|
#1
|
||||
|
||||
![]() Ván Bài Lật Ngửa Phần 5 - Chương 6 Nếu nhìn lên bản đồ, người ta thấy rõ, về mặt quân sự, Kiến Hòa không chiếm vị trí chiến lược. Trái lại, ba cù lao lớn: Minh, Bảo và An Hóa hợp thành tỉnh như nép hẳn vào một góc, cố ý tránh những biến thiên, vui với dòng sông bát ngát quanh năm soi bóng dừa. Từ là một tổng - tổng Tân An khi Võ vương Nguyễn Phúc Khoát đặt quan cai trị xứ này vào năm 1757 - Bến Tre được thăng lần lên huyện, phủ và khi thực dân Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây, thăng lên hạt rồi tỉnh. Bến Tre đi vào lịch sử khá sớm nhưng với tư cách một vùng đất ẩn cư. Người ta biết đến nó sau biến cố mất Gia Định, những phần tử chống Tây “tị địa” về đây, trong đó, có nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Cả khi vào lịch sử, Bến Tre cũng không ồn ào, dù cho Phan Tôn, Phan Liêm - con của Phan Thanh Giản, người tiến sĩ đầu tiên quan Nam Bộ, sinh ở Bảo Thạch, Ba Tri, người mà tên tuổi gắn liền với nỗi ô nhục của triều đình Huế khuất thân “chuộc” ba tỉnh Đông Nam bộ và lại để mất nốt ba tỉnh Tây Nam bộ - một thời dựng cờ nghĩa trên mảnh đất trầm lặng này. Sau Cách mạng tháng Tám, thực dân Pháp tái chiếm Bến Tre. Một lần nữa, dân Bên Tre lại “tị địa” - dùng đường biển, trên những chiếc thuyền mong manh, tìm tự do tận mũi Cà Mau. Những người bám tỉnh dựng lên một trung đoàn rất nổi tiếng, trung đoàn 99 của Đồng Văn Cống. Hòa bình lập lại, ngay vào những ngày đầu, chính quyền Ngô Đình Diệm gây ra vụ thảm sát Mỏ Cày. Cứ ngỡ Bến Tre nhịn nhục mãi. Thế rồi, đầu năm 1960, tin tức đột nhiên bay tới tập về Sài Gòn: Bến Tre, cái tỉnh im ắng ấy, đứng trước nguy cơ lọt vào tay Việt Cộng. Là một cán bộ từng hoạt động ở Bến Tre - khá thông thạo đường đi nước bước và con người ở đây - Nguyễn Thành Luân cũng bị bất ngờ. Anh không bao giờ nghĩ đến Bến Tre lại trở thành trung tâm của cuộc khởi nghĩa miền Nam - anh chờ đợi nơi khác, mà với trí thức của anh, dựa được vào rừng núi, dễ dàng tiến và dễ dàng rút lui. Nhưng, chính Bến Tre - tỉnh của những cù lao, nổ phát súng kinh hoàng vào chế độ, đúng lúc chế độ ổn định nhất. Anh chợt nhớ đến ông già ba tri Thái Hữu Kiểm - dám đi bộ từ Bến Tre ra tận triều đình Huế để cự lại một vụ cường hào ỷ thế hiếp dân. Cái bề ngoài nho nhã - do lỗi sống giữa mảnh vườn ít xáo động - chứa một sức bật tiềm tàng rất thông minh… Anh cũng nhớ ông Hai Sặc, người Bến Tre “tị địa” xuống Phụng Hiệp. Và, hôm nay, liền sau khi đặt chân lên Bến Tre - chính phủ Ngô Đình Diệm đổi tên là Kiến Hòa, vốn tên cũ thời Nguyễn - Luân phải chỉ huy một cuộc hành quân lớn. Đó là việc giao lãnh đầu tiên giữa cựu và tân tỉnh trưởng. Cuộc hành quân dự định từ trước, đã được quân khu cho phép và Bộ tổng tham mưu chuẩn y, cho nên Luân không tiện bãi bỏ. Với lực lượng 5 tiểu đoàn Bảo an, 2 tổng đoàn Dân vệ, một đại đội cảnh sát dã chiến, hầu hết giang thuyền trực thuộc tiểu khu, cuộc hành quân quy mô trung đoàn và với dạng binh chủng hợp thành nhằm Cồn Ốc - một trong những cồn lớn nằm trên sông Hàm Luông và gần thị xã - theo yêu cầu của tỉnh trưởng ty công an: truy lùng cơ quan Tỉnh ủy Việt Cộng, hoặc ít ra, một bộ phận của cơ quan đó mà tin mật báo cho biết dời từ Định Thủy sang đây. - Tin mật báo tin cậy được không? - Luân hỏi. Trưởng ty công an - không phải xa lạ với Luân: thiếu tá Lưu Kỳ Vọng, người của Mai Hữu Xuân, sau một thời gian làm việc ở Nha an ninh quân đội, được biệt phái sang công an và thiếu tướng Tổng giám đốc Nguyễn Văn Là bổ nhiệm hắn ta về Bến Tre - xum xoe: - Chắc ăn một trăm phần trăm! Hắn nói, kèm theo cái nháy mắt ngụ ý. Luân hiểu rằng mật báo là người của công an trà trộn trong hàng ngũ kháng chiến. Hiểu như vậy, song Luân tỏ vẻ không tin tưởng: - Coi chừng tốn công vô ích… Cũng có ba bảy đường mật báo. - Không! - Thiếu tá Vọng cười nhũn nhặn. Bây giờ, hắn cố hết sức lấy lòng tân tỉnh trưởng và cầu mong ông ta không phăng ra hắn trong vụ rượt bắt ở Nhị tì Quảng Đông năm 1955 - Thưa trung tá (hắn hạ thấp giọng, ngó chung quanh) một huyện ủy! - Vậy sao? - Luân giả bộ sửng sốt pha lẫn hài lòng. - Dạ em điểm huyệt tụi Cộng sản cỡ đó sắp lên! - Vọng hí hửng. … Từ “Lồng cu” - đặt trên giang đỉnh chỉ huy - Luân dùng ống dòm quan sát Cồn Ốc, khi các tàu mặt dựng lượn dọc bờ tây cồn. Không khí thanh bình trùm cả cồn. Không hề có một dấu vết bố phòng. Bến sông từng nhà, những ngôi nhà ngói cổ, thản nhiên với sinh hoạt thường ngày: thuyền đậu, phụ nữ giặt giũ… Giờ đổ bộ theo quy định đã tới. Đáng lẽ các cỡ súng nổ rộ, Luân ra lệnh không được bắn, dù một phát, nếu chưa bị tấn công. Tàu đầu bằng đã sử đụng bờ, thả bửng, từng toán lính và cảnh sát nối đuôi từ nhiều điểm khác nhau, chạy ào lên cồn. Luân bước lên cồn khi các toán sục sạo thọc sâu vào vườn. Một số dân - ước tới cả trăm - bị lùa ngồi chồm hổm trên chiếc sân gạch rộng. Ngó qua số dân, Luân yên tâm: không ai mang dáng dấp cán bộ. Hầu hết là ông bà già, phụ nữ đứng tuổi và trẻ con. “Thằng cha Vọng bị hố rồi!” - Luân nghĩ thầm – “Tỉnh ủy nào lại đặt cơ quan trên cái cồn lúc nào cũng có thể bao vây như vậy? Nhất định các đồng chí giữ phương châm hợp pháp. Ngay hầm chông, hố đinh cũng không có thể có ở đây…” Thiếu tá Vọng rảo bước trước đám dân. Luân yên lặng theo dõi hắn. Luân bắt gặp hắn sựng một thoáng trước một người. Tim Luân thắt lại. Chà, đồng chí của mình sao chường mặt ra đây làm gì. Nhưng người đó không thể là cán bộ, dù thuộc cấp nào - da mặt láng te, đôi mắt ti hí. Anh ta trạc trên dưới 40, mặc áo bà ba lụa trắng. Và người đó liếc về một bà già ngồi phía trước. Luân ngờ ngợ về bà già này - tóc hoa râm, khăn rằn vắt vai - như là anh đã gặp ở đâu đó. Thiếu tá Vọng đến trước bà già. Bà già điềm tĩnh nhai trầu. - Ê! - Thiếu tá Vọng chụp vai bà già lôi xểnh dậy - Bà là bà Hai Sặc, phải không? Thôi, đúng rồi… vợ Hai Sặc. Ngày Luân cùng Sa và Quyến rời khu 9 về thành, cái đêm cuối cùng ngủ ở vùng tự do ngoại ô Phụng Hiệp đó. Con của Hai Sặc, Tư Lóc - Trần Bảo Quốc, trung đội trưởng của tiểu đoàn 420 đã tập kết. Con gái là y tế. Luân nhớ, nhớ rõ. À, vợ chồng Hai Sặc trở về quê, hèn chi, khi Luân vừa tới, anh có cảm giác bà già này nhìn anh lom lom, với đôi mắt tôi tối. - Chớ hồi nào tới giờ tôi có đổi tên bao giờ đâu mà ông hỏi? - Bà Hai Sặc trả lời chậm rãi… - Bà lẻo lự dữ! - Thiếu tá Vọng cười gằn - Được, để rồi cho bà lẻo lự… Nè! Tỉnh ủy ở nhà nào? Có ở nhà bà không? - Tỉnh ủy là cái chi? - Bà Hai Sặc vẫn nhai trầu. - Bà đừng hỏi đố tôi! Dân Cồn Ốc mà không biết Tỉnh ủy Cộng sản sao? Thằng Tư Cường, thằng Ba Đào ở đâu? - Thiếu tá Vọng thét inh ỏi. - Ông làm quan sao ăn nói lỗ mãng quá vậy? - Bà già cự. - Bà hỗn hả? - Thiếu tá Vọng tát bà già. Bà già quay mặt lại đám đông: - Bà con thấy đó, Quốc gia đánh tôi… Tuổi tôi gì gì cũng cỡ tuỏi mẹ ông quan này… Luân thấy đến lúc phải can thiệp: - Thiếu tá, ông không được làm như vậy! - Trung tá không biết, con mụ già này ghê lắm… Chồng nó, con gái nó đều Việt Cộng thứ thiệt. Chồng nó làm “căn cứ” cho Tỉnh ủy. Tôi phải bắt nó phun ra chồng nó, con gái nó. Con gái nó - con Rô - là y tế của Tỉnh ủy… Thiếu tá Vọng vẫn không buông tha bà già. Luân gạt tay hắn ra. - Thiếm… - Luân nén xúc động - Thiếm cho biết Tỉnh ủy có ở đây không? - Tôi đã nói tôi không biết Tỉnh ủy… - Bà già tránh mắt Luân. - Thôi, bà chỉ chỗ trốn của chồng bà, thằng già Hai Sặc đó! - Thiếu tá Vọng gầm gừ. - Ông nhà tôi qua Trà Vinh cày mướn từ sau Tết! - Bà nói láo! Hai Sặc mà cày mướn… Hai Sặc ở đâu? Bà không chỉ, tôi bắn bà…! - Thiếu tá Vọng lên cò khẩu Colt 12 nghe cái rốp. - Ông Hai Sặc đi cày mướn miệt Vũng Liêm… Bà Hai nói thiệt. Ở đây, bà con ai cũng biết… - Một ông gà búi tóc, áo trắng, tằng hắng rồi nói. - Ông là chức sắc đạo Cao Đài? - Luân hỏi. - Thưa quan, phải. Tôi là giáo hữu. - Ông thuộc phái đạo của đốc phủ Nguyễn Ngọc Tương hay Tây Ninh? - Thưa quan, tôi thuộc phái Minh Chơn Đạo của anh lớn Cao Triều Phát… Tự nhiên, Luân hiểu. Phái Minh Chơn Đạo là phái kháng chiến hồi 9 năm. - Nếu Hai Sặc không có ở đây, thì con Rô ở đâu? - Thiếu tá Vọng khăng khăng với bà Hai Sặc. - Nó may mướn trên Sài Gòn! - Nói láo cũng có sách chớ! Bà nói láo bỏ sách hết trơn… Con Rô mà biết may… - Tại sao ông biết con Rô tôi không biết may? - Bà già hỏi vặn. - Tôi biết! Nó ở đây… - Ông biết sao ông không đi kiếm nó mà phải hỏi tôi? Luân lại bắt gặp anh chàng mặt láng te ra dấu cho thiếu tá Vọng - gã chỉ xuống đất. - Nè, nó trốn dưới hầm bí mật! Bà coi tôi rành không - Thiếu tá Vọng đắc chí, cười hô hố. - Thì ông đào mà bắt nó! - Con mụ già này ngọt không chịu… Tao cho mày biết tao là ai… Đồ… - Thiếu tá Vọng xông tới, ghì đầu bà già, toan nện thẳng cánh. - Không được! - Luân xô thiếu tá Vọng sang một bên - Ông không có quyền làm bậy trước mặt tôi. Luân nói, môi run run - Nó đây nè! - Nhiều tiếng reo. Tốp công an lôi một người con gái bất tỉnh, ném lên sân. Cô gái không còn một tấm vải che thân. Bà Hai Sặc nhào đến, ôm cô gái: - Con! Con! Giữa lúc đó, tốp công an bô bô với tốp bảo an: - Gặp nó dưới hầm sau vườn… Tụi này mần luôn… Ngon thiệt!… Còn mới nguyên nghe! Luân choáng váng. Đầu anh bỗng ù ù. Anh bước tới tốp công an và bất thần ra tay. Ba đứa can tội làm nhục cô gái không thể hiểu vì sao chúng bị đòn. Máu chảy ròng ròng trên mũi chúng. - Còng lại! - Luân ra lệnh, giọng thật đanh - Giải về tỉnh… Tôi sẽ đích thân bắn cả ba! Thiếu tá Vọng chưng hửng. Bà Hai Sặc đứng lên. Mắt bà long đỏ. Bà đến trước thiếu tá Vọng. - Chồng tao, Tỉnh ủy ở đây… - Bà chỉ vào ngực - Đồ mọi rợ… Quốc gia bây là lũ mọi rợ! Thiếu tá Vọng rút súng. - Tao cho mầy chết. - Hắn nghiến răng. Luân, bằng một động tác nhanh như chớp, đánh bạt súng của thiếu tá Vọng. - Người đáng chết là ông, ông thiếu tá! Tôi sẽ xử bắn ông ngay tại đây nếu ông động đến bà thiếm này… Luân cởi chiếc áo khoác phủ lên người Rô đang thoi thóp và ra lệnh chấm dứt cuộc càn. * - Tôi không thể hiểu vì sao trung tá lại nới tay với tụi Cồn Ốc?… Con mụ Hai Sặc đáng lãnh một phát đạn lắm!Lê Như Hùng, trung tá Thủy quân lục chiến, cựu tỉnh trưởng Bến Tre, làm xong thủ tục giao lãnh với tân tỉnh trưởng Nguyễn Thành Luân, vừa nói vừa nhún vai. - Tôi không thích để Việt Cộng thâu lợi. Bắn bà Hai Sặc một phát, chúng ta sẽ phải nhận một nghìn phát trả thù… Bắn bà Hai Sặc đâu có thể tìm ra Tỉnh ủy? Chúng ta chưa đến nỗi điên thì tại sao lại hành động ngu xuẩn như vậy? - Nói thật với trung tá, - Cựu tỉnh trưởng tựa lưng vào ghế, khoanh tay - tôi rất nghi ngờ kết quả của chính sách mà trung tá thí nghiệm ở đây. Tôi phải thanh minh với trung tá, tôi từ giã Kiến Hòa không một chút nuối tiếc. Ví dụ trung tá thay tôi sớm hơn một năm, có lẽ tôi cũng bực mình. Nơi nào yên tĩnh hơn đây? Nhưng, đó là chuyện một năm về trước. Còn bây giờ… Tôi rất xấu hổ, với tư cách con nhà binh, lại bàn giao cho trung tá một gia tài quá khốn khổ. Chúng ta mất gần sạch. Ngay con đường ra bắc Tân Thạch cũng không phải an toàn. Tôi đến Kiến Hòa và từng đi dạo trong rừng dừa, từng lướt ván trên sông với người đẹp. Còn trung tá… Dạo trong khuôn viên tỉnh đường. Tôi khuyên trung tá chỉ nên dạo trước lúc đèn lên… Có lẽ rồi đây tôi sẽ đi Quảng Trị hoặc Đắc Tô. Không sao, không đâu khó chịu bằng ở đây. Tôi sẽ áp dụng kinh nghiệm ở đây - ở Kiến Hòa. Tôi quá tiết kiệm đạn và ngại chảy máu… Khi chia tay, tôi muốn đền bù cho trung tá bằng sự chia sẻ kinh nghiệm đó. Luân mỉm cười: - Cám ơn anh… Trái lại, tôi nghĩ rằng anh chưa tiết kiệm cả đạn lẫn máu đúng mức. Không thể bắn hết, ví dụ bắn hết dân Cồn Ốc. Không làm sao bắn hết và chúng ta cũng không dám làm như vậy… - Tôi thành tâm mong trung tá thành công… - Lê Như Hùng chép miệng - Mơn trớn một lò lửa bừng cháy, một bãi chông kín mít, một tổ ong đang vỡ… Tôi e trung tá tự tin hơi nhiều. Mà dù cho trung tá thành công, Kiến Hòa cũng chỉ là một tỉnh nhỏ, không nghĩa gì so với cả nước Cộng hòa của chúng ta… Tôi từng nói với tướng Williams khi ông thị sát nơi đây. Tôi nói: Kiến Hòa chỉ là cái dạ dày bị loét, có thể bị ung thư nữa. Nhưng nói không chỉ tự tạo ra căn bệnh hiểm nghèo đó cho nó. Nó phải hứng mọi thức ăn từ mồm, sự lọc lừa của lưỡi, sự nhai nghiền của răng… Cắt phăng phần loét của dạ dày thì cứ làm, song đừng nguyền rủa nó… Giọng Lê Như Hùng - một sĩ quan từng được Diệm nâng đỡ, chỉ huy Thủy quân lục chiến, binh chủng rất kiêu ngạo - càng lúc càng chán chường. - Chẳng lẻ người ta phải cắt cái mồm? - Luân hỏi, hóm hỉnh. - Thế trung tá nghĩ rằng người Mỹ vốn thực dụng lại rung đùi ngâm thơ Longfellow (1) sau khi chi hàng núi tiền cho chúng ta? Năm 1958, tôi tường trình về Phủ tổng thống những khả năng xấu đang ngấp nghé nhận chìm chúng ta. Tham mưu biệt bộ gửi trả bản tường trình đó - tôi nói rõ, lúc bấy giờ trung tá đang phụ trách chiến dịch “Cơn hồng thuỷ” - với lời phê dốt nát: bi quan! Tôi phải rời Kiến Hòa chính vì cách điều khiển của chính sự dốt nát đó. Bây giờ, họ lấy tôi làm vật tế thần và tạ tội với người Mỹ… Trung tá có thể có vận may hơn tôi, trung tá là người nhà của Tổng thống! Giá như Phủ tổng thống gửi kèm lời phê nông cạn kia cho tôi vài chục khẩu đại bác! - Đại bác không bắn được dân biểu tình! - Luân nheo mắt. - Bắn được! Miễn dám bắn. - Cựu tỉnh trưởng sôi nổi hẳn - Napoléon nổi tiếng nhờ dám hạ nòng đại bác bắn vào đám biểu tình! - Và, vì vậy, ông ta càng nổi tiếng hơn ở Waterloo, ở Borodino (2) cuối cùng im tiếng ở Sainte Hélène (3), chơi vơi ngoài Đại Tây Dương… - Xin vô phép ngắt lời trung tá… Đại bác không phải loại chuyên dùng đàn áp biểu tình, song chính trị lại là sở đoản của bọn nhà binh - trung tá đừng giận, kể luôn trung tá - và hơn nữa, của cả chế độ chúng ta. Chọn lựa cái le moins mal (4), tôi nghiêng về cái khẩu đại bác! - Chưa chắc tôi đã nên cơm cháo gì ở đây? - Luân thân ái ngồi cạnh cựu tỉnh trưởng - nhưng trách nhiệm được giao không thể thoái thác. Trước trách nhiệm, tôi cũng như anh thôi, không dính với chuyện gia đình. Chính phủ yêu cầu tôi bình định Kiến Hòa. Tôi nhận với điều kiện tôi không bị gò bó để đạt yêu cầu bình định. Tôi nghĩ chúng ta không thiếu đại bác, ngay ở Kiến Hòa. Xem qua sổ chi đạn đại bác, Kiến Hòa không kém tỉnh nào cả. Nhưng, đất cứ mất, biểu tình cứ tăng, có lẽ đại bác và biểu tình cũng lên song song. Tôi sẽ bắt cả hai cùng xuống! Lê Như Hùng đứng lên: - Tôi mong trung tá thành công tuy rằng dứt khoát tôi không tin. Dù sao, tôi cũng áy náy đã đào xới bằng đạn đại bác để trúng tá phải san lấp… - San lấp trên mặt đồng ruộng không khó lắm! - Luân cười. - Đúng! Tôi hy vọng trung tá san lấp những cái hố trong lòng người. Luân thấy mến tay tỉnh trưởng bộc trực này. - Anh có dặn tôi điều gì không? Cưu tỉnh trưởng ngẫm nghĩ một lúc: - Có! Trung tá nên cẩn thận với gã thiếu tá Vọng… Thứ ma cô ma cạo hạ đẳng! Gã chơi với James Casey, có vẻ là dân của CIA. Tống Văn Tình nói với tôi. Tống Văn Tình, như Géo Nam ở Vĩnh Long, xuất thân từ Rédacteur (5) ngành cảnh sát Pháp - vốn là trưởng ty công an Kiến Hòa, nay bị thay, chỉ còn là phó ty. - Anh không giao cho tôi được một nhân mối nào trong nội bộ Việt Cộng sao? - Luân hỏi ướm. Lê Như Hùng đưa tay lên trời: - Tôi biết có một nhân mối quan trọng. Nhưng, thằng thiếu tá Vọng nắm. Nhân mối trao cho nó một tài liệu gì đó - nghe đâu nhờ cái tài liệu đó, nó được hậu thưởng. - Tài liệu gì? - Luân hồi hộp. - Thú thật, tôi ghét những thứ giấy tờ… Nghe Tống Văn Tình nói, tài liệu nghị quyết của Cộng sản Bắc Việt… Luân suýt “à” một tiếng, nhưng kịp kiềm chế. Anh bắt tay Lê Như Hùng khá chặt. - Một điều tôi muốn nói trước khi chia tay: Nếu Hội đồng an ninh Quốc gia có những nhận xét xấu về anh thì không phải do tôi… Trái lại! - Tôi tin trung tá! ---------- (1) Nhà thơ nhân bản Mỹ (1807-1882) (2) Những nói Napoléon đại bại (3) Nơi Napoléon bị đày và chết (4) Cái ít xấu hơn. (5) Biên tập viên - một ngạch trật trung cấp cảnh sát. Phần 5- Chương 7 Luân ngụ tại ngôi nhà hai tầng quét vôi vàng, kiểu kiến trúc đồng loạt các công sở xây dựng vào những năm đầu thực dân Pháp chiếm Nam Kỳ. Ngôi nhà ngó ra sông Bến Tre, một chi lưu của sông Cửu Long, trong khuôn viên rợp tàn cổ thụ, tường bao bốn phía. Đằng sau là tòa hành chính, nơi làm việc của tỉnh trưởng. Dung không theo Luân xuống đây - cô cần tiếp tục ở cương vị cũ: Văn phòng Tổng nha cảnh sát Quốc gia. Người thân tín còn lại của Luân là Thạch. Cho tới bây giờ, Thạch vẫn chưa hề hay biết thân phận thật của Luân. Lòng trung thành của Thạch đối với Luân tất nhiên sâu hơn nhiều so lúc anh mới về ở cạnh Luân, đó là lòng trung thành của một người giúp việc lâu ngày cảm phục và yêu mến chủ. Vợ Thạch thường nhắc anh chăm sóc Luân “như chăm sóc cha, anh ruột của mình”. Thạch hiểu liền ý vợ: đạo lý ở đời phải vậy. Không phải Luân mà vợ Thạch căn dặn Thạch dòm trước ngó sau chung quanh Luân. “Ổng là người ngay, làm việc theo lẽ phải, thiếu gì người ghét, muốn hại ổng”. Vợ Thạch gợi ý chung chung, còn Thạch sát Luân: nên tiếp nhận lời khuyên của vợ theo ý nghĩa cụ thể: Sở nghiên cứu chính trị, An ninh quân đội, có thể cơ quan tình báo Mỹ nữa không ưa trung tá. Việt Cộng thì khỏi nói. Còn ông Ngô Đình Nhu - ông tỏ ra bồ bịch với trung tá mà tại sao gã Hoa kiều Ly Kai cứ thậm thò thậm thụt săn tin trung tá hoài? Mỗi lần Thạch báo với Luân về thái độ khả nghi của Ly Kai thì Luân chỉ cười nhẹ: “Kệ gã!”. Ông trung tá có thể bỏ qua gã Hoa kiều, chớ Thạch thì đời nào! Đến Bến Tre, Luân lấy lái xe tại chỗ - chuẩn úy Võ Văn Tập, đã phục vụ trung tá Lê Như Hùng. Tập quê ngay tại thị xã, chưa vợ con, trước là học sinh. Cha Tập, đốc học một trường quận nay hưu trí, mẹ chuyên nghề bánh mứt. Hai mươi sáu tuổi, Tập thuộc dạng đẹp trai, ít nói, hiền. Tuy nhiên, Thạch vẫn áy náy: gã lái xe có đôi mắt khá sắc, nhất là khi gã liếc Luân. Cái vố trung sĩ Toàn chưa hết ám ảnh Thạch - mỗi lần Luân cởi trần, vết thẹo trên vai khiến Thạch điếng người. Dinh tỉnh trưởng được phân đôi: Luân và Thạch ở tầng trên, tầng dưới thuộc các sĩ quan tiếp cận tỉnh trưởng. Tất cả có bốn đại úy và một trung úy: đại úy chỉ huy đội bảo vệ tỉnh trưởng; trung úy phụ trách truyền tin; đại úy chỉ huy trưởng Bảo an tỉnh; đại úy tham mưu trưởng tỉnh; đại úy thư ký riêng của tỉnh trưởng. Chung Văn Hoa và Nguyễn Thành Động, chỉ huy trưởng và tham mưu trưởng tỉnh, ban ngày làm việc ở Sở chỉ huy đặt ở làng Sơn Động trên đường đi Hàm Luông, ngay khu vực sân bay, chiều tối về nghỉ tại đây. Trong năm sĩ quan đó, Hồ Nhựt Thanh phụ trách truyền tin là người Bến Tre. … Luân đang nghỉ trưa. Thật sự, anh chỉ chợp mắt một thoáng thôi. Từ khi nhận nhiệm vụ, Luân phải làm việc ngày đêm. Anh hoàn toàn nhận thức khá rõ khó khăn của mình trong tình hình cực kỳ phức tạp của tỉnh và chính tình hình phức tạp ấy càng đẩy anh vào vị trí phức tạp hơn. Đúng, Kiến Hòa không phải Bình Dương. Ở Bình Dương, mọi việc chưa rõ ràng, chiến dịch “Cơn hồng thủy” mở giữa một vùng mà cuộc đấu tranh vũ trang của nhân dân vừa chớm, anh dễ dàng che giấu hành động tiếp trợ phong trào. Còn ở Kiến Hoà, hình thức vũ trang không còn dừng ngang mức tự vệ mà đồng bào đã sử dụng nó như một phương tiện tấn công. Nói cách khác, chiến tranh thực sự đã triển khai trên một diện rộng và với một cường độ dồn dập. Anh em Diệm - Nhu - và chắc chắn cả Mỹ nữa - muốn mượn bàn tay anh triệt hạ phong trào đấu tranh lên đến cao độ của nhân dân Bến Tre. Anh bắt buộc phải vắt óc tìm cách sao cho vừa lòe được Sài Gòn, vừa hỗ trợ cho Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh. Một băn khoăn khác không nhỏ, là cái gã mặt mũi phẳng phiu, đôi mắt giảo hoạt ở Cồn Ốc. Tự nhiên, liên kết với điều trung tá Lê Như Hùng thổ lộ, Luân bắt đầu nghiêng về khả năng “nghị quyết 15” lọt vào tay CIA qua con đường này. Một tên nội gián - và nếu thiếu tá Hùng không huênh hoang, thì hắn là một huyện ủy viên. Có phải hắn không? Hay hắn chỉ là đầu mối? Liên lạc từ hôm điện đài bị bom chưa nối lại được. Anh và Dung không có cách nào báo về cấp trên trừ phi chính cấp trên cho người móc. Đọc báo hôm nào Luân cũng lục lạo phần nhắn tin ở trang chót. Chẳng thấy. Chuông điện thoại reo. Nhu nói chuyện với anh. Hẳn phải có cái gì thật bức thiết, Nhu mới gọi cho anh giờ này. - Alô! Chào anh. Tôi nghe đây… - Luân nói. - Anh biết tin Nam Hàn chưa? - Giọng Nhu mất bình tĩnh. - Việc ông Lý Thừa Vãn đó, phải không? - Đúng! Ông ta bị đưa đi an trí ở Hạ Uy Di (1) … - Giọng Nhu càng mất bình tĩnh hơn. - Salaud! (2) Tụi nó dựa vào đám sinh viên, lấy cớ chống bầu cử gian lận… Luân theo dõi chặt chẽ diễn biến tình hình Nam Triều Tiên từ khi anh chưa rời Sài Gòn. Nhưng anh không ngờ sự kiện đó xúc động Nhu đến như vậy. - Không chỉ ở Nam Hàn, Thổ Nhĩ Kỳ cũng găng. Menderes (3) bị lật đổ… Các chính phủ hợp hiến đều bị lật đổ, mỉa mai thật, không do Cộng sản… Ở Thổ, chính là quân đội. Nhu cáu quá, lần nữa văng tục: Merde!(4) Luân không biết phải đối đáp sao cho ổn. Quả thần kinh dinh Độc Lập bị chấn động. Bây giờ bất cứ hành vi nào của Mỹ nhằm gò cương bầy ngựa kéo xe cho đúng hướng đều được anh em Diệm - Nhu tiếp nhận như mũi dao đâm vào họ. - Anh thấy thế nào? - Nhu sốt ruột, giục Luân… - Ta cần làm gì? - Tôi đồng ý với anh đó là sự tráo trở. Song không phải người ta có thể tuỳ ý thọc tay vào bất cứ đâu và bao giờ cũng được yên lành cả… Ông Lý Thừa Vãn, ông Menderès có cái nhược của các ông ấy… - Luân chọn lựa từng lời. - Anh có thể về Sài Gòn chiều nay không? - Nhu hỏi đột ngột. - Anh cần tôi gấp sao? - Thôi… - Nhu ngần ngừ - Hôm khánh thành khu trù mật Thành Thới, tôi sẽ gặp anh… Công việc thế nào? Cuộc điện đàm chấm dứt. Luân tư lự rất lâu. “Một ngày đột biến bằng mười năm” Luân nhớ tới lời của một nhà cách mạng. Câu hỏi “Ta cần làm gì?” của Nhu cũng chính là câu Luân tự hỏi… Ngay chiều hôm đó, Luân ra sân bay đón tướng Mỹ Mac Garr. Anh chưa từng quen viên tướng 3 sao sắp thay tướng Samuel T. Williams này. Điều mà anh để ý là Mac Garr mới đặt chân lên Sài Gòn ngày hôm kia. Có vẻ Kiến Hòa bận tâm phái đoàn quân sự Mỹ hơn đâu hết. “Công thức thay đổi”, ít ra cũng một phần - Luân suy nghĩ. Số nhân viên quân sự, khí tài chiến tranh, ngân sạch quân sự cùng với Mac Garr nhất định sẽ tăng lên kéo theo hiệu quả là tiếng nói của người Mỹ nặng cân hơn trước, không riêng lĩnh vực quân sự, quyền lực chính trị của ông Diệm hiển nhiên cũng bị thu hẹp nếu người Mỹ vẫn còn dùng ông. Hóa ra không phải một mình Mac Garr và tuỳ tùng đến Bến Tre: Đại tá người Anh, Thompson, nổi tiếng như chuyên gia cừ khôi chống du kích ở Mã Lai cùng đi với Mac Garr. Chủ và khách bắt tay nhau. Thompson nồng nhiệt - thật ra ông ta tự hiểu vai vế của mình tại Việt Nam bên cạnh người Mỹ. Mac Garr hờ hững. “Thị trường chứng khoán đồng dollar lên” - Luân nghĩ thầm. Thay vì ngó thẳng viên quan đầu tỉnh Việt Nam, tướng Mac Garr, ngay khi còn trên cầu thang chiếc Dakota, chăm chú - bày tỏ cho mọi người biết là ông chăm chú - bày tỏ cho mọi người biết là ông chăm chú - quan sát khu vực sân bay và Sở chỉ huy Bảo an tỉnh. - Bây giờ thì tôi hiểu vì sao các ông thua tại đây, tại tỉnh Kiến Hòa… - Đó là câu mở miệng đầu tiêng của Mac Garr, khi mọi người vào Sở chỉ huy Bảo an, ngồi giữa phòng khách. Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Lễ, người làm nhiệm vụ lễ tân đưa khách xuống Kiến Hòa che nỗi ngượng ngùng bằng cách lấy khăn tay lau cặp kiếng đen. Đại tá Thompson tế nhị liếc nhìn trần thiết trong phòng. Các sĩ quan tùy tùng Mỹ im lặng chờ đợi chủ tướng phán nốt nhận xét, biết đâu không trở thành bài luận văn quân sự đăng trên tờ Stars and Stripes (5). Đại tá Chung Văn Hoa, chưa nghe trôi chảy tiếng Anh, nhờ đại úy Nguyễn Thành Động dịch và nghe xong, anh xẻn lẻn. Nguyễn Thành Động trái lại, nhún vai: - Tướng quân nói không đúng! Anh nói tiếng Anh. Mac Garr sửng sốt. Bởi trước mặt ông ta, một đại úy nhỏ thó, cách biệt với ông ta về mọi phương diện: cấp chức, tuổi tác, thân thể… - Đại úy tham mưu trưởng bảo sao? - Mac Garr cố tự chủ, nhưng câu hỏi vặn vẫn đầy âm sắc chỉ huy. - Chúng tôi chưa thua, thưa tướng quân… - Đại úy Động không lẩn tránh cái nhìn trịch thượng của Mac Garr cũng như cái nhìn sợ hãi của Nguyễn Ngọc Lễ, giọng đĩnh đạc. - Chưa thua? - Mac Garr giả bộ ngạc nhiên - Chưa thua mà sân bay, sở chỉ huy được bảo vệ kỹ đến mức tôi không tài nào đếm xuể bao nhiêu chiến hào và rào kẽm gai… Mac Garr, sau đó, cười. Đại úy Động cắn môi, lờ cái liếc cảnh cáo “Im!” của Nguyễn Ngọc Lễ. - Thưa tướng quân, thói quen của các vị chỉ huy cao cấp là phải tìm một lời khiển trách nào đó mỗi khi gặp cấp dưới. Rủi cho tướng quân, lời khiển trách của tướng quân thiếu chính xác. Hơn nữa, từ biểu hiện phòng thủ của căn cứ mà không quân đội nước nào được coi thường, tướng quân lại mở rộng thành nhận xét bao quát về thắng bại của một chiến trường, tôi hoàn toàn không thể hiểu! - Anh phải hiểu! Bắt buộc anh phải hiểu! - Mac Garr quát to, mặt đỏ nhừ - Các anh không được quyền chui tọt vào chăn, lẩn tránh Vixi như con đà điểu… Các anh phải lùng sục. Hiểu chưa, anh nhóc? Trường võ bị nào dạy anh như vậy? Saint Cyr hả? - Thưa tướng quân. - Động lạc giọng - Nếu có thì giờ, mời tướng quân đi lùng sục với tôi. Xin nhớ cho: đi bộ, chớ không phải lùng sục bằng máy bay. Có cần trình báo với tướng quân những vết thương trong người tôi không? Ngay vị chỉ huy của tôi - Động trỏ Luân, tự nãy giờ bình thản theo dõi cuộc đối đáp, nhiều lần cười mỉm trước những cái ra hiệu của Nguyễn Ngọc Lễ bảo anh “tốp” thuộc hạ lại, - trung tá tỉnh trưởng cũng mang vết thương chí mạng. Thưa tướng quân, tôi là đại úy Nguyễn Thành Động, có tên có tuổi, chớ không phải anh nhóc nào đó. Còn tướng quân muốn biết những kiến thức quân sự của tôi thu lượm từ đâu thì xin thưa: tôi tốt nghiệp khóa đào tạo tham mưu cáo cấp Fort Bragg tại Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ! Trong khi tranh luận, Động luôn luôn giữ thế của một sĩ quan cấp úy trước một vị tướng. Thái độ nghiêm túc đó đã góp phần thắng lợi cho anh. Mac Garr quả lúng túng. Sự diễu võ dương oai của ông đập lại ông. Đại tá Thompson châm thuốc mà ai cũng thấy ông cố che nụ cười chế giễu rất “ăng lê” - Đại úy ngồi xuống! - Luân thấy đến lúc cần can thiệp - Thưa tướng quân, tôi xin phép được tường tình tình hình trong tỉnh… Luân cầm gậy, đứng trước bản đồ. - Xin lỗi trung tá tỉnh trưởng! - Mac Garr đưa tay ngăn Luân, giọng bỗng dịu dàng - Một câu hỏi ngắn: đại úy Nguyễn Thành Động là em của trung tá? Rõ ràng là viên tướng Mỹ chưa rứt khỏi đại úy Động. - Thưa tướng quân, không! Chúng tôi cùng họ nhưng khác quê. Tôi sinh ở Vĩnh Long, còn đại úy Động ở Kiến An, Bắc Việt. Trường hợp trùng họ khá phổ biến tại Việt Nam… - Dẫu sao tôi cũng phải ngỏ lời khen đại úy Động! - Mac Garr rời chổ ngồi đến bắt tay Động - Dũng cảm! Chính nhờ lối xử sự khôn ngoan đó mà Mac Garr lấy lại được tư thế trong suốt thời gian nghe Luân. - Tôi muốn nêu một vấn đề… - Thompson đọc những ghi chú trong quyển sổ tay, khi Luân nói xong - Thưa trung tá, như trung tá phân tích, tính chất của tình hình tỉnh Kiến Hòa khá đặc biệt. Đặc biệt hơn Mã Lai, nơi tôi đối đầu với Cộng sản. Ở Mã Lai, Cộng sản lập căn cứ trong rừng… Cô lập Cộng sản với dân ở Mã Lai không khó lắm. Tôi muốn nghe trung ta nói suy nghĩ của mình về chính sách của chính phủ tại Kiến Hòa trong đặc điểm tình hình như vậy… Luân ra chiều suy nghĩ. Anh không suy nghĩ về nội dung vấn đề do Thompson nêu mà tính xem nên trả lời như thế nào có lợi hơn hết - không phải với Thompson, chính là với Mac Garr. - Thưa đại tá, tôi phải nói lời đầu tiên là cám ơn đại tá. Tôi đã nghiên cứu - nghiên cứu chứ không chỉ đọc - các bài viết của đại tá liên quan đến cuộc chiến tranh chống du kích Cộng sản Mã Lai. Rất bổ ích. Trong thế giới tự do, đại tá là nhà quân sự đi trước một bước trên lĩnh vực này… - Luân tiếp tục rào đón. - Trung tá vì cảm tình mà nhận xét thiên lệch đấy! - Thompson thích quá, đưa đẩy. - Phải chăng dựa vào kinh nghiệm của đại tá huân tước Thompson mà Việt Nam thực hiện được chính sách khu trù mật? - Mac Garr hỏi. - Có lẻ tôi không cần giấu giếm quan điểm cá nhân về chính sách khu trù mật. Khu trù mật không là biện pháp hay nhất, ít ra cũng tại Kiến Hòa… - Luân đã xác định chiến thuật. Câu hỏi của Mac Garr gợi cho anh cái ý là người Mỹ vốn nghèo nàn kinh nghiệm chống du kích, so với người Anh ở Mã Lai thì người Mỹ chậm hơn nhiều ở Philippin, nên rất tự ái về mô hình “ăng lê” trên bất cứ lĩnh vực nào, đặc biệt lĩnh vực quân sự - Tất nhiên là một quân nhân, tôi chấp hành chính sách đó vô điều kiện, đồng thời, với ý thức trách nhiệm tôi từng trình bày với Tổng thống nước tôi một vài mặt hạn chế của nó… - Trung tá có thể nói rõ hơn không? - Mac Garr sốt ruột. - Thưa tướng quân, tôi sắp nói… Mã Lai và Nam Việt khác nhau. Cộng sản Mã Lai sống trong rừng - hoặc chủ yếu dựa vào rừng. Địa bàn của Cộng sản ở Nam Việt, trái lại, trong dân. Cộng sản Mã Lai sao chép phương thức hoạt động ngoại nhập chỉ thích hợp với những đất nước đất rộng, dân đông. Cộng sản Nam Việt linh hoạt trong việc chọn lựa phương thức. Phong trào Cộng sản Mã Lai cách bức với thế giới Cộng sản còn Nam Việt là một phần của nước Việt Nam mà phần kia theo chính thể nào, các ngài đã rõ. Sau cùng, phong trào Cộng sản Nam Việt thoát thai từ một phong trào dân tộc mạnh mẽ, điều mà Mã Lai không có. Ở Mã Lai, chủ tịch Đảng Cộng sản là một người Mã Lai, phó chủ tịch là một người Ấn Độ và Tổng bí thư - Trần Bình - một người Trung Quốc. Có thể còn vài điểm dị biệt nữa, nhưng ta hãy dừng ở những luận cứ cần thiết. Mã Lai thành công khi tách được dân chúng với Cộng sản trên địa lý. Ở chúng tôi, Cộng sản tồn tại thậm chí ngay giữa thủ đô thì khu trù mật khó mà đạt hiệu quả cách ly đó. Thú thật, ở Kiến Hòa, rất phức tạp đối với chúng tôi trong phân biệt một người dân với một Việt Cộng nếu chỉ theo các tiêu chuẩn ở Mã Lai: có vũ khí hay không - không nhất thiết người Cộng sản nào cũng vũ trang; có chống chính phủ bằng lời nói hay không - nếu thế thì khu trù mật đúng là để nhốt Cộng sản bởi không chỉ riêng Cộng sản bất bình chính phủ… Mac Garr nghe rất nghiêm túc, hình như ông bảo một đại tá ghi chép lời của Luân. - Thế thì theo trung tá, thực chất của tình hình Nam Việt là gì? - Mac Garr hỏi - Tôi đọc kỹ, rất kỹ, phát biểu của ông Ngô Đình Diệm trong dịp ngày đầu năm cổ truyền nước các ông. Ông Nhu nói đến một tình thế chiến tranh mặc dù ông ấy tránh dùng từ chiến tranh. Hay, như nhà báo Helen Fanfani: “bù lu bù loa” một cách cường điệu? - Là những quân nhân, chúng ta dể đánh giá các hiện tượng theo định kiến. Từ lâu rồi chiến tranh không còn mang nghĩa thuần túy quân sự, như chúng ta từng đọc trong các tác phẩm của các nhà chiến lược kinh điển. Chẳng hạn, đã có thuật ngữ “chiến tranh lạnh”. Chẳng hạn, “chiến tranh cân não” - Thưa trung tá - Thompson nói, giọng trào phúng - để làm cho ngôn ngữ phong phú, tôi đề nghị trung tá gọi cuộc chiến tranh ở Nam Việt là Chiến tranh đặc biệt. Mac Garr gật gù: - Chúng ta không loại trừ sự tìm tòi những thuật ngữ bao quát được một hiện thực nào đó… Mời trung tá nói tiếp… - Vấn đề cốt lõi ở nước Cộng hòa chúng tôi là chính trị. Chính trị, vũ khí thông dụng nhưng cơ bản. Chính trị tức là dân. Chúng tôi không sợ một sự can thiệp quân sự từ bên ngoài mà sợ các bùng nổ từ bên trong. Thẳng thắn mà nói, tình hình tạm thời xấu. Hiện nay không thể không liên quan một phần đến một số chính sách đã qua của chúng tôi. Tỷ như nạn hà lạm. Tỷ như sự hạn chế dân chủ… - Và chế độ gia đình trị! - Mac Garr bất thần buông một câu dọa dẫm. - Vâng! Gia đình trị, Thiên Chúa giáo trị. Trung bộ trị… - Luân phải ứng lập tức - Nếu những cái đó là thật… - Tôi cám ơn trung tá. Thông tin và bình luận của trung tá đặc biệt có lợi cho chúng tôi. Bây giờ chúng ta đi sâu vào một số vấn đề quân sự và dẫu sao chúng ta cũng không thể khước từ. Chiến tranh gì - quy ước hay đặc biệt - đều đòi hỏi có quân đội, đồn lũy và trang bị. Trung tá cho biết dự định xây dựng lực lượng ở Kiến Hòa trong năm 1960 và vài năm tiếp theo… Đáp lại đòi hỏi của Mac Garr, đại úy Nguyễn Thành Động cho căng lên một loạt biểu đồ và anh thuyết trình, đầy tự tin. - Đại úy Động nắm vững kiến thức tham mưu lắm! Mac Garr nghe một lúc, bảo khẽ thiếu tướng Nguyễn Ngọc Lễ, qua một sĩ quan phiên dịch. Mac Garr muốn xỏ Lễ: Fort Bragg ưu việt hơn Saint Cyr. Mac Garr đâu biết là Lễ chẳng học trường võ bị nào ráo! Sau buổi làm việc ở Sở chỉ huy, dùng cơm xong, Mac Garr cùng đoàn tùy tùng đi thăm một đơn vị Bảo an, nghiên cứu vũ khí và khí tài, chứng kiến một đoạn diễn tập ngắn. Trước khi lên máy bay, ông ta vỗ vai Nguyễn Thành Động, nói vài lời phủ dụ, bắt tay Luân thật chặt: - Tổng thống Ngô Đình Diệm đã không lầm khi giao cho ông trọng trách tại đây. Tôi hy vọng giữa cá nhân chúng ta có mối quan hệ. Tôi sẵn sàng tiếp trung tá nếu trung tá thấy cần, vào lúc nào, tùy trung tá… Trung tá thành công ở Kiến Hòa thì Nam Việt lưu giữ tôi được lâu ở cương vị Trưởng phái bộ quân sự Mỹ. Nước Mỹ biết ơn trung tá. - Mac Garr nheo mắt. Luân hiểu câu nói hàm xúc ấy: Mỹ lo lắng phải dính líu qua sâu về quân sự ở Việt Nam… Các sĩ quan cùng đi với Mac Garr cũng tỏ ra trọng thị Luân. Nguyễn Ngọc Lễ thì rõ ràng không thích cấp dưới lại trội lên như vậy. - Anh bớt nói chính trị đi! Lo mà dẹp Việt Cộng. - Thiếu tướng Lễ ra vẻ kẻ bề trên, dặn Luân. - Đại úy cừ thật! - Luân khen Động, khi khách vãn. - Chính bây giờ em mới thấy bản lĩnh của trung tá… Qua trung tá, em tự nhận xét mình còn trẻ con. Với mấy thằng Mỹ, đánh phải ra đánh. Đánh rất quân tử chứ không tiểu khí như em… Còn cái thằng đại tá Anh nữa… Kinh nghiệm chó nhá mà cũng bày đặt dạy thiên hạ! Luân rất vui. Động nhất định có ích… Người không vui là đại úy chỉ huy trưởng Bảo an tỉnh, Chung Văn Hoa… ---------- (1) tức Hawaii (2) Đồ bẩn thỉu! (3) Adnan Menderes (1899–1961), thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ (1950-1960). (4) Đồ chó! (5) Báo Sao và Sọc của quân Mỹ ở Thái Bình Dương - sao và sọc lá quốc kỳ Mỹ. Phần 5 - Chương 8 Do thiếu tá Lưu Kỳ Vọng giục Luân ký tên vào bảng danh sách gồm 147 người “can án chính trị” theo luật 10-59, phải chuyển sang Trung tâm cải huấn mà Luân quyết định trực tiếp kiểm tra trại tạm giam của Ty công an sáng nay. Trại nằm một góc trong chu vi ty, cách dinh tỉnh trưởng chừng trăm bước. Luân bỏ trọn ngày đọc hồ sơ từng can phạm. Đại khái, có thể chia hồ sơ làm hai loại: một, can phạm tự khai - khá mạnh lạc - những tội trạng của mình. Trong loại thứ nhất, lời khai thường mơ hồ, bất nhất và nhiều điểm vô lý - Luân hiểu đó là vì mớm cung hoặc cưỡng cung. Loại thứ hai có thể gồm ba hạng: hạng non gan, chịu tra tấn kém, phun hết những gì cần để đỡ đòn, thường hay nói lố hoặc đổ trút trách nhiệm vào cấp cao hơn hoặc người chưa bị bắt; hàng trình bày quá trình tham gia phong trào Việt Cộng của bản thân hết sức chi tiết, thậm chí dám nhận những trách nhiệm quan trọng như du kích, tuyên truyền viên, đôi người còn vỗ ngực tự xưng là đảng viên, cán bộ cấp huyện, cấp tỉnh… những thứ dẫn họ đến máy chém theo luật 10-59. Gần như tất cả can phạm bị bắt từ tháng 9, tháng 10 năm 1959 đến giữa năm, lúc Luân lãnh nhiệm vụ, nghĩa là vào thời điểm phong trào bạo lực quần chúng rộ lên ở Bến Tre. Tại sao cựu tỉnh trưởng Lê Như Hùng không giải quyết? Câu hỏi của Luân được phó Ty công an Tống Văn Tình giải đáp: Trung tá Lê Như Hùng không tin vào hồ sơ, nhưng ông lại lảng tránh đụng độ với trưởng Ty công an - người có thế lực, được thiếu tướng Là, tổng giám đốc Tổng nha và thiếu tướng Mai Hữu Xuân, phụ trách bình định ở Bộ tổng tham mưu tin cậy, có mối quan hệ chặt với James Casey… Khi được Luân hỏi ý riêng của Tống Văn Tình, viên công chức gần như suốt đời phục vụ ngành mật thám, một trong những đứa con còn sót lại của mật thám Pháp trong ngành công an hiện thời, đã thổ lộ: Gì thì gì, vẫn phải có một chút lý… Sự đối kỵ của Tình - ai mà biết Tình đố kỵ Vọng vì đơn thuần nghề nghiệp hoặc cá nhân ganh ăn hay còn có nguyên nhân sâu xa nào nữa - giúp Luân rất nhiều. Chính Tình hé cho Luân một chi tiết: theo luật hiện hành, hễ can phạm không ra tòa thì phải qua cải huấn, mà đã qua cải huấn thì tỉnh trưởng không còn quyền đối với họ - các trung tâm cải huấn chịu hệ thống dọc, đứng đầu ở Trung ương là đại tá Trần Vĩnh Đắt. Tống Văn Tình còn nói: Thiếu tá Lưu Kỳ Vọng ra khẩu lệnh - thà bắt lầm còn hơn thả lầm; đã bắt thì không thả; đã bắt thì người bị bắt phải có tội; không tội thì điều tra viên chịu tội thay! Vọng thường khoe đó là phương ngôn của ông cố vấn Ngô Đình Nhu. Luân đọc rõ ý định của Tống Văn Tình. Thằng cha này nhất định còn dính líu với Phòng nhì Pháp, chơi trò “khích tướng” bẩy Luân tranh chấp với công an và với cả Ngô Đình Nhu. Không sao! Luân bảo Tống Văn Tình nộp cho anh toàn bộ danh sách những người bị bắt, số đã thả, số “mất tích”, số còn giữ. Tống Văn Tình báo cáo: số bị đánh chết hoặc thủ tiêu không nhiều, song không ít - tổng cộng 9 tháng chừng ba chục. Số thương tật vì bị tra tấn thì rất đông, tính hàng nghìn. Số được thả cũng hàng nghìn, trừ vài trường hợp nhờ thân thế, hầu như phải đút lót. … Luân bước chậm rãi theo hành lang trại tạm giam. Nói chung, trại tạm giam có nơi nằm giữa những gian phòng thoáng sạch. Tất nhiên, Lưu Kỳ Vọng không thể lừa được Luân - do Luân quyết định kiểm tra trại giam mà gã phải bày bố như thế này. Qua mỗi phòng, Luân dừng lại khá lâu. Cái đập vào mắt Luân là giữa số đông còn xương với da, mỗi phòng còn vài người béo ị. Luân nghĩ liền đến những hồ sơ rành mạch… Luân qua một phòng danh cho nữ can phạm thì nghe trẻ sơ sinh khóc. Một chị, có lẽ xấp xỉ 30 đang cho con bú. Chú bé - chắc sinh độ một tuần trở lại - khóc ré và chẳng có gì khó hiểu: người mẹ không thể vắt cho con một giọt sữa. Luân bảo nhân viên ty - anh ta ôm cả chồng hồ sơ theo Luân - tìm lai lịch người mẹ. Lê Thị Hai, dân làng Định Thủy, can tội “chứa chấp Việt Cộng”. Người Việt Cộng mà chị chứa chấp không ai khác hơn là chồng chị, cha của thằng bé còn đỏ hỏn. - Anh nhà hiện đang ở đâu? - Luân hỏi chị Lê Thị Hai. Luân cố gắng lắm mới không nghẹt thở khi nghe người phụ nữ trả lời: - Mấy ông bắn chết rồi còn hỏi làm gì? - Mở cửa! - Luân ra lệnh. - Mời chị ra! Từ giờ này, chị được tự do… - Luân bảo, giữa sự ngỡ ngàng của cả phòng giam và luôn số đi theo anh, nhất là của Lưu Kỳ Vọng. Gã cau mày trước quyết định đột ngột này. - Trình trung tá! - Gã nói - Tôi đề nghị trung tá không nên làm như vậy… Ở đây, toàn Việt Cộng nguy hiểm. Luân chưa kịp phản ứng thì một bà - có lẽ tuổi phải trên 60, tóc bạc, gầy guộc - đã lớn tiếng: - Ai là Việt Cộng nguy hiểm, ông chỉ coi? Tôi từng tuổi này, làm sao theo Việt Cộng nổi? Thủy quân lục chiến mấy ông kéo vô Bình Khánh, cứ nhè nhà nào nuôi heo thì đề án tử là Cộng sản để bắt heo. Tôi là Việt Cộng, bị tội nuôi con heo mà không chịu cho các ông giựt… - Má tên gì? Ở đâu? - Luân hỏi. Anh nhớ trường hợp anh gặp trên Dầu Tiếng. - Úy! - Bà già kêu lên thảng thốt - Ông chánh chủ tỉnh đừng xưng hô làm vậy… Tôi là Phạm Thị Lượm, ấp chợ làng Bình Khánh… Tôi chưa nói hết với ông chánh ty mật thám… Luân tức cười quá: Bà già gọi chức tước của anh và Vọng y như hồi Tây… - mà gọi như vậy cũng đúng thôi. - Ở khám nữ này, đố các ông kiếm cho ra một Việt Cộng… Còn mấy ông muốn bỏ tù tụi tôi thì các ông cứ ghi đại, ai cũng Việt Cộng! - Bà già vẫn sang sảng - Tôi nói thiệt, ông chánh ty mật thám mới đúng là Việt Cộng! Càng nghe bà già nói, Luân càng thích. Bà già chắc chắn là nòng cốt của địa phương hoặc có con em đi cách mạng. - Tôi là Việt Cộng? - Lưu Kỳ Vọng quắc mắt - Bà ăn nói ẩu tả… - Vậy chớ nếu ông không làm Cộng sản sao ông bắt bừa, đánh đập ác đức bà con? Ông xúi bà con theo Việt Cộng! - Bà già không nao núng. - Cho tôi xem hồ sơ má đây! - Luân bảo anh nhân viên. Đọc xong, hồ sơ gồm có mỗi tờ giấy lấy cung, không có chứng cứ gì. - Thả má ra một lượt với chị Hai! - Luân ra lệnh. - Tôi sẽ xét hết trường hợp từng người, ai vô tội sẽ được tự do. - Luân tuyên bố dõng dạc. Cả khám nữ nhìn anh lạ lùng. - Ông Tống Văn Tình! - Luân chỉ thị cụ thể - Ông giải quyết mọi thủ tục, trả giấy tờ cho chị Hai, cho má Lượm, cấp tiền xe và tiền ăn đường cho chị và má… Chút nữa, tôi ký giấy, để hai người về tới nhà trước trời tối… Luân lầm lũi bước tiếp. Nhưng được vài bước, anh quay ngoắt trở lại: - Nếu trong người chị có thương tích, xin nói rõ, chúng tôi lo điều trị cho chị… Chị đừng nghi ngờ, không ai đụng đến chị… Anh ở nhà có được chôn cất tử tế chưa? Nếu chị muốn, cứ làm đơn thưa vụ anh nhà bị giết, chúng tôi sẽ xét… Hôm nay không tiện thì hôm khác, chị không cần mang đến mà gửi theo nhà dây thép, cũng được… Hết dãy phòng giam, Luân chợt bảo Lưu Kỳ Vọng: - Ông trưởng ty cho tôi thăm nơi giam số bị bắt sau khi tôi nhận nhiệm vụ… Rõ ràng, Lưu Kỳ Vọng choáng váng, gã hoàn toàn không ngờ tình huống này. Thấy Vọng luống cuống, Luân gắt: - Thiếu tá nghe tôi nói không? Chẳng đặng đừng, Lưu Kỳ Vọng ra lệnh mở một cửa ngách. Vừa qua khỏi cửa, Luân đã ngửi thấy mùi tanh tưởi. Một khu nhà lợp tôn lụp xụp, ẩn sau chuồng xí. Phòng rộng không quá mười thước vuông nhốt ngót hai chục người - mình đầy máu. Luân quen mặt khá nhiều: dân Cồn Ốc. Anh sang phòng kế - nhỏ hơn. Và anh dường bị sét đánh: vợ Hai Sặc thoi thóp, hai người phụ nữ đang quạt cho bà. Luân xông tới trước mặt Lưu Kỳ Vọng: - Cái gì? Ông cắt nghĩa coi… Lưu Kỳ Vọng lùi xa, mặt không còn chút máu. - Ông trưởng ty, ông thật cả gan! Ông ngỡ rằng chức tỉnh trưởng của tôi để làm trò giỡn, phải không? Theo lệnh của Luân, nhân viên mở cửa. Anh bước hẳn vào trong. Vợ Hai Sặc mở mắt lờ đờ. - Cô em gái đâu rồi? - Luân lay vợ Hai Sặc. - Bên kia! - Vợ Hai Sặc phều phào - Ở dưới hầm… Luân quày quả ra. - Chổ nào? - Anh hỏi trỏng Lưu Kỳ Vọng. Cô Rô bị còng cả tay chân trong xà lim rộng bằng chiếc quan tài âm xuống đất, dưới một bóng đèn điện cực sáng, cỡ hai trăm nến. - Tôi bảo đưa cô gái vào bệnh viện chạy chữa, ông đem cô vào đây! - Luân nghiến răng - Ông sẽ phải trả lời trước tòa án đặc biệt về tội cố tình không chấp hành lệnh của cấp trên, cố tình gây bất mãn trong dân chúng… Bà già hồi nãy nói đúng! - Thưa… - Lưu Kỳ Vọng lắp bắp. - Tôi sẽ nghe ông sau! - Luân cắt ngang - Bây giờ, ông đưa cô gái, bà mẹ cô ấy, hai người đàn bà vào bệnh viện ngay. Ông cũng cho chuyển số người bị giam riêng ra ngoài, tôi sẽ đọc hồ sơ của họ và có ý kiến giải quyết nội hôm nay… Luân đứng chờ mọi mệnh lệnh của anh được chấp hành xong mới rời khu trại giam. Ngỡ là tai qua nạn khỏi, Lưu Kỳ Vọng lấy lại đôi chút tinh thần và để chứng tỏ mình là người biết nhận lỗi, gã trực tiếp gọi điện cho bệnh viện mang xe cấp cứu đến chở mẹ con bà Hai Sặc. Nhưng Luân chưa buông tha gã. Anh bảo: - Hôm ở Cồn Ốc, tôi quyết định bắt bốn nhân viên công an. Ông giam họ ở đâu? Tôi muốn gặp họ. Lưu Kỳ Vọng chết lặng. - Sao? Ông lại không thi hành lệnh của tôi! - Luân cau mày. - Dạ, đã thi hành… - Vọng sợ quá, hối hả trả lời - Mời trung tá theo tôi… Luân kịp thấy Vọng ra hiệu cho một nhân viên công an và tên này rảo bước. - Anh kia! - Luân gọi giật tên công an - Anh khỏi đi trước… Thế là cả đoàn trở lại văn phòng ty. Luân đoán là có điều gì mờ ám đây nhưng nhất thời chưa đoán ra. Họ lên bậc thang. Tầng trên ngôi nhà đặt văn phòng ty gồm ba phòng lớn. Một, nơi làm việc của trưởng ty - đồng thời là nơi họp mật. Một, chỗ ở của trưởng ty - gã sống một mình, vợ con vẫn còn tại Sài Gòn. Một, là nơi gã đưa Luân vào. Cửa mở hoác. Tiếng cười ồn ào. Khi Vọng xuất hiện ngoài cửa, một người nào đó thét to: - Vọng, mày chơi không? Tao thua sạch túi rồi… Đ.m…, bị mấy con điếm này mà tao xui… Vọng không kịp ra hiệu cho cả bọn. Trước mắt Luân, một sòng bạc đang hồi sát phạt, tiền ùn đống, mấy cô gái mặc hớ hênh ngồi vòng ngoài và một tốp khác thì ngất ngưởng quanh mâm rượu. Luân nhận ra ngay mấy tiên công an bị anh đấm sặc mũi hôm nọ. Lập tức, gian phòng lắng xuống. Chẳng tên nào có thể ngờ tỉnh trưởng mò lên đây. - Anh kia là ai? - Luân trỏ một người cao quá khổ, áo không cài nút. - Dạ, trung úy Bình, trưởng đồn Thành Triệu… - Vọng trả lời. - Ông ta bị bắt? - Luân hỏi tiếp. - Thưa không… Ông ta có dịp đến ty, gặp vui nên xà vào… - Còn đây? - Luân trỏ một người tác roi roi, mặc sơ mi lụa sọc. - Dạ, đại úy Mẹo, trưởng phòng điều tra của ty… Ông ta cũng lên chơi thôi. - Còn các cô này? - Luân hỏi và nói luôn - Gái điếm? Nghe Luân nhắc tới mình, các cô co rút sau lưng những gã đàn ông, thật ra không thể che kín các cô nổi, bời họ cũng cố làm cho bé nhỏ… - Thật tôi không ngờ! - Luân ném một câu đánh giá chung, quay xuống lầu, chân nện mạnh bậc thang. Chiều hôm đó, Luân mời số người bị biệt giam đến dinh tỉnh trưởng. Anh yêu cầu họ khai báo tường hợp bị bắt, tra tấn… và sau đó ký quyết định trả tự do cho tất cả. Mỗi nạn nhân nhận được tiền tàu xe. Cũng chiều hôm đó, trung úy Bình đồn trưởng Thành Triệu bị phạt một tuần trọng cấm và đại úy Mẹo bị ngưng chức, chờ cứu xét. Cả hai bị ghép vào tội “giao du với can phạm, cùng can phạm truỵ lạc ngay nơi công sở”. Tốp công an bị bắt ở Cồn Ốc phải vào trại biệt giam. Luân dành trọn ngày hôm sau giải quyết những người trong bảng danh sách cải huấn. Cuộc điểm danh đã giúp Luân kiểm tra lần nữa điều anh phát hiện qua hồ sơ. Như vậy, số đông nhất là dân thường - họ dính dáng đến phong trào nhưng không phải là người chỉ huy, cũng có mười trường hợp đáng nghi, song công an không phăng ra manh mối. Luân xếp tất cả vào phần “phóng thích”. Trong loại thứ hai, Luân chú ý những người tự khai như cán bộ Cộng sản chính cống - ai cũng da dẻ hồng hào. “Cho mấy đứa cò mồi này ra tòa”. Luân xếp chúng sang một bên. Nhưng vẫn còn quá ít. Gần 150 can phạm, chẳng lẻ chỉ chọn được có năm, bảy người? Luân tìm trong hạng mà anh đoán là non gan, mất khí tiết. Được thêm 15 người nữa. Tạm ổn. Lễ phóng thích tổ chức ngay sân trại giam. Dân chúng địa phương không hay biết gì nhưng phóng viên báo chí nước ngoài lại có mặt khá đông. Trước giờ, Henlen Fanfani đưa một người Mỹ râu tóc màu hung đến chào Luân. Anh ta là Victor Gray, phóng viên ảnh của tờ Newsweek - chồng của Fanfani. - Hân hạnh! - Victor Gray bắt tay Luân - Tuy hôm nay mới gặp ông song Henlen giúp tôi làm quen ông từ lâu… - Victor không biết ghen, ông kỹ sư đừng ngại! - Fanfani đùa. Cả ba cười hồ hởi. - Ông bắt đầu một trắc nghiệm nữa, phải không? - Fanfani vẫn liến thoắng. - Một trong những người mà tôi luôn luôn đề phòng là cô, cô Helen thân mến! - Luân thân mật khoát vai Fanfani và kéo Victor Gray cùng bước lững thững theo rìa sân - Cô thích đi xa hơn suy nghĩ của người khác trong các bài báo thiên về phân tích tâm lý… - Tôi sẽ không bao giờ gắn cho ông bất kỳ một tư tưởng nào mà ông không có… Ông cố gắng chống đỡ cho chế độ của ông Diệm đứng vững. Tôi sẽ viết như vậy. Tất nhiên, ông cho phép tôi được bình luận về ý định của ông, tức là bình luận về tính hiện thực của những cố gắng ấy… - Ông Gray có thấy mình có một người vợ đặc biệt sắc sảo về chính trị không? - Luân hỏi vui Victor và ngầm bảo Fanfani là anh không thích tranh luận hôm nay. - Tất nhiên là có! - Gray xác nhận - Giữa chúng tôi, bao giờ cô ấy cũng lấn át. Fanfani không cãi, cô đột ngột hỏi Luân bằng tiếng Việt: - Bà kỹ sư không ở Kiến Hòa? - Cô nói luôn - Chồng tôi không biết một tiếng Việt nào cả… - Sắp tới giờ, xin hẹn gặp lại cô Helen Fanfani và ông Victor sau buổi lễ… - Luân rời hai người, rảo bước lại chiếc bạn kê trên thềm, dành cho tỉnh trưởng. “Can phạm” ngồi chồm hổm thành nhiều hàng, mỗi người mang gói hành lý riêng. Ai cũng đinh ninh sau mấy lời hăm he của tỉnh trưởng, tất cả được tống lên những chiếc xe bít bùng, chở đến một phương trời nào đó - gọi là trại cải huấn - nơi mà số phận họ phó thác cho may rủi. Sẽ chịu tra tấn tinh thần và thể xác dai dẳng, có thể nói là bất tận, nếu sống sót. Và sống sót cũng thân tàn ma dại. Tiếng tăm các trại cải huấn đã khá lừng lẫy để mọi người hiểu “đi cải huấn” còn rùng rợn hơn ra trường bắn. Bởi vậy, mọi người im lặng. Họ chẳng để ý đến viên tỉnh trưởng đang ba hoa. - Tôi cho các người ít nhiều tham dự vào những cuộc chống đối chính phủ Việt Nam Cộng hòa do Ngô Tổng thống lãnh đạo… Không ai bị bắt oan cả. Theo luật 10-59, đáng lẻ các người phải ra tòa. Tuy nhiên, chính phủ khoan hồng, bởi các người kém học, bị xúi giục, chưa gây tội ác. Thừa lệnh Tổng thống, tôi nhắc các người từ nay chăm lo làm ăn… Luân nói tới đây thì khắp sân xao động. “Can phạm” ngó nhau và ngó anh. - Đây là lần cuối cùng chính phủ ban ân huệ. - Luân vẫn tiếp tục nói - Nếu bị bắt lần nữa, các người đừng oán trách… Tôi đảm bảo các người được tự do làm ăn. Bất kỳ ai ức hiếp các người, cứ tố cáo với tôi. Hễ đủ bằng chứng, tôi sẽ trị thẳng tay. Tôi nhắc lại: tỉnh Kiến Hòa phải được cai trị bằng luật pháp! Tuy ý của Luân đã rõ, song mọi người vẫn chờ đợi ở tỉnh trưởng câu nói quyết định. Và, đây là câu nói đó: - Kể từ giờ này, những ai có tên sau đây được trở về nhà mình… Ai không đủ tiền bạc, chính phủ sẽ giúp… Đứng khá xa đám đông mà Luân và các nhà báo nghe rõ tiếng rầm rì đột ngột lan nhanh, phó Ty công an Tống Văn Tình gọi tên từng người. Mỗi người nhận lệnh phóng thích mang chữ ký của tỉnh trưởng, các giấy tờ bị giữ trước đây, kể cả tiền bạc, tư trang. Tống Văn Tình liền miệng nhắc: “Xem coi đủ các thứ chưa? Ai còn thiếu, cho biết”. Tất nhiên không ai khiếu nại - việc quan trọng nhất là thoát nhanh khỏi nơi đây. Mỗi người giữ một thái độ khác nhau khi rời Ty công an: người lặng lẽ, người liếc Luân một cách bàng quan, người nhìn anh với vẻ khó hiểu, người cố giấu không để nhà báo chụp rõ mặt, người khinh khỉnh, người khẽ gật đầu cám ơn… - Chừng mươi phút nữa thôi, ông trở thành đối tượng nghiên cứu của dân chúng toàn tỉnh Kiến Hoà… - Fanfani bảo Luân. - Và, qua ảnh của Victor Gray, bài của Helen Fanfani, chính giới Mỹ sẽ mang “con quái vật” Nguyễn Thành Luân lên bàn mổ… - Luân đáp lại, hài hước. - Trong chính giới Mỹ cũng có những cái đầu tỉnh táo. Ông không bị cô lập đâu! - Fanfani bác lại - Để ông không còn đất tấn công tôi, tôi nói thêm: Ngay cả trong CIA cũng không phải ai đều theo Mac Carthy (1) cả. - Tôi thử ủng hộ ông - Victor nói - Tôi lấy được một số ảnh rất có lợi cho ông. Mặc dù phương pháp của ông chưa thuyết phục tôi… Dân chúng và Việt Cộng ở đây không ngô nghê. Trước tiên, họ đánh một dấu hỏi trên việc làm của ông. Ai có lợi trong trường hợp này? Những người nhà quê bị bắt vô cớ, họ có quyền về nhà, và viên tỉnh trưởng bỗng trở thành ân nhân không mất tiền! Làm sao có thể giản dị như thế được? Victor hoàn toàn không hiểu rằng Luân rất sung sướng nghe phân tích của anh ta… Sân vắng lần. Sau cùng, còn sót hai mươi mốt người. - Các người không được thả! - Luân bảo, trước vẻ mặt không lấy gì sợ hãi của hai mươi mốt người đó - họ sẽ sang trại cải huấn - tức là họ chuồn ra theo ngã hậu. - Các người cũng không qua trung tâm cải huấn! - Luân nói, gằn giọng - Tôi ký giấy truy tố các người, những nhân viên Cộng sản chính cống… Thái độ dửng dưng của số tù còn lại tan biến tức khắc. Sao cớ sự ra như vậy? Họ đảo mắt tìm trưởng Ty công an. Lưu Kỳ Vọng không dám nhìn họ. - Tỉnh Kiến Hòa chưa lần nào thiết lập tòa án quân sự đặc biệt… - Luân nói tiếp - Máy chém chưa lưu động tới đây. Đó là điều phi lý. Có người khóc. Có người nấc. Cảnh sát lùa họ vào trại biệt giam… * Báo cáo của thiếu tá Lưu Kỳ Vọng.Kính gởi thiếu tướng Tổng giám đốc cảnh sát quốc gia. Trình thiếu tướng, Thiểm ty thấy có bổn phận trình lên thiếu tướng Tổng giám đốc tình trạng rất kỳ lạ sau đây xảy ra ở Kiến Hòa trong vòng chưa đầy tháng nay: Từ khi thay trung tá Lê Như Hùng làm tỉnh trưởng tỉnh Kiến Hoà, trung tá Nguyễn Thành Luân giải quyết công việc theo một đường lối khác thường, đang gây xôn xao trong giới chức tỉnh và xáo trộn quy tắc lâu năm của thiểm ty, vốn là quy tắc do Tổng nha hướng dẫn. Ông Luân can thiệp quá sâu phần chuyên môn của Ty công an, hơn nữa, ông trực tiếp ký lệnh phóng thích đến 151 can phạm, tất cả đều xong hồ sơ về tội đích thân hoặc a tòng hoạt động Việt Cộng trong tỉnh. Mặt khác, ông lại ký lệnh tống giam và truy tố ra tòa án quân sự khá đông nhân viên công an, kể cả một số mật báo viên và nhân viên đặc biệt của chúng tôi, cách chức và giam cứu trung úy đồn trưởng Thành Triệu thuộc hệ cảnh sát đặc biệt, cách chức và truy tố đại ủy trưởng phòng điều tra của ty về những tội không lấy gì làm nghiêm trọng. Hiện nay, nhân viên cộng lực tỉnh đều bất mãn, giữa lúc mà bọn Việt Cộng đẩy mạnh hoạt động. Đó là nguy cơ lớn. Nhiều vị đầu ngành trong tỉnh không hài lòng chính sách của trung tá Nguyễn Thành Luân, như đại úy Chung Văn Hoa, chỉ huy trưởng Bảo an, nhưng sợ thế lực của ông Luân nên không dám công khai phản đối. Thiểm ty khẩn cấp mật báo để thiếu tướng tường và mong thiếu tướng trình với Hội đồng an ninh quốc gia và Tổng thống nguyện vọng của quan chức Kiến Hòa là chính phủ sớm rút trung tá Nguyễn Thành Luân khỏi trách nhiệm hiện nay, ngõ hầu tránh cho Kiến Hòa rơi vào tình thế xấu hơn. Thiểm ty cũng xin lưu ý thiếu tướng là trong thời gian chưa dài lắm kể từ khi trung tá Luân được bổ xuống Kiến Hòa, chúng tôi ghi nhận số lượng