn có đến tìm Porfiri hay không?
Hiện nay thì chàng có cảm tưởng là hắn sẽ không đến. Tại sao? Chàng cũng không thể cắt nghĩa được điều đó nhưng dù chàng có đủ sức cắt nghĩa đi nữa, thì bây giờ chàng cũng chẳng hơi đâu mà bới óc nghĩ cho ra. Tất nhiên những vấn đề đó giầy vò chàng rất dữ, nhưng đồng thời chàng dường như lại không thèm nghĩ đến. Thật lạ lùng, và có lẽ chẳng có ai tin như vậy, nhưng kỳ thật lúc bấy giờ chàng dường như dửng dưng, không lo nghĩ gì mấy đến cái số phận hiện đang chờ chàng. Chàng đang khổ tâm lo nghĩ đến cái gì khác quan trọng hơn nhiều, một cái gì phi thường, có liên quan đến bản thân chàng chứ không phải ai khác, một cái gì trọng yếu. Thêm vào đấy chàng lại thấy tinh thần mệt mỏi vô cùng, tuy sáng nay trí óc của chàng làm việc khá hơn mấy ngày trước.
Nhưng bây giờ đây, sau tất cả những sự việc đã xảy ra, liệu có cần phải hoài công cố gắng vượt qua những khó khăn tẹp nhẹp nầy nữa không? Chẳng hạn có cần phải mưu mẹo làm sao cho Xvidrigailov đừng đến gặp Porfiri không? Ai lại đi nghiên cứu, tìm hiểu tình hình, mất thì giờ vì một thằng cha Xvidrigailov nào đó? Ồ, chàng đã chán ngấy những chuyện ấy rồi!
Thế nhưng chàng vẫn vội vàng đến nhà Xvidrigailov; phải chăng chàng đang mong đợi ở lão ta một cái gì mới, những lời chỉ bảo, một lối thoát nào đó? Người ta vẫn sẵn sàng bám lấy một cọng rơm mà? Chẳng phải định mệnh, chẳng phải bản năng đã làm cho chàng với lão ta gần nhau đó sau? Có lẽ chỉ vì mệt mỏi, tuyệt vọng; có lẽ cần có một người nào khác kia, chứ không phải Xvidrigailov, chẳng qua vì tình cờ mà gặp phải Xvidrigailov thôi. Sonya? Ờ, tại sao bây giờ chàng lại đến nhà Sonya nhỉ? Lại đến xin mấy giọt nước mắt của nàng à? Vả lại chàng cũng thấy sợ Sonya lắm. Sonya chính là một lời tuyên án quyết liệt, một quyết định không thể nào thay đổi được. Ở đây chỉ có cách chọn lấy con đường của Sonya hay con đường của chàng. Nhất là trong giờ phút nầy chàng không đủ sức gặp nàng được. Không, có lẽ đến thử thách Xvidrigailov mà lại hơn; xem thử hắn là cái gì? Và trong thâm tâm chàng không thể không thú nhận rằng từ lâu chàng dường như đã bắt đầu cần đến hắn.
Ấy thế nhưng giữa chàng với Xvidrigailov phỏng có gì giống nhau? Ngay cả tội lỗi của hai người cũng không thể giống nhau được. Hơn nữa con người ấy lại rất khả ố, rõ ràng là truỵ lạc dâm ô đến cùng cực, chắc chắn là xảo quyệt, dối trá, và có lẽ rất độc ác. Cứ nghe những chuyện người ta kể về hắn cũng đủ biết. Quả tình hắn có lo cho con cái bà Katerina Ivanovna thật; nhưng có ai biết hắn làm như vậy để làm gì và việc đó có ý nghĩa gì? Con người ấy lúc nào cũng âm mưu, trù tính đủ chuyện.
Trong suốt mấy ngày hôm ấy còn có một ý nghĩ luôn luôn ám ảnh Raxkonikov khiến chàng đứng ngồi không yên, tuy chàng cũng đã cố xua đuổi nó đi vì nó làm cho chàng khổ tâm quá. Đôi khi chàng nghĩ: mấy hôm trước Xvidrigailov cứ luẩn quẩn quanh chàng, mà bây giờ hắn cũng còn đang luẩn quẩn như thế; Xvidrigailov đã biết được điều bí mật của chàng; Xvidrigailov đã từng có những âm mưu nhằm hại Dunia. Thế nếu bây giờ hắn vẫn có thì sao? Hầu như chắc chắn có thể nói là có. Bây giờ hắn đã nắm được điều bí mật của chàng và như thế là đã có được một quyền lực đối với chàng: thế nếu hắn muốn dùng cái quyền lực đó làm một vũ khí để hại Dunia thì sao?
Ý nghĩ ấy thỉnh thoảng, ngay trong giấc ngủ, lại đến giầy vò chàng, nhưng bây giờ là lần đầu tiên nó hiện lên trong ý thức một cách rõ rệt như vậy, trong khi chàng đi đến nhà Xvidrigailov. Chỉ riêng một ý nghĩ ấy thôi cũng đã đủ làm cho chàng hầm hầm tức giận. Trước hết là nếu vậy thì mọi việc sẽ thay đổi, ngay cả tình cảnh của chàng cũng thế, cần phải lập tức cho Dunia biết điều bí mật đó. Có lẽ nên đi tự thú, để cho Dunia khỏi làm một việc gì bất cẩn. Lại còn bức thư nữa? Sáng hôm nay Dunia vừa nhận được một bức thư gì đấy ở Petersbung liệu có ai có thể gửi thư cho nàng? Lugin chăng? Quả tình đằng ấy đã có Razumikhin canh giữ; nhưng Razunmikhin chăng? Nghĩ đến đấy Raxkonikov bỗng thấy kinh tởm.
Dù sao cũng cần gặp Xvidrigailov càng sớm càng tốt chàng quyết định dứt khoát như vậy. May quá, ở đây chi tiết không cần thiết bằng thực chất của vấn đề; nhưng nếu hắn có thể… hễ Xvidrigailov âm mưu một việc gì nhằm hại Dunia, thì… suốt thời gian ấy, suốt tháng vừa qua, Raxkonikov đã mệt mỏi đến nỗi bây giờ chàng không còn đủ sức giải quyết những vấn đề chi tiết bằng cách nào khác hơn là đưa ra một quyết định độc nhất: "nếu thế ta sẽ giết hắn", - Chàng lãnh đạm nghĩ thầm trong cơn tuyệt vọng. Một cảm giác nặng nề trĩu lên tim chàng; chàng dừng chân ở chính giữa phố và đưa mắt nhìn quanh: chàng đang đi theo đường nào và đây là nơi nào? Chàng đang đứng trên đại lộ X. cách Chợ hàng Rơm mà chàng vừa đi qua khoảng ba bốn chục bước. Tất cả tầng thứ hai của ngồi nhà bên trái đều dành cho một tiệm rượu.
Bao nhiêu cửa sổ đều mở toang; cứ trông những bóng người thấp thoáng sau các khung cửa cũng biết là tiệm rượu đang chật ních những khách. Từ trong tiệm đưa ra những tiếng hát chen lẫn với tiếng kèn cra-ri-nét và tiếng vĩ cầm lanh lảnh, tiếng trống Thổ thì thùm.
Có thể nghe cả những giọng đàn bà rú the thé. Chàng ngỡ ngàng không hiểu sao mình lại rẽ vào phố nầy, và đã toan quay trở lại, thì bỗng trong một khung cửa sổ mở toang ở cuối tiệm rượu chàng chợt trông thấy Xvidrigailov ngồi bên một chiếc bàn trà, ngay sát cửa sổ mồm ngậm tẩu thuốc. Điều đó khiến Raxkonikov kinh ngạc đến nỗi phát hoảng lên.
Xvidrigailov lặng lẽ quan sát và theo dõi chàng, và có một điều lập tức đập mạnh vào mắt Raxkonikov, là lão ta hình như đang muốn đứng dậy để lẻn đi nơi khác, cố sao cho chàng khỏi trông thấy. Raxkonikov lập tức làm ra vẻ như mình cũng không trông thấy Xvidrigailov và đang mải nhìn sang hướng khác, nhưng vẫn không ngừng quan sát Xvidrigailov bằng khóe mắt.