tấn công và quấy rối của Việt Cộng tăng gấp ba lần so với trước. Chúng kiểm soát nhiều trục lộ bộ và thủy then chốt, trong đó có chợ Thơm, Hương Mỹ, An Định… Tỉnh lỵ Trúc Giang bị bao vây, ban đêm Việt Cộng mít tinh ngay cầu Ba Lai, cầu Chẹt Sậy và tự do chè chén giữa chợ Mỹ Lồng, cách trung tâm Trúc Giang không xa. Đính kèm bản đồ chiến sự trong ba tuần mới nhất, bản đồ vùng Việt Cộng kiểm soát hoàn toàn, kiểm soát ban đêm, bảng danh sách 151 can phạm được phóng thích, bảng danh sách 27 nhân viên bị tống giam và truy tố. Sau chót, một hiện tượng khiến thiểm ty vô cùng nghi hoặc: Trung tá Luân hết sức quan tâm đến số mật báo viên mà chúng ta gài trong hàng ngũ Việt Cộng, nhất là điệp viên mang bí số J5 - ông ta nhiều lần hỏi dò thiểm ty. Tờ trình này gởi riêng cho thiếu tướng, mong thiếu tướng hủy khi đọc xong, bởi sẽ khó khăn cho thiểm ty nếu tiết lộ tới tai trung tá Luân! Vợ trung tá Luân đang làm việc ở phòng bí thư Tổng nha. Xin thiếu tướng nhận nơi đây lòng trung thành tuyệt đối của tôi… Trúc Giang, ngày … tháng… năm 1960 * … Báo cáo nói là gởi riêng cho thiếu tướng Nguyễn Văn Là nhưng cả Mai Hữu Xuân, Fishel đều có. Hơn nữa, Dương Tái Hưng cũng nhận được một bản sao bằng chụp ảnh…Về phần Luân, anh biết báo cáo đó khá trễ: Ngày 16-7, khi dự lễ khánh thành khu trù mật Thành Thới, Ngô Đình Nhu trao cho anh. Đó là bản chính, thiếu tướng Là chuyển báo với Nhu, không bình luận. Nhu cũng không ghi chú như thói quen một chi tiết nào trong báo cáo. Lễ khánh thành xong. Nhu đáp trực thăng cùng Luân về tỉnh lỵ. Họ trao đổi kế hoạch thêm một khu trù mật nữa, khu Thới Thuận, nằm sát biển, cách huyện lỵ Bình Đại chừng mươi cây số. - Tôi biết quan điểm chung của anh về chính sách khu trù mật, - Nhu bảo Luân - song Tổng thống quyết định đích thân khánh thành một cái của Kiến Hòa, cho nên anh phải chú ý… Luân trầm ngâm một lúc: - Tôi sẽ đảm bảo an toàn cho Tổng thống. Nhưng xin lỗi anh, tôi không tin vào kết quả của khu trù mật về lâu dài. Theo tôi đó là một chủ trương nguy hiểm, chẳng những mất lòng dân, thiếu hiệu quả cô lập Cộng sản, mà còn giúp Cộng sản bám chặt hơn nữa, đưa Cộng sản tiếp cận ta hơn… - Trước kia, nghĩa là vào giữa năm 1959, tôi mê tín kinh nghiệm Mã Lai của người Anh. - Nhu bộc lộ suy nghĩ của anh ta rất chân thành - Bây giờ, tôi thấy tôi lầm… Tuy nhiên, chúng ta chưa thể xóa một chủ trương lớn, được giới thiệu rộng rãi trong dư luận quốc tế, vẫn còn đợi tác dụng chiến thuật và tâm lý ở một số nơi trong nước. Vả lại, Tổng thống chưa đổi ý, mặc dù Tổng thống đã nói đến việc từ nay phải lo củng cố hơn là xây thêm khu trù mật. Ở Kiến Hòa, tốt nhất là anh giữ đừng cho khu trù mật Thành Thới tan rã, xây dựng khu Thới Thuận kịp khánh thành vào tháng 10 theo lệnh của Tổng thống, đồng thời thực hiện phương hướng, bình định như anh dự kiến… Mỗi ngày qua, tôi nghiêng hơn về chính sách của anh. Có thể trong vài tháng tới, sẽ mở hội nghị toàn quốc bàn công tác bình định. Tôi hy vọng anh sẽ giới thiệu kinh nghiệm cùng thành tích của Kiến Hòa… Nhu nói tới đây, vừa cười vừa rút trong cặp ra một tờ giấy đánh máy: - Tìm tòi bao giờ cũng rắc rối… Chuyện quả trứng của Christophe Colomb (2)…. Anh xem đây. Luân đọc tờ giấy có chữ đỏ bên trong: Confidential (3) - Báo cáo của thiếu tá trưởng Ty công an Kiến Hòa Lưu Kỳ Vọng gởi thiếu tướng Nguyễn Văn Là. Đọc xong, Luân cười lạt, trả lại cho Nhu. - Anh giữ! Nên “tẩm quất” tay này một trận… - Nhu bảo. - Tôi chưa báo với anh về thiếu tá Vọng. Tôi thấy chưa cần quấy rầy anh. Vả lại, xáo trộn nội bộ trong lúc này không hay lắm… - Luân thở dài. - Coi kìa! - Nhu kêu lên - Tôi thừa hiểu, dù tôi chưa biết chi tiết… Sao anh có vẻ bực bội? Gã Vọng này không hiền đâu… Người của Mai Hữu Xuân! - Không chỉ của Mai Hữu Xuân! Anh biết tại sao tôi quan tâm đến tay mật vụ mang bí số J5? Bây giờ, tôi mới biết nó mang bí số J5, chứ trước thì Vọng giấu biệt. - Chính tôi định hỏi anh việc đó. - Nhu chăm chú nghe. - Anh nhận được một nghị quyết của Trung ương Cộng sản, gọi là nghị quyết 15 chưa? Nhu cười: - Được rồi… Tôi có mang theo đây, nếu anh chưa có, tôi đưa anh một bản… - Anh nhận được từ bao giờ? Do đâu? - Luân hỏi, sốt ruột. Một số dự đoán của anh đúng hay sai tùy thuộc câu trả lời của Nhu. - Hôm kia… Bộ tổng tham mưu chuyển sang, tài liệu tịch thu trong một cuộc hành quân ở Cai Lậy. Nghe Luân thở ra, Nhu kinh ngạc: - Anh thấy có điều gì không bình thường? Tài liệu đây… Luân nhận tài liệu, lật vội vàng ở trang chót: - Nghị quyết thông qua cuối năm 1959, mãi tới nay mới đến tay anh… Anh không lạ sao? - Tôi cho là Cộng sản lưu hành nghị quyết có phần hạn chế… Nhưng, cơ quan tình báo ta cũng kém… - Nhu nói, mắt vẫn không rời Luân. - Tôi biết chắc chắn: người Mỹ có nghị quyết này trước ta ít ra cũng ba, bốn tháng… - Điệp viên của Mỹ ở khắp nơi. - Nhu không tỏ vẻ hăm hở nữa - Có thể tình báo của họ ở Moscow, ở Bắc Kinh kể cả ở Hà Nội lấy được… - Rất tiếc, Mỹ nhận tài liệu ở Việt Nam Cộng hòa, hơn nữa, ở Kiến Hòa… - Thế sao? - Nhu sa sầm mặt - Đại sứ Mỹ hay cô Fanfani bảo anh? - Không chỉ có hai người đó… Nhưng họ nói là họ có một nghị quyết quan trọng của Cộng sản. Tôi tìm ra nguồn cung cấp. Thằng cha hay con mụ mang bí số J5 trao tài liệu cho thiếu tá Vọng và ông ta lờ anh. Nhu lắc đầu: - Chưa logique (4) lắm! Thiếu tướng Là không giấu tôi… - Nếu thiếu tướng Là cũng như anh, nghĩa là cũng bị “bịt mắt” thì sao? - Luân cười mỉm. - Chà! Thằng Vọng… - Nhu gầm gừ. - Anh có thể lần mối: ai được trao tài liệu, ngoài tình báo Mỹ? - Mai Hữu Xuân có không? - Nhu hỏi. - Tôi nghĩ là có! Nhu về Sài Gòn. Luân tư lự với những ngã rẽ đột ngột trong bước đường phát triển của miền Nam. Chính phủ Ngô Đình Diệm sợ nghị quyết chuyển hướng đấu tranh của Cộng sản thì ít mà sợ nhiều hơn lối đi vòng vèo của những tờ giấy… Bắt tay Luân tại sân bay, Nhu nói, đầy ý nhị: - Nguyên tắc éliminateire (5) người ta định chơi trò bipartie (6) tất nhiên một partie (7) phải ra rìa… Tại sao ta không chơi trò đó? Mong anh suy nghĩ… Làm sao chuyển những biểu hiện mới này cho lãnh đạo? Luân gọi Dung - cô ấy phải gặp Sa… Thiếu tá Lưu Kỳ Vọng dường như không có xương sống khi gã bắt gặp ngay trên bàn viết của tỉnh trưởng bản mật báo do chính gã ký tên - không phải một bản sao. Thế là xong đời! Gã thầm trách mình không đủ khôn để đo lường sức vóc của đối thủ: thiếu tướng Là chưa bằng cái móng chân của Luân. - Chắc ông rõ, tôi gọi ông đến để nghe ông giải thích về cái này… - Luân đẩy báo cáo về phía Vọng - Tôi đủ chứng cớ đưa ông ra toàn hoặc tống giam ông. Tôi đã không làm như vậy bởi tin rằng sớm muộn gì rồi ông cũng hiểu. Thật đáng buồn, ông không hiểu. Có lẽ tôi phải nói thẳng với ông: thiếu tướng Mai Hữu Xuân, thiếu tá James Casey nhận được tài liệu nghị quyết 15 của Cộng sản do ông gửi, trong khi đó, cấp trên tại chỗ của ông là trung tá tỉnh trưởng Lê Như Hùng và cấp trên dọc của ông là thiếu tướng Nguyễn Văn Là không nhận được… Ông biết đó, bây giờ tôi không cần mất công đưa ông ra tòa. Tôi có quyền xử bắn ông như đối với mọi điệp viên nước đôi… Tôi cho ông cầu cứu Williams Porter, Fishel hay cả Mac Garr sắp thay Williams hoặc ai mà ông thấy đủ sức cứu ông… Tôi sẵn lòng chờ ba hôm trước khi trói ông vào cột. Thiếu tá Vọng ngỡ rằng sự khuất phục của gã đã cứu gã. Gã khai tuốt luốt mối quan hệ của gã với Mai Hữu Xuân và CIA, thuận miệng, gã khai luôn việc gã được Mai Hữu Xuân ra lệnh bắt cóc Luân hồi năm 1955. Lần đầu tiên, Luân nghe những tiếng lóng: Pénalty, Franc direct… chỉ dùng trên sân cỏ. Bây giờ Luân biết J5 là ai: Nguyễn Văn Côn, huyện ủy viên Mỏ Cày, huyện đội phó. Còn tay mà Luân nghi ở Cồn Ốc là chi ủy viên xã Thạch Phú Đông, trưởng công an xã, tên Hiếm. Vọng được tiếp tục làm việc. ---------- (1) Một nhân vật Mỹ chống Cộng mù quáng đến nỗi thành “chủ nghĩa Mac Carthy” (2) Christophe Colomb, người tìm ra Tân thế giới, trong cuộc gặp gỡ với thân hữu, đố mọi người đặt quả trứng đứng. Không ai làm được. Ông đập một đầu trứng và quả trứng đứng. Mọi người cười ông: Thế thì dễ. Ông đáp: Khó là sự tìm tòi ban đầu. (3) Mật. (4) Hợp lý (5) Nguyên tắc loại trừ. (6) Song phương (7) Một bên. Phần 5 - Chương 9 Dung đến Bến Tre trước hôm quốc khánh 26-10. Đây là lần đầu Dung đến nơi làm việc của chồng. Cô rất thích cảnh rừng dừa bạt ngàn êm đềm một màu xanh, sông nước trùng trùng của Bến Tre. Luân đưa vợ đi thăm mộ cụ Đồ Chiểu - di tích duy nhất còn có thể thăm được một cách tuyệt đối an toàn. - Anh tiếc không đi với em tới Cồn Ngao, Bảo Thạch, cửa Khâu Băng… - Luân âu yếm bảo vợ. Từ khi yêu Dung, anh được Dung truyền cho cách cảm thụ quê hương từ một khía cạnh nữa - cái đẹp thiên nhiên và dấu vết của người đi trước. Dung từng ao ước: Thế nào cũng theo Luân đến Cồn Ngao để thấm thía nỗi buồn của tác giả Lục Vân Tiên - “Ngùi ngùi mây bạc cõi Ngao châu”… Nguyễn Đình Chiểu đã mở đầu bài thơ khóc Phan Thanh Giản như vậy. Bảo Thạch, cái làng nhỏ “bờ biển Nam” nơi “kẻ học trò già họ Phan” an nghỉ - Dung giúp Luân hiểu về “Chín chữ lòng son tạc” là chín chữ khắc trên mộ bia Phan Thanh Giản theo di chúc của ông, được cụ Đồ Chiểu trân trọng nhắc… Không đưa Dung đi những nơi cố ước, Luân như tự thấy mình có lỗi, khiến Dung phải an ủi anh: Thế nào cũng có dịp… Tình hình nước Lào mấy tuần nay bận tâm chế độ Sài Gòn. Đại úy Kong Lee, tiểu đoàn trưởng một tiểu đoàn Dù Lào tiến hành đảo chính chống lại chính phủ phái hữu thân Mỹ ở Vạn Tượng, liên minh trên thực tế với Pathét Lào, đòi thi hành đường lối trung lập. Cái mà Luân rút ra kết luận là thế lực tư sản dân tộc ở Lào vẫn còn một sức mạnh nào đó, cộng với thế lực thân Pháp vẫn chưa buông tay, họ núp dưới bóng của nhà vua, hòa hoãn với Pathét Lào… Trong một bối cảnh cụ thể, một tiểu đoàn đủ làm nên đại sự. Đại úy Kong Lee ám ảnh Luân đến mức Dung phát sợ: - Tình hình Lào khác tình hình ta; phe hữu phản động chia rẽ, thực lực không hơn Pathét Lào bao nhiêu; phe thân Pháp còn ảnh hưởng trong nhiều giới, xu hướng độc lập trung lập trước thực tế hai phe tả, hữu ngang sức có điều kiện phát huy thanh thế; đóng được vai trò nghiêng về bên nào thì bên đó thắng, họ có lãnh tụ và lợi dụng được uy tín nhà vua và tôn giáo… Mỹ chưa phải độc chiếm Lào. Luân vuốt tóc vợ: - Anh biết như em. Nhưng ở ta, xét từ một căn bản khác đâu có kém thuận lợi hơn Lào, nhất là xét về thế lực Cách mạng. Nghị quyết 15 nói tới nhiều khả năng. - Em thấy anh nên xin ý kiến các anh… - Dung không yên tâm. Luân cười: - Tất nhiên! Nói thế, nhưng cả hai đều nóng ruột. Chưa liên lạc được với A.07 hoặc anh Sáu Đăng, mà cũng không thấy các anh móc Luân. Sa chưa cho hẹn. Luân nghĩ tới Quyến, thậm chí Lê Khánh Nghĩa, chỉ huy phó Bảo an Tây Ninh - những đầu cầu nối với lãnh đạo. Dung kiên quyết phản đối, vì như vậy là quá khinh xuất, vi phạm nguyên tắc… Giữa lúc hai vợ chồng Luân lật bề mặt bề trái sự kiện Lào thì Ngô Đình Nhu xoáy mắt vào một tụ điểm: binh chủng Dù đảo chánh ở Lào - Nhu vốn nghi ngại “đứa con cưng của Tổng thống” từ khi Dù thành một lữ đoàn hùng mạnh. Cho nên, nhân một số tiền đồn ở Kontum bị Việt Cộng tấn công, anh ta phái đại bộ phận lính Dù lên tiếp viện… … Khán đài lễ quốc khánh đặt ngay trước cổng dinh tỉnh trưởng. Cả Nam Việt được lệnh tổ chức thật rầm rộ lần thứ 5 ngày khai sinh nền Đệ nhất Cộng hòa. Cũng như các tỉnh, Kiến Hòa tổ chức trước một ngày, ngày 25-10, để hôm sau, các quan chức đầu tỉnh còn về thủ đô chung vui với Tổng thống. Chương trình gồm: phát biểu của tỉnh trưởng, đáp từ của dân quân chánh, múa lân, hội chợ, diễn kịch. Đêm, dạ tiệc do làng An Hội đãi… Chào cờ xong, Luân lên lễ đài, sắp sửa đọc bài diễn văn sẳn. Dung ngồi hàng ghế đầu. Luân mở xấp giấy, trước khi đọc, khẽ liếc vợ, mỉm cười. Bỗng anh bắt gặp vẻ mặt kinh hoàng của Dung cùng tiếng thét thất thanh của cô: Lựu đạn! Thật ra, Luân cùng một lúc nghe thấy tất cả những thứ đó: Vẻ mặt trắng nhợt, tiếng thét và cái nhoài người như muốn vọt lên lễ đài của Dung, tiếng rú và bước nhảy vụt tới của Thạch, quả lựu đạn lăn lộc cộc, sự náo loạn của sân lễ - hằng trăm người vừa hô hoán vừa nhào xuống đất… Tuy nhiên, nhanh hơn hết vẫn là Luân. Anh chộp quả lựu đạn ném ngược ra phía sau, bên trong vòng rào dinh tỉnh trưởng, đồng thời ghì Dung vào lòng, xô Thạch té xấp… Mọi người chờ tiếng nổ. Không có. Lựu đạn lép. Hú vía. Thủ phạm bị bắt liền tại trận. Một cậu học sinh. Một cậu học sinh mà Luân biết mặt, biết tên. Cuộc mít tinh tiếp tục, nhưng không khí thật căng thẳng. Cách nay năm hôm, công an tỉnh bắt một thiếu niên lảng vảng trước dinh tỉnh trưởng. Lê Ngọc Thường, học sinh đệ tam trường tỉnh, con của bà Ngô thợ may. Công an quả quyết Thường đo đạc khoảng cách từ lề đường đến nơi sẽ đặt lễ đài - hễ có lễ thì bao giờ lễ đài cũng đặt sát rào dinh tỉnh trưởng, còn dân chúng đứng từ lề đường. Thường khai: cậu ta rình một con sóc trên ngọn cây sao - quả cậu ta cầm chiếc giàn thung và túi quần nhét nhiều sỏi. Công an không tin mà Luân cũng không tin. Cậu bé mặt mày sáng sủa, trả lời trôi chảy các câu hỏi - sự thú nhận gián tiếp nó đã được sửa soạn những câu trả lời từ trước. Dù sao, rình một con sóc trước dinh tỉnh trưởng vãn không phải là trò chơi của cậu học sinh sắp thi tú tài phần thứ nhất, hơn nữa, cậu quá đĩnh đạc. Luân ra lệnh thả Thường với lời khuyên: Lo học. Công an gọi bà Ngô đến ty giao bà chăn giữ thằng bé. Hôm sau bà Ngô hớt hãi trình với ty: Thường bỏ học trốn mất. Và, cậu bị bắt quả tang. Sau phần lễ chính thức, Luân bảo mang Thường đến dinh tỉnh trưởng. Anh muốn đích thân hỏi cung Thường. - Tại sao em định giết tôi? - Luân hỏi, ôn tồn. Thường nín lặng. Đôi mắt thông minh ngó thẳng Luân, môi hơi cười cợt. Lưu Kỳ Vọng nổi đóa. - Mày không có lưỡi hả? Trung tá hỏi sao mày không trả lời? Thường ném cho Vọng cái liếc khinh miệt, rồi tiếp tục im lặng. - Trung tá để nó cho tôi! - Vọng thở khò khè - Ngữ này không mềm xương không bỏ tật láo… - Em nói đi! - Luân vẫn ôn tồn - Tại sao? Tại sao em ném lựu đạn vào tôi? Thường không nói. Lưu Kỳ Vọng nhảy tới, thộp ngực Thường: - Nói! - Gã giơ cao tay. Luân vội ngăn gã: - Đừng, thiếu tá! Vọng quay về chỗ ngồi, hầm hừ: - Tại trung tá không cho đánh, nó lừng! Tôi nói thiệt, một cái lên gối, nó khai tới ông bà ông vải liền… Nghe tao hỏi: Đứa nào biểu mày quăng lựu đạn, lựu đạn lấy ở đâu? - Nói đi em, tại sao em muốn giết ông Luân? - Thùy Dung hỏi, dịu dàng. - Tại ghét! - Thường mãi mới nói và là một câu cụt lủn. Luân phì cười: - Tại sao ghét tôi? - Ác ôn, ai mà không ghét! - Thường trả lời tuy rắn rỏi song hoàn toàn kiểu trẻ con. - Tôi ác ôn chổ nào? Em có thấy tôi bắn giết, đánh đập ai không? - Ông giả đò nhân đạo mà người của ông - Thường ngó Vọng - bắn giết hằng hà dân trong tỉnh! Ông không gạt nổi dân Bến Tre đâu… Luân biết người lớn dạy Thường như vậy. - Chắc em đói bụng… - Luân đột ngột chuyển sang chuyện khác - Ăn đi rồi về lo học. Còn muốn làm hiệp sĩ, chiến sĩ phía bên nào cũng vậy, phải tập luyện cho giỏi, bình tĩnh… Lựu đạn chưa tháo chốt đã vội liệng, sao nổ được… Thường đớ người: - Tôi tháo chốt rồi mà! Luân cười bảo Vọng: - Thiếu tá thấy không? Khờ khạo quá, bị gạt… Luân bảo mua cho Thường hủ tiếu. Khi cậu ăn xong - cậu vừa ăn vừa liếc Luân - Luân ra lệnh cho cậu tự do muốn đi đâu thì đi. Lưu Kỳ Vọng cuống quít: - Thưa trung tá, để tụi này khui nó, tìm ra kẻ chủ mưu… Luân lắc đầu: - Trò của con nít, hơi đâu để ý! Sau cùng, Vọng tự rút ra nhận xét: Tay Luân này “điếm tổ”, y mượn trẻ con quăng lựu đạn giả để quảng cáo y có số hên… Vọng có cơ sở: Quả lựu đạn mà Thường ném không nổ chẳng phải vì Thường quên tháo chốt an toàn như Luân nói mà vì lựu đạn bị tháo kim hỏa… Nhưng hai hôm sau Công an tỉnh chụp một căn nhà ngoại ô thị xã, khui hầm bí mật, bắt hai người - một là Thường. Diễn biến nội vụ, Ty công an báo cáo như sau: Được mật báo, đêm 28, rạng ngày 29 tháng 10, đội thám báo trực thuộc ty, do thiếu tá Lai Văn Thố chỉ huy đã bao vây căn nhà ở ấp Cầu Tréo, làng An Hội, sát sông Bến Tre, nơi thị ủy Cộng sản lén lút trú ngụ. Căn nhà nằm sâu giữa vườn lôm chôm, vốn bỏ hoang từ lâu. Thoạt đầu nhân viên công lực kêu gọi Việt Cộng đầu hàng, nhưng từ trong nhà, nhiều phát súng lục bắn ra, buộc nhân viên công lực phải tấn công mạnh. Tuy nhiên vì trời tối, không tiện lục soát. Khi đã sáng rõ, nhân viên công lực vào nhà, bắt được mấy tấm đệm, ấm chén uống nước, tàn thuốc lá, giày dép… chứng tỏ Việt Cộng hội họp (tám hay chín tên) và ngủ lại… Cuộc lục soát sau đó phát hiện một hầm bí mật dưới gốc cây lôm chôm. Người đội nắp hầm trồi lên đầu tiên là một đàn ông vạm vỡ. Hắn ta vừa thoát khỏi hầm, đã lôi từ hầm lên khẩu tiểu liên Sten và bất ngờ lia vào đội thám báo, may không ai trong đội thám báo trúng đạn. Nhân lúc hỗn loạn, hắn lao xuống sông và biệt dạng. Cũng nhân lúc hỗn loạn, hai tên nữa dưới hầm tung hai lựu đạn. May mà lựu đạn tịt ngòi. Cả hai bị bắt sống. Không thể can thiệp như hai lần trước, Luân đành để Ty công an khai thác Thường, nhưng anh dặn phải đảm bảo sức khoẻ cho hung thủ để anh còn trực tiếp thẩm vấn… - Em có chú ý hai chữ “mật báo” trong tờ trình của Ty công an không? - Luân thủ thỉ với vợ - Đó là cái gút mà ta phải phanh phui, bằng không Bến Tre khó tránh tổn thất nặng. Một số tay sai của công an lòn sâu vào nội bộ cơ quan chỉ đạo, ít nhất cũng đã có tên Côn, huyện ủy viên kiêm huyện đội phó, tên Hiếm, chi ủy Thạch Phú Đông… Ngày thứ ba, Luân bảo Ty công an đưa sang dinh tỉnh trưởng người bị bắt một lượt với Thường. Còn Thường, Luân ra lệnh thôi tra tấn, chờ anh… … Một trung niên, gầy, trán cao, mắt quầng đờ đẫn. Chắc chắn là ông ta cận thị. Tờ khẩu cung ghi: Dương Văn Tâm, 38 tuổi, nguyên giáo viên Trường trung học Bến Tre, bỏ nhiệm sở tháng 2 năm nay, hiện là nhân viên văn phòng ban tuyên truyền thị ủy. Theo lời khai của Tâm, chẳng có họp hành gì hôm đó, họ đi công tác, ghé nghỉ nơi trạm. Người bắn tiểu liên là trưởng trạm. Họ ném lựu đạn để tự vệ. Hai ngày tra tấn của Ty công an moi ra chừng ấy lời khai. Luân thừa biết đây là lời khai dối. Khai dối không được hợp lý lắm. - Ông nên khai lại! - Luân đặt tờ khẩu cung qua bên - Ông muốn giấu điều gì tùy ông, song lời khai của ông không hợp lý. Ông chỉ là nhân viên văn phòng một ban nhỏ của thị ủy, không sao cả, nhưng ông không phải ghé trạm. Trạm sao có hầm bí mật và chỉ có một hầm? Còn những chiếc đệm, còn giày dép, còn tàn thuốc lá… Các ông họp, đúng vậy. Người dự họp sống công khai trong thị xã - các ông chọn điểm họp như vậy cho tiện đi lại… Họp tới khuya thì nghe động. Số đông tản khỏi khu vườn. Còn ba người không thể đột nhập vào thị xã nên “chém vè”. Ông đánh rơi kiếng, không đủ lanh lẹ thoát chạy khi hầm bị khui. Cậu Thường thì thiếu kinh nghiệm… Có thể tôi nói không ăn khớp một trăm phần trăm, song đại thể là như vậy… Đôi mắt thâm quầng của người bị bắt tên là Tâm lóe lên tia sáng kinh ngạc. - Tôi cho phép ông về nhà giam suy nghĩ lời khai. Tôi cần sự hợp lý… - Luân bỗng hỏi: - Ông cận mấy dioptries (1)? Tâm trả lời là sáu - khá nặng. - Ông sẽ có kiếng để tự viết lời khai. Cho ông ba hôm… Ngay chiều hôm đó, thiếu tá Lưu Kỳ Vọng báo cáo riêng với Luân: J5 cho biết người tên Dương Văn Tâm có bí danh Hai Kiếng, ủy viên thường vụ thị xã, phụ trách trí và học sinh vận. Vọng đề nghị khai thác ráo riết Tâm để lùa hết cơ sở Cộng sản trong giới thầy cô giáo, công tư chức và học sinh. Luân giả bộ đắn đo. Anh chưa tìm ra kế hạn chế tổn thất. - Ý của thiếu tá rất đúng!… - Luân bảo - Song còn có cách hay hơn. Tôi sẽ tự cán đáng việc này… Nếu tay Tâm chịu làm việc cho mình, thiếu ta thấy sao? - Sau cùng Luân nảy ra sáng kiến. Vọng xoa tay lia lịa: - Trung tá làm được, em út phục lăn. Nhưng… - Khó phải không? Vọng gật đầu. - Thử cái coi! - Luân cười. Vào thời gian đó, nhiều người trong thị xã bị công an bắt, số đông là học sinh, lao động, có một ít thầy giáo, viên chức. Luân và Dung suy nghĩ mãi: Giáo Tâm không khai, Thường không khai, tại sao cơ sở bể rộ? Cái gì đây? Cũng đến hai mươi người, theo tờ trình của Ty công an, thuộc hạng đầu mối quan trọng, trong đó gần phân nửa dự cuộc họp ở ấp Cầu Tréo. - Kỳ quá! - Luân lầm bầm. Dung chợt reo to: - Em thấy nguyên nhân rồi! Tại sao người dưới hầm trồi lên còn đủ thì giờ lấy khẩu tiểu liên và, hơn nữa, cả băng đạn bắn mà không trúng ai cả? Anh ta thoát đi dễ dàng, chẳng bị rượt đuổi. - Đúng! - Luân hớn hở - Hai trái lựu đạn đều lép, giống y như trái ném vào anh! Lập tức, Luân gọi thiếu úy Thố. - Tại sao anh phát hiện được hầm? - Luân hỏi. Thì ra, có dấu hiệu: ba vỏ lôm chôm xếp hình tam giác ngay trên nắp hầm. - Anh có biết sẽ bị bắn không? - Không, tin mật chỉ nhắc đề phòng lựu đạn… - Tại sao các anh không ai bị thương? - Hình như người bắn cố ý không chĩa ngay vào chúng tôi…” Đúng hẹn, Luân gặp Tâm. Lời khai đã hợp lý hơn. Họ hộp hội nghị đội tuyên truyền, bị chụp, đa số lách theo vườn nên thoát. Anh ta là đội phó, cùng đội trưởng ở lại. Đội trưởng đã bắn. Anh ta và chú Thường - liên lạc của đội - ném lựu đạn nhưng vướng nắp hầm, không chạy được. Đội viên không ai sống hợp pháp - họ đi giày, dép là để hóa trang qua đồn bót. Luân chỉ cười tủm tỉm khi đọc xong lời khai. - Tôi không tin! - Luân bảo… - Anh nói dối! Anh là Hai Kiếng, ủy viên thường vụ thị ủy… Anh phụ trách trí và học sinh vận. Người của tôi trong các anh thông báo với tôi đầy đủ… Anh đừng hòng chối. Hai Kiếng sững sờ. Hôm nay, anh đeo kiếng, nên có thể nhìn thấy Luân, viên tỉnh trưởng vừa về Bến Tre đã nổi danh quỷ quyệt. Không đợi Hai Kiếng nói, Luân tuyên bố: - Anh phải làm việc cho tôi! Hai Kiếng xua tay: - Không đời nào! Ông có bắn tôi thì bắn, tôi không bao giờ chịu làm chó săn… Ông mưu mẹo với ai chớ không lừa được tôi đâu… Đúng, tôi là Thường vụ thị uỷ. Cứ xử tôi theo luật của các ông… - Anh không chịu cũng phải chịu… - Luân nạt đùa… - Còn cậu Thường! Tôi giao các người hằng tuần phải báo cáo cho tôi… Báo cáo qua người của tôi đang làm việc với các anh… - Có phải ông Hiếm ở Cồn Ốc giao lựu đạn cho em không? - Luân hỏi riêng Thường. Thường lắc đầu… - Có phải cái ông trưởng trạm giao lựu đạn cho em? Thường vẫn lắc đầu, song con mắt chớp chớp của nó lại xác nhận. - Có phải J5? - Luân tự hỏi. Tâm và Thường được thả. Họ chẳng hiểu lý do. Còn Ty công an thì khen nức nở: Ông trung tá mình cứng thiệt, xỏ mũi thằng Hai Kiếng te te! * Tính toán của Luân có một sơ hở lớn mà anh không ngờ. Sơ hở đó đã gây nên tổn thất đau lòng: Hai Kiếng bị xử tử… Thường thoát chết nhờ tuổi còn nhỏ, nhưng bị giam. Và mọi việc chỉ sáng tỏ sau ngày Tết nguyên đán Tân Sửu… Luân quên Hai Kiếng, bởi một sự kiện chính trị lớn đột ngột xảy ra ở Sài Gòn, ngày 11-11: cuộc đảo chính của lính dù nhằm lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm. ---------- (1) Độ cận thị
__________________
![]() |
#2
|
||||
|
||||
![]() Ván Bài Lật Ngửa Phần 5 - Chương 10 Khách không hẹn là trung tá Vương. Điều khiến Luân suy nghĩ khi tiếp ông: cuộc hành quân giải tỏa Dakpek, Dakto của quân Dù tận Bắc Kontum vừa chấm dứt, trung tá Vương hối hả xuống Kiến Hòa. Cái lý do muốn được “trao đổi kỹ về bài giảng ở đại học quân sự về đề tài triển khai quân Dù trong đội hình lữ đoàn ở nơi yên tĩnh” không đủ giải thích sự có mặt đột ngột của trung tá ở một địa phương ít yên tĩnh nhất Việt Nam Cộng hòa hiện nay, trong khi quan hệ giữa Luân và ông ta còn xa mới được gọi là bè bạn. Cả hai cùng giữ miếng: Luân bình thản mời khách nhấm nháp rượu pha nước dừa và tôm càng Bến Tre; trung tá Vương lại không dấu vẻ bồn chồn. “Tiểu đoàn I Dù không thiệt hại nhiều”. Trung tá Vương thoạt như định thuật cho Luân nghe về cuộc hành quân mà ông ta chẳng liên quan gì. Nhưng, ông ta đổi đề tài hỏi Luân tình hình Kiến Hòa. Hỏi để mà hỏi thôi, ông nghe rất lơ đãng. Hai người uống khá nhiều, câu chuyện tiếp tục chạy vòng ngoài. - Kennedy chắc thắng… Anh thấy thế nào? – Trung tá Vương áng chừng không thể nào chịu đựng mãi tình trạng kéo dài nhạt nhẽo, hỏi Luân. - Thế nào theo nghĩa nào? – Luân hỏi vặn, làm như không quan tâm lắm sự thay đổi nguyên thủ quốc gia Mỹ - Anh muốn biết ý kiến của tôi về khả năng thắng cử của Kennedy trước Nixon hay muốn biết nhận xét của tôi về những hậu quả một khi Kennedy thắng cử? - Kennedy thắng cử, đâu còn gì phải bàn…- Vương như lấy được trớn – Cái cần bàn là chúng ta sống thế nào dưới chính quyền của đảng Dân chủ… - Có một nhà báo viết: đảng Cộng hòa và đảng Dân chủ khác nhau như hai đường ray. Nghĩa là về hình thức, hai đảng tổ chức riêng, nhưng cả hai đều là thanh “ray” cùng đúc trong một khuôn, muốn dán nhãn hiệu Cộng hòa hay Dân chủ vào thanh nào cũng được. Tôi thấy ngồ ngộ khi người ta quan tâm đường ray mà quên xe lửa chạy trên ray! Chúng ta sẽ sống với đảng Dân chủ như chúng ta đã sống với đảng Cộng hòa, bởi vì chúng ta sống với chính đoàn xe… Đâu có gì khác. - Khác chớ! – Trung tá Vương sôi nổi hẳn – Eisenhower bảo thủ hơn Kennedy… Kennedy trẻ, năng động, thích đổi mới… - Tôi chưa đủ tài liệu để có một nhận định về chính sách đối nội của Kennedy. Nhưng về đối ngoại, tôi nghĩ là rất ít sự khác nhau giữa hai tổng thống… - Luân vừa thăm dò vừa lái nội dung câu chuyện. - Kennedy rất định kiến về cung cách cai trị của chính phủ Việt Nam! Đặc biệt, ông ta khó chấp nhận nền độc tài gia đình trị… - Vương tiến sát đến chỗ mà Luân chờ. - Anh quên là anh đang nói chuyện với một thành phần của nền độc tài gia đình trị đó! – Luân cười cởi mở. - Nếu tôi ghép anh vào triều đình của tổng thống Diệm theo nghĩa hiến dâng cả thể xác lẫn linh hồn thì đã không trao đổi với anh… - Vương nói rất nghiêm – Tôi lo lắng. Chiến tranh đang mỗi ngày mỗi tăng cường độ. Chẳng lẽ chúng ta khoanh tay nhìn nó tàn phá đất nước một cách vô lối? Chính phủ thêm súng thì Cộng sản cũng thêm súng… Đến một độ nào, Hoa Kỳ tái diễn sự kiện Cao Ly và Nga Xô, Trung Cộng cũng không làm khác… Triển vọng thật ghê rợn! - Cứ cho như tình thế đất nước sẽ như anh dự đoán, những sĩ quan trung cấp cỡ anh và tôi, chúng ta không thể đi quá giới hạn của những bình luận viên hoặc con chiên hết lòng xin Chúa xót thương mà giảm cơn thịnh nộ… - Anh khiêm nhường thái quá! – Vương hùng hồn – Nasser lung lay cả Trung Đông khi ông giữ cấp hiệu còn thấp hơn chúng ta… Đất nước cần đổi thay… - Tạm cho ý kiến của anh là xác đáng, tôi vẫn thấy cần thiết phải rõ ràng một vấn đề kỹ thuật: Thế nào là đổi thay và đổi thay bằng cách nào? Chẳng lẽ chúng ta đóng vai trò các thẩm mỹ viện nhan nhản khắp nơi, biến cặp môi chì thành môi mỏng, độn ngực lép thành no tròn…? - Anh cho việc sửa sắc đẹp như vậy là còn quá ít? – Vương hỏi, soi mói… - Trước hết, theo tôi cần có các bác sĩ phẫu thuật ngoại khoa… Từ cơ sở đó, các chuyên gia lớn sẽ làm nốt phần còn lại. Tới đây Vương không úp mở nữa: - Ông hoàng Phouma là một chuyên gia lớn, nhưng ông ấy không làm gì nổi nếu không có một con dao ngoại khoa Kong Lee … Đã rõ ràng… cái khôi hài ở đây là chuyện “chuyên gia lớn” mà Vương kỳ vọng lại là Phan Quang Đán, Hoàng Cơ Thụy, Nguyễn Tường Tam! - Giải phẫu nào cũng rỉ máu… - Luân nói xa xôi. - Tất nhiên! – Vương xác nhận – Ngay cả cắt bỏ ruột thừa… - Tôi chỉ băn khoăn: con bệnh sẽ đẹp hay xấu hơn khi chạm tới dao kéo. Có những giải phẫu viên thẩm mỹ giỏi và tồi… - Thận trọng là đức tính tốt của con nhà binh. Song, có một phương ngôn: Người ta không thể thưởng thức món ômơlét mà không đập vỏ trứng. Luân cười phá: - Trong cả hai nghề - mổ xẻ của bác sĩ thẩm mỹ và đập trứng của nhà bếp – tôi đều rất vụng! - Anh hiểu lầm chuyến thăm anh của tôi rồi! – Vương kêu to – Tôi không hề có ý định rủ ren anh cầm dao kéo hay cầm muỗng … Nếu có, thì là mời anh theo kiểu: La boufeille est tirée, il fault la vider…(1) Thật ra, một tỉnh nhỏ, quân số lèng phèng, dù anh muốn can thiệp cũng không ăn thua – bất kể cả phía nào, dự phần hay “cứu giá”. Khôn ngoan hơn hết là anh trung lập… Tôi nói rõ một chút: “anh” không phải trung tá Nguyễn Thành Luân, tỉnh trưởng Kiến Hòa đâu nhé… - Anh ngại “ngư ông đắc lợi” phải không? Trung tá Vương gật đầu. - Tôi tin anh, gần như giao sanh mạng cho anh… - Vương thổ lộ nỗi lo lắng, khi cơn “bốc” dịu lại. Luân không nói gì. Tiễn trung tá Vương ra xe, anh nhắc nhận xét cũ: - Lính Dù trang bị nhẹ quá. - Cám ơn anh! Tôi đã bổ khuyết rồi … … Trong thâm tâm, Luân thèm được làm trung tá Vương. Với anh, tình huống sẽ không lập lờ kiểu Kong Lee. Thật tuyệt diệu, nếu chính anh làm chủ Sài Gòn! Luân gieo phịch người lên ghế, chìm trong bao ý nghĩ rộn ràng, đến nỗi Dung choàng tay qua cổ anh, anh mới sực tỉnh. - Một cuộc hùn hạp giữa những đầu sỏ lừa đảo. – Luân bảo Dung – Anh chàng Vương sẽ vỡ mộng. Hiện tượng Kong Lee khuyến khích Phòng nhì Pháp, còn CIA thì xúi bẩy. CIA cần một tát tai cảnh cáo anh em ông Diệm, Phòng nhì mơ màng khôi phục trật tự thuộc địa cũ. Vương tin vào một chế độ trung lập chịu ảnh hưởng Pháp thay cho chế độ thân Mỹ, ngăn chặn cách mạng ở Nam Việt. “Đồng sàng” với Vương nhưng rất “dị mộng” là Nguyễn Chánh Thi – tên hoạt đầu này thuộc đảng Đại Việt, mục tiêu đơn giản song trắng trợn: một trong các ghế Tổng thống, Thủ tướng, Bộ trưởng quốc phòng, Tổng tham mưu trưởng … Chuyện đột ngột xuống Bến Tre của Vương có thể do Phòng nhì gợi ý: đừng để cách mạng nhân tình hình rối ren mà tấn công, tạo lợi thế cho chế độ thân Pháp trong sự mặc cả sau này. - Bao giờ thị họ bắt đầu? – Dung hỏi. - Theo anh, đợi Kennedy lên, bật đèn xanh. Có thể cuối năm… Làm sao báo cho A.07? * Lại một khách không hẹn nữa đến Kiến Hòa.Đại úy Phan Lạc, chỉ huy phó Biệt động Quân khu thủ đô – khác với trung tá Vương – đi thẳng vào vấn đề, khi vừa ngồi xuống ghế. - Tôi không tài nào chịu nổi! – Đại úy kêu lên giận dữ - Trung tá đã thấy lần nào cảnh lính Dù mổ bụng Việt Cộng chưa? Thật dã thú! Chính mắt tôi thấy, không phải một lần, cũng không phải mười lần… - Do “Nỗi buồn dã thú” mà tôi đọc trên một tờ báo – Luân đùa. Anh nhắc bài thơ của Phan Lạc. - Không! – Phan Lạc nói thật nghiêm – Hai khái niệm khác nhau. Ở đây, tôi nói họ là dã thú theo cái nghĩ họ muốn biến tất cả chúng ta: anh, tôi, sĩ quan nói chúng, làm những tên chỉ huy bọn đồ tể. Biệt động quân rồi sẽ phải cắm lưỡi lê vào bụng một người nào đó… - Bây giờ, anh mang sự tức tối ấy đến đây để làm gì? – Luân cũng nghiêm trở lại – Anh định trút lên đầu tôi sao? - Anh gánh một phần trách nhiệm vì là người của Tổng thống! - Giả tỷ đúng như anh nói, tôi cũng không thể cải biến được tình hình. - Được chớ! Nếu anh muốn… Luân ngắm nghía viên đại úy ngồi trước anh. Anh ta là ai? - Tất nhiên, tôi rất muốn… - Luân cân nhắc lời lẽ - Ở Kiến Hòa, tôi cấm mọi hành động vi phạm luật pháp thô bạo. Tôi nghiêm trị… Đại úy Phan Lạc lắc đầu: - Tỉnh Kiến Hòa quá nhỏ. Kể cả những gì trung tá đã làm ở Bình Dương, vẫn quá nhỏ… - Ta hãy làm những cái nhỏ trong khi chưa có cái lớn. – Luân tiếp tục thăm dò. - Cái lớn không tự nó đến. Phải tạo ra… - Phan Lạc sôi nổi trái hẳn tính khí thường ngày của anh mà Luân biết – Theo anh, một lữ đoàn Dù, một tiểu đoàn Biệt động quân là nhỏ hay lớn? – Phan Lạc chợt hỏi Luân. - Có thể là nhỏ, có thể là lớn… Còn tùy. Anh từng nghiên cứu An Nam hành quân pháp, Binh thư yếu lược, Hổ trướng khu cơ của Việt Nam, thế trận của Gia Cát Lượng… Cho nên, nói với anh về tình hình, sự phối hợp trong bố trí là thừa… - Luân quyết định trả lời lơ lửng. Đại úy Phan Lạc đập mạnh hai bàn tay vào nhau, tặc lưỡi: - Tiếc là tôi chỉ ở cấp đại úy! - Cấp trung tá cũng chẳng hơn gì! – Luân cười nhẹ. - Có phải anh nhận xét với ông Vương là lữ đoàn Dù trang bị nhẹ? - Đúng! - Biệt động quân có xe tăng và 12 khẩu pháo! Nặng hay nhẹ? - Vấn đề chắc không đơn giản ở chỗ có xe tăng và pháo. Làm sao xe tăng chịu lăn xích và pháo chịu cất tiếng, đó mới thật sự là vấn đề! Làm sao? Clausewitz (2) đã chạy rồi: Thống nhất chỉ huy, thống nhất tham mưu! Đại úy Phan Lạc thở ra: - Tôi nghĩ nguyên tắc của Clausewitz không tính đến điều may rủi… Hai người không nói nữa. Phan Lạc ngó ra bên ngoài, rõ ràng đầu óc anh ta rất căng thẳng. “Có thể là một người có thiện chí, song quá non!” – Luân đánh giá Phan Lạc. - Tôi hỏi thẳng anh và xin lỗi trước nếu câu hỏi làm anh khó chịu: Anh còn giữ liên lạc với “phía bên kia” không? – Phan Lạc úp mở. - Chi vậy? – Luân mỉm cười. - Tất nhiên, tôi hỏi là có chủ ý … - Đành phải không làm vừa lòng anh: Tôi không thấy lợi ích gì khi phủ nhận hay công nhận điều anh muốn biết! - Thôi, tôi không cần anh trả lời câu đó. Tôi hỏi anh một câu khác: Tôi có thể tin cậy anh ở mức nào? Luân bật cười: - Tới mức mà anh đã cho tôi biết những điều khá bí mật từ lúc gặp tôi… - Ngô Đình Nhu đã hỏi tôi: Tại sao tôi chống chính phủ? Và tôi đã trả lời: Vì tôi muốn bảo vệ chính phủ! - Trả lời rất thông minh! – Luân khen. - Tôi hy vọng sẽ còn gặp trung tá! – Phan Lạc đứng lên từ giã Luân. Luân tiễn Phan Lạc xuống thềm: - Đại úy nên nhớ: ông Thi quan hệ chặt với CIA… - Tôi biết! – Phan Lạc bảo – Tôi biết cả tên của nhân viên CIA đó. Ông ta là Carven, khoác áo phái đoàn viện trợ kinh tế. Chính luật sư Hoàng Cơ Thụy mối lái cho Carven gặp Thi. - Vậy là tốt… Còn Vương, ông ta là người của Phòng nhì… - Tôi cũng biết. - Chúc đại úy may mắn! – Luân vẫy tay hồi lâu, đến khi xe của đại úy Phan Lạc ra khỏi cổng. Còn lại một mình, Luân như tiếc rẻ: Cậu Phan Lạc này bấm cò súng sớm quá! * Luân đã phán đoán sai, Kennedy đắc cử ngày 10-11, cuộc đảo chính nổ ra ngày hôm sau, 11-11. Dàn cảnh chính là kết quả của cuộc bầu cử, mặc dù theo Hiến pháp Hoa Kỳ, tân tổng thống mãi đến cuối tháng giêng sang năm mới nhận chức.Vào 2 giờ sáng Luân choàng thức: trung úy truyền tin Hồ Nhựt Thanh báo có điện khẩn của dinh Độc Lập. Luân linh cảm tình hình đột biến. Té ra không phải điện thoại mà đài phát sóng riêng của Tổng thống thông báo chung các cấp quân sự, hành chính. Đài phát sóng yếu, rất khó nghe, nhưng Luân biết được điều cần biết: Vào một giờ rưỡi sáng nay, quân Dù đồn trú dã ngoại trong Sở thú nổ súng tấn công Liên binh phòng vệ Phủ tổng thống đóng trong thành 11è RIC cũ đồng thời bao vây dinh Độc Lập, kêu gọi tổng thống đầu hàng; Tham mưu biệt bộ Phủ tổng thống ra lệnh các lực lượng thuộc sư đoàn 7 đóng ở Biên Hòa và sư đoàn 21 đóng ở Mỹ Tho về Sài Gòn “dẹp một nhúm sĩ quan Dù phản loạn”. Luân mở máy liên lạc đặc biệt, xin nói chuyện với Ngô Đình Nhu. Từ đầu máy kia, tiếng Nhu nhòa trong tiếng liên thanh dữ dội: “Nhu đây, anh Luân hả?… Dinh Độc Lập đang bị vây. Tôi đang cố liên lạc với đại tướng Tỵ… Ngoài Dù, còn một số đơn vị Biệt động quân… Không có gì nguy ngập lắm… Anh yên tâm!”. Giọng Nhu khá bình thản. Như vậy, quân đảo chính vẫn chưa đột nhập được vòng rào bảo vệ dinh. Điện thoại reo. Bây giờ, trung tá Vương nói chuyện với Luân. “Chào trung tá Luân. Tôi là Vương đây… Điều mà tôi báo trước đang thành sự thật. Để giảm bớt đổ vỡ, chúng tôi yêu cầu Tổng thống giao quyền lại cho một chính phủ mới, còn Tổng thống và gia quyến sẽ được đảm bảo an toàn rời Việt Nam đến nơi nào do Tổng thống chọn lựa… Ủy ban cách mạng đã gửi tối hậu thư cho Tổng thống. Chúng tôi sẽ tổng tấn công nếu Tổng thống bác bỏ tối hậu thư đó. Tổng thống không thể hy vọng quân tiếp viện, các cầu dẫn vào thủ đô đã bị quân cách mạng chiếm… Tôi tin là trung tá hiểu thời thế, đừng vọng động…” Luân không đáp lại Vương một lời – các sĩ quan đã tề tựu quanh Luân. Luân gác máy, bảo: - Trung tá Vương, người cầm đầu quân đảo chính gọi điện cho chúng ta… - Ông ta nói gì? Kêu gọi chúng ta đầu hàng? – Chung Văn Hoa hỏi. - Cũng gần như vậy. Hình như ông ta gọi tất cả các tỉnh… - Họ chưa chiếm đài phát thanh! Nghe nhận xét của đại úy tham mưu trưởng Nguyễn Thành Động, Luân cho mở máy thu thanh: đài Sài Gòn im lặng, đài Quân đội liên tục đánh các bài hành khúc. Để kiểm tra thêm, Luân gọi điện cho Nhà dây thép Sài Gòn – cô nhân viên trực có mặt, cho biết súng nổ nhiều, quân Dù và Biệt động vận chuyển trên các xe quân sự đổ về dinh Độc Lập. “Không ổn rồi!” – Luân kêu thầm. – “Quân đảo chính không biết, ngay phút đầu, chiếm đài phát thanh và bưu điện… Những tài tử đảo chính!” Đại úy Động nói bằng lời sự đánh giá đó: Ce sont des stagiaires!(3) “Lại không tấn công ngay, tấn công kiên quyết… Súng đã nổ, là một. “Tổng thống”, hai “Tổng thống” – Luân tiếp tục suy nghĩ – Diệm, Nhu sẽ tìm cách hoãn binh để quật lại…” Giữa Nguyễn Chánh Thi và Vương hình như chưa khớp về ý định: Thi đòi Diệm đầu hàng, Vương đòi Tổng thống trao quyền và bình an ra đi. - Báo động trong toàn tỉnh! – Luân ra lệnh – Đình chỉ tất cả các cuộc hành quân, đề phòng quân đảo chính tấn công. Cho phép các đồn lẻ đuợc triệt thoái, nếu bị uy hiếp. Để đảm bảo mọi đơn vị thông suốt nhiệm vụ, cho một máy bay trinh sát phóng thanh lệnh của tôi! Luân ghi băng lời kêu gọi của anh: “Một bộ phận quân đội giữa đêm nay đánh vào dinh Độc Lập, nhân danh tỉnh trưởng Kiến Hòa, tôi ra lệnh quân đội, công an, viên chức và nhân dân toàn tỉnh không được mất trật tự, hốt hoảng, nghe tin đồn đãi…” Trước khi trời sáng, toàn tỉnh Bến Tre biết có đảo chính ở Sài Gòn. Luân không rõ quá trình thương lượng tiến hành ra sao mà 10 giờ, đài của dinh Độc Lập phát kêu gọi của Tổng thống: “Một số phần tử bất mãn và bọn tay sai Thực – Phong – Cộng mưu đồ lợi ích riêng đã phản bội hiến pháp, toan dùng vũ lực thanh toán thành quả cách mạng của Việt Nam Cộng hòa. Tôi, Tổng thống Ngô Đình Diệm ra lệnh sư đoàn 21 bộ binh lập tức về dẹp bọn phản loạn”… Chính Ngô Đình Diệm đích thân đọc bản kêu gọi khẩn cấp đó. Nghĩa là thế nào? Luân tự hỏi. Nguy kịch rồi sao? Từ hai giờ sáng đến giờ, anh túc trực tại phòng truyền tin cùng các sĩ quan trực thuộc. Dung pha cho họ cà phê. Họ vừa nhai xăng-vich vừa chăm chú theo dõi máy thu thanh, máy bộ đàm, điện thoại. Tin tức từng chập báo về: dân chúng thị xã Trúc Giang xôn xao, tụ tập bàn tán… Máy thu thanh lại nhận được lời của Diệm: “Hỡi các thiên thần mũ đỏ! Hỡi các con yêu quý của ta…” Máy bị tạp âm, không nghe được toàn văn. Luân buồn cười: Hôm nào, lối nói cảm hứng của Tổng thống xúc động cả một lữ đoàn, nay thì trơ trẽn. Tổng thống vốn không có giọng tốt để “ca” câu vọng cổ não nùng đó! - Có thể bọn stagiaires (4) này ăn may! – Đại úy tham mưu trưởng bắt đầu giao động. Mười một giờ, đài phát thanh Quốc gia bỗng lên tiếng, mở đầu bằng bài hành khúc rất quen thuộc của Lưu Hữu Phước – bài “Lên đàng”. Tiếp sau, một giọng chải chuốt lạ tai. đó là bác sĩ Phan Quang Đán, thay mặt cho Ủy ban cách mạng: “Hỡi quốc dân đồng bào! Cuộc chiến đấu oai hùng của dân chúng Việt Nam liên tiếp bị phản bội. Cộng sản đã cướp công của đồng bào, thiết lập chế độ độc tài Đảng trị ở Bắc Việt. Ông Ngô Đình Diệm đã cướp công của đồng bào, thiết lập chế độ độc tài gia đình trị ở Nam Việt. Từ khi trèo lên ghế Thủ tướng rồi Tổng thống. Ông Diệm một mặt đàn áp khủng bố các lực lượng quốc gia dân chính, một mặt dung túng cho gia đình và tay chân vơ vét bóc lột dân chúng thậm tệ. Chế độ dân chủ bị chà đạp, ông Diệm gian lận ngay trong các cuộc bầu cử. Thế nước lâm nguy. Ngày nay, Cộng sản đang lộng hành khắp thôn quê, lợi dụng sự bất mãn của dân chúng. Để chống Cộng hữu hiệu, mang ấm no hạnh phúc về cho dân, hoàn thành sứ mạng thống nhất Tổ quốc, quân đội đã ra tay hành động. Ngô triều đang hấp hối. Hội đồng cách mạng do tôi đứng đầu kêu gọi quốc dân đồng bào hưởng ứng cách mạng, siết chặt hàng ngũ sau lưng quân đội và Hội đồng cách mạng…” Đài phát nhật lệnh của đại tá Nguyễn Chánh Thi, Tổng tư lệnh quân đội cách mạng kêu gọi các binh chủng, chấp hành chỉ thị của ông. Những gì chi tiết nhất cũng chỉ đến mức độ đó: cách mạng, dân chúng, quốc gia, chống Cộng. Thế thôi. Đại úy tham mưu trưởng tặc lưỡi – anh ta khá nhạy bén về chính trị: Tào lao! Toàn đánh giặc mồm. Ba giờ chiều, đài phát thanh truyền đi nhật lệnh của đại tướng Tổng tham mưu trưởng Lê Văn Tỵ: Tổng thống Ngô Đình Diệm quyết định trao quyền cho các sĩ quan bàn bạc lập chính phủ mới… Sau đó, Đài phát thanh Quốc gia phát tiếng nói của Tổng thống: - Tôi, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa đã quyết định giải tán chính phủ hiện thời… Tôi kêu gọi các tướng lãnh của quân đội Việt Nam Cộng hòa thành lập một chính phủ lâm thời để có thể tiếp tục chiến đấu chống Cộng và bảo vệ xứ sở. Đồng thời tôi muốn phối hợp với Ủy ban cách mạng thành lập một chính phủ liên hiệp để tránh đổ máu và trấn an dân chúng. Tôi ra lệnh hội đồng các tướng lãnh tìm tất cả phương pháp thích nghi để chấm dứt mọi cuộc tuyên truyền xuyên tạc và ngưng bắn. Luân cười trong bụng: Lại một đường “lả lướt” gây mơ hồ và kéo dài thời gian. Chẳng lẽ Phan Quang Đán là trẻ con? Năm giờ chiều, Hội đồng cách mạng tuyên bố: Sáng ngày 12 sẽ có cuộc biểu tình lớn ủng hộ cách mạng và chào mừng chính phủ…. Cá cắn câu! Chạy trốn đi là vừa, cái hội đồng cách mạng ngờ nghệch đó! Luân cố che đậy sự bực tức của mình. Phan Quang Đán quả trẻ con! Tình hình tuy vậy vẫn chưa rõ ràng. Liên lạc với Phủ tổng thống bằng điện thoại thì bị cắt. Liên lạc vô tuyến điện khi được khi không. Luân cố gắng nói chuyện với Ngô Đình Nhu nhưng thất bại: tạp âm lấn át. Bộ tổng tham mưu bỗng từ chối tiếp nhận điện của Luân. Nhà dây thép còn giữ đều đặn đường dây vô và hữu tuyến song cho hay không thể nối với dinh Độc Lập được. Máy của sư đoàn 21 luôn bận, Luân biết sư đoàn vẫn “án binh bất động”. Một đêm thấp thỏm nữa qua. Hy vọng của Luân lớn dần: tình thế có thể nhùng nhằng, đủ thời gian để các đồng chí khai thác thời cơ giành đất giành dân, nhất là phá khu trù mật. Trong suốt đêm đó, Luân sục sạo các đài phát thanh Hà Nội, Bắc Kinh, Mátxcơva, Paris, Luân Đôn, Manila… Nói chung tin tức chưa có gì cụ thể. Đài Pháp, Mỹ kêu gọi kiều dân nước họ ở Sài Gòn đừng ra đường. Trả lời phỏng vấn của nhà báo Helen Fanfani, đại sứ Mỹ Durbrow nói gọn: Đó là việc nội bộ của Nam Việt. Luân cũng sốt ruột chờ đợi báo cáo về hoạt động nhảy vọt của “Việt Cộng” trong tỉnh. Tình hình lại im ắng. Tám giờ, dinh Độc Lập gọi Luân: Nhu yêu cầu Kiến Hòa huy động lực lượng về Sài Gòn cứu viện. Tiếng súng dồn dập nghe rõ trong máy. Giọng Nhu không còn điềm tĩnh như lần trước. Tất nhiên, phải nguy cấp lắm Nhu mới gọi Bảo an cứu viện, nhất là Bảo an Bến Tre mà Nhu thừa biết cách bức đò giang, điều động lên tới Sài Gòn không thể nhanh được. Chung Văn Hoa ngần ngừ: - Lỡ Việt Cộng tràn vào tỉnh lỵ thì sao? Luân làm ra vẻ kiên quyết: - Tập hợp các đơn vị có mặt, sửa soạn xe cộ: tỉnh trưởng sẽ chỉ huy hành quân. Chín giờ, Đài phát thanh quân đội tường thuật thu thanh cuộc họp báo tại Bộ Tổng tham mưu của trung tá Vương, một trong những thành viên của Ủy ban cách mạng, trung tá Vương nhấn mạnh rằng không phải là một cuộc đảo chính. Lữ đoàn Dù và các binh chủng khác muốn “bày tỏ nguyện vọng với Tổng thống”. Sự xuống nước kỳ quặc của quân đảo chính được giải thích liền sau đó: Đài phát thanh quân đội đổi chủ, người xướng ngôn đọc lệnh của đại tướng Tỵ buộc binh lính lữ đoàn Dù, Biệt động quân trở về doanh trại sĩ quan trình diện tại Sở chỉ huy Biệt khu thủ đô. Từ giờ đó, đài đưa tin đều về bước tiến của sư đoàn 7 và 21 bộ binh. Mười một giờ, sư đoàn 21 chiếm vườn Tao Đàn, sư đoàn 7 chiếm sân bay Tân Sơn Nhất. Mười sáu giờ, dinh Độc Lập được giải tỏa. Mười bảy giờ, Tổng thống nói trên đài. Lời lẽ và giọng khác hoàn toàn… “Sau một ngày biến cố tại thủ đô, tôi, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa vì tha thiết đến sự bảo toàn lực lượng quân đội trong nước phải đương đầu với Cộng sản, nên đồng ý tìm một giải pháp dung hòa… Nhưng bọn phiến loạn đã luôn luôn xảo trá. Vì thế cho nên tôi ra lệnh cho quân đội tham gia thanh toán chúng và bọn đầu cơ chính trị đồng lõa… Bọn chúng sẽ bị pháp luật trừng trị xứng đáng…” Mười tám giờ, đài Nam Vang đưa tin: Một máy bay quân sự của Nam Việt xin hạ cánh ở sân bay Pochenton – đi trên máy bay có 18 người gồm một trung tướng, một đại tá, một trung tá, bốn thiếu tá, sáu đại úy, năm trung úy và một thiếu uý. Lực lượng Bảo an Kiến Hòa chưa sang hết sông thì được lệnh quay về. Luân thất thểu như chính anh thua trận. “Đồ sọc dưa!” – Luân mắng thầm bọn đảo chính. Luân lên Sài Gòn ngay chiều tối. Trước khi ngồi vào xe, anh được tin: hai khu trù mật của Kiến Hòa “bị Việt Cộng san bằng”… “Khá” – Anh reo thầm. Tại Sài Gòn, anh biết thêm: trận đánh kéo dài 24 tiếng đồng hồ, làm chết và bị thương lối một nghìn binh sĩ, vài trăm thường dân. Trong số binh sĩ chết có thiếu tá Soạn bị phe đảo chính và trung tá Nguyễn Triệu Hồng bị lính phòng vệ bắn ngay trong giờ đầu. Đại tá Nguyễn Chánh Thi cùng toàn bộ Bộ tham mưu của ông ta chạy trốn bằng máy bay, mang theo trung tướng Thái Quang Hoàng. Các nhân vật trong “Ủy ban cách mạng” như Phan Quang Đán, Hoàng Cơ Thụy sau khi không được sứ quán Mỹ và Pháp cho tị nạn chính trị, đã nộp mình. Không có tin gì về đại úy Phan Lạc. Luân cũng biết một phần lớn khu trù mật các tỉnh vỡ. Luân không ở Sài Gòn lâu. Sau khi vấn an Tổng thống, thăm vợ chồng Nhu – Nhu bận quá, không trao đổi nhiều với Luân – anh trở về nhiệm sở, giữa lúc Quốc hội họp khẩn để “ngỏ lòng trung thành với Tổng thống”, một cuộc mít tinh lớn tại Công trường Lam Sơn mừng các chiến sĩ hai sư đoàn giải vây thắng lợi, lễ ra mắt Ủy ban nhân dân chống đảo chính… Độc đáo nhất là trong hàng ngũ “tri ân Ngô Tổng thống” có cả lính Dù – bây giờ không còn vênh váo nữa. “Lần này thì thoát. Nhưng đâu phải chỉ có lần này?” Luân ngẫm nghĩ về tình thế của anh em Ngô Đình Diệm. “Khi mà những kẻ giải vây hôm nay thành kẻ bao vây, sự thể hiểm nghèo hơn nhiều…” Ý kiến đó đến với Luân khi anh gặp trong đoàn giải vây những sĩ quan Trần Thiện Khiêm, Huỳnh Văn Cao, Tôn Thất Đính… Anh thừa hiểu nếu Nguyễn Chánh Thi dám rấn tới – tất nhiên với điều kiện sứ quán Mỹ đồng tình – Sư đoàn 7 và 21 cũng sẽ kéo về Sài Gòn, nhưng không phải để “cứu giá”. Sự chần chờ kéo dài hơn mười giờ đồng hồ và tốc độ hành quân của hai sư đoàn không phải “vì lý do kỹ thuật” như các sĩ quan phân bua. Có vẻ Nhu hiểu. Nhưng, chưa phải lúc “hỏi tội” hay tính sổ. Nhu đủ khôn ngoan trong xử sự và thời điểm rất mong manh này. – Diệm không gọi Sư đoàn 13! – Luân nghĩ đến đại tá Phan Cao Tòng. Trên xe, Luân thắc mắc trường hợp không tin tức của đại úy Phan Lạc. * … Hai ngày sau, Luân nhận được một cú điện thoại: Một nhà báo tên Nam xin gặp anh – tỉnh trưởng – để phỏng vấn công cuộc bình định Kiến Hòa sau chính biến ngày 11-11. Luân dễ dàng nhận ra tiếng nói của nhà báo – đó là Phan Lạc.Phan Lạc hóa trang thật khéo: đầu bạc, thêm râu mép và râu cằm. Người ta quen Phan Lạc qua bộ quân phục, bây giờ khó phát hiện anh trong bộ comlê màu sáng. Có lẽ cái lớn nhất giúp Phan Lạc lọt khỏi các tầng công an là anh gầy rạc, má nhô cao. - Biết thế này là phiền cho anh, song tôi cùng đường rồi. Tôi muốn vượt bên giới. Nhờ anh giúp. Luân suy tính khá lâu. Không, anh không một chút ngại đòn khiêu khích của kẻ thù – với chừng đó lần tiếp xúc, anh biết anh không lầm: Phan Lạc khờ khạo về chính trị, quá rõ, song không phải hạng cò mồi hạ cấp. Trên một nghĩa nào, Phan Lạc đã và đang là đồng minh của cách mạng. Luân suy tính cách giúp Phan Lạc tốt nhất – an toàn cho anh ta mà không lưu dấu vết nguy hiểm cho anh. Anh nhớ đến Lưu Khánh Nghĩa. Có thể chỉ huy phó Bảo an Tây Ninh đưa được Phan Lạc sang bên kia biên giới. Song, làm sao giới thiệu Lạc với Nghĩa? Hay tay sư trưởng sư 13? Không nên – phải giữ quan hệ với vợ chồng Phan Cao Tòng y như đã có. Quận trưởng Tuyên Nhơn, Trương Tấn Phụng? Chưa được. Người mà Luân dừng lại lâu hơn hết là Nhu. Phải, chỉ có Nhu… - Tôi cố gắng thử xem, sẽ báo với anh khi có kết quả… Tôi im lặng, tức là kế hoạch không thành, anh liệu mà xoay… - Luân bảo. - Cám ơn anh nhiều – Phan Lạc bắt tay Luân thật chặt – Nói điều ơn nghĩa với con người như anh là khiếm nhã. Song, tôi vẫn hy vọng có ngày đền đáp. Tất nhiên, không đền đáp trực tiếp với anh – hiểu như vậy chật hẹp quá. Tôi thua một keo, thua đau. Tôi sẽ nhớ đời: chọn bạn mà chơi! Những kẻ mà tôi tin cậy không có cái gì để được tin cậy cả: thế lực, đầu óc, tâm hồn… Tôi có sáu xe tăng, mười hai khẩu pháo, hai ngàn đạn, thế mà… Đúng như anh nói, vấn đề là làm sao cho những thứ đó cục cựa. cái Bộ tổng tư lệnh đảo chính là nồi tả pín lù. Vương nhiều toan tính quá. Thi đần độn quá. Chúng tôi thua vì không dám tiến công ráo riết ngay, đập rắn phải đập đầu! Phan Lạc tuôn một thôi nỗi ấm ức. Luân khoác vai anh, giọng thân tình: - Nếu cần rút kinh nghiệm, anh nên xốc vấn đề tận nền móng của nó. CIA và Phòng nhì chủ mưu, họ đã xác định lằn mức trước khi bấm nút cho các anh nhảy múa. Đó là liên minh với ma quỷ. Các anh lại phó thác mặt chính trị cho hạng hoạt đầu, bẻm mép, hèn nhát. Các anh sợ dân chúng… Phan Lạc gật đầu: - Anh tin đi, tôi sẽ làm lại! Dù biết Phan Lạc đang ở trong tình cảnh nguy hiểm, Luân vẫn mời anh ta ăn nhẹ với anh – hẳn là viên đại úy đói lắm. Trong lúc ăn, Phan Lạc thuật cho Luân nghe chi tiết về cuộc đảo chính. Như vậy, Phan Lạc nuôi ý nghĩ đảo chính từ lâu, đã dám in và rải truyền đơn kêu gọi lật đổ Diệm, đã từ chối chức tỉnh truởng Bình Dương do Diệm gợi… Nhưng, anh ta chỉ nghĩ đến việc nổ súng. Sự hợp tác của anh ta với Nguyễn Chánh Thi hoàn toàn ngẫu nhiên và do đó, anh ta bị Vương và Thi xoay. Chính vào lúc gay go, anh đi gặp Mac Garr tại nhà riêng, đường Trần Quý Cáp. Mac Garr cười ruồi: Chuyện nội bộ các ông! - Dẫu sao, ông Diệm cũng núng thế! – Phan Lạc bảo – Ông ta phải bịa chuyện “Sở dĩ lính dù, lính Biệt động kéo về dinh Độc Lập là vì bị gạt: họ ngỡ đi cứu Diệm”! Ông ta cắn răng để xoa dịu. Ai đời hôm quốc khánh, chính Nguyễn Chánh Thi dẫn đầu các sắc lính trong cuộc diễu binh và nữa tháng sau, nện lại Diệm đau điếng… Còn nữa! Từ giã Luân, Phan Lạc nói thêm: - Lẽ ra tôi không cần thưa với anh, song tôi nghĩ cũng không vô ích: Tôi không hề hé răng với ai về mới quan hệ của anh. Luân cười thoải mái: - Tùy anh! Tôi sẵn sàng chấp nhận như đã chấp nhận ván bài không có lá nào giấu mặt… … Luân gặp Nhu đúng hôm chính phủ Cambốt trả cho Sài Gòn chiếc máy bay mà các người chỉ huy cuộc đảo chính sử dụng để trốn sang Nam Vang. Trung tướng Thái Quang Hoàng cùng về với chiếc máy bay đó. Nhu tỏ ra cao tay ấn: Anh ta tuyên bố với báo chí là Thái Quang Hoàng bị bắt cóc làm con tin. Hoàng chỉ phải làm một tờ tường trình, trong đó nói hoàn cảnh bị bắt cóc, những việc đã xảy ra ở Nam Vang. Và Hoàng được tự do. - Anh nhìn vụ chính biến rất bao quát… - Luân nói sau khi nghe Nhu thông báo về thái độ đối với những người liên can: tha thứ cho quân nhân cấp giữa và dưới, tống giam số chính khách, ổn định tinh thần binh sĩ, cải tổ một số mặt trong bộ máy Nhà nước – Vấn đề là không cho đẻ số. Đại úy Phan Lạc gặp tôi… - Ái chà! Thằng đó gan dữ… Nó đâu rồi? Nhu tròn xoe mắt. - Anh định làm gì anh ta? – Luân hỏi, giọng vui. - Không lẽ tôi mời nó uống sâm banh? - Tất nhiên! Không nên mời anh ta uống sâm banh hay bất kỳ thứ rượu nào, nhưng cũng không cần thiết làm anh ta phát sợ. Anh hiểu xu hướng chính trị của đại úy Phan lạc không? - Không rõ lắm! - Anh ta khác ông Thi, ông Đán… Anh có cần một thế cân bằng nào đó trong các lực lượng chống Việt Nam Cộng hòa không? - Nếu vậy, anh quên là ta có Mai Hữu Xuân, tướng André và nhiều người khác… - Không! Anh ta không ưa Pháp, không thích Mỹ. Anh ta ít nhiều mang ý thức Quốc gia… Gieo một chút ân tình, chỉ có lợi thôi… Nhu rít thuốc liên hồi – triệu chứng của sự chấp nhận. - Nó muốn gì? - Tôi đảm bảo với anh ta: anh sẽ cho anh ta rời Việt Nam một cách yên ổn… - Được! – Nhu dứt khoát – Anh nhắn nó: Tôi tha nó lần chót! Nó cứ đến đồn biên phòng nào tiện cho nó. Tôi sẽ điện… - Tôi thành thật chúc mừng anh! - Luân bảo Nhu – Anh biết bắt kịp nhịp độ của các diễn tiến. Anh đã dám bỏ qua một Thái Quang Hoàng, “quốc trưởng” của nhóm đảo chính. Anh ra lệnh không được khám xét nhà các sĩ quan làm phản, không được đụng vợ con họ. Tôi góp thêm ý với anh: số chính khách cũng kẻ này người khác, nên phân biệt. Đừng cho dư luận thế giới nhìn ta như nhìn những kẻ trả thù. Nói cho cùng, ta đối phó với Kennedy là chính… Nghe đâu Durbrow sẽ hưu trí, Frederick Nolting thay… Nhu thở dài thườn thượt: - Tôi biết tự kiềm chế…Song, anh Tổng thống! Mong anh vì lợi ích chung, nói thêm. Tổng thống định xóa sổ lữ đoàn Dù. Tôi can mãi. Nếu xóa sổ lữ đoàn Dù thì cũng phải xóa sổ Biệt động quân, Thủy quân và ngay chính Liên minh phòng vệ! * Gặp mặt giữa Dương Tái Hưng – Lâm Sử - Tào Côn.TÀO CÔN: Tưởng Tổng thống rất lo ngại… Người đích thân gọi điện chất vấn Tổng thống Eisenhower và ông Allen Dulles. Người được đảm bảo là chính phủ Mỹ cũng bị bất ngờ… LÂM SỬ: Chu Tổng lý theo dõi rất chặt tình hình vừa rồi. Ngay Mao Chủ tịch cũng hỏi han sự an nguy của ông Diệm. Người dạy: Ngô Đình Diệm tốt! Trung Quốc cần Ngô Đình Diệm… DƯƠNG TÁI HƯNG: Các ông chưa làm nghề dạy thú! Cho liều nha phiến rất cần, nhưng cũng cần cây roi điện… LÂM SỬ: Việt Cộng nhân cơ hội này sẽ mạnh hơn… Xáo trộn chỉ có lợi cho Việt Cộng… DƯƠNG TÁI HƯNG: Chúng tôi thuần hóa được Diệm. Các ông không làm tròn mọi cam kết… LÂM SỬ: Tiên sinh quên rằng Việt Cộng còn một đồng minh nữa là Nga Xô! DƯƠNG TÁI HƯNG: Nga Xô ở xa… LÂM SỬ: Chúng tôi làm tất cả những gì có thể làm được! DƯƠNG