Tim chàng đập rối loạn. Đúng thế thật: Xvidrigailov rõ ràng là không muốn cho người ta trông thấy mình. Hắn rút tẩu ra khỏi mồm, và đã toan lẩn đi; nhưng khi đứng dậy và đẩy ghế ra, hình như hắn bỗng nhán thấy Raxkonikov có trông thấy hắn và đang theo dõi hắn. Giữa hai người diễn ra một cái gì giống như trong buổi gặp gỡ đầu tiên ở nhà Raxkonikov, khi chàng đang ngủ. Một nụ cười tinh quái hiện lên trên gương mặt Xvidrigailov và mỗi lúc một nhoẻn rộng ra.
Raxkonikov cũng như Xvidrigailov đều biết rằng hai người đã trông thấy nhau và đang quan sát nhau. Cuối cùng, Xvidrigailov lớn tiếng cười ha hả.
- Nào, nào. Mời cậu vào đây cho vui; tôi đây! - hắn đứng bên cửa sổ quát xuống.
Raxkonikov leo lên gác tiệm.
Chàng tìm thấy Xvidrigailov trong một căn phòng sau rất nhỏ chỉ có một cửa sổ, ăn thông với gian phòng lớn có bày hai chục cái bàn con, nơi những người lái buôn, công chức và cả một lũ người ô hợp ngồi uống trà trong tiếng hát của một tốp ca đang đồng thanh rống thục mạng. Cũng từ phòng ấy vẳng ra tiếng lạch cạch của những hòn bi-a chạm vào nhau trên các bàn bi-a. Trên chiếc bàn con ở trước mặt Xvidrigailov có đặt một chai sâm-banh đã uống dở và một cái cốc lưng.
Trong phòng còn có một thằng bé hát rong đeo một chiếc phong cầm quay nhỏ và một cô gái khỏe mạnh, tuổi trạc mười tám, má đỏ, mặc chiếc váy sọc xắn gấu lên, đầu đội chiếc mũ ty-rôn có đính dai lụa. Bất chấp tiếng đồng ca từ phòng bên đưa sang, cô ta vẫn hát, cất cái giọng nữ trầm hơi rè hát một bài ca của hạng bồi bếp theo tiếng đệm của chiếc phong cầm quay:
- Thôi ủứ rồi! - Xvidrigailov cắt ngang khi thấy Raxkonikov vào.
Người con gái ngừng bặt và lm lặng kính cẩn chờ đợi. Vừa rồi cô ta hát cái bài thô tục ấy cũng với một vẻ mặt nghiêm trang và cũng kính như vậy.
- Ê, Philip, lấy cốc! - Xvidrigailov quát.
- Tôi không uống rượu đâu. - Raxkonikov nói.
- Tuỳ cậu, tôi gọi lấy cốc không phải để mời cậu.
- Uống đi Katia! Hôm nay chỉ thế thôi, không cần làm gì nữa đâu, đi đi! - hắn rót cho cô gái một cốc rượu đầy và đưa ra một tờ giấy bạc nhỏ màu vàng. Katia uống cốc rượu một hơi như đàn bà thường uống, nghĩa là môi không rời cốc, uống thành hai mươi ngụm, cầm lấy tờ giấy bạc, hôn bàn tay của Xvidrigailov giơ ra cho cô ta một cách khá trang trọng, và bước ra khỏi phòng. Thằng bé đeo phong cầm quay cũng lê gót ra theo. Cả hai đều được gọi ở ngoài phố vào. Xvidrigailov sống ở Petersbung chưa được một tuần lễ, thế mà xung quanh hắn như đã hình thành một không khí gia tộc, trong đó hắn là gia trưởng, Philip, anh hầu bàn trong quán rượu cũng đã là "người quen thân" và cứ xun xuê quanh hắn. Cánh cửa dẫn sang phòng bên đã đóng lại; trong căn phòng nầy, Xvidrigailov Raxkonikov cứ như ở nhà mình, và có lẽ hắn vẫn thường ngồi ở đây hết ngày nầy sang ngày khác. Tiệm rượu nầy vốn bẩn thỉu, uế tạp và thậm chí không phải thuộc hạng trung bình.
- Tôi đang định lại đằng nhà tìm ông, - Raxkonikov mở đầu, - nhưng không hiểu tại sao vừa rồi, đi qua Chợ hàng Rơm tôi bỗng rẽ vào phố nầy! Tôi chưa bao giờ đi vào phố nầy, thường thì đi qua chợ Hàng Rơm, tôi lẽ sang phải kia. Vả lại đến nhà ông không thể đi lối nầy. Thế mà tôi vừa rẽ vào đây đã gặp ngay. Lạ thật!
- Sao cậu không nói thẳng ra là: thần kỳ?
- Vì có lẽ đây chỉ là sự tình cờ.
- Đầu óc những ngưởì đây đến là ngộ nghĩnh - Xvidrigailov cười xoà. - dù trong bụng có tin là có phép thần kỳ, thì bề ngoài cũng không chịu nhận! Ấy chính cậu cùng nói "có lẽ" chỉ là sự tình cờ. Còn như ở đây họ sợ có một y kiến riêng đến mức nào thì cậu không tưởng tượng được đâu, Rodion Romanovich ạ! Đay tôi không nói cậu. Cậu thì cậu có ý kiến riêng và không hề sợ mình có ý kiến riêng. Chính vì thế mà cậu thu hút trí tò mò của tôi.
- Chỉ vì thế thôi à?
- Mà chỉ thế thôi cùng đủ.
Xvidrigailov rõ ràng đang ở trong một tâm trạng phấn khích, nhưng chỉ chút đỉnh thôi; hắn chỉ mới uống có nữa cốc rượu.
- Tôi thấy hinh như ông đến gặp tôi trước khi ông biết là tôi có thể có được cái mà ông gọi là ý kiến riêng đó thì phải? - Raxkonikov nói.
- À dạo ấy thì khác. Môi người có một đường đi nước bước riêng. Còn về phép thần thông thì xin nói với cậu rằng hai ba ngày gần đây hình như cậu mê ngủ thì phải? Chính tôi chỉ cho cậu cái tiệm nầy, và cậu đến đây không hề có gì là thần kỳ hết; chính tôi chỉ vẽ cho cậu từ đầu chí cuối muốn đến đây phải đi qua những lối nào, mô tả cả chỗ dọn quán rượu, lại lẫn cả những giờ có thể gặp tôi ở đây. Cậu nhớ chứ?
- Tôi quên rồi, - Raxkonikov đáp rất ngạc nhiên.
- Tôi tin là cậu quên thật. Tôi đã nói với cậu đến hai lần. Địa chỉ tiệm nầy đã in vào ký ức của cậu một cách máy móc. Cậu đã rẽ vào đây như một cái máy, thế nhưng vẫn đúng phoóc địa chỉ, tuy chính cậu cũng không biết. Còn tôi thì khi dặn dò cậu tôi cũng không hy vọng là cậu hiểu. Cậu ít sức tự chủ lắm, Rodion Romanovich ạ. Có cái nầy nữa: tôi tin chắc rằng ở Petersbung có lắm kẻ vừa đi vừa nói chuyện một mình. Đây là một thành phố của những người dở điên dở dại. Ví thứ ở nước ta cớ một nền khoa học, thì các nhà y học, luật học và triết học có thể tiến hành những cuộc nghiên cứu rất quý giá về Petersburg, mỗi ngành khảo sát một mặt. Hiếm có nơi nào có những anh hưởng đen tối, sắc cạnh, kỳ dị đối với tâm hồn con người như Petersburg. Chỉ riêng những ảnh hưởng khí hậu thôi cũng đã lắm chuyện rồi! Đồng thời đây lại là trung tâm hành chính của cả nước Nga, cho nên tính chất của nó tất phải được phản ánh ở khắp nơi Nhưng vấn đề bây giờ không phải ở chỗ đó, mà là ở chỗ tôi đã mấy lần đứng ở bên ngoài quan sát cậu. Mới ra khỏi nhà, cậu hãy còn ngẩng thẳng đầu lên. Đi được vài chục bước cậu đã cúi đầu xuống, hai tay chắp sau lưng. Cậu nhìn thì nhìn, nhưng rõ ràng là chẳng trông thấy gì ở trước mặt hay ở hai bên. Cuối cùng môi cậu bắt đầu lắp bắp nói một mình, thỉnh thoảng cậu lại gỡ tay ra, vừa nói vừa hoa lên rồi cuối cùng cậu dừng lại ở chính giữa đường một hồi lâu. Như vậy không tốt tí nào. Có lẽ ngoài tôi ra còn có người khác để ý như thế, và như vậy chẳng có lợi chút nào. Đôi với tôi thì thật ra cũng chẳng có nghĩa lý gì, tôi không chữa cho cậu khỏi được đâu, nhưng tất nhiên cậu cũng hiểu tôi đấy.
- Thế ông biết người ta đang theo dõi tôi à? - Raxkonikov hỏi, mắt nhìn hắn soi mói.
Không, tôi có biết gì đâu, - Xvidrigailov đáp, vẻ như ngạc nhiên.
- Thế thì thôi, cứ để mặc tôi, - Raxkonikov cau mày lẩm bẩm.
- Thì thôi, cứ để mặc cậu vậy.
- Tốt hơn là ông hãy nói cho tôi biết tại sao ông thường đến đây uống rượu và đã hai lần chỉ vẽ cho tôi đến đây gặp ông, mà đến khi tôi đứng ngoài phố nhìn vào cửa sổ thì ông lại muốn lẩn trốn đi? Tôi để ý thấy rất rõ như vậy.
- Hê! Hê! Thế tại sao khi tôi đứng ở ngưỡng cửa phòng cậu, cậu lại nhắm mắt nằm trên ghế sofa và giả vờ ngủ, trong khi cậu chẳng ngủ một tí nào? Tôi để ý thấy rất rõ như vậy.
- Lúc ấy tôi có thể có những… lý do… chính ông cũng biết đấy.
- Thì tôi cũng thế, tôi cũng có thể có những lý do riêng, mặc dầu cậu không thể biết được.
Raxkonikov chống khuỷu tay phải lên bàn, tựa cằm lên năm ngón tay phải và chăm chú nhìn Xvidrigailov. Suốt một phút đồng hồ chàng quan sát khuôn mặt hắn, khuôn mặt trước đây vẫn đập mạnh vào mắt chàng. Đó là một khuôn mặt kỳ dị, trông giống như cái mặt nạ: da trắng hồng, môi đỏ chót, bộ râu cằm màu vàng nhạt, bộ tóc vàng hãy còn khá rậm. Đôi mắt không hiểu sao trông quá xanh. Và cái nhìn dường như quá nặng nề và bất động. Có một cái gì khó chịu lạ lùng trong khuôn mặt tuấn tú vẻ trông trẻ hơn tuổi nhiều ấy. Xvidrigailov ăn mặc bảnh bao, đặc biệt trau chuốt các thứ đồ lót dưới bộ y phục mỏng mùa hè. Ngón tay hắn đeo một chiếc nhẫn to tướng giắt một viên ngọc đắt tiền.
- Chả nhẽ tôi lại còn phải rầy rà vì ông nữa hay sao, - Raxkonikov bỗng nói, sốt ruột hối hả đi thẳng vào đề - Mặc dầu ông có thể là một người hết sức nguy hiểm, nếu ông muốn hại ai, nhưng tôi không muốn cứ thắc mắc mãi thế nầy nữa. Tôi sẽ cho ông thấy ngay rằng tôi không quý cái thân mình cho lắm như ông có thể tưởng. Ông nên biết rằng tôi đến đây để nói thẳng cho ông rõ là nếu ông vẫn giữ ý định trước đây đối với em gái tôi và nếu ông định lợi dụng những điều đã phát hiện được gần đây, thì tôi sẽ giết ông, trước khi ông có đủ thì giờ cho tôi vào ngục. Tôi đã nói là làm, ông cũng biết tôi có thể giữ được lời hứa đó. Thứ hai là nếu ông muốn nói với tôi điều gì, - vì suốt thời gian gần đây tôi cứ có cảm tưởng như ông muốn nói điều gì với tôi - thì ông hãy nói ngay đi, vì thì giờ rất quý và có lẽ chẳng bao lâu nữa sẽ muộn mất.
- Nhưng cậu đi đâu mà vội thế! - Xvidrigailov hỏi, mắt tò mò nhìn chàng.
- Mỗi người có một đường đi nước bước riêng, - Raxkonikov sốt ruột nói, vẻ mặt hầm hầm.