TÁI HƯNG: Trừ việc thuần hóa Việt Cộng! Nghị quyết 15 là dấu hiệu Cộng sản Việt Nam thoát khỏi lằn ảnh hưởng các ông. Tại sao không “trường kỳ mai phục, súc tích lực lượng, chờ đợi thời cơ”? Hoặc, tại sao không thúc đẩy phiêu lưu như ở Nam Dương, chiến đấu tuyệt vọng như ở Mã Lai, thoi thóp như ở Phi Luật Tân, chao đảo như ở Thái Lan, biến thành thổ phỉ như ở Miến Điện? Tại sao không đẻ ra được một Đảng gọi là “Mác – Lênin chân chính” như ở nhiều nơi? LÂM SỬ: Hoàn cảnh Việt Nam khác! DƯƠNG TÁI HƯNG: Biến đổi hoàn cảnh! Nếu Trung Hoa lục địa muốn cải thiện giao hảo với nước Mỹ… TÀO CÔN: Tôi nghĩ là Ngài Dương Tái Hưng quả là cao kiến! DƯƠNG TÁI HƯNG: Còn gã Nguyễn Thành Luân? LÂM SỬ: Tôi nghĩ là Ly Kai đã báo rõ với Ngài. DƯƠNG TÁI HƯNG: Nó đang là trung tá tỉnh trưởng. Nó sẽ là đại tá, thiếu tướng tưlệnh quân khu, bộ trưởng và không loại trừ nó là Tổng thống! LÂM SỬ: Hạn chế con đường thăng quan tiến chức của gã là việc của Ngài! DƯƠNG TÁI HƯNG: Không phải trong chúng tôi ai cũng giống nhau về cách nhìn gã. William Porter đồng ý với tôi. Nhưng Durbrow, Fishel, Mac Garr và cả Allen Dulles đòi tôi trưng bằng chứng gã đang là người của Việt Cộng… Tôi không có! LÂM SỬ: Tôi sẽ cố gắng. * Báo cáo tuyệt mật của Durbrow gửi Tổng thống Eisenhower, đồng gửi Tổng thống kế nhiệm J.F.Kennedy (thứ bổn gửi ngài Allen Dulles).Trong những ngày sắp tới, tôi sẽ giả từ chức vụ mà tôi đảm đương suốt mấy năm qua ở phần đất rất khó hiểu này. Nói chung, với công vụ của một đại sứ, tôi đã cố gắng và những gì tôi để lại hy vọng sẽ không phải là gánh nặng đối với người thay thế tôi, cũng như tôi thừa hưởng tành tựu đáng ngợi khen của ngài đại sứ tiền nhiệm Frederick Rheinardt. Trong những ngày cuối cùng của nhiệm kỳ, tôi đứng trước vô số tình thế phải xử trí. Sự êm đềm trong quan hệ giữa chúng ta và Tổng thống Ngô Đình Diệm không còn nữa. Cuộc chính biến 11-11, - người phụ tá của tôi là Williams Porter, đại diện của CIA là Fishel đã báo cáo tỉ mỉ sự cố từng ngày với Tổng thống. Ở đây, tôi muốn lùi xa khỏi các tác động thời sự để có một cái nhìn chiến lược – cuộc diễn biến đó mở bước ngoặc mới, chẳng những trong chính sách của chúng ta với đồng minh mà còn xuất phát từ những mục tiêu của nước Mỹ chọn lựa, tạm gọi là những mục tiêu châu Á, vào thập niên 1960. Chúng ta chọn lựa Nam Việt và không chọn lựa phương pháp để có mặt ở Nam Việt – chấp nhận tất cả phương pháp miễn đảm bảo mục tiêu. Chính sách đó không hề phiêu lưu, bởi, 10 năm sau ngày thành lập, nuớc Trung Hoa đồ sộ của ông Mao Trạch Đông đã như một đứa trẻ bắt đầu tuổi trưởng thành, thấy rằng tính hăng máu thường phải trả giá, có nhiều dấu hiệu muốn sống hòa thuận với phương Tây – tất nhiên còn do những rạn nứt từ đại hội 20 của Đảng Cộng sản Xô Viết thúc đẩy nữa. Có thể nói rằng, chúng ta tiến chậm, song vững chắc trên con đường từng bước vô hiệu hóa Trung Cộng trong vai trò đỡ đầu cố hữu của nó đối với các phong trào dân tộc và Cộng sản ở Đông Nam Á, điều kiện để lôi cuốn nó cuối cùng cũng thành đồng minh của chúng ta. Tôi nghiên cứu rất kỹ ý kiến của tiến sĩ Henry Kissinger trong Foreign Affairs (5) và tán thành “chính sách Trung Cộng” của ông. Nhưng tôi cảm giác tiến sĩ Kissinger đánh giá chưa thỏa đáng phần bất lực của Trung Cộng đối với khu vực, đặc biệt đối với Việt Nam sau khi phe Cộng sản xuất hiện bất đồng quan điểm. Cùng sống với họ một số năm, tôi khám phá ra tình cảm chống Trung Quốc mang tính truyền thống lịch sử của một số đông người Việt Nam và tôi tin đó là tính truyền thống quốc gia. Cũng dễ hiểu thôi, nếu người Pháp đô hộ Việt nam non thế kỷ thì người Trung Quốc đã làm việc đó đến những mười thế kỷ. Khác Hoa kiều ở Thái Lan, Mã Lai, Indonésia một động lực chính trị - Hoa kiều ở Việt Nam giữ vai trò lưu mờ, nếu không nói một bộ phận thành đối tượng đả kích của nhân dân địa phương. Sở dĩ tôi dừng lại lâu trong phân tích này là vì tôi nghĩ bên cạnh “chính sách Trung Cộng”, Tổng thống còn có “chính sách Việt Nam”. Có hay không có người Trung Quốc sát cánh, người Việt Nam vẫn hành động – quá khứ từng chứng minh Việt Nam của Hồ Chí Minh giành độc lập dân tộc trước khi Mao Trạch Đông vào Bắc Kinh. Trong khi thừa nhận vai trò kềm chế của Trung Cộng vẫn còn chừng nào đó tại phần đất này, tôi không tuyệt đối hóa vai trò đó. Nước Mỹ sẽ tồn tại ở Nam Việt. Quyết tâm này ít nhất cũng đụng chạm đến hai lĩnh vực: chúng ta có thái độ như thế nào với Bắc Việt và chúng ta có thái độ như thế nào với chính quyền chống Cộng ở Nam Việt – hiện nay, với chính quyền của Tổng thống Diệm? Về lĩnh vực thứ nhất, chúng ta dám chấp nhận “một Triều Tiên lập lại” không? Chắc chắn sẽ không có việc chúng ta và người Trung Quốc đánh nhau phía trên vĩ tuyến 17, nhưng tình thế không vì vậy mà cho phép chúng ta thiếu cân nhắc. Tôi nghiên về quan điểm: tất cả đều có thể, miễn chúng ta sẵn sàng. Lĩnh vực thứ hai không kém phức tạp. Ông Ngô Đình Diệm ngày càng tỏ ra không phải một Bảo Đại khi người Pháp còn thống trị ở đây. Ông ta thân Mỹ và chống Cộng – chính xác như vậy – song ông ta đòi hỏi sự thân Mỹ ở mức đồng minh và theo đuổi phương pháp chống Cộng của chính ông ta. Tôi có trong tay vô số bằng chứng về những điều ông Diệm không thích chúng ta. Những cái đó không đứng yên. Chúng sẽ phát triển và tôi xác tín rằng sớm muộn gì chúng ta và ông ấy cũng phải chia tay. Vấn đề là chúng ta đừng để cảnh chia tay bi đát. Sau cú đảo chính vừa rồi, ông Diệm thậm chí không gọi đại sứ Mỹ đến để chất vấn. Ông chấp nhận sẽ sống giữa các mưu toan xóa bỏ ông. Hiển nhiên, ông ta không can tâm “tử vì đạo”. Ông biết chỗ yếu của chúng ta – nỗi lo sợ ông ta và Vệt Cộng liền lưng. Triển vọng lạ lùng đó, tiếc thay, mỗi lúc mỗi thêm các yếu tố hiện thực. Cư xử với ông Diệm tức là cư xử với cả Nam Việt (mà tỷ trọng Việt Cộng không nhỏ) và cư xử với Nam Việt là cư xử với cả nước Việt Nam. Tôi xin phép đặt chỗ đứng như vậy để vị Tổng thống nhiệm kỳ tới của nước Mỹ và ngài đại sứ thay thế tôi tham khảo. * Một sự cố tuy nhỏ song khiến đồn công an biên giới Mộc Bài nằm trên quốc lộ số 1, bên kia là Bavet của Cambốt phải bàng hoàng. Họ được lệnh từ Phủ tổng thống: có một xe Jeep chở một sĩ quan cấp đại úy sẽ đến kiểm tra công việc biên giới. Đúng ngày nhưng chệch giờ, xe đến sớm – xe jeep đỗ cách cổng chắn lối mười thước, một đại úy xuống xe. Ông ta không có giấy tờ gì. Trung úy đồn trưởng tiếp ông ta. Ông ta hỏi đôi câu. Xong từ giã đồn trưởng, bảo là quay xe về Gò Dầu. Khi ông ta lên xe – và trung úy đồn trưởng vào đồn – thì xe chợt vọt nhanh, đâm gãy cổng chắn, lao sang Cambốt. Lính gác mãi sau mới tỉnh hồn. Bấy giờ, xe đã tiến sâu vào Cambốt, không ai dám bắn theo…Có người nhìn được mặt viên sĩ quan: đại úy Phan Lạc, chỉ huy phó Biệt động quân, người dự vào chính biến 11-11. * Cái phải đến, đã đến.AFP – (bài của Georges Made) Phnôm Pênh. Một đài phát morse mang tên LPA (6) tồn tại từ đầu năm 1960 ở một vùng nào đó của Nam Việt vừa công bố bản cương lĩnh chính trị và tuyên ngôn hành động của tổ chức mới chống chế độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm và đồng minh Hoa Kỳ của ông. Tên của tổ chức là Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, tập hợp các đoàn thể như đảng Nhân dân Cách mạng, đảng Xã hội cấp tiến, đảng Dân chủ, Hội lao động, phụ nữ, nông dân, thanh niên, nhà báo, văn nghệ, người Miên, phong trào dân tộc tự trị Tây Nguyên, những người theo đạo Thiên chúa, đạo Phật, đạo Cao Đài, Hòa Hảo, những cá nhân tư sản, trí thức, sĩ quan… Danh sách của Ủy ban Trung ương chưa được LPA giới thiệu đầy đủ, nhưng người ta biết có bác sĩ Phùng Văn Cung, một trí thức vừa rời thành phố vào mật khu, kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, ông Trần Bửu Kiếm, ông Y Bih Aléo, một nhà sư người Miên nổi tiếng, ông Sơn Vọng, giáo chủ một giáo phái Cao Đài, ông Ngọc đầu sư Ngợi, nhà soạn kịch lớn của Nam Việt, ông Trần Hữu Trang và nhiều người khác. Như vậy, kể từ ngày 20-12, chính phủ Nam Việt phải đối phó với một kẻ thù có tổ chức, có cương lĩnh, có nhân sự, kẻ thù nguy hiểm nhất mà họ chưa từng gặp từ khi ông Diệm cầm quyền. Văn kiện của Mặt trận không nói gì đến lực lượng quân đội song giới ngoại giao ở thủ đô Cambôt cho rằng chính lực lượng quân đội ANL (7) còn ra đời trước cả Mặt trận và là cơ sở đảm bảo cho sự hoạt động của mặt trận. Với kinh nghiệm thuần thục, không bao lâu nữa, Mặt trận sẽ triển khai khắp Nam Việt. Mặt trận có nhiều vùng đất đông dân, họ thật sự là một quốc gia trong một quốc gia. Rồi đây, các chính phủ Cộng sản kể cả Trung Cộng sẽ giúp cho mặt trận tự giới thiệu với dư luận quốc tế. Điều đáng nói là sẽ không ít chính phủ không Cộng sản thuộc thế giới thứ ba giành cho Mặt trận cảm tình. Mặt trận cũng sẽ giành được cảm tình kín đáo của một số nước dân chủ có vai vế - tỷ như nước Pháp. Trên tất cả mọi cái, việc Mặt trận ra đời có nghĩa là chính phủ của ông Diệm và người Mỹ thất bại lớn về đối ngoại. Sau bao năm chính quyền Sài Gòn tố Cộng, ngày nay, một tổ chức đối nghịch – không ai nghi ngờ về vai trò của những người Cộng sản Nam Việt trong Mặt trận – lù lù xuất hiện, công nhiên thách thức cả sinh mạng của chế độ được người Mỹ ủng hộ. Và, thời điểm Mặt trận xuất hiện trên vũ đài là lúc nội bộ chế độ Sài Gòn rối ren hơn bao giờ hết. Mặt trận chủ trương thành lập một chính phủ liên hiệp rộng rãi, đưa Nam Việt phát triển theo chính sách không liên kết và trung lập, đặt quan hệ tốt với các nước dù thuộc chế độ chính trị nào, giải quyết vấn đề thống nhất cả nước Việt Nam qua thương lượng bình đẳng, quan tâm đến tự do kinh doanh của các tầng lớp, thoả mãn yêu cầu ruộng đất của nông dân và cam kết một nền dân chủ rộng rãi, tuyệt đối cấm đoán chèn ép tôn giáo… Thật hấp hẫn! Không một người Việt nào ở Nam Việt không tìm thấy mình trong cương lĩnh đó. Người ta không chờ đợi phản ứng của ông Diệm và nước Mỹ - phản ứng tiêu cực thôi. Song người ta chờ đợi chế độ Sài Gòn chiến đấu trong tư thế rút lui. Dĩ nhiên, chế độ Sài Gòn dựa vào nước Mỹ. Nhưng nếu những người cách mạng ở Nam Việt quyết định ra công khai chống chế độ Sài Gòn, họ đã tin là họ sẽ thắng người Mỹ - dù hình thức cuộc tranh chấp thay đổi như thế nào… Nước Pháp vốn có quan hệ cố hữu với ba nước trên bán đảo Đông Dương, nên chọn chỗ đứng nào? Tướng De Gaulle từng hô hào cho một “nước Pháp vĩ đại”, đang là bạn thân của thái tử Sihanouk và hoàng thân Phouma, tại sao không làm nốt công việc còn lại ở Việt nam? Nhiều triệu chứng cho thấy FNL (8) muốn chứng tỏ mình đã quên quá khứ không vui với nước Pháp, miễn là Pháp biết chìa tay – chứ không phải các pháo hạm và các viên đô đốc vào thế kỷ XIX hay xe tăng của tướng Leclerc vào giữa thế kỷ XX. Không ai ngăn cản Trung Cộng bành trướng xuống phía Nam có hiệu lực bằng Cộng sản Việt Nam! ---------- (1) Rượu đã khui, mời cạn! (2) Karl von Clausewitsz, danh tướng và nhà lý luận quân sự lớn của Đức (1780-1831) (3) Những tay tập sự (4) Tập sự (5) Những vấn đề đối ngoại (6) Thông tấn xã giải phóng (Liberation Press Agency) (7) Armée Nationable de Libération (Quân giải phóng) (8) Front National de Libération: Mặt trận giải phóng dân tộc Phần 5 - Chương 11 Ở Sài Gòn, “Ủy ban nhân dân” mừng tổng thống thọ lục tuần do Tổng giám đốc Tổng nha thông tin, bác sĩ Trần Văn Thọ, đứng đầu cùng một số nhân sĩ, thương gia, tướng lĩnh ra thông cáo yêu cầu mỗi tỉnh thành lập một ủy ban như vậy. Không có một lệnh chính thức nào của chính phủ - đây là “sáng kiến của nhân dân”! – Nhưng trong vòng vài ngày, các ủy ban mừng thọ tổng thống mọc lên khắp nơi. Ở cấp trung ương, Phong trào cách mạng quốc gia dựng ra ủy ban từng ngành. Sự cố gắng làm rầm rộ ngày thọ của tổng thống không cón cái hăm hở của những năm Diệm vừa cầm quyền – bây giờ, đến giới di cư cũng ngao ngán – mà cốt xóa đi phần nào vết thương 11-11 và quan trọng hơn nữa, lễ mừng thọ tổng thống là cơ hội “hốt bạc” của quan chức. Ủy ban tỉnh Kiến Hòa đề xuất mở hội chợ nhân dịp Tết nguyên đán Tân Sửu, để gây quỹ dùng cho các hoạt động rầm rộ trong dịp mừng thọ này. Tỉnh trưởng không có lý do gì để bác ý kiến đó. Từ đầu năm dương lịch, hội chợ đã bắt đầu xây dựng, nhiều gian hàng che dọc con đường dẫn xuống sông – phần lớn là gian hàng của người Hoa ở Chợ Lớn. có khu giải trí, ăn chơi. Có sân khấu lộ thiên. Sẽ có thi nữ công, bơi đua, thi hoa hậu. Ngày 23 Tết, cùng với lễ tiễn ông Táo về trời, thị xã Trúc Giang rực rỡ cờ băng – tỉnh trưởng khai trương hội chợ. Luân dự định sau đó vài ngày, anh đi nghỉ vùng biển với Dung – từ khi hai người thành vợ thành chồng, chưa được một ngày rảnh rang. Nhưng, khai trương xong hội chợ, Luân vừa về nhà thì Lưu Kỳ Vọng báo khẩn: J.5 cho hay Việt Cộng sửa soạn tấn công thị xã Trúc Giang trong dịp Tết. Tuy chưa nắm cụ thể ngày giờ, lục lượng tấn công, song tin của J.5 luôn luôn chính xác. Luân đành hoãn dự định đi nghỉ và gọi Dung. Dung hẹn là sẽ xuống Bến Tre ăn Tết với Luân. Tại hội nghị quân sự tỉnh, Chung Văn Hoa trình kế hoạch tỉ mỉ, được tham mưu trưởng tán thành và được Lưu Kỳ Vọng bổ sung. Theo kế hoạch đó, sẽ dụ cho việt Cộng thọc sâu vào thị xã rồi bao vây tiêu diệt. Lính được ăn Tết sớm, xong di chuyển khỏi thị xã, không ra lệnh cắm trại công khai để đánh lừa địch. Lính tập kết ở Cồn Phụng, An Hóa và Giồng Trôm, sẵn sàng phương tiện thủy và bộ. Hễ tình hình động, tung quân kèm cơ giới bít các đường ra, chia nhỏ Việt Cộng diệt từng nhóm một. Phòng xa, kế hoạch dự trù phối hợp với sư đoàn 21 đóng bên Mỹ Tho và phân đội giang thuyền của Bộ tư lệnh Hải quân đóng bên Vĩnh Long. Đó là trường hợp của lực lượng Việt Cộng có các tiểu đoàn chủ lực khu tham chiến. - Trúng mối lớn rồi! – Lưu Kỳ Vọng hí hửng. Luân rơi vào tình trạng khó xử. Anh không thể không duyệt y kế hoạch phòng thủ và phản kích – nói chung rất hợp lý này. Theo ý Luân, quân giải phóng chưa đủ sức đánh chiếm một thị xã – quấy rối bằng đặc công, biệt động thì được, nhưng nếu đặt yêu cầu cao hơn thí khó tránh khỏi tổn thất. Tất nhiên, chắc chắn một trong các yếu tố mà Bộ chỉ huy quân giải phóng tính đến là thời cơ và bộ phận nội tuyến. Chưa rõ bộ phận nội tuyến mạnh đến đâu, chứ thời cơ thì coi như không còn bất ngờ nữa. Làm sao báo động với các đồng chí mình? Luân bồn chồn chờ đợi Dung – mong cô ấy đã gặp được Sa và Sa đã nối được đường dây với anh Sáu Đăng. Ngày 27 Tết, Dung xuống Bến Tre. Tình hình liên lạc vẫn như cũ. Sa gọi điện cho cô: bản thân cậu ta cũng lúng túng. Trưa 27 Tết, Lưu Kỳ Vọng, như cơn lốc, ùa vào văn phòng của Luân mà không kịp gõ cửa. - Trình trung tá, nắm được ngày giờ, kế hoạch tấn công của Việt Cộng rồi … Vọng trao cho Luân một tờ giấy dầu – thứ dùng để gói hàng. Chỉ thị tấn công thị xã Trúc Giang nằm gọn trong tờ giấy đó. Người chép chữ khá đẹp. Chép bằng ngũ bội mài với nước – chất ngũ bội tiệp với màu vàng của tờ giấy dầu. Bôi lên giấy nước phèn đen thì chữ hiện rõ. Chỉ thị do trưởng ban quân sự tỉnh Nguyễn Anh Đào ký. Ngày N là 30 Tết. Giờ G là đúng giao thừa. Mở đầu coi như dự lệnh một tiếng nổ lớn đánh sập cổng dinh tỉnh trưởng. Hiệu lệnh tiếp liền là bộc phá đánh nhà đèn. Lực lượng biệt động lập tức chiếm dinh tỉnh trưởng, Ty công an, khám. Các mũi nhanh chóng thọc vào thị xã, giữ các chốt giao thông và các cao điểm. Cơ sở nội ô phát động quần chúng phá kềm, diệt ác. Một bộ phận vũ trang sẵn sàng đánh viện từ các hướng. Nếu tình huống phát triển thuận lợi, sẽ giữ thị xã suốt ngày hôm sau để đủ thời giờ chuyển chiến lợi phẩm ra căn cứ. Nếu tình huống không thuận lợi, thì cố gắng làm chủ cho tới 4 giờ sáng, sẽ rút theo ngả Giồng Trôm và vượt sông Hàm Luông. Chú ý tránh thương vong cho dân … J.5 ghi chú: 1) Bí thư tỉnh ủy Ba Địch đích thân chỉ huy. 2) Việt Cộng sử dụng nội tuyến, chưa rõ là ai, song rất có thể là người thân cận tỉnh trưởng. - Tôi thấy không có gì cần phải thay đổi kế hoạch đối phó của chúng ta… - Vọng bảo – chỉ thêm hai chi tiết: tung hết lực lượng giang thuyền của tỉnh, xin giang thuyền của hải quân, thống nhất giờ hoạt động là 12 giờ đêm, ngăn hẳn mọi lưu thông trên sông Hàm Luông, sông Ba Lai và sông Bến Tre; chia xe tăng, xe bọc thép làm hai cụm, một từ Giồng Trôm lên chiếm cầu Chẹt Sậy, một từ sân bay qua chiếm cầu Ba Lai. Luân ký thêm vào phần bổ sung kế hoạch, Vọng mang đi gặp Hoa. - Em mới nảy ra một ý kiến. Anh báo khẩn cấp với Tổng thống, Bộ tổng tham mưu, Bộ tư lệnh quân khu về cuộc tổng tấn công này. Ta hy vọng các anh của mình mã thám được, sẽ thông báo với tỉnh ủy Bến Tre. Hoặc trong các cơ quan kia có người của ta… Luân đồng ý ý kiến của Dung. Anh cho thảo và đánh hàng loạt điện, nhưng bảo Dung: - Trễ quá! Xế chiều, Vọng lại đến. Công an phát hiện một người khả nghi vào tiệm trồng răng Xuân Tiến, nằm trên con đường sầm uất của thị xã. Người khả nghi đó là cậu học trò tên Thường… Sở dĩ Vọng phải báo cáo với Luân vì gã nghĩ rằng tay giáo Tâm và cậu Thường đã “chịu làm việc cho Luân”. - Không biết Thường có hẹn với trung tá không? – Vọng hỏi. Luân nhíu mày như để nhớ xem, rồi bảo: - Tôi quên… Nhưng nếu nó xin gặp tôi thì bí mật đưa nó tới đây… Thạch báo: Chuẩn úy Võ Văn Tập, lái xe, khai đau răng, xin đi khám. Đây là một tin lạ. Hình như Tập chưa bao giờ bị đau răng? - Chú cho chuẩn úy đi khám… - Luân dặn Thạch – Chú kín đáo theo Tập, nếu anh ta vào tiệm Xuân Tiến thì chú cho tôi hay ngay… Nhớ, đừng lộ với bất kỳ ai. Mười phút sau, Thạch phi báo: Đúng, chuẩn úy Tập vào tiệm trồng răng Xuân Tiến, vừa đi vừa ngó dáo dác… - Chú đến tiệm trồng răng báo với Tập là tôi có việc cần lái xe gấp. Chú giữ thái độ thật tự nhiên, chẳng hạn, chú bô bô: sục khắp các chỗ sửa răng, trồng răng mới gặp được Tập, v.v. Thạch gật đầu. Anh ta rất phần khởi vì đây là lần đầu Luân giao cho anh công việc có vẻ quan trọng. Tập quay về, miệng cắn miếng bông to. Tuy nhiên, Luân đã nhận rõ cậu ta chẳng đau răng. - Chú ngồi xuống! – Luân chỉ ghế cho Tập và anh chọn ghế đối diện. - Sao? – Anh hỏi – Nhận bộc phá rồi chưa? Tập giật thót. Miếng bông rơi xuống đất. Mãi một lúc sau cậu ta mới hoàn hồn: - Bộc phá gì? Tôi không hiểu… Thưa trung tá – Giọng cậu ta lập cập. - Đánh sập cổng dinh tỉnh trưởng, không bằng bộc phá thì bằng gì? – Luân nói, giọng đùa. - Dạ… - Tôi còn biết chú vừa gặp chú Thường để hẹn ngày giờ và nơi nhận bộc phá… Mười hai giờ đêm, giao thừa thì cho nổ. Mắt Tập tóe lên ánh tinh nghịch, Luân hiểu ngay: Anh “tố” có điểm không đúng. - Chú gặp chú Thường, phải không? – Luân hỏi lại. - Thường nào? Trung tá càng nói tôi càng khó hiểu… - Thường nào à? Chút nữa, tôi cho hai người đối chất, luôn tay thợ nhổ răng Xuân Tiến. – Luân lên giọng. Tập chớp mắt lia lịa, cậu ta núng thế! - Mấy người cứ tưởng mình làm bí mật lắm… Đây, – Anh đưa cho Tập chỉ thị của Ban quân sự tỉnh – chú đọc đi, tài liệu của Giải phóng đó … Luân theo dõi nét mặt của Tập khi đọc tài liệu: nó biến đổi liền liền… - Chú chú ý phần ghi thêm ở dưới chót đó… Nội tuyến ngay cạnh tỉnh ủy! Ai, nếu không phải là chú? - Tôi giao chú cho công an điều tra! – Luân hầm hừ. - Ra! – Luân quát… - Để rồi vài hôm nữa, tôi tóm hết tụi Việt Cộng, cho chú sáng mắt… Tập đinh ninh bị bắt, nặng nề đứng lên ra khỏi phòng. Nhưng chẳng ai chờ bắt cậu ta cả. Cậu xuống thềm. Chẳng ai theo. Cậu ra cổng. Cũng vậy. Từ trong cửa sổ, Luân thấy Tập rảo bước và sau đó, chạy biến… Thường cũng bị Thạch điệu về. Chú học trò không hề bối rối, lầm lì ngó Luân, cái đầu bướng bỉnh ngẩng cao dường như thách thức: - Em biết tội chưa? – Luân hỏi, dịu dàng. Thường không đáp. - Nếu tôi lại tha em, em có hứa là lo học không?… Tuổi của em cần học. Lớn lên, đủ trí óc, chừng đó muốn làm gì cũng được. Tôi nhớ có một lần nói với em như vậy… Lời lẽ rất ân cần của Luân không động lòng chú học trò. Nó lắc đầu: - Ông bỏ tù hay bắn tôi, cứ việc! Tôi không bị ông gạt đâu… Thầy Tâm bị ông gạt mà mắc tội với cách mạng. Tôi còn đây là nhờ mấy chú, mấy bác thương nhỏ dại… Nói tới đó, mắt Thường đỏ hoe, và, có lẽ nó hơi phân vân: nước mắt chảy dài trên má viên trung tá tỉnh trưởng khét tiếng nhiều thủ đoạn chính trị nham hiểm! Luân hiểu tất cả: giáo Tâm bị nghi ngờ và chắc không còn sống… Nhất định, J.5 giữ một vai trò nào đó trong vụ xử này. - Em có thể thuật kỹ hơn cho tôi nghe không? Ông Tâm nay ra sao? - Sợ gì mà tôi không nói… Thầy Tâm bị tòa án cách mạng xử tử, nhưng cấp trên giảm án. Thầy hối hận quá, tự vận chết… Tại ông hết ráo! Ông phao tin thầy Tâm với tôi chịu làm việc cho ông… - Em tin chắc là thầy Tâm tự vận? – Luân hỏi, giọng buồn rầu. - Thì tôi nghe nói lại… - Cũng có thể ông bị bức tử, cũng có thể người ta giết ông… Luân lẩm nhẩm. Một lát sau, anh hỏi tiếp: - Tại sao người ta dám cho em vô chợ? - Tôi xin. Tôi phải chuộc tội! - Vậy, bây giờ tôi thả em, em có dám quay lại mật khu không? Thường ngần ngừ. - Tùy em…- Luân thở ra. Anh định nói nhiều với Thường, song nghĩ kỹ, không tiện. Thường quá trẻ con để hiểu những lắt léo kiểu này – Em có thể ra khỏi đây, còn đi đâu, em quyết định lấy. Thường rời khỏi phòng làm việc của Luân, uể oải bước. Không khéo, J.5 khử luôn Tập và Thường! Chợt Luân nhớ đến khối bộc phá. Tập giấu ở đâu? Rõ ràng nó cười mình vì mình “tố” trật. Có lẽ nó không nhận bộc phá ở Thường mà nhận từ trước. Đích thân Luân xuống ga ra xe. Chẳng khó khăn lắm, Luân tìm được khối bộc phá hai mươi cân giấu trong đống vỏ xe ngổn ngang. … Ngay chiều tối hôm đó, đài truyền thanh thị xã loan báo: Phá vỡ một âm mưu của Cộng sản tấn công tỉnh lỵ. Phòng thông tin trưng bày khối thuốc nổ lấy được – không nói là lấy được ở đâu. Cả ngày hôm sau, hôm sau nữa Luân cho Ty thông tin làm rùm beng về “chiến công” của Kiến Hòa. Đài Sài Gòn tiếp thêm, không đâu là không biết sự kiện giật gân này. Lưu Kỳ Vọng ngao ngán, nói lén với Chung Văn Hoa: - Ông Luân khoái vỗ ngực xưng tên. Điệu này có đem kiệu rước, Việt Cộng cũng không đánh. Uổng quá trời! * Đúng như Lưu Kỳ Vọng đoán, thị xã Trúc Giang yên tĩnh suốt mấy ngày Tết.Mồng ba, công sở chưa làm việc, nhưng James Casey đã có mặt. Hắn đến Kiến Hòa mà không thông báo trước mà mới tờ mờ sáng, hắn đã ngồi vắt vẻo giữa phòng khách, trong bộ quân phục đầy bụi đất, cùng với Lưu Kỳ Vọng. - Trung tá phải khao tôi cái gì thật xứng đáng. – James Casey cười – Tôi lặn lội suốt đêm qua, nói cho cùng vì trung tá! Hoặc, nếu cần chính xác trong diễn đạt, tôi nói lại: Vì bà trung tá. James Casey trâng tráo ngó Dung: - Bà trung tá có mặt ở Kiến Hòa, để giữ an toàn tuyệt đối cho bà, tôi đích thân đi lùng sục… Chưa rõ James Casey đã làm trò gì, Luân nhã nhặn: - Nhà tôi và tôi rất cám ơn thiếu tá! - Được, trung tá còn vài tiếng đồng hồ để trên tôi một cấp… Từ trưa nay, khoảng cách đó không còn nữa… - Tôi chúc mừng trước cũng được… - Luân vui vẻ - Dung, em lấy chai Cognac! Dung trao ly rượu cho James Casey. - Xin phép trung tá! – Hắn hôn đắm đuối bàn tay Dung. - Giá đây là châu Âu thì tôi đã có thể xin bà ân huệ cao hơn! – Gã nuối tiếc rời tay Dung, đôi mắt háo hức… - Nào! Ta cạn ly mừng trung tá James Casey! Xong tuần rượu, Dung xin phép vào trong. - Ồ! Bà trung tá là người của ngành An ninh, chỉ có lợi khi nghe chuyện của chúng ta – James Casey kêu to. - Dẫu sao, nhà tôi vẫn thuộc cơ quan khác… - Luân lắc đầu. - Tiếc thật!… Ta làm một ly nữa… - James Casey tự rót – Ly này tôi mừng trung tá… Trung tá có một phu nhân tuyệt vời! Luân hiểu James Casey nói gì: anh và Dung đã thực sự thành vợ chồng trước con mắt sành sỏi ăn chơi của gã. - Ta vào việc! – James Casey bảo Vọng: “Ông trưởng ty cho màng “quà” tới đi…” Vọng gọi điện và vài phút sau, chiếc Jeep Willy sơn màu ô liu đỗ trước thềm. Hai người bịt mặt bị xô té xuống đất. Cả hai chỉ mặc quần đùi. - Trung tá không lạ gã này! – James Casey chỉ một trong hai người đó là Thường. - Nó không phải là người của trung tá… Nó không nhận là người của trung tá. Dẫu sao, tôi cũng cứ đưa nó về… - James Casey nhếch mép – Còn đây, vật bảo đảm cầu vai tôi thêm một hoa mai. Trung tá có thể không biết, nhưng chắc chắn nghe danh: Ba Lùn! Đừng vì tên cục mịch của nó mà lầm. Lê Khắc Thuần… Trung tá nhớ chưa? Tỉnh ủy viên, bí thư thị ủy… Lê Khắc Thuần - đã đứng dậy – không lùn, trái lại rất cao. Luân chồm tới, bắt tay James Casey: - Khen trung tá. - Ăn thua gì… Tôi còn nhiều “chủ bài” nữa kia… Rồi, trung tá sẽ phải chập gót chân chào đại tá James Casey. Không lâu đâu… Tôi sắp tóm đầu sỏ Việt Cộng, cỡ thường vụ tỉnh… ngay hôm nay, vuột một con mồi… - James Casey cười hô hố - Con mồi đó… - James Casey chưa nói hết câu thì bắt gặp cái liếc của Vọng, gã im bặt. - Có lẽ đưa họ về trại giam! Ông James Casey cần tắm rửa, ta ăn sáng… - Luân bảo. - Tất nhiên, khai thác họ là chuyện của tỉnh trưởng. Song, “quà” như vậy đã hết đâu? – James Casey hất hàm cho một nhân viên – chắc là người của biệt kích Mỹ - tên đó lấy từ trong xe ra một bọc ny-lông. - Trung tá sẽ phải đền ơn tôi… Tôi tháo ngòi quả bom nổ chậm giúp trung tá… Theo lịnh của James Casey, bọc ny-lông được mở ra: chiếc đầu còn đầm đìa máu của chuẩn úy Võ Văn Tập. - Tôi trả giá hơi cao về thằng tài xế của trung tá: nó bắn chết hai người của tôi… Chính tôi hạ nó. Và, nếu về tay không thì tiếc, tôi chặt đầu nó. Luân tối xầm mặt. Tiền sảnh dinh tỉnh trưởng như chồng chềnh. Chỉ cần một phần mười giây, anh thanh toán hết – James Casey, thằng đi theo nó, Lưu Kỳ Vọng, thằng lái xe… Nhất định anh bắn chính xác – không lần nào chính xác hơn lần này. - Trung tá không thích? – James Casey hỏi. - Không! – Luân trả lời, nữa tỉnh nữa mê. James Casey nhún vai: - Lạ thật! Một sĩ quan từng trải mà lại nhát gan… Tôi sẽ mang nó về Sài Gòn… Rõ ràng, mắt của chuẩn úy Tập mở to, nhìn Luân trừng trừng. Trong cái chết của Tập có phần lỗi của Luân – Luân hiểu như vậy. - Trung tá đa cảm… Bây giờ tôi mới hiểu… Nó là tài xế của trung tá, song nó sẵn sàng giết trung tá. Như gã tài xế trước kia. Tôi thành thật khuyên trung tá nên bỏ thói bi lụy nguy hiểm đó. “Mày nói bậy!” – Luân nghĩ bụng – “Toàn với Tập khác nhau”. Chiếc đầu lâu được gói lại. Hai người bị bắt được đưa về Ty công an. James Casey ăn sáng với Luân – gã kỳ kèo sự có mặt của Dung nhưng Dung chỉ ra chào gã, lấy cớ là không khỏe. Gã lên xe về Sài Gòn. Hôm sau, Luân cũng đưa Dung về Sài Gòn. Anh đi dự hội nghị tổng kết công tác bình định. Trước khi đi, anh chỉ thị Ty công an chờ anh hỏi cung Ba Lùn. Còn Thường coi nó như người của tỉnh trưởng, chớ đụng tới. Hoàn toàn dễ hiểu khi Luân đuợc hội nghị vỗ tay kéo dài. Anh trình bày tóm tắt quan điểm của anh về công tác bình định. Ngồi ở hàng ghế danh dự. Nhu thỉnh thoảng gật đầu. Những cái gật đầu “đệm” của cố vấn Ngô Đình Nhu được cả hội nghị hiểu như mọi người có nghĩa vụ phải vỗ tay, mặc dù chưa chắc ai cũng tán thành Luân. Nói cho công bằng, chính không khí chính trị sau biến cố 11-11 đã hỗ trợ Luân. Đúng vào dịp Tết, tổng thống ký lệnh thả một số thành viên của nhóm Caravelle liên can đến vụ đảo chính như bác sĩ Nguyễn Lưu Viên, Tạ Chương Phùng… hầu hết những người thân Pháp. Ngô Đình Nhu quyết định ngọn đòn gió: tỏ cảm tình với Pháp để lấy lại thăng bằng trong mối quan hệ quốc tế của Việt Nam Cộng hòa. Số thân Mỹ hoặc ít nhiều quan hệ với đảng Đại Việt bị đối xử cay nghiệt hơn nhiều, như Trần Văn Hương. Còn Phan Quang Đán thì là ngoại lệ. Trước tòa, Đán khóc nức nở, đấm ngực nhận tội, dùng đủ từ ngữ tâng bốc Diệm, cầu xin một chút ân huệ. Bộ máy thông tin sẵn sàng giới thiệu thật rộng rãi sự quy hàng nhục nhã của Đán. Đán được giam giữ trong một phòng đủ tiện nghi và người ta hứa sẽ trả tự do cho ông ta sớm nhất. Cần phải hiểu rằng trong sự cố 11-11, bản thân tổng thống cũng va vấp một điều thuộc lĩnh vực đạo đức, y hệt trường hợp bắt tướng Hòa Hảo Ba Cụt trước đây: giả bộ chịu điều đình với Nguyễn Chánh Thi qua môi giới của đại tướng Lê Văn Tỵ để trì hoãn tốc độ tấn công của lực lượng đảo chính và khi quân “cứu giá” chiếm được ưu thế, tổng thống trở cờ. Do vậy, tổng thống và cố vấn Ngô Đình Nhu rất ngại đem các tay thủ lĩnh đảo chính ra xử trước tòa. Ai mà lường nổi họ sẽ nói gì giữa công chúng – đặc biệt, trước các nhà báo trong và ngoài nước. Trước Tết, Nhu tập hợp được một số nhân vật sửa soạn khai sinh cái gọi là Đại hội đại đoàn kết chống Cộng, với các “cao thủ” chuyên áp phe chính trị: Nguyễn Gia Hiến, Trần Quốc Bửu, Phan Huy Quát, Đặng Văn Sung, Lý Trung Dung. Tình thế đòi chế độ phải đổi trang sức. Cho nên, cuộc chạy đua vào dinh Độc Lập đuợc dàn cảnh theo thời thượng: Ngô Tổng thống không còn là “Tổng thống suốt đời”. Trong danh sách tranh cử nhiệm kỳ II đã thấy, ngoài liên danh Diệm – Thơ, còn liên danh Nguyễn Đình Quát – Nguyễn Thành Phương và Hồ Nhật Tân – Nguyễn Thế Truyền. Đại khái, cho nó “dân chủ”. Quát chủ sở cao su, Phương tướng Cao Đài – đầu sỏ hạng “bán trời không mời thiên lôi”. Tân và Truyền – cặp lục bình cổ, đầy bụi bặm, chùi mãi chưa sạch. Cỡ đó thì chịu sao thấu với Diệm mặc dù, trong chương trình tranh cử, Quát dám nói: nếu đắc cử, ông ta sẽ điều đình ngưng bắn với Mặt trận giải phóng. … Luân nói không dài. Cũng chẳng có gì để nói. Tình hình an ninh ở Kiến Hòa “tốt hơn” như Phủ tổng thống đánh giá – căn cứ và số trận đụng độ giảm rõ rệt với trước đây. Mà lý do thật sự là cơ sở hạ tầng của chế độ Sài Gòn thu hẹp đến mức không còn thể nào thu hẹp hơn nữa để có thể có nhiều cuộc đụng độ. “Đây là cuộc chiến tranh chính trị - Luân nhấn mạnh – không giống bất kỳ cuộc chiến tranh nào chúng ta từng biết tới. Việt Cộng sử dụng hình thức đánh du kích, nhưng đánh du kích chỉ mới là một mặt của toàn cục diện. Những nguyên tắc đánh du kích nổi tiếng của Mao Trạch Đông đã được cải tiến, bổ sung đến nỗi chúng thay đổi hẳn. Thật là lý thú khi chính các đoàn cán bộ Trung Cộng sang Nam Việt nghiên cứu học tập chiến tranh du kích – tôi có đủ bằng chứng nói như vậy. Vì là cuộc chiến tranh chính trị, cho nên cách nhìn hiện tượng của chúng ta bắt buộc phải khác với cách nhìn mà chúng ta quen thuộc trong sách vở và trong quá khứ. Không nắm được dân, không có cơ hội chiến thắng. Nắm dân tức là tranh thủ lòng dân, tranh thủ sự tín nhiệm của dân. Đừng nên bao giờ tách công việc bình định của các viên sĩ quan chiến trường với những cải cách của trung ương. Cũng như đừng nên bao giờ đo lường thành quả của công việc bình định qua các bản tin chiến sự với con số đối phương bị loại. Nhiệm vụ chủ yếu của chúng ta không phải chỉ tước phần sinh lực của Cộng sản mà lạ hạn chế sự nảy nở của sinh lực đó. Tôi đang thử nghiệm và tôi tin sẽ kết quả - bớt hành quân, bớt nhà tù. Bao giờ tôi cũng nghĩ: Đây là cuộc tranh chấp giữa người Việt – cùng tiếng nói. Nói bằng lời bao giờ cũng tốt hơn bằng súng, bằng máu. Tôi xin thuật một chuyện để minh họa: Năm 1946, khi người Pháp trở lại Bến Tre, họ hành quân liên miên. Bấy giờ, ở Cầu Mống thuộc Mỏ Cày, có một người từng đi du học Pháp, tiểu điền chủ, tên Lâm Thiên Tứ. Nhà ông ta chứa du kích Việt Minh. Quận trưởng Mỏ Cày – bạn học của ông – bắt được ông và đem cả ông và đứa con trai là Lâm Thiên Trường ra bắn. Quận trưởng – tiếc là tôi không biết tên – ngỡ với đòn thị uy đó, Việt Minh sẽ xẹp. Trái lại, Việt Minh Mỏ Cày nổi dậy mạnh nhất Bến Tre và có đến hàng trăm Lâm Thiên Tứ về phía họ. Đến Bến Tre, tôi học bài học đó. Tràng vỗ tay thật xôm và kéo dài. Nhu đón Luân, ôm choàng. Chưa phải Nhu cùng ý nghĩ như Luân đâu – Luân hiểu thái độ rất mực trọng vọng này là để đền bù công lao: Luân đã lựa đúng lúc để phô trương cái mà chế độ cần phô trương. Với phe phái, Luân giành về tổng thống ngọn cờ thân dân nhân đạo. Với người Mỹ, Luân ám chỉ: Có ba bảy đường giải quyết vấn đề nội bộ Nam Việt. Phần 5 - Chương 12 “Ba Lùn” – Lê Khắc Thuần – da ngăm, cao lớn. Chỉ cần nhìn qua một lần gương mặt của anh, Luân biết anh là một con người kiên quyết, trung thực. - Anh là bí thư thị xã ủy? – Luân hỏi. Thuần gật đầu. Qua ánh mắt của anh, Luân hiểu anh sẵn sàng chọn lựa cái chết, rất bình thản. - Anh làm bí thư thị xã được bao lâu? - Vài tháng! – Thuần trả lời cụt ngủn. Có lẽ Thuần chờ đợi những câu hỏi xoi mói, cốt tìm cơ sở cách mạng trong thị xã của viên tỉnh trưởng. - Anh để Tập bị giết là tầm bậy! Các anh dở quá… Luân đột ngột to tiếng, Thuần khẽ liếc anh. Có lẽ, trong một thoáng, người bí thư thị xã hơi ngạc nhiên: viên tỉnh trưởng bỗng dưng nổi nóng và giọng nói như thét lại chứa một cái gì u uất. - Anh bị bắt trong trường hợp nào? – Luân hỏi tiếp. - Tôi đang ngủ. Biệt kích Mỹ ụp vô… - Anh ngủ ở cơ quan thị xã? Thuần không trả lời. - Rồi các anh giơ tay đầu hàng? – Luân cười châm biếm. - Ai nói với ông như vậy? Tôi bắn… Tiếc là đạn lép… cả súng của chú Thường, đạn cũng lép… Chú Tập chiến đấu bằng khẩu súng của chú. Tôi nói như vậy để ông biết chúng tôi không hèn. Mà ông cũng đừng mong lung lạc chúng tôi. Ông gây chia rẽ nội bộ chúng tôi nhưng với tôi, ông thất bại. – Giọng của Thuần rất đanh. Luân im lặng. Anh suy nghĩ. - Ai thoát? – Anh hỏi. - Tất nhiên là một đồng chí của chúng tôi… Ông có xẻ thịt tôi, tôi cũng không nói tên. - Anh và Thường bắn bằng súng của các anh? Thuần lầm lì. - Súng lục, hiệu Browning Canada, còn mới. Tôi đã xem xét hai khẩu súng của các anh… Nhưng đạn bị tháo thuốc nổ. Anh thấy đây… Luân đặt hai khẩu súng ngắn cùng hai băng đạn trước mặt Thuần. - Anh cầm viên đạn xem, nó nhẹ bổng… Thuần tò mò cầm viên đạn. - Anh có thấy chỗ cạy trên viên đạn không? Thuần đã thấy. - Tập trốn tôi, ra mật khu gặp ai trước tiên? Luân hỏi tiếp. Thuần dường như bị các viên đạn ám ảnh, im lặng, cau mày. Luân không cần anh trả lời. - Cách đây không lâu, một người của các anh, ông giáo Tâm cũng bị biệt kích chụp. Và, cũng có một người chạy thoát – song lính biệt kích không ai chết dưới tràng đạn của người đó, hai trái lựu đạn đều không nổ, cũng như trái lựu đạn mà Thường liệng lên lễ đài mong giết tôi, không nổ. Lựu đạn tấn công của Mỹ mà không nổ! Bây giờ, tới phiên anh và chú Thường… Rồi đây, thường vụ tỉnh ủy cũng khó tránh khỏi bị chúng tôi tóm. Các anh ngỡ các anh tài! - Luân “xì” một tiếng khinh miệt – Đây, tôi cho anh coi cái này… Luân ném cho Thuần tờ giấy dầu. Thuần lúc đầu lơ đãng nhưng về sau thì chăm chú đọc. - Anh đã lọt vô đây, tôi chẳng có gì phải giấu anh… Tôi nằm trong ruột các anh. Đánh chác làm sao nổi! Tôi đã cho Tập đọc tài liệu này. Chắc Tập trốn ra, nói lại với các anh… Luân biết rằng Tập chưa nói với Thuần bởi Thuần lộ rõ sự hốt hoảng khi đọc xong tài liệu. - Tôi đủ sức diệt các anh. Các anh ngu lắm! Tôi biết tên người chạy thoát… Côn! Va tên Côn… Nè, giáo Tâm bị ám sát trong trại giam… Người của tôi ra tay. Luân nói một hồi, Thuần cắn môi, thở dồn dập. - Anh sẽ ra tòa, sẽ đền tội! – Luân dằn giọng – Tôi muốn anh lên máy chém mà ấm ức. Liệu Cộng sản Bến Tre các anh cầm cự với tôi được bao lâu? Các anh lo biểu tình! – Luân cười mỉa – Lo biểu tình mà không lo củng cố nội bộ, xây dựng lực lượng. Nói thật, tôi rất thích các anh xua dân đi biểu tình… Các anh quên là mỗi thứ hình thức chỉ thích hợp mỗi giai đoạn. Chúng tôi lo thọc sâu, đánh các anh tận ổ! Để coi ai hơn ai! Luân ra lệnh đưa Thuần về khám: - Xuống khám mà rút kinh nghiệm cho kiếp sau. Câu nói xốc óc của Luân chọc tức người bí thư thị ủy: - Ông kiêu căng, khoác lác quá… Người cần rút kinh nghiệm chính là ông. Ông giỏi đánh lén chúng tôi. Song, cái chế độ mà ông phụng sự đang tan rã. Ông khó tránh khỏi bị trừng phạt! - Tôi có bị trừng phạt hay không, chắc anh không còn thời gian để biết… Tôi sẽ bắn anh! – Luân vênh váo – Tôi chỉ tiếc: viên đạn bị hoang phí vì giết một kẻ kém thông minh. Cửa mở. Thiếu tá Lưu Kỳ Vọng chực sẵn – gã có thể đã nghe hết cuộc đối đáp. - Chẳng cần hỏi cung thằng cha này! – Luân bảo Vọng – Tôi đã quyết định xử bắn gã công khai… - Kêu thằng Thường lên! - Luân bảo người thư ký riêng. Khi Thường đến văn phòng, Luân cười. - Sợ hết hồn, hả chú nhỏ? Thường không nói, không rằng, đứng sựng trước mặt Luân. Luân bảo Thường ngồi xuống ghế, khép cửa phòng lại. - Qua thương chú em nhỏ dại, tha mấy lần mà chú em cũng cứ u mê theo Việt Cộng… Đành bỏ tù chú em. Có tiếng gõ cửa. Trung úy truyền tin Hồ Nhựt Thanh chào Luân, đặt lên bàn bức điện: “Đêm qua, vào 11 giờ, một lực lượng Việt Cộng không rõ quân số, tấn công đồn ngoại vi quận lỵ Bình Đại, hướng Thới Thuận. Bảo an đẩy lùi, bắt sống 5 tên…” Luân ghi lên góc điện: Chuyển đại úy Chung Văn Hoa. Điện gấp cho Bình Đại giải 5 tù binh về Ty công an hỏi cung. Tòng khi đọc và ghi, Luân thấy Thường và trung úy Thanh háy mắt ra hiệu cho nhau. Anh đã nhớ ra: Trung úy Thanh, người Bến Tre và hôm nay anh ta trực tiếp trình diện Luân mà không qua thư ký là chuyện ít khi có. - Thế nào? – Luân hỏi Thường khi trung úy truyền tin khép cửa lại: cái bóng của anh ta vẫn còn in trên cánh cửa lá sách – anh ta nán nghe – Chú có giỏi thì cứ vượt ngục! Tôi dặn người gác khám xét kỹ, coi chú có mang cưa sắt vô không. Với cây cưa sắt, chú dám cưa đứt còng, cưa luôn cho bồ của chú, như tay Ba Lùn, rồi giở mái ngói, trốn mất… Tôi đi guốc trong bụng chú nên nói để chú biết là tôi đề phòng hết rồi, đừng có lộn xộn… Cái bóng của viên trung úy truyền tin biến mất sau cánh cửa. - Đồ con nít! Không lo học hành, - Luân lớn tiếng. Thường bị đưa xuống khám. Luân trông theo, mỉm cười hy vọng. Bốn ngày sau, nhằm một đêm tối trời, số tù mới bị bắt ở Ty công an gồm bí thư thị ủy Lê Khắc Thuần, chú học trò tên Thường, năm tù binh trận Bình Đại đã cưa còng, bẻ rui, giở mái ngói, lặng lẽ trốn thoát. Trưởng Ty công an Kiến Hòa vuốt mặt không kịp trước cơn thịnh nộ của tỉnh trưởng. - Nó cưỡng bức thằng Thường theo nó để khai thác, thế nào nó cũng giết thằng nhỏ như giết giáo Tâm. Các anh thật không còn ra thể thống gì nữa… Trưởng ty công an trút mọi tội lỗi lên phó ty Tống Văn Tình. Tống Văn Tình nện viên thiếu úy trưởng trại giam. Một lệnh nghiêm mật của tỉnh trưởng ban hành: lập thêm ba tháp canh, lập hệ thống đèn cực sáng quanh khám. * Công an được tin: ngay cạnh con lộ đi Ba Tri, nơi dốc cầu Chẹt Sậy, hai tử thi đàn ông bị trói vào hai cọc…Thiếu tá Lưu Kỳ Vọng không kịp gọi điện cho Luân đã nhảy lên xe Jeep, cùng một tiểu đội thám báo do thiếu úy Lai Văn Thố chỉ huy lao tới hiện trường. Luân biết sự việc sau đó chừng 15 phút. Anh cũng lên xe. Khi xe Luân đến cầu Chẹt Sậy thì nghe hai tiếng nổ lớn, tiếp sau, nhiều tràng đạn. Hình như một cuộc chạm súng, Luân dừng xe, theo dõi. Một số dân chúng hớt hải chạy ngược về phía thị xã. Họ cho hay: Đêm qua, quân giải phóng thiết lập tòa án tại cầu, xử bắn hai gián điệp phía Quốc gia rồi để thây lại đó với một tấm băng ghi hàng chữ “số phận bọn phản bội như thế này”. Tưởng là họ rút lui, ai dè khi ông trưởng ty công an tới mở trói cho hai tử thi thì mìn nổ, tiếp đó, việt Cộng xả súng từ trong vườn bắn ra. Những người đi chung với Luân đều ngơ ngác – trừ trung úy Thanh ngơ ngác vụng về? Cố biểu hiện tình cảm ngược lại với niềm vui sâu kín, Luân chắc lưỡi, thở dài… J.5 và tên điềm chỉ ở Cồn Ốc bị xóa sổ, luôn cả trưởng Ty công an Lưu Kỳ Vọng. Bản thống kê thiệt hại chắc khiến James Casey, Mai Hữu Xuân lồng lộn. Phần 5 - Chương 13 Lúc đó, đã 10 giờ đêm. Luân tắt đèn, ngả mình lên giường. Gần đây, anh bị mất ngủ. Công việc của anh tiến hành không phải tồi song anh không bằng lòng. Tại Bến Tre, Luân giải quyết nhiều tình huống gay go và nói chung, anh thắng lợi. Dẫu sao, vị trí của một viên tỉnh trưởng vẫn quá hẹp. Mỹ tiếp tục dùng Diệm. Uy thế Diệm xuống trông thấy từ sau cuộc đảo chính 11-11 và nhất là từ sau Mặt trận dân tộc giải phóng ra đời. Mỹ chưa bỏ Diệm là vì chưa có người thay và vì Mỹ hy vọng Diệm ngày nay không cứng đầu như trước. Diệm hiểu tình hình đó khắc hẳn Mỹ. Một lần, ông bảo Luân: - Tổng thống Kennedy thức thời hơn Eisenhower, Kennedy thừa nhận tôi có quần chúng… Nhu đủ thông minh để đánh giá thực chất của chính sách Mỹ: - Anh Luân này, Hoa Kỳ chỉ muốn ký với ta một thứ Modus vivendi (1) chớ chưa chịu ký một Pacte (2). Ta phải thật nhanh tay. Cái định đoạt là thực lực quân sự. Tôi cần bốn quân đoàn bộ binh thiện chiến, vài chục tiểu đoàn tổng trù bị thật cứng, một lực lượng thiết giáp, pháo, không và hải quân trang bị tối tân… Cái giá là chỗ đó. Tại sao ta không có quyền có 170.000 quân thường trực, 60.000 nghìn quân bảo an, 200.000 dân vệ? Nhu trao cho Luân một kế hoạch mới về bình định: - Khu trù mật kềnh càng quá, tốn kém mà ít kết quả. Tôi nghiên cứu kỹ rồi, tình hình ta khác tình hình Mã Lai, cho nên tôi dự thảo kế hoạch này. Ta phải thành lập hàng trăm, hàng nghìn ấp chiến lược. Ấp là đơn vị thấp nhất, trực tiếp với dân. Không cần đổi chỗ của dân – nếu có, cũng ít và đổi chỗ gần thôi – mà xây ấp chiến lược ngay nơi dân ở. Tôi quyết định mở trường đào tạo cán bộ khắp các tỉnh. Cán bộ xây dựng ấp chiến lược là cán bộ làm dân vận. Anh có ý kiến gì, trao đổi thêm. Nếu tán thành anh thí nghiệm ở Kiến Hòa xem… Cùng với tài liệu Ấp chiến lược, Nhu trao cho Luân dự kiến chỉnh đốn các quân khu: sẽ thành lập bốn vùng chiến thuật và biệt khu thủ đô, mỗi vùng chiến thuật vừa phụ trách địa bàn liên tỉnh vừa là bộ tư lệnh quân đoàn. - Anh có hiểu gì về Frederick Nolting không? – Nhu hỏi Luân đột ngột. - Tôi chưa biết. Nhưng, điều chắc chắn, ông ta là người của tân Tổng thống Mỹ. – Luân trả lời dè dặt. - Tất nhiên… Giữa tháng 5 tới, Phó tổng thống Mỹ Johnson sang ta… Chà! – Nhu tặc lưỡi – Ta chậm quá! Trước mắt mấy ông quan này, ta xoàng xỉnh quá coi không tiện. Nhu sốt ruột mà A.07 cũng sốt ruột. Bức mật thư do Vũ Huy Lục mang vào là một trong những nguyên nhân khiến Luân mất ngủ. Lục, theo con đường riêng – tình báo Mỹ tự cho là họ tổ chức được con đường đó, nhưng Lục lại đi trong bố trí của cơ quan an ninh Bộ nội vụ của miền Bắc. Đặt chân xuống Sài Gòn, anh báo cáo liền tình hình và mạng lưới trinh sát do anh chỉ huy ở vùng đồng bằng Bắc bộ với James Casey và xin đi thăm Luân. Anh gặp Dung trước, trao cho cô thư của cha. Ông cụ không viết nhiều – dăm hàng thôi – Dung đã khóc sướt mướt, mặt dù cha Dung không khỏe. Ông đã biết Dung lập gia đình và gửi lời thăm chàng rể. Lục thì hoàn toàn không gặp ông, không nghe ai nhắc, anh chỉ có nhiệm vụ mang mảnh giấy con này mà anh đã vê nhỏ hơn cọng tăm. Lục hối hả xuống Bến Tre. Muốn Luân bị bất ngờ, Dung không báo điện. Lục lù lù vào cửa, Thạch rú lên, chừng đó Luân mới ôm chầm lấy Lục. - Ê! Sao vô được? – Thạch hỏi. Lục đưa tay lên môi, Thạch biết mình lốc chốc, nín khe. Luân mừng Lục: Anh ta bây giờ nghiễm nhiên là một cán bộ chững chạc của ta. Lục được James Casey bổ làm huấn luyện viên các trường biệt kích. Nhờ Lục, đường liên lạc với anh Sáu Đăng nối lại. Từ nay, Luân đã có thể báo cáo và nhận chỉ thị đều hơn. A.07 phân tích tình hình miền Nam như sau: Mỹ đang tính toán thay ngựa giữa dòng. Sở dĩ Mỹ trì hoãn việc loại anh em Diệm là vì ngại ta. Nhưng, sớm muộn gì chúng cũng xóa anh em Diệm. Vấn đề nóng bỏng nhất là làm sao ta đủ mạnh để đối phó với một tình huống có thể xảy ra: Mỹ đưa quân ồ ạt vào miền Nam. Luân tiếp thu sự chỉ đạo ấy theo lối của anh: hoặc thúc đẩy Diệm – Nhu liên minh dưới một dạng và ở một mức nào đó với Mặt trận, hoặc thay Diệm – Nhu bằng một nhóm khác có xu hướng độc lập dân tộc, trung lập, ngăn chặn Mỹ biến miền Nam Việt Nam thành một chiến trường đẫm máu mà rốt lại chỉ có người Việt phải hy sinh… Luân phác thảo trong đầu hàng loạt phương án, nhưng chưa phương án nào khả dĩ trọn vẹn. Nhu từng gợi ý với anh khả năng chế độ Sài Gòn nói chuyện song phương với Mặt trận. Song, anh ta cũng chỉ mới hé ra một thứ nguyện vọng - có thể anh ta bực mình trước trò “đem con bỏ chợ” của Mỹ mà thốt ra thôi, có thể anh ta muốn qua Luân mà bỏ trước cái phao về phía Mặt trận để phòng bất trắc, có thể anh ta muốn dọa Mỹ. Tuy nhiên, sau khi nhận được lời trấn an của Kennedy, anh ta không trở lại đề tài đó với Luân lần nào nữa. Còn khả năng thay Diệm – phải bằng bạo lực, Mặt trận chưa đủ sức làm, và Mặt trận mà đủ sức thì nhất định Mỹ can thiệp. Bạo lực do các phe phái, chẳng qua các phe phái – kể cả Đại Việt thế lực khá hơn hết – hò hét trợ oai để kiếm chác thôi. Quân đội thì năm cha ba mẹ … Bản thân anh không nắm được bao nhiêu. Luân trỗi dậy, bật đèn. Đúng vào lúc đó, Thạch vào, dẫn theo Tống Văn Tình, bây giờ là trưởng ty công an thay Lưu Kỳ Vọng. - Đêm nay Việt Cộng tấn công Trúc Giang. – Tống Văn Tình hốt hoảng, mặt trắng bệch. - Lại tấn công? – Luân hỏi, hơi lơ đãng. - Thưa, phải… Tấn công mạnh, quyết chiếm tỉnh lỵ! Luân khẽ lắc đầu. Anh nghĩ là không thể đánh chiếm thị xã nổi trong điều kiện của quân giải phóng hiện nay, dù có thể quân giải phóng đã mạnh hơn so với 3 tháng trước – lúc các anh bố trí tấn công vào dịp Tết. Tống Văn Tình lại hiểu cái lắc đầu của Luân theo ý riêng: - Thưa, một nội tuyến của Việt Cộng vừa tự thú với công an… - Vậy sao? Ai? – Luân chợt thấy xương sống anh ớn lạnh: Chết! các đồng chí xây dựng nội tuyến kiểu đó, thật nguy hiểm. - Thưa, một thiếu úy giữ kho súng. – Tình vội vàng trình bày – Theo nó, đêm nay Việt Cộng bí mật vào chợ, nó mở kho, Việt Cộng lấy súng trong kho phân phát cho cơ sở… “Ừ! Tấn công theo phương án đó có thể làm chủ được thị xã một lúc.” – Luân nghĩ thầm. - Tại sao thằng đó tự thú? – Anh hỏi, giọng thắc mắc. - Dạ, nó sợ… Giờ chót, nó tính là không ăn được nên xin gặp tôi… Nó cho biết điểm hẹn với Việt Cộng… - Ông đã thông báo những đâu rồi? - Dạ, tôi vừa báo cáo đại úy Hoa, đại úy Động…Hai người còn chờ lệnh của trung tá. Luân khoát áo xuống tầng dưới. Vừa đi, anh vừa suy tính cách sao ngăn chận cuộc tiến công. - Trình trung tá, tôi vừa ra lệnh báo động. – Chung Văn Hoa báo cáo. - Được! – Luân gật đầu. Anh hỏi thêm Tình - Có thể tin thằng thiếu úy đó tới đâu? Tình ngập ngừng… Luân dặn mọi người: - Cứ đề phòng, nhưng coi chừng thằng gác kho súng đánh lạc hướng. Đèn vụt tắt phụp gần như song song với một tiếng nổ long lở. - Nhà đèn bị rồi! – Chung Văn Hoa hô hoán. Súng trường, tiểu liên và trung liên rộ vùng ngoại ô Nam và Bắc thị xã. Bộ đàm đồn Tân Thạnh kêu cứu: Việt Cộng áp sát đồn, chúng đang phá lộ. - Coi chừng Việt Cộng đánh Ty công an, phá khám. Tống Văn Tình thở hổn hển trước ý kiến nhắc nhở của Chung Văn Hoa. - Làm sao bây giờ? – Tình nói như rên rỉ. - Cho lực lượng bảo vệ ở đây đến phụ với ty. – Nguyễn Thành Động lại đề nghị, nhưng lần này, không ai tán thành kể cả Tống Văn Tình. Một vài đám cháy – hình như Việt Cộng đã lọt vào nội ô. Luân bước ra khỏi nhà. Thật lòng, anh chờ đợi tiếng nổ ở Ty công an. Thạch bám sát anh. Các sỹ quan bao quanh phòng truyền tin. Tiếng súng, tiếng bộ đàm, - văng vẳng tiếng hò reo và khóc la; tiếng trống mõ, tiếng thùng thiếc… ngần ấy âm thanh xôn xao cả khuôn viên dinh tỉnh trưởng. - Thưa trung tá! - Một bóng đen hấp tấp lao tới Luân – Có điện khẩn của sở chỉ huy Bảo an tỉnh… Trung úy truyền tin Hồ Nhựt Thanh – Luân nhận ra anh ta khi anh ra đến bên ngoài cổng. Luân nhận ra anh nhờ ánh lửa bập bùng và các chùm pháo sáng. Đồng thời Luân cũng nhận ra một tia chớp từ tay anh ta. Luân trúng đạn ngay bụng. Anh sụm xuống, còn kịp thấy Thanh vọt thẳng xuống bờ sông. Thạch phản ứng. Nhưng Luân níu tay anh, khẽ rên: “Chết tôi rồi!” Mấy phát đạn bắn theo của Thạch vạch đường lửa đỏ lên trời. Tốp lính gác, mãi sau mới hoàn hồn. từng tràng tiểu liên trở thành vu vơ. * Khi Luân tỉnh thì tình hình đã trở lại bình thường. Người bác sĩ lạ mặt mỉm cười với Luân. Anh biết là anh được giải phẫu và anh sống. Tiếng khóc thút thít quen thuộc cùng với mùi quen thuộc: Dung áp bàn tay anh vào má cô…- Lên đường! – Người bác sĩ lạ mặt ra lệnh. Té ra, người ta mổ Luân ngay tại phòng khách dinh tỉnh trưởng. Chiếc băng ca nhấc lên, thật êm ái. Hẳn là trực thăng chở Dung xuống đây cùng với bác sĩ sẽ đưa Luân về Sài Gòn. - Trung tá yên tâm dưỡng bệnh… Tổng thống đã cử thiếu tá Lê Hoằng Thao tạm quyền, có ông Đỗ Thành Nhơn phụ tá. – Nguyễn Thành Động thông báo, mặt buồn rười rượi. - Anh có đau lắm không? – Dung hỏi. Luân lắc đầu. Anh phải lắc đầu. Dung tiều tụy quá. Anh phải cố nhịn cơn đau hậu phẫu: cả ruột gan anh như xát muối. - Thằng Hồ Nhựt Thanh phản, nó bắn trung tá đó! – Thạch nghiến răng. - Ai dè Hồ Nhựt Thanh là Việt Cộng! – Tống Văn Tình nói mà như mếu. Tống Văn Tình không dè chớ Luân chẳng lạ gì viên trung úy truyền tin là Việt Cộng. Nhưng, anh vẫn bất ngờ: Thanh nhầm anh. Nghĩa là tỉnh ủy Bến Tre quyết diệt anh. Trong cơn đau xé ruột, Luân được an ủi – hành tung của anh vẫn được giữ kín. Miễn là anh còn sống, sự việc vừa rồi có lợi cho anh… - Nó có làm sao không? – Luân thều thào. - Trung úy hỏi ai? Thạch ghé tai tận miệng Luân. - Thằng Thanh… Thạch lắc đầu. Luân nhoẻn miệng cười – nụ cười mà anh không tự chủ. Bác sĩ – bây giờ Luân nhớ ông ta rồi – Giáo sư Trần Đình Đệ nghiêm mặt: - Không ai được nói chuyện với trung tá! Luân ngó Tống Văn Tình. Tình lợi dụng lúc giáo sư Đệ đang giải thích điều gì đó với Dung, cúi sát người Luân. - Ty công an? – Luân hỏi. - An toàn! – Tình trả lời mà ngỡ là làm vui cho Luân. Ông ta không thể nghe tiếng thở dài của Luân. Luân định hỏi Chung Văn Hoa về tình hình quân sự nhưng gã này lảng xa chiếc băng ca. “Y thèm chức tỉnh trưởng mà không được…” - Luân nghĩ. Luân ngó Dung. Dung đã tươi hơn. Cô lắc đầu, chỉ lén giáo sư Đệ. Nhưng đôi mắt khẩn khoản của Luân kéo cô sát anh: Anh chưa chết, em yêu! Dung đặt tay lên tay Luân. - Tới sân bay rồi! – Dung bảo. Thật ra, Luân đã nghe cánh trực thăng quay. Đoàn người xuyên một rừng dừa. Luân nhìn lên. Khoảng trời xanh ẩn hiện qua kẽ lá… Chắc mất đứt một tháng là ít! – Luân chép miệng. Ánh nắng mai báo hiệu một ngày đẹp trời… -------- (1) Modus vivendi: tạm ước (2) Pacte: Hiệp ước
__________________
![]() |
#3
|
||||
|
||||