- Vừa rồi chính cậu yêu cầu nói chuyện thẳng thắn, thế mà tôi mới hỏi một câu cậu đã không chịu trả lời. Xvidrigailov mỉm cười nhận xét - Cậu lúc nào cũng có cảm tưởng là tôi có những mục đich gì đấy, cho nên cậu cứ nhìn tôi với đôi mắt ngờ vực. Thôi được, ở vào đia vị cậu thì cái đó cùng rất dễ hiểu. Nhưng mặc dầu tôi hết sức muốn kết thân với cậu, tôi cùng chẳng hơi đâu mà đi cải chính điều cậu vẫn ngờ cho tôi. Thật tình cùng chẳng cần, mà tôi cũng không hề có ý định nói với cậu một cái gì đặc biệt cho làm cả.
- Thế tại sao dạo nọ ông lại cần đến tôi như vậy? Dạo ấy ông vẫn xun xoe quanh tôi kia mà?
- Thì chẳng qua cũng vì muốn quan sát một nhân vật thú vị. Cái tình cảnh quái đản của cậu làm tôi thú quá - thế đấy? Hơn nữa cậu lại là anh ruột một người mà tôi rất quan tâm, và cuối cùng là trước kia tôi luôn được nghe người ta nói về cậu rất nhiều chuyện, do đó tôi kết luận rằng cậu rất có ảnh hưởng đối với người đó; thế chưa đủ hay sao? Hê - hê - hế! Tuy nhiên cũng xin thú nhận rằng câu hỏi của cậu cũng rất phức tạp đối với tôi, và tôi thấy khó trả lời cho cậu rõ. Ấy đấy, chẳng hạn thế nầy nhé, cậu đến gặp tôi bây giờ không hắn là vì công việc, mà là vì một cái gì mới xảy ra, phải không nào? Phải không nào? - Xvidrigailov hỏi dồn, môi mỉm một nụ cười ranh mãnh, - Ấy, đã thế thì cậu hãy tưởng tượng rằng chính tôi khi ngồi xe hoả lên đây tôi cũng đã trông mong ở cậu, hy vọng rằng cậu cùng sẽ nói một cái gì mơi mới, và tôi sẽ vay mượn được của cậu một cái gì! Ấy, những kẻ giàu có như chúng ta là thế đấy!
- Vay mượn cái gì?
- Biết nói thế nào đây? Nào tôi cũng có biết là muốn gì? Cậu thấy đấy, tôi cứ ngồi suốt ngày trong cái tiệm rượu khô nầy, và tôi lấy thế làm thú, cũng chẳng phải thú lắm đâu, nhưng dù sao cũng cần có một chỗ nào mà ngồi. Đấy cứ lấy cái con bé Katia khốn khổ kia cậu trông thấy rồi chứ? Ấy, giá tôi là một tay "dĩ thực vi tiên", một tay sành ăn ở câu lạc bó cho cam… đằng nầy tôi có thể ăn những thứ như thế kia kìa! - Lão giơ ngón tay chỉ một cái bàn con ở góc phòng, trên có một, cái đĩa sắt tây đựng một miếng bíp-tết khoai rán ăn dở, nom rất tởm - À tiện thế… cậu đã xơi bữa chiều chưa? Tôi chỉ ăn có một miếng, giờ không muốn ăn nữa. Như rượu chẳng hạn, thì tôi không uống. Ngoài sâm-banh ra tôi chẳng uống gì hết, mà ngay cả sâm-banh nữa suốt buổi tối tôi chỉ uống có một cốc, thế cũng đã nhức đầu rồi. Bây giờ sở dĩ tôi bảo dọn rượu là để lấy sức vì tôi sắp đến một nơi nầy. Cho nên cậu thấy tâm trạng tôi lúc nầy khá đặc biệt. Lúc nãy tôi lẩn trốn như một thằng học sinh là vì tôi sợ cậu làm phiền tôi; nhưng hình như (lão rút đồng hồ ra xem) tôi có thể ngồi với cậu đến một giờ nữa; bây giờ mới bốn rưỡi. Cậu có tin được không? Giá tôi được làm một cái gì: làm trang chủ, làm bố, làm kỵ binh, làm thợ ảnh, làm nhà báo gì cũng được… Nhưng tôi chả làm gì, chẳng có lấy một nghề chuyên môn gì! Đôi khi cũng chán. Quả tình tôi cứ nghĩ rằng cậu sẽ nói với tôi một điều gì mới.
- Nhưng ông là ai và tại sao lại đến đây làm gì?
- Tôi là ai ư? Cậu cũng biết đấy: là một người quý phái, đã tòng ngũ hai năm trong một đơn vị kỵ binh, tôi sống lang thang ở Petersburg, rồi lấy bà Marfa Petrovna và về ở thôn quê. Đấy, tiểu sử của tôi là như thế đấy!
- Hình như ông hay đánh bạc?
- Không, đánh bạc gì tôi ấy! Làm nghề cờ ạc bịp không phải là đánh bạc.
- Thế ông đã từng là một tay cờ bạc bịp?
- Vâng, cờ bạc bịp.
- Thế sao, có bị đánh không?
- Cũng đôi khi. Thế thì sao?
- Ấy thế tức là ông cũng có thể thách đấu súng… mà nói chung như thế cũng đỡ té.
- Tôi xin miễn bác lại, vả chăng tôi cũng không phải là tay giỏi triết lý. Xin thú thật tôi lên đây là vì đàn bà nhiều hơn.
- Ông vừa mới chôn cất xong bà Marfa Petrovna?
- Chính thế, - Xvidrigailov mỉm cười hả hê, trâng tráo. - Thế cậu nghĩ sao? Hình như cậu cho rằng tôi nói về đàn bà như vậy có gì xấu thì phải?
- Nghĩa là ông muốn hỏi, theo tôi thì dâm ô có phải là xấu không chứ gì?
- Dâm ô? Ra cậu muốn đi đến đấy! Tuy vậy tôi cũng xin trả lời tuần tự về đàn bà nói chung; cậu ạ, tôi đang đã muốn nói chuyện phiếm. Cậu thử nghĩ xem, như tôi thì còn kiêng nhịn để làm gì? Tại sao lại phải xa đàn bà, một khi tôi rất thích món ấy ít nhất đó cũng là một công việc.
- Thế ra ông lên đây chỉ để mà dâm ô?
- Thôi cũng được, thì dâm ô cũng được. Cứ cho là dâm ô? Ít nhất đó cũng là một câu hỏi thẳng thắn, tôi thích thế. Trong cái dâm ô ấy ít nhất cùng có một cái gì trường tồn, hơn nữa còn có cơ sở tự nhiên và không bị trí tưởng tượng huyễn hoặc chi phối, đó là một cái gì như một hòn than đỏ ở trong máu luôn luôn thiêu đốt người ta, và không dễ gì mà tưới cho tắt đi được nếu chưa đến một tuổi nào đó. Cậu cũng nên thừa nhận rằng đó cũng là một thứ công việc chứ?
- Có gì đáng cho ông mừng đâu? Đó là một căn bệnh, và là một căn bệnh nguy hiểm.
- À ra cậu muốn đi đến đấy? Thì cứ cho đó là một căn bệnh, cũng như tất cả những gì quá mức - mà ở ấy thì nhất thiết phải vượt qua mức bình thường - nhưng trước hết là ở mỗi người nó một khác, và thứ đến là dĩ nhiên cái gì cũng phải có chừng mực, đó là một lối tính toán khá ti tiện, nhưng biết làm thế nào? Nếu không thế thì có lẽ đến phải bắn vào đầu mà tự sát. Tôi xin thừa nhận rằng một người tử tế nhất định phải chán, nhưng dù sao…
Thế liệu ông có thể tự sát được không?
- Đấy đấy… - Xvidrigailov đáp, có ý khó chịu, - Xin cậu làm ơn đừng nói đến chuyện ấy - hắn vội vã nói thêm và thậm chí cái giọng huênh hoang rõ rệt trong tất cả những câu nói trước đây của hắn cũng không còn nữa, ngay cả gương mặt của hắn cũng dường như biến sắc đi. - Tôi xin thú thật là tôi yếu hèn một cách không thể tha thứ được, nhưng biết làm hế nào: tôi vốn sợ chết và không thích ai nói đến cái chết. Cậu có biết không, tôi là một người ít nhiều có theo thần bí giáo đấy.
- A! Vong hồn bà Marfa Petrovna hiển hiện! Sao bà vẫn đến đây chứ?