![]() Ván Bài Lật Ngửa Phần 6 - Chương 1 Lời cảnh cáo sau cùng Ngô Đình Diệm không thích thú bài diễn văn nhậm chức của tổng thống Mỹ Kennedy. Chẳng phải vì bài diễn văn ấy thả quả bóng thăm dò hòa hoãn với Nga Xô quanh vụ chiếc máy bay do thám U2 bị bắn rơi và phi công Power bị bắt sống mà vì lời lẽ mơ hồ của Kennedy đối với ông. Kennedy nhắc rằng ông ta giữ nguyên các cam kết của các tổng thống tiền nhiệm trong chính sách đối ngoại và, ở Nam Việt, Kennedy “tiếp tục ủng hộ một thể chế tự do”. Quả những từ “thể chế tự do” khá úp mở. Người ta có thể hiểu, như thói quen, nền đệ nhất Cộng hòa Nam Việt do ông lãnh đạo đang là quán quân của thể chế đó. Song, người ta vẫn có thể hiểu cách khác: “thể chế tự do” ngược với thể chế độc tài, phát- xít, gia đình trị mà các nhóm chống ông gán cho ông. Không chỉ đài Giải phóng hay đài Hà Nội gọi xách mé ông như vậy mà có vẻ nhiều giới, cả bạn hữu ngoài nước, chọn góc độ và dùng lăng kính tệ hại ấy nhìn ông. Tại sao tân tổng thống Mỹ không cam kết ủng hộ cá nhân ông như họ từng cam kết? Nam Việt tức là ông. Ủng hộ Nam Việt đương nhiên phải là ủng hộ ông. Người Mỹ muốn thay đổi cái chân lý đơn giản đó ư? Tại sao Kennedy không nói thẳng rằng tổng thống của đảng Dân chủ vẫn xem ông - Ngô Đình Diệm - là niềm tin cậy và hy vọng của Mỹ ở Đông Nam Á? Sau cái ngày 11-11 đáng ghét, ông chờ đợi một lời xin lỗi của Mỹ, gián tiếp cũng được. Elbridge Durbrow, đại sứ và Mac Garr, trưởng phái đoàn viện trợ quân sự Mỹ lờ việc này. Chẳng lẽ ông phải xin lỗi họ vì đã dẹp tan bọn đảo chính hoặc triệu tập họ đến dinh Độc Lập để gạ họ xin lỗi ông? Người Mỹ, chắc chắn rồi, đã nhúng tay vào vụ lính Dù, lính Biệt động bạo loạn, song ông không có bằng chứng buộc tội họ. Không đủ bằng chứng theo cái nghĩa ông không chụp được quả tang bàn tay của họ đang thò ra. Kennedy nhậm chức hơn một tuần, đại sứ Durbrow gặp ông, không phải chính thức mà nhân lễ khánh thành Trung tâm kỹ thuật Phú Thọ. Có thể đánh giá cuộc nói chuyện xã giao kéo dài chừng năm phút giữa Durbrow và ông là những gì Kennedy nhắn nhủ ông. Ông giận tái mặt, chiếc can run bần bật trên tay. Giá phang được thằng đại sứ này mấy can liền, hỉ! Durbrow chỉ cười rất nhã nhặn. “Tổng thống Kennedy quan tâm đặc biệt đến vấn đề thực thi dân chủ ở Nam Việt. Chính phủ, quốc hội và công luận Mỹ chờ đợi Việt Nam Cộng hòa và riêng cá nhân tôi, thưa Tổng thống kính mến, tôi hy vọng trong cuộc bàn giao giữa tôi và ngài đại sứ Frederick Nolting vào tháng 5 tới, tôi có thể hãnh diện thông báo cho người kế nhiệm rằng nơi mà ông ấy công cán không hề có những chuyện buồn phiền về trình độ dân chủ như các đại sứ Mỹ vẫn thường gặp ở Châu Phi hay Trung Đông…” Durbrow nói như vậy, tay luôn sửa chiếc cà vạt, còn mắt thì ngó thẳng ông. Láo xược! Ông cố kềm chế. Họ coi ông ngang với Mobutu (1) chăng? Eisenhower, thống tướng, con người hùng của Đệ nhị thế chiến còn chưa dám vô lễ với ông, Kennedy là cái thá gì lại dạy khôn ông? Đầu óc ông Diệm khá lộn xộn sau buổi sáng đó ở Trung tâm Phú Thọ. Ảo tưởng về Kennedy trong ông tan biến. Hóa ra Kennedy chẳng thức thời hơn Eisenhower nữa. Về đến dinh Độc Lập, ông đi thẳng vào phòng làm việc của Nhu. Nhu vắng nhà, Trần Lệ Xuân tiếp ông. Lệ Xuân khép nép trước sắc mặt hằm hằm của ông. Chợt, ông cảm thấy thần kinh dịu hẳn. Thì ra, quyền uy của ông không hề sút giảm, cô em dâu lắm lời và rất khôn ranh trước sau vẫn một mực tôn kính ông. Ừ, có vậy mới ra con dâu nhà họ Ngô Đình chứ. Thỏa mãn lòng tự ái, ông cười độ lượng. Trần Lệ Xuân lăng xăng phà trà: - Anh làm em hết hồn! Hôm đó, ông phá lệ: trao đổi với cô em dâu lời của Durbrow. Ông đã không lầm. Trần Lệ Xuân cực kỳ sắc sảo về chính trị. Lệ Xuân ngồi ghé ở xa lông, sau khi khoát thêm chiếc áo choàng. Cử chỉ này càng khiến ông hài lòng, bởi ông nhớ có một lần, ông lững thững đến phòng Nhu - Nhu vắng nhà như hôm nay - Lệ Xuân đón ông trong bộ áo quần ngủ mỏng dính. Ánh sáng trong phòng làm nền và trước ông, cô em dâu cơ hồ không có một tí gì trên người. Ông giận dữ quay lưng: - Thím ăn mặc sao mà quái gở rứa! Lần đó, Lệ Xuân khóc, xin lỗi, hứa hẹn. - Họ ta gia giáo lâu đời. Thím nhớ cho. Ông vẫn chưa nguôi giận. Nhu phải đưa vợ đến gặp ông, lần thứ hai, kèm theo Ngô Đình Lệ Thủy. Ông không thể giận lâu vì ông rất yêu đứa cháu gái khôn trước tuổi này. - Theo em, - Lệ Xuân thỏ thẻ - chúng ta chẳng mất gì trong trò chơi dân chủ này, một liên danh ứng cử Tổng thống hay hai, ba, bốn cũng thế thôi. Còn đúng một tuần nữa thì đến ngày niêm yết danh sách các ứng cử viên tổng thống nhiệm kỳ hai, ta đủ thì giờ để chọn. Càng nhiều đối thủ, thắng lợi của tổng thống càng vẻ vang. Ông khẽ lắc đầu. Thật vô lý khi ở Nam Việt lại có ai đó ra tranh cử ngôi Tổng thống với Ngô Đình Diệm. Phải ông chịu nghe lời Ngô Trọng Hiếu… Ông Diệm luyến tiếc - năm 1955, Ngô Trọng Hiếu nêu ý kiến là Hiến pháp ghi hẳn ông đảm đương ngôi vị Tổng thống suốt đời, như Soekarno ở Nam Dương. Thích quá, song ông ngại. Bấy giờ, thế lực ông chưa mạnh. Nhu phản đối, hơn nữa, sạc Ngô Trọng Hiếu một trận với các từ nặng nhất: ngu, đần độn, nịnh bậy… Nhu có quan điểm của chú ấy… Chẳng lẽ người ta hô “muôn năm” mình mà mình lại phải tự xếp ngang một gã phàm phu tục tử, lục lục thường tài nào đó. Ông cảm thấy lòng tự ái bị tổn thương nặng nề. - Tình thế khác xưa, anh chịu nhúng nhường một chút. Đây cũng vì đại cuộc thôi… Suốt đời anh hy sinh cho dân, cho nước, bây giờ hy sinh thêm, càng sáng danh… Chẳng ai lẫn lộn phượng hoàng với gà. Có lúc, chính anh mời Trần Văn Soái làm quốc vụ khanh kia… Trần Lệ Xuân đánh trúng tim đen ông. “Ừ, thím nói có lý… Năm nớ, Mỹ cần mình, năm ni, mình cần Mỹ”. Ông nhớ phân tích của Nhu sau cuộc đảo chính về tương quan giữa ông và Mỹ. “Chắc phải làm thế rồi, song chọn mấy thằng, thằng nào?” - Rứa, nên có mấy liên danh? - Ông đột ngột đổi thái độ. - Dạ, em nghĩ càng nhiều càng tốt. Diệm trố mắt: - Răng mà nhiều… Ứng cử Tổng thống chớ ứng cử hàng thịt sao? - Dạ, tùy anh… nhưng cũng phải bốn, năm coi mới được… - Lệ Xuân một mực dịu dàng. - Ba thôi! - Diệm quả quyết. - Dạ, anh định thế nào, nhà em với em làm thế ấy… Ba cũng được. Đỡ hao tốn. - Mà thằng mô? - Dạ, nếu chọn bọn chánh khách bẻm mép thì e gây khó cho ta. Em tính chọn những tên tuy hào nhoáng song chỉ là thùng rỗng… - Hừm! - Diệm xua tay - Tôi đi tranh cử với bọn thùng rỗng sao? - Dạ, thùng rỗng là theo nhận định của chúng ta. Anh biết Hồ Nhật Tân. - Biết! Nhân sĩ có tiếng. - Dạ, Hồ Nhật Tân cùng đứng liên danh với Nguyễn Thế Truyền… - Ừ, được. Ông Truyền cũng là nhân sĩ. - Dạ, liên danh kia gồm Nguyễn Đình Quát và Nguyễn Thành Phương… - Không được! Thằng Quát chẳng ai biết, thằng Phương sao tranh cử với tôi? Tôi chưa bỏ tù hắn đã là may cho hắn… - Diệm sừng sộ. - Thưa anh, ông Tân, ông Truyền thuộc lớp trước, còn ông Quát, ông Phương thuộc lớp sau… Thế mới… bien orchestré (2). Vả lại… - Lệ Xuân cười thật có duyên. - Vả lại, sao? - Vả lại ông Phương nhận tiền rồi. - Nhận tiền? Tôi không hiểu. - Thưa anh tiền mướn các liên danh. Như chi phí lót đường vậy… Anh tranh cử với Phương càng khiến người Mỹ kính phục: anh bình dân. Trần Lệ Xuân đã thuyết phục được Diệm * Nhân Tết nguyên đán Tân Sửu, Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh thả một số người thuộc nhóm Caravelle liên quan với cuộc đảo chính. Đáng lẽ Diệm còn có thể thả nhiều hơn nếu đại sứ Mỹ không quá nồng nhiệt với những kẻ bị bắt. Durbrow gợi ý với ông ta đến ba hay bốn lần về việc nên “trả tự do”. Ông ân xá và chỉ ân xá theo ý ông. Thế nào là trả tự do? Chúng làm loạn, ông gông cổ chúng, thế thôi… Thả Phan Quang Đán, Trần Văn Hương ư? Không đời nào! Chúng phải ra tòa!Ngô Đình Nhu không sao lay chuyển nổi ý kiến đã thành cố chấp của Diệm. Với Nhu, cuộc đảo chính 11-11 đánh một đòn mạnh vào uy thế của chính phủ, nghiêm trọng hơn vụ Bình Xuyên, Ban Mê Thuột nhiều lần. Đây là sự việc từ nội bộ chế độ, từ quân đội, hơn nữa, từ binh chủng tin cậy nhất. Dẹp yên bạo loạn bằng kế hoãn binh - nói toạc ra, bằng sự lừa phỉnh như đối với Ba Cụt năm xưa qua cò mồi Nguyễn Ngọc Thơ, lần này qua cò mồi Lê Văn Tỵ - thêm một vết đen trong lịch sử nền Cộng hòa Cái cốt lõi nhất đã đạt, tức là cuộc đảo chính đã bị dập tắt, phải vớt vát sĩ diện bằng thái độ khoan dung. Nhu rất muốn đưa một số người “nhẹ dạ nên lầm đường lạc lối” ấy - như họ ghi trong đơn xin tha - vào mặt trận đại đoàn kết chống Cộng. Người Mỹ hẳn phải suy nghĩ, khi tổng thống Diệm cảm hóađược những kẻ toan xóa ông bằng súng. Nhưng Diệm không thèm nghe. Với Diệm, một chuỗi sự việc xảy ra trong hơn 7 năm ông cầm quyền, từ tướng Hinh, tướng Vỹ, các giáo phái và Bình Xuyên, qua vụ Ban Mê Thuột đến cuộc binh biến 11-11-1960, chẳng qua là những phản ứng của một thiểu số bất nãm do Thực - Phong - Cộng giật dây - bình thường thôi. Chúa giao cho ông cầm đầu Nam Việt, chỉ có Chúa mới thay đổi sứ mệnh tông đồ đó. Dân chúng đứng sau lưng ông, quân đội phục tùng ông, đồng minh xa gần kính nể ông. Trong không ít lần, ông vỗ bàn với Nhu - đứa en trai mà ông vị nể về sự uyên bác. “Nó lú lẩn”. Ông hạ giá Nhu và bắt đầu thành kiến với các quyển sách dầy cộm bày khắp phòng làm việc của Nhu. Cố vấn được Tổng thống nghe, lại là vợ Nhu. “Thím Nhu giỏi hơn chú Nhu”. Ông tìm thấy ở đứa em dâu sự thâm trầm hơn cả em trai. Cuộc vận động bầu cử Tổng thống nhiệm kỳ hai khá rùm beng. Ứng cử viên Ngô Đình Diệm - Nguyễn Ngọc Thơ trong liên danh “Cây trúc” ra mắt cử tri tại Tòa đô chính. Từ ngôi vị tổng thống nay phải ăn nói theo kiểu một người cần lá phiếu, Diệm rất lúng túng. Ông cứ lầm lẫn mãi vị trí của mình. Nhưng ông không lúng túng lâu. “Tôi muốn nói thằng với quốc dân”. Ông trở lại phong độ cũ. Và ông nói thẳng. Đề tài của ông - không phải là xấp giấy được văn phòng sửa soạn kỹ và được Nhu xem lại lần cuối - xoay quanh cách sống của bậc quân tử. Ông ứng khẩu: “Bậc quân tử không phản bội, không đâm sau lưng kẻ khác”. Ông xỉ vả nhóm đảo chính, số chính khách xôi thịt, và, như mũi tên rời cây cung, ông đả kích thái độ của chính phủ Mỹ. Lần đầu ông dùng danh từ “thực dân” để chỉ đất nước mà ông từng giao phó cả thể xác lẫn linh hồn. Có lẽ, ông không thấy đại sứ Durbrow lặng lẽ rời phòng họp - mà dù có thấy, ông vẫn nói, nói như người say. Báo chí buổi chiều tường thuật cuộc ra mắt của liên danh Diệm - Thơ. Ngô Đình Diệm vứt các tờ báo xuống nền gạch, gọi bí thư báo chí đến: - Mần răng mà chúng nó thuật như rứa? Chẳng tờ báo nào phản ánh đúng lời tôi. Thậm chí, báo phịa ra những điều tôi không hề nói. Tầm bậy! Tôi có cám ơn Hoa Kỳ đâu. Bí thư báo chí, trán rịn mồ hôi, mặc dù năm nay Sài Gòn rét nặng, trình cho ông bản tin của Việt tấn xã - nguồn tin chính mà các báo dựa vào. - Tổng giám đốc Việt tấn xã đến ngay! - Ông ra lệnh. Tổng giám đốc không trình diện, người trình diện là Nhu. - Em sửa đó! Diệm nhìn Nhu trừng trừng. Nhu chìa cho Diệm xem bài báo của Helen Fanfani, tựa cụt lũn: Lồng lộn. Tựa phụ: Ông Diệm tuyên chiến với Kennedy. Diệm vứt bài báo, thét: - Tống cổ con mụ đó ra khỏi Việt Nam Cộng hòa. Nhu lắc đầu: - Em không thể làm như anh muốn… Em điều đình để cô ta không gửi bài báo đi. Anh tuyên chiến nhưng bằng cái gì? Người Mỹ sẽ tuyên chiến và chúng ta phải thua, trong vòng mươi phút thôi. Họ bloque (3) ngoại tệ, quân đội không được phát lương, sẽ bắn vào dinh Độc Lập. Em mong anh bình tĩnh… Nhu nói có bấy nhiêu, cúi lượm bài báo, bước ra khỏi phòng. Ít khi nào Nhu căng thẳng với Diệm, nhưng hôm nay, anh ta buộc phải kéo Diệm trở lại cuộc sống thật. Nhu đi khá lâu mà Diệm vẫn ngồi thừ trên chiếc ghế banh, tượng trưng quyền uy của nguyên thủ quốc gia. Ông vừa nghe một câu dễ sợ nhất - không phải ông không nghĩ đến “cú rờ ve” đó mà Mỹ vốn có ưu thế và là sở trường của họ, song mỗi lần thoáng nghĩ đến, ông xua nó ngay: Dễ gì! Bây giờ Nhu nói thẳng. Lời của Nhu, nhất là đôi mắt buồn rầu của Nhu đập mạnh ông. Mỹ có thể làm như vậy và họ chẳng khó khăn gì. Hồi năm một 1954, 1955 mỗi mình ông xốc vác gánh nặng ở miền Nam. Hiện thời, hằng tá kẻ sẵn sàng thay ông. Thảm cỏ trước dinh vẫn mượt mà, nhưng ông cảm thấy như thảm cỏ bồng bềnh và dinh Độc Lập lắc lư. Ngoài cổng, lính đổi phiên gác. Y hệt người máy, bước chân ngỗng đơn điệu. Tại sao không phải lũ người máy này sẽ quay súng chĩa về phía ông? Diệm đến bên cửa sổ. Ngay bậc thềm dinh Độc Lập, hai sĩ quan đứng nghiêm, súng ngắn bên lưng. - Phải dặn bác sĩ Tuyến đừng để bọn này có đạn trong súng… Ông bỗng thấy vẻ mặt của hai sĩ quan kia gian giảo quá chừng. Diệm lượm tờ báo lên. Ông dừng lại ở bài tường thuật liên danh Nguyễn Đình Quát - Nguyễn Thành Phương ra mắt cử tri: “Nếu chúng tôi đắc cử thì việc đầu tiên là chúng tôi thu xếp ngừng bắn…”. Chà, thằng chủ sở cao su quèn, thằng lính Cao Đài mạt hạng dám bán rao cả hòa bình! Không phải bọn mi mà ta, nếu cần… Liên danh Quát - Phương lấy con trâu làm biểu tượng. Diệm bĩu môi: Bọn hắn đần độn như trâu! … Cuộc bầu cử Tổng thống diễn ra bình thường. Kết quả được công bố. Trong hơn 9 triệu cử tri, liên danh Diệm - Thơ được hầu như tuyệt đối phiếu. Diệm không hí hửng như bao lần trước. Muốn ghi bao nhiêu mà chẳng được. Báo cáo của các tỉnh đều lạc quan, nhưng Nhu có trong tay con số thật. Chừng hơn phân nửa cử tri đến thùng phiếu - chính phủ mất quyền kiểm soát trên phạm vi khá rộng ở nông thôn. Liên danh Hồ Nhật Tân - Nguyễn Thế Truyền cũng như Nguyễn Đình Quát - Nguyễn Thành Phương thu được một số phiếu không nhiều. Cái đáng ngại là tỷ lệ phiếu bất hợp lệ - bấm nát phiếu - hết sức cao. Cử tri không chọn giữa các liên danh mà biểu thị thái độ thù địch với chế độ. Nhu nhớ lần bầu cử trước. Rất ít trường hợp như vậy. Diệm đón thông báo đó trong tâm trạng cay đắng. Dân chúng bỏ ông rồi sao? Nhu an ủi ông với một kế hoạc mới: thành lập ấp chiến lược ở thôn xã thay cho khu trù mật quá kềnh càng, xây dựng thanh niên và phụ nữ Cộng hòa mạnh, chấn chỉnh quân đội. Diệm bị cuốn hút vào cái sau cùng: giải thể các quân khu có từ 1952 thay bằng ba vùng chiến thuật và biệt khu Thủ đô. Phải nắm chắc quân đội cái đã, ngăn tai họa từ trong cổng ngõ. Ngày 1-4, tại lễ khởi công đắp đập Đa Nhim, Durborow nâng cốc chúc mừng Diệm. Diệm chạm cốc mà không vui. Cử chỉ ưu ái của Durbrow bao hàm ý nghĩa ban phúc, - Durbrow không là linh mục. Năm ngày sau, tại lễ phát phần thưởng văn chương. Durbrow lại chạm cốc với Nhu. - Tôi sung sướng được chia vui với ông Cố vấn và qua ông Cố vấn, với Tổng thống. Bảy năm chấp chính Tổng thống Ngô Đình Diệm làm được nhiều việc tốt. Dư luận Mỹ hài lòng trước các thành tựu toàn diện của Việt Nam Cộng hòa. Tôi đã đọc Đò dọc của Bình Nguyên Lộc, Hoa đăng của Vũ Hoàng Chương, Thần tháp Rùa của Vũ Khắc Khoan, các công trình biên khảo của Hoàng Trọng Miên, Nguyễn Mạnh Bảo… những tác phẩm được giải. Tôi khâm phục đời sống tinh thần phong phú và sâu sắc của người Việt… Nhu tươi cười, cám ơn. Mãi tới lúc đó, nhờ Durbrow, Nhu mới biết tên các tác phẩm trúng giải… “Thằng cha Vũ Hoàng Chương viết cái gì đây?”, Nhu chợt nhớ bài thơ tâng bốc Diệm của Vũ Hoàng Cương năm 1955. “Các tác phẩm này bợ đỡ lố bịch chính phủ, nên Durbrow khen? Hoặc nó chẳng nghĩa lý quái gì” - Nhu nghĩ thầm. Quá bận, Nhu không nghe Bộ thông tin trình bày tình hình thế giới gần đây. Bởi vậy, khi Durbrow hỏi ý kiến về “vụ vịnh Con Heo”, anh ta nhún vai. Durbrow hiểu cái nhún vai của anh theo nghĩa khác, nên dành đến 15 phút thuyết giảng rằng đó là số kiều dân Cuba lưu vong tự động đổ bộ, không phải chủ trương của chính phủ Mỹ. Về nhà Nhu gọi Tổng giám đốc Việt tấn xã tới và vỡ lẽ: CIA chiêu mộ đám người bạt mạng ở châu Mỹ Latin, cử tên José Mirose Cardona nào đó làm chỉ huy, đổ bộ lên Cuba và bị đánh tan tại một địa điểm, tục danh là vịnh Con Heo, còn tiếng Tây Ban Nha là Girón. Thảo nào Durbrow lải nhải mãi. Gần đây, Nhu chớm trong đầu một so sánh: Mỹ không mạnh tuyệt đối trên thế giới. Còn Nga Xô. Những tên đánh thuê cho Mỹ chạy tán loạn trên bờ biển Cuba dưới vòng bay của một phi thuyền Nga lần đầu tiên chở người dọc ngang trong vũ trụ. Nhu lật tới lật lui tấm ảnh của phi hành gia Gagarine và phi thuyền Phương Đông, với Nhu là một ẩn số mới. --- (1) Sese Seko Mobutu (1930-1997), người thực hiện cuộc đảo chính quân sự 1960, tổng thống Zaïre 1965-1997. (2) Phối nhạc tốt. (3) Phong tỏa. Phần 6 - Chương 2 Ngày 8-5-1961, Frederick Ernest Jr. Nolting đến Sài Gòn, thay Dlbridge Durbrow. Có thể tìm thấy vài chi tiết khác nhau giữa Nolting và Durbrow: Nolting sinh 1911, trẻ hơn Durbrow 7 tuổi; nếu Durbrow là một chuyên gia các vấn đề Đông Âu và Nam Á - ông từng làm lãnh sự ở liên Xô, Ba Lan, Rumani, Mã Lai… - thì Nolting lại là một chuyên gia về các vấn đề bao quát hơn: phụ trách Vụ Âu châu Bộ ngoại giao, có chân trong đoàn đại biểu Mỹ ở khối Bắc Đại Tây Dương. Sự thay đổi đại sứ được chính phủ Mỹ giải thích như là điều bình thường. Vài chi tiết khác nhau giữa Nolting và Durbrow không nói rõ hơn những gì mà dư luận muốn biết. Chính phủ Sài Gòn lặng lẽ chấp nhận Nolting. Thật ra, cả Diệm lẫn Nhu chẳng thích thú mấy Durbrow: ít năng nổ, vai trò lu mờ, chưa công khai, không tán thành một việc cụ thể nào của Việt Nam Cộng hòa và cũng chưa hề tỏ ra nồng nhiệt đối với sự nghiệp của họ Ngô. Mặt khác, Durbrow nhất định dính dáng đến vụ đảo chính cuối năm 1960, ông ta rời Sài Gòn là phải. Nolting đến Sài Gòn không mang theo vợ, bà Olivia Lindsay sẽ sang khi đại sứ xong bước tiếp xúc với thực tế và thấy rằng bà Olivia Lindsay có thể sang. Gần đây, dư luận Mỹ đồn đãi về những hiểm nguy đối với người Mỹ ở Nam Việt do du kích Cộng sản nhan nhản khắp nơi, cả tại Sài Gòn và giữa ban ngày. Danh sách người Mỹ “thiệt mạng vì công vụ” ở Nam Việt dài ra một cách đột ngột… Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Mỹ Trần Văn Chương và đại sứ quan sát viên Việt Nam Cộng hòa tại Liên hợp quốc, bà Trần Văn Chương, cung cấp tài liệu quá ít ỏi về Nolting. Phải chăng vì Nolting liên hệ với khối quân sự Bắc Đại Tây Dương nên chính phủ Mỹ cử ông sang Việt Nam - nơi mà công thức “vũ khí Mỹ, lính Nam Việt” trong cuộc chiến tranh không tuyên bố đang bị thử thách? Hay là, với tư cách một nhà thương lượng mềm mỏng, Nolting cần thiết cho sự hàn gắn những vết nứt đáng lo ngại giữa chính phủ Mỹ và ông Diệm? Ngô Đình Nhu tìm quyển: Who’s who in American” (1), tập mới nhất và chỉ thấy những dòng tiểu sử quá ngắn gọn của Nolting. Tổng nha cảnh sát, Trung tâm tình báo, Sở nghiên cứu chính trị của bác sĩ Trần Kim Tuyến và Nha an ninh quân đội đều mù tịt về Nolting. Buổi trình ủy nhiệm thư không giúp cho Nhu thêm tư liệu, trừ ngoại hình của đại sứ Mỹ: dong dỏng cao, mắt hơi sâu, có nụ cười tình tứ… Sau Nolting ba hôm, Phó tổng thống Mỹ Lyndon Baines Johnson đáp xuống sân bay Tân Sơn Nhất, trên dường từ Mỹ sang thẳng, chỉ dừng chân ở Honolulu. Dĩ nhiên, Phó tổng thống Mỹ Richard Nixon đã từng đến Nam Việt, nhưng người ta chờ đợi chuyến đi của Johnson bởi đã có nhiều báo hiệu về sự bất đồng trên nhiều phương diện giữa Kennedy - bây giờ là kẻ nắm quyền sinh sát trong Nhà Trắng - với cá nhân tổng thống Diệm. Chuyến thăm Nam Việt của Johnson, do đó, có thể đóng góp vào quyết định một kết thúc - kết thúc sự bất đồng, kết thúc nguyên nhân đẻ ra bất đồng… Tuyên bố báo chí được chuẩn bị sẵn của Phó tổng thống Mỹ phát tại sân bay khá dài dòng. Vị thầy cãi Texas 53 tuổi dùng lối văn nghề nghiệp để minh định lập trường Mỹ ở Nam Việt và Đông Nam Á. “Hợp chủng quốc Mỹ ra đời do nhu cầu tự do. Chính phủ Mỹ dành tất cả nổ lực để bảo vệ nền tự do của bản thân và của các quốc gia bạn hữu. Tổng thống Mỹ cử người trợ lý thân cận của mình sang Sài Gòn bởi mối quan tâm và lòng mong muốn chia xẻ với đất nước nhiều bất hạnh của các bạn và tin ràng sự khát khao tự do là sức đẩy giúp các bạn chiến thắng tất cả trở lực, kiến tạo cuộc sống phồn vinh”. Nguyễn Ngọc Thơ đưa Johnson từ sân bay về thẳng dinh Độc Lập gặp Diệm, theo yêu cầu của Johnson. Diệm và Johnson từng quen nhau khi Diệm sang Mỹ, năm 1956. Bấy giờ, đảng Cộng hòa cầm quyền, thái độ của Johnson rất nhũn nhặn. Chính Johnson đọc một bài chào Diệm, lời lẽ nồng nhiệt. Bây giờ họ vẫn bắt tay nhau nồng nhiệt trước khi bước lên chiếc thảm đỏ trên thềm; song Diệm linh cảm Phó tổng thống Mỹ không mang đến cho ông tin mừng - không chỉ vì Johnsong theo đạo Tin Lành, khác với ông. Bức thư riêng của Kennedy mà Johnson trịnh trọng trao cho Diệm có giá trị như một giấy giới thiệu, và cái câu hàm xúc nhất lại là “tôi thẳng thắn mong Ngài và đại diện của nước Mỹ tìm được tiếng nói chung vì tương lai của Nam Việt, trong đó, mọi tầm nhìn thiển cận đều phải gạt bỏ, nếu chúng ta muốn chiến thắng…” Cuộc hội đàm bắt đầu ngay sau bữa ăn trưa. Johnson đề nghị Nhu không nên dự họp. “Dư luận Mỹ quá thành kiến với ông cố vấn Ngô Đình Nhu. Chính phủ Mỹ không muốn khiêu khích dư luận”. Johnson nói toạc như vậy. Dự hội đàm, do đó, về phía Nam Việt, chỉ có Diệm, Thơ, Tổng tham mưu trưởng Lê Văn Tỵ, ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu và về phía Mỹ, có Johnson, Nolting và Mac Garr. Hai bên đi một vòng chân trời chính trị thế giới và châu Á, tình hình toàn bán đảo Đông Dương và tình hình Nam Việt. Về tình hình thế giới, Diệm tránh cho Johnson khó chịu nên lờ hẳn vụ Macsaysay chết trên đảo Cébu, vụ Lý Thừa Vãn phải đi đày, cả vụ “vịnh Con Heo” và vụ chiếc máy bay U2. Diệm cũng không bài bác quan điểm của Mỹ về sự rối loạn ở Algérie - theo Mỹ, tướng Salan thấy được nguy cơ Cộng sản qua chính sách thiếu cứng rắn của De Gaulle nên đã ly khai… Nhưng, tình hình Đông Dương, nhất là tình hình Nam Việt, không được hội đàm đánh giá thống nhất. Johnson cho rằng các chính thể tự do ở ba quốc gia thiếu khả năng chận đứng sự bành trướng của Cộng sản. Diệm cho rằng “Không thể thắng Cộng sản nếu các đồng minh hùng mạnh của ba quốc gia Đông Dương không gột óc vụ lợi”. Johnson cho rằng Nam Việt nguy kịch. Diệm giảm nhẹ thế lực của Cộng sản đến mức thấp nhất. Càng đi sâu vào tình hình Nam Việt, họ càng xa cách nhau. Diệm - cố kềm chế song không được kín đáo lắm - phàn nàn về một nhúm giả danh Quốc gia “nấp dưới cái ô của người bạn lớn của Việt Nam Cộng hòa gây rối hàng ngũ chống Cộng”, “Lực lượng biệt kích Mỹ xây dựng gần như độc lập với quân đội Cộng hòa”, “Báo chí Mỹ đưa tin về Việt Nam Cộng hòa đầy ác ý, phản ánh sai lạc cả tình hình lẫn chủ tâm của chính phủ”… Diệm nói tiếng Anh - âm sắc còn cứng, song đúng văn phạm. Vũ Văn Mẫu phiên dịch cho Thơ và Tỵ, Johnson tỏ ý không hài lòng về “sự thiếu khéo léo của chính phủ Việt Nam Cộng hòa đối với các nhân tài giàu thiện chí, sự thiếu khéo léo đã dẫn đến “một mức ly tán nào đó trong nỗ lực chống Cộng ở Việt Nam và giúp cho Việt Cộng giành được thắng lợi ở thôn xã”… Diệm giải thích, Johnson cáo buộc. Cuộc hội đàm bế tắc. Buổi dạ tiệc tưng bừng vẫn không xua được nét đăm chiêu trên mặt Diệm. Mọi người đều thấy Johnson thoải mái giả tạo. * Nguyễn Thành Luân vừa rời bệnh viện, người còn xanh lả. Chính Nhu ghi tên Luân vào danh sách những thượng khách trong buổi dạ tiệc. Nhu không muốn chường mặt, dù trong buổi dạ tiệc nên chọn Luân thay anh ta. Thật ra, Luân không có bất cứ danh nghĩa gì đến đây, nơi anh là người có cấp và chức thấp nhất.Luân chọn lối đi kín đáo đi vào phòng tiếp tân. Nhưng tướng Mac Garr đã nhận ra anh. Ông ta vồn vã đến chào: - Xin chúc mừng trung tá bình phục. - Cám ơn tướng quân! - Đây, một nhân vật huyền thoại mà đại sứ cần làm quen. - Mac Garr giới thiệu Luân với Nolting. - Ồ! Hân hạnh! - Nolting nắm tay Luân chặt và lâu - Tôi nghe nhiều về trung tá và nôn nóng muốn gặp. Rất tiếc, tôi sang Việt Nam vào lúc trung tá bị thương. Sở dĩ tôi chưa vào bệnh viện là vì, mong trung tá thông cảm, các việc bàn giao ở tòa đại sứ quá kéo dài… - Không có chi. Tôi xem việc bàn giao ở tòa đại sứ phải kéo dài giữa Ngài Durbrow và Ngài Nolting là một sự trách cứ chúng tôi. Chúng tôi đã để tình hình bề bộn… - Luân nói nghiêm túc. Anh tranh thủ quan sát Nolting: một nhà ngoại giao có vẻ một nhà ngoại giao hơi tài tử - nụ cười, bộ quần áo may ở hiệu Dior, mùi nước hoa… Chắc chắn Nolting cũng quan sát anh. - Không… Hoặc, nếu quả như vậy đi nữa thì tỉnh Kiến Hòa vẫn không gây bận tâm cho bất kỳ ai. Trước kia thì khác. Bây giờ, trung tá đã làm chủ được tình hình. - Nolting kéo Luân lại bàn. - Tôi chưa làm chủ được tình hình. Phát đạn xuyên người tôi đã làm chứng. - Luân thở dài như người có lỗi. - Không phải. Ai lường nổi một tên phản bội bắn lén? Ta nghĩ đến cái gì cao rộng hơn một viên đạn… Nolting kéo ghế mời Luân. Mac Garr rỉ tai với Johnson. Phó tổng thống Mỹ đi thẳng đến chỗ Luân. - Xin chào vị anh hùng! - Johnson chìa tay. Luân, đứng thẳng người, bắt tay Johnson. - Cám ơn Phó tổng thống. Tôi không đủ tư cách làm một anh hùng. Johnson giữa tay Luân trong tay mình, nói vừa đủ cho Diệm nghe - Diệm đang sắp ngồi vào bàn: - Khiêm tốn là đức tính cần thiết của người anh hùng. Luân làm như vừa trông thấy Diệm, nghiêng người chào. - Cháu đã khá chưa? - Diệm hỏi, không bắt tay Luân. - Cám ơn Tổng thống, cháu đã khỏe. Một lóe kiêu hãnh trong mắt Diệm. Hẳn ông đã so sánh cử chỉ của Luân đối với Johnson và đối với ông. Diễn từ của Diệm ngắn. Đáp từ của Johnson dài hơn. Dù ngắn hay dài, toàn lời phù phiếm. Sau tuần khai vị, không khí lần lần tự nhiên hơn. - Tôi chưa nắm được hết các mặt tình hình Nam Việt. Những báo cáo mà tôi đọc ở Washington dù sao cũng không thay được cho thực tế. Theo trung tá, vấn đề gì là then chốt nhất trong sự kiện Nam Việt hiện nay? - Nolting hỏi Luân. Luân không trả lời ngay. Anh dự đoán những nước cờ mới trên bàn cờ mà một số quân đang xếp lại hay dự định xếp lại. * … Viên đạn xuyên bụng, trổ ra dưới mạn sường đã đưa Luân vào cơn hôn mê. Cuộc giải phẫu, dù ngay tại phòng khách dinh tỉnh trưởng, vẫn hoàn hảo. Giáo sư Đệ là bậc thầy về khoa này. Người ta đưa Luân lên trực thăng. Một cái lắc nhẹ ở máy bay, anh đau toát mồ hôi và anh hôn mê trở lại.Anh mở mắt và nhận ra ngay nơi quen thuộc - Bệnh viện Grall. Bây giờ, Dung đang ngồi cạnh anh. Một cái gì xót xa cồn cào trong Luân. Dung tiều tụy quá. So vớí lần anh chết hụt ở Bình Dương, Dung tiều tụy hơn nhiều. Anh cảm thấy mình thật đáng trách. Tại sao Dung phải chịu đựng những khinh xuất của chính anh? Liệu hạnh phúc mà anh mang lại bù đắp nổi những đau đớn dằn vặt Dung - mà làm sao đoán trước đây có phải là lần cuối cùng hay không? Đôi mắt bồ câu vụt long lanh - cùng với cái mở mắt của Luân. Nếu không có vị giáo sư người Pháp và giáo sư Đệ, cả nhóm bác sĩ ngồi cách gường Luân vài bước thì cả hai chắc đã khóc òa. Dung nhoẻn cười, tay đặt lên môi Luân, tay kia vuốt mấy sợi tóc lòa xòa phủ trán Luân. Một Dung biến hóa, khác hẳn mấy giây trước đó. Luân nén cái thở dài. Cái sống và cái chết của mình đã là của Dung. - Anh xin lỗi em! - Luân thều thào… Dung đáp lại bằng cái lắc đầu nhè nhẹ. Nước mắt đầm đìa trên má cô: Anh có lỗi gì? Kẻ bắn Luân lần này không phải tên trung sĩ lái xe ở Bình Dương mà là một nội tuyến - một người yêu nước, trà trộn đến cấp trung úy truyền tin. Thật cay đắng. Và cũng thật đáng mừng: Nhất định sự việc xảy ra vào cái đêm kinh hoàng ấy góp phần xóa dấu vết mà Luân để rơi rớt không ít trong thời gian ngắn làm tỉnh trưởng Kiến Hòa. Chỉ cần cộng các biện pháp mà Luân thực hiện với Thường, ông giáo Tâm, chuẩn úy Tập, với dân Cồn Ốc, bà Hai Sặc và với bọn công an, biệt kích… những tay tình báo gà mờ nhất cũng phải đặt một dấu hỏi to tướng. May quá, viên đạn trúng Luân vào chỗ trí mạng và không ai nghi ngờ về dụng ý của kẻ bấm cò. Tổng giám đốc công an, sau khi Luân bị bắn, đã thổ lộ với Dung: - Tổng nha nhận được nhiều báo cáo về trung tá tỉnh trưởng. Bác sĩ Tuyến và ông Cố vấn cũng thấy lạ lùng. Tại sao trung tá lặp lại cách làm việc mà người ta bắt buộc phải suy luận rằng trung tá tung đòn phản gián để bảo vệ cán bộ đầu sỏ Việt Cộng? Nhưng, chính trung tá lại là mục tiêu số một của Việt Cộng ở Kiến Hòa. Viên đạn xua tan mọi hoài nghi. Cái cần trao đổi - tôi thành thật mong trung tá sẽ hồi phục - là trung tá có nên tiếp tục vai trò phiêu lưu cũ hay không? Trung tá định lấy lòng dân, nhưng dân lại nghe Việt Cộng. Người của Việt Cộng đeo bám trung tá… Tốt hơn hết, trung tá vớ được tên nào bắn tên nấy… Thiếu tướng Tổng giám đốc cho Dung xem một tài liệu của Việt Cộng mà công an vừa tịch thu: Thông báo của T.2 - mật danh của Khu ủy Trung Nam bộ, về những thủ đoạn xoa dịu quần chúng của Nguyễn Thành Luân. Thông báo gọi Nguyễn Thành Luân là một tên phản bội kháng chiến, liếm gót gia đình Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, một phần tử bại hoại cần phải loại bỏ với bất cứ giá nào. Hôm Luân về nhà, Nhu đến thăm. Anh ta phàn nàn: - Vậy là “bên kia” kết án anh rồi… Luân hiểu Nhu nuối tiếc một chiếc cầu. Có lần, Nhu đã hỏi thẳng Luân khả năng móc nối với “bên kia”. Bây giờ, theo Nhu, đổ vỡ hết… Luân cười mỉm: - Làm thế nào khác được… Khoảng cách lớn quá. … Cùng đề tài Luân bị ám sát, Ly Kai, Lâm Sử và Dương Tái Hưng có ba cách nhìn khác nhau. Ly Kai tường thuật nội vụ cho hai người kia nghe và kết luận: Việt Cộng đoạn tuyệt với Nguyễn Thành Luân. Lâm Sử, ngần ngừ khá lâu, mới nói: - Chưa chắc! Bằng cớ là Luân còn sống. Tại sao không phải là một “khổ nhục kế”? Chuyện cổ Trung Quốc có trường hợp Vương Tá, tướng của Nhạc Phi tự chặt tay để lừa quân giặc… Dương Tái Hưng cười theo lối kẻ cả: - Không thể có chuyện “khổ nhục kế”. Thằng đó bắn Nguyễn Thành Luân thật. Nó quyết giết y ta. Chỉ có sự may mắn đã cứu Nguyễn Thành Luân. Ly Kai hí hửng: - Đúng rồi, Việt Cộng đoạn tuyệt… Dương Tái Hưng nheo mắt: - Ông Ly Kai ngây thơ quá! Không có chuyện đoạn tuyệt… Giữa sự ngơ ngác của Lâm Sử và Ly Kai, Dương Tái Hưng nhấn mạnh từng tiếng: - Việt Cộng Bến Tre không được cấp trên cho biết Luân của ai. Nguyên tắc bí mật… Thấy hai người gật đầu công nhận hắn cao kiến, Dương Tái Hưng nói tiếp: - Nghĩa là việc theo dõi tên Luân vẫn phải tiếp tục, hơn nữa, tiếp tục thật nghiêm ngặt… Có dịp thì… - Gã ra dấu: bấm cò. * … Luân vẫn phải trả lời Nolting:- Câu hỏi của đại sứ quá rộng. Tôi chưa tìm được cách diễn đạt gọn mà không rơi vào một thứ sáo rỗng. Tuy nhiên, trước sau tôi vẫn cho rằng, muốn chiến thắng ở Nam Việt, phải nắm được quần chúng… Nolting nhún vai: - Nếu tôi không lầm, trung tá là một quân nhân - gọi là quân nhân chuyên nghiệp cũng được. Quân nhân nên diễn đạt theo lối riêng của mình. Nolting liếc về phía Diệm: - Người ta nói với tôi, ông Diệm và em trai, em dâu của ông ấy là vấn đề then chốt nhất… Luân ngồi thẳng lưng. Cử chỉ có tính toán của Luân được Nolting đánh giá như một phản xạ. Ông ta cười gượng. - Thế nào là “vấn đề then chốt nhất”? - Luân hỏi, giọng khô khan. Nolting xua tay: - Chẳng lẽ Tổng thống một nước không là nhân tố quyết định hàng đầu tình hình của nước đó? Việt Nam Cộng hòa, như Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, theo chế độ tổng thống… Tạo điều kiện để cho Tổng thống Diệm làm hết vai trò của ông ấy, tại sao không phải là “vấn đề then chốt nhất”? Rõ ràng, Nolting lấp liếm. Luân bắt mạch quan điểm của ông ta - hẳn cũng là quan điểm của Kennedy: tìm cách xoay Diệm sau khi gạt tay chân thân tính của ông. Anh thăm dò thêm một bước: - Trong ý nghĩa như vậy, tôi không có điều gì khác Ngài đại sứ. Tuy nhiên, để giúp Tổng thống nước chúng tôi làm hết vai trò, điều kiện không giản đơn… - Trung tá có thể nói rõ hơn không? - Tổng thống chúng tôi phải đối phó với rất nhiều khó khăn… - Tôi hiểu! - Nolting ngắt lời Luân - Việt Cộng mạnh… - Không chỉ Việt Cộng - đến lượt Luân ngắt lời Nolting - Khó khăn đôi khi, và bây giờ là thường khi, lại từ phía đồng minh của chúng tôi… - Ông là người của gia đình Tổng thống Diệm, - Nolting nói như thất vọng - người ta gán cho ông là lãnh tụ quan trọng của đảng Cần Lao, thật không sai. - Ngài đại sứ hãy nghe, - Luân vẫn từ tốn - tôi chưa hề chối, và việc gì phải chối, về mối quan hệ cá nhân của tôi với Tổng thống và vị trí của tôi trong đảng Cần Lao. Nhưng những cái đó không phải là việc cần trao đổi. Chúng tôi phạm một số thiếu sót, đúng như vậy… Cái thiếu sót đó gọi chung là vội vàng. Quá vội vàng… Phải đâu người Mỹ không chịu trách nhiệm gì cả trong các thiếu sót của chúng tôi? Trước kia, nước Mỹ muốn xóa Bắc Việt Cộng sản qua chúng tôi. Hiện nay, nước Mỹ muốn thanh toán Việt Cộng đôi ba tháng. Làm sao được? Nolting lắng nghe và không rõ chịu hay không chịu lập luận của Luân, ông ta chạm ly với Luân. * Nhu mời Luân đi chơi ngay buổi sáng mà báo chí công bố thông cáo chung Việt - Mỹ: Hoa Kỳ sẽ tăng việc trợ quân sự, đảm đang luôn phần trang bị cho lực lượng Bảo an, sẽ cử sang Việt Nam một phái đoàn cao cấp cùng Nam Việt nghiên cứu kế hoạch quân sự, kinh tế và kế hoạch chống du kích Việt Cộng.Hai người ngồi chung một xe, có cảnh sát hộ tống, chạy theo xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa vừa khánh thành cuối tháng trước, do hãng thầu RMK - BRJ thực hiện. Lễ khánh thành đồng thời với lễ tuyên thệ nhậm chức Tổng thống nhiệm kỳ hai của Diệm. Xe vượt cầu Phan Thanh Giản, qua vùng mới xây dựng: những dãy nhà lợp tôn lụp xụp nối tiếp đến ngã tư Hàng Xanh. Xe lại vượt chiếc cầu rộng bắt qua sông Sài Gòn với tốc độ 100km/h. Luân chìm trong suy nghĩ: con đường chiến lược nối cảng Vũng Tàu được xây dựng không phải là một thứ trang sức và cũng không phải chỉ do nhu cầu kinh tế. Người Mỹ sửa soạn khá chu đáo cho mọi tình huống. - Anh biết đêm hôm qua Di Linh bị tấn công không? - Nhu lại chìm trong hướng suy nghĩ khác, hỏi Luân. Luân lắc đầu: - Sao, thiệt hại lớn không? - Cũng kha khá… Mất ba tiền đồn. Đồng thời, công trường Đa Nhim cũng bị tấn công, một số xe cộ, máy móc bị phá, một số chuyên viên Nhật bị thương, tệ hơn hết là quận trưởng Đơn Dương bị bắt và bị sát hại… Xe tăng tốc độ. Kim chỉ 120km/h. - Sẽ xây dựng khu đại học ở đây. - Nhu trỏ một khu đồi phía trái - Và một huấn khu quân sự tại đây. - Nhu trỏ phía Chợ Nhỏ. - Phải đưa sinh viên ra ngoại thành. Dễ kiểm soát và kềm chế… - Nhu bỏ lửng câu nói, hỏi đột ngột: - Anh biết tin đảo chính ở Đại Hàn chưa? Luân biết, qua đài BBC. Thủy quân lục chiến đóng ở Kimpo, cách Seoul 15 cây số, kéo về thủ đô, tuyên bố lật đổ chính phủ, thành lập Hội đồng cách mạng do tướng Chang Do Yung (2) cầm đầu… - Kết quả rất hiển nhiên của việc người Mỹ thọc sâu vào nội trị một nước! - Nhu bình luận. Luân hiểu Nhu lo lắng về bản thông cáo chung Việt - Mỹ. - Bảo an sắp nhận viện trợ - Luân tặc lưỡi - Giới hạn của viện trợ đó tới đâu? - Chưa định rõ, đợi phái đoàn Mỹ sang. Johnson báo trước: Phái đoàn do giáo sư Staley cầm đầu. Anh Tổng thống không yêu cầu song Johnson mặc nhiên cho rằng Bảo an cần có cố vấn chống du kích… Johnson còn gợi ý ta cử giáo sư Vũ Quốc Thúc tham gia soạn thảo kế hoạch kinh tế. - Tại sao là Vũ Quốc Thúc? - Luân hỏi. Nhu nhún vai: - Có lẽ vì ông ta tốt nghiệp Thạc sĩ kinh tế học, hiện đang là cố vấn kinh tế của Tổng thống. - Ông Thúc từng đứng đầu tổ chức chính trị Phong trào tranh thủ tự do… - Cái đó thì chỉ có cái nhãn… - Nhu cười khinh miệt. - Cái nhãn, đúng rồi. Song, ai cho ông ta dán nhãn? Nhu lại nhún vai. Xe vượt cầu sông Đồng Nai. Đến ngã rẽ ra Vũng Tàu. Nhu bảo dừng xe. Hai người đi bộ theo con đường còn bốc mùi nhựa hăng hắc. - Johnson bảo riêng anh Diệm: cho tôi và nhà tôi nghỉ. Anh Diệm nổi nóng… Theo anh, tôi và nhà tôi nên như thế nào? - Còn như thế nào nữa? - Luân trả lời không do dự. Anh thừa biết Nhu không phải là hạng suy nghĩ bằng cái đầu của người khác, nhưng dầu sao vấn đề cũng gay gắt, Nhu mong Luân gợi được vài cảm hứng để anh ta chọn phương án. - Tôi nghe anh. - Nhu đứng lại. Hai người đối mặt nhau. - Bài toán chỉ có hai đáp số: theo ý người Mỹ và không theo. Đi đến mỗi đáp số có phép giải khác nhau… - Chính vì bài toán chỉ có hai đáp số mà tôi phải hỏi anh. Càng ít đáp số, bài toán càng phức tạp… - Nhu cười mà mắt vẫn ưu tư. - Có phải việc anh chị không tham gia chính quyền mang một ý nghĩa quan trọng thật sự đối với người Mỹ? Tôi không tin như vậy… - Ta không mất công phân tích các toan tính thầm kín của người Mỹ. Bây giờ, họ quả quyết rằng việc tôi và nhà tôi thôi dính líu đến chính trị là sự đáp ứng tích cực của ta đối với việc Mỹ mở rộng viện trợ. - Đằng sau yêu sách vô lý đó, là cái gì? - Là Mỹ hóa tình hình ở Nam Việt… Sẽ chỉ có một chính phủ bù nhìn. Thậm chí, sẽ có những con người máy Việt Nam, những kẻ đánh thuê. - Nhưng, Tổng thống sẽ bác bỏ… - Tất nhiên… Song, tôi muốn Tổng thống không bị động. - Tổng thống sẽ bị động gấp đôi nếu anh chị rời chính quyền. Nhượng bộ này kéo theo nhượng bộ khác. Và vân vân. - Cám ơn anh! - Nhu xởi lởi - Ta sẽ bàn kỹ về chiến thuật… Anh chưa cần trở lại Kiến Hòa sớm. Xe quay về Sài Gòn. Nhu nói huyên thuyên so với bận đi, đủ thứ chuyện, kể cả quyển tiểu thuyết “Dịch hạch” của Camus - anh ta không có thì giờ đọc, con gái anh ta tóm lược cho anh ta… * Giám mục Ngô Đình Thục ăn cơm với Luân. Suốt bữa ăn, ông ít quan tâm đến thực đơn - do Dung trực tiếp nấu - mà hỏi han Luân về thời cuộc. Người chủ chăn giáo phận rất có khiếu về kinh tài. Nhiều lúc, Dung phải vờ lấy khăn lau miệng để khỏi cười vô lễ.- Mần răng mà sắt, xi măng giá cao rứa… Cha tính cho đứa nào sang Bến Tre mua dừa. Một hãng Nhật bằng lòng đổi sắt, xi măng lấy dừa. Khi nó sang Bến Tre, con bảo bọn dưới giúp nó… Cha cho phép họ đạo Cái Mơn xây thêm nhà thờ, chủng viện. Bổn đạo tự thu xếp tiền nong. Chỉ cần cha sẵn sắt, xi măng… Còn gạch, họ mua dễ, vả lại giá không cao… Nhưng giám mục lại ngờ nghệch về chính trị: - Hôm bầu cử Tổng thống, cha hạ lệnh cho các linh mục trong giáo phận rao giảng các nhà thờ: không bầu bán gì cả, chỉ có việc suy tôn Tổng thống thôi… Cha cũng ra lệnh cho công an cấm tuyệt bọn Hồ Nhật Tân, Nguyễn Đình Quát xuống các tỉnh. Bầu cử làm chi cho hao tốn. Cha nghe có người nói chính phủ Mỹ bất hòa với chính phủ ta. Họ nói sai. Tuy Tổng thống Mỹ theo đạo Tin Lành song họ cũng thờ Chúa. Cùng thờ Chúa với nhau, sao lại bất hòa? Giám mục hỏi Luân, đột ngột: - Ở Kiến Hòa, Phật giáo ra răng? - Có chùa, có sư và các ngày lễ, tín đồ vấn đến cúng vái… - Luân trả lời lửng lơ. - Hừ! - Giám mục bực bội - Bọn nó chẳng hiền đâu… Con phải coi chừng. Tiễn giám mục ra về, vợ chồng Luân ngồi lại, định soát xét các mặt của công việc thì Thạch vào: - Thưa ông, nhà tôi với mấy đứa nhỏ lên, xin phép chào ông và cô… Thạch chưa bao giờ gọi Dung là bà. Đơn giản thôi, Dung quá trẻ. Vợ Thạch cùng hai con thập thò mãi ở hàng hiên, Dung phải dìu cả mẹ con vào, ấn ngồi lên ghế. - Con nghe ông bị tai nạn ở Bến Tre… Mắc mùa màng, không thăm ông được, nay mới tới… Thiệt Trời Phật có mắt nên phù hộ người ngay… - Vợ Thạch vừa nói vừa rưng rưng nước mắt. Luân cố phân tích tâm trạng của người phụ nữ nông thông này - đâu là tình cảm mà chị dành cho Luân, “ông chủ biết điều của chồng” và đâu là khói mù của một bàn tay nào đó… - Quê cô yên tĩnh không? - Luân hỏi. - Thưa, năm ngoái, tề lính bỏ chạy hết, “mấy ổng” chiếm nhà làng. Năm nay, quân đi càn mấy lần vướng lựu đạn, nên chỉ đi theo lộ lớn. Nhà con khuất vô trong, chưa bị mất con gà con vịt. Mà, đồn hay thụt mọt-chê… Yên thì cũng yên mà lộn xộn thì cũng lộn xộn. Vái trời… Nói bấy nhiêu, vợ Thạch im bặt. Hai đứa nhỏ nép vào mẹ, ngó Luân và Dung trân trối. Chị vái trời cái gì? - Mấy anh giải phóng có kéo về chỗ cô không? - Thưa có. Nhờ mép biền, họ đóng dọc theo rạch, “Quốc gia” không hay… - Anh Thạch làm việc với “Quốc gia”, dưới đó không làm khó dễ cô sao? - Thưa, chú bác trong làng biết nhà em chỉ vì chén cơm. Với lại, đi theo ông thì đâu làm bậy được… - Ai nói với chị là đi theo tôi thì không làm bậy? - Dạ, tự em tính ra, chớ đâu có ai nói… - Vợ Thạch trả lời khá lanh, song Luân bắt gặp một thoáng bối rối ở người phụ nữ chắc ít quen nói dối. Luân dặn Thạch giữ vợ con ở Sài Gòn chơi vài ngày. “Ai?” - Luân tự đặt câu hỏi. Ai bày biểu cho vợ Thạch, bạn hay thù? Nếu là thù, không khó đối phó lắm. Nếu là bạn, rất phức tạp - một đồng chí nào đó phát hiện hành tung của Luân. Luân và Dung thì thầm với nhau suốt buổi sáng. Chị Sáu dọn cơm, mời hai ba lần, vợ chồng Dung mới ngồi vào bàn. --- (1) Từ điển nhân vật Hoa Kỳ (2) Chang Do Yung (1923–?), thủ tướng Hàn Quốc (tháng 5 đến tháng 7 năm 1961) Phần 6 - Chương 3 Bài của Helen Fanfani trên Financial Affairs: LỰC LƯỢNG CHÍNH TRỊ MỚI Ở NAM VIỆT - CÁC NHÀ SƯ. Ngày 21-5-1961, Giáo hội tăng già kỷ niệm lễ Phật Thích Ca ra đời đặc biệt rầm rộ tại một địa điểm ít ai có thể ngờ: sân vận động quân đội. Giáo hội gồm các nhà sư quê Bắc Việt di cư vào Nam. Họ có trong người chiếc hộ chiếu chống Cộng và kể từ 1954, họ vẫn bị mai một dưới một chính thể được mô tả như là trấn áp các tôn giáo để đạo Thiên Chúa La Mã độc tôn. Cờ Phật rợp sân vận động và vài nghìn tín đồ - nữ nhiều hơn nam và trong nam, tuy khó kiểm kê song quân nhân mặc thường phục phải chiếm một tỉ lệ nào đó - kính cẩn nghe các nhà sư thuyết pháp. Chưa chắc tín đồ đã hiểu những câu triết học Phật giáo hàm súc quá tầm đối với trình độ văn hóa trung bình, nhưng một cuộc tập hợp công khai khá quy mô của những người di cư theo đạo Phật trên lãnh địa của quân đội hẳn có nhiều ẩn ý. Chỉ nửa năm trước đây thôi, cũng quân độ đã làm cho chế độ ông Ngô Đình Diệm choáng váng. Tập tục của các thể chế độc tài mà người ta quen thuộc ở Nam Mỹ sau Đệ nhị thế chiến - liên quan chặt chẽ với bước tiến của đồng dollar Mỹ - quảng bá khá nhanh ở Đông Á. Nước Thái Lan hiền lành thế kia mà vẫn có đảo chính và dĩ nhiên quân đội dùng súng do Mỹ trang bị “xếp đặt lại trật tự nội bộ” theo ý các tướng tá. Quân đội nhà nghề trở thành một lực lượng chính trị - điều bị cấm tuyệt đối ở Mỹ lại được khuyến khích rộng rãi bên ngoài. Dẫu sao, chuyển một đạo quân trong doanh trại, trong đội hình, chịu kỷ luật nghiêm ra một chính đảng vẫn ít tốn tiền và thời gian hơn xây dựng một chính đảng. Vấn đề là ở Nam Việt, không phải chỉ có ông Diệm hiểu điều đó. Những người theo đạo Phật di cư, chống Cộng quyết liệt, hiểu điều đó có vẻ trước ông Diệm. Việt Nam là một đất nước Phật giáo - chúng ta có thể khái quát như vậy nếu không quá câu nệ. Đạo Phật đến xứ này ngắn nhất cũng trên 15 thế kỷ, dưới triều đại các vua Trung Quốc đời Đường nổi tiếng sùng Phật. Đạo Phật lại là tôn giáo châu Á, rất gần gũi với tình cảm người Việt. Còn đạo Thiên Chúa, mãi thế kỷ XV mới có mặt trên một số vùng của Việt Nam. Và, có mặt với những nhà truyền giáo dị tộc. Người viết bài này dự buổi lễ tại sân vận động và các bức ảnh có thể giúp bạn đọc hình dung cuộc chạy đua giành quyền binh khó tránh ở Nam Việt mà các nhà sư nghiễm nhiên thành đối thủ của tổng thống tín đồ đạo Thiên Chúa Ngô Đình Diệm. Một nhà sư nổi tiếng vừa - nhưng qua buổi giảng đạo này, ông sẽ nổi tiếng hơn - tên là Thích Tâm Châu, giống hệt các linh mục: minh họa một câu kinh Phật bằng khái niệm chính trị mà ai cũng có thể hiểu. Ông nói: Phật dạy chúng ta vị tha, còn một số người cầm quyền thì chỉ lo ăn ngon mặc đẹp. Ông cố gắng phơi bày cái mà ông gọi là “sự ngược đãi đạo Phật”, với lời lẽ khéo léo và rất hấp dẫn. Tôi đã trông tận mắt một số nữ tín đồ khóc nức nở. Cách đây ba tuần lễ, tôi dự một cuộc tập hợp đông hơn ở trụ sở một tổ chức nghiệp đoàn Thiên Chúa giáo với vị lãnh đạo di cư hách dịch - người ta nói ông Trần Quốc Bửu, tên của vị lãnh đạo ấy, hành nghệ quản lý nghiệp đoàn như nghề cai thầu. Diễn văn soạn sẵn, ông Bửu nhai lại câu phù chú: “Thăng tiến cần lao, đồng tiến xã hội”. Có vẻ câu phù chú của ông Bửu bí hiểm hơn cả câu kinh Phật. Ông Bửu thích nghi không khí sôi động của Sài Gòn chậm hơn nhà sư. Tôi biết còn một nghiệp đoàn nữa, thuộc hệ thống quốc tế các đảng xã hội, gọi là Lực lượng thợ thuyền mà ông Vân, người cầm đầu, chuyên lo điều đình để ông Diệm trả lương hưu trí cho công chức thuộc guồng máy cai trị Pháp trước kia; nghiệp đoàn đó quá già nua. Một nghiệp đoàn khác, gọi là Tổng liên đoàn lao động, na ná CGT của Pháp, do ông Thốt cầm đầu, bị khủng bố liên miên và chỉ được tổ chức lễ 1-5 trong khuôn viên trụ sở chật hẹp. Liệu rằng nếu những người công đoàn viên này liên mình với những người Phật giáo bất mãn kia thì ông Diệm có thể tránh khỏi nguy cơ không? Không chỉ các trí thức, mà đã đến lượt các nhà sư, các tín đồ đạo Phật - hầu hết là người nghèo - tỏ thái độ bực dọc. Hiện nay, các nhà sư chưa đủ lực lượng - họ là di cư, cô lập trong dân chúng tại chỗ, nhưng mọi việc không đứng yên mãi. Nhất là khi họ khám phá ra cái kho của cải đầy ắp - quân đội - đang muốn ngoi lên thành thực thể chính trị. Tính cách tôn nghiêm của triều đình ông Diệm bị trần tục hóa qua vụ 11-11. Và một khi ông Diệm hiện thân như một tổng thống bằng xương bằng thịt thì quyền lực thuộc về ai có súng trong tay. Nhà thờ đã là lực lượng chính trị. Tại sao nhà chùa không làm như thế? Các nhà sư đặt câu hỏi như vậy. Câu hỏi của các nhà sư đặt ra tại một doanh trại quân đội - bao quát luôn câu hỏi kèm: Tại sao không phải là quân đội? Bảng tổng kết 7 năm ông Diệm chấp chánh cung cấp nhiều tư liệu để nhà chùa tố cáo ông. Nhà chùa sẽ được dư luận hậu thuẫn tình cảm không thích đạo Thiên Chúa vốn ăn sâu ở đây hàng trăm năm, ông Diệm kích động thêm tình cảm đó và chính nhà cung cấp cho tình cảm đó những cơ sở và cơ hội rất hào phóng. * Ủy ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam công bố danh sách thành viên, tuyên ngôn, chương trình hành động và bài hát chính thức.Ngô Đình Diệm không quan tâm lắm đến nhân sự của Mặt trận. Hầu hết xa lạ với ông, trừ luật sư Nguyễn Hữu Thọ và kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát mà ông nghe tiếng. Chính ông đã bắt giam luật sư Nguyễn Hữu Thọ ngay khi ông vừa chấp chánh. Ngô Đình Nhu khác Diệm. Anh ta để hằng buổi nghe các chuyên viên báo cáo về từng nhân vật của Mặt trận. Anh hỏi thêm Luân những chi tiết. Và, ngay Luân cũng không biết hết lai lịch các ủy viên Mặt trận: Võ Chí Công, Trần Nam Trung, Huỳnh Đàng, Nguyễn Thạch v.v… là ai? Khi được tin luật sư Nguyễn Hữu Thọ thoát khỏi nơi quản thúc ông - một làng trung du - Nhu khiển trách tỉnh trưởng Phú Yên thậm tệ, song chủ yếu là vì Nhu nhìn việc đó như báo hiệu tình hình an ninh Phú Yên trở nên quá xấu. Bây giờ, Nhu thấm đau: anh ta đã để sẩy một nhân vật có tầm cỡ. Cộng sản công bố danh sách Mặt trận - chính phủ Việt Nam Cộng hòa đối đầu từ nay không phải với một bóng ma mà với một tổ chức có con người cụ thể. Nhu vỗ bàn giận dữ khi thiếu tướng Tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia không trả lời được vì sao, lúc nào, bằng cách gì mà nhà soạn kịch Trần Hữu Trang, bác sĩ Phùng Văn Cung vô mật khu. Sẽ còn ai nữa? Nhu ra giá cái đầu của thiếu tướng nếu Cộng sản lại công bố thêm một nhân vật Sài Gòn tham gia Mặt trận. Nhu đã nghe tin tức về lễ thống nhất các lực lượng vũ trang chống chính phủ - bây giờ gọi là Quân giải phóng - và anh ta hiểu đối thủ xuất hiện theo một kế hoạc dự tính. Trần Kim Tuyến cho là Nhu đánh giá Mặt trận hơi cao. Tuyến so sánh danh sách Mặt trận với chính phủ vừa cải tổ. Nhu cười thương hại Tuyến: - Ông bác sĩ nghèo kiến thức quá. Ông cứ ngỡ các ông Trương Công Cừu, Nguyễn Đình Thuần, Bùi Văn Lương, Huỳnh Hữu Nghĩa, Ngô Trọng Hiếu… là có giá lắm sao? Ta thừa, quá thừa các gương mặt mập ú, cách biệt với dân, ngoài bằng cấp, tiểu sử, không có gì để ghi. Nếu có, lại là thứ không thể ghi. Cộng sản đưa người nào thì người đó có ảnh hưởng trong dân chúng. Ông kiếm cho tôi một người từng vào tù ra khám thời Pháp về tội chính trị và lương thiện để tôi bổ sung vào chính phủ ta. Không có!… Ông thử mời giáo sư Dương Minh Thới, bác sĩ Nguyễn Xuân Bái tham gia nội các xem? Họ không thèm. Mà không chừng họ đã là thành viên của Mặt trận. Hòa thượng Thích Thiện Hào là ai? Ông không biết! Joseph-Marie Hồ Huệ Bá là ai? Ông không biết! Đại đức Sơn Vọng là ai? Ông không biết! Trung tá Võ Văn Môn? Ông không biết! Tôi mách giúp ông: Bảy Môn đó. Bảy Môn từng làm tham mưu trưởng cho Bảy Viễn đó. Việt Cộng lôi kéo được cả một lãnh tụ người Rhađê, tên là Ibih Aléo. Chớ có coi thường! Gần đây, Nhu hay bực dọc. Chuyện không đáng gì cũng khiến anh ta rống lên, quát tháo, mất dần cái điềm đạm, thâm trầm cũ. Một trong những cơn tính khí thất thường ấy trút lên đầu vị linh mục xứ đạo Bình An. Sau vụ gánh hát Kim Thoa bị ném lựu đạn, cách nay ngót 5 năm, linh mục Hoàng gần như không nói chuyện với Nhu lần nào, mặc dù linh mục vẫn luôn chạm mặt Nhu ở các cuộc họp. Linh mục đinh ninh có lúc Nhu phải phủ phục trước ông cầu sự giúp đỡ. Ông nắm trong tay khối Thiên Chúa giáo di cư đồ sộ, gồm các linh mục và con chiên từ Xóm Mới, Bắc Hà lên đến Hố Nai, Gia Kiệm. Các nhà thờ lớn trong thành phố đều do các linh mục thân tín của ông cai quản. Thế lực của ông không chỉ có ngần đó. Quốc hội, các bộ, các tướng, các ngân hàng, công ty… Nhu phải biết ông là hạng người nào. Ngày xưa, Nhu dọa cắt viện trợ cho quỹ di cư, ông sợ mất mật. Bây giờ, ông thách Nhu - mấy trăm triệu dollar đã hóa thân vào guồng vận động của bao nhiêu ngân hàng, công ty, bao nhiêu xứ đạo. Con số viện trợ vẫn còn song thật chẳng thấm vào đâu so với cơ ngơi mà ông chi phối hiện nay. Tổng đoàn Bùi Chu - Phát Diệm xưa kia không ra cái mẽ gì - mấy con gà, con lợn thu vét, mấy bộ quần áo, mấy thùng thịt hộp của quân nhu Pháp, mấy trăm nghìn đồng bạc Đông Dương… sao mà nhỏ bé đến thế. Ông không ngờ cung cách làm ăn mới mang tiền về cho ông như nước. Tóm lại, ông bỗng thấy mình cao lớn hẳn khi bước vào phòng làm việc của Nhu. Đợi mãi, không thấy Nhu mời, ông phải gửi danh thiếp báo là ông muốn gặp Nhu. Riêng cái danh thiếp cũng có lịch sử của nó. Lúc đầu, danh thiếp rẻ tiền, in ba dòng: Linh mục Hoàng - Cha sở Bình An - Sài Gòn. Nửa chừng, danh thiếp được in tốt hơn, chữ phủ kín: Linh mục Hoàng - Cựu Tổng chỉ huy lực lượng phòng vệ Bùi Chu - Phát Diệm - Cố vấn ủy ban Trung ương công dân Công giáo - Chủ tịch Hội cựu chiến binh Công giáo Bắc Việt - Hội trưởng Hội ái hữu Công giáo Bắc Việt. Gần đây, ông bỏ hết các danh thiếp đó, bảo nhà in Kim Lai in cho loại mới, trên giấy quý, chữ nổi. Và danh thiếp chỉ ghi vỏn vẹn: Linh mục Phaolồ Hoàng, không đề tên, địa chỉ và số điện thoại. Chưa chắc Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, nếu tước bỏ cái tên và chức, còn trơ trọi có mỗi cái họ trong danh thiếp, thiên hạ biết họ là ai! Ông ghi nguệch ngoạc đằng sau danh thiếp: Cha có việc muốn bàn với con. Gấp. Thế là Nhu hẹn gặp ông. Nhu chờ ông ngay phòng làm việc và bắt tay ông niềm nở. - Cha muốn bàn việc chi? Con sẵn sàng nghe. Nhu mời ông ngồi. - Nhiều việc lắm… Này… Ông mở đầu bằng lối trịch thượng quen thuộc. - Này, tại sao con để cho bọn thầy chùa làm lộng thế? - Thưa cha, thế nào là làm lộng? - Nhu một mực ôn tồn. Như được khuyến khích - đúng là Nhu cần ông - ông lên giọng: - Chứ còn gì mà không lộng… Lễ Phật ngay vận động trường quân đội, cờ quạt rợp trời, dùng cả loa phóng thanh thuyết pháp… Thiếu cái gì nữa, nào? Ông nghiêng người, duỗi chân, tựa đầu vào tay, ngó Nhu, môi bĩu, mái tóc bạc cắt bằng phẳng khẽ lắc lư. - Chết mất, con ạ! Khốn thật; con cầm giềng mối cả chế độ mà khinh xuất đến thế… Có tiếng gõ cửa. Nhu nói vọng ra: “Vào!” Người bước vào là trung tá Nguyễn Thành Luân. Linh mục Hoàng vẫn không đổi bộ nửa ngồi nửa nằm trên chiếc ghế bành, không chìa tay cho Luân. Mắt ông hấp háy với Nhu, ngầm bảo: Đuổi thằng này ra khỏi phòng, để cha con ta nói chuyện. Nhu lại mời Luân ngồi: - Anh Luân nghe, cha Hoàng muốn góp ý kiến với chúng ta… Cha vừa nói đến nguy cơ Phật giáo do ta cho phép họ làm lễ Phật tại sân vận động quân đội, có cờ, có loa… Mời cha nói tiếp! Luân chào linh mục, ngồi xuống cạnh Nhu. Linh mục Hoàng không bằng lòng. “Nguy thật! Thằng cu Nhu bị quỷ ám đến mực tin cậy thằng Cộng sản này như người nhà. Hơn nữa, nó còn xếp thằng Cộng sản này vào hàng ngũ “chúng ta” và dĩ nhiên, mình là người ngoài. Bố tiên sư chúng nó! Được, đã thế, ông đập luôn một lần!” Giữa linh mục và Luân thật sự không có quan hệ gì đặc biệt. Ông biết Luân ngay từ ngày ông vừa di cư vào Nam. Lúc đầu, ông ngại, sau ông yên tâm bởi Luân là con nuôi của đức giám mục. Lần hồi, ông không thích Luân: chủ trương của Luân trái ngược với chủ trương của ông - Luân nhúng tay trong vụ gánh hát Kim Thoa và theo như các tài liệu phối kiểm, người của Luân đã bắn chết người của ông. Vậy, quết “lật tẩy” Luân - thằng Cộng sản này thì sùng đạo thế nào được. Nhưng, cha sở nhà thờ Tân Định báo với ông là kỹ sư Nguyễn Thành Luân, trừ bận việc xa Sài Gòn, không sáng chủ nhật nào không đến nhà thờ đọc kinh. Cha sở Phú Cường, cha sở Trúc Giang đều cho tin như vậy, khi Luân thực hiện công vụ ở hai nơi. Chưa chịu, ông xoay sang hướng phát hiện Luân làm ăn, mèo mỡ. Một sĩ quan thân cận với tổng thống, lẽ nào không dính một trong hai món đó? Nhưng, ông tốn công vô ích. Ông nguyền rủa Luân thậm tệ và vẫn chưa buông tha anh. Bây giờ, cái thằng Cộng sản đáng ghét nhất trong mọi thằng Cộng sản ấy đang ngồi trước mặt ông, ngồi đàng hoàng, lại còn cười tủm tỉm nữa chứ! - Này, - Ông lại cao giọng - không cấm đạo Phật đã là may cho chúng nó. Tại sao cho chúng chường mặt trước thiên hạ? Không chỉ có việc Phật giáo. Còn việc bình định? Cộng sản mọc lên như rươi, mà chính phủ thì chùn bước. Hồi cha ở Phát Diệm, hễ bắt được một tờ Cộng sản thì lập tức triệt hạ cái thôn đó, lựa trong số dân vài đứa khả nghi chặt đầu liền. Không diệt tận trứng thì chớ hòng chống Cộng. Con thấy đấy, suốt một dải Kim Sơn, Tiền Hải sang Hải Hậu, chớ có một hoạt động Cộng sản nào trong lúc cha còn cầm quân. Còn anh này - anh tên là gì nhỉ… - Ông trỏ Luân - anh tập tễnh học lối Cộng sản, anh sẽ chết! Rồi ông xoay qua Nhu: - Con và cả ông Cụ nữa, đức giám mục nữa, nhẹ dạ quá. Xài bọn sớm đầu tối đánh! Luân chưa biết phải ứng phó làm sao thì Nhu đã rít liên hồi điếu thuốc. - Thưa cha, cha hoạt động đắc lực ở Ninh Bình - Nam Định… - Chứ sao! - Linh mục Hoàng ưỡn ngực - Cha chặt đầu tất bọn Cộng sản… - Ông ngó Luân trừng trừng. - Thảo nào! - Nhu giụi thuốc - Thảo nào mà Pháp và Quốc gia cuốn cờ khỏi Bắc Việt! Linh mục Hoàng đưa tay ngăn Nhu. Nhu không để ông mở mồm: - Con khó hiểu là tại sao Cộng sản không tặng huân chương cao nhất cho cha? Cha lập công to với Cộng sản, góp sức vào thất bại của Pháp và Quốc gia. Và, vào Nam, cha vẫn chưa gột bỏ đầu óc đặc cứng ấy. Cha muốn chế độ Cộng hòa sụp đổ hả? Hình như cha không thấy tình cảnh khó khăn của đất nước hiện nay có dính đến sự kém thông minh của cha. Cha thích cha Nguyễn Lạc Hóa chứ gì… - Anh đừng hỗn! - Linh mục Hoàng gầm lên. - Con chưa bỏ tù cha là con còn tử tế chán. Cha cứ tưởng các hoạt động kinh tài của cha qua mắt được con. Cha cứ tưởng các sổ ma trong các khu di cư chỉ có cha biết. Cha cứ tưởng các trương mục ngân hàng do cha đứng với đủ thứ tên là hợp pháp? Con biết rõ cha tụ tập các phần tử lưu manh ra sao, họp ở đâu, nói cái gì, làm trò gì. Con nói “làm trò gì” tức là trò tồi bại. Cha cần xem ảnh không? Cha biết ca sĩ Minh Thùy, vợ thiếu tá Lạc ở Bình An chứ? Viên thiếu tá, linh mục phụ tá của cha, một Tổng giám đốc và một thiếu tướng quanh thân thể cô Thùy, trong nhà riêng của cha. Đủ chưa? Tất nhiên là chưa đủ. Con nhắc một phần trăm vụ thôi… Sao, đưa cha ra tòa được không? - Nhu nói qua kẽ răng và rõ ràng, Nhu có thể tuôn ra hàng lô vụ nữa. Linh mục Hoàng tựa hẫng giò. Ông ta chỗi dậy từ hồi nào ông không biết. Té ra Nhu rành ông quá. Té ra chính ông đút đầu vào tròng của Nhu khi đến đây. - Cha định làm gì tôi? Muốn vòi vĩnh cái gì đó, phải không? Tôi sẽ để cha yên, với điều kiện cha không được tụ tập bọn lưu manh nói bậy. Hồ sơ về cha dày lắm rồi. Quên phứt sự có mặt của Luân, linh mục Hoàng đứng lên, mồ hôi đầm đìa, lủi thủi ra cửa… Nhu ngao ngán trông theo, thở dài não nuột. Luân lặng lẽ châm thuốc… * Trần Lệ Xuân, với danh nghĩa chủ tịch Phong trào phụ nữ liên đới, mở tiệc tiếp đại sứ Mỹ Nolting, tại trụ sở của hội - ngôi nhà nhiều tầng rất khang trang vừa xây dựng xong trên đại lộ Trần Quốc Toản.Không rõ Nolting được thông báo về Trần Lệ Xuân như thế nào mà diện bộ demie saison - áo tropical xanh nhẹ và quần tergal xám tro - rất trẻ và cũng rất lẳng. Lệ Xuân đón Nolting ngay cổng. Đại sứ xuống xe đi sóng đôi với Lệ Xuân sau khi hôn lên bàn tay nõn nà của mụ và ve vuốt nó khá lâu. Trong chiếc áo dài rộng cổ bằng loại lụa mỏng màu sậm, đầu bới cao, quần satanh trắng, Lệ Xuân trang điểm vừa phải nhưng bằng kỹ thuật già dặn, biết khoe những cái cần khoe. Ngay trong cái giao tiếp đầu tiên, mụ đã biết ai là kẻ chiến thắng: đại sứ Mỹ - kín đáo, tất nhiên - gắn chặt đôi mắt vào bờ vai mịn của mụ, nổi bật nhờ màu áo tương phản. Lệ Xuân đọc lời chào đại sứ bằng tiếng Anh. Ánh đèn trình bày trọn thân hình mụ, cách Nolting không quá hai bước. Vừa đọc, Lệ Xuân vừa quan sát và mụ thấy rõ Nolting háo hức nhắm nháp mụ. Nolting ứng khẩu, cám ơn buổi đón tiếp, hứa sẽ cố gắng trong mức tối đa, giúp đỡ phong trào… Nolting tìm mọi cơ hội chạm vào da thịt Lệ Xuân. Duyên dáng và lịch sự, Lệ Xuân tránh các tiếp xúc đó mặc dù mụ vẫn tỏ vẻ như mời mọc. Cuộc vui kéo dài vừa phải. Nolting thòm thèm song đành phải ra về. Lệ Xuân tiễn đại sứ ra xe và khi Nolting muốn accolade (1), mụ khéo léo tháo vòng tay Nolting. Chiều hôm sau, đại sứ mời bà chủ tịch Phong trào phụ nữ liên đới đến sứ quán để “bàn cụ thể việc Tòa đại sứ Mỹ tài trợ cho phong trào” như thư ghi rõ. Lệ Xuân cáo từ với lý do không khỏe và cử người phó - một bà lớn tuổi - đi thay. Một tuần lễ trôi qua, Lệ Xuân lại nhận được thư mời khẩn thiết. Lần này, mụ đến. Nolting sa sầm mặt khi thấy Lệ Xuân cùng đến với hai nhân viên của phong trào. Họ trao đổi qua loa và Lệ Xuân ra về. Lần thứ ba, Nolting lấy cớ là để trao cho bà chủ tịch ngân phiếu 5.000 dollar của một tổ chức phụ nữ Mỹ, mời Lệ Xuân đến nhà riêng của đại sứ. Trong phòng khách, chỉ có hai người. Nolting đắm đuối nhìn Lệ Xuân, vẫn chiếc áo dài đen và chiếc cổ lồ lộ. - Thưa bà, tôi nghĩ là bà trên 20 tuổi một ít… Lệ Xuân cười thật tươi, cám ơn lời khen của Nolting và cho biết mình sắp 40. Làm như kinh ngạc, Nolting cầm tay mụ: - Bà là một phụ nữ châu Á đầu tiên mà tôi say mê. Tôi không giấu giếm: bà thật hấp dẫn. Nolting nói hổn hển. Lệ Xuân khấp khởi: cá cắn câu. Lão Mỹ này rơi vào thế trận kín kín hở hở của mụ. Mụ ra vẻ e lệ, mắt đục mờ, như sẵn sàng hiến dâng. Nolting hôn thật lâu lên tay mụ. Rồi ông ta xốc mụ dậy, ghì chặt. Lệ Xuân nửa như ưng, nửa như chống. Sau cùng, Nolting không đạt được cái mà y thèm khát đến điên người và hôn lên đôi môi tô hồng khêu gợi của mụ. Lệ Xuân đẩy Nolting ra, sửa lại tóc, mở cửa. Nolting hốt hoảng chạy theo, miệng lắp bắp: “Xin lỗi… Bà đẹp quá… Tôi tha thiết yêu bà…” Trong khoảnh khắc Nolting sợ - cuộc đời chính trị của ông ta có thể không suôn sẻ vì cái phút vừa rồi. Nhưng, lên xe, Lệ Xuân ném lại cho Nolting nụ cười và cái liếc hết sức âu yếm. Bài bản mà Lệ Xuân sử dụng kéo dài nhiều ngày. Nolting giống như kẻ mất hồn. Những lần gặp gỡ đã giúp Lệ Xuân nắm được khá nhiều tài liệu về ý đồ của Mỹ đối với Nam Việt nói chung và đối với gia đình Tổng thống Diệm nói riêng. Lệ Xuân chỉ bằng lòng cho Nolting hôn khi viên đại sứ chìa cho mụ xem một bản sao điện mật, trong đó, ngoại trưởng Mỹ căn cứ vào phân tích của Nolting, đồng ý không nên gạt vợ chồng Ngô Đình Nhu ra khỏi chính quyền Nam Việt, bởi “sẽ làm suy yếu thế lực chống Cộng” tại đây. Và, các lần gặp gỡ chớp nhoáng, Lệ Xuân chỉ cho phép Nolting trong giới hạn đó. --- (1) Ôm hôn Phần 6 - Chương 4 Tổng thống Diệm ký quyết định bổ nhiệm thiếu tá Lê Hoằng Thao quyền tỉnh trưởng khi Luân bị nạn và bây giờ thì bổ nhiệm chính thức thiếu tá Trần Ngọc. Luân trở về Tham mưu biệt bộ Phủ tổng thống, dưới quyền đại tá Cao Văn Viên đồng thời phụ tá cho cố vấn Ngô Đình Nhu. Việc thuyên chuyển này được giải thích như vì nhu cầu công vụ cộng với sức khỏe của trung tá Luân. Trước khi Tổng thống ký quyết định, Nhu gặp Luân. Với Luân, anh rời Kiến Hòa không có điều gì phải băn khoăn. Trên cương vị tỉnh trưởng, trong một thời gian, Luân đã cố gắng tạo điều kiện hỗ trợ cho phong trào Bến Tre nhiều mặt, cả vụ thanh toán nội gián - bây giờ, qua tài liệu và các nguồn thông tin, anh biết Bến Tre là cái nôi và mũi xung kích của “đồng khởi”, tức là vũ trang khởi nghĩa của quần chúng. Tuy nhiên, quyết định dù sao cũng hơi đột ngột. Luân nghĩ rằng Nhu còn để anh ở Kiến Hòa một thời gian nữa. - Phái đoàn chuyên viên Mỹ sắp sang Sài Gòn. Tổng thống muốn anh tham dự vào phái đoàn Việt Nam. Bởi chúng ta và Mỹ sẽ bàn kỹ các vấn đề viện trợ. Ông Vũ Quốc Thúc là một nhà kinh tế, nhưng viện trợ lại bao gồm cả quân sự, trong đó, có phần bình định và yểm trợ cho quốc sách ấp chiến lược. Tôi biết anh còn tiếc Kiến Hòa, bao nhiêu dự kiến bỏ dở. Không sao. Anh chưa hết dịp giúp Kiến Hòa đâu. Vả lại các tỉnh đều cần kinh nghiệm của anh… Nhu thuyết một hồi. Luân vừa nghe vừa phán đoán. Có thể Nhu ngửi ra một sơ hở nào đó của anh chăng? - Anh đừng cho là Tổng thống không tin tưởng ở các biện pháp bình định Kiến Hòa của anh… Hoàn toàn chỉ vì anh cần có mặt ở Sài Gòn. Không thể nào anh phân thân cùng lúc đảm trách hai chức vụ… Nhu suy luận, qua nét mặt của Luân, nói luôn. Luân cười: - Anh đoán hơi quá… Tôi băn khoăn thật, song là vị tôi chưa yên tâm tình hình Kiến Hòa. - Người thay anh có khả năng. Anh cứ “truyền nghề” cho anh ta. Anh được sống với kỷ niệm cũ một tuần lễ. Kỷ niệm chẳng lấy gì làm vui! Nhu đùa, cởi mở. Cuộc bàn giao không cần đến một tuần lễ, nhưng Luân vẫn dùng hết thời gian đó: Anh đề cử đại úy Nguyễn Thành Động là chỉ huy trưởng thay cho đại úy Chung Văn Hoa - được thăng thiếu tá và được bổ làm tỉnh trưởng Định Tường, phần nào đáp ứng tham vọng của Hoa. Giá mà Động làm tỉnh trưởng Định Tường thì hay quá! Anh nghĩ như vậy nhưng không sao thực hiện nổi. - Trung tá đi rồi, chưa biết Kiến Hòa sẽ ra sao? Nguyễn Thành Động than thở. Luân rất cảm tình với Động - theo ý Luân, một con người thẳng thắn, có đầu óc dân tộc, thông minh. Chắc chắn là Động ít nhiều đặt nghi vấn về hành vi của Luân. Tuy nhiên, Luân biết Động một mực ủng hộ anh. - Sẽ ra sao theo nghĩa nào? - Luân hỏi lại. - Hành quân lu bù, giết nhau vô lối… Động não nuột. - Đâu rồi sẽ vô đó hết thôi! - Luân an ủi Động - Thiếu tá Ngọc không phải là người không tháo vát… - Tôi rành thằng Ngọc quá! Tôi với nó cùng học một lớp suốt trung học, thi tú tài một lượt, cùng theo đại học Luật, cùng bị đưa vào trường sĩ quan một lượt, cùng đeo lon thiếu úy một lượt… Nó làm sao bì nổi trung tá. Bỗng Động cười hóm hỉnh: - Trừ cái món đó! - Món gì? Động hấp háy mắt: - Nó nhiều bạn gái! Rồi Động nói luôn: - Nó không hăng máu, nhưng người ta sẽ cách chức nó, thay bằng một thằng tỉnh trưởng ngu ngốc nào đó suốt ngày hò hét! Bắn! Bắn… Luân bắt tay Động thật chặt, dặn khi về Sài Gòn tìm gặp anh. “Anh ta khủng hoảng tinh thần. Phải giúp anh ta.” - Luân nghĩ thầm. Ngọc khá đẹp trai. Quần áo dù cho là quân phục, lúc nào cũng bảnh bao, người luôn thoảng mùi nước hoa đắt tiền. - Tôi ghét cay ghét đắng nghề đánh đấm. - Trần Ngọc nói với Luân - Tôi thích làm chính trị, làm dân biểu, viết báo. Nhưng, trời không chìu tôi. Cũng hên cho tôi, người ta cử tôi đến Kiến Hòa, nơi mà trung tá đã tạo ra chỗ đứng khá vững bằng máu của trung tá. Tôi chỉ còn tiếp tục quét các ổ Cộng sản rơi rớt. Kể cũng nhàn hạ. Luân thầm thương hại anh chàng tân tỉnh trưởng “tài tử”, Kiến Hòa không hiền như anh ta tưởng đâu. Chẳng bao lâu nữa, anh ta sẽ thấm đòn. - Tôi phục trung tá chịu đựng thằng Lưu Kỳ Vọng. May mà Việt Cộng “xơi tái” nó. Trung tá chắc không biết nó mật báo với bác sĩ Tuyến nhiều chuyện về trung tá, trong đó có một chuyện động trời: trung tá tiếp đại úy Phan Lạc… - Trần Ngọc nói lan man và Luân biết thêm anh ta mang tật ba hoa. - Tôi không rõ ông Vọng báo về tôi chuyện gì, còn riêng chuyện tiếp đại úy Phan Lạc sau ngày 11-11 thì quả ông Vọng đã báo đúng sự thật. Trần Ngọc giật nảy người: - Sao? Trung tá tiếp Phan Lạc? - Phải! Tôi tiếp tại đây, ngồi ngay chổ chúng ta đang ngồi… - Trời! - Trần Ngọc kêu thảng thốt. - Có gì đáng sợ đâu? Anh ta thua trận, đến cầu cứu tôi. Tôi giúp anh ta khỏi bị bắt, vượt biên giới sang Cam Bốt… Trần Ngọc nhìn Luân trân trối. - Mà, tất cả các việc đó, ông Nhu đều biết và đều đồng ý! Trần Ngọc thở phào: - Trung tá làm tôi đứng tim… Mấy cha nội chơi trò buôn bán chính trị, ghê thấy bà! - Ủa! Thiếu tá mê làm “dân biểu” mà sợ buôn bán chính trị sao? - Luân trêu Trần Ngọc. - Tôi làm chính trị “sa lông” còn mấy cha nội làm chính trị thiệt… Chào thua! Ngọc nhìn khắp phòng khách. - Bộ sa lông cổ lỗ sĩ này nên cho vô musée (1). Tôi sẽ bố trí tại đây một sàn nhảy. Một tuần không có một bal (2), tôi chịu không nổi. Trung tá là nhà mô phạm, vả lại, trung tá khoái leo cao, có bà trung tá kè kè… Tôi thề xin kiếu nghề công chức. Ráng một lúc, tôi đâm đơn xin thôi. Về Sài Gòn, làm “chánh khứa”, vui với em út, sướng hơn… Luân đã thấy trước Trần Ngọc rất có ích cho Luân - tình hình mất an ninh từ nay chỉ theo một cách giải thích thôi: sự bất lực của tân tỉnh trưởng. Nhưng, dầu sao, chơi như vậy là không sòng phẳng. Cho nên, Luân khuyên Trần Ngọc: - Thiếu tá cẩn thận, ai mà lường trước hết mọi tình hình… - Trung tá muốn nói Cộng sản ở Kiến Hòa? - Đúng vậy… tôi chết hụt nên muốn thiếu tá đừng theo gót tôi. Trần Ngọc cười hì hì: - Một là tôi không phải trung tá Luân, nghĩa là tôi không có chủ trương, chủ đích gì ráo. Việt Cộng nếu không thương thì ít ra cũng thấy tôi “hiền”, hiền hơn trung tá. Công đâu gài một nội tuyến tới cỡ trung úy để hạ thủ tôi. Chắc trung tá không biết tôi là nhà thơ. Thơ tình đàng hoàng. Đã in mấy tập. Sướt mướt kinh khủng. Không chừng Vixi lại bảo vệ tôi, bởi lính mà đọc thơ tôi thì hết bình định, hết khu trù mật, hết ấp chiến lược… Hai là, tôi chẳng bà con họ hàng gì với “tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm”. Tôi bị động viên, phải đeo hoa mai. Vậy thôi. Ba là tôi không rời khỏi dinh tỉnh trưởng, không hành quân, không thị sát cần quay phim chụp ảnh thì làm ngay đây. Ngày mai, tôi cho thêm bao cát quanh tường… ổn trăm, phải không? Trần Ngọc thấy Luân vẫn không vui trước lời lẽ bông đùa của mình, nên phải nói thêm: - Cám ơn trung tá. Về kinh nghiệm, trung tá như đàn anh. Nói thiệt, kể họ là dữ, tôi “tùy nghi di tản”… Dại gì tử thủ. Chỉ mong trung tá Tham mưu biệt bộ chiếu cố cho khi đọc phúc trình… Luân bật cười. Té ra, Trần Ngọc rồi cũng sẽ thực tế “chi viện” cho phong trào cách mạng Kiến Hòa - bằng lối riêng của anh ta. Giữa tháng 6, Luân rời Kiến Hòa, cuối tháng 6, quân giải phóng tấn công Phú Túc, đầu tháng bảy, An Khánh - hai thị tứ quan trọng. Đọc báo cáo của Kiến Hòa, Luân cười thầm: Nguyễn Thành Động ghi con số tổn thất của đôi bên thật chênh lệch: chính phủ từ thiệt hại không đáng kể đến thiệt hại nhẹ, giải phóng bị sát thương rất nặng. Hẳn, tỉnh trưởng và chỉ huy trưởng rất ăn ý với nhau. Cuối tháng 6, Luân tham dự cuộc hội đàm với phái đoàn Mỹ do Staley cầm đầu. Eugene Alvah Staley mà bảng lý lịch tóm tắt ghi ở bìa quyển The future of underdeveloped countries (3) do ông viết đã cho thấy thẩm quyền của vị giáo sư kinh tế 55 tuổi này: dạy ở đại học Chicago và Viện nghiên cứu Thái Bình Dương, công tác ở Trung Quốc năm 1944, chuyên gia vấn đề kinh tế Ấn Độ, nhân viên UNRRA (4) Ngay trong phiên làm việc đầu, Luân đã rút ra mấy kết luận: Staley và phái đoàn Mỹ nắm tình hình Nam Việt khá cụ thể, xu hướng của Kennedy là cố duy trì công thức “Vũ khí Mỹ + lính Nam Việt” đến khi nào không còn thể duy trì được nữa; thêm viện trợ kinh tế, trước hết, chi một món tiền lớn cho chương trình “Ấp chiến lược”. Staley có một nhược điểm: ông ta tuyệt đối hóa sức mạnh của súng và dollar. Trùm lên tất cả, Staley bộc lộ một toan tính: bằng dollar, nắm các sĩ quan Nam Việt. Trong phiên làm việc này, Staley nhấn mạnh nhiều lần nhu cầu tăng quân số lính chính quy Nam Việt lên 17 vạn và Hoa Kỳ tự nguyện lo trang bị cho 6 vạn Bảo an. Ông ta phàn nàn về mức sống quá thiếu của sĩ quan và hứa ngân sách viện trợ sẽ dành một phần thoả đáng để cải thiện mức sống đó. Có thể nói về số quân và trang bị, Staley gặp Ngô Đình Nhu. Và chỉ gặp ở chỗ đó. Vũ Quốc Thúc, một con người ham nói dài dòng, ham phô trương vốn liếng tiếng Anh, tiếng Pháp, còn thì chẳng có một chút gì là có thể đại diện cho Việt Nam Cộng hòa. Thúc không nói một lời nào về dự định của Staley và mặc dù mọi thứ đều soạn thảo ở Washington, Thúc vẫn trâng tráo đặt cho cái kế hoạch còn chưa ra hình dạng ấy là “Công trình Staley - Vũ Quốc Thúc”. Sau buổi họp - mà mọi người chỉ có việc nghe Staley và Vũ Quốc Thúc - Luân xin gặp Nhu. Anh đến dinh Độc Lập và Nhu tiếp anh tại phòng khách lớn, có mặt Ngô Đình Diệm. - Tôi không rõ ý định của Tổng thống và anh Nhu đối với kế hoạc Staley. Theo tôi, ta nên cân nhắc kỹ… - Họ có nêu việc thêm cố vấn quân sự Mỹ không? - Diệm hỏi. - Chính thức thì không. Song, qua lối nhận xét của Staley, họ xem việc thêm cố vấn quân sự gần như là hiển nhiên. Về bộ binh, họ chê cán bộ cấp tiểu đoàn của chúng ta. Họ chê cán bộ cấp trung đoàn các binh chủng quân thiết giáp, pháo, dù, hải quân, không quân. Họ chê công tác tham mưu, đồ bản, huấn luyện, trinh sát. Về bảo an, họ chê các cấp chỉ huy tỉnh. Staley cũng nói khá đậm về hệ thống hành chính, quản lý viện trợ và an ninh của ta. Tổng hợp các nhận xét của Staley, tôi kết luận là họ chú trọng nhiều nhất khâu cố vấn… Nếu với số lượng cố vấn cỡ đó, cần cả một bộ chỉ huy Mỹ … Rắc rối! Diệm tuy ngó Luân nhưng mắt ông như ngó một nơi nào đó xa xôi. - Chấp nhận hay không chấp nhận… - Nhu nói, trầm trầm - Không chấp nhận thì chúng ta lấy gì nuôi quân lính, lấy gì đánh Cộng sản? Chấp nhận thì người Mỹ chứ không phải chúng ta giữ tiếng nói quyết định… Tất nhiên, vẫn còn một lối ra: Chấp nhận mức nào. Đồng thời, phải nắm chặt sĩ quan, viên chức… Tôi mơ ước quân số này từ lâu. Nhưng phải là quân số của ta! Xe tăng, pháo, máy bay, tàu - tất cả phải là của ta. Nói đoạn chót, Nhu cắn chặt răng. - Tôi vẫn lo Mỹ không dừng ý định ngang những cái cái hiện nay. Mỹ không bận bịu với các chính khách đối lập mà xoay hướng về sĩ quan, viên chức của ta. - Luân nói. - Anh Luân có nhiều ý kiến xác đáng. Song, ta cũng có cách của ta. Hội đàm kéo dài đến ba tuần lễ. Anh tùy cơ ứng biến. Ta cần tiền, vũ khí, tài trợ. Cố gắng tranh thủ cao nhất các yêu cầu đó. Các thứ khác, anh trao đổi với ông Thúc. Ông Thúc “Mỹ hơn Mỹ” cho nên anh phải ứng phó vất vả. Ta chậm hơn Mỹ một bước rồi đó… - Các lực lượng yểm trơ, tôi hơi ngại không quân - Luân nói - Tiếp nhận hàng loạt máy bay AD6 có nghĩa đồng thời tiếp nhận hằng loạt phi công do Mỹ huấn luyện. Ta chưa có người phi công nào cả… Nhu thừ người khá lâu: - Tôi sẽ làm việc với bác sĩ Tuyến về số phi công này… Luân biết bác sĩ Tuyến chẳng giúp gì cho Nhu. Cái thế của anh em nhà Diệm là thế cỡi cọp - Luân nhận xét như vậy. * - Giáo sư Staley cho tôi cảm giác là giáo sư muốn so sánh kế hoạch do giáo sư thảo với kế hoạch của tướng Marshall. Tôi sẵn sàng tin là kế hoạch có chỗ giống nhau, bởi vì, ít nhất, cả hai đều cùng một mục đích. Tuy nhiên ta hãy tìm xem hoàn cảnh của mỗi kế hoạch. Kế hoạch Marshall nhằm vực một Tây Âu bị chiến tranh tàn phá gượng dậy - là những quốc gia đạt trình độ kinh tế phát triển trước khi nổ ra thế chiến. Tuy vậy, cái đó chưa phải là quan trọng, cái quan trọng lại là ở các nước Pháp, Ý, Hà Lan, Anh… không có du kích Cộng sản. Ý nghĩa quân sự của kế hoạch Marshall thể hiện ở chỗ các quốc gia kiệt quệ ấy khôi phục đời sống kinh tế và trên cơ sở của tiến bộ kinh tế mà đối đầu với thế giới Cộng sản. Dù từng nước vẫn phải giải quyết vấn đề đảng Cộng sản ngay trong nhà nhưng nhiệm vụ chính không phải như vậy, có lẽ trừ một vài trường hợp, tỉ như Hy Lạp - nơi mà tổ chức EAM (5), na ná như Mặt trận giải phóng ở Nam Việt hiện nay, nắm Elas (6), lực lượng vũ trang khá mạnh.Luân phát biểu ở phiên họp thứ hai. Staley và đoàn Mỹ lặng lẽ theo dõi. Vũ Quốc Thúc không được thoải mái lắm khi Luân xin phép nói. Với ông, quyền nói chỉ nên của trưởng đoàn. Tuy vậy, Thúc tỏ ra tế nhị - ông hiểu Luân là người của Nhu. - Ở Hy Lạp, chính kế hoạch của Marshall đánh bại Cộng sản vũ trang đấy! - Staley cắt ngang lời Luân. - Thưa giáo sư, không phải như giáo sư nói - Luân cười mỉm - Cộng sản Hy Lạp thất bại trước khi kế hoạch Marshall triển khai. Không phải kế hoạch Marshall mà 10.000 quân của tướng Anh Scobie đánh Elas… Nếu giáo sư đồng ý, chúng ta có thể lấy trường hợp Hy Lạp làm điểm phân tích. Nghĩa là, người Mỹ phải đổi quân lên Nam Việt. Ở Hy Lạp, nước Anh cần 10.000 quân là đủ, con số cần thiết ở Nam Việt là bao nhiêu, chưa ai dám đoán. Tôi nhấn mạnh một yếu tố: Ở Hy Lạp, chính người Cộng sản tự làm suy yếu mình. Lúc bấy giờ, khi chiến tranh kết thúc, họ là lực lượng mạnh nhất nước về chính trị và quân sự - chỉ có họ bám trên đất nước Hy Lạp mà đánh quân phe Trục, các thế lực khác, kể cả vua Georges đệ nhị, đều lưu vong. Họ kiểm soát 16 trong 18 tỉnh toàn nước Hy Lạp. Thế mà, họ tan rã thật nhanh sau đó. Lễ nộp vũ khí cho chính phủ của nhà vua Georges đệ nhị tiến hành tại Athenes, quân Elas phục viên, Scobie và vua Georges chỉ chờ có bấy nhiêu… Giáo sư có thể tin là ở Nam Việt, một tình thế như vậy được lập lại? Staley nhún vai: - Biết đâu đấy! Luân cười độ lượng: - Nếu chúng ta bàn một kế hoạch kinh tế - quân sự nghiêm chỉnh mà trông cậy vào điều may rủi thì thật nguy hiểm. Cộng sản Nam Việt không phải là Cộng sản Hy Lạp - không có gì rõ hơn, phải không? Staley lắc đầu: - Chưa rõ lắm! Họ cũng đã tập kết ra Bắc… Luân làm như cố nén cười: - Nhưng, bây giờ họ có hàng mấy chục tiểu đoàn, hàng trăm đại đội - họ mạnh hơn lúc đình chiến… Và ít nhất họ cũng rút được hai kinh nghiệm: của Hy Lạp và của chính họ… Tôi xin phép trở lại kế hoạch của giáo sư. Kế hoạch chưa tự giới thiệu giá trị ứng dụng. Hai mục tiêu mà kế hoạch dự kiến quả không đủ, nếu tôi không nói là rất thiếu thiết thực. Tăng quân và xây đồn không thể ngăn chặn Việt Cộng hoạt động. Thêm cố vấn Mỹ ở các đơn vị và ở các cơ quan cai trị càng giúp cho Việt Cộng thêm cớ ly gián chính phủ với dân chúng… Ở Nam Việt, cuộc chiến tranh - chúng ta phải dùng từ “chiến tranh” để diễn đạt thực trạng hiện nay và hiện nay, chiến tranh hết còn đơn phương, cả chính phủ và Việt Cộng cùng làm chiến tranh - bất kể dưới dạng và mức nào, trọng tâm của nó vẫn là thu phục nhân tâm. Khía cạnh kỹ thuật nhất thiết phải tùy thuộc vào khía cạnh chính trị. Tôi cho kế hoạch của giáo sư cần bổ khuyết phần đó. Staley không hài lòng. Lập luận của viên trung tá Việt Nam này đã đảo lộn toàn bộ ý định của kế hoạch. Rõ ràng, viên trung tá này ám chỉ sự thiếu vững chắc của kế hoạch, hơn nữa, gã còn cho kế hoạch được soạn thảo bởi các kỹ thuật viên - nghĩa là bởi các nhà chuyên môn đơn thuần. Không hài lòng song Staley không nói. Phiên họp kết thúc trong không khí hơi nặng. Tối hôm đó Vũ Quốc Thúc xin gặp Tổng thống. Ông ta chuyển đề nghị của Staley: nên rút trung tá Nguyễn Thành Luân ra khỏi phái đoàn Việt Nam Cộng hòa để cho cuộc hội đàm có thể tiến triển nhanh. Diệm hứa sẽ cứu xét. Nhu, sau khi nghe tin, kiên quyết phản đối. Anh ta đưa cho Diệm đọc biên bản tốc ký của phiên họp. Tới phiên Diệm nổi nóng, ông gọi dây nói cho Thúc: Không thay đổi gì cả! Thúc lại nhắc Diệm ý kiến của Staley, vào ngày thứ ba, khi mà phiên họp rơi vào điểm chết. Luân khăng khăng cần phân bố ngân sách viện trợ một cách cân đối cho các hoạt động giáo dục, y tế, xã hội. Staley nhất quyết tập trung cho tăng quân và xây đồn lũy. - Giáo sư Staley đề nghị hay ra tối hậu thư? - Diệm hỏi gay gắt. - Thưa… - Thúc lúng túng - Thưa, giáo sư đề nghị thôi. Song, đề nghị đó liên quan đến viện trợ… - Giáo sư Staley nếu cho là thành phần của đoàn Việt Nam phải do đoàn Mỹ chỉ định thì mời ông ấy đến gặp tôi! - Diệm dằn mạnh ống nói, vừa lúc Luân đến báo cáo về tình hình phiên họp. - Làm sao? - Nhu hỏi - Chẳng lẽ để hội đàm giẫm chân mãi một chổ? - Tùy Tổng thống và anh, - Luân nói - Tuy nhiên, có một điểm tôi thấy cần lưu ý Tổng thống và anh cố vấn: Hiện thời, không phải chỉ mỗi chúng ta lo cuộc chiến đấu chống Cộng thất bại, nước Mỹ cũng lo và nước Mỹ lo hơn chúng ta. Chống Cộng ở Nam Việt Nam cần thiết đối với họ hơn đối với chúng ta. Cho nên, họ sẽ không nhắc lại đề nghị đó nữa, Hoa Thịnh Đốn nóng ruột lắm rồi… Đúng như Luân dự đoán, phiên học thứ năm, Staley đi thẳng vào đề nghị của Luân. Ông ta nhượng bộ. Vào lúc đó, Taylor được cử là cố vấn quân sự cho Tổng thống Kennedy. Maxwell Davenport Taylor, 60 tuổi, viên đại tướng sừng sỏ của Mỹ - nhà lý luận, nhà chiến lược, chuyên gia các vấn đề Viễn Đông, từng chỉ huy ở Triều Tiên - là một Taylor nổi tiếng trong dòng họ gồm quá nhiều Taylor nổi tiếng. Không ai không thấy, Kennedy chọn Maxwell Taylor làm cố vấn là vì cuộc chiến tranh Việt Nam… --- (1) Viện bảo tàng (2) Khiêu vũ. (3) Tương lai của các quốc gia kém phát triển (4) United Nations Relief and Rehabilitation Administration (Cơ quan quản trị của Liên hợp quốc về cứu trợ và tái thiết) (5) Ethnikón Apeleftherotikón Métopon: Mặt trận giải phóng dân tộc (6) Ethnikós Laïkós Apeleftherotikós Strátos: Quân quốc gia giải phóng dân tộc
__________________
![]() |
#4
|
||||
|
||||
![]() Ván Bài Lật Ngửa Phần 6 - Chương 5 Với tư cách là sĩ quan tham mưu biệt bộ, Luân tháp tùng đại sứ Nolting trong chuyến thị sát đồng bằng sông Cửu Long đầu tiên của ông ta. Nolting sẽ đến và sẽ nghỉ đêm ở Cà Mau, tỉnh lỵ An Xuyên. Sự chọn lựa một tỉnh tận cùng đất nước Việt Nam, nơi mà Việt Cộng hầu như kiểm soát toàn bộ xóm làng có một ý nghĩa phô trương rõ rệt vai trò cá nhân của đại sứ - Nolting muốn bản báo cáo của mình gởi về Tòa Bạch Ốc phải sinh động. Ngoài Luân, tháp tùng đại sứ còn có đại tá Lâm, ở Bộ tổng tham mưu. Lâm không thân với Luân mặc dù hai người giống nhau ít nhiều về điểm liên hệ với “phía bên kia”. Cha Lâm, một nhà giáo, từng là chủ tịch ủy ban Liên Việt tỉnh Cần Thơ trong kháng chiến và nay tập kết ra Bắc, làm một việc gì đó ở Hà Nội. Chị ruột Lâm cùng tập kết với cha và chồng là một sĩ quan Bắc Việt. Năm 1945, Lâm đang học ban tú tài, theo Thanh niên Tiền phong, bị Pháp bắt trong một trận càn, thấy anh ta là học sinh, tống lên Trường võ bị Đà Lạt và năm 1947, ra trường với cấp thiếu úy trừ bị. Cũng năm đó Lâm và một số bạn tốt nghiệp Trường võ bị Đà Lạt như Quách Sến, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Trần Đình Lan rủ nhau ra bưng biền. Họ đầu quân dưới trướng Trần Văn Trà, Khu bộ trưởng Chiến khu 8 và được phân công huấn luyện Trường quân chính khu. Chưa xong một khoá, chịu cực không nổi, Nguyễn Khánh chủ trương trốn về thành. Trước khi trốn, Khánh dự định đánh cắp tài liệu, súng đạn và ghi chú các căn cứ Khu 8, nói là để khỏi bị Tây xử bắn về tội đào ngũ. Không rõ các người khác trong bọn đồng ý hay không dự định của Khánh, riêng Lâm không tán thành. Chịu cực không nổi thì trốn, đừng làm chuyện do thám gián điệp. Sau này, Lâm biết Nguyễn Khánh hành động theo bố trí của Phòng nhì Pháp. Từ đó, ở đâu anh cũng chửi Nguyễn Khánh; hai người đoạn giao. Về thành, Lâm trốn một lúc. Người chị - bấy giờ chưa đi kháng chiến, là một hộ sinh nổi tiếng - vận động cho Lâm sang Pháp. Lâm chọn nghề cơ khí, đang sửa soạn vào trường thì tông tích bại lộ. May mà người đỡ đầu Lâm, một chính khách có cỡ ở Paris, đã xoay cho Lâm khỏi tù, nhưng phải vào học Trường thiết giáp của Lục quân Pháp mở ở Oran - Bắc Phi. Hết khóa, Lâm được giao hoàn cho Bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương với hàm trung úy. Năm 1952, Lâm tòng sự tại võ phòng của Quốc trưởng Bảo Đại mà Chánh võ phòng là thiếu tướng Nguyễn Văn Hinh. Trong vòng ba năm, Hinh từ thiếu tá Chánh võ phòng leo lên thiếu tướng Tổng tham mưu khi Pháp đầu hàng trong trận Điện Biên Phủ. Lâm không làm gì cả, vẫn mặc nhiên được thăng cấp. Khi Diệm nắm quyền, Hinh đeo lon trung tướng và Lâm, trung tá. Nhưng, từ 1954 đến nay, 7 năm trời, anh ta chỉ nhích lên mỗi một cấp. Có thể hai lý do đã ghìm chân Lâm: lai lịch gia đình và mối quan hệ với tướng Hinh. Hoặc, nếu cần, thêm lý do thứ ba: tướng Hinh dan díu với một nữ ký giả thường viết các phóng sự chiến trường ký tên Tú Vân - hiện thời, cô đang học môn kinh tế ở Đại học Berkeley; chồng cô, một quan chức Mỹ có quyền thế trong cơ quan USOM - Tú Vân không thích Lâm vì Lâm hay bêu rếu mối tình vụng trộm của cô. Chỉ đôi lần, Lâm đảm nhận chức vụ cầm quân, còn nói chung, ngày này qua ngày khác anh ngồi trước chồng báo cáo cao nghệu bên trong vòng rào Bộ tổng tham mưu. Bỗng trở thành kẻ bất đắc chí, hay gây gổ, Lâm thích rượu mạnh ngang với xem đua ngựa. Dĩ nhiên Luân biết Lâm qua bác sĩ Tuyến. Trong công vụ, họ gặp nhau luôn song chưa bao giờ hai người uống rượu tay đôi hoặc ngồi tán dóc. Lâm biết Luân - chắc vậy; anh ta đánh giá Luân như thế nào thì Luân chưa nghe. Tướng Mac Garr đi cùng với Nolting. Thật ra, Mac Garr không cần phải đi. Nhiệm vụ của ông ta vừa chấm dứt, trong khi chờ đợi người thay thế sang để bàn giao, ông đi dạo một chuyến để “chào vĩnh biệt các bãi lầy” - như ông nói. Nolting mời ông cùng ngồi chung chiếc Highlifter Bell, loại trực thăng có thể bay cao 3.000 thước, 15 chỗ ngồi - còn rất hiếm ở Nam Việt. Chuyến thị sát rời Tân Sơn Nhứt vào một buổi sáng mà Nha khí tượng cam đoan là không có mưa. Sân bay Tân Sơn Nhứt chìm trong tiếng động nhứt tai của đủ loại máy bay lên xuống, nhất là những chiếc AD6 vừa tiếp nhận - loại chiến đấu cơ mang tên rất cao bồi “Skyraider” - càn quét xứ trời! AD6 được quảng cáo như loại máy bay ưu việt đối với chiến tranh chống du kích. Nolting, nón panama, quần tropical, sơ- mi ngắn tay, xuống xe gần ngay chỗ máy bay đỗ. Mac Garr đến trước Nolting hai phút, đi đi lại lại trên nền bêtông với vẻ mặt cau có. Nolting vừa ra khỏi xe, một đại úy dong dỏng cao, trạc tuổi 30, mắt như ngái ngủ, để râu mép, đứng nghiêm: - Tôi, đại úy Nguyễn Cao Kỳ, xử lý thường vụ Bộ tư lệnh không quân, có mặt! Giọng của đại úy Kỳ khàn khàn có phần lè nhè, nói tiếng Anh chưa chuẩn, pha nhiều âm sắc Pháp. Thật sự, Nolting đi thị sát còn khá nhiều người thuộc Bộ ngoại giao, Bộ quốc phòng… cấp bậc cao hơn một đại ý, nhưng giữa lúc mọi người nhường nhau thì Cao Kỳ ngang nhiên ưỡn ngực lên tiếng trước. Nolting bắt tay Kỳ, cám ơn. Và vẫy chào xã giao số người ra tiễn. Kỳ đưa Nolting khá sỗ sàng - kiểu đôi bạn cập kè - lại cầu thang máy bay. Y ta bước lên bậc thang, ý chừng muốn đưa Nolting tận chỗ ngồi. Nhưng, một trung tá Mỹ đã sỗ sàng không kém, gạt phắt Kỳ, nói trong cổ họng: - Đi chỗ khác chơi! Từ đầu, Luân đã để ý lối ngóc đầu kiếm chác của viên đại úy chưa mấy ai biết tiếng này, nhưng anh lặng lẽ theo dõi. Ngành không quân mới xây dựng, Mỹ chăm sóc nó. Số sĩ quan trẻ được đạo tạo gấp rút và Kỳ là một trong những phi công nắm khá sớm các loại máy bay kiểu mới - do vốn học ở Marrakeck và Avord của Pháp và được bổ túc ở Air Commandant Staff School Mỹ. Đại tá Lâm, trái lại, bốp chát luôn! - Nè, chú mày có biết thằng trung tá Mỹ bảo cái gì không? Nó bảo chú mày cút đi… Mặt dày hơn da trâu! Anh ta bảo Kỳ lúc bước lên trực thăng. Kỳ không phản ứng, gã mải ngó theo Nolting. Mọi người trên máy bay làm quen với nhau: ngoài Nolting, Mac Garr, đại tá Lâm, trung tá Luân, trung tá Tony Forting - cận vệ của Nolting, trung tá Thomas Hayden - cận vệ của Mac Garr, ba quân cảnh Mỹ và phi hành đoàn - một đại tá chỉ huy, hai lái, một hoa tiêu và một nhân viên vô tuyến điện, đều người Mỹ, dĩ nhiên. Các tuỳ tùng khác và quân cảnh đi trên chiếc Chinook và hai chiếc Sikorsky. Đoàn trực thăng được cả một lực lượng hùng hậu hộ tống: một trinh sát cơ L19, ba trực thăng chiến đấu HU-1A, ba chiếc AD6. Nolting khẽ nhún vai khi Tony Forting báo cáo về kế hoạch yểm trợ - ông làm ra vẻ không thấy cần thiết phải sử dụng nhiều máy bay như vậy. - Cùng đi với đại tá Lâm và trung tá Luân là quá đảm bảo. Phải không? Tony Forting lắc đầu: - Thưa, lộ trình của chúng ta qua các vùng nguy hiểm! Nolting nheo mắt: - Ông quên là chúng ta bay trên trời? - Thưa, vì vậy, chúng tôi lựa loại máy bay có độ cao an toàn. - Ồ! - Nolting lại nhún vai - Thế thì còn trông thấy gì ở dưới mặt đất? Ông nên nhớ chúng tôi thích một buổi du ngoạn hơn là chui vào cái hộp thép này… Bay thấp một tí, được không? Mac Garr mỉm cười. Luân, không khác gì Mac Garr song giữ vẻ mặt rất bàng quan. Bởi vì Nolting đưa ra một đề nghị mà thừa biết ông ta sẽ mãn nguyện: viên đại tá trưởng phi hành đoàn lắc đầu. Chong chóng quay tít, máy bay nhấc bổng và trong vài phút, Sài Gòn lùi vào phía sau họ. Con đường số 4 hiện rõ như một vệt đen và máy bay, tuy trên lưng chừng cao, vẫn bám trục lộ được canh giữ nghiêm mật này. Nolting xoay người, nhìn qua cửa kính cánh đồng bằng bát ngát. Mac Garr tựa cằm lên nắm tay, lim dim mắt. Nhiệm vụ trưởng phái bộ quân sự của Mac Garr chấm dứt không mất vẻ vang: khi ông thay Williams, Việt Cộng không nhiều bằng khi Harkins thay ông. Chưa ai nêu lên một nhận xét công khai về ông, song người ta đã thông báo: đại tướng Paul Harkins sẽ kế tiếp nhiệm vụ ở đây với tư cách mới: chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy quân sự viện trợ. Nghĩa là ông chỉ xứng đáng làm một cố vấn, Harkins thì là một tư lệnh chiến trường. Luân ngồi đối diện với Mac Garr. Ông ta sực nhớ lần đến Bến Tre. Đại úy Nguyễn Thành Động đã cho ông ta một bài học. - Khó chơi lắm! - Mac Garr bỗng làu bàu. Tất nhiên, Luân hiểu Mac Garr than “khó chơi lắm” với cái gì. Còn hồi đến Bến Tre, Mac Garr rất trịch thượng. “Các anh không được quyền chui tọt vào chăn, lẩn tránh Vixi như con đà điểu…” Ông ta đã nói như vậy. Co cả thân hình lực lưỡng vào chiếc ghế, Mac Garr giống con đà điểu thật! “Ái chà!”, Mac Garr kêu lên. Nolting quay lại. - Gì thế, đại tướng? Ông cảm cúm à? Mac Garr vẫn không đổi tư thế: - Đại tướng (1)? Ông đại sứ kết thêm sao cho tôi đấy? Tôi bảo là khó nhá… Với bọn Vixi, khó nhá… - Thế theo tướng quân, với ai thì dễ nhá? Mọi da đỏ chăng? - Tôi nói nghiêm chỉnh đấy, ngài đại sứ. Tôi sắp rời Sài Gòn, còn ông, ông đứng lại, ít ra cũng vài năm. Các nhà chính trị có nhiều cách lý giải các hiện tượng. Cùng lắm, các ông ngồi thương lượng với đối phương. Như ở Bàn Môn Điếm bên Triều Tiên. Rồi, có khi các ông còn ôm hôn thắm thiết đối phương nữa. Chúng tôi không được quyền như vậy. Chúng tôi phải đánh và có mỗi nhiệm vụ đánh thắng… - Mac Garr nhắc những chữ “chúng tôi” vừa liếc Lâm và Luân, có ý như kéo những sĩ quan Việt Nam có mặt về phe ông ta… - Nhưng, đánh bằng cái gì? Nước bọt ư? Tôi từng bảo ông Durbrow: Hãy ghi vào báo cáo và cứ cách nhật báo cáo một lần về Ngũ Giác Đài. Súng, lính! Bấy nhiêu thôi. Ông Durbrow không dám. Khi Phó tổng thống Johnson đến Sài Gòn, ông ta còn làm ra bộ là người hiểu biết khoa học quân sự: Súng tất nhiên là cần, song vẫn cần người chỉ huy hơn. Ông ta nhận xét với Phó tổng thống trong lúc tôi cố sức chứng minh rằng thiếu súng là nguyên nhân của mọi nguyên nhân… Mac Gar sửng cồ hẳn: - Chưa tới thời để các nhà ngoại giao dạo các bản nhạc du dương… Hãy để chúng tôi nói. Mac Arthur đấy, không để cho ông ta nói, quân Liên hợp quốc đến vĩ tuyến 38 là cùng. Chết cả triệu nhân mạng để rồi quay trở lại đúng cái nơi, thuở mà chưa có một người Mỹ nào chết cả… - Tướng quân tự ví mình hơi quá đấy! - Nolting châm biếm - Mac Arthur là con người mà ngay Dick(2) cũng nể… - Giá Mac Arthur ra tranh cử tổng thống, chưa chắc đã thua Eisenhower! - Ồ! Tướng quân lập luận lạ thật. Nếu trường hợp giả định của tướng quân xảy ra, biết đâu Mac Arthur không xử sự hệt Eisenhower? Tướng quân muốn vượt vĩ tuyến 17? - Tôi chưa thấy biện pháp nào hứa hẹn hơn… Luân nhìn xuống đất: thị xã Vĩnh Long ẩn hiện. Anh bảo nhỏ đại tá Lâm, nhưng cũng cố ý cho Nolting và Mac Garr nghe: - Quê tôi đây rồi! Luân đã can thiệp đúng lúc: cả Mac Garr lẫn Nolting muốn chấm dứt cuộc cãi chài cãi cối vô vị, nhưng không biết chấm dứt như thế nào. Mac Garr nói đến Bắc tiến, song Luân biết cái đầu của viên tướng thất sủng này trống rỗng. - Thế à? Đâu nào? - Nolting quay người lại, làm như chăm chú quan sát. - Ngay ngã ba sông, phải không? - Mac Garr nói theo - Kìa, phía kia là Kiến Hòa… Tôi nhận ra rồi. Đại tá trưởng phi hành đoàn mở bản đồ, chỉ chỗ mà trực thăng đang lướt qua. - Thế Đồng Tháp Mười đâu? - Nolting hỏi. - Thưa, chúng ta không bay trên Đồng Tháp Mười. - Tiếc quá… Cái gì kia? - Nolting kêu lên khi thấy một số dân chúng tụ tập ven lộ 4. Luân biết là dân chúng đang bị lùa xây ấp chiến lược. - Việt Cộng? - Nolting lại hỏi, hơi mất bình tĩnh. - Không phải! - Mac Garr tỏ ra thành thạo - Ven quốc lộ, làm gì có Vixi giữa ban ngày… - Biết đâu! - Nolting thốt xong, biết mình hố, im bặt. Mac Garr cười khẩy: - Hòa Hảo là cái gì? - Nolting lại hỏi cho đỡ ngượng. Mac Garr giả bộ không nghe, trỏ phía trước: - Sắp đáp xuống Trà Nóc. * Nolting chỉ ở Trà Nóc nửa giờ. Đại tá cố vấn Mỹ và đại tá tư lệnh sư đoàn 21 Trần Thiện Khiêm mời khách dạo Cần Thơ một vòng, Nolting hứa sẽ làm việc đó khi trở lại, trưa ngày mai. Luân để ý đại tá Lâm và Khiêm gặp nhau - họ là bạn - không mặn mà, Lâm bắt tay Khiêm rồi tìm chỗ ngồi tách biệt.Trực thăng tiếp tục bay trên lộ 4. Suốt đường bay, kế hoạch lập ấp chiến lược đang bắt đầu rất khẩn trương. Từ trên máy bay, Luân thấy nhiều cụm khói dày đặc - hẳn là quân đội đang đốt nhà dân. Đây là một kế hoạch tàn bạo - lùa hàng triệu người vào các chu vi ven lộ, thị trấn, dùng dân vệ canh phòng, bỏ ngõ các vùng khác cho máy bay pháo kích tự do. Kế hoạch do Nhu vạch, anh ta đã đưa cho Luân xem bản thảo và Luân lờ không góp ý kiến. Bản thảo được chụp ảnh và gởi cho anh Sáu Đăng. Thật ra, kế hoạch của Nhu vẫn còn ở mức nguyên tắc. Chính Staley và Vũ Quốc Thúc chi tiết hóa bản kế hoạch, với sự đóng góp của Mai Hữu Xuân và cơ quan tình báo. Bây giờ, Luân thấy cái lợi hại của kế hoạch đó. Anh tiếc là đã không chú ý đến nó sớm hơn. Quả gã đại tá người Anh Thompson đã bày ra trò nguy hiểm này. Ấp chiến lược khác khu trù mật, đúng như Nhu phân tích - khu trù mật kềnh càng còn ấp chiến lược, theo tên gọi, lấy ấp làm đơn vị. Phá khu trù mật cần một đơn vị vũ trang đánh mạnh, như Luân chứng kiến ở Vị Thanh và ngay ở Kiến Hòa. Còn phá ấp chiến lược cần một phong trào du kích rộng và lực lượng quần chúng - chuyện không phải có được một ngày một buổi. - Những cánh đồng rộng! - Nolting kêu lên, máy bay đang ở trên vùng Sóc Trăng - Thế mà người ta không cày cấy… Cần lo cày cấy! Nước Mỹ không thể nuôi mãi hàng mấy chục triệu dân Nam Việt. - Nolting nói như ra lệnh. Ông ta nói không có gì sai, song Mac Garr cứ cãi: - Làm sao cày cấy? Ai cày cấy? Ngài quên là cả chúng ta lẫn Việt Cộng đang trong tình trạng chiến tranh. - Chiến tranh vẫn phải cày cấy… Nhịn đói đánh giặc được sao? - Chúng ta tranh luận trong phạm trù nào, thưa ngài đại sứ? Phạm trù không ăn thì không làm được bất cứ việc gì. Hay phạm trù cày cấy dưới bom đạn? Trong phòng có máy lạnh và nhất là trên giấy, người ta có thể bắt cả Đức Chúa Trời khiêu vũ. Còn trên trận địa… Mac Garr cười hô hố, rất võ biền. - Tôi có cảm giác tướng quân sang Việt Nam không một giờ nào rời tiền duyên… Thế mà! - Nolting không chịu thua. Luân thông cảm với Mac Garr. Ông ta cay cú. Công bằng mà nói, ông ta không có tội - hoặc, chính xác hơn, tội của ông không nặng hơn tội của tổng thống Mỹ. Tuy nhiên, có một lập luận đang lớn dần, quy trách nhiệm cho tướng Mac Garr. Nolting nhúng tay vào việc bẩn thỉu đó. Rồi đây, sau chuyến thị sát, Nolting sẽ góp thêm vào lập luận những bằng chứng. Kennedy cần Mac Garr - Mac Garr phải chịu trách nhiệm về việc Kennedy bắt buộc thêm viện trợ cho Việt Nam Cộng hòa chống Cộng, lẽ ra có thể không cần nếu Mac Garr giỏi hơn… Nấp sau Mac Garr, Kennedy an toàn trước quốc hội Mỹ. Mãi đến bây giờ Luân mới hiểu toàn bộ sự việc. Bận suy nghĩ, Luân quên phứt, anh đang bay trên vùng đất quen thuộc. Khi nhớ ra, trực thăng đã sà thấp. Các mái nhà cổ lỗ của Cà Mau vụt qua… Trực thăng đáp xuống sân bóng. Quân cảnh Mỹ chực sẵn và một sĩ quan quân cảnh làm hiệu cho trực thăng đáp đúng nơi qui định. Họ không xuống sân bay; sân bay dành cho các máy bay hộ tống. Luân bồi hồi bước lên nền đất. Bảy năm trước, anh từ giã khu giải phóng Tây Nam Bộ và bây giờ, anh vẫn chưa thể trở về đây với tư cách cũ. Hình ảnh bạn bè, các chiến sĩ của tiểu đoàn 420 chạy qua óc anh như một khúc phim. Họ ở đâu, ra sao? - Trình quý vị, tôi, Vũ Liệu, thiếu tá tỉnh trưởng An Xuyên có mặt. Một người da sạm, lùn, bụng khá to, cổ nung núc thịt, bê-rê đội lệch, quân phục loang lổ, chiếc thánh giá vàng óng ánh nơi ngực, kính đen to gọng, đang đứng nghiêm. Theo hướng dẫn của Vũ Liệu, mọi người lên một dọc xe hơi đậu ngoài bìa sân bóng. Một thiếu phụ đứng trên thang một chiếc trực thăng sơn cờ quân lực Việt Nam Cộng hòa. Mấy người lính đang lôi từ khoang trực thăng ra những thùng, những bọc. Thiếu phụ chắp tay: - Chào quý vị ạ! Bà đẹp, đẹp sắc sảo nữa. Tóc uốn kiểu đào hát bóng, áo dài hồng nhạt, quần sa tanh trắng. Nolting vui vẻ vẫy tay đáp lễ, nói tiếng Pháp: - Bonjour, madame (3) Và, tất cả đều bị bất ngờ, thiếu phụ đáp lại, rất nhí nhảnh: - Bienvenue, Mon Excellence Nolting!(4) Hơn thế nữa, bà đưa mấy ngón tay lên môi, hôn gió! Rõ ràng Vũ Liệu ngẩng đầu hơi cao. Luân biết liền: bà thiếu tá tỉnh trưởng. Đoàn qua khỏi chiếc trực thăng, Luân còn nghe bà - bây giờ thì giọng the thé: - Tao đã bảo, bọn mày làm hỏng hết… Đâu, giỏ cà rốt đâu? Quên rồi… Thế này nhé, đứa nào lái trực thăng lên Cần Thơ mua nhanh cà rốt… Lựa thứ thật tươi… Đồ ăn hại! Nolting, Mac Garr và số sĩ quan Mỹ chắc không hiểu bà ta nói gì. Còn Luân, anh ngẫm nghĩ: “Cái lũ này xô cả bọn chết lẹ thôi”. Đại tá Lâm đi cạnh Luân, môi bĩu, Luân không đoán nổi đại tá bĩu môi về cái gì… Dinh tỉnh trưởng - ngôi nhà ọp ẹp, nhưng tiện nghi bên trong khá tốt. Vũ Liệu mời khách giải khát - bia hộp, Pepsi Cola tùy thích. - Madame vừa rồi là ai? - Nolting hỏi. - Thưa, vợ tôi - Vũ Liệu trả lời, kiêu hãnh. - Ô la la! - Nolting nhướng mày, kêu to. - Ông thật hạnh phúc… Bà thiếu tá đẹp, rất đẹp! Mũi của Vũ Liệu phập phồng. Tốp sĩ quan Mỹ tùy tùng có đứa huýt sáo, có đứa giậm chân, có đứa búng ngón tay bóc bóc… - Như thế này, tôi muốn thăm qua nơi làm việc của thiếu tá tỉnh trưởng, nếu không quấy rầy ông… - Nolting bảo. Vũ Liệu đứng lên: - Xin mời! Luân định không đi; nhưng Vũ Liệu cầm tay anh: - Mời trung tá… Ít khi trung tá xuống An Xuyên, mời trung tá quan sát… Để còn trình với ông Cụ giúp đỡ chúng tôi. Nghèo quá, trung tá ạ! Luân tức cười: Dám cho trực thăng bay về Cần Thơ mua mấy củ cà rốt mà than nghèo! Vũ Liệu dẫn đoàn khách vào phòng trong, lên cầu thang. Phòng làm việc của tỉnh trưởng khá thoáng, ngó ra con kinh nhỏ. Tường treo nhiều bản đồ với các ký hiệu xanh đỏ li ti. Nolting rõ ràng hài lòng. - Tốt! - Ông ta vỗ vai Vũ Liệu, theo lối kẻ cả. Chợt Nolting thấy một chồng sách, mỗi quyển khá dày đặt trên bàn viết. Ông ta cầm lên, ngắm nghía. Bìa sách màu sặc sỡ, hình vẽ một lão mang bị, tay co duỗi… - Sách gì đây? - Nolting hỏi. Vũ Liệu lúng túng. Tất nhiên, Luân biết đó là sách gì. - Nói chuyện đánh nhau? - Nolting lại hỏi. Vũ Liệu gật đầu bừa. - Đánh nhau bên Trung Quốc? Ngày xưa? Vũ Liệu lại gật đầu. Hiểu lầm thái độ của Vũ Liệu, Nolting bảo: - Sách khó hiểu? Không sao. Bao giờ cũng vậy, bước đầu tiếp xúc với các kiến thức phong phú, thâm trầm dễ khiến người kém nghị lực nản lòng. Vả lại, thiếu tá đừng ngại. Người Mỹ chúng tôi cho rằng đánh giặc ở phương Đông phải học sách vở phương Đông. Tôi đặc biệt phấn khởi biết một sĩ quan Việt Nam chăm chú học… Nolting bắt tay Vũ Liệu, rồi quay sang Luân: - Tôi thành thật chúc mừng Tổng thống Diệm! Vũ Liệu liếc Luân thật nhanh. Luân tươi cười bắt tay cám ơn Nolting. Đại tá Lâm, đi sau đoàn khách, lại bĩu môi. Anh ta còn chơi ác, nhè lật tập sách, đọc lẩm nhẩm. Mặt Vũ Liệu tái dần. May quá, Nolting bước ra bao lơn. - Dãy nhà gì kia? - Ông ta trỏ dãy nhà lắp ghép sơn xám cạnh rào dinh tỉnh trưởng. - Thưa, nhà nghỉ của các cố vấn Mỹ. - Vũ Liệu trả lời lắp bắp, quên cả cách phát âm tiếng Anh. - Ta đến đó! - Nolting bảo. Xuống thang lầu, đại tá Lâm hích vào vai Luân: - Anh chưa đọc “chưởng” bao giờ? Luân cười, không trả lời đại tá Lâm mà hỏi Vũ Liệu: - Thiếu tá luyện môn nào? Hàm mô công hay Nhất dương chỉ hay Giáng long thập bát chưởng? Mặt Vũ Liệu vụt đỏ rần, các nọng thịt đỏ theo. - Té ra trung tá Luân cũng thạo Anh hùng xạ điêu của Kim Dung. - Đại tá Lâm cười ục ục trong cổ. - Tôi còn biết bộ “chưởng” đó do Hàn Giang Nhạn dịch, nhà An Hưng xuất bản, trọn bộ tám cuốn, dày lối bốn nghìn trang! Luân trả lời, giọng vui. Anh chưa đọc, đúng vậy, song đại úy Nguyễn Thành Động thuộc làu, kể cho Luân nghe nhiều lần. - Nhưng anh chưa biết giữa các quyển chưởng còn có cái khác. - Lâm bảo nhỏ. - Cái gì? - Điều lệ của đảng Đại Việt… Ông Vũ Liệu là đảng viên Đại Việt. - Sao anh biết? - Thì bìa điều lệ ghi: gửi đồng chí Vũ Liệu… - Đại Việt nào? Lâm nhún vai: - Tới mấy Đại Việt? - Ít ra, ba! - Tôi chào thua… Đảng mẹ gì mà giống con hoang vậy… Lâm cung cấp cho Luân một chi tiết quan trọng. Thì ra, Đại Việt dâm cây những chỗ khá béo bở… Nolting đến dãy nhà lắp ghép. Nhà mới, mùi dầu thông nực mũi. Tất cả 25 gian, mỗi gian chia thành phòng ngủ, làm việc… cho một người, đủ tiện nghi, có cả máy lạnh và tủ lạnh. Tony Forting bảo cái gì đó với Thomas Hayden. Thomas trả lời xong. Tony huýt sáo mồm. Môi của đại tá Lâm lại bĩu dài - Luân chưa rõ lý do. * Sau buổi ăn trưa nhẹ, Nolting cùng đoàn tùy tùng lên trực thăng. Mac Garr không đi. Ông ta bảo đã thuộc lòng vùng đất Mũi. Hiện giờ, ông thích nhâm nhi Whisky.Máy bay theo hướng đông nam, lướt trên thảm xanh của khu rừng đước rậm rạp, thỉng thoảng bị chia cắt bằng các con kinh phòng hộ có tự thuở nào và các con rạch uốn lượn. Nolting không rời ống dòm. Luân quan sát bằng mắt thường. Với anh, đây là vùng đất hết sức thân quen. Anh đã chiến đấu tại đây, đã cùng đồng đội hành quân, luyện quân. Kỷ niệm một thời sống dậy mãnh liệt, da diết. Dưới tàn đước kia hẳn là những “làng rừng”, bây giờ, đồng bào không thể ở phơi ngoài trống nữa, máy bay Mỹ dữ dội hơn máy bay Pháp nhiều. Song, những “làng rừng” vẫn sống. Hẳn có họp xóm, họp đoàn thể, hẳn có đủ ca múa thiếu nhi. Rồi bộ đội lại về “làng rừng”, du kích lại tuần tra, các bà má lại lo chăm sóc đàn con đông dày, có đứa từ Bắc, từ Trung vào… Anh không thể hình dung cảnh ngày nay so với lúc anh ở tiểu đoàn 420 nhưng anh nghĩ là đại thể cũng giống nhau. Đúng ra, anh khó nhận dấu cũ - rừng rậm hơn xưa - trừ con sông Bồ Đề vẫn cuồn cuộn. Trực thăng chếch về hướng tây nam. Một khu có vẻ là thị trấn hiện rõ lần. Nhiều hố bom; nhà cửa chỉ là đống tro đen ngòm, trừ một vài cái lác đác nấp dưới bóng cây. Thế là chợ Năm Căn không còn nữa. - Không tốt! - Nolting kêu lên - Sao chưa bắn cháy nốt mấy cái chòi kia? Nolting không hỏi đích danh ai, nhưng Vũ Liệu đã mau miệng: - Vâng, tôi sẽ xóa chúng… Mũi Cà Mau giống ngọn lao phóng ra biển cả, từng ngọn sóng ồ ạt phủ lên mõm đất nhọn rồi như hoảng hốt, giật lùi. Cảnh tượng hùng vĩ ấy không biết gợi cho Nolting cảm hứng như thế nào mà ông ta quay lại, nói với đại tá Lâm và Luân, kiểu một triết gia: - Nam Việt là một tiền đồn, không theo nghĩa đen. Tôi từng có ấn tượng này khi xem bản đồ. Hôm nay, trên thực địa, quả tôi không lầm. Nếu các đảo Nhật Bản và đảo Đài Loan được ví như chiếc phao lềnh bềnh trên sóng biển thì bán đảo Cà Mau của quý vị chính là chiếc cầu đổ bộ rất kiên cố, chiếc cầu khổng lồ đúc bằng bê-tông cho phép nước Mỹ nối liền với lục địa châu Á. Một bàn đạp vô giá của Mỹ ở phương Đông. Tổng thống Diệm đã nói chí lý: Biên giới của nước Mỹ kéo dài tận vĩ tuyến 17. - Hình như trước kia, trung tá Luân sống ở vùng này? - Nolting chợt hỏi. - Vâng… Tôi chiến đấu ở vùng này - Luân trả lời, giả bộ như lơ đãng. - Sống hay chiến đấu khác gì nhau? - Nolting cười mỉm - Thôi được, hiện giờ, dưới đó, cũng đang có những kẻ áp bàn chân lên đúng vết chân của người đi trước theo một xác tín đã thành mê tín: nước Pháp từng bại trận bởi những người đi dép bằng lốp ô tô, thậm chí, đi chân đất. Họ hiểu lịch sử như cái vòng khép kín, cố định, mặc dù họ tự xưng là phần tử duy vật biện chứng. Với họ, nước Pháp là đỉnh cao của sức mạnh. Nước Pháp đã đầu hàng độ dày của cành lá rậm rạp kia và thiên huyền thoại về chiếc áo giáp lá cây cứng hơn mọi thứ hợp kim ra đời… Luân không ngắt lời ông ta. Nolting lại cười, với vẻ bao dung: - Thời trung tá ngồi trong chỉ huy sở dưới tàn cây, lá cây chỉ rụng theo thời tiết. Còn bây giờ, với khoa học của nước Mỹ, việc lột chiếc áo giáp kia để nhìn tận rễ cây thì thật không có gì dễ hơn, vài chuyến máy bay với một khối lượng hóa chất nào đó, chúng tôi làm ra thời tiết theo ý muốn… Vài hôm nữa, phi hành gia Mỹ Johnson Glenn bay vào vũ trụ. Ngay các vì sao từ nay cũng khó giữ các bí mật của mình, chứ đừng nói một khu rừng… - Tôi không nghi ngờ một chút nào về khả năng của khoa học, - Luân thấy cần nói, sau khi suy tính mức độ phản ứng - Khoa học quân sự của Mỹ và nói chung của thế giới hiện nay bắt các khu rừng để mình trần. Hơn thế nữa, bắt các khu rừng hết còn là rừng. Song, giải chiếc áo giáp của rừng với giải giáp con người có lẽ không giống nhau. Và, chúng ta quan tâm đến con người, đến sự chống đối, không phải của rừng mà là của con người. Luân cũng cười mỉm. Nolting gương mắt ngó Luân: - Ồ! Trung tá hùng biện thật. Con người, hẳn trung tá muốn nhắc Việt Cộng? Theo tôi hiểu, trung tá là một chiến binh theo đúng nghĩa, thế mà chẳng lẽ hai phát đạn ở hai nơi - xin lỗi, phát thứ nhất ở một miền rừng nào, tôi không nhớ, phát thứ hai ở Bến Tre - chẳng lẽ hai phát đạn nhỏ xíu ấy đã làm trung tá hoảng? Tôi nói đùa thôi. Có lẽ quan điểm của trung tá bám chặt trung tá. Lần gặp trung tá đầu tiên, hình như tôi cũng nghe một câu tương tự… Tôi nhắc nhận xét của đại tá Thompson. Trung tá quen ông ấy? Luân gật đầu. - Chuyên gia chống du kích cớ lớn đấy… Đại tá nói rằng ở Mã Lai, khi người Anh cắt đứt mối đồng lõa giữa Cộng sản và rừng thì một tình huống phức tạp phát sinh: làm thế nào đủ chỗ giam giữ bọn đầu hàng? - Binh thư phương Đông coi trọng ba mặt: thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Ở đây, ta không cần trao đổi về thiên thời - mỗi người hiểu mỗi phách. Cộng sản không tin có thượng đế, thiên thời đối với họ là thời thế. Về mặt này, Việt Nam Cộng hòa hội nhiều điều kiện tốt hơn Cộng sản. Nhân hòa? Các ông đang thực hiện kế hoạch Staley - Vũ Quốc Thúc, ấp chiến lược sẽ giúp các ông nắm dân. Tổ chức toàn xã hội Nam Việt thành pháo đài, đơn thuốc đó quả của danh y. Sau chót, địa lợi. Ở đây, địa lợi là rừng. Nước Mỹ sẽ giúp các ông giành nốt địa lợi về các ông… Các ông có thể tin cậy nước Mỹ, song, dù cho quốc ca Anh có câu God save the king (5) thì phương ngôn Pháp lại dạy chúng ta: Aides toi, le ciel t’aidera (6)… Các ông phải tự cứu. Các ông bị chủ nghĩa dân tộc đầu độc quá nặng. Con người! Con người!