- Thôi cậu đừng nhắc đến chuyện ấy nữa! Ở Petersburg chưa có lần nào thấy hiện lên, thôi mặc xác bà ấy - hắn quát lên, vẻ như bực bội. - Thôi, tốt hơn là ta hẵng để chuyện ấy… phải, vả chăng… Hừm, chà, ít thì giờ quá, tôi không ngồi lâu với cậu, tiếc thật! Có một chuyện đáng nói lắm.
- Chuyện gì thế? Chuyện đàn bà chắc?
- Phải, một người đàn bà, một chuyện tình cơ, không, tôi không định nói chuyện ấy.
- Thế cái hoàn cảnh xấu xa ấy không có tác dụng gì đối với ông nữa à? Ông không còn sức lực để mà dừng lại nữa à?
- Thế còn cậu. Cậu lại dám cho mình có sức lực ư? Hê hê hê! Tôi cũng lấy làm lạ cho cậu đấy, Rodion Romanovich ạ, tuy tôi cũng biết trước là sẽ như thế. Chính cậu lại đi nói với tôi về chuyện dâm ô, về mỹ học. Cậu là một Schillef, cậu là người sống vì lý tưởng! Dĩ nhiên phải như thế, nếu khác đi thì mới đáng lấy làm lạ, nhưng dù sao trên thực tế cũng có chỗ là lạ. Chà, thật tiếc là ít thì giờ quá, vì cậu quả là một nhân vật thú vị! À nhân thể xin hỏi: Cậu có thích Schillef không? Tôi thì tôi thích lắm lắm!
- Nhưng ông quả là một tay chúa huyênh hoang! - Raxkonikov nói, như có chiều ghê tởm.
- Ấy, có trời chứng giám, không phải đâu cậu ạ! Xvidrigailov vừa cười ha hả vừa đáp - Tuy vậy tôi cũng không cãi làm gì, cứ cho là tôi huyênh hoang đi, nhưng việc gì lại không huênh hoang, nếu làm như vậy chẳng xúc phạm đến ai cả? Tôi đã sống bảy năm ở thôn quê trong nhà bà Marfa Petrovna, cho nên bây giờ gặp được một người thông minh như cậu, một người thông minh mà lại hết sức thú vị, tôi rất mừng được tán chuyện gẫu, vâng, hơn nữa tôi lại uống hết một nửa cốc rượu nầy và đã thấy bốc lên đầu chút đỉnh. Nhưng cái chính là có một điều làm cho tôi rất phấn chấn, thế nhưng điều đó thì tôi sẽ… không nói đến. Cậu đi đâu thế? - Xvidrigailov bỗng hỏi, vẻ hoảng hốt.
Raxkonikov rời ghế đứng dậy. Chàng chợt thấy khó chịu và ngạt thở, lại thêm một cảm giác như ngượng ngùng vì đã đến đây. Chàng đã đi đến chỗ tin chắc rằng Xvidrigailov là tên bợm rỗng tuếch và vô nghĩa lý nhất trên đời.
- Kìa! Cậu ngồi lại tí nữa chứ, - Xvidrigailov năn nỉ, - Cậu gọi cái gì chứ, ít nhất cũng uống tí trà. Kìa cậu ngồi đi tôi sẽ không tán nhảm nữa đâu, nghĩa là tôi không nói chuyện tôi nữa đâu. Tôi sẽ kể cho cậu nghe một chuyện. Ấy, nếu cậu thích tôi sẽ kể cậu nghe chuyện một người đàn bà đã "cứu vớt" tôi (theo như cách nói của cậu). Đó cũng là có thể xem là câu trả lời cho câu hỏi thứ nhất của cậu, vì người đó chính là em cậu. Tôi kể được chứ? Vả lại ta sẽ giết được thì giờ.
- Ông kể đi: nhưng tôi mong rằng ông…
- Ồ xin cậu đừng lo, hơn nữa đối với Avdotia Romanovna thì dù một người xấu xa và rỗng tuếch như tôi cũng chỉ có thể có một lòng tôn kính sâu sắc mà thôi.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời


Ðiều Chỉnh
Xếp Bài

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
Bạn không được quyền gởi bài
Bạn không được quyền gởi trả lời
Bạn không được quyền gởi kèm file
Bạn không được quyền sửa bài

vB code đang Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển đến


Múi giờ GMT. Hiện tại là 07:57 PM.


Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2025, Jelsoft Enterprises Ltd.