… Hừ… - Nolting kéo dài giọng - Đồng bào… Trung tá nhận hai bản án tử hình đều do “đồng bào” của trng tá thực hiện… Không có “đồng bào”. Chỉ có các ông và Cộng sản… Nolting vụt hỏi Vũ Liệu: - Tôi nói đúng không, ông tỉnh trưởng? Vũ Liệu hấp tấp: - Yes, yes… All right (7) Nolting quay sang đại tá Lâm: - Tôi nói đúng không, đại tá? Đại tá Lâm nhếch mép: - Tôi không giỏi về chính trị nên không làm trọng tài được! Nolting sững sờ mấy giây. Rồi, như nghề ngoại giao đã dạy ông ta, Nolting cười - không thể cắt nghĩa nụ cười của ông ta - và giương ống dòm lên. Bỗng, ông ta kêu to: - Cái gì kia? Các ông xem… Trực thăng đang bay trên một dòng sông. Luân biết đó là sông Ông Đốc - vàm sông năm xưa anh tiễn các đồng chí trong tiểu đoàn xuống tàu Arkengels tập kết, ôm hôn Vũ Thượng và Lưu Khánh, mờ sáng lặng lẽ rời tàu, dấn vào cuộc đấu tranh kỳ lạ cho tới nay. - Người ta đang làm mùa… - Vũ Liệu trả lời. Dưới máy bay, nhiều vật trắng động đậy giữa cánh đồng ngập nước. Nolting chỉnh ống dòm: - Không phải làm mùa… Một cuộc tập trận. Đúng… Hình như có cả cỗ pháo nữa! Lên cao! Nhanh! - Nolting ra lệnh líu lưỡi, bảo Vũ Liệu: - Ông quan sát kỹ nào! Vũ Liệu chìa cả ống dòm ra ngoài cửa máy bay. - Nó tập trận, đúng không? Nolting hỏi dồn dập. Vũ Liệu gật đầu. - Một cuộc tập trận của Việt Cộng! Nolting ra lệnh cho tá trưởng phi hành đoàn. - Gọi máy bay oanh tạc! Viên đại tá - có vẻ miễn cưỡng - vặn đài liên lạc. Luân bình thản, bảo: - Đừng gọi, mất công! Phụ nữ làm mùa. Họ đang cấy. Những chấm trắng là chiếc nón lá. Còn cái mà ngài đại sứ ngỡ là khẩu đại bác, chỉ là càng xe trâu chở mạ… Nolting lại cầm ống dòm: - Có lẽ trung tá nói đúng… Thiếu tá tỉnh trưởng thấy thế nào? Vũ Liêu không phải là hạng người biết hổ thẹn: - Thưa, đúng là nông dân làm mùa! - Cách làm mùa ở Việt Nam khác ở Mỹ, tôi lầm. - Nolting nói xong, thoải mái tựa lưng vào ghế, ngầm bảo rằng sự lầm lẫn của ông ta cần phải được mọi người kính trọng. Độ vài giây, ông ta bật dậy: - Không được! Ông Vũ Liệu nghe chưa! Không được cho phép bọn ở vùng Việt Cộng làm mùa… Có lẽ Nolting chợt nhớ cuộc cãi lộn giữa ông ta và Mac Garr trên vùng trời Sóc Trăng. - Có nên ra lệnh cho máy bay… - Vũ Liệu rất sẵn sàng chôn vùi các chiến nón trắng và việc đó sẽ đến trong vài phút, bởi đội AD6 vẫn ở trong tầm điều khiển của trực thăng chở Nolting. Nolting ngần ngừ một lúc: - Thôi, các ông sẽ chấm dứt chúng khi lúa trổ, như thế hiệu quả hơn. Hôm nay, ta đi dạo, đừng để bom đạn làm mất vui… * Tiệc bắt đầu khi trời lặn. Dinh tỉnh trưởng rực rỡ ánh đèn vừa mới kết thêm. Trong bộ quần áo dân sự, Vũ Liệu vẫn không bớt vẻ thô kệch. Vợ Vũ Liệu, mọi người đã biết tên bà ta, Trúc Đào - lộng lẫy tương xứng với bữa tiệc. Vũ Liệu khỏi phải dành cho Mac Garr mấy câu chúc tụng, tướng quân đã say nhừ. Vũ Liệu dành cả mười phút nói lên niềm hoan hỉ được đón Nolting, đại diện của nước Mỹ vĩ đại. Vũ Liệu cho biết “bữa ăn gia đình” này do Trúc Đào nấu. Trừ món tôm và lươn là sản phẩm Cà Mau, tất cả được mua ở Sài Gòn và Cần Thơ. Rượu, thuốc lá hảo hạng. Khăn lau ướp lạnh và sực nức mùi nước hoa đắt tiền.Nolting và Trúc Đào sánh vai nhau ở đầu bàn, vị trí của chủ nhân. Ngoài số quan viên văn võ An Xuyên, hàng chục cô gái chia nhau kề cận khách - chẳng rõ họ tự đâu tới và nghề thật sự của họ là gì. Trúc Đào vận chiếc áo vải thô, không tay. Hai bờ vai và cả một phần ngực để trần. Chiếc váy ngắn giới thiệu đầy đủ cặp đùi và bắp chân rắn chắc của bà ta. Mọi người đã chếch choáng. Nolting bắt đầu háo hức nhìn Trúc Đào. Nhiều tiếng nữ rú the thé trước bàn tay cựa quậy của các sĩ quan Mỹ. Tony Forting, chắc là định nói khẽ thôi, song rượu đã không cho phép gã làm như ý. Gã nói vào tai cô gái cạnh gã. - Tôi muốn ngủ với bà tỉnh trưởng, được không? - Bậy! - Cô gái giãy nãy, cô nói tiếng Anh chưa được sõi. - Sao bậy? - Tony nheo mắt. - Chị tôi đấy! - Chị thì chị… Nhưng, tôi thích. Tôi chỉ ngủ với bà ta khi bà ta khi bà ta có giấy chứng nhận chưa hề mang vi trùng Gônô… - Rồi Tony nhăn nhở - Đêm nay, tôi ngủ với cô… Bằng lòng chứ? Tony đặt tay lên cổ cô gái. - Năm dollar. Được không? Cô gái cúi đầu, mặt đỏ bừng. Thomas, ngồi đối diện, la ầm: - Sao đắt thế? Ba dollar… Mà phải bắt nó tắm rửa thật sạch. Bọn gái Việt lắm rận, tởm khiếp! Không ai trong bữa tiệc kể cả Vũ Liệu không nghe lời của ba người. Bọn Mỹ cười hô hố. Bọn sĩ quan dưới trướng Vũ Liệu gằm mặt ăn. Các cô gái cắn môi. Hình như, có cô khóc. Luân không thể tiếp tục ngồi. Anh sợ mình không tự chủ nổi. Cũng chẳng ai để ý anh rời chỗ - có thể trừ cô gái “phần riêng” của anh. Nolting đờ đẫn. Nhà ngoại giao không thèm giữ thể thống nữa, có vẻ sắp nuốt chửng vợ Vũ Liệu. Luân ra hàng hiên. Không khí bên ngoài giúp anh lấy lại bình tĩnh. Người anh chạm mặt là đại tá Lâm. - Bọn chó đẻ! - Đại tá Lâm chửi đổng - Hồi sáng, tôi đã nóng. Thằng Tony nói gì với thằng Thomas khi vào khu nhà lắp ghép, anh biết không? Dĩ nhiên, Luân không biết. - Nó bảo: Mày ghi cho kỹ các đồ vật, bọ Việt chúa ăn cắp, kể cả tỉnh trưởng. Phải buộc nó ký nhận. Thằng Thomas trả lời: Đừng lo, mất một món trong nhà lắp ghép, tao bắt lão phải đền bằng cách để vợ lão ngủ với tao một đêm. Con mụ đứng trên cầu thang trực thăng đó… Bọn chó đẻ! Luân không bình luận gì thêm. - Tôi đi nghỉ! - Luân bảo. - Tôi cũng vậy… Luân phát hiện sự thay đổi của Lâm đối với anh: hình như nể hơn và thân hơn… Hai người lên lầu, còn kịp thấy vợ Vũ Liệu rỉ tai Nolting. Gã đại sứ cười sặc sụa. Lâm ngả lên gường và sau vài phút, ngáy vang. Luân mở rộng cửa phòng, ngắm bầu trời Cà Mau đầy sao… --- (1) Nolting chơi chữ. “General” vừa có nghĩa là “đại tướng” vừa có nghĩa là “tướng quân”. Hàm đại tướng mang 4 sao, nhưng Mac Garr chỉ mới mang 3 sao. (2) Gọi thân mật Eisenhower. (3) Chào bà (4) Chào mừng Ngài Nolting. (5) Chúa phù hộ đức vua. (6) Hãy tự cứu, trời sẽ giúp anh. (7) Vâng, vâng, chí lý! Phần 6 - Chương 6 “Tên Thái thú thời nay đây rồi!” Chuyến thị sát vùng Cà Mau đã cho Luân cái ấn tượng khá sâu đậm về Nolting và bọn cùng đi. Giờ thì chúng trút bỏ cái vỏ đại đức khoác kỹ 6, 7 năm nay. Mục đích xa, mục đích gần, mục đích của chính phủ Mỹ và mục đích riêng của từng tên Mỹ đến Việt Nam phơi bày không cần cả một tế nhị nhỏ. Tất nhiên không mấy ai chứng kiến tận mắt, song qua cái mặt thỏa mãn của Nolting vào trưa hôm sau - gã dậy rất trễ - mọi người dễ dàng đoán cái gì xảy ra đêm hôm qua giữa gã và mụ vợ Vũ Liệu. Không chỉ có Nolting. Cả nhóm Mỹ tùy tùng, trong các ngôi nhà lắp ghép… - Thấy thằng Liệu, tôi muốn “phơ” vô bản mặt nó một băng! Đại tá Lâm hầm hừ. Anh ta thậm chí không thèm bắt tay Trúc Đào: Con đĩ ngựa này thế nào cũng bị con mẹ Lệ Xuân lấy thẹo! * Sự thể biến đổi khá nhanh từ sau thông báo Johnson - Diệm và khi Staley bắt đầu nhẩm tính các con số với Vũ Quốc Thúc: con số của Staley quy thành dollar, còn con số của Thúc quy thành nhân mạng… Vũ Liệu, lù khù về hình thức, lại rất nhạy về hướng gió. Chính cái phát hiện của Lâm giúp Luân hoàn chỉnh thêm bảng phân tích tình hình: Vũ Liệu thuộc đảng Đại Việt, tuy chưa rõ Đại Việt nào. Cái pha phục thù rùng rợn bắt đầu rồi đó. Sáu năm trước, Diệm thanh toán đẫm máu Đại Việt ở Ba Lòng, những tên nuôi mộng là vương làm tướng này tạm thời chịu lép bề ngoài, ngầm bành trướng thế lực - Luân hiểu “bành trướng thế lực” bao gồm luôn tạo mối quan quan hệ với CIA. Hình như các nhóm Đại Việt Trương Tử Anh, Hà Thúc Ký, Nguyễn Tôn Hoàn đã thoả thuận thống nhất hành động qua tổ chức “Phòng trào quốc gia cấp tiến” do Nguyễn Ngọc Huy đứng tên - Huy là nhân viên CIA, học hành đúng “bài bản”. Chúng lôi kéo thêm cánh Quốc dân đảng miền Nam của Nguyễn Hòa Hiệp - một phần tử lưu manh từng chỉ huy đệ tam sư đoàn đầy tội ác trong năm đầu kháng chiến chống Pháp. Sau lưng Đại Việt là nhà sư di cư Thích Tâm Châu nhiều tham vọng trần thế. Trận đồ coi như lần lần hình thành. Nguyễn Chánh Thi, lãnh tụ Đại Việt, nổ súng cuối năm ngoái. Mỹ chưa muốn đi quá xa trong thái độ đối với Diệm song vẫn hết lòng che chở cho đảng này trước các cuộc truy tầm gắt gao của Diệm.Vậy thì, chuyến thị sát Cà Mau không thể hiểu như chuyến công cán bình thường của Nolting và Vũ Liệu dâng vợ cho Nolting cũng không thể hiểu như chỉ vì y ta muốn thăng quan tiến chức. Điều mà Luân đang chắp nối từ nhiều hiện tượng riêng lẻ, được Nolting làm sáng tỏ tại Cần Thơ. Trước các sĩ quan và viên chức Mỹ - Việt vùng sông Bassac tập trung đón tiễn Nolting - đại sứ dạo thăm thành phố một vòng - Nolting nói, rất trân trọng: “Chính phủ Mỹ, thiết tha với sứ mệnh bảo toàn độc lập và tự do của Việt Nam Cộng hòa, ngày càng xác tín rằng đất nước này đủ khả năng phối hợp hơn với chúng tôi trong sự nghiệp cao cả đó. Nhân tài Việt Nam Cộng hòa đấy dãy. Tỉ như qua chuyến công tác ở mũi Cà Mau, tôi làm quen với ông thiếu tá tỉnh trưởng Vũ Liệu, một con người xuất sắc trong nghề cai trị cũng như nghề chỉ huy quân sự. Vấn đề là, thưa các ông, cách sử dụng các nhân tài đó. Mọi thiên kiến về tôn giáo, về sự khác biệt chính trị sẽ gây tổn thất cho cuộc kháng chiến chống Cộng” Đại tá Trần Thiện Khiêm - đứng đầu hàng - chập gót chân khi Nolting dứt lời. Thật ra, vị chỉ huy khu vực có một động tác không đúng lúc - chẳng sĩ quan nào làm như đại tá - song có thể lời hứa hẹn bóng gió kia của Nolting kích thích anh ta đến nỗi không còn tự chủ được. Luân chợt nhớ viên sĩ quan cấp úy Nguyễn Cao Kỳ cố ngoi lên trước Nolting, ngay chân cầu thang trực thăng tại Tân Sơn Nhứt, mà cái gạt khinh miệt của Tony Forting không thể kéo hắn ta trở về thực tại… Chẳng rõ Vũ Liệu có thông báo cho Trần Thiện Khiêm hay không mà phòng khách sân bay Trà Nóc chìm trong mà da thịt các cô gái, dù Nolting chỉ dừng chân ngắn ngủi. Thế là đã rõ! Luân báo cáo khá tỉ mỉ các hiện tượng trong chuyến đi của Nolting cho Nhu, tất nhiên không nói gì đến đại tá Lâm và cũng tất nhiên không bình luận. Lệ Xuân chăm chú nghe. - An Nam đô hộ phủ? - Nhu làu bàu, đẩy về phía Luân tờ trình của Bộ tổng tham mưu. Theo tờ trình, người Mỹ yêu cầu thăng Vũ Liệu từ thiếu tá lên trung tá và giao ông ta chỉ huy thiết giáp. - Được! Tôi đồng ý… - Nhu bảo - Tôi muốn thằng Đại Việt nhóc con này ở cạnh tôi… Luân không thể bắt gặp cặp môi chợt cong của Lệ Xuân, kèm theo cái nhếch mép khó hiểu. * Luân về nhà, chưa thay quần áo thì James Casey đến. Gã được thăng trung tá sau các vụ biệt kích ở Bến Tre. Với vẻ mặt rầu rầu, James Casey thông báo một tin nghẹt thở: huấn luyện viên biệt kích Vũ Huy Lục đào ngũ.James Casey đưa cho Luân tờ trình của thiếu tá trại trưởng, một Anthony Lambroisky nào đó. Cố nén xúc động, Luân đọc. Theo tờ trình, huấn luyện viên chuẩn úy Vũ Huy Lục phục trách môn nhảy dù và đổ bộ đường không thám báo thường ngày vẫn đến lớp - trường biệt kích đặt ở gần Hải học viện Nha Trang - sáng ngày kia, 3-7, bỗng không đến lớp. Ngưòi ta đi tìm, không gặp Vũ Huy Lục ở các nơi anh ta lui tới. Lục sống độc thân trong ngôi nhà dành cho huấn luyện viên. Phòng Lục còn nguyên đồ đạc. Nhiều giả thuyết được nêu lên: Lục chết đuối - giả thuyết này không vững vì Lục bơi rất giỏi, lại ít khi bơi xa và biển trong những ngày này êm. Lục bị Việt Cộng bắt cóc - cũng không có cơ sở vì Lục chỉ quanh quẩn trong thành phố. Lục đi chơi - cũng thế, Lục là một quân nhân rất kỷ luật. Thế là đến giả thuyết sau cùng: Lục đào ngũ. Thiếu tá trại trưởng lưu ý thêm một chi tiết: Ngày 1-7, đội người nhái đầu tiên của Hải quân Việt Nam trình diện tại Nha Trang, liệu rằng hai sự việc này có quan hệ với nhau không? Tuy đầu óc rối bời, Luân vẫn theo dõi James Casey. Cái gì đây? Tình báo Mỹ đã phát hiện Lục? Và như thế có nghĩa là “bản tango số 3” lộ tẩy. James Casey không thay đổi sắc mặt mà hắn mang đến lúc đầu - rầu rầu. Có t thể là một màn kịch… Luân mau chóng rút ra giả định: James Casey và tình báo Mỹ nghi ngờ Vũ Huy Lục, bắt anh, sau một lúc điều tra, thủ tiêu anh. Cũng còn giả định khác: Chúng đang giam giữ Lục và trọng tâm mà chúng quyết cạy răng Lục là thân phận Luân… Bất kể như thế nào, sự thể rất nguy hiểm. Luân trả tờ trình cho James Casey, ngồi phịch xuống ghế, ôm đầu… Anh rơm rớm nước mắt. Luân vốn rất thương Lục. Trong trường hợp này, anh chọn phương pháp không giấu giếm tình cảm đó. - Như vậy nghĩa là thế nào? - Luân hỏi, nghẹn ngào. - Mất tích… - James Casey đổi nội dung của tờ trình - Tôi thích dùng chữ mất tích hơn đào ngũ. Không có một chứng cớ nào để buộc chuẩn úy Lục vào cái tội xấu xa như vậy. Tại sao không là mất tích? Mất tích rộng nghĩa lắm. Một tai nạn, một sự cố mà chuẩn úy là người phải gánh chịu… Kể cả bị bắt cóc. Ai bắt cóc? Chắc không ít kẻ thèm biết về bên trong trại biệt kích. Nha Trang không còn chỉ là bãi biển danh cho du khách. Cộng sản xuất hiện vùng trung du khá thường… Trước khi có chứng cớ, không ai có quyền tuyên án chuẩn úy Lục. Tôi biết trung tá xúc động. Tôi cũng xúc động. Ta hãy cầu Chúa cho chuẩn úy… James Casey đẩy các quân của hắn trên bàn cờ về phía trận địa Luân? Luân suy tính. Anh từ từ ngước mắt lên và James Casey thấy trong mắt Luân loé một tia vụt sáng. - Trong tờ trình, trại trưởng có nhắc đến lễ trình diện người nhái… - Luân rắn rỏi trở lại. - Tôi không tin… Trại trưởng giàu tưởng tượng thế thôi - James Casey xua tay. - Biết đâu. Cả trung tá và tôi, chúng ta không gần Lục. Hơn nữa, thời gian Lục hoạt động ở Bắc Việt cũng khá lâu… Biết đâu… - Luân rấn tới. - Tôi không tin chừng nào người ta chưa chìa cho tôi bằng chứng… Còn thời gian Lục ở Bắc Việt, tôi đảm bảo với trung tá. Nhiều “vọng gác” kiểm tra anh ta, các “vọng gác” đều nhận xét ăn khớp: một con người hoàn hảo… - Tại sao các ông gọi anh ta về Nam? - Theo một “vọng gác”, Lục ở lâu không lợi, dù anh an toàn tuyệt đối khi chạm đất. Không bị phát hiện, anh vào khu nhà thờ và được che chở. Song, người cha cố nhà thờ sau này có vẻ dao động. Vả lại, những điều ta cần, Lục đã cung cấp đủ… - James Casey trình bày gần như thanh minh. - Dù sao, tôi nghĩ cũng nên đề nghị trại trưởng lý giải nghi vấn của ông ta. Có thể ông ta có tài liệu… - Tôi đã làm việc đó. Tôi điện thoại mật cho ông ta. Như tôi đoán, ông ta thích tưởng tượng, thích làm ra vẻ ta đây là con người biết xâu các dữ kiện. Tôi hỏi: Nếu cho rằng Vũ Huy Lục đào ngũ thì anh ta đào ngũ bằng cách nào, theo hướng nào? Trại trưởng im lặng mà tôi biết ở đầu máy kia, ông ta so vai nữa. Đám người nhái là cái gì buộc Lục phải đào ngũ, giả dụ Lục là tình báo của Việt Cộng? Trường biệt kích không đủ cái cần phải báo với Việt Cộng hay sao? Và, đã thế, tội gì Lục phải đào ngũ? Vừa làm huấn luyện viên vừa gửi tin tức cho Việt Cộng, không tốt hơn sao? James Casey hùng biện, y như hắn tự bào chữa. - Tôi sẽ đứng về quan điểm của trung tá chừng nào trung tá chứng minh được Lục vắng mặt vì một lý do không phải là đào ngũ… - Luân nói từng tiếng. - Tất nhiên tôi sẽ chứng minh… Tôi nghĩ đến một thế lực nào đó hoặc nhắm vào tôi, hoặc nhắm vào trung tá mà bắt cóc hoặc ám hại chuẩn úy Lục. James Casey đứng lên. - Tôi khác hẳn trung tá. - Luân cũng đứng lên - Tôi thấy rất ít khả năng theo hướng đó… Lục tách chúng ta quá lâu, chẳng giúp gì cho các người không thích chúng ta - tôi cứ cho quả có ai đó không thích tôi đến mức bắt cóc hay ám hại người liên quan với tôi. James Casey lắc đầu: - Ông quên bà kỹ sư từng bị bắt cóc ở Bình Dương. Tiện thể, tôi đề nghị trung tá dặn người thân lưu ý… Luân tiễn James Casey ra cổng. Mấy phút sau, Dung về. Nghe tiếng đóng cửa xe và bước vội của Dung, Luân đoán có việc gì khẩn cấp đây. Đúng, Dung mất bình tĩnh, kéo Luân xuống ghế, thì thào: - Cô, chú em bị bắt rồi! - Ai bắt? - Không rõ… Em đi làm về ghé tạt qua nhà cô, chú như thường lệ. Bà giúp việc thấy em, khóc oà. Theo bà, trước đó độ mười lăm phút, một xe đỗ trước nhà. Chú vừa từ phòng mạch về, đón khách. Tất cả bốn người. Họ bảo gọi cô. Bà giúp việc nép phía sau nhà thấy họ đọc một tờ giấy - đọc cái gì, bà giúp việc không nghe được - xong thì cô dặn bà coi chừng nhà, rồi theo bốn người ra xe. Mặt cô tái xanh. Chú có vẻ tỉnh táo hơn… Xe sắp chạy, một trong bốn người trở vào dọa bà giúp việc: Đừng gọi điện thoại cho anh hay cho cho em. “Một cuộc tổng nổ súng?”, Luân trầm ngâm. Chuông ngoài cổng réo. Thạch mở cổng. Thằng cháu kêu Luân bằng chú ruột như cơn gió, ùa vào phòng: - Ba bị bắt rồi, chú Bảy ơi! - Ai bắt? Sự việc giống hệt nhà cô, chú Dung. - Đúng là tổng nổ súng… - Luân lập lại ý nghĩ bằng lời. - Ai nổ súng? - Dung hỏi. - Cháu về nhà… Không sao đâu. Chú sẽ lo vụ này. - Luân không trả lời Dung, dặn đứa cháu… - Ta dùng phương pháp éliminatoire (1). Theo anh, James Casey không nhúng tay vào. Cuộc nói chuyện vừa rồi với hắn cho phép anh tạm kết luận như vậy. - Anh vừa nói chuyện với James Casey? - À, anh quên là em chưa biết tin Vũ Huy Lục mất tích. - Sao? - Dung hốt hoảng. - Em hãy nghe… - Luân thuật vắn tắt tờ trình của trại trưởng biệt kích và cách lập luận của James Casey. - Em thấy James Casey có lý… - Cứ hẳn cho như vậy. Trần Kim Tuyến? Không có cơ sở… Nha Tổng giám đốc công an? Càng ít cơ sở hơn. Đại Việt? Có thể… Song để làm gì? Công dân vụ? Trần Vĩnh Đắt, Hoàng Đình Duyệt “hưu chiến” với chúng ta từ lâu… Các đội biệt động thành? Không hành động kiểu đó. - Đến đây, thủ phạm đã lộ mặt: Mai Hữu Xuân! - Dung nói to và hỏi luôn: - Nhưng để làm gì? - Rồi ta sẽ hiểu… - Liệu tính mạng của những người bị bắt… - Dung hỏi dồn. - Theo anh, không nguy hiểm lắm. Mục đích rõ ràng là nhắm vào chúng ta… - Phải làm gì? - Anh còn chờ tin Lê Ngân. Đã thế này, họ đụng đến tất cả. Cả vợ Thạch ở chợ Gạo, cả Thạch… Gọi Thạch cho anh. Thạch không cung cấp cho Luân một hiện tượng gì đặc biệt. Cậu ta lại không biết tin của vợ con… Chị Sáu nấu bếp cũng vậy. Có thể vì những người này ở cạnh vợ chồng Luân mà họ chưa ra tay… - Chú thử nhớ xem… Giả tỷ như người nào hỏi thăm nhà vợ chú… - Luân gợi ý Thạch. - Cũng có! - Thạch trả lời - Mà em thấy chuyện thường… Ông Ly Kai, hôm trung tá đi Cà Mau về, gặp em ở sân ngoài dinh Độc Lập, mời em đi uống rượu. Em từ chối. Ổng mới lân la hỏi về vợ con em… Mắt Luân rạng rỡ. Anh bắt được đường dây và do đó, hiểu thêm ý nghĩa của vụ “tổng nổ súng” này. Theo Thạch, Ly Kai hỏi khá kỹ tên xóm ấp quê Thạch. Thạch vui miệng nói hết. - Có sao không? - Thạch lo lắng. - Về phần vợ con chú thì chắc chắn là vô sự, bởi chú đã khoe nhà chú ở sâu trong ruộng, Việt Cộng hay tới tui… Công an, mật vụ hay an ninh quân đội đâu dám mò xuống… Cái bậy là chú không hẹn đi nhậu với Ly Kai. - Luân tiếc rẻ. - Em đẩy đưa, nói là để coi bữa nào trung tá không đi đâu, em sẽ báo cho ông ta. Nếu trung tá cần, em hẹn liền… Ông ta có cho em số điện thoại. - Vậy, chú gọi Ly Kai liền bây giờ… Chú nói là tôi và cô Dung từ chiều ở trong dinh, sẽ ăn cơm với ông cố vấn, nên chú rảnh vài giờ. Chú gọi ông ta từ trạm gác của dinh. Luân theo dõi lom lom cuộc điện đàm giữa Thạch và Ly Kai. Ly Kai sẽ lái xe đón Thạch, độ hai mươi phút nữa, hẹn Thạch cổng đường Gia Long. - Chú mang vũ khí theo. Sẽ có người của tôi bám sát. Nhớ đừng uống nhiều bia. Chú đi ngay đi. Thạch vừa khuất, Luân gọi điện cho Bộ chỉ huy Liên binh phòng vệ Phủ tổng thống. Đại tá chỉ huy trưởng vắng, một thiếu tá trực ban nhận điện. * Thạch ngỡ Ly Kai chở anh vào Chợ Lớn, nhưng không, Ly Kai đưa Thạch lại khách sạn Vị Lai, đường Lê Lợi. Họ theo thang máy lên tầng bốn ở đó, có một phòng riêng dành sẵn. Chỉ có Ly Kai, Thạch và chiếc bàn tròn cũng chỉ có hai ghế. Thạch phán đoán liền: ghế mà Ly Kai mời Thạch ngồi kê sát tấm vách ngăn đánh verni bóng. Có thể tấm vách chính là cánh cửa. Mọi sự sẽ từ tấm vách này mà ra! Ai biết được cái gì đằng sau tấm vách?Ly Kai mời Thạch gọi món ăn. Anh cười: - Tùy xếnh xáng, món nào xếnh xáng ưa thì tôi ưa. Món ăn bày một lúc, cùng nhiều loại rượu. Ly Kai cho người hầu bàn ra ngoài và dặn chỉ được vào khi hắn bấm chuông. Qua tuần khai vị, cửa phòng xịch mở. Ly Kai sa sầm mặt, toan quát. Nhưng người mở cửa phòng không phải là hầu bàn - hai hoặc ba ông khách lầm phòng, xin lỗi Ly Kai. Thạch hiểu ngay người của an ninh Phủ tổng thống, anh vững bụng. Ly Kai chạm cốc liên tiếp. Gì chớ món rượu mạnh thì Thạch không chạy - đế vùng Chợ Gạo khá nổi tiếng. Chưa được một giờ, chai Martell đã cạn. Ly Kai khui tiếp chai Remy Martin. Thấy cần kết thúc, uống thêm vài ly. Thạch giả bộ say. Anh bắt đầu nói nhừa nhựa, líu lưỡi, mắt nhắm mắt mở. - Làm một cái nữa! - Ly Kai rót đầy ly. Ý chừng hắn muốn đánh đòn quyết định cho Thạch gục. Thạch run rẩy nhận ly, rượu sánh ra ngoài một ít. Anh uống cạn và sau đó, úp sấp cả người lên bàn - anh cố ý né cái lưng chếch với tấm vách - ôm đầu. Ky Kai khóa trái cửa, xong vỗ nhẹ vào tấm vách. Tấm vách đỏ au màu verni bỗng tách làm hai. Thạch hé mắt nhìn: bên trong là một phòng, lỗ nhố bóng mấy người. - Lôi nó vô, giã rượu cho nó, rồi “tẩm quất” nó một trận. Nhớ, nó có súng… Theo lịnh của Ly Kai, hai người bước ra toan xốc nách Thạch, đồng thời mò súng trong lưng Thạch. Một cú đánh cùi chỏ, hai tiếng “hự” nổi lên cùng lúc, Thạch hất đổ chiếc bàn, tay lăm lăm khẩu súng ngắn, Ly Kai chưa kịp phản ứng thì cửa phòng bị đá tung, nhóm an ninh Phủ tổng thống ùa vào. Tấm vách chưa kịp khép lại. - Tất cả đưa tay lên… Ai kháng cự sẽ bị bắn. - Thạch hô dõng dạc. Anh định bụng Ly Kai sẽ hoặc bỏ chạy hoặc sợ hãi. Trái lại, mặt hắn lạnh như tiền. Hắn khoanh tay, ngó nhóm an ninh Phủ tổng thống: - Ai cho phép mấy người lộn xộn? Muốn chết hả? Thạch và nhóm an ninh ngơ ngác. - Coi cái này thì biết! - Ly Kai đưa một tờ giấy đánh máy cho viên trưởng nhóm. Liếc qua, viên trưởng nhóm trả tờ giấy cho Ly Kai - trả bằng hai tay rất mực kính cẩn. Thạch biết tình thế xấu rồi. Anh quyết định sẽ bắn Ly Kai trước tiên. Ly Kai quay lại Thạch: - Tụi nó làm hư công chuyện của tao… Thôi, không cần bắt mày nữa. Về đi! Tiểu na má… Thật lạ lùng, Thạch bước ra cửa, vẫn đề phòng bị bắn hay đánh lén. Không có gì cả. Anh đã kịp nhìn căn phòng sau tấm vách - hình như là một phòng tra tấn còn lưu cả dấu máu trên tường… * Thạch đi một lúc, Luân vào dinh Độc Lập, xin nói chuyển khẩn với Nhu. Luân đinh ninh Nhu không hay biết việc này. Trái lại, Nhu biết tất cả.- Thiếu tướng Mai Hữu Xuân xin phép tôi! - Nhu trả lời Luân, thản nhiên. - Tôi không hiểu… Tại sao? - Luân hơi lúng túng trước tình huống quá bất ngờ. - Anh đợi tôi vài phút. - Nhu quay máy điện thoại. Luân đặt tay lên bụng - khẩu Walter lúc nào đạn cũng trên nòng. Hạ một Ngô Đình Nhu thì uổng quá! - Tôi, Nhu đây, muốn nói chuyện với thiếu tướng Mai Hữu Xuân. - Nhu nói vào máy. Tiếng trả lời vọng rõ. - Xin nghe ông Cố vấn. - Vụ F1 kết quả ra sao? - Négatef (2). - Vậy đó… - Họ chẳng biết tí gì… Chúng tôi reflar (3) sai… - Ông thiếu tướng còn có thể nói một cách bàng quan được thì lạ thật. - Nhu bỗng đổi giọng. - Ở Đà Lạt, tên Lê Ngân kháng cự… Một lô sĩ quan hùa theo nó. Có đổ máu… - Lỗi của ai? Chẳng lẽ là lỗi ở học sinh sĩ quan… Tôi đoán trước ông thất bại. Nếu học sinh sĩ quan mà có người chết thì ông phải ra tòa án binh! - Không ai chết… Hai an ninh quân đội bị thương… - Bây giờ, việc của ông là: một, trả các người của ông bắt về nhà. Trả an toàn. Hai, ông xin lỗi trung tá và bà trung tá Nguyễn Thành Luân. Ông xin lỗi, còn tha lỗi hay không thuộc quyền trung tá. Ông Cụ với Đức giám mục biết được thì nguy cho ông. - Xin cho tôi điều tra số người đó hết đêm nay… - Điều tra gì mà điều tra? Thả ngay! Người cần phải điều tra là ông, ông thiếu tướng. Luân nói chen vào: - Họ đang bắt cận vệ của tôi. - Hình như trung tá Luân đang có mặt chỗ ông Cố vấn? - Mai Hữu Xuân hỏi. - Đúng… Trung tá hỏi về người cận vệ của trung tá Luân? Ai cho phép ông… Luân thấy không cần đặt tay lên khẩu Walter nữa. Nếu như cuộc đối thoại giữa Nhu và Xuân là màn kịch thì họ còn ở giai đoạn đối chứng bằng cớ. Đầu dây bên kia, Mai Hữu Xuân ấp úng mãi. - Ly Kai mời người cận vệ của tôi đi uống rượu… Luân thấy rằng anh có thể qua cuộc đối thoại mà nắm thực chất của vấn đề. - Tại sao có Ly Kai vào đây? - Nhu rít - Ông không hề báo với tôi ông sử dụng Ly Kai… - Người lái xe cũ của tôi, Vũ Huy Lục, đang làm huấn luyện viên trường biệt kích Nha Trang cũng bị bắt cóc… - Hả? Anh nói cái gì? - Nhu quay sang Luân, rõ ràng anh ta không ngờ chuyện đó. Luân lặp lại. - Quá lắm… - Nhu gằn giọng. Đầu dây kia, Mai Hữu Xuân cũng thảng thốt: - Không! Tôi không hề ra lệnh bắt cóc ở Nha Trang… Còn người cận vệ thì… - Tôi không có thì giờ! - Nhu cắt ngang - Ông thả ngay người cận vệ của trung tá, ông phải tìm cho ra Vũ Huy Lục. Ông nghe rõ chưa? Nhu gác máy, mặt hằm hằm. - Anh ngồi xuống. Tôi phải nói rõ, kẻo bản hợp đồng giữa tôi và anh rách mất… Luân bình tĩnh ngồi xuống, mặt hết sức lạnh lùng. - Thế này nhé. Mai Hữu Xuân báo với tôi rằng ông ta nắm đủ tài liệu về anh - về hoạt động của anh ở Kiến Hòa. Theo ông ta, anh thi hành chỉ thị của Trung ương Cục nhằm gây rối nội bộ Quốc gia, yểm trợ cho Cộng sản. Tất nhiên, tôi không tin vì các tài liệu ông ta trưng ra toàn dựa theo suy luận, chấp nối các sự kiện mà hầu hết các sự kiện đó tôi đều biết. Ông ta quả quyết rằng các người sau đây được anh tổ chức hoặc tí nhiều biết công việc của anh. À, ông ta gán luôn cô Thùy Dung vào nhóm tình báo Việt Cộng. Các người đó là bà Sáu nấu bếp, vợ chồng bác sĩ gì tôi quên tên, ở đường Trần Bình Trọng, là cô và dượng cô Dung, vợ Thạch, thiếu úy Lê Ngân, người anh ruột của anh… Có thể tôi còn sót, song đại khái là như vậy. Ông ta đề nghị cho ông ta thẩm vấn và hứa rằng vài tiếng đồng hồ là xong. Ông ta kỳ kèo tôi ký lệnh vì về nguyên tắc ông ta không có quyền. Tôi đồng ý. Nhu mỉm cười, mời thuốc Luân. - Anh đừng nổi nóng. Tôi đồng ý bởi vì tôi tin rằng ông Xuân chẳng chứng minh được cái gì cả. Với lão này, không để lão lọt xuống hố thì khó kềm chế lắm… Anh thấy rồi, lão lọt xuống hố… Điện thoại reo, Nhu nhấc máy và sau đó, trao cho Luân: - Cô Dung gọi anh. Dung báo với Luân nội vụ của Thạch, sau khi Thạch về nhà. - Hóa ra anh cũng muốn xô lão Xuân xuống hố! - Nhu cười thoải mái, khi nghe Luân thuật cảnh ngộ của Thạch ở khách sạn Vị Lai. - Lão này táo tợn thật, dám thiết lập cả một cơ quan điều tra trong quán ăn! - Nhu hầm hừ - Tôi sẽ ra lệnh hủy bỏ chỗ đó ngay lập tức! - Bây giờ thì tôi hiểu anh, - Luân dịu giọng - Song, những quyết định của anh tựa dao hai lưỡi. Với tôi, không có gì đáng ngại, chỉ hơi phiền một chút thôi. Còn với người khác? Mai Hữu Xuân rất dễ lợi dụng danh nghĩa anh. Trong việc này, có một cái gì rất nghiêm trọng mà tôi tha thiết mong anh lưu ý: sự cấu kết giữa Xuân và Ly Kai. Hoặc, tôi có thể nói chính xác hơn cảm nghĩ của tôi: Ly Kai giật dây Mai Hữu Xuân. Nhu bật cười: - Anh quá lo xa. Thằng Ba Tàu chủ sòng bạc Đại Thế Giới mà giật dây nổi tay mật thám đầu có sạn là Mai Hữu Xuân? Không đời nào… Luân vẫn một mực nghiêm túc: - Anh đừng cười! Ly Kai - nếu cá nhân hắn ta - chẳng có gì phải nói. Nhưng, ai dám cam đoan là Ly Kai đơn độc? Hắn làm mật vụ cho anh, phải đâu vì lý tưởng? Hắn mà có lý tưởng! Vì tiền, liệu anh trả cho hắn cao hơn mọi tổ chức tình báo khác không? Đài Loan. Tại sao Đài Loan không dùng hắn? CIA. Điều này thì quá rõ rồi. Vụ Bình Dương năm kia, hắn bao che cho Bá Thượng Đài bề ngoài mua sắt phế thải, bề trong tiếp tế cho bọn Phạm Văn Bời, Trung Cộng… Đây mới là tai họa. Tôi biết đại diện của Trung Cộng tại Chợ Lớn, tên Lâm Sử. Phức tạp lắm. Nhưng phức tạp hơn mọi phức tạp là - tôi suy luận thôi - các đầu mối ấy thống nhất qua một gã tên Dương Tái Hưng. Dương Tái Hưng là gì, tôi chưa nắm chắc, song có vẻ một tên điều phối các hoạt động tình báo quốc tế ở đây… Mai Hữu Xuân mà dính với Ly Kai thì có nghĩa Phòng nhì Pháp cũng dự vào trò chơi quy mô này… Anh còn nhớ Ymơ Eban, Kossem… Nhu thừ người. - Ta khử quách Ly Kai! - Nhu mím môi. - Chớ… - Luân hấp tấp - Ta dùng Ly Kai làm kẻ dẫn đường, tốt hơn… Tôi nhắc anh lần nữa: Mai Hữu Xuân. Đó mới là kẻ mà anh cần để mắt. Tiếc là bác sĩ Trần Kim Tuyến thua Mai Hữu Xuân đến mấy cái đầu! Luân ra về. Chỉ là một cú của Mai Hữu Xuân? Sự thật như Nhu nói hay từ sáng kiến của Nhu? Nhu thực hiện một bước làm lành với Pháp qua Mai Hữu Xuân? Nhu ngại Luân quá gần gũi với Mỹ? Khả năng sáng kiến của Mai Hữu Xuân có vẻ hợp lý hơn. Nhu từng muốn mình làm đầu cầu quan hệ với “phía bên kia” mà! Cũng không hẳn. Biết đâu chính vì muốn kiểm tra xem mình còn giữ quan hệ với “phía bên kia” hay không mà Nhu bày trò này… Do Mai Hữu Xuân khởi xướng - như Nhu cho biết - thì là chuyện hiểu được, nhưng hắn hành động ăn khớp với cái gì, cái gì trực tiếp nhất thúc giục hắn phải hấp tấp… Luân nhớ lại thái độ của Nhu. Anh ta dường như chờ mình tới và có sẵn cách lý giải… Vũ Huy Lục? Còn hay mất? Có đúng là Nhu và Xuân không dính vụ Lục không? Một vụ riêng lẻ, ngẫu nhiên mà trùng hợp của vụ kia thôi? Hay là một “con tin” mà kẻ thù coi như chủ bài bắt anh phải quy hàng? Trong tất cả các người được Mai Hữu Xuân chú ý, chỉ có Quyến, Lục là hiểu biết công việc thật của anh. Quyến thì anh không ngại. Một đảng viên. Lục dù sao cũng còn mới… Nhưng Luân gạt liền ý nghĩ chưa trọn tin Lục! Không, Lục chết thì chết, không đời nào… Xe về đến nhà, Luân quyết định mời tất cả những người bị bắt cóc đến. Anh điện thoại báo cho Nhu biết quyết định của anh và đề nghị Nhu cho bác sĩ Tuyến cùng dự cuộc gặp gỡ đó với anh. Nhu đồng ý ngay. --- (1) Phương pháp loại trừ. (2) Tiêu cực. (3) Bố ráp, bắt gom. Phần 6 - Chương 7 Nhưng, Luân chưa bắt đầu cuộc họp mặt các nạn nhân thì Nhu đã gọi Luân vào dinh Độc Lập. - Anh cứ để việc đó cho bác sĩ Tuyến lo, có cô Dung thay anh. Tôi cần gặp anh gấp… Luân lại lên xe. Chuyện gì? Hay là Nhu không muốn các vụ bắt cóc phơi bày trần trụi mọi khía cạnh mà chính anh ta không còn chổ núp? Một cú đánh lén và bây giờ, anh ta sợ dấu vết? Luân tư lự mãi. Thạch thỉnh thoảng liếc Luân qua kính chiếu hậu - vụ khách sạn Vị Lai thật kinh khủng với Thạch. Tại sao những người Quốc gia cư xử với nhau đến mức ấy? Tại sao ông Nhu ký giấy phép cho Ly Kai bắt anh? Nếu anh lọt vào tay chúng, chí ít cũng một trận đòn mềm xương. Tất nhiên, chúng bắt anh vì trung tá. Mà trung tá với ông Nhu rất thân kia mà! Tại sao? Trung tá vừa thoát chết ở Kiến Hòa - do Việt Cộng chủ mưu - bây giờ lại bị Quốc gia rình rập. Kỳ cục thấy bà… Nhu đón Luân, không được vui. Anh ta đẩy cặp hồ sơ dày cộm cho Luân. - Anh đọc đi… “Bằng chứng…” - Luân nghĩ về mình và như một phản xạ, đặt tay lên bụng. Anh lật cặp hồ sơ. Và anh thở phào - cố nén không để Nhu nghe. Té ra Lê Thiệu và Hoàng Trọng, hai trí thức, gửi đơn cho Tổng nha thông tin xin xuất bản tờ nhật báo Anh ngữ, lấy tên Saigon Daily News (1). Đơn xin chỉ có một tờ giấy đánh máy, nhưng hồ sơ thì đủ thứ: ý kiến của Tổng nha thông tin, Tổng nha cảnh sát, Phòng nghiên cứu chính trị, Tổng ủy tình báo… kèm lý lịch của người đứng đơn - do các cơ quan an ninh sưu tra - cùng bản chụp các bài báo của hai người viết đăng rải rác trên báo Mỹ, phần lớn xoay quanh vấn đề chính trị và kinh tế quốc tế. Luân lật các bài báo - khá nhiều - thấy Nhu gạch bằng bút chì đỏ với các dấu hỏi đậm. Lý lịch của Lê Thiệu và Hoàng Trọng cũng bị Nhu gạch đậm những đoạn liên quan đến cấp bằng của hai người - Michigan và Princeton. - Tôi bảo ông Ngô Trọng Hiếu dứt khoát bác đơn này. Ta đã có tờ Sài Gòn Post, ở Sài Gòn mấy người đọc được tiếng Anh mà có tới hai tờ báo Anh ngữ? Một Sài Gòn Post, một Journal D’Extrême (2) là đủ. Không khéo, các tay thân Pháp so bì, đòi ra thêm tờ Pháp ngữ nữa. Luân hiểu rằng Nhu chưa nói điều chủ yếu khiến anh ta nổi nóng. Và, nó đây: - Tôi không chịu nổi lối xấc xược của mấy tên trí thức vừa về nước. Đơn xin ra báo mà phó bản gửi khắp thiên hạ: Đại sứ quán Mỹ, Phòng thông tin Mỹ! Chúng nó khong xin ra báo, chúng nó yêu sách… Tôi không cho, để xem chúng nó làm gì… Đồ… đồ cặn bã! Câu chót, Nhu rít qua kẽ răng. Bây giờ, Luân lấy lại bình tĩnh. Có thể các vụ bắt cóc xảy ra đúng như Nhu giải thích. Điều mà Nhu quan tâm lại là thêm một tờ báo tiếng Anh - với sự nhạy cảm, Nhu nhìn tờ báo như một quân cờ nữa Mỹ gí vào anh em Tổng thống. Thiệu và Trọng là ai. Luân chưa rõ song chắc tờ báo sẽ quấy rối chế độ ở mức nào đó. - Anh nói hết chưa?… Anh nghe tôi… Giọng Luân thong thả, chứng tỏ anh đã suy nghĩ kỹ, rất kỹ. Nhu hiểu như vậy. - Anh nói đi… - Có lẽ các sự kiện không êm ả tác động thần kinh anh. Theo tôi, sự khôn khéo hiện nay có giá trị hơn bao giờ hết. Tôi nhớ một lần đã nói với anh: tòa đại sứ Mỹ cao thêm một tầng, dinh Độc Lập thấp đi một tầng. Ta đang làm việc với nước Mỹ của Kennedy, giữa thời buổi kế hoạch Staley - chưa được Nhà Trắng ký, song đó chỉ là thủ tục - và nhất là sau sự cố 11-11, với không phải vài trăm cố vấn Mỹ mà cả vạn, với không phải một MAAG (3) mà là một MAC (4). Ngân sách Việt Nam Cộng hòa, anh nắm vững hơn tôi, tính bằng Mỹ kim. Khái niệm chủ khách bắt đầu phá với cách định nghĩa thông thường. Và, kéo vào nước ta cả ngạn ngữ: People give nothing for nothing! (5). Quân lực Việt Nam Cộng hòa vị tất giữ nguyên mãi lời thề trung thành khi mà các phần Việt Nam Cộng hòa trên họ thu hẹp đến mức chỉ còn cái thể xác. Áo, giày, thắt lưng, súng, mũ, bữa ăn, cách bò toài, điếu thuốc lá… Ngay ngôn ngữ vị tất còn thuần khiết. Ngay thể xác, người Mỹ trả lương… Anh thấy các bảng hiệu la liệt khắp Sài Gòn không? Trường dạy tiếng Anh mọc, chưa chắc nấm đã nhanh bằng! - Tức là, theo anh, ta nên thuận cho ra một tờ báo Anh ngữ nữa, dù biết rằng tờ báo đó chẳng dành cho ta lấy một gramme cảm tình? - Nhu hỏi, giọng pha chế giễu… - Đôi khi, chúng ta buộc phải gật đầu nhiều yêu sách tệ hại hơn gấp trăm, nghìn lần… - Luân kiên trì thuyết phục. - Anh nói hơi nhiều về tài chính… Đúng, Mỹ nắm ngân sách của ta. Song, nếu chỉ riêng về tiền - tôi nói đô-la - tôi không ngại lắm… - Anh không ngại? - Luân hơi lạ, mang máng về một quan điểm chính trị nào đó của Nhu, một đường lối “thắt lưng buộc bụng” chẳng hạn. Anh định cười. Song Nhu đã bảo: - Tôi có cách… Đến một lúc nào đó, anh sẽ hiểu. Còn bây giờ… Nhu thở dài. Anh ta rút tờ báo hằng ngày, liếc qua tựa chạy dài tám cột: Đại đức Thích Nhật Thịnh, tiến sĩ thần học, thuyết trình ở Hội Việt Mỹ về vấn đề bình đẳng tôn giáo trong xã hội dân chủ. Luân vừa theo dõi Nhu vừa nói tiếp: - Khi Tổng thống Kennedy nhấn mạnh rằng quân nhân Mỹ ở Việt Nam có quyền nổ súng, tôi không cho đó là câu tuyên bố đơn thuần quân sự, đơn thuần xác lập thế đứng mới của quân nhân Mỹ trước đối phương. Và, điều này mới thật đáng lưu ý: hơn mười nghìn quân Mỹ chỉ vừa vặn một đội tiền trạm, nếu người Mỹ không định đùa với chiến tranh. Nhu gạt cặp hồ sơ sang bên - dấu hiệu cho biết tờ Sài Gòn Daily News sẽ được phép xuất bản. Như tiện tay, Nhu mở tờ Sài Gòn Post, liếc qua. - Công báo! Nhu chán nản - Khi có Sàigòn Daily News, tờ này phát không chưa chắc có người đọc… Luân hiểu rõ nỗi lo lắng của Nhu. Công giáo sẽ mất dần vị trí độc tôn mà chế độ xây đắp từ bảy năm nay, cũng như Diệm nằm trong hàng tá nhân vật - Mỹ rộng đường chọn lựa… - Anh Luân nè! - Nhu chồm sát Luân, hạ thấp giọng - Tôi có cảm giác là đã đến lúc chúng ta chọn interlocuteur (6). - Với Nguyễn Tôn Hoàn, hay Thích Tâm Châu, hay Mai Hữu Xuân, hay Phan Huy Quát? Cựu hoàng Bảo Đại chăng? Trần Văn Tuyên chăng? Luân bày hàng xén. Nhu nhăn mặt: - Tôi nói nghiêm chỉnh… Với đối thủ khó chơi nhất! - Maitre (7) Nguyễn Hữu Thọ? - Anh đừng cho tôi tung hoả mù. Tôi đã suy tính kỹ. Đối thoại trong lúc chúng ta còn đủ yên cương… Đúng, Mặt trận giải phóng, hoặc, trực tiếp với Hà Nội. Nhu nói, ngả người, mắt ngó lên trần. Cái logic khắc nghiệt của cuộc sống đun đẩy tay đệ nhất mưu sĩ triều Ngô vào bước phiêu lưu này. - Tôi không phản đối sáng kiến lớn của anh và tôi cũng tin là anh đã suy tính kỹ. Nhưng, theo tôi, tình như quyết định của anh đến trễ. Trễ trên hai nghĩa: người mà anh muốn đối thoại e rằng họ không công nhận tư cách đối thoại của chúng ta, hai là đệ tam nhân có chịu cho anh chơi cây đàn thứ nhất không… Sự thể lần lần nghiêng về hướng người Mỹ và Việt Cộng giành hết mặt bằng của sân khấu! Đôi vai của Nhu rủ xuống. Chẳng qua Luân nói bằng lời những cái Nhu nhẩm trong óc… - Không! Tôi sẽ chẳng bao giờ chịu số phận của kẻ lấp ló bên cánh gà! - Nhu chợt rống lên, đôi mắt ửng nhiều đường gân máu. - Hơn nữa, thương lượng là việc hệ trọng… - Luân làm vẻ không quan tâm đến tình trạng gần như động kinh của Nhu, tiếp tục nói - Nếu chỉ vì bị ép mà ta nảy ra ý thương lượng, nghĩa là thương lượng chỉ nằm trong mục đích đe dọa… Đe doạ hay giận dỗi, cũng thế thôi… Nếu thương lượng theo chiều hướng đó thì rốt cuộc rất nguy hiểm. Việt Cộng không tin ta. Người Mỹ thêm cớ để xa ta. Có bao giờ anh tính rằng giữa anh và Việt Cộng có một chỗ gần gũi nào đó không? Không có thì đừng nói đến thương lượng… Tôi nhắc lại: hậu quả sẽ rất nguy hiểm… Có thể có một lúc nào Nhu tự ví mình cỡ Napoléon. Nhưng, bây giờ trước mặt Luân, Nhu là một Napoléon sau trận đại bại ở Mátxcơva - bao nhiêu hào khí tan biến, còn lại màu da mặt tai tái và đôi môi thâm. - Tôi chưa hoàn toàn thống nhất với anh. - Nhu nói, uể oải - Ta còn trở lại đề tài này… Rồi Nhu đưa ngón tay lên miệng: - Between! (8) Luân cười thông cảm, đứng lên: - Vụ Mai Hữu Xuân… - Thằng cha phá rối… - Nhu cau mày - Tôi đã sạt nó một trận. Nó thề đó là hành động cuối cùng của đời nó va chạm với anh. Nó xin phép được gặp anh… - Tôi gặp ông ta để làm gì? - Luân gằn giọng - Nói thật, nếu cần chứng minh mối quan hệ hiện nay giữa ông ta với Savani, trùm Phòng nhì Pháp, tôi chẳng có một chút khó khăn nào… Tôi không cần làm vì thừa biết anh nắm mọi ngóc ngách. Nhưng… Luân ngó thẳng Nhu - và Nhu lẩn cái nhìn tựa phóng hai tia lửa đó. - Nhưng, tôi mong anh đừng dùng Mai Hữu Xuân để balancer (9) với tôi. Mai Hữu Xuân là cái gì? Tôi không phản đối anh dùng ông ta, mặc dù tôi luôn nhắc anh: một con dao có thể đâm vào lưng anh bất cứ lúc nào. Nhưng ông ta là hạng không hề biết sỉ nhục… - Sao anh lại nghĩ như vậy? - Nhu cười gượng - Tôi không bao giờ dùng gã để đối chọi với anh. Tôi biết gã là ai và… - Nhu cười lớn - đem gã chọi với anh thì tôi cầm chắc cái thua trong tay… Luân toan nói thêm, điện thoại reo. Nhu cầm ống nghe và kêu thảng thốt: - Vậy sao… Đại sứ an toàn không?… Đang lùng hung thủ?… Được, tôi sẽ cho người của An ninh Phủ tổng thống đến ngay… Nhu gác máy, tay hơi run, gác mãi máy mới chịu nằm trong ổ. - Đại sứ Nolting vừa bị ám sát. - Sao? - Đến lượt Luân thảng thốt. - Hai tên Việt Cộng đi môtô ném lựu đạn vào xe đại sứ Nolting tại góc đường Pasteur và Trần Quý Cáp. Lựu đạn lọt vào xe nhưng không nổ. Hung thủ chạy thoát. Nhu không thể nghe tiếng thở dài nuối tiếc của Luân. - Đúng là Việt Cộng không? - Luân hỏi. - Tôi cũng ngờ ngợ. Sao lựu đạn lại không nổ? Tôi phải gọi các nơi… Luân chào Nhu, ra về. “Thêm một “pha” ngoạn mục nữa trong vở diễn sắp đến hồi gay cấn nhất”. Luân nghĩ thầm dù anh không thể xác định ý nghĩa chính xác của vụ ném lựu đạn. Vũ Huy Lục. Luân trở lại số phận của Lục. Phải làm cho ra lẽ. Tất nhiên, “làm cho ra lẽ” không có nghĩa đút đầu vào tròng của chúng. Khó khăn hơn cả: vẫn chưa rõ “chúng” là ai, Lục ra sao rồi? Nước mắt chực trào - Lục có bề gì, lỗi ở Luân. Giá anh ta cứ làm việc cho Trần Kim Tuyến và lái xe, chắc yên ổn. Báo cáo của Luân về Lục, mãi không thấy anh Sáu Đăng hay A.07 cho nhận xét - cũng như nhiều báo cáo khác. * Lúc mà Luân băn khoăn trăm thứ thì tại chợ Bến Thành xảy ra một sự việc thu hút các nhà báo.Buổi sáng, một thiếu phụ - rất đẹp và lộng lẫy - rời chiếc xe Chrysler đen đậu bên đường Phạm Ngũ Lão cùng một ngưòi đi theo, vào chợ. Người đi theo đeo súng, do đó, người ta đoán bà là một mệnh phụ. Bà mặc kiểu áo “nâng cao”, kiểu áo hở cổ nổi tiếng của đệ nhất phu nhân Trần Lệ Xuân: áo để trần hẳn vai và cho phép bộ ngực ngoi ra đến gần nửa. Bà bước vào chợ - mọi ngưòi đàn ông dán mắt vào bà, còn bà, kiêu kỳ bước từng bước núng nính. Bỗng, một người nào đó - một phụ nữ đứng tuổi - từ trong đám đông khách mua bán, nhảy xổ tới trước bà. Từ tay người phụ nữ, một lon sữa bò vụt bắt tới. Bà ôm mặt thét to: “Trời đất ơi!” Người cận vệ không tài nào phản ứng kịp - người chen nhau đông nghịt. Bà ngã xuống, oằn oại. Mãi sau, xe cấp cứu mới đến. Báo chí tường thuật: Bà Trúc Đào, vợ trung tá Vũ Liệu, chỉ huy thiết giáp, bị tạt ác-xít… Báo chí đăng ảnh một bộ mặt lở loét khủng khiếp… Nhà báo Fanfani săn tin đâu đó, viết một bài ngắn: Dư luận cho rằng bà Trúc Đào bị đánh ghen. Bà có quan hệ với một quan chức cao cấp Mỹ và đó là hậu quả. Ai chủ mưu? Dư luận cho rằng một bà khác - trong cuộc chạy đua quanh “mốt” áo dài… Một tờ báo tiếng Việt làm một phóng sự giật gân - Trúc Đào chiếm nửa trang báo. Nhưng, Tổng nha thông tin ra lệnh chấm dứt… Trong khi đó, đại sứ Mỹ Nolting quyết định Cơ quan tình báo Mỹ phải điều tra, bởi lẽ ông có mối quan hệ bạn bè với trung tá Vũ Liệu. Cơ quan tình báo Mỹ chưa kịp chấp hành lệnh của Nolting thì nhận được lệnh hủy bỏ cuộc điều tra cũng của Nolting: nói không cần thiết. Người nắm được tất cả mọi việc là Tony Forting, cận vệ của Nolting. Tony đón Trần Lệ Xuân vào nhà riêng đại sứ - bà đến chia mừng đại sứ vừa thoát nạn - và sau gần hai giờ đồng hồ, tiễn bà, Foriting phát hiện mớ tóc bới rất kiểu cọ của bà Nhu không như cũ và cũng phát hiện trên sơ mi đại sứ vài dấu son môi… Nolting, tần ngần vào phòng. Hẳn ông đang so sánh giữa Trúc Đào và Trần Lệ Xuân - lần đầu tiên ông khám phá người đàn bà danh tiếng như cồn ở Việt Nam Cộng hòa… - Chỉ một lần thôi, như cô ta nói? Đâu được! - Nolting lẩm bẩm. * - A… lô!Luân vừa nhấc máy thì nghe tiếng James Casey. - Alô! Trại biệt kích Nha Trang vừa báo: một xác người tấp vào bãi biển. Mặt mũi đã rữa, quần áo không có… Nhưng vóc dáng thì rất giống chuẩn úy Lục. Nạn nhân chết vì hai phát đạn súng ngắn xuyên ngực và bụng. Cuộc khám nghiệm để xác nhận đang tiến hành. Sẽ có kết quả ngay… Luân gác máy, rụng rời… Thế là hết Vũ Huy Lục. Dung bật khóc… Điện thoại reo. Bây giờ thì Mai Hữu Xuân nói chuyện với Luân: - Đã tìm được xác Vũ Huy Lục. Tuy cuộc khám nghiệm cần thêm một ít thời gian nữa mới hoàn tất, sóng chắc chắn là Vũ Huy Lục. Ông Lục bị giết. Tôi cam đoan với trung tá: tôi không hề hay biết việc này và cam đoan thêm, tôi sẽ lôi hung thủ ra ánh sáng. Khả năng nhiều nhất là Việt Cộng… Tôi phải làm bởi trung tá, tôi dám chắc, vẫn nghi ngờ tôi. Tôi có lỗi, song mong trung tá hiểu, tôi thực hiện chức vụ và bây giờ tôi sẵn sàng được kề vai với trung tá nếu trung tá đồng ý… Luân không ừ hử, lão quỷ quyệt như chồn cáo này giăng thêm cái bẫy gì nữa đây. Điện thoại reo. Luân bực mình, không thèm nhấc máy. Dung phải làm thay. Hóa ra, Nhu gọi: - Đại Hàn lại đảo chính nữa, anh biết chưa? Chưa biết? Park Chung Hee (10) lật Chang Do Yung. Cả Pak lẫn Chang, Luân đều mù tịt. Nhưng Nhu đặc biệt quan tâm đến sự cố tận Nam Cao Ly. Cái bóng ma đang ám ảnh Nhu là quân đội mà nạn đảo chính do họ chủ xướng giống cơn dịch lan tràn khắp thế giới. Nhu chỉ thông báo bấy nhiêu rồi cúp máy. Luân gieo phịch người trên ghế, ôm đầu. Ai giết Lục? Vì sao? Điện thoại reo. Vẫn Dung nhấc máy. - Alô, xin lỗi, ai ở đầu dây… Dạ! Tôi là Thùy Dung… Ủa! - Dung che máy, gọi Luân, rất khẽ. - Hả? - Luân vụt nhảy lên, giành máy. - Alô… --- (1) Sài Gòn Nhật báo. (2) Nhật báo Viễn Đông (3) Military Assistance and Advisory Group: Phái bộ viện trợ quân sự. (4) Military Assistance Command: Bộ chỉ huy viện trợ quân sự. (5) Không ai cho không cái gì cả. (6) Người đối thoại. (7) Luật sư. (8) Giữa hai ta. (9) Cân bằng. (10) Park Chung Hee (1917-1979), nhà độc tài, tổng thống Hàn Quốc (1963-1979), người thực hiện của đảo chính quân sự năm 1961. Phần 6 - Chương 8 Mùa mưa năm nay ảm đạm hơn mọi năm. Thông báo chiến sự hằng ngày dày đặc tin tức chẳng lành đối với Việt Nam Cộng hòa; ngay dù trên báo chí mà Việt tấn xã đã hạ đến mức thấp nhất tổn thất của phía chính phủ và thổi lên đến mức phi lý thiệt hại của Việt Cộng, từ sự kiện đụng độ thường xuyên đã gieo trong dân chúng ấn tượng xấu về tình hình an ninh khắp lãnh thổ. Ngày 16-7, tiểu đoàn nhảy dù giao chiến từ giữa trưa kéo dài 6 giờ liền với một tiểu đoàn Việt Cộng mang số hiệu 502 tại vùng trống trải Cao Lãnh. Đại tá Cao Văn Viên, thôi nhiệm vụ tham mưu biệt bộ, đảm trách tư lệnh Dù, trực tiếp chỉ huy trận đánh ác liệt này. Tất nhiên, quân Dù mất có ba, còn tiểu đoàn chủ lực thuộc quân khu II của Việt Cộng, tức Trung Nam Bộ, thì coi như bị loại đến một phần ba quân số - đó là bản tin của Việt tấn xã. Báo cáo tuyệt mật của đại tá tư lệnh Dù gửi đại tướng Tổng tham mưu truởng lật ngược con số. Trận đánh được đại tá mô tả như “quân ta rơi vào trận địa phục kích giăng sẵn của Việt Cộng, theo chiến thuật “công đồn đả viện”. Căn cứ Mỹ Quí, tiền tiêu của Bảo an Kiến Phong đóng sâu nhất vào vùng Cộng sản ở Đồng Tháp Mười báo động khẩn: giữa đêm, Việt Cộng dùng kích bích pháo và đại bác không giật đánh hư nặng vòng phòng thủ rìa căn cứ lấn chiếm từng chiến hào; quân trú phòng gồm một đại đội tăng cường và một cố vấn Mỹ đề kháng anh dũng, nhưng không thể chặn cái “biển người” mỗi lúc một thít vòng vây. Bộ chỉ huy viện trợ Mỹ nhận bằng đường liên lạc vô tuyến điện riêng, lời cầu cứu SOS của viên cố vấn Mỹ. Họ chưa thể tùy tiện tung quân – chưa đủ quân số chiến đấu, nhất là quân đổ bộ đường không; vả lại, Kennedy chưa bật đèn xanh – nên trao đổi với Bộ tổng tham mưu Nam Việt. Đại tướng tổng tham mưu trưởng điều tiểu đoàn Dù xuất trận và lệnh cho đại tá lữ trưởng phải đích thân chỉ huy. Tin thì khẩn cấp – coi như căn cứ Mỹ Quí thất thủ đến nơi – song suốt đêm, Việt Cộng chỉ đến vòng rào cuối mà không tấn công thêm một bước nào. Pháo sáng soi rõ còn hơn ban ngày cả vùng. Đại bác Cao Lãnh rót tới tấm quanh đồn, nhất là tập trung dọn bãi trên một cánh đồng rộng. Tờ mờ sáng, khu vực AD6 ném bom ngót một giờ. Tám giờ, trời quang, gió nhẹ, hơn chục Dakota nhả trên không Đồng Tháp trọn tiểu đoàn Dù tinh nhuệ nhất – một trong ba tiểu đoàn của lữ đoàn Dù. Tiểu đoàn chạm đất an toàn tuyệt đối. Đại tá Viên đáp trực thăng đến giữa đội hình tiểu đoàn vào 9 giờ. Liên lạc với đồn Mỹ Quí nối được ngay. Vẫn lời kêu cứu như kẻ sắp chết. Quân Dù thận trong tiến về căn cứ, chia làm hai mũi. Họ lội trên đồng, nước cao độ hai tấc, khoảng cách chừng 5 cây số, họ mất gần hai tiếng. Hai máy bay trinh sát bay thật cao – của Bộ chỉ huy viện trợ Mỹ - thúc hối họ. Còn vài trăm mét nữa. Căn cứ Mỹ Quí phơi mình dưới ánh nắng. Có vẻ như Việt Cộng đã rút. Đài liên lạc lên tiếng đều đều… Và, rõ ràng căn cứ vẫn chờ đón quân tiếp viện. Vào cái phút mà tiểu đoàn Dù thở phào, đặt chân lên còn đường lớn đến vào đồn thì súng nổ. Và súng rộ bốn phía, kể cả phía đồn. Hai khẩu trọng liên bố trí trên tầng cao – ngọn cờ ba sọc vẫn phấp phới – dường nín thở khạc những tràn đạn khủng khiếp. Tiểu đoàn Dù bị giã như người ta giã giò lụa. Buồn cười nhất là đài trong căn cứ không ngừng phát lời kêu cứu của quân dân Mỹ và hai máy bay trinh sát nhất mực thúc giục… Đại tá Viên – nhờ Trời Phật thôi – chỉ bị thương nhẹ vào tay, chạy thục mạng. Khi tỉnh hồn, đại tá biết bị mắc lừa. Đồn Mỹ Quí chắc rơi vào tay Việt Cộng trong đêm. Bây giờ, nóc đồn đã cắm cờ sao vàng nền đỏ xanh. Máy bay khu trục hủy diệt đồn – hẳn hủy diệt số xác lính trú phòng… Báo cáo tuyệt mất đó không tới tay tổng thống và cố vấn Ngô Đình Nhu. Tổng tham mưu trưởng và các cộng sự bàn sửa chữa báo cáo với ý kiến đồng lõa của đại tá lữ trưởng. Nó không quá thô bỉ như tin của Việt tấn xã song màu sắc nói chung cũng rực rỡ. Cái rầy rà là viên thượng sĩ Mỹ mất tích. Cũng may, đó là một thượng sĩ da đen, Bộ chỉ huy của tướng Harkins dễ quên anh ta… Một tuần sau vụ Mỹ Quí, cũng giữa ban ngày, đoàn công xa chạy trên đường 14, ngoại ô xã Ban Mê Thuột – lâu nay an toàn – bị phục kích. Quận trưởng sở tại, hai dân biểu quốc hội và phó tỉnh trưởng Darlac chết. Tháng 8, thông báo chiến sự giới thiệu thêm phiên hiệu nhiều nhiều tiểu đoàn của Việt Cộng: 502, 506, 514, tiểu đoàn Tây Đô, Đồng Tháp… Tháng 9, mở đầu bằng trận đánh lớn ở Toumơrông, đông bắc Kontum. Đồn Poko và Đakka bị tràn ngập. Quân số Việt Cộng, như báo cáo lên tới một nghìn. Giữa tháng, tỉnh lỵ Phước Thành mất. Lần đầu tiên, Việt Cộng đánh chiếm một tỉnh lỵ. Và, cũng lần đầu tiên báo chí Sài Gòn đăng cáo phó: Thiếu tá tỉnh trưởng Nguyễn Minh Mẫn, đại úy tỉnh phó Nguyễn Thành Tiết đã “anh dũng đền nợ nước” tại Phước Vĩnh. Quân lực Việt Nam Cộng hòa vất vả tái chiếm Phước Vĩnh – thật ra, chẳng giao chiến nhưng phải băng rừng suốt mấy ngày: tỉnh lỵ trống trơn, xác quân lính chính phủ được Việt Cộng chôn cất trước khi rút lui, mấy nghìn di cư bỏ Phước Thành, tìm nơi khác làm ăn. Mũi dùi mà chính phủ toan thọc vào giữa chiến khu Đ đã gãy: tỉnh Phước Thành bị quên lãng, không có một lời giải thích. Đầu tháng 10, sự cố còn phức tạp hơn. Đại tá Hoàng Thụy Năm mất tích. Ông là trưởng phái đoàn Việt Nam Cộng hòa bên cạnh Ủy hội quốc tế kiểm soát đình chiến ở Việt Nam – thành lập theo hiệp nghị Genève 1954, gồm Ấn Độ, Canada và Ba Lan mà hoạt động bị chính phủ Việt Nam Cộng hòa vô hiệu hóa ngay vào những ngày đầu. Điều tra của công an cho biết: Đại tá Năm có trại chăn nuôi riêng ở xã Linh Chiểu, sát tỉnh lỵ Thủ Đức, hôm đó, 1-11-1961, như thường lệ, ông và một cận vệ lên trại vào xế chiều. Xe vào cổng trại, đổ ngay thềm ngôi nhà nghỉ. Người trại trưởng đón ông. Ông vào phòng rửa mặt. Cận vệ và tái xế yên trí ông làm việc với trại trưởng, rủ nhau ra ngoài cổng uống bia. Mãi mặt trời sắp lặn, cận vệ vào tìm ông theo lời ông dặn, để về Sài Gòn trước trời tối. Ông bến mất, cùng với trại trưởng. Nơi ông ngồi, đồ đạc vẫn nguyên vị trí, nghĩa là không có xô xát. Không ai trong trại thấy ông – mỗi khi lên trại, ông thường mặc áo sơ mi ngắn tay, đầu trần. Gặn hỏi mãi, sau cùng, một nhân viên cho biết, lối 4 giờ, ba quân nhân từ phòng trại trưởng đủng đỉnh đi ra phía sau trại, một trong ba người khá to con; một trong ba người hình như bị thương nên quấn băng kín mặt. Họ mang ba lô dã chiến… Người nhân viên không thể xác định có phải đó là đại tá Năm và trại trưởng không vì anh bận cho heo ăn. Cạnh trại là căn cứ của đại đội địa phương quân – quân nhân ra vào trại hằng ngày… Đại tá Năm tự nguyện theo Việt Cộng hay bị bắt cóc? Và, nhất thiết chỉ Việt Cộng tọc tay vào không? Số phận của ông ra sao rồi? Phủ tổng thống quan tâm đặc biệt đến vụ này, mặc dù trên danh nghĩa, đại tá Hoàng Thụy Năm chỉ là một sĩ quan liên lạc “đang ngồi chơi xơi nước”, dành hầu như hết thì giờ chăm sóc khu trang trại với vài nghìn heo giống Yorkshire. Nhu trao đổi với Luân. Anh ta muốn biết, theo Luân, nếu Việt Cộng bắt cóc đại tá Năm thì để làm gì? Thật ra, Luân chỉ gặp Hoàng Thụy Năm trong vài lần ông đến Phủ tổng thống báo cáo tình hình của ủy hội quốc tế. Diệm ít khi nghe. Nhu lại nghe chăm chú. Luân không được dự các cuộc họp mặt như vậy. Anh bảo thật với Nhu là anh chưa rõ nguyên nhân và cũng không có điều kiện để phán đoán. Nhu cắn môi mãi. Rõ ràng anh ta băn khoăn. - Còn nếu không phải Việt Cộng? – Nhu hỏi. - Có khả năng đó sao? – Luân hỏi lại. - Có… tôi cho là có… Rồi Nhu gọi điện sang chỗ bác sĩ Tuyến, dặn phải canh đài Giải phóng và đài Hà Nội xem có tin tức gì của đại tá Năm hay không… Chưa bao giờ Sài Gòn huy động một lực lượng công an, cảnh sát lớn đến như vậy. Cuộc lần dấu đại tá Hoàng Thụy Năm phóng ra nhiều hướng, mà Củ Chi và Bến Cát là hướng chính. Trong ngày, Tổng giám đốc cảnh sát Quốc gia nhận hàng chục cú điện thoại của Phủ tổng thống, hầu hết do Nhu đích thân hỏi han tình hình. Thùy Dung, vì vậy, rất bận rộn. Đêm, cô phải trực đến 11 giờ. Đôi lần, Dung tiếp điện của Phủ tổng thống. Dù quen tiếng nói của Dung, Nhu vẫn không một câu xã giao nào, toàn hạch về cuộc truy lùng. Dung trả lời – chưa kết quả - thì giọng Nhu đanh hẳn, thậm chí quát tháo nữa. Nhu càng bồn chồn, Luân càng thêm cơ sở đánh giá vụ Hoàng Thụy Năm. Năm lãnh một trách nhiệm tối mật nào đó của Nhu. Trách nhiệm gì? Dễ đoán thôi. Trong tư cách trưởng phái đoàn liên lạc với Ủy hội quốc tế. Hoàng Thụy Năm rất có thể thăm dò phái đoàn Ba Lan hoặc Ấn Độ nhờ họ làm môi giới để Diệm tiếp xúc với “phía bên kia”. Có vẻ lần này Nhu quyết rấn một nước cờ chứng tỏ với Mỹ rằng chế độ họ Ngô còn đủ tư cách đối thoại và quyết chọn con đường đối thoại nếu chính sách Mỹ chập chờn đối với “nền đệ nhất cộng hòa”. Rồi đây, kín kín hở hở, Nhu sẽ “khoe” cái nhịp cầu mà anh ta đã lao và đã tìm được mối, một “cây đinh” trong vở tuồng làm nũng. Ở bước khởi sự, Nhu muốn không một ai biết, nhất là người Mỹ. Nước cờ liều lĩnh của Nhu phạm hai sơ hở nghiêm trọng. Một là, nó đơn thuần hù dọa Mỹ; thâm tâm Nhu, cho đến cuối năm 1961 này, không hề nghĩ đến việc tìm một giải pháp chấm dứt xung đột qua thương lượng. Với anh ta và cả gia tộc Ngô Đình, chẳng có một điểm nào gọi là gần gũi giữa phe của họ với Việt Cộng. Cái sơ hở đầu dẫn đến cái sơ hở thứ hai: Mỹ không sợ. Mỹ không sợ vì biết chắc không đời nào Diệm – Nhu thương lượng thật sự với Việt Cộng. Đột nhiên, Hoàng Thụy Năm mất tích. Có dư luận đánh dấu hỏi: Phải chăng Việt Cộng “cấy” Năm vào chính quyền Việt Nam Cộng hòa, bây giờ gọi ông ta ra khu? Lối đoán mò kiểu đó đang thịnh hành ở Sài Gòn. Song, ít người tin, bởi họ Hoàng Thụy cũng là một vọng tộc ở Huế, bản thân Năm cũng chịu ân sủng nhà Ngô rất nặng, đồng thời, là một “cậu ấm” – chẳng thể đủ bản lĩnh luồn sâu, leo cao đến như vậy. Hoàng Thụy Năm bị bắt cóc – dứt khoát rồi. Ai bắt cóc? Ai bắt cóc cũng gây nguy hiểm cho Diệm, Nhu cả. Luân viết báo cáo gửi anh Sáu Đăng. Báo cáo đề xuất: nếu ta bắt Năm thì đề nghị khi tách thật nhanh và tạo một cớ hợp lý để thả Năm ngay. * Công cuộc truy tần đại tá Hoàng Thụy Năm bị cơn bão đột ngột gây khó khăn. Phát xuất từ biển Đông, cơn bão đổ bộ vào bờ biển Tây Nam phần – thật hiếm có. Trong mấy ngày liền, mưa lớn, kéo dài. Mực nước sông Cửu Long lên nhanh cấp kỳ. An Giang, Kiên Giang, Phong Dinh, Chương Thiện, Kiến Phong, Kiến Tường, Long An ngập sâu. Gần một triệu người bị cơn bão – tên quốc tế của nó là Wilda – cuốn sạch nhà cửa. Lối một triệu mẫu ruộng, giữa lúc lúa trổ đòng đòng, chìm dưới nước. bão Wilda quay lại hướng tàn phá ra các tỉnh Trung phần, Quảng Ngãi đến Huế.Trong hoàn cảnh rối ren như vậy, tướng Maxwell Taylor, cố vấn quân sự đặc biệt của tổng thống Kennedy được cử sang thị sát tình hình Nam Việt. Bức thư tay của Kennedy gửi cho Ngô Đình Diệm do Taylor chuyển, nhấn mạnh đến “tình hình Nam Việt biến chuyển ngày mỗi xấu hơn và hiện giờ thì rõ ràng là nghiêm trọng”. Diệm, Nhu tiếp nhận nhận xét của Kennedy như một thứ cảnh cáo. Đưa cho Luân đọc toàn văn bức thư tay – văn chương bóng bẩy song ý tứ thì không thể nhầm lẫn – Nhu lại đi lại trong phòng, lo âu và tức giận đè nặng từng bước của anh ta dù anh ta đi trên thảm len. - Người Mỹ thúc bách chúng ta! – Nhu hằn học. Đúng là Mỹ bổ vây các hướng khép anh em Diệm vào chân tường. Nhưng, câu nói của Nhu còn hàm ý khác: Mỹ bắt buộc anh em họ phải trả đũa ngay. Điều bí ẩn của mọi bí ẩn là Nhu sẽ trả đũa như thế nào, bằng cái gì… Phong trào Thanh niên Cộng hòa mà Nhu là Tổng thủ lĩnh? Phong trào Phụ nữ Cộng hòa mà Trần Lệ Xuân là Tổng thủ lĩnh? Phong trào Cách mạng Quốc gia mà Trần Chánh Thành là Chủ tịch? Hay Quân lực Việt Nam Cộng hòa? Hay là cái gì khác? Nhu là một chính khách sắc sảo. Luân thừa nhận bộ óc của Nhu khác thường: linh hoạt, nhạy bén. Tuy nhiên, thời kỳ mà một ý kiến chỉ đạo đưa ra tạo liền tác động chính trị, thời kỳ đó đã trở nên xưa cũ. Ngay thế lực Thiên Chúa giáo di cư từng là chỗ dựa đáng tin cậy nhất của Ngô triều cũng đang phân hóa. Nói chung, người ta ngao ngán chiến tranh. Những câu phù chú “Cần lao nhân vị”, “thế giới tự do”… mất đến chín phần mười linh nghiệm. Bộ phận còn hăng máu không tìm được lối ra ở cung cách và sức mạnh làm chiến tranh của Diệm – Nhu. Bỗng dưng, sự chọn lựa đặt lên đòn cân: hoặc chế độ tự do của Nam Việt hoặc gia đình tổng thống Diệm. Thực chất trên đòn cân là, Mỹ một đầu, Diệm một đầu. Đối trọng này, vào những tháng cuối năm 1961 thật bất tiện đối với Diệm. - Anh tham gia phái đoàn Việt Nam! – Nhu ngồi xuống ghế, cũng nặng nề như anh ta bước… - Lần này, ngoài Staley, có Taylor… Tôi hy vọng tài ứng phó của anh. Nhu nói, mệt mỏi. Thế là cái mà Nhu phản giáo lại Mỹ trong cơn bị bức bách chỉ có bấy nhiêu. Cả một ý đồ lớn lao còn trông cậy mỗi một tài miệng lưỡi trong một cuộc hội đàm – đúng ra, một cuộc họp mà người Mỹ giành quyền đọc dictée (1), còn người Việt thì ghi chép, ghi chép sao cho khỏi phạm lỗi chính tả. - Tôi vốn kém môn écriture (2) – Luân đùa. Nhu bật cười: - Anh quỷ quái thật. – Rồi Nhu nghiêm trở lại: - Ta cố tranh thủ thời gian, khi lực lượng quân sự ta khá lớn, thế trên chiến trường cân bằng hơn, bấy giờ anh không cần môn écriture nữa, thậm chí không cần môn éloquence (3)… Bấy giờ, anh chỉ gật hoặc lắc đầu… Giấc mơ của Nhu viễn vông thật. Nếu quả đạt tới một thế cân bằng trên chiến trường thì nó phản ảnh thế không cân bằng đến mức anh em Diệm – Nhu không còn là cái gì trên đòn cân cả. Luân hiểu – và, trong thâm tâm, có phần ái ngại cho cách tự làm êm dịu thần kinh của Nhu. - Anh nên nghỉ ngơi… - Luân bắt tay Nhu với lời khuyên bè bạn. - Cám ơn anh! Hình như đây là lần đầu Nhu siết tay Luân chân thành. * Maxwell Taylor – một đại tướng đẹp lão, nhã nhặn – những thứ bề ngoài cần thiết cho một sĩ quan cao cấp mà lý lịch dày đặc những chi tiết. Con đường hoạn lộ của Taylor khá thong dong: 22 tuổi, từ chân tú tài môn khoa học xã hội, tốt nghiệp Viện hàn lâm quân sự; 32 tuổi, giảng viên đại học quân sự và chuyên nghề giảng dạy các đại học quân sự trong và ngoài nước, kể cả ở Seoul, ở Manila. Thông thạo nhiều ngoại ngữ, từng học ở Tokyo, tùy viên quân sự ở Bắc Kinh. Năm 1939, công tác tại ban chỉ huy sư đoàn không quân 82 tham chiến ở Sicile và Ý, năm 1943–1944, chỉ huy sư đoàn không quân 101 ở chiến trường Viễn Tây. Tham mưu trưởng không quân Mỹ ở châu Âu, tư lệnh vùng chiếm đóng Berlin sau Thế chiến, chỉ huy sư đoàn số 8 trong chiến tranh Triều Tiên, tổng chỉ huy quân lực Mỹ ở Viễn Đông và Thái Bình Dương… Tóm lại, một viên tướng Mỹ sừng sỏ, trí thức. Cuộc họp không nghi thức, tiến hành tại một phòng rộng của Đại sứ quán Mỹ, đường Hàm Nghi.Cuộc họp kéo dài ba tuần, nhưng không liên tục. Tướng Taylor thường thị sát các nơi, làm việc với các cơ quan quân sự Mỹ - Việt. Mỗi phiên họp, Taylor nói và gần như chỉ có ông nói. Gọi là cuộc họp – vì hai phái đoàn ngồi đối diện, trên chiếc bàn dài ngăn đôi đính hai lá quốc kỳ - còn thì phái đoàn Việt Nam cắm cổ ghi các ý kiến của Taylor, mặc nhiên như là chỉ thị cần thực hiện. Tức là cuộc họp đi vào khía cạnh kỹ thuật. Trưởng phái đoàn Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Đình Thuần – có một dọc chức vụ: Bộ trưởng tại Phủ tổng thống kiêm bộ trưởng phụ tá quốc phòng, xử lý bộ trưởng đặc nhiệm phối hợp an ninh – cần mẫn hơn ai hết trong việc ghi chép. Người xum xoe thứ hai là Ngô Trọng Hiếu, Bộ trưởng công dân vụ. Cả Thuần lẫn Hiếu đều muốn nhân cơ hội này tự giới thiệu với Mỹ. Vũ Quốc Thúc lộ rõ thái độ kiêu ngạo bởi vì dù sao ông ta cũng đi trước Thuần và Hiếu một bước. Kế hoạch mang tên Staley và ông ta, bây giờ được tướng Taylor bổ sung, gồm ba tác giả: Thúc cực kỳ hãnh diện vì tên ông được xếp cạnh tên Taylor. Tướng Lê Văn Tỵ bàng quang. Với ông, hàm đại tướng và chức tổng tham mưu trưởng trước đây vốn là trò trưng kiểng của Tổng thống Diệm, bây giờ lên giá một chút – ông là trái độn của Mỹ. Thỉnh thoảng, Tỵ vẫn nhớ cuộc đời “binh nghiệp” của ông. Xuất thân đội “chân xanh mắt ếch”, tức là tiểu đội trưởng lính Garde civile locale (4) sau 1945 theo kháng chiến vài tháng, sợ Tây quá, trốn về thành. Tây cho ông ta học lớp pháo binh và phong lon “ách” (5) rồi quan một (6). Khi Tây về nước, ông đeo lon quan ba (7). Tưởng đó là lon tột cùng, ai dè Diệm lại phong ông vượt cấp, lên trung tá. Diệm và Hinh chỏi nhau. Hinh thua trí mụ Trần Lệ Xuân phải sang Pháp, Tỵ được chỉ định thay Hinh làm tổng tham mưu trưởng, quân hàm thiếu tướng. Sau vụ Bình Xuyên, Tỵ lên trung tướng và chẳng bao lâu, đại tướng. Từ chú lính “đơdèm cùi bắp” – chữ gọi đùa hạng binh nhì thời Pháp – bò đến đại úy, Tỵ tốn 30 năm. Từ đại úy đến đại tướng – ông khỏi bò, thiên hạ “ẩy” ông lên – ông cần có 7 năm. Đã quá đủ rồi, sanh sự làm chi cho mệt. Người không hề hé răng suốt cuộc hội đàm là ông. Tướng Taylor, hẳn đã nghe mật báo, thỉnh thoảng liếc trung tá Nguyễn Thành Luân, nhưng không tỏ ra vồn vã. Taylor bắt tay Luân như với mọi người. Cho đến một hôm, lúc mà cuộc hội đàm coi như không còn vấn đề gì để bàn, chỉ chờ tổng thống Diệm thông qua và tổng thống Kennedy duyệt thì Taylor buộc phải tranh luận với viên trung tá Việt ngồi hàng ghế thứ hai sau lưng tướng Tỵ. - Thưa tướng quân, tôi xin phép nêu một băn khoăn. Tất cả chúng ta, ai cũng mong sớm chấm dứt những tháng ngày căng thẳng như chúng ta thấy ở Việt Nam Cộng hòa. Tuy nhiên, liệu rằng ý định đánh bại Việt Cộng trong vòng 18 tháng – nghĩa là đến giữa 1963 – có quá lạc quan không? - Trung tá cho là kế hoạch bình định thiếu cơ sở? – Taylor hỏi lại, giọng điềm đạm, nhưng rõ ràng ông ta cố hết sức kiềm chế. - Tất nhiên! – Luân trả lời, dứt khoát. Tướng Tỵ hơi ngoảnh lại phía sau, nhìn anh. Nguyễn Đình Thuần gõ cây bút trên giấy ra vẻ không ưng ý. Ngô Trọng Hiếu bỉu môi – chỉ bĩu môi cho phía Mỹ thấy. Vũ Quốc Thúc cười lạt và muốn Luân biết ông ta cười lạt. Phía Mỹ, Nolting khoanh tay trước ngực, lặng lẽ. - Tôi chờ lý giải của trung tá. – Taylor nhún vai. - Tôi nêu một chi tiết thôi: trong vòng 18 tháng, chúng tôi không sao huấn luyện đến nơi đến chốn 170.000 tân binh Việt Nam, đó mới tính số bộ binh và chưa nói đến Bảo an. Đối với các binh quân chủng khác, thời gian huấn luyện đòi hỏi lâu hơn… - Luân làm như không để ý chung quanh, nói đều đều. - Có lý! – Taylor kêu lên, song đôi mắt nheo của ông không chứng minh ông đồng ý với Luân. - Có lý, tôi nói về lý thuyết. – Taylor tựa người vào ghế - Nhưng, chúng ta có quyền sáng tạo lý thuyết giải đáp được yêu cầu của chúng ta. Một, mở thêm trường huấn luyện bộ binh; chúng tôi đảm bảo cho các ông huấn luyện viên. Hai, rút ngắn thời gian huấn luyện; bỏ phần chính trị. Nói thật, các ông diễn thuyết dài bao nhiêu chẳng ai để ý đến các khẩu hiệu của các ông. Lính cần biết sử dụng vũ khí. Một tháng là quá đủ, súng trường Garant lợi hại nhưng sử dụng đơn giản. Sáu tháng, với ba hay bốn trung tâm huấn luyện, các ông thừa sức cho ra trường 25.000 quân. Bộ trưởng Ngô Trọng Hiếu cam kết động viên dưới cờ, trong trường hợp cần thiết, nửa triệu lính, đúng không, ông Hiếu? - Đúng! – Hiếu trả lời hấp tấp. - Như vậy, chẳng những quân số 170.000 sẽ được huấn luyện mà quân lực các ông còn có dự trữ lớn… Tôi đảm bảo quân lực Việt Nam sẽ được trang bị tốt. Các ông tin, vũ khí bộ binh Mỹ không tồi lắm đâu và nhất là không thiếu lắm đâu. Riêng về các binh quân chủng, đúng là khó. Song, trong khi quân lực Việt Nam chưa cáng đáng hết các yêu cầu yểm trợ chiến đấu, tướng Harkins sẽ giúp. Pháo, giang thuyền, không quân, thiết giáp… lần lượt các ông sẽ có đủ người sử dụng thành thạo vũ khí Mỹ. - Tôi được biết, qua bà Ngô Đình Nhu, thanh nữ Việt Nam đang được động viên và huấn luyện! – Nolting bổ sung. - Tuyệt! – Taylor tặc lưỡi – Chúng tôi sẽ trang bị cho lực lượng nữ binh đó vũ khí thích hợp, cả quân phục nữa… Trung tá Luân thấy thế nào? Luân ngó thẳng Taylor, trước câu hỏi khiêu khích của ông ta. - Thưa tướng quân, tôi càng thấy kế hoạch 18 tháng không thể đạt nổi. Rất đơn giản, những người gọi là lính của Việt Nam Cộng hòa chỉ “lính” ở bộ quân phục và khẩu súng. Dù các nhà báo gán cho hiện tượng đánh nhau ở Nam Việt là gì – chiến tranh đặc biệt, chiến tranh chống lật đổ, nội chiến, chiến tranh đơn phương, chiến tranh chống khủng bố… - chiến tranh vẫn là chiến tranh. Chúng ta – nước Mỹ và Việt Nam Cộng hòa – cần những chiến binh chứ không cần những người máy cầm súng. - Thế, trung tá tin rằng kéo dài thời gian có lợi cho chúng ta? Trung tá tin rằng chính phủ Nam Việt đủ sức thắng Việt Cộng nhờ tiêm nhiễm vào con người Việt Nam một thứ lý tưởng nào đó? Tôi không cho rằng Bắc Việt không thâm nhập vào Nam Việt. Có đấy. Song, tôi cũng không cho rằng sự thâm nhập ấy đạt đến một số lượng đủ thành lực lượng. Không, lực lượng chống các ông là người Nam Việt, chủ yếu là người Nam Việt, thậm chí, có cả người di cư nữa. Bảy năm, các ông không tiêm nhiễm nổi con người, các ông cần bao nhiêu nữa? Tôi cần 18 tháng. Ấp chiến lược, xương sống của kế hoạch. Ấp chiến lược kết hợp với tạo vùng trắng các mật khu và khu tiếp giáp, ngăn đường thâm nhập từ rừng núi. Mười tám tháng vừa vặn cho chừng đó việc làm… Taylor càng nói, càng hăng. - Xin lỗi tướng quân, nếu Việt Cộng lại từ các ấp chiến lược đánh chúng ta, hoặc tôi diễn đạt rõ hơn – Việt Cộng đánh chúng ta bằng các ấp chiến lược – thì chúng ta sẽ làm gì? Tướng quân vừa có một nhận xét chí lý: 7 năm, chúng tôi sản sinh người chống chúng tôi nhiều hơn là đào tạo người ủng hộ chúng tôi. Con số đó, trong 18 tháng, sẽ có thể vượt hơn 7 năm… Cuộc họp bị bất ngờ. Số đông không dè Luân “dám” cãi và cãi găng. Riêng Taylor, ông ta có thể không đoán trước câu hỏi ngược của Luân. - Tôi cho rằng, ở Việt Nam Cộng hòa, yếu tố quyết định là lãnh đạo… Người Nam Việt không được lãnh đạo tốt! Rõ ràng Taylor tránh né giải đáp thắc mắc của Luân. Ông ta đặt ra một vấn đề mới, bao quất hơn và cũng nghiêm trọng hơn. - Thưa tướng quân!– Luân nghiêm giọng – Chúng ta dự một cuộc họp bàn về cách thức vãn hồi an ninh. Cuộc họp không thể là tòa án. Không thể vì không ai cho phép chúng ta và chúng ta cũng không đủ điều kiện phán xét. Phiên họp đến đó chấm dứt. Taylor ngượng ngùng bắt tay Luân. Nolting bước theo Luân đến tận xe của anh, tỏ thái độ dàn hoà. Về nhà, Luân nghe điện của Nhu: - Hoan hô anh! – Nhu nói to trong máy. Thì ra, Nguyễn Đình Thuần và Ngô Trọng Hiếu vào dinh Độc Lập báo cáo ngay sau phiên họp. Hai tay chứng minh họ bất bình cách nhận xét của Taylor và ngỏ lời khen Luân. Bởi vì, sớm muộn gì Nhu cũng biết và sự thật nguy hiểm cho họ khi họ bị Nhu nhìn như hai tên rấp ranh trở cờ. * Tối hôm đó, Staley điện xin gặp Luân. Giáo sư báo là sẽ đến chơi với một người bạn nữa.Và người bạn đó là Dương Tái Hưng. Thật, Luân không thể nào tưởng tượng mối quan hệ quái gở như thế này. Thế mà, tại phòng khách nhà anh, Staley và Dương Tái Hưng sánh đôi như hai tri kỷ. Câu chuyện không chủ đích – họ bảo là đến chơi thôi – kéo dài gần một giờ. Mãi, trước khi họ từ giã, Dương Tái Hưng mới nói: - Chúng tôi thấy khinh binh Việt Nam Cộng hoà nên trang bị súng tiểu liên AR15 hoặc M16 hơn là súng trường bán tự động M1 còn gọi là Garant. Trung tá là một quân nhân, hẳn rõ tác dụng của mỗi loại. Dẫu sao, Garant cũng lỗi thời. AR15 hoặc M16 bắn cực nhanh, tầm sát thương không thua Garant, song là tiểu liên. Về trung liên, tốt nhất là AR10, đại liên thì nên dùng Browning kiểu 30M.1919 A4 hoặc M60 – hợp với vóc người châu Á. Chúng tôi cũng mách trung tá súng phóng lựu M79… Lạ lùng thật. Tên tình báo cỡ quốc tế như Dương Tái Hưng lại đi với Staley và nói chuyện y như tên lái súng. Taylor chủ trương trang bị súng Garant cho quân Nam Việt, còn Staley và Dương Tái Hưng lại khuyên nên trang bị súng của hãng Colt. Nghĩa là thế nào? Dung gỡ bí: Anh đi tìm Fanfani. Cô nhà báo ngụ ở khách sạn Majestic, đón Luân thân tình ngay phòng khách riêng của cô. - Bà kỹ sư cho phép ông kỹ sư đến với tôi? – Fanfani hỏi, nghịch ngợm. - Victor sang Hồng Kông, cuối tuần mới về. – Fanfani tiếp tục đùa. Cô chỉ nghiêm chỉnh khi Luân hỏi: - Tại sao giáo sư Staley không nêu ý kiến về trang bị quân lực Việt Nam Cộng hòa ngay trong văn bản mà phải vòng qua tôi? Và, tại sao gã Dương Tái Hưng ở đây? - Tôi biết có lúc kỹ sư cần đến tôi… - Fafani nói, giọng hơi buồn – Tôi giúp được kỹ sư câu hỏi đầu: Tướng Taylor có cổ đông trong Công ty thu mua vật liệu chiến tranh phế thải Keytesville – quê ông ta. Công ty thừa hàng triệu tấn vũ khí kiểu hơi cổ. Nội chiến Trung Quốc tiêu thụ một số, chiến tranh Triều Tiên tiêu thụ một số nữa, chiến tranh Congo quá hẹp, Cuba thì nhóm lưu vong chẳng ra gì… Cần thị trường. Nam Việt là thị trường tốt. Staley không thể ghi việc đó vì Taylor sẽ phản đối. Lý do phản đối: hàng của hãng Colt giá cao và thật ra quân lực Việt Nam Cộng hoà chưa cần đến loại vũ khí tối tân hơn. Staley là cố vấn kinh tế và pháp luật của hãng Colt. - Thì ra vậy đó! – Luân gật đầu. - Câu hỏi thứ hai của ông kỹ sư, tôi chưa thể trả lời. Dương Tái Hưng là con người bí ẩn. Tôi cố gắng làm vừa lòng ông trong vài ngày tới. Luân cám ơn Fanfani. Cô cầm tay Luân khá lâu, chờ đợi. Luân ngó vào mắt Fanfani. Anh có thể hôn cô nhưng anh không làm, dù biết chắc rằng chỉ cần một cái hôn đắm đuối anh sẽ có nhiều thứ – kể cả sự an toàn cá nhân. Nhưng Luân không làm bởi vì Fanfani yêu anh. Không thể đùa với tình yêu. Trong một thoáng, anh nhớ Tiểu Phụng. Luân rời Fanfani, thở dài và khi ra đến cửa, anh cũng nghe tiếng thở dài của Fanfani. - Bọn lái súng! – Luân lẩm bẩm. Kế hoạch Staley – Taylor tự bộc lộ một trong những thực chất của nó. * Bảo an gác cầu Bình Lợi phát hiện ngày 17-10 một tử thi nổi vướng chân cầu. Chẳng bao lâu, người ta xác nhận đó là đại tá Hoàng Thuỵ Năm, không bị thương tích gì cả. Rất có khả năng đại tá Năm chết đuối…Nhu lặng yên khá lâu khi nhận được báo cáo. - Ông ta mới chết thôi. Ngày 14 hay 15, trong khi ông ta bị bắt cóc ngày 1. Nghĩa là nửa tháng ông ta nằm trong tay ai đó… Nhu bảo Luân, giọng thật buồn… --- (1) Bài văn mà thầy giáo đọc và học sinh viết để kiểm tra trình độ mẹo luật và chính tả của học sinh. (2) Môn viết chữ đẹp. (3) Hùng biện. (4) Như Bảo an, tổ chức lính Việt Nam thời Pháp (trước 1945) (5) Adjudant: tương đương thượng sĩ (6) Thiếu úy (7) Đại úy
__________________
![]() |
#5
|
||||
|
||||
![]() Ván Bài Lật Ngửa Phần 6 - Chương 9 “L. về căn cứ an toàn. Có triệu chứng đường dây bị theo dõi, yêu cầu tạm đình mọi liên lạc. Khi cần, sẽ có người gặp. Chúc thành công. Sáu Đ”. Thư trên đây của anh Sáu Đăng, câu đầu liên quan đến Lục: … “Em bình yên. Ông vẫn đi nhà thờ đều chứ?”. Lục nói có bấy nhiêu, không xưng tên. Gác máy nói, Luân cùng Dung phán đoán. Hai người tin Lục như tin chính họ. Không thể nào có trò Lục làm con mồi nhử Luân. Nhưng, Lục không phải là người già dặn trong nghề, nếu địch cao tay ấn hơn, thả lỏng Lục để theo dấu thì sao? Tại sao cả James Casey và Mai Hữu Xuân đều báo rằng Lục đã chết? Rõ ràng, Lục hẹn gặp Luân ở nhà thờ, nơi mà trước đây Lục vẫn chở Luân mỗi tuần đến đọc kinh sáng chủ nhật, Luân tiếp tục như vậy mấy năm nay. Cứ đến nhà thờ như thường lệ. Luân quyết định và Dung cũng đồng ý. Hai vợ chồng cùng đi – Dung lấy cớ đi chợ - khi xe ngừng, Luân thoáng thấy một tài xế tắc xi ngồi sau tay lái, rất giống Lục, kết sụp tận chân mày, cằm tua tủa râu, kính đen. Dung tinh mắt hơn, khẽ huých vào vai Luân. Luân xuống xe, bảo Thạch đưa Dung đi chợ và đón anh sau. Nhà thờ đông bổn đạo, Luân trà trộn theo dòng người ra vào và sau đó, đến chiếc xe tắc xi đã mở cửa sẵn. Đúng là Lục, Lục cho xe về đường Hiền Vương và rẽ vào hướng Chợ Lớn. Qua kiếng chiếu hậu, Lục nhìn Luân với tất cả tình cảm, Luân mỉm cười đáp lại. - Nói đi! Vừa thoát chết hả? – Luân bảo, trìu mến. - Vâng, suýt chút nữa em không còn gặp ông kỹ sư với cô Dung… Hồi nãy, em có thấy cô Dung… Ông với cô khỏe, em mừng. - Ông, cô! – Luân đùa – Đồng chí chớ! - Vâng… em quen miệng… Lục làm nhiệm vụ theo dõi các toán biệt kích đường không ở trường Nha Trang, báo cáo với trung tâm mỗi khi có chuyến đổ bộ. Báo cáo của Lục, đã mã hóa và viết “bạch” lên rìa báo, rìa trang sách hoặc toa thuốc, hằng tuần mang đến một hốc đá nằm giữa Hải học viện và lầu ông Hoàng – biệt điện xưa kia của Bảo Đại - trên bờ biển. Du khách đến ngắm cảnh ở đây rất đông, nhất là chiều thứ bảy và ngày chủ nhật. Lục chỉ cần đặt báo cáo vào hốc đá – giống một tờ giấy bị gió thổi tạt vào chỗ sâu kín này – rồi ai đó, vào lúc nào đó, đến nhận. Mỗi báo cáo mang số riêng, Lục biết báo cáo về đến trung tâm qua buổi nhắn tin vào Nam phát gần giữa khuya của Đài tiếng nói Vệt Nam. “Ông Hà Hậu, gia đình đã nhận được bưu thiếp đề ngày…”. Hoặc “Ông Xuân Huy”. Hoặc “Chị Lục Văn” v. v… Báo cáo của Lục gửi đều đều và anh cũng nhận được tin đều đều. Chiều ngày 2-7, Lục mang một báo cáo đặc biệt ra hốc đá. Đặc biệt vì báo cáo không phản ánh tin tức của biệt kích đường không mà liên quan đến toán người nhái. Trường huấn luyện người nhái thành lập vài năm nay, thuộc Bộ tư lệnh hải quân, do một trung tá người Việt phụ trách với nhóm huấn luyện viên Mỹ. Trường người nhái và trường biệt kích của Lục đóng không xa nhau mấy, song nội quy cấm ngặt quan hệ giữa hai trường. Chỉ có huấn luyện viên thỉnh thoảng vẫn gặp nhau ở quán rượu. Qua điều tra, Lục biết nhân kết thúc khóa học đầu tiên, sẽ có cuộc ra quân. Nhiều toán người nhái, mỗi toán ba đến năm tên, sẽ thực tập đổ bộ thăm dò dọc bờ biển bắc vĩ tuyến 17, mục đích đánh giá tình hình phòng vệ bờ biển của miền Bắc, móc nối với bọn gián điệp tại chỗ, mở đầu cho hoạt động biệt kích bằng hình thức người nhái. Năm điểm được dự kiến đổ bộ trong đợt này – những nơi địa hình cho phép người nhái che dấu hành tung và có bọn gián điệp tại chỗ đón. Năm điểm đó mang mật danh Sea từ 1 đến 5. Ngoài ra, một điểm đặc biệt mang mật danh Explorer, mà toán người nhái không đổ bộ nhưng phải thu thập tất cả tình hình của tàu hải quân và lực lượng trú phòng miền Bắc: thu thập bằng quan sát, thậm chí, bằng bắt cóc, khai thác nhân chứng sống và thủ tiêu sau đó. Phối hợp các nguồn tin lại, Lục đoán các “Sea” trải từ cửa sông Gianh trở vào. Còn Explorer chính là đảo Cồn Cỏ. Mặt trời khuất sau núi. Bờ biển vắng dần. Lục bước trên từng hòn cuội, như người dạo chơi, đến hốc đá. Quanh hốc đá không có người. Ngoài sóng biển, tất cả yên lặng. Quan sát chung quanh, không có gì khả nghi, Lục nhìn vào hốc đá. Hốc đá trống trơn. Lục toan đặt báo cáo vào hốc – viết trên nhãn hộp sữa – thì đột nhiên nghe tiếng quát: - Giơ tay lên! Từ các gộp đá, ba người chĩa súng ngắn vào Lục, cả ba nấp ở các gộp đá cách Lục mươi thước. “Mình bị phục kích” Lục than thầm. - Đừng giỡn các bạn! Các bạn là ai? Lục trì hoãn thời gian. Chắc chắn hộp thơ đã lộ, có thể giao liên đã bị bắt. Có nên để lọt vào tay chúng không? - Ai mà giỡn với mày? Đưa tay lên! Một tên hùng hổ. Nó bảo luôn đồng bọn: - Coi chừng nó hủy tài liệu… Thế là rõ. Thế là không thể để lọt vào tay chúng. Nó có ba tên… Lục chọn phương án hành động. - Đưa tay lên! Tên – dáng chừng chỉ huy – nhắc lại. Lục từ từ đưa tay lên. - Tước súng nó! Tên chỉ huy ra lệnh. Một tên, theo các hòn cuội, tiến đến, tay lăm lăm súng. Hắn cách Lục chừng vài bước, lợi dụng hắn đang bước rất khó khăn trên các hòn đá lông chông, đồng thời hắn lại là tấm lá chắn che Lục khỏi bị hai tên kia bắn. Lục rút súng, nổ liền mấy phát, vừa nhảy núp sau gộp đá. Tên đi tước súng của Lục ngã gục, rơi luôn xuống biển. Hai tên kia, bàng hoàng một lúc, bắt đầu bắn. Song, bây giờ thì chúng không thể nào dám xáp gần Lục. Lục dè xẻn đạn, chỉ bấm cò khi phát hiện chúng di động. Nếu tiếp tục chọi nhau như thế này, chắc chắn sẽ “hòa”, trời tối, mạnh ai nấy rút. Nhưng, trên đường, đã vang tiếng tiểu liên cùng tiếng xe. Bọn chúng có tiếp viện; Lục đột ngột bắn thật căn về phía hai tên – anh bắn hết băng đạn vừa thay, rồi lặng lẽ tụt xuống nước, men theo bờ đá, vòng qua mõm đất nhỏ, bò sát mặt cát, lẫn vào các thuyền đánh cá kéo lên cạn, vượt qua con đường mòn, vượt tường một ngôi biệt thự không rõ của ai, chạy về hướng núi. Anh vẫn nghe súng nổ ở vùng gộp đá. Khi trời tối, Lục đã cách thành phố vài cây số. Bây giờ thì không còn sợ bọn chúng truy đuổi nhưng lại rất dễ lọt vào bọn tuần tiểu. Lục quyết định chọn một bụi rậm để ẩn mình. Không thể trở lại trường biệt kích nữa. Còn đi làm du kích thì quá phiêu lưu. Cho nên, trời hừng sáng. Lục chôn súng, băng đồng ra lộ, đón xe xuôi Ba Ngòi. Từ Ba Ngòi, Lục chuyển sang xe lửa. Cứ thế, anh vô Sài Gòn. Đôi lần, anh bị hỏi giấy. Cảnh sát nghi anh đào ngũ từ các lực lượng tiền đồn Quảng Trị hoặc Tây Nguyên. Anh trình giấy – ký hiệu của trường huấn luyện biệt kích làm các tay cảnh sát phải xin lỗi anh… - Chỉ vậy thôi sao? – Nghe Lục thuật xong, Luân vụt hỏi, Lục không hiểu ý nghĩa câu hỏi, liếc Luân mãi. “Chỉ vậy thôi sao?” – tức là Luân không ngờ sự việc từ một nguyên nhân khác, giản đơn hơn nhiều: hộp thư bị lộ, hoặc giao liên mang tài liệu bị lộ rồi khai báo, địch phục kích… Trong trường hợp đó, nếu Lục thủ tiêu kịp báo cáo thì vẫn cứ để chúng bắt, không đủ yếu tố buộc tội Lục. Chắc là một nhóm công an đã hành động như nghiệp vụ của chúng. Thật tiếc cho Lục! Luân thở dài. Lục, lần này hiểu: - Em có lỗi. - Thôi đã lỡ rồi… Chú nên về khu, tùy trung tâm quyết định… Luân thuật cho Lục nghe các tin tức về cái chết của anh. – Có lẽ họ phát hiện xác cái thằng bị em… Em thưa với ông, em muốn tiếp tục làm việc với ông kỹ sư! Luân phì cười: - Bậy! Cứ về khu. Không thiếu cơ hội làm việc đâu. Vả lai, đồng chí, hiểu chưa, không có ông kỹ sư nào ở đây! Lục cười theo. - Tôi sẽ bố trí cho anh về khu… Đến nơi, anh báo cáo ngay kế hoạch Sea và Explorer, chắc chưa muộn… Nhớ, đừng nói gì về tôi với bất cứ kỳ ai… Luân xuống xe trước Chợ Lớn mới. Hai người từ giã nhau bằng mắt. Luân đi loanh quanh một lúc, lên một tắc xi khác quay lại nhà thờ Tân Định. Luân chưa kịp lên xe của Thạch và Dung – họ đến nhà thờ sau Luân vài phút – thì một cô gái gọi anh: - Ông kỹ sư! Luân nhớ ra ngay cô gái – cô Mai, nhân viên tòa đô chính, người đã đưa Luân vào chào Trần Văn Hương khi anh về thành năm 1955 và sau đó, gặp anh ở trường Vương Gia Cần. So với 7 năm trước, Mai già hơn nhiều. Càng lớn tuổi, Mai càng giống một người nào đó quen quen với Luân mà khi gặp Mai lần đầu Luân cố đoán song đoán không ra - Ông kỹ sư nhớ tôi không? – Mai đến cạnh Luân. Luân chia tay bắt. - Nhớ! Cô Mai khỏe không? - Cám ơn… Tôi bình thường. - Ai đây, xin hỏi, phải bà kỹ sư không? Dung ra khỏi xe, bắt tay Mai. Luân giới thiệu: - Cô Mai, nhân viên tòa đô chính, tôi nói cách đây 7 năm, còn bây giờ làm gì, tôi chưa biết. - Tôi sang Hàng không dân dụng đã 5 năm nay! - Thế à…? Còn đây, Dung, nhà tôi. Mai nhìn Dung hơi lâu. - Ông bà đi chơi sáng chủ nhật? Dung gật đầu. - Tôi có một việc muốn thưa với ông kỹ sư để nhờ giúp ý kiến. Tôi có thể gặp ông kỹ sư ở nhà riêng không? - Được! Xin mời cô Mai. Cô biết nhà tôi chưa? Mai lắc đầu. Luân đưa Mai tấm danh thiếp. - Tôi sẽ gọi điện cho ông trước. Luân về đến nhà, vừa kịp thuật cho Dung nghe trường hợp của Lục, dặn Dung bố trí cho Lục lên Củ Chi thì điện thoại reo: Mai xin gặp Luân ngay. - Cô ấy đến vì việc gì? – Dung hỏi. Luân không đoán nổi. Anh nhắc những nhận xét của anh về Mai trước đây – một người có thể có mối quan hệ nào đó với kháng chiến. Mai vào nhà. Một mình Luân đón tiếp cô. - Tôi muốn hỏi ông một việc. Tôi mạo hiểm và tin rằng không linh cảm sai. Tùy ông, hoặc giúp tôi ý kiến, hoặc gọi công an bắt tôi. * Ngọn đèn điện soi lù mù gian nhà xây đá tảng. Chiếc cửa sắt nặng nề ngăn gian hầm với bậc thang, cũng xây đá, hẳn là lối lên mặt đất. Một con đường hẹp hun hút không rõ chạy về đâu ở đầu hầm bên kia.Một người trần truồng đang co quắp trên nền xi măng lạnh, thân thể bê bết máu. Người đó – tuổi có lẽ trên dưới 60 – vụt nhỏm dậy. Cùng với tiếng động nặng nề, hai chấm xanh lè theo con đường hẹp mỗi lúc một tiến sát gian hầm. bây giờ thì thấy rõ rồi: con cọp to gần bằng con bê. Người đó lao đến cửa sắt, lay mạnh: “Cứu tôi! Cọp!…” Con cọp dừng lại vài giây, nhe hàm răng chơm chởm. Nó rống còn to hơn cả tiếng kêu cứu. Chỉ một cái nhún, cọp vồ gọn người đó. Ngọn đèn khẽ lắc lư. Nửa giờ sau, con cọp ung dung theo con đường hẹp, vừa bước vừa liếm mép thỏa mãn. Gian hầm còn lại chiếc đầu lâu, các bộ phận bầy nhầy và bộ xương. Nền xi măng lầy máu. … - Tại sao cô biết việc đó? Luân ôm đầu hỏi. - Chú ruột tôi là lao công vệ sinh chuồng cọp ở Sở thú. Ông chứng kiến không phải một lần… Gian hầm đó nằm trong hệ thống mấy gian hầm, gọi là P.42. Sợ quá, ông ngỏ ý xin thôi, ông Thái Đen – ông kỹ sư nghe tiếng Thái Trắng, Thái Đen không? Vâng, hai ông đều tên Thái, mật vụ - ông Thái Đen cười lạt: Được, tôi cho ông nghỉ, nhưng không về nhà mà vô hầm đá… Chú tôi đành tiếp tục công việc thu dọn xương thịt, lau chùi máu mỗi ngày. “Ở ngoài, ai biết được chuyện này, ông phải chết!”, Thái Đen bảo như vậy, chú tôi biết ông ta không nói đùa. - Những ai bị hại theo kiểu đó? – Luân hỏi, thái dương anh giật giật. Mai không trả lời câu hỏi của Luân, nói tiếp: - Cách đây vài hôm, tôi đưa một người bạn trai về nhà. Anh là phi công lái máy bay ném bom AD6, vừa tốt nghiệp ở Mỹ. Vì sao tôi quen với anh phi công này, xin phép khỏi kể với ông kỹ sư, nhưng cũng cần nói thẳng: anh ta nhỏ tuổi hơn tôi và không phải chuyện tình cảm. Chúng tôi đang ăn cơm thì chú tôi ghé thăm. Ông mệt mỏi lắm. Chúng tôi mời ông dùng cơm, ông cầm đũa, vừa ăn một miếng, bỗng nôn oẹ. Tôi hiểu lý do, người bạn của tôi thì trố mắt nhìn. Tôi đỡ ông nằm tạm trên đi văng. Trong khi ăn, người bạn phi công kể lể về việc nhà: anh ở Thừa Thiên, cha và hai người chú đều bị bắt vì dính líu với đảng Đại Việt – Hà Thúc Ký, Phan Quang Đông giam giữ họ cùng một số người khác, sau đó giải tất cả vào Sài Gòn, nghe nhốt ở khám tên P.42. Anh phi công sợ liên lụy, nhờ người khác hỏi tin tức giúp, chẳng đâu có tin tức. Chú tôi nghe hết, lồm cồm ngồi dậy, rút trong túi ra một chiếc nhẫn bằng ngà voi, đặt lên bàn. Vừa trông thấy chiếc nhẫn, anh phi công chụp lấy, run rẩy: - Nhẫn của cha tôi! … Người chú của Mai, trong cơn xúc động, kể những điều trông thấy ở P.42. Viên phi công, sau khi khóc ngất, đã đứng lên, từ giã Mai. Anh quyết định hành động và anh ta sẽ hành động như thế nào, không khó khăn gì mà không đoán ra. - Cô muốn tôi có ý kiến, ý kiến về việc gì? – Luân ngó thẳng vào mắt Mai. - Một là, theo ông, anh bạn phi công của tôi trả thù như vậy là nên hay không nên… - Cô nói tiếp đi… - Hai là, nếu không nên, thì anh ta phải làm gì. Còn nếu nên, thì lúc nào tiện nhất, tức là có kết quả nhất… - Trước khi trả lời cô – trả lời là tôi sẽ góp ý với cô hay gọi công an bắt cô – tôi muốn cô cho biết vì sao cô lại đem một việc tày trời như vậy hỏi tôi, một người mà cô thừa biết có mối liên hệ như thế nào với chế độ. Mai bình thản, điều đó cho thấy cô đã suy tính rất kỹ trước khi gặp Luân. - Không chỉ tôi mà cả Nam Việt, không ai không biết ông là người của ông Diệm. Song, người nhà của ông Diệm vẫn không ngăn trở ông nói lên điều của riêng ông. Ông từng thực hiện nhiều vệc không giống, hơn nữa, trái ngược với ông Diệm… - Cô theo dõi tôi kỹ quá! – Luân cười. - Không chỉ riêng tôi theo dõi ông… - Tại sao cô theo dõi tôi, cô có thể cho biết không? - Xin lỗi ông, tôi không thể làm vừa lòng ông… Tôi bịa ra một cớ, chắc được, song không nên nói dối tại đây, lúc này… Ông cứ cho tôi giải thích theo dõi ông vì tò mò chẳng hạn… - Bảy năm trước, cô bảo tôi cái gì, tôi còn nhớ: ông tiếp tục sự nghiệp kháng chiến bằng cách vứt súng… - Ông có một trí nhớ tốt đặc biệt. Đúng, tôi đã nói như vậy. Sau đó, tôi thất vọng hơn một mức nữa khi ông cộng tác với Ngô Đình Nhu. Nếu tôi tiếp tục khư khư với định kiến thì, ông đừng phiền, tôi đã gợi ý cho anh bạn phi công của tôi, trong một dịp nào thuận tiện, xả vào ông một băng tiểu liên! Mai nói rạch ròi. Cơ thể mong manh của cô gái chứa một nghị lực lớn; Luân thấy vui vui: Bảy năm Mai không còn non nớt. - Cô có thể cho tôi biết cô là ai không? Cô biết tôi nhiều hơn tôi biết cô, thật không công bằng! Mắt Mai chớp, nụ cười ranh mãnh: - Tôi không thuộc về một phía nào có thể làm hại ông. Luân bỗng hạ giọng: - Mai đứt liên lạc từ bao giờ? Công tác binh vận thương đơn tuyến, dễ đứt liên lạc. Mai lại chớp mắt, nụ cười vẫn ranh mãnh: - Ông dẫn tôi đi quá xa rồi! Tôi trở lại câu hỏi chính. - Tôi không thể trả lời cho cô. – Luân nghiêm giọng – Như cô cho biết, anh chàng phi công bạn của cô thuộc một gia đình Đại Việt. Với một phi công Đại Việt, anh ta đã định làm, muốn ngăn cũng không ngăn nổi, anh ta đã định không làm, muốn xúi cũng không xúi nổi. Chính họ hiểu hơn ai hết phải làm như thế nào và làm lúc nào, nếu họ quyết tâm. Cô nên nhớ, tai mắt của Đại Việt đâu đâu cũng có. Vả lại, tôi không thích những vụ trả thù tư riêng… - Ông vừa nói một câu không thật. Ông không thích những vụ trả thù tư riêng, nhưng chẳng lẽ ông không tìm thấy trong những vụ trả thù đến mức nào đó sẽ mang đến hậu quả không còn tư riêng nữa… Mai nói đều đều. Luân biết mình đang tiếp một tay có bản lĩnh. Anh chợt nhớ Mạch Điền. Không! Mai không thể nào là Mạch Điền được. - Tôi xin hỏi một câu bè bạn: Anh ở nhà khỏe không? Mắt Mai vụt tối sầm. - Nếu câu hỏi vô duyên của tôi phiền cô… - Không! Cám ơn ông… Ông quan tâm đến chúng tôi càng chứng tỏ tôi đã không lầm khi trao đổi với ông về chuyện vừa rồi… Nhà tôi bị bắt và biệt tích hai năm nay. Chắc ông muốn biết nhà tôi làm gì mà bị bắt. Bây giờ, tôi không cần giấu, nhà tôi là một cán bộ hoạt động nội thành, anh ấy dạy học và phụ trách tổ chức các nhà giáo… - Anh bị bắt lúc nào? - Giữa năm 1959, lúc anh đang dạy… - Ai bắt? - Lúc đầu, công an bót Hàng Keo, sau đó chuyển lên Nha cảnh sát Đô thành và mất tích… - Có vào P.42 không? - Chú tôi không gặp anh ấy, nhưng tôi nghĩ anh ấy chết tại P.42… Không phải lúc nào chú tôi cũng có mặt ở đó. - Tôi có thể hỏi thăm tin của anh, nếu chị cho biết tên. – Luân đổi cách xưng hô – Anh còn sống thì tôi cũng có thể xoay xở cho anh được tự do… - Cám ơn ông nhiều… Tuy nhiên, tôi không còn một chút hy vọng. Các bạn tù của anh ấy đều cho biết từ Nha cảnh sát Đô thành, anh ấy bị lôi đến một nơi giam giữ nào đó rất bí mật và không còn ai gặp anh ấy nữa. Trong giấy căn cước của nhà tôi là Lê Văn Hòa, giáo sư… - Anh chị được mấy cháu? – Luân hỏi, sau khi ghi chú tên của chồng Mai. - Một cháu, lên bốn… Cháu gái. - Tôi xin hỏi ông thêm một vài chi tiết kỹ thuật, - Mai chuyển nội dung nói chuyện sang hướng khác – tôi muốn biết mỗi chiếc Skyraider chở được bao nhiêu bom? Luân ngó Mai một lúc. Người ta đã nói với cô những gì về loại máy bay sản phẩm của Thế chiến thứ hai này? - Đó là loại máy bay ném bom duy nhất chở nổi một trong lượng bằng chính trọng lượng của nó, mà nó rất to, có thể mang ba tấn rưỡi bom các cỡ từ 350 đến 500 ký, bom miểng hay bom cháy hay napalm. Nó có bốn khẩu tiểu pháo 20 ly… Tốc độ bay tối đa 500km/g, bay cao được 8 cây số, tầm hoạt động 400 trăm cây số… Tất cả những gì thuộc số liệu cơ bản của Skyraider, có bấy nhiêu. - Cám ơn ông nhiều… Ba tấn rưỡi bom! Không phải ít… - Nhưng, trọng tải thực tế thường thấp hơn… Nhất là nếu phải đi ném bom xa… Hiệu quả của nó cũng không phải ghê gớm lắm đâu… - Chỉ cần ném trúng đích! – Mai nhấn mạnh. Luân thừa hiểu cái “đích” đó… Câu chuyện càng lúc càng buồn đồng thời càng lúc càng giống như hai đồng chí trao đổi và chia xẻ với nhau. - Chị cẩn thận với tay phi công Đại Việt. Đại Việt hung dữ, gian giảo chẳng thua ai… - Luân dặn dò trước khi Mai ra về. * Giữa những gọng kềm.(Bài của Hellen Fanfani gửi báo Financial Affairs bằng telex) Sài Gòn, November. Trong khi cuộc hội đàm giữa đại diện của Tổng thống Mỹ với phái đoàn Nam Việt đang đi vào những chi tiết của một chương trình hành động chung và hiệu quả nhằm lật ngược tình thế ở Nam Việt – nay thì xấu đến tồi tệ - Quốc hội Sài Gòn, dĩ nhiên dưới sức ép của Phủ tổng thống, thông qua đạo luật số 13 trao cho ông Ngô Đình Diệm quyền hành đặc biệt được ban bố các sắt luật trong tình trạng khẩn cấp, sau khi ông Diệm tự mình ra sắc lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp 5 ngày trước đó. Diễn đạt cách khác, nhà cầm quyền Nam Việt của ông Diệm xem Nam Việt ở vào thời điểm báo động có tính cách toàn quốc. Một chính khách Nam Việt rất thông thạo các vấn đề chính trị - và yêu cầu không tiết lộ tên – cười với vẻ hài hước: “Tổng thống Diệm và em trai, em dâu của ông ta chưa bỏ lối thủ đoạn vặt. Chính khách ấy bảo: “Chế độ Sài Gòn lợi dụng kẻ thù của mình – sau khi đã lợi dụng Đức Chúa Trời, người di cư, phe phái Quốc gia và đồng minh. Bây giờ, nếu Việt Cộng giảm cường độ chiến tranh thì chính anh em ông Diệm nổi đóa. ” Chế độ Sài Gòn có đứng sát bờ vựt sụp đổ - do Việt Cộng – thì ông Diệm mới chuyển được cái thế từ đang bị người Mỹ hạch sách lên cái thế hạch sách lại người Mỹ. Ông Diệm ngoan cố với lập luận: Nam Việt suy yếu vì người Mỹ phân tán sức ủng hộ, chập chờn giữa ông Diệm – mà thành công của những năm cuối thập kỷ 1950 là sáng chói – với các nhóm, đeo đuổi trò chơi dân chủ nguy hiểm. Tướng Taylor chứng kiến, trong dịp này, thái độ kiên quyết chống Cộng, kiên quyết chiến tranh của ông Diệm và sự đoàn kết quốc gia vững chắc – quốc hội đứng sau lưng Tổng thống. Vậy thì, con đường duy nhất đi đến bãi bỏ tình trạng khẩn cấp, tức giảm áp lực của Cộng sản, nếu không chiến thắng giòn giã, ít ra cũng đẩy lùi Cộng sản về vị trí và thế lực trước 1960, là phải dồn sự ủng hộ cho chế độ hợp hiến, hợp pháp do ông Diệm đứng đầu, bạn đồng minh duy nhất ở Nam Việt mà Mỹ tin cậy được. Người ta nói với nhà báo nước ngoài: Còn phải xem quyền đặc biệt của ông Diệm tác động đến Cộng sản như thế nào, trong khi cái quyền không giới hạn ấy lại như lưỡi gươm lơ lửng trên đầu Damocles (1) đối với các đòi hỏi “dân chủ hóa” Nam Việt, thực chất là đòi chia quyền với ông Diệm. Ngày 26-10, nhân Quốc khánh Việt Nam Cộng hòa, Tổng thống Mỹ hồi đáp: Mỹ tăng viện vì tình hình Nam Việt khẩn trương. Đến đây, sự thể không còn đơn giản nữa. Tổng thống Mỹ vồ lấy cái cớ do chính ông Diệm bù lu bù loa để mang cả vũ khí lẫn thực binh sang Viễn Đông, điều mà Eisenhower không làm nổi. Có thể ông Diệm và người em trai khôn ranh của ông đang hối hận. Kennedy thống nhất với ông Diệm về tình hình nguy kịch ở Nam Việt nhưng lại chọn giải pháp xử lý khác – nếu không nói là ngược – với ông Diệm. Ngày 4-11 tướng Taylor về Mỹ, hoàn tất kế hoạch bình định Nam Việt trong vòng 18 tháng. Viên tướng thích bắt mọi thực tế phụ thuộc vào các nét bút chì của ông ghi trên giấy trấn an Tổng thống Mỹ: “Người Mỹ chi một số nhân lực tối thiểu không thể gây xôn xao trong dư luận và quốc hội Mỹ mà đạt hai mục tiêu chiến lược: đánh bại Việt Cộng trong thời hạn lý tưởng nhất và khống chế chính quyền Sài Gòn trong khuôn phép chặt chẽ nhất. Trên chiến trường – mà chiến trường bây giờ lan hầu như khắp lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa: vùng bờ biển Trung phần yên tĩnh suốt năm 1960: nay theo gót Nam phần. Chỉ kể thời gian từ lúc tướng Taylor có mặt ở Sài Gòn – 25 ngày – Việt Cộng mở 30 trận tấn công cấp tiểu đoàn hoặc nhiều tiểu đoàn nhắm vào các thị trấn xung yếu, kể luôn tỉnh lỵ. Ngoại giao đoàn và các nhà báo được cảnh cáo chớ đi quá xa nội ô Sài Gòn mà không có hộ tống. Một đại tá Việt Nam Cộng hòa bị bắt cóc và người ta nhặt xác ông ở dưới dạ một chiếc cầu sát Sài Gòn. Tướng Taylor, người hùng Triều Tiên quên tiền lệ của tướng Leclerc, viên tổng chỉ huy Pháp, người hùng thế chiến, cam kết bình định Nam Việt mấy tuần lễ - cuộc chiến tranh của Pháp ở Việt Nam kéo dài 9 năm và người Pháp đầu hàng ở Điện Biên Phủ và Genève. Ông Diệm, nhà độc tài kiên định, quên rằng nếu ông biết sử dụng kẻ thù như đồng minh để trả giá với Mỹ thì Mỹ còn đủ điều kiện hơn ông làm việc tương tự. Mỹ đang mô tả tình trạng khẩn cấp ở Nam Việt một trăm lần khẩn cấp hơn sự mô tả của ông Diệm. Những gọng kềm đang siết… Ông Diệm có vẻ hiểu thân phận – ông ký lệnh bổ đại tá Nguyễn Văn Y làm Tổng giám đốc Cảnh sát quốc gia. Ông quyết đối phó, không phải với những gọng kềm, mà đối phó với những kẻ cùng lọt giữa gọng kềm như ông”. Bài báo không được chuyển về Mỹ. Luân nhận bản sao bài báo dưới dấu để confidential (2) của Tổng nha thông tin. --- (1) Vua Denys (gọi là Denys Già để phân biệt với Denys Trẻ) ở xứ Syracuse (đảo Sicile) thế kỷ 4 trước công nguyên cho treo một thanh gươm thật nặng trên đầu Damocles, một viên triều thần để thử thách. (2) Tuyệt mật. Phần 6 - Chương 10 “Trong hằng loạt biện pháp ấy đáng chú ý hơn cả là “quốc sách” ấp chiến lược và chiến thuật trực thăng vận. Với kế hoạch Staley – Taylor dự kiến bình định miền Nam trong vòng 18 tháng, Mỹ và ngụy lấy việc gom dân vào ấp chiến lược làm “chương trình xương sống”. Ngô Đình Nhu gọi ấp chiến lược là “kế cuối cùng” và ra lệnh cho bộ hạ không được quyền nghĩ đến thất bại khi thực hiện kế hoạch này”… Luân và Dung ngồi quanh chiếc radio bán dẫn, theo dõi buổi tin tức của đài phát thanh Hà Nội. Ngoài yêu cầu qua đài mà hiểu tình hình chung – họ đứt liên lạc sau khi Lục vào lọt trong khu – các buổi phát của đài còn mang đến cho họ tình cảm gắn bó với chiến trường, với cả miền Nam, với cả nước. Riêng Dung, cô thông thạo các bài hát giải phóng – thỉnh thoảng, cô vẫn hát khẽ cho Luân nghe “Chiếc khăn tay”, “Xuân chiến khu”, “Qua sông”… Nghe xong bản tin, Luân gọi Thạch đưa anh ra bờ sông. Gần đây hễ rảnh rang, Luân thường ngồi băng đá trên bến Bạch Đằng ngắm dòng sông vào buổi tối. Có khi Dung cùng đi với anh, nhưng thường anh đi một mình – Dung tôn trọng những lúc anh suy tư. Thạch ngồi trong xe nghe ca nhạc. Luân thững lững đến chiếc băng đá quen thuộc, khuất bóng đèn, gần một khóm cây. Từ radio trong xe, Ngọc Cẩm – Nguyễn Hữu Thiết song ca bài “Trăng rụng xuống cầu”. Dòng sông màu sẫm đục, bên Thủ Thiêm, vài ánh sáng vàng bắt trên sóng lăn tăn. “Thế nào đây?” Luân bắt đầu soát lại các diễn biến của tình hình. Ấp chiến lược quả gây khó khăn cho ta – qua báo cáo của các nơi, Luân thấy rõ ngụy phần nào hồi phục sức lực sau cú bị choáng váng năm 1960 kéo dài đến giữa năm 1961. Về đất, chúng chưa lấn rộng được bao nhiêu song về dân, mức kiểm soát của chúng cao hơn trước. Cũng qua thông báo chiến sự, Luân hiểu là quân giải phóng chưa đối phó chủ động với chiến thuật trực thăng vận – khá mới mẻ. Taylor hy vọng chiến thuật này sẽ giúp quân ngụy cơ động hơn, nhất là tận dụng được các đơn vị tinh nhuệ và phát huy được ưu thế ở những địa hình bằng phẳng. Taylor – khác Mac Garr – coi trọng châu thổ sông Cửu Long, lấy bình định khu vực đông dân, nhiều tài nguyên này làm mục tiêu số một, trong khi tạm thời sử dụng bom pháo và xây dựng các tuyến phòng ngự ngăn giải phóng phía rừng núi. Hễ bình định xong đồng bằng, chúng sẽ mở các chiến dịch đánh vào hệ thống căn cứ đầu não của Mặt trận giải phóng nằm phía tây bắc Sài Gòn. Hợp đồng tốt nhất với quân dân ta, theo trách nhiệm của bản thân, Luân nghĩ nhiều đến những khả năng gây rối loạn nội bộ Sài Gòn. Sau cú của Nguyễn Chánh Thi, tình hình bề ngoài có vẻ tạm ổn, song Luân thừa hiểu các các mối mâu thuẫn không tài nào dàn xếp nổi vẫn ngấm ngầm phát tirển, thậm chí rộng và sâu sắc hơn trước chính biến 11-11-1960, Mỹ đã hoãn mọi dự định thay đổi Diệm – một phần chờ đợi kế hoạch Staley – Taylor triển khai, phần khác do thái độ ủng hộ Diệm rất tích cực của Nolting. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là Mỹ sẽ ủng hộ Diệm với bất cứ giá nào. Kế hoạch Staley – Taylor mà sụp thì Diệm khó lòng đứng vững. Vấn đề là đánh bại kế hoạch đó… Theo dõi nhiều bài bình luận liên tục của đài Hà Nội cộng bản điểm tin, báo chí Hà Nội mà hằng ngày Sở nghiên cứu chính trị cung cấp cho, Luân nhận thức rằng cơ quan lãnh đạo của ta lấy đánh bại kế hoạch đó – qua phá vỡ ấp chiến lược – làm công tác trọng tâm. Thế lực chống Diệm thì nhiều song rời rạc. Thế lực đó trong quân đội lại lệ thuộc hoàn toàn vào thái độ của Mỹ. Cái còn bí ẩn là Đại Việt, Nguyễn Tôn Hoàn đang ở Mỹ. Hoàn sốt ruột, muốn hành động sớm bởi gã ngại kế hoạch Staley – Taylor mà thành công thì Mỹ sẽ giữ Diệm – gã dù tham chính, cũng chỉ là nhân vật số hai, số ba. Còn đợi đến khi kế hoạch Staley – Taylor sụp thì không phải phe cánh của gã được giao nhiệm vụ thay thế Diệm mà là người khác. Nhưng Hoàn sẽ làm gì? “Người bạn phi công” của Mai có thể làm tới đâu? Luân chìm trong các loại logic mà anh lật tới lật lui nên không để ý hai người đứng sát anh – cả hai đều lực lưỡng, đội kết kéo sụp. Khi Luân bừng tỉnh thì hai khẩu súng ngắn đã gí vào đầu và hông anh: - Ngồi yên! – Một giọng ồm ồm ra lệnh. Luân bị tước súng. - Đứng yên! - Vẫn giọng ồm ồm – Đừng hô hoán, nếu muốn sống. Chúng tôi là biệt động thành, hiểu chưa? Đi! Một tên thúc súng vào lưng Luân, đẩy anh men theo bóng cây, ra đường. Một chiếc Citroen sơn đen đang nổ máy chờ. Từ xe Thạch, tiếng cao vút bây giờ là của một nữ ca sĩ… Luân bắt buộc phải chui vào băng sau xe, hai tên kẹp anh. Ghế trước, một tên ngồi sẵn, tay lăm lăm súng. - Chạy! – Tên ngồi trước bảo tài xế, rồi bảo Luân: - Nếu anh còn một chút lương tâm thì không được chống cự. Theo chúng tôi về căn cứ. Ở đó, cấp trên sẽ nói chuyện với anh. Xe chạy ngã Nguyễn Bỉnh Khiêm ra cầu Phan Thanh Giản lên xa lộ. “Họ là ai?” Luân cố đoán. Hai tên kế Luân nồng nực mùi rượu. Ánh đèn đường từng lúc soi vào xe: cả bốn tên mặt mũi bình thường. Khó có thể là biệt động thành. Nhưng, biết đâu… - Các ông cất súng, kẻo cảnh sát thấy, nguy hiểm các ông… Luân tìm hiểu bọn này bằng cách của anh. Anh thành công ngay: cả ba cho súng vào túi. “Không phải Mai Hữu Xuân hay Trần Kim Tuyến. Còn khả năng: CIA, Đại Việt, cũng không loại trừ biệt động thật”. - Anh đừng hòng kêu cứu, chúng tôi đủ thời giờ kết liễu mạng anh… - Người ngồi ghế trước doạ Đến ngã tư Hàng Xanh, đèn đỏ. Xe ngừng. - Các anh bật đèn trong xe lên. Xe tối om, cảnh sát dễ nghi, sẽ xét hỏi, lôi thôi… Luân lại góp ý. Tài xế hiểu giống Luân, với tay mở công tắc. Hai cảnh sát ngó vào xe. Bốn người trên xe cố giữ bình tĩnh. Luân có thể nhân cơ hội này kêu cứu với cảnh sát, song anh không làm. Trong một thoáng, Luân đi đến lập luận: Nếu là biệt động thành, anh sẽ nhờ nối liên lạc; nếu không phải, có thể anh tìm ra một cái gí cần cho công việc của anh. Giả sử đây là một nhóm muốn khử anh, họ bắn anh ở bờ sông rồi tẩu thoát, đâu cần áp giải anh cho nguy hiểm. Do đó, Luân chỉ cười cười với hai cảnh sát. Nhờ thái độ tự nhiên của Luân, hai cảnh sát cười đáp lễ. Xe ngoặt về hướng Bà Chiểu, rẽ sang bán đảo Bình Quới tây. Khi xe vượt cầu Kinh, cả bốn người thở phào – Luân biết xe đã lọt vào vùng an toàn của họ. Con đường xuyên bán đảo tối om. Đèn pha xe quét hai bên lề đầy cây rậm rạp. Xe dừng trước một cổng lớn. Cổng mở, xe chạy luôn vào bên trong một khu vườn có tường cao bao bọc. Xe đỗ sát thềm một biệt thự hai tầng, cạnh sông. Trong biệt thự, đèn sáng choang. Luân kịp nhìn thoáng một chiếc Jeep quân sự đậu nép – như cố giấu mình – đằng sau gốc xoài um tùm. - Mời anh xuống, vào nhà… - Người ngồi ghế trước bước ra khỏi xe bảo Luân Họ đưa anh vào phòng khách – bày biện trang nhã. Hẳn là ngôi nhà nghỉ cuối tuần của một tên giàu sộp nào đó. - Chào đồng chí Bảy Luân! – Một người béo lùn, đầu hói, trạc tuổi 50, đón Luân ngay cửa phòng khách. Ông ta nói giọng Thừa Thiên. - Đồng chí mạnh chứ? Ngồi, ngồi…Rồi ta nói chuyện… - Ông ta bắt tay Luân, kéo ngồi xuống ghế. - Tụi em phải uy hiếp đồng chí Bảy đó! – Người giọng ồm ồm nói – Xin giới thiệu đồng chí Bảy, đây là đồng chí Hai Thuận, chỉ huy trưởng biệt động thành. - Trước hết, tụi này xin lỗi đồng chí. Cấp trên lệnh cho chúng tôi mời đồng chí vào khu, nhưng không có điều kiện liên lạc với đồng chí, theo dõi một thời gian phát hiện ra qui luật của đồng chí chiều tối thường ngồi trên băng đá bến Bạch Đằng… Đành phải vô lễ vậy… Trong công tác, đôi khi chúng ta phải ngụy trang. Tôi bảo các đồng chí: đồng chí Bảy Luân tính Đảng cao, cứ nói là biệt động thành cần nói chuyện với đồng chí, đồng chí sẽ không phản ứng… Quả đúng như dự đoán. Bây giờ, tôi báo cáo với anh Bảy, khu ủy muốn gặp anh, gặp ở Hố Bò. Sáng mai, chúng tôi sẽ bố trí đưa anh Bảy đi, theo đường du kích. Hai Thuận giảng giải thao thao, khi gọi Luân là đồng chí, khi là anh. Luân ngó lên trần nhà tỉnh bơ. - Đi theo đường du kích mất mấy hôm? – Luân hỏi. Mặt Hai Thuận rạng rỡ - cái rạng rỡ không ăn nhập gì với nội dung câu hỏi của Luân. - Dạ ba hôm… - Sao lâu quá vậy? - Đường khó lắm… Hố Bò ở xa… - Hố Bò thuộc về đâu? - Ủa, anh Bảy chưa biết Hố Bò sao? Hố Bò thuộc căn cứ Cục R… - Anh Hai đã lên đó rồi? - Nhiều lần… Mới tuần trước tôi về họp với anh Chín Dũng… Anh Bảy quen anh Chín không? Anh Chín là bí thư Khu ủy. - Hố Bò ra sao? – Luân không trả lời, hỏi tiếp. - Ối, quán xá đen nghẹt, buôn bán sầm uất lắm. - Có phải bò qua hố không? Hai Thuận chớp mắt, hơi hoang mang: - Hết rồi! Có cầu, cầu lớn… “Thằng cha này chưa chắc là Hai Thuận” - Luân nghĩ bụng. - Ở đây có điện thoại, anh Bảy cần dặn chị Bảy việc nhà, xin gọi… Hoặc anh Bảy cần lấy tài liệu để báo cáo với Khu ủy… - Cám ơn. Khỏi gọi. Thế nào nhà tôi cũng biết tôi đi đâu… - Luân nói ung dung. - Vậy, anh Bảy không phải mới ra khu một lần? – Mặt của “Hai Thuận” lại rạng rỡ. “Tụi này chắc đặt máy ghi âm…”. Luân cười nhẹ: - Đúng, tôi ra vô mật khu nhiều lần rồi. Kể cả Hố Bò… - Ủa, sao lúc nãy anh Bảy hỏi Hố Bò thuộc về đâu? - Ờ, tôi chưa rõ Hố Bò nào… Hố Bò mà tôi biết thuộc làng Phú Mỹ Hưng. Ở đó, thuở xưa là chợ bán bò, bò dồn trong một cái hố… Còn Hố Bò mà anh nói lại là cây cầu bắc ngang hố, người qua phải bò… - Anh Bảy rành vùng của mình hơn tụi tôi… Xin báo cáo với anh Bảy, đội biệt động tụi tôi gồm hơn mười đội viên, tất cả là đảng viên. Tôi là chỉ huy trưởng kiêm bí thư Đảng bộ. Nhân anh Bảy ghé đây, chi bộ họp bất thường, đề nghị anh Bảy nói chuyện về tình hình nhiệm vụ. Hoạt động nội thành, tụi tôi ít được bồi dưỡng, còn anh Bảy là cán bộ cấp cao, nhận chỉ thị, nhận quyết định của Khu ủy hoặc của Trung ương thường xuyên. Anh Bảy nói chuyện, anh em phấn khởi… Hỏi thiệt anh Bảy, hỏi cho biết để thêm tin tưởng thôi: anh Bảy gặp anh nào ở ngoài Hà Nội vô chưa? Gặp tướng Trần Nam Trung chưa? Trần Nam Trung là ai vậy anh Bảy? Phải Đồng Văn Cống không? - Biệt động các anh không ngăn cắt với nhau? – Luân châm thuốc, hỏi sang chuyện khác. - Không… Ngăn cắt hả… cái đó. – Ông ta ngập ngừng. - Họp ở đây, lỡ công an ụp vào thì làm sao né kịp? - Anh Bảy yên tâm, ngôi nhà được canh gác cẩn thận. Luân vươn vai, đứng lên… Góc phòng, trên búp-phê, có một khung ảnh. Luân làm như cần suy nghĩ, đi đi lại lại dọc theo phòng. Trong khung, ảnh một cô gái đẹp. Và, Luân cười thầm: ảnh Trúc Đào, có lẽ chụp hồi chưa lấy Vũ Liệu. - Tụi này được Bộ chỉ huy quân khu nhắc nhở phải yểm trợ cho anh Bảy hoạt động thắng lợi. Dễ gì có một cán bộ cỡ anh Bảy “mai phục” lọt cạnh Tổng thống ngụy… - “Hai Thuận” tán riết. - Đủ chưa? Luân ngồi xuống ghế, hỏi đột ngột. - Đủ rồi. Anh em tập trung từ chiều, đang ngồi ở phòng trên lầu. Mời anh Bảy. – “Hai Thuận” hí hửng. - Anh hiểu sai câu hỏi của tôi. Tôi hỏi anh vở tuồng đến đây đủ chưa… Các anh thu băng cuộc nói chuyện của tôi đủ chưa? “Hai Thuận” sững sờ. Cái trán hói của ông ta lấm tấm mồi hôi. - Anh Bảy nói gì, tôi nghe không rõ. - Thôi, ta đi vào cốt lõi của cuộc gặp gỡ. Tốt nhất, hãy tắt máy ghi âm đi… Bởi vì, dầu có ghi, các anh cũng khó sử dụng được. Từ đoạn này trở đi, băng ghi âm không giúp cho các ông tài liệu để làm áp lực trả giá với tôi… Ông học lóm vài ngôn ngữ của Việt Cộng, nhưng buồn cho ông, hiểu biết của ông cạn, quá cạn… Một đội biệt động chỉ có đội trưởng, không có chỉ huy trưởng, không bao giờ có một đội biệt động lại biết mặt nhau tất cả… lại còn “Cục R” – chỉ có phía Quốc gia gọi như vậy. Còn Hố Bò… Muốn làm giả, cũng phải công phu, làm giả Việt Cộng càng công phu hơn… “Hai Thuận” từ sững sờ chuyển sang nổi cáu: - Đã vậy… đã vậy tụi tôi không coi anh là đồng chí nữa… Đồ phản quốc, phản động! Đồ tay sai cho nhà Ngô! - Rất khó làm “đồng chí” với các ông… Tôi chỉ nói về sự thông minh. Phàm người khôn, việc nhỏ cũng cho thấy chỗ khôn, còn người ngu, việc to bằng cái đình vẫn ngu. Luân khoanh tay trước ngực, thách thức. - Im mồm… Tao bắn mày chết tươi bây giờ! – “Hai Thuận” gầm như con thú bị thương. - Chớ giở thói lưu manh… Cấp trên của ông không nương tay với ông nếu cuộc nói chuyện hôm nay thất bại. Ông đóng quá lố vai được phân rồi… Luân xem đồng hồ tay: - Vào đề ngay thôi, nếu ông được ủy quyền. Tôi nghi ngờ. Ông không đủ tư cách. Dầu sao, cũng không nên phí thì giờ. Chậm độ nữa giờ, một dọc lãnh tụ của các ông bị bắt, tôi cam đoan như vậy. - Mày nói cái gì, thằng kia? – “Hai Thuận” vẫn một mực hùng hổ. - Ông mời người có đủ tư cách của đảng ông ra gặp tôi! Bằng không, chính ông là kẻ phản đảng, đảng của ông. Hoàng Xuân Tửu, Hoàng Xuân Lâm, Vũ Liệu, Hà Thúc Ký… Không ai thoát! - Hả? – Mặt của “Hai Thuận” đực hẳn. - Ông ngu lắm. Tôi mất tích, Phủ tổng thống đặt câu hỏi: ai bắt cóc. Đảng Đại Việt lòi lưng ngay. Một cú điện thoại của Ngô Đình Nhu, các ông từ vùng I tới Sài Gòn, có cánh cũng không thoát. Ông Nhu chờ cái cớ để lùa các ông xuống P.42. Cái cớ đó là tôi. Tốt vô cùng… hiểu chưa? Luân lại xem đồng hồ tay. - Ông còn già 20 phút một tí để tránh tai họa. - Còn mày, mày chỉ được một phút thôi. Nghe tao hỏi: Vì sao mày biết đây là căn cứ của Đại Việt. Đứa nào mách với mày… Tao đếm ba tiếng… Một! - Ông quẫn trí rồi… - Luân vẫn điềm nhiên …- Nói thật chính xác, ông phá vỡ kịch bản… Luôn Nguyễn Tôn Hoàn cũng không yên thân bên Mỹ. Mỹ hỏi tội lãnh tụ tối cao của các ông: tại sao xuẩn ngốc đến thế để cả một chính đảng bị tiêu diệt. Tiêu diệt còn đau đớn hơn biến cố đau lòng nữa… - Hai! – “Hai Thuận” lầm lì đếm, tay đã lăm le khẩu súng ngắn – Mày xưng tội đi thì vừa, thằng chó săn nhà Ngô… Tao phải trả món nợ P.42 này… Mày nhất định dính vào đó… - Ngu xuẩn! – Chợt tiếng ai đó vang lên. Từ cửa ngách một người bước ra. Để râu mép, mặc sơ mi ngắn tay, đeo kính trắng, tuổi khó đoán – đã có nép nhăn ở khoé mắt song xét chung còn rất trẻ. - Dẹp khẩu súng của anh lại. – Người đó, giọng Quảng Trị ngó “Hai Thuận”, lạnh lùng – Định đấu súng với trung tá Nguyễn Thành Luân à? - Xin lỗi… - Ông ta nghiêng người – Để cấp dưới lỗ mãng với người như trung tá, chúng tôi rất xấu hổ. Đảng quy của chúng tôi nghiệm mật, trung tá tin đi, hắn sẽ được sửa trị ngang với lỗi lầm của hắn… Cút! – Ông lại quắc mắt. lần này, “Hai Thuận” ríu ríu đứng lên, thất thểu bước vào trong… - Có lẽ ông Hai Thuận bị xúc động! – Luân trông theo cái vẻ chán chường của “Hai Thuận”, ái ngại. - Cám ơn trung tá quan tâm. Đúng, hắn mất người anh ở P.42. Hắn không phải là Hai Thuận. - Tên gì, không quan trọng. Hình như ông ta có một người cháu là phi công lái AD6. - Đúng! Mà sao trung tá biết? – Người mới xuất hiện tỏ rõ kinh ngạc pha ít nhiều lo lắng. - Xin phép ông. Tôi nói chuyện với ai đây? - Tôi là Hoàng. Xin lỗi trung tá về những gì vừa gây khó chịu cho trung tá. Mọi việc khi nằm trên kế hoạch thì có vẻ hoàn hảo nhưng đi vào thực hiện lại lộ không biết bao nhiêu khuyết điểm… Ông ta ngồi vào chỗ “Hai Thuận”, nói vừa như thanh minh vừa như dạy đời - Tôi biết ông Hai Thuận có người cháu lái AD6 và biết luôn thảm cảnh của gia đình ông. Do đó, tôi xin các ông chớ trừng phạt ông Thuận. Còn tại sao tôi biết, thì – Luân cười thoải mái – nếu tôi không biết tình hình trong đảng các ông mới là điều đáng kinh ngạc… Tuy nhiên, hình như các ông để những ân oán kiểu ông Hai Thuận và kiểu vụ Ba Lòng cũ chen hơi nhiều vào chủ trương của các ông… Hoàng thỉnh thoảng gật đầu đáp lại nhận xét của Luân. - Chắc chúng ta cần nói chuyện hơi dài. Ít khi có dịp như hôm nay, nhất là chúng ta nói chuyện thật cởi mở, tư cách mỗi bên đều không có gì phải che dấu… Tôi nghĩ là trung tá nên gọi điện cho bà trung tá để việc vắng mặt đột ngột của trung tá không gây ồn ào. Thấy Luân mỉm cười, Hoàng nói tiếp: - Tất nhiên, cũng để cán bộ Đại Việt chúng tôi không bị làm khó dễ. Luân đến máy. Chỉ cần trễ vài phút nữa. Dung đánh động khắp nơi. - Anh đang chơi ở nhà người bạn… Người bạn nào à? Người bạn mà cô Mai nhắc đến hôm nọ. Những người bạn như vậy… Anh sẽ về nhà trước giờ giới nghiêm. Mặt đối mặt, Luân và Hoàng đi vào “cuộc thương lượng” trên thế cần bằng. Trước họ, một mâm đồ nhắm và rượu. Bên ngoài, sông Sài Gòn nhấp nháy ánh sao trời. - Chúng tôi trọng trung tá, một người Quốc gia chân chính. Vận nước đang nghiêng ngửa, mọi người Quốc gia chân chính đều phải thấy trách nhiệm. Đôi lần, ủy ban lãnh đạo tối cao của đảng chúng tôi đặt vấn đề mời trung tá tham gia đảng. Song, chúng tôi chưa biết phải mở lời như thế nào để trung tá thông cảm. Xin lỗi, dù trung tá giữ cương vị tinh thần rất cao trong Trung ương đảng Cần Lao, chúng tôi vẫn xem đó là một thích nghi hoàn toàn ứng phó… - Hoàng mở đầu và đi ngay vào một trong những điều quan trọng nhất: rủ Luân vào đảng Đại Việt. - Có lẽ chúng ta không nên phí thì giờ… Xin lỗi ông. Tại sao chúng ta phải “khai vị” bằng việc tuyên truyền cho đảng Đại Việt? Cũng như các ông vừa phí thì giờ thử xem tôi có phải là Cộng sản không… Chúng ta là những người quan tâm đến thời cuộc, tôi đồng ý lấy đó làm cơ sở và chỉ dựa mỗi cơ sở đó thôi. Giả tỷ tôi lại rủ ông vào đảng Cần Lao, thì ông thấy thế nào? Buồn cười quá phải không? Hoàng đỏ mặt. - Nếu vậy, ta đi ngay vào điều hai bên đều quan tâm… Ông Diệm và cả chế độ của ông từ lâu rồi là công cụ giúp Cộng sản rất đắc lực. Phải nói chính ông ta, em trai, em dâu, anh, chị, toàn gia tộc ông ta mở đường cho Cộng sản chiến thắng. Không phải chúng tôi mà nhiều người Mỹ cũng nhận định như vậy… Không có gì bức bách hơn là phải thay thế ông Diệm… - Cứ cho lập luận của đảng các ông là đúng, tại các ông không trao đổi với người Mỹ? Người Mỹ đủ sức làm một cuộc thay đổi nếu họ muốn… - Đó là chỗ còn đôi phần khó khăn. Với đại sứ Nolting, thay đổi nguy hiểm hơn vẫn giữ ông Diệm. Nhưng, với một số giới chức Mỹ khác, thay đổi là tất yếu. Rất tiếc, hiện nay quyền lực trong tay Nolting. - Fishel không kém quyền lực lắm đâu! – Luân hóm hỉnh. - Trung tá hiểu nội tình người Mỹ rất thấu đáo. Song, Fishel do dự về thời gian. Mà chúng tôi nghĩ kéo dài thêm một ngày, nguy cơ chủ nghĩa quốc gia bị đánh bại ở Nam Việt lớn ra thêm một mức, đến độ vô phương cứu vãng. - Đã vậy, các ông làm sao được? - Chúng tôi cho rằng phải chứng minh với người Mỹ nguy cơ đó bằng cách chứng minh cho họ thấy ở Nam Việt vẫn có những thế lực mạnh chống ông Diệm – ngoài Cộng sản. Chúng tôi đủ sức làm một chứng minh như vậy… - Hành động để chứng minh dĩ nhiên không khó khăn, song nếu cần một tiếng vang thôi thì các ông đã đo lường hết mọi hậu quả chưa? - Không phải hành động để chứng minh một cách đơn độc, mà kèm cả một cuộc vận động lớn trong và ngoài nước, kể luôn bên Mỹ. Tới bây giờ, sau nhiều câu nói, Hoàng vẫn chưa làm sáng tỏ lý do mà đảng Đại Việt phải dùng vũ lực đưa Luân tới đây. - Tôi chưa thích thú lắm với nước cờ của các ông. Tuy nhiên, đó là quyền của các ông. Về phần tôi, các ông muốn gì? - Đơn giản thôi. Với trung tá, chúng tôi chỉ mong một lời hứa… - Hứa tham dự với các ông? - Không, không cần. Trước khi gặp trung tá, chúng tôi, có ý ấy, thậm chí có ý, nếu trung tá nhận sẽ là một trong những lãnh đạo nội địa chủ chốt của đảng… Bây giờ, chúng tôi thấy không cần. - Hứa không tiết lộ ý định của các ông? - Không phải là vấn đề. Chúng tôi mời trung tá đến nói ý định rồi đề nghị trung tá đừng tiết lộ - chi vậy? Với trung tá, chúng tôi không bao giờ dám bất kính. - Hứa không gây cản trở? - Một phần nào… Cái lớn là mời trung tá giữ một chức vụ trong nội các sẽ thành lập… Chưa phải lúc nói rõ chức vụ ấy là gì, dĩ nhiên, chức vụ quan trọng, rất quan trọng nữa… Và, chỉ nhận khi chúng tôi giải quyết xong họ Ngô. Nghĩa là tránh cho trung tá mọi phiền toái… - Cám ơn các ông rất chu đáo đối với tôi… - Luân dừng câu nói một lúc; Hoàng háo hức chờ mà Luân thấy giống con chồn chực mồi, đôi ria mép của ông ta động đậy luôn – Có phải Fishel cần tên tôi trong bảng danh sách mà các ông thông báo với ông ta? – Luân đặt thẳng một câu hỏi, bây giờ anh đã rõ thực chất của cuộc “thương lượng”. - Không chỉ có tên trung tá… - Hoàng đính chính, không giấu nổi lúng túng. - Tôi không nghĩ rằng giá chứng khoán của tôi cao đến thế… - Luân cười cợt – Song, người Mỹ nổi tiếng thực dụng. Họ nắm mọi yếu tố ở Nam Việt còn chặt hơn cả chúng ta… Tại sao họ không trực tiếp với tôi? - Có thể họ chưa đánh giá chính xác xu hướng chính trị của trung tá… - Các ông lại đánh giá chính xác? - Dạ… phần nào… Tuy nhiên, chúng tôi với trung tá vẫn là người Việt Nam với nhau… - Người Việt Nam? – Luân cười mỉm. Hoàng không phải là hạng kém: - Ông có biết một người tên là John Hing không? – Hoàng đưa Luân vào một ngõ khác. “John Hing là Dương Tái Hưng. Sao lão này dính vào đây?” Thấy Luân trầm ngâm, Hoàng nói luôn: - Không phải Fishel mà chính John Hing, một người rất thế lực – nếu không nói là “siêu thế lực” – đòi hỏi danh sách. Ông ta có mọi thứ trong tay nhưng vấn đề Nam Việt phải chính do người Việt Nam cáng đáng; ông ta bảo như thế. Tôi tiết lộ một nguồn tin tối mật: Tình báo Trung Cộng tán thành khử ông Diệm… Trước đây, họ chủ trương bảo vệ ông Diệm tới cùng; bây giờ họ thống nhất với chúng tôi. Họ sợ Việt Cộng thắng nhờ những sai lầm của ông Diệm. Tôi cũng cho rằng Việt Cộng nôn nóng theo hướng đó không khác chúng ta. Nghĩa là, cái điều kiện khách quan chín muồi. - Ông cho tôi biết quá nhiều. Phải chăng, ông theo ngạn ngữ: người biết nhiều chóng già? – Luân hỏi, hơi cười… - Vì chúng tôi coi trung tá như người nhà! – Hoàng trả lời, mắt loé một tia ranh mãnh. - Mọi việc cần phải đi đến kết thúc hôm nay? - Luân hỏi, xem đồng hồ tay. - Không… Chúng ta còn gặp nhau… - Ông cho xe đưa tôi về… Tuy nhiên, tôi phải nói trước, nếu ngôi nhà này bị công an khám nội đêm nay hoặc ngày mai thì không phải lỗi ở tôi… - Tôi hiểu và đã dự kiến. Đảng chúng tôi có nhiều chiến khu… “Chiến khu”, Hoàng nhắc Luân nhớ “chiến khu ma” Bình Quới Tây mà có lần Luân thuật cho đại sứ Mỹ Rheinardt nghe… “Chúng nó cài mình vào bẫy. Cuộc trao đổi được ghi băng. Khi cần, chúng sẽ bán băng đó cho bất kỳ ai kể cả Nhu… Nhưng, chúng đơn giản quá, nặng về mưu mô vặt quá… Dẫu sao…”, Luân suy nghĩ trên xe. * Luân gặp Nhu. Thoạt nghe Luân bị “bắt cóc”, Nhu sững sờ.- Không sao… Anh thấy tôi chẳng sứt mẻ một chút nào cả, thậm chí, không trầy da. – Luân xởi lởi. - Nó dám lộng như vậy! Đó là chuyện không thể chấp nhận. Luân biết Nhu nghĩ liền đến P.42 – với Nhu, Đại Việt đáng sợ hơn mọi thứ trên đời. Anh ta từng nói: Bọn lưu manh làm chính trị - thà lưu manh như Bình Xuyên – chúng không từ một thủ đoạn nào; Đại Việt tựa con rết, con lươn, lũ hồ ly tinh… Nghe Luân một lúc, Nhu cầm máy nói. Luân phải ngăn anh ta: - Khoan, anh đừng nóng… - Thằng tên Hoàng đó là ai? – Nhu hỏi. Luân lắc đầu: - Tôi không biết, hẳn một nhân vật lớn của Đại Việt; có thể lấy họ làm tên, Hoàng Xuân gì đó, chẳng hạn. - Tôi sẽ tìm ra nó! Còn ngôi nhà… Anh để tôi gọi Tổng nha… Thế nào, qua khỏi Cầu Kinh chừng cây số, qua Cercle Nautique và trăm mét, về phía tay trái, villa hai tầng, tường cao… Luân tiếp tục báo – anh không đả động đến P.42 và các thứ liên quan, kể cả viên phi công AD6… Điện thoại Tổng nha trả lời: đúng là nhà nghỉ của trung tá Vũ Liệu. - Cái thằng trung tá nhóc con này! – Nhu gằn giọng. - Fishel thì chẳng có gì lạ. Ông ta trước kia ủng hộ anh Tổng thống hết mình, bây giờ xoay hướng. Còn John Hing, tôi chưa nghe tên va lần nào… À, có phải cái thằng tên là … là… - Dương Tái Hưng! - Đúng, có lần anh nhắc va với tôi… Va là cái gì? - Có cổ phần trong Công ty ngựa bay Colt… - Hừ… đến vậy kia! – Nhu buông thõng câu nói. - Tôi cho họ, tôi nói Đại Việt, còn trẻ con… Có thể họ lưu manh như anh nhận xét. Song, họ vẫn là trẻ con… Đối phó của anh không nên chỉ nhắm vào họ… Nhu thừ người khá lâu. - Anh có lý… Tôi sẽ làm việc với đại sứ Nolting. Riêng anh, tôi khuyên anh nên thận trọng. Canh bạc đến hồi sát phạt không nương tay! Nhu cảm thấy mình yếu thế. Một đảng Đại Việt vẫn làm anh ta mất thần. Anh ta lại rất giống Đại Việt – sẽ “thưa gởi” với người Mỹ. Anh ta không biết đó là việc dại dột. Người Mỹ sở dĩ còn tính toán trong thay đổi tay chân là sợ gia đình Diệm phản ứng mạnh, tình thế sẽ xấu. Nếu Nhu chỉ cần xin sự phán xét của Mỹ, thì chính anh tự thú cái nhược, không chỉ về thực lực mà cả về ý chí. Đó là một thứ tín hiệu đóng góp vào xu hướng gạt Diệm đang hình thành, lớn dần trong chính giới Mỹ… Lại qua Trần Lệ Xuân với Notling thôi! Ngay cả trong thủ thuật này, Nhu cũng khờ khạo. Nolting thu lợi đầy đủ nhất: chiếm Lệ Xuân và thực hiện ý định của Mỹ, hoặc chuẩn bị cho ý định đó hội càng nhiều điều kiện càng tốt. Luân rời dinh Độc Lập, với những kết luận như vậy. Tất nhiên, Luân không thể biết, ngày hôm sau, thứ bảy, Lệ Xuân cùng Nolting bay lên Đà Lạt nghỉ cuối tuần. Gã đại sứ Mỹ không hề che dấu cái đam mê của gã. Vừa đặt chân lên ngôi nhà nghỉ - xưa kia dành cho Bảo Đại – gã đã đòi hỏi Lệ Xuân. - Em muốn anh làm sáng tỏ một vấn đề… Lệ Xuân nằm trong vòng tay Nolting, không chịu đáp ứng. - Lên Đà Lạt không để nói chuyện chính trị… Nolting thều thào. - Nhưng, em chỉ bằng lòng khi anh trả lời với em… - Anh chỉ bằng lòng trả lời với em sau khi em bằng lòng… Anh chờ đợi giây phút này quá lâu… Cuộc đấu trí kéo dài một lúc, Lệ Xuân thua. Không phải vì tình dục bị kích thích – Lệ Xuân là hạng chủ động cao với tình dục – mà vì y thị cho rằng Nolting có thể chết vì y thị, cho nên nhượng Nolting một bước chỉ có nghĩa là sẽ xỏ mũi gã đại sứ dại gái này, muốn dẫn gã đến đâu, tùy y thị. Như mụ nghĩ, sau cuộc truy hoan. Nolting hứa – gã cẩn thận ghi vào sổ tay nữa – sẽ “trị” Fishel và đồng bọn. - Không có điều gì xảy ra với Tổng thống Diệm! – Nolting tiếp tục ve vuốt Lê Xuân. Lệ Xuân hoàn toàn không thể ngờ rằng Nolting sẵn sàng hứa – kể cả ly dị vợ để lấy Lệ Xuân – bởi chương trình nghỉ mát Đà Lạt của gã còn cả đêm nay, trọn ngày chủ nhật, đêm chủ nhật…
__________________
![]() |
#6
|
||||
|
||||
![]() Ván Bài Lật Ngửa Phần 6 - Chương 11 Năm 1962 bắt đầu với thông cáo chung Việt – Mỹ, gồm 11 mục tiêu mà hai bên quyết tâm đạt cho kỳ được, trong đó, nổi bật là huấn luyện cán bộ hành chính xã ấp, mở rộng các hoạt động kinh tế, xã hội nông thôn, xây dựng mạng lưới thông tin đến tận các xóm hẻo lánh đã quy ấp chiến lược, kể cả miền thượng du… Thông cáo bộc lộ rõ ý định của Mỹ và chính quyền Sài Gòn: bằng mọi giá, phải nắm cho được đơn vị hạ tầng. Một khía cạnh khác, thông cáo chứng minh sức ép của Mỹ đối với chính phủ của ông Diệm: số phận của ông Diệm tùy thuộc ở chỗ có đủ khả năng đáp ứng chỉ tiêu của tướng Mỹ Taylor hay không – khôi phục trong vòng 18 tháng toàn bộ đất đai bị mất từ cuối năm 1959. Gần như một sự phân công: Mỹ sẽ làm hết sức mình tăng cường quân chủ lực Nam Việt và trang bị, huấn luyện Bảo an, Dân vệ, các lực lượng an ninh khác để ngăn chận và đánh bại quân chủ lực Việt Cộng; với sự giúp đỡ cố vấn, phương tiện chiến tranh… của Mỹ, ông Diệm phải cáng đáng khối việc to lớn, phức tạp còn lại. Cẩn thận hơn, Mỹ cho phép Anh – dù là đồng chủ tịch hội nghị Genève về Đông Dương năm 1954 – thành lập phái đoàn viện trợ an ninh và chống du kích do thiếu tướng Thompson đứng đầu. Mỹ tạo khá đủ điều kiện; người ta đã đọc trước ý định trong thâm tâm của họ: với những điều kiện tốt lành, dồi dào như vậy mà ông Diệm không trị nổi Việt Cộng thì cái cần phải đánh giá không phải là Việt Cộng mà là tài cán, uy tín của chính ông Diệm. Nhu không khờ khạo đến nỗi không hiểu ý của Mỹ. Bởi vậy, anh ta hối thúc ngày đêm thuộc hạ các cấp ráo riết gom dân vào ấp chiến lược – cố gắng chứng minh lần nữa “vai tò không thể thay thế” của tổng thống Diệm trong sự nghiệp chống Cộng ở Nam Việt… * Luân gặp các thiếu tá Nguyễn Thành Động, Lê Khánh Nghĩa, và Trương Tấn Phụng tại câu lạc bộ quân nhân, sau phiên họp kéo dài bàn về kế hoạch bình định nông thôn do thiếu tướng Mai Hữu Xuân trình bày. Cuộc họp bắt đầu từ 7 giờ rưỡi sáng, kết thúc vào 4 giờ chiều, chỉ nghỉ ăn trưa có nửa giờ. Hầu hết chỉ huy trưởng Bảo an tỉnh, quận trưởng khắp Nam Việt đều có mặt. Họ ngồi chen chúc trong gian phòng rộng – hội trường của Bộ tổng tham mưu. Bài thuyết trình khô khan và lê thê của tướng Xuân, các bản đồ vằn vện bít kín tường, khói thuốc mù mịt khiến mọi người mệt nhoài. Tuy ai cũng có trước mình quyển sổ và cây bút, nhưng ít người ghi chép, hoặc chỉ ghi chép qua loa. Vả lại, cũng chẳng có gì để ghi chép. Tiếp lời tướng Xuân, thiếu tướng Anh – Thompson – báo cáo kinh nghiệm đánh bại du kích Mã Lai của ông ta. Không có phiên dịch – tướng Trần Văn Đôn, chủ tọa buổi họp, nói rõ: từ cấp thiếu tá trở lên, sĩ quan Nam Việt bắt buộc phải thạo tiếng Anh, mặc dù, chính tướng Đôn – tất nhiên, khi nói riêng với người thân – bĩu môi chê cái thứ tiếng “quê mùa”, còn cái giọng thì y như nhai kẹo cao su.Bởi vậy, khi tướng Đôn kết luận rằng phiên họp rất có kết quả, cám ơn thiếu tướng Mai Hữu Xuân và Thompson, tất cả vỗ tay nồng nhiệt rồi cùng đứng lên, xô ghế ầm ĩ, chen nhau chạy bay đến câu lạc bộ, kẻ ngồi tại quầy, kẻ đâu bàn thành từng nhóm, quanh các thức uống… Luân mời ba thiếu tá vây quanh chiếc bàn con kê sát cửa sổ. Họ gọi những cốc bia sủi bọt. Thiếu tá Trương Tấn Phụng, quận trưởng Tuyên Nhơn thuộc tỉnh Kiến Tường, đăm chiêu. Có lẽ, anh ta là sĩ quan duy nhất ghi chép khá kỹ. Ngồi vào bàn, anh ta vẫn còn lật sổ, ý chừng băn khoăn với những điều thu nhận. Nguyễn Thành Động nháy mắt ra hiệu với Luân, muốn bảo: thằng học trò này ngây thơ quá. Đúng, vẻ mặt của Phụng còn ngờ nghệch – nó tương phản bộ quân phục rằn ri. Lê Khánh Nghĩa, trái lại, nhìn Luân bằng đôi mắt nôn nả - chực thổ lộ một cái gì đó. - Thế nào? – Luân hỏi Động – Công việc ở Kiến Hòa? - Trung tá đọc báo cáo hằng ngày rồi – Động cười. - Anh muốn tôi đổi ngược báo cáo của tỉnh trưởng Trần Ngọc và của anh để hiểu sự thật của Kiến Hòa? – Luân hóm hỉnh. - Trung tá nói không xa sự thật bao nhiêu. Tôi nói với Trần Ngọc: mày đừng sợ, trung tá Nguyễn Thành Luân sẽ sửa lỗi cho báo cáo của Kiến Hòa. Trung tá đi rồi, Việt Cộng đánh tụi này tối tăm mặt mày. Khu trù mật rã sạch. Ấp chiến lược mới nhú lên quanh thị xã, coi mòi khó thọ vì xúc cả dân lẫn Việt Cộng vào cùng chỗ. Vậy mà, ông Xuân nói ngon ơ! Cả cái lão Thompson nữa, lão lên mặt dạy đời phát ghét… Động hậm hực: - Hết chuyện làm rồi nên rước thằng Ănglê về làm thầy. Mã Lai với Nam Việt khác nhau như hai thế giới. Mã Lai lộn xộn đủ thứ - du kích gồm người Mã Lai, Ấn Độ, người Thái Lan, người Tàu, nhất là người Tàu. Dân trong nước họ không thuần, chia năm xẻ bảy. Còn ta… Hừ! Thiếu tá Trương Tấn Phụng chú ý nghe Động, đôi mắt mở thật to. - Tại sao chính phủ không coi quan trọng hàng đầu là giành nhân tâm? – Phụng ngập ngừng đặt câu hỏi – Tôi nhớ nhiều bài của trung tá Luân viết về vấn đề này hay quá mà! Luân đỏ mặt. Anh toan đính chính giữa lúc Lê Khánh Nghĩa cười mỉm rất khó hiểu, thiếu tá Động nhún vai: - Bao giờ trung tá làm bộ trưởng thì họa may mới có thể áp dụng hết điều viết trên báo vào thực tế. Làm bộ trưởng cũng không ăn thua, cả làm Tổng tham mưu trưởng cũng vậy. Nói thiệt – Động nâng cốc bia – tôi ủng hộ trung tá làm Tổng thống. Làm Tổng thống dễ ợt mà… chớ sĩ quan cấp tá, ở Bến Tre, trung tá trực tiếp nhúng tay mà còn trậm trầy… Một người làm một trăm người phá, tài bằng trời cũng chào thua. Quốc sách ấp chiến lược nguy hiểm đủ phía. Ông Nhu cay cú, nhưng ông đâu dè tự mình nạp mạng cho Mỹ… Lê Khánh Nghĩa ngó quanh. - Sợ mẹ gì! – Động vẫn không hãm giọng – Thiên hạ nói rùm, mật vụ nghe đầy tai, báo cáo chắc chất đống ở Phủ tổng thống… Phải không trung tá? Luân mỉm cười mà không trả lời. - Mỹ lõi đời, xúi ông Diệm, ông Nhu lùa dân vô ấp chiến lược, phá nhà, phá vườn người ta. Dân oán. Không phải vài người oán mà cả nước oán. Tới lúc nào đó, nó bật đèn xanh, các phái chống ông Diệm ông Nhu, hạ bệ hai ông. Mỹ được tiếng là làm ơn xóa chế độ độc tài, xả xú-páp an toàn, Mỹ ngồi thêm vững ở cái xứ “Giao Chỉ” toàn bọn tướng lãnh, bộ trưởng chuyên buôn lậu, phá trinh con gái, tán dóc… - Động dường bị kích động, nói cả dây. - Vậy, mình phải làm sao? – Trương Tấn Phụng hỏi, lo lắng. - Làm như Nasser (1), dám không? – Câu trả lời đột ngột, đại tá Lâm bỗng xuất hiện sau lưng Động. Luân kéo ghế mời đại tá. - Ừ, ngồi với mấy cha coi bộ vui hơn… - Lâm ngồi xuống ghế. Luân ra hiệu cô chiêu đãi mang đến một cốc vại bia. - Tụi nó thách, tôi làm một hơi bốn cốc Cognac sec, bây giờ thêm bia, mấy cha nhớ chở tôi về giùm. – Đại tá Lâm nốc ừng ực hết cốc bia, chính anh búng tay gọi thêm cốc khác. - Tôi bắt đầu giống thằng cha Dương Văn Đức. Nổi khùng rồi… Sống với bọn ngu riết, mình không ngu được, nên phát khùng… mấy bàn kia toàn nhảm nhí: chuyện cờ bạc, chuyện ăn cắp, chuyện đùi các cô ca sĩ… Thèm làm Nasser quá! Quất mẹ nó một cái, sao thì sao… Quất luôn lũ sĩ quan mất dạy này! - Làm Nasser hay làm Kong Lee? – Thiếu tá Động hỏi, cười cười. - Chú thiếu tá hỉ mũi chưa sạch ở đâu mà tấp vô đám này? Không ghê trung tá Tham mưu biệt bộ Nguyễn Thành Luân sao? Không ngán P.42 sao? Nói cho mấy chú thiếu tá nhóc biết mà giữ miệng – Đại tá Lâm trỏ Phụng và Động – Trung tá Luân dụ khị mấy chú uống, rượu vào lời ra, phun ráo ruột gan để ông ta làm rắp-po (2) lập công đó… Luân phì cười: - Vậy thì người đầu tiên phải trả lời trước tòa án quân sự đặc biệt của đại tá Thọ là đại tá Lâm! - Tôi được bác sĩ Tuyến ân cần theo dõi lâu rồi. Có lẽ vì tôi là thằng không có lính trong tay, nên ông bác sĩ chưa chịu bắt, cũng có thể ông ta chờ tôi lọt sâu hơn vào trận đồ của ông ta, để ra tòa chỉ lãnh mỗi một án tử hình… Nasser hay Kong Lee đều được. Park Chung Hee cũng được. Phipul cũng được. Trừ Fidel Castro. Trừ là vì trong tụi mình, chẳng ai giống ông ta, có điều kiện như ông ta. Ông ta là Cộng sản! Nếu có thì, xin lỗi trung tá Luân đây! Rất tiếc, trung tá quá lậm với chủ thuyết Cần Lao, hết còn quay về đường cũ nổi. Không làm thì chết chìm cả đám, không sót mống nào. Cộng sản cám ơn ông Diệm, ông ta mở đường cho họ đến chiến thắng ít tốn sức… Đại tá Lâm hết tự chủ. Lưỡi anh ta líu. - Nè… thằng gì sư trưởng sư 13? Có con vợ lái bò đó… Bạn của thằng Động. À, thằng Cao Tòng, lùn tịt mà Cao Tòng! Hôm nọ, tôi lên Tây Ninh, rủ tụi nó đảo chính một cái thử thời vận, nó tái mặt tái mũi, đang cầm ly rượu mà để rơi, bể ly. Đồ giặt quần áo lót cho vợ! Tôi mà nắm một sư đoàn, phải biết… Lê Khánh Nghĩa sa sầm mặt. Chỉ có Luân hiểu được sự phản ứng này. - Đại tá quá chén rồi, ta đưa đại tá về! – Luân bảo. Động và Phụng xốc đại tá Lâm, bây giờ như không có xương sống, đưa ra xe. - Ăn bậy nói bạ quá! – Lê Khánh Nghĩa lầu bầu. - Sở nghiên cứu chính trị của bác sĩ Tuyến nhận xét ông lâm nói tung lung vì rượu, không có gì nguy hiểm. – Luân bảo Lê Khánh Nghĩa, hai người bước song song ra khỏi câu lạc bộ. - Có một người quen nhắn thăm trung tá! – Lê Khánh Nghĩa chợt nói. - Ai? – Luân cảm giác anh sắp nghe một tin quan trọng. - Trung tá Lưu Khánh! - Ồ! – Trong thảng thốt, Luân ôm vai Lê Khánh Nghĩa… - Trở vô rồi? – Giọng Luân run run. - Vô rồi! Vậy là đúng như Luân phỏng đoán trước đây – khi Luân lên Tây Ninh cùng Diệm, năm 1955 – Lê Khánh Nghĩa, con của đồng chí Liên trung đoàn trưởng Lưu Khánh, người chỉ huy cũ của Luân. - Chào trung tá! – Lê Khánh nghĩa chập gót chân, siết tay Luân thật chặt, trước khi lên xe. Luân nghĩ liền đến sư đoàn 13 – vợ của tay sư trưởng là em họ của Lưu Khánh Nghĩa. Phía đó – phía căn cứ Tây Ninh – có một cái gì hứa hẹn đối với công việc sắp tới của Luân. “Các đồng chí lần lượt trở về” - Luân nôn nao – “Biết đâu, cả Vũ Thượng, cả tiểu đoàn 402, cả trung đoàn … đang có mặt ở chiến trường”. Từ hơn năm nay, nghiên cứu chiếu lệ các trận đánh, Luân phát hiện ra một đặc điểm: quân giải phóng đánh “bàn bản” hơn, không hoàn toàn trong dạng du kích đơn thuần, nó chứng tỏ chỉ huy quân giải phóng được đào tạo chính quy. Tỷ như trận đánh Phước Vĩnh – trình độ bố trí binh hỏa lực và trình độ chiến – kỹ thuật khác hẳn trận Trảng Sụp, càng cách biệt với trận Dầu Tiếng. “Chiến tranh!” Luân kêu thầm. Chiến tranh đã thành việc hiển nhiên ở miền Nam, song vấn đề là khống chế cuộc xung đột vũ trang đó tới mức mà Cách mạng giành được thắng lợi với độ hy sinh thấp nhất. Luân đọc rất kỹ các tài liệu, sách báo nói cuộc chiến tranh Triều Tiên: trong vòng 3 năm, hằng mấy triệu người chết, đất nước bị tàn phá nặng nề. Chiến tranh ở miền Nam phát triển một lúc nữa chắc chắn sẽ thành chiến tranh của Mỹ với cả nước Việt Nam. Ở Việt Nam, không thể có “Chí nguyện quân Trung Quốc”, do đó tình thế có phức tạp hơn Triều Tiên. Nhiều dấu hiệu ở Sài Gòn cho thấy Trung Quốc của ông Mao đang ráo riết sửa soạn quay ngoắt 180 độ trên bình diện chính sách đối ngoại… Tốt hơn hết là kết thúc giữa lúc Mỹ ở vào giai đoạn còn thận trọng – đối với bộ chỉ huy của Paul Harkins, Mỹ hy vọng sự dính líu về thực binh ở Nam Việt ngang một sư đoàn, tức là vài vạn lính. Kết thúc được như vậy là lý tưởng. Nhưng bằng cách nào? Luân cảm thấy khả năng đó vượt tầm với của anh. Trong chế độ Sài Gòn, anh giữ một địa vị quá thấp, xét theo nghĩa quyền lực; như một thứ sai vặt. Anh có thể ảnh hưởng chừng nào đó đến đường lối của gia đình Ngô Đình Diệm nhưng anh không nắm trong tay các đơn vị quân đội. Ngay khi anh được giao tư lệnh chiến dịch Bình Dương hay tỉnh trưởng Kiến Hòa, binh mã dưới quyền chỉ là các sắc lính địa phương, khó lòng thi thố một cái gì vang động, áp đảo. Đại tá Lâm, người có thể phiêu lưu bạt mạng, ngoài lính hầu và lái xe, vẫn tay trắng. Thiếu tá Phụng ở giữa Đồng Tháp Mười với vài đại đội Bảo an. Thiếu tá Động, khá hơn, cũng chỉ vài tiểu đoàn. Chỉ có Lê Khánh Nghĩa và sư đoàn 13, song Tây Ninh xa thủ đô tới hàng trăm cây số… * Bộ tư lệnh Viện trợ quân sự Mỹ tại Việt Nam, ký hiệu là MACV chính thức công bố hoạt động ngày 8-2-1962, mồng 4 Tết Nhâm Dần. Trụ sở tạm thời đóng tại góc đường Trần Hưng Đạo và Pétrus Ký, nơi phái đoàn MAAG đóng trước đây, nằm giữa Sài Gòn và Chợ Lớn. Năm ngày sau, tướng Harkins chính thức nhận chức chỉ huy trưởng thay cho tướng Lionel C. Mac Gaar.Paul Donal Harkins, sinh năm 1904 tại bang Massachusett. Sự nghiệp binh bị không có gì đặc sắc, ngoài những bằng cấp. Vị trí của ông ta khiêm tốn hơn nhiều so với Taylor, Collins và cả Mac Gaar. Dư luân nói đùa: Kennedy chọn Harkins vì ông ngụ tại thành phố San Francisco gần Việt Nam, chỉ cách có mỗi Thái Bình Dương. Vả lại Harkins, dù đã 58 tuổi, vẫn sống độc thân – tha hồ mà đùa bỡn với “Đệ nhất phu nhân Việt Nam Cộng hòa” Trần Lệ Xuân! Nhận nhiệm vụ chính thức hôm trước, hôm sau tướng Paul Harkins đến xem triển lãm mỹ thuật. Báo chí bình luận: viên tư lệnh Mỹ không chỉ biết kế hoạch hành quân mà còn biết thưởng thức các bức tranh như Ngựa của Lâm Triết – huy chương vàng. Sự thật khác hẳn, Harkins chẳng quan tâm gì đến nghệ thuật, sở sĩ ông ghé vào triển lãm là để mua một số tranh làm quà tặng các tướng lĩnh Mỹ mà ông sắp gặp. Ngày 19-2, hội nghị quân sự Honolulu, gồm chủ tịch hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ, đô đốc Felt, tư lệnh Mỹ ở Thái Bình Dương, tướng Paul Harkins, tướng Lê Văn Tỵ… nhất trí ưu tiên tăng viện cho Nam Việt một số lượng trực thăng lớn, nhằm chuyển vận hành quân thay cho binh chủng dù nay đã lỗi thời. Harkins trở lại Sài Gòn, bỗng nhiên dấy lên tin đồn: sắp đảo chính. Hằng ngày, Nhu bù đầu với các nguồn tin như vậy. Cơ quan bác sĩ Tuyến, Tổng nha cảnh sát, An ninh quân đội, Trung ương tình báo được lệnh bám sát các đối tượng mà Phủ Tổng thống “vô sổ bìa đen” từ lâu. Luân phải túc trực gần như 24/24 giờ tại Tham mưu biệt độ - bây giờ, người đứng đầu là đại tá Đặng Văn Quang. Trong mớ tài liệu hỗn tạp và mâu thuẫn, Luân chưa tìm ra được manh mối. Đại tá Lâm nằm trong danh sách “phải bám sát” và nhân viên mật vụ đã ghi lại lời của đại tá như sau: “Tao khoái đảo chính, song tao có cái khỉ gì trong tay để đảo chính… Tao đâu có ngu mà đưa đầu bằng xương, bằng thịt cho tụi nó thử đạn chì”. Đại úy Nguyễn Cao Kỳ, một “nhân vật khả nghi” khác, tài liệu vỏn vẹn: Kỳ suốt ngày cùng bọn lưu manh Nguyễn Ngọc Loan, Lưu Kim Cương hú hí “hội đồng” các cô chiêu đãi hàng không, khoác lác một tấc tới trời, song chỉ là khoác lác. Các “chính khách” thuộc nhóm Caravelle và nhóm 11-11 – dự vào cuộc đảo chính năm 1960 – đóng cửa im ỉm, chẳng chơi bời giao du với ai. Vũ Liệu – sau khi Trúc Đào bị tạt ác- xít, sống với một vũ nữ khác. Trần Thiện Khiêm ở Cần Thơ, không có dấu hiệu gì đáng để ý. Đại tá Nguyễn Văn Thiệu, sư trưởng sư 5 đóng vùng Tây Bắc Sài Gòn, cố gắng lấy lòng Nhu bằng cách báo cáo mật về đại tá Đỗ Cao Trí “có những dấu hiệu không bình thường”, tố luôn Nguyễn Hữu Có. Sư đoàn 13 lọt ngoài mọi tin tức cập nhật. Mai Hữu Xuân báo cáo khá dài về Nguyễn Văn Y và Nguyễn Khắc Bình – Trung ương tình báo – với nhiều triệu chứng lạ. Nguyễn Văn Y và Nguyễn Khắc Bình báo cáo không kém tình tiết về Mai Hữu Xuân. “Tóm lại, tình hình không có gì rõ rệt. Đảo chính, nếu xảy ra, chỉ có thể do Mỹ chủ trương. Ta cứ hỏi thẳng đại sứ Nolting”. Diệm bảo Nhu. Từ sau chuyến đi nghỉ mát cuối tuần ở Đà Lạt năm trước, Lệ Xuân không chịu gặp đại sứ Mỹ mặc dù Nolting nhiều lần yêu cầu với đủ lý do. Đến khi vợ Nolting sang Việt Nam, Lệ Xuân bằng lòng đi tắm biển Long Hải chung với hai vợ chồng đại sứ. Tại bãi biển, dưới chiếc dù màu sặc sỡ, Nolting nhìn Lệ Xuân như điên dại – mụ phơi mình trên bãi cát, cố tình bẹo Nolting. Bây giờ thì phải tìm cái cớ để mời Nolting. Sáng kiến, dĩ nhiên, do Lệ Xuân. Mụ tự nguyện gọi điện thoại cho Nolting trước khi văn phòng Phủ tổng thống gửi thư chính thức. - Ly Kai vừa báo riêng với tôi một cuộc họp mặt tại nhà Bá Thượng Đài – Nhu bảo Luân – Dự họp có John Hing, người mà anh nhắc tôi đề phòng, Bá Thượng Đài, đại sứ Đài Loan, Lâm Sử, đại diện Trung Cộng. Tất nhiên, John Hing chủ tọa. Gã cho cả bọn biết: sắp có biến cố. Gã không trả lời rõ biến cố đó là gì, song cam đoan là biến cố sẽ xảy ra gần đây. Gã trù liệu những khả năng tiếp theo biến cố, đặc biệt phân tích khía cạnh Việt Cộng nhân cơ hội đó mà phá ấp chiến lược, chiếm đất chiếm dân ở nông thôn và biểu tình đình công ở đô thị. Lâm Sử cam đoan rằng Việt Cộng chưa thể làm gì được trong thủ đô, trừ các trận đánh mìn. Ở nông thôn, Trung Cộng không tán thành Việt Cộng thành lập các đơn vị chủ lực cao hơn cấp đại đội, nhưng vì Việt Cộng đã có đến cấp tiểu đoàn cho nên Trung Cộng sẽ kềm chế quân chủ lực Việt Cộng ở mức tiểu đoàn riêng lẻ. John Hing nhận xét rằng Trung Cộng mất ảnh hưởng đối với Việt Cộng và chế nhạo Lâm Sử: ngay với người Hoa ở Sài Gòn, thế lực của nhóm Nghị Lực vẫn mạnh hơn nhóm của Lâm Sử nhiều. - Ly Kai báo cáo có bấy nhiêu? – Luân hỏi. - Vài chi tiết nữa, song nội dung chủ yếu có bấy nhiêu. Luân ngả người lên tựa ghế, bóp trán - Tại sao Ly Kai báo cáo với anh? - Va vẫn làm như vậy… Về cuộc họp mặt này, tôi có một nguồn tin khác – nguồn tin cho biết ngày giờ, địa điểm, số người na ná như báo cáo của Ly Kai, song không nắm được nội dung. - Chắc chắn người của anh để lộ, bọn chúng chủ động cho Ly Kai báo cáo… Tại sao anh không bắt quách John Hing, Lâm Sử? - Về Lâm Sử, tôi không muốn bắt. Anh ta là người của Bắc Kinh. Chưa phải lúc gây căng thẳng với Bắc Kinh. Anh không thấy Bắc Kinh lần lần giúp ích cho chúng ta hay sao? Tôi cho theo Lâm Sử và nhóm của anh ta để bắt nhóm Nghị Lực. Nghị Lực nguy hiểm hơn, đó là nhóm thân Việt Cộng. Tiếc rằng chúng nó khôn ngoan quá, một lần Ly Kai đến tận ổ chúng, song mất dấu luôn. Còn John Hing, ông Fishel yêu cầu chúng ta không được đụng tới. Cả đại sứ Nolting, cũng nhiều lần nhắc như vậy. Hắn ta quốc tịch Mỹ, danh nghĩa là đại diện thương mại của Hãng hàng không Pan America và nhiều hãng buôn khác. - Ông ta thật sự là người của hãng sản xuất vũ khí “Con ngựa bay” Colt… Nhưng, ta hãy trở lại vụ Ly Kai báo cáo. Tại sao? Ly Kai là agent double (3), nguồn tin của va không thể chỉ có lợi cho một phía. Hay là John Hing muốn nhờ Ly Kai đánh động với anh về một cú nào đó sắp xảy ra? Gã Ly Kai… Ái chà! Luân trở đi trở lại tên Ly Kai khiến Nhu phát nhột. Cách đây không bao lâu, sau vụ Mai Hữu Xuân bắt cóc những người liên quan đến Luân, Nhu hầm hừ đòi bắn bỏ Ly Kai, thế mà bây giờ lại có vẻ tin cậy hắn ta. - Tôi cho theo Ly Kai khá chặt, anh tin tôi… Đúng như anh khuyên tôi, qua Ly Kai, tôi biết được nhiều việc trong khối người Hoa... Tôi sẽ khử va khi va không còn có ích nữa. Còn việc này, có thể là một thứ tín hiệu… Một cú? Cứ cho như là sẽ có, song cú đó là cú gì? – Nhu cũng bóp trán. Trong khoảnh khắc, Luân nhớ tới Mai. “Đúng rồi, chỉ có hướng đó thôi… Có mối liện hệ gì giữa Đại Việt và John Hing?” - Tôi cho rà kỹ, bộ binh, thiết giáp, dù… tất cả đều bình thuờng. Tôi e rằng cái “cú” mà dư luận đồn đãi là thứ ballon (4) thăm dò… “Anh ta chưa rà kỹ đâu!” – Luân nghĩ thầm – “Anh ta để sót cả một quân chủng mà vai trò mỗi ngày mỗi quan trọng trong cuộc chiến”. - Chúng ta sẽ hỏi Nolting… Cám ơn anh đã tốn nhiều công sức mấy hôm nay. Nhu bắt tay Luân, có vẻ nhẹ nhõm. * Luân tìm Mai. Không khó khăn gì, cơ quan hàng không cho địa chỉ của cô – một phòng trong khu chung cư đường Tự Do.- Ông kỹ sư gặp tôi có việc gì? – Mai mời Luân ngồi, giọng không được tự nhiên. Một cái liếc nhanh trần thiết trong nhà cho Luân nhận xét: cô sống đơn giản, cơ hồ xập xệ, gần như tạm bợ; điều đó chứng tỏ Mai không có ý định ở vĩnh viễn một nơi mà hằng ngày cô rất bận rộn. - Tôi muốn hỏi cô về người bạn phi công của cô… Mắt Mai chớp lia lịa. - Thật bất tiện khi phải từ chối đề nghị của ông kỹ sư, người mà tôi rất mến. Tôi mong ông kỹ sư hiểu… - Cám ơn cô. Thế là đủ. Tôi chỉ cần biết có bấy nhiêu. Chúng ta, không ai không bận tâm với tình thế. Tất nhiên, giá điều kiện cho phép, chúng ta cho nhau biết nhiều hơn thì công việc chung nhất định có lợi… Dầu vậy, tôi vẫn khuyên cô: Mỹ nắm kế hoạch hành động của người bạn của cô. Người bạn của cô – xin lỗi cô, do nghề nghiệp thôi – tôi biết cả tên, tuổi. Như cô cho tôi biết, anh ta là một Đại Việt, đúng hơn, cha anh ta là lãnh tụ Đại Việt. Đại Việt chưa bao giờ là đảng yêu nước. Tôi không phản đối cô, trái lại. Song, tôi mong cô hiểu cô đang tiếp cận với ma quỷ. Dùng ma quỷ trị ma quỷ, hoàn toàn chính xác, cần thiết… miễn ta đừng lầm ma quỷ với con người. Mai cắn môi, đôi mắt nhìn Luân soi mói. - Để cô tin rằng tôi không ba hoa, tôi viết tắt tên của người bạn phi công của cô… Luân chấm tay vào nước trà, viết lên bàn ba chữ cái: N.V.C. Mai thay đổi trông thấy: mặt cô tái. - Cô yên tâm. Trừ tôi, không ai biết. Tôi biết cũng nhờ cô. Qua vài thông tin rời rạc của cô hôm cô đến nhà tôi. Tìm một nhân vật như vậy đâu có khó đối với tôi. Tôi tốn vài mươi phút tra sổ của Bộ chỉ huy không quân. Dầu sao, tôi đề nghị cô xem vụ này vừa tầm của nó. Tôi không cho rằng vụ này không cần thiết, song đừng trông mong từ nó dẫn đến những đổi thay lớn lao ngay lập tức. Cô nên nhớ: Mỹ cho phép – có nghĩa là Mỹ phải có lợi trước tiên và nhiều hơn các phe khác… - Tức là Mỹ bật đèn xanh… - Mai ấp úng. - Không… Đúng hơn, chưa. Mỹ bật đèn vàng! - Ta sẽ biến đèn vàng thành đèn xanh! – Mai rắn rỏi. - Ý nghĩ hay, nhưng e rằng hơi vội. Chuyển màu không đơn giản. Và, đừng lấy nguyện vọng của mình thay cho những điều kiện thực tế. Nếu thuần túy là nguyện vọng – Luân cười – chưa biết cô hay tôi là người sốt ruột hơn… Nếu cô giữ trách nhiệm nào đó, có một lực lượng nhất định thì tôi khuyên cô: đừng vội phơi lưng. Biết đâu Đại Việt và Mỹ không mong nhân cơ hội này phát hiện lực lượng của đối phương. Tốn vài phi công, chịu một vài sụp đổ nhỏ mà tiêu diệt lực lượng của đối phương – lực lượng chúng sợ thật sự. Đâu phải là giá mắc? Mai cắn mãi móng tay, thẫn thờ chào Luân, không tiễn khách về. “Không biết cô ấy thông báo kịp cho cơ sở không?” --- (1) Gamal Abdel Nasser (1918–1970), người thực hiện cuộc đảo chính quân sự năm 1956, tổng thống Ai CẬp 1956-1970 (2) rapport: báo cáo (3) Điệp viên hai mang (4) quả bóng Phần 6 - Chương 12 Nolting dĩ nhiên theo tín ngưỡng Tin Lành, như số đông người Mỹ. Tên thánh của ông ta là Frederick, tên của vị giám mục xứ Utrecht thuộc Hà Lan thế kỷ IX mà lễ hằng năm vào ngày 18-7 – chẳng ăn nhập gì với buổi tiếp tân linh đình tại dinh Độc Lập dành cho ông ta vào tối 26-2. Ông ta sinh tháng 8-1911, còn ngày ông bị ám sát hụt qua đã lâu – những 5 tháng. Thế mà văn phòng Phủ tổng thống vẫn tìm ra cái cớ: Bà Olivia Lindsay Crumpler, vợ đại sứ và các con sang Sài Gòn, gia đình tổng thống Diệm chưa có dịp chào mừng cuộc đoàn viên, nên nhân ngày cuối tháng, mời gia đình đại sứ “với tư cách bạn bè” đến chung vui một dạ tiệc “ngoài nghi thức”. Đó là theo giấy mời chính thức – còn sự thỏa thuận lại từ mấy phút điện thoại giữa Trần Lệ Xuân và đại sứ Nolting: đại sứ cứ trách Trần Lệ Xuân tránh mặt ông và Lệ Xuân dịu dàng xin lỗi, hai người trao đổi bóng gió kể cả gửi cho nhau nhiều cái hôn qua đường dây. “Tin vịt!” – Lệ Xuân kết luận về những đồn đãi sắp có đảo chính. Nolting không đời nào chịu nhúng tay vào một hành động gây hậu quả xấu cho Lệ Xuân, người mà ông ta yêu đến mức tôn thờ. Lệ Xuân cười một mình trước tấm kiếng – mụ tự ngắm – khi nhớ những lời ca ngợi của Nolting. Tám giờ, dạ tiệc bắt đầu. Nolting, vợ và bốn con: Mary, Grace, Frances, và Jane có mặt trước năm phút. Vợ chồng Nhu đón họ ở bậc thềm cuối cùng. Nolting lịch sự hôn tay Lệ Xuân. Dưới các ánh đèn của phóng viên chụp hình và quay phim, vị đại sứ thay mặt cho Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ và bà cố vấn Việt Nam Cộng hòa hoàn toàn cư xử đúng phép xã giao – ngay cả khóe mắt của họ cũng không cung cấp bất kỳ một bằng chứng nhỏ nhất nào giúp cho kẻ biết rành sự đi lại vụng trộm của họ có thể khai thác. Tổng thống chờ vợ chồng Nolting ngay tại chỗ ngồi của mình – đặt đầu chiếc bàn dài. Kênh kiệu một cách vừa phải và thân tình một cách có tính toán, Diệm đứng lên khi hai vợ chồng Nolting đến trước mặt; ông bắt tay khách và hôn các con của họ. Quan khách ngồi vào bàn. Toàn bộ nội các, một số tướng lĩnh, chức việc, đô trưởng, Gardiner và các nhân viên cao cấp USOM, trưởng phòng thông tin Mỹ USIS, giáo sư Webley Fishel, phó đại sứ Porter, trung tá James Casey, đại tá Đặng Văn Quangv. v…Trung tá Nguyễn Thành Luân ngồi cuối bàn. Hầu hết quan khách đều có phu nhân cùng đi. Một dịp để các bà khoe sắc, giàu, sang, bặc thiệp… Một dịp trao đổi nguồn tin về buôn hột xoàn, các sòng bạc dành riêng cho mệnh phụ đồng thời kẻ vạch, bêu xấu nhau. Một dịp để các ông nhìn chòng chọc thân thể vợ người khác. Và, trên tất cả, một dịp để các quan chức cao cấp Mỹ chọn lựa “bồ” trong hằng mấy tá nữ thượng lưu… Tổng thống nói đôi lời trước khi nổ sâm banh: - Trước hết, tôi xin lỗi bà Olivia Nolting. Đáng lẽ buổi tiệc mừng này được tổ chức cách đây 25 ngày, khi bà vừa đặt chân lên đất nước chúng tôi. Bấy giờ, sắp tết Nguyên Đán cổ truyền của dân tộc Việt Nam, tôi muốn bà đại sứ có thời giờ thâm nhập, tìm hiểu phong tục một quốc gia phương Đông xa xôi. Sau Tết, công việc bận rộn cả phía chúng tôi lẫn phía ngài Nolting. Mãi hôm nay, chúng tôi mới lựa chọn được thời gian thích hợp – công việc tạm ổn. Tuy trễ, song tôi tin là buổi gặp gỡ sẽ hết sức đậm đà. Ngài Nolting, ngườì bạn lớn của Việt Nam Cộng hòa đã đổ nhiều tâm lực vun bồi cho tình đoàn kết đồng minh keo sơn Việt – Mỹ, tôi nghĩ rằng biểu lộ lòng biết ơn đó của việt Nam Cộng hòa không gì hơn những cuộc tiếp xúc mang tính gia đình như hôm nay. Tiện thể, tôi xin báo với Ngài đại sứ, chính phủ Việt Nam Cộng hòa quyết định tặng Ngài Bội tinh Kim khánh, Bội tinh cao nhất mà Ngài là người nước ngoài đầu tiên được tặng. Tiếng vỗ tay rào rào chen với tiếng nổ sâm banh. - Tôi xin các vị nâng cốc chúc sức khỏe bà Oliver Lindsay Nolting, ngài đại sứ Frederick Nolting, các công tử, tiểu thơ… Diệm đưa ly sâm banh lên cao. - Thưa Tổng thống, thưa quí vị… - Nolting đứng lên, sửa cà vạt, nghiêng mình khá sâu trước Diệm, chào mọi người, tỏ rõ ông ta xúc động thực sự - Thật là niềm hạnh phúc ngoài tưởng tượng của chúng tôi khi chiều nay đến đây dự buổi tiệc đầy ý nghĩa gia đình này. Bà Nolting nhờ tôi nói lên lòng cảm ơn sâu sắc của bà và các con. Cá nhân tôi, tôi không thể không bày tỏ sự cám ơn trước ân thưởng mà Tổng thống đã dành cho, dù rằng, xét một cách trung thực, đóng góp của tôi không có gì đáng kể. Chúng ta – Việt Nam Cộng hòa và Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ - đều chung mục đích bảo vệ tự do. Tôi phải nói rằng nhiệm vụ của tôi nhẹ rất nhiều nhờ vào tài lãnh đạo của Tổng thống và do đó, hoàn toàn chính đáng khi tôi đề nghị tất cả chúng ta nâng cốc chúc sức khỏe Tổng thống Ngô Đình Diệm, ông cố vấn Ngô Đình Nhu, bà cố vấn Ngô Đình Nhu và các vị trợ thủ cho Tổng thống… Nolting và vợ nâng cốc. Cả hai bước ra khỏi bàn, chạm cốc khắp lượt người có mặt. - Tổng thống Mỹ cam kết giúp đỡ Việt Nam Cộng hòa và vị lãnh tụ khả kính của nó là Tổng thống Ngô Đình Diệm. Tôi xin được chạm cốc riêng với ngài Tổng thống! Nolting và Diệm uống cạn. Buổi tiệc tiếp diễn giữa những lời chúc tụng hoan hỉ như vậy. Diệm là người hài lòng, ông cười luôn. “Tội nghiệp thím Nhu chịu cực khổ”. Ông ngó đứa em dâu với cái gật đầu tưởng thưởng nhè nhẹ. Lệ Xuân ngồi cạnh Nolting – cố giấu song vẫn không giấu nổi vẻ đắc thắng. Nolting vừa ăn vừa trao đổi với Diệm và Nhu. Không khí cởi mở, thân ái ấy được phóng viên ghi không sót một chi tiết. Luân chiêm nghiệm: Mỹ đào tạo được một hạng ngoại giao chuyên nghề - da mặt của chúng bằng sáp, lưỡi của chúng bằng chất dẻo hóa học, với độ đàn hồi cao nhất. Lê Văn Tỵ và các quân nhân lặng lẽ nhấp rượu. “Mỹ cũng đào tạo được các tay võ biền chỉ biết vâng lệnh…” – Anh chợt thấy Dung sa sầm mặt. Thì ra, James Casey đang ngó cô chòng chọc. - Thằng khả ố! – Dung nói vào tai Luân. Luân cười mỉm. - Em phải biết tự chủ. Mặc kệ hắn… Nhìn tổng quát buổi dạ tiệc, Luân thấy mọi người đều không được tự nhiên. Phải chăng bản thân lý do buổi dạ tiệc – dù Diệm đã tưới lên nó nước hoa hảo hạng, vẫn không đủ sức thuyết phục những người có mặt. Riêng Olivia – mọi người đều kín đáo quan sát bà ta – tươi cười một cách rất tự nhiên, tự nhiên đến mức giả tạo. Chăm sóc thật tỉ mỉ trang sức, Olivia vẫn không xóa nổi nét tàn tạ của một phụ nữ phương Tây hết thời xuân sắc, nhất là bà ngồi đối diện Lệ Xuân và giữa rừng hoa khôi của dạ tiệc. Câu chuyện của Olivia và Lệ Xuân xoay quanh các mỹ viện – thật ra, Olivia hơn tuổi Lệ Xuân không bao nhiêu, Lệ Xuân đẻ cũng không ít hơn bà ta. Olivia mở ví, ghi vào sổ tay một lô tên crème, tên sách nói về giữ sắc đẹp, tên mỹ viện ở Paris và Tokyo… Đến 10 giờ, quan khách đã ngà ngà, nhân viên phục vụ mời mọi người sang gian giữa – nơi bố trí thành sàn nhảy. Diệm lấy cớ không quen thức khuya, bắt tay vợ chồng Nolting và ủy cho Nhu thay ông. Thật ra, Diệm vốn ghét khiêu vũ. Đây là lần đầu, ông cho phép mở khiêu vũ tại dinh Độc Lập. Nhu đã phải thuyết phục ông khá lâu, ông bằng lòng sau khi thở dài: - Thời thế khác nhiều quá! Ý định của Nhu lộ liễu đến mức Nguyễn Văn Y, người nổi tiếng dốt chính trị, đã phải tặc lưỡi với Luân: - Ông cố vấn rước quá nhiều ca sĩ, đào hát không mấy đứng đắn, e người ngoại quốc cười… Luân biết đây là công trình của Ngô Trọng Hiếu. Những cô gái “bốc lửa” như báo chí gọi, trong các kiểu quần áo hở hang và mỏng dính ghì các quan chức Mỹ, theo nhạc giậm giật, vang động cả dinh cơ bấy lâu là chốn thâm nghiêm. Ngô Đình Nhu, đạo mạo và khô khan thế, vẫn mời Olivia Lindsay ra sân. Đáp lại, Nolting và Lệ Xuân thành cặp, James Casey tìm Thùy Dung. Đoán trước sự thể này, Dung lách vào trong. - Bà trung tá đâu rồi, thưa trung tá? James Casey hỏi Luân. Luân cũng giả vờ ngó quanh, tất nhiên không tìm thấy: - Chắc nhà tôi nhức đầu vì mấy hớp sâm banh, cô ấy rất yếu rượu, dù là rượu nho. James Casey nhún vai thất vọng. Gã chọn một phụ nữ, hẳn là phu nhân một viên chức Việt nào đó, khá hấp dẫn. Đèn mờ ảo, dinh Độc Lập dường tách khỏi ngoại cảnh – cuộc chiến tranh đẫm máu lan đến mọi vùng hoang vắng. Lướt qua đám khiêu vũ, người ta dễ có ấn tượng mối tình Việt Mỹ nóng sốt, thơm tho như sự va chạm thịt da nam nữ và những câu thì thầm tình tứ khắp gian phòng phảng phất màu sắc vương giả. Bản nhạc chấm dứt. Mọi người vỗ tay, trở lại ghế đã bày các thức uống. Nolting và Lệ Xuân mang cốc ra hành lang, Nhu cũng làm như vậy với Olivia, Luân thấy Lệ Xuân nói câu gì đó mà Nolting lắc đầu kiên quyết. Mặt Lệ Xuân rạng rỡ hẳn. “Gã đại sứ cam đoan không có đảo chính!” Luân nghĩ thầm. Nhạc lại trỗi. Olivia xin phép về trước với các con. Nhu chủ động mời Nolting dự cho xong chương trình. Olivia vui vẻ nhận lời thay chồng. “Bà ta đóng khá tròn vai trò đau nhói này nhưng không thể chứng kiến mãi tấn tuồng…”, Luân nhận xét. Nhu tìm chỗ ngồi nghỉ, đúng ngay chỗ Luân. - Anh không nhảy? Cô Thùy Dung đâu? – Nhu hỏi. - Cô ấy có lẽ không khỏe, vào trong. Tôi chưa nhảy vì chưa biết nhảy với ai… - Luân nói vui. - Nếu anh muốn, tôi giới thiệu cho… - Khoan đã… Tôi muốn thay anh quan sát một lúc… - Cám ơn… Hai người hút thuốc, ngó toàn cảnh sân nhảy. Anh cho cả cô Minh Hiến – gọi là Hiến “Vamp” – đến đây nữa sao? – Luân hất hàm về một cô gái trong vòng tay Fishel; cô gần như phơi trọn bộ ngực đồ sộ và cặp đùi tròn căng. Báo chí gần đây không ngày nào không nhắc đến cô – hát không hay mà vẫn là cây đinh của “Sài Gòn by night” bởi cô cuốn hút khách không chỉ bằng giọng hát. Người ta, thậm chí, nói đến những cuộc đọ súng giữa các sĩ quan cấp tá, cấp tướng quanh cô, “Marilyn” hoặc “B.B” Việt Nam. - Biết làm thế nào được… - Nhu thở dài, như Diệm thở dài mấy hôm trước. Luân cảm thấy cái buồn rã rời trong Nhu, nhà tư tưởng lớn của chế độ, lãnh tụ Phong trào thanh niên Cộng hòa, lãnh tụ đảng Cần Lao. Tình thế xô đẩy con người tầm cỡ đó đi đến nhưng thủ pháp rẽ tiền nhất. Cho nên, hoàn toàn không có gì khó hiểu khi Nhu xây một P.42. những dự báo kinh khủng. Rõ ràng, hai nhân vật mà Nhu quyết “chài” là Nolting và Fishel. Giáo sư Fishel, chuyên gia giúp linh mục Cao Văn Luận xây trường Đại học Huế, cũng góp xây dựng Đại học Đà Lạt – cả hai đều dính đến giáo hội Thiên Chúa – là đầu não CIA ở Nam Việt, người đưa Diệm lên ghế thay cho Bảo Đại. Tiếng nói của ông ta nặng cân nhất về tình hình Nam Việt trước kia cũng như hiện nay. Lệ Xuân lả trong tay Nolting; Luân tin rằng Nhu hiểu rõ những lời mà cả hai người đang nhỏ to với nhau. Nhu bình thản đến lạnh lùng. “Mọi phương tiện đều tốt miễn nó đạt mục đích”. Ngô Đình Nhu thể hiện câu triết lý cổ đại tại đây, bằng chính vợ mình. Lệ Xuân, vẫn áo hở cổ, có vẻ già dặn hơn các cô gái nhảy chuyên nghiệp. - Chú Nhu này! – Một người can thiệp vào sự yên lặng nơi góc phòng có Nhu và Luân. Người đó là giám mục. - Đức cha chưa nghỉ? – Nhu đặt ghế mời anh. - Chưa… Nhạc om sòm, nghỉ thế nào được… Luân không nhảy sao? - Thưa, con không thấy hứng thú… - Nên nhảy, con ạ. Hứng thú hay không, không phải là việc con cân nhắc. Bổn phận con phải nhảy! “Ông giám mục đã bước khá sâu vào mưu mô chính trị rồi!” – Luân nghĩ. - Dạ, con sẽ nhảy. Con đợi anh Nhu giới thiệu người mà anh ấy chọn cho con… - Tốt! – Giám mục buông thõng câu nói. Ông bắt sang câu khác: - Chú Nhu nè, chú nhớ nói một tiếng với thằng Bộ trưởng kinh tế Hoàng Khắc Thành để hắn cấp giấy phép đặc biệt cho chị Cả Lễ chở gạo ra miền Trung… - Khổ quá! – Nhu kêu lên – Đức cha cũng biết cơn bão Wilda hủy hoại gần một triệu mẫu ruộng Tây Nam phần. Gạo Sài Gòn vọt lên gần 600 đồng một tạ, ta phải nhập hỏa tốc 50.000 tấn gạo Thái Lan. Làm sao Bộ kinh tế cho phép tư nhân chuyển gạo ra Đà Nẵng để xuất cảng? Đã có lệnh của Tổng thống cấm xuất khẩu gạo. - Thiếu là thiếu vạn, thiếu triệu, chớ thiếu chi vài nghìn tấn! Chú liệu mà cư xử, kẻo trong nhà lại bất hòa, không tiện! – Giám mục xẵng gịong. - Anh Luân thấy đấy! Tai tiếng quá nhiều rồi, bộ muốn chết chùm sao? – Giọng Nhu không còn lễ độ nữa. Luân tảng lờ không nghe. Chuyện tranh chấp trong gia đình Tổng thống càng về sau càng gây cấn, quanh các món lợi, nhất là giữa Lệ Xuân và Cả Lễ, Ngô Đình Cẩn… - Tai tiếng quá nhiều! – Giám mục nhại lại, liếc về phía Lệ Xuân và Nolting. - Vợ chồng tôi chấp nhận tai tiếng, là vì sao, Đức cha tất hiểu. – Nhu sừng sộ. - Anh Luyện khi nãy không thấy, bây giờ lại có mặt! Luân chỉ về phía xa xa, Ngô Đình Luyện đang nhận Minh Hiến từ tay Fishel. Anh muốn đánh lạc hướng cuộc cãi lẫy giữa hai anh em họ Ngô. - Chú ấy chỉ về đây vào lúc này, lúc khiêu vũ… Tôi mấy lần đề nghị Tổng thống bãi chức đại sứ của chú ấy. Chẳng giúp được gì cho chính phủ, suốt ngày chạy theo gái. Về đây, dám leo rào đi chơi suốt sáng… Quá thể rồi! – Nhu lầu bầu, không chỉ nói về Luyện mà hẳn muốn nhắn nhe giám mục. - Chú xem vụ nhập cảng phân hóa học, ông đại sứ có đồng ý nới cho ta điều kiện chút nào không? Trường Cần Lao nhân vị Vĩnh Long trông cậy số phân đó... Giám mục rõ là không nghe ra lời nhắn nhe của Nhu. Vừa tức, vừa ngượng với Luân, Nhu đứng phắt dậy: - Anh Luân đi theo tôi! Luân ái ngại nghiêng mình chào giám mục. Giám mục làm một cử chỉ cho phép, rồi lững thững quay lưng theo hành lang ra phía sau. Trông bước giận dỗi của giám mục, Luân bùi ngùi – giám mục trước sau vẫn hết lòng che chở Luân, nhờ “cây dù” quyền thế của ông mà Luân vượt qua khỏi những ngày đầu sóng gió. Đôi lúc Luân nghĩ đến một trả ơn – cách nào đó, trong hoàn cảnh nào đó, anh chưa biết – song nhất thiết phải như vậy. Một giáo phẩm cấp cao, tham vọng cả đời lẫn đạo đều nồng nhiệt, giám mục càng về sau, theo cái đà phục chế “vương triều nhà Ngô” thọc tay vào vô số chuyện mờ ám và ông quên rằng chính ông góp phần khó khăn không nhỏ đe dọa sinh mệnh của dòng họ ông… Dù theo nghĩa nào, ông vẫn là người ơn của mình”! - Tôi bất lực! – Nhu vừa đi vừa càu nhàu – Thật khó mà làm cho họ hiểu. Anh thấy đấy, nội bộ gia đình chúng ta gây nên nhiều nguy hiểm không kém bất cứ kẻ thù nào… Luân không tiện can thiệp vào cơn bất mãn của Nhu. Dẫu sao, lịch sử đã an bài. “Mâu thuẫn nội bộ địch là đồng minh của cách mạng” – Luân nhớ lời anh Hai trong cuộc gặp gỡ trước khi Luân rời chiến khu. Mâu thuẫn ấy bức xúc nhiều vẻ, đến nỗi phát lộ ngay giữa anh em ruột và trong cái gia đình lẽ ra phải thuận thảo hơn ai hết, nhất là vào lúc này. Họ Ngô cầm quyền từ tháng 7-1954 đến nay, tròn 6 năm 7 tháng, khoảng thời gian đủ để cho viện trợ Mỹ và tình trạng chiến tranh sinh nở một tầng lớp tư sản mới – tư sản cầm quyền. Nếu lợi ích của họ nhất trí với mục tiêu chống Cộng thì họ rất chia rẽ nhau về sự phân chia lợi ích đó, trên lĩnh vực quyền bính và kinh tế, mà quyền bính xét cho cùng cũng là kinh tế. Gia đình Diệm tập trung mọi thứ danh lợi. Lớp tư sản không được tham chính, khá đông về số lượng, khá mạnh về kinh tế, trực tiếp quan hệ với tài phiệt Mỹ trong đó không ít là con bài dự bị của Mỹ. Trong lớp tham chính, bộ phận tướng tá lớn dần, bất mãn với cách ăn chia của gia đình Diệm. Rồi đến lượt gia đình Diệm, cánh Huế cho rằng Lệ Xuân dựa thế Diệm lấn lướt họ. Chỉ nhìn từ góc độ đó thôi, tiền trình của họ Ngô thật mờ mịt… Nhu đưa Luân đến một thiếu phụ. Bà ngồi một mình có lẽ nghỉ mệt sau một bản nhảy tốn nhiều sức. Với Luân, bà không phải là kẻ xa lạ. Saroyan – người Ả Rập, vợ của Fishel. Thỉnh thoảng Luân gặp bà ta trong các buổi tiếp tân. Bà đại diện cho Hội phụ nữ từ thiện quốc tế, kết hợp với công tác của chồng mà thường trú ở Sài Gòn. Trên dưới 30 tuổi, nước da “cà phê sữa” như đàn ông vẫn gọi, mái tóc đen nhánh và đôi mắt to. Saroyan thu hút giới ngoại giao bằng vẻ đẹp pha Âu-Á, phần nào “man rợ” như tướng André có lần nhận xét. Hôm nay, tại buổi dạ vũ đài các này, hai ngôi sao sáng rực – Trần Lệ Xuân và Soroyan. “Giá mà Thùy Dung của mình chịu ra sàn nhảy, phải nói có đến ba ngôi sao!”. Luân bắt tay Sorpyan và nghĩ thầm. - Hân hạnh gặp trung tá! – Soroyan tươi cười chào Luân. - Trung tá Nguyễn Thành Luân muốn mời bà! – Nhu nhã nhặn giới thiệu. - Ồ! Ông cố vấn khỏi làm trung gian. Trung tá và tôi quen nhau từ lâu… Sẵn sàng! - Thế sao? – Nhu làm vẻ sửng sốt. Và sau đó cười mỉm – Chúc bà một đêm vui vẻ! Dàn nhạc bắt đầu chơi một bản valse. Luân đưa Soroyan ra giữa sàn. - Buổi dạ vũ này hình như tổ chức theo một yêu cầu chính trị… - Soroyan bảo Luân. - Tôi không rõ, thưa bà… Tôi là một quân nhân, và tại đây, tôi là chủ… - Luân trả lời, thăm dò. - Ông rõ, rất rõ! – Soroyan cười. – Tổng thống Diệm tìm cách tự vệ, tiếc rằng đội quân tự vệ gồm số đông taxi girl (1) không thể là một đội quân có sức chiến đấu tốt! Giống như Liên binh phòng vệ trước đây trong biến cố 11-11… Hẳn Soroyan nói đến Minh Hiến và các cô gái nhảy khác. - Tệ hơn cả là ông Nhu cho bà Nhu đóng vai trò không mấy đẹp ấy quá lộ liễu. Quả Lệ Xuân và Nolting đang lẩn vào một vùng tối. - Xin lỗi bà giáo sư@ – Luân thấy cần thiết phải phản kích – Đây là một cuộc vui và bà cố vấn là chủ, ông Nolting là khách… - Ông tranh luận với tôi làm gì? Ngay ông, ông mời tôi nhảy đâu phải vô tư? Thậm chí, ông Nhu nhờ ông… Ông vẫn với tư cách là chủ nhà đấy, phải không? Soroyan nói tiếng Pháp sõi như người Pari. - Nếu vậy thì… - Luân nới lỏng tay. - Không sao, ông đừng vội nóng. Nếu ông không mời tôi, tôi cũng sẽ mời ông, dù biết rằng ông coi trên trái đất này chỉ có mỗi bà trung tá. Tôi thích ông! Soroyan đặt tay Luân lên bờ vai trần của bà ta. Luân chợt rùng mình. Soroyan cười khúc khích: - Sao ông sợ? Tôi có phải là con rắn độc đâu? - Tôi không sợ nếu bà cho tôi biết bà nhảy với tôi là do sở thích của riêng bà. – Luân lấy lại tự chủ. - Ông muốn hỏi tôi có chịu ảnh hưởng của ông Fishel không, chớ gì? Trong trường hợp này, tôi độc lập. Cần báo với ông, Fishel cảm tình với ông. Nếu có một cái gì khiến Fishel khó chịu là ông trẻ, còn Fishel già. Soroyan cười, phả cả hơi nóng vào mặt Luân, nhưng sau đó, bà ta lại sa sầm mặt… - Ông xem phim “La Valse dans l’ombre” (2) chưa? - Có… Robert Taylor và Vivien Leigh với bài “Ce n’est qu’un aurevoir” (3). - Bỗng nhiên, tôi có cảm giá chúng ta đang ở trên bờ sông Tamise và ông sắp ra mặt trận… - Giọng Soroyan cực kỳ quyến rũ. - Tiếc là tôi không sẵn một tượng Phật để làm kỷ niệm cho bà… Và, chúng ta ở trong một lâu đài chứ không ở dưới hầm tàu điện Luân Đôn, giữa mưa bom V1, V2… - Luân đùa. - Ông khác Fishel… Fishel đã vồ Minh Hiến trở lại và hai người gần như hòa làm một… bản nhạc du dương nhưng hai người lại cuồng loạn. - Giáo sư thích ca sĩ Minh Hiến! - Không phải… Ông Fihel chưa hề biết thích ai, kể cả tôi. Ông ta ly dị vợ và cưới tôi, nhưng không phải vì say mê tôi… Luân giả bộ kinh ngạc. - Tôi là người Kuwait. Xứ sở tôi, theo dự báo của các nhà địa chất, sẽ trở thành một trong những nơi sản xuất dầu hỏa hàng đầu thế giới. Đấy, vì sao Fishel cưới tôi. Công vụ đòi hỏi ông ấy như vậy và ông ấy cũng thích như vậy… - Giọng Soroyan buồn buồn. - Thế, tại sao giáo sư không cưới một phụ nữ Việt Nam, Minh Hiến chẳng hạn? - Trước kia, ông ấy định cưới một phụ nữ Việt Nam, trong gia tộc ông Diệm, con của bà Cả Lễ hoặc của ông Khôi. Nhưng khi ông biết rằng, ông sẽ rời Việt nam sang công cán ở Trung Đông, ông cưới tôi… Trước tôi, bà vợ mà ông ấy ly dị là một người Nhật – đẹp mê hồn… Còn trước nữa, một người Đức, xấu hơn bất kỳ người phụ nữ xấu nào trên hành tinh này… Chắc chắn tôi không phải là bà Wesley Fishel cuối cùng… Ông Fishel đã vào tuổi 62 rồi đó! Hết bài nhạc, Luân đưa Soroyan về chỗ. - Tôi là bạn của Fanfani, Helen nhắc ông luôn! – Soroyan cười tinh quái. “À, thì ra là cô nhà báo đã ba hoa về mình”. Luân ngồi cạnh Soroyan, suy nghĩ về mối quan hệ hơi đột ngột hôm nay. Fanfani nói gì? - Helen mê ông, nhưng cô ta biết là tuyệt vọng… Bà trung tá hãnh diện hay ghen về các mối qua hệ đó? - Thùy Dung của tôi rất hiểu… - Luân trả lời lơ lửng. - Không hiền đâu! Một nhân viên công an thì làm sao hiền được… Nhưng, nó có ý nghĩa gì đối với chúng ta? Tự nhiên, Luân cảm thấy thương hại cô gái Ả Rập. Anh chợt nhớ Tiểu Phụng, cô gái Hoa mà cái chết bi thảm ám ảnh dai dẳng Luân. Giữa lúc đó, Thùy Dung từ phía trong bước ra. Soroyan cầm tay Dung, kéo ngồi xuống cạnh: - Bà trung tá ẩn mình đâu đó theo dõi chúng ta! May mà trung tá không hôn tôi, hoặc ngược lại. Cũng may mà đêm nay không có Fanfani… - Soroyan cười hồn nhiên. - Tôi chỉ cảm thấy bà và anh Luân tôi nhảy rất đẹp! – Dung không chịu kém – Nếu các bạn hôn nhau, tôi xin được chia sung sướng… Nói thế thôi, anh Luân tôi xấu trai lắm! - Bà nói sai! – Soroyan reo – Bà mà bỏ trung tá, tôi lấy ngay! Dung lay Luân: - Thế nào, anh Luân? Luân chưa hề đùa kiểu đó bao giờ, tai anh nóng bừng bừng, trong lúc Soroyan vẫn chưa buông tha anh: - Nhảy đẹp đôi chứ! Bà đồng ý nhường trung tá cho tôi không? - Nếu cả hai người tình nguyện, tôi chẳng những không phản đối mà còn hoan nghênh! James Casey chực hờ từ bao giờ, bỏ cô vũ nữ giữa sân nhảy, phăm phăm đến trước Dung: - Xin mời bà trung tá! Xin phép trung tá… Dung dứt cười, vẻ tinh nghịch tan biến, uể oải đứng lên: - Tôi không được khoẻ, xin tiếp trung tá James Casey một bài ngắn thôi. - Đúng đấy! – Soroyan bảo. - Bà trung tá theo nếp phụ nữ châu Á chặt chẽ quá! – Soroyan bình luận khi James Casey dìu Dung ra sàn, cô giữ khoảng cách với hắn và không rời khu trung tâm, nơi ánh đèn sáng hơn mọi nơi. “Tội nghiệp Dung. Đối với cô đấy là cực hình…”. Luân liếc vợ, chia xẻ. - Bà trung tá ra sân nổi bật như hoàng hậu của buổi dạ vũ. – Soroyan khen – Ông hạnh phúc lắm. Tôi rất thích ông vì ông yêu vợ. Giá mà tôi được như Dung… Soroyan không thể biết Dung khổ sở như thế nào trong những buổi tập khiêu vũ - ở trường của Bộ nội vụ trước kia và ở nhà sau này; hai vợ chồng học động tác nhảy theo sách… - Bà có thấy mọi người đàn ông ghen với tôi không? – James Casey tán. Dung không trả lời, trông cho bài nhạc mau hết. Cô thở phào rời sân nhảy, James Casey trả Dung về chỗ. - Bà thật quá dè xẻn với tôi… Liệu còn dịp nào tôi được tiếp bà nữa không? Dung lặng lẽ sà cạnh Luân. - Ông không cho bà Luân nhảy bấy nhiêu với ông là một đặc ân sao? – Soroyan gỡ cho Dung. - Thế, tôi xin bà Fishel cho tôi một đặc ân thứ hai. – James Casey chìa tay cho Soroyan. - Tôi có thể nhảy với ông cho tới sáng, nhưng, ông xem kia, ông Nhu sắp chúc chúng ta ngủ ngon… Buổi dạ vũ kết thúc vào nửa đêm. Nhu nói mấy lời cảm ơn. Nolting xin phép đưa Lệ Xuân sang phía trái dinh Độc Lập, nơi ở của gia đình Nhu. Vừa lọt vào hành lang, Nolting đã thầm thì: - Nhớ nhé, cuối tuần, Nha Trang, Olivia không đi… - Ngài đại sứ biết em không từ chối bất kỳ một đòi hỏi nào của ngài. Em yêu ngài. – Lệ Xuân dán sát người vào Nolting – Song nhiều việc khiến em không vui… - Ví dụ? - Trước hết, dư luận về chúng ta. Kế đó, gia đình chúng em bỗng trở thành đối tượng đả kích của dư luận báo chí Mỹ, họ đánh chúng em còn hung hăng hơn đánh Cộng sản… - Ô, bọn báo chí! Để ý làm gì! Tổng thống Mỹ cam kết ủng hộ Tổng thống Diệm. Vả lại… Đến đúng lối rẽ vào phòng của Lệ Xuân, Notlting hôn Lệ Xuân. - Em không thể mời anh vào phòng em lúc này... Anh đừng giận nhé… Nolting thô bạo, ghì Lệ Xuân thật mạnh. Trong một thoáng, Lệ Xuân nhận thấy đôi mắt Nolting lóe một tia kỳ dị. - Cuối tuần, Nha Trang… Nolting rời Lệ Xuân. Gã nuối tiếc – Lệ Xuân khó hiểu nổi nguyên nhân đích thật của sự nuối tiếc kia… Mụ đinh ninh gã đại sứ thèm mà không thỏa mãn. Ngoài thềm, Soroyan bắt tay Luân và nhân lúc Nhu và Fishel đang tỉ tê, bà nói thật nhanh vào tai Luân: - Bất kể như thế nào, sáng mai, ông cũng không được đến đây trước 8 giờ… Ông nhớ! * Tin của Reuter:Sài Gòn bàng hoàng vì những tiếng nổ lớn. Hai chiếc máy bay ném bom AD6 ném bom và bắn phá dinh Độc Lập từ lúc tờ mờ sáng. Nhiều cột khói bốc cao. Chưa rõ số phận của Tổng thống Diệm. Tin của AFP: Một lần nữa, quân đội can thiệp vào chính trị ở Sài Gòn. Hai chiếc máy bay chiến đấu Skyraider, vừa được Mỹ trang bị cho quân đội Nam Việt đã ném bom và bắn phá dữ dội dinh Độc Lập, nơi tượng trưng quyền uy của chế độ Tổng thống Ngô Đình Diệm. Hình như không có bộ binh can thiệp. Khu vực trung tâm thành phố bị cô lập. Dư luận đồn đãi Tổng thống Ngô Đình Diệm thiệt mạng… Tin của Hãng thông tấn Trung ương Đài Bắc: Một trận oanh kích xảy ra sáng nay ở Sài Gòn nhằm vào dinh Độc Lập. Một phi cơ phản loạn bị bắn rơi. Thiệt hại không đáng kể. Tổng thống Diệm an toàn. Thống chế Tưởng Giới Thạch đã nhân danh Trung Hoa Dân quốc gửi điện cho Tổng thống Diệm… Tin của AP: Dinh Độc Lập giữa trung tâm Sài Gòn bị hai phi cơ chưa rõ xuất xứ ném bom và bắn phá từ 7 giờ 15 đến 7 giờ 25, giờ Sài Gòn. Bốn quả bom rơi vào cánh trái dinh Độc Lập, nơi ngụ của gia đình ông bà Ngô Đình Nhu, bào đệ của Tổng thống Diệm. Cánh trái đó sụp đổ hẳn. Cao xạ của Hải quân đã hạ một trong hai phi cơ, tại Nhà Bè, ngoại ô phía nam thành phố vào lúc 7 giờ 35. Viên đại úy phi công tên là Phạm Phú Quốc, nhảy dù, bị bắt sống. Phái viên bản hãng quan sát tại chỗ: căn lầu tư thất của ông bà Nhu và văn phòng của bộ trưởng Nguyễn Đình Thuần cháy dữ dội. Bà Ngô Đình Nhu bị thương nặng. Thông báo của Phủ tổng thống: Đài Sài Gòn phát vào 10 giờ sáng: Sáng nay, hai phi cơ chiến đấu AD6 do hai sĩ quan phi công Phan Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử lái, đã ném bom dinh Độc Lập vào hồi 7 giờ 15. Bom gây một số thiệt hại vật chất. Hai nhân viên phục dịch Phủ tổng thống mà một là phụ nữ, thiệt mạng. Tổng thống và gia đình an toàn. Lực lượng bảo vệ Phủ tổng thống và Hải quân đóng trên bến Bạch Đằng đã can thiệp kịp thời, đánh đuổi bọn phản nghịch. Một trong hai phi cơ bị bắn rơi tại Nhà Bè, tên Phạm Phú Quốc, lái phi cơ bị bắt sống. Chiếc kia bay sang Cambốt, hạ cánh vào 8 giờ 50 tại phi trường Pochengtong. Bộ ngoại giao Việt Nam Cộng hòa đã mời đại diện Cambốt đến trao công hàm chính thức yêu cầu trao trả phi cơ và tên Nguyễn Văn Cử. Dư luận ghi nhận cả hai tên phi công thuộc đảng Đại Việt và được đào tạo tại Trường không quân Carolina. Phủ tổng thống kêu gọi dân chúng bình tĩnh. Bọn phản loạn tay sai ngoại bang và Cộng sản nhất định sẽ bị trừng trị đích đáng. Nhật lệnh của đại tướng Tổng tham mưu trưởng có đoạn viết: Hành vi đơn độc của hai tên phản loạn chỉ khiến cho tướng lĩnh và sĩ quan Việt Nam Cộng hòa càng siết chặt hàng ngũ quang Ngô Tổng thống… Bức tâm thư của đại úy Nguyễn Cao Kỳ, do Đài quân đội phát và do đại úy đọc có đoạn: Nhân danh lực lượng không quân, tôi cực lực lên án hành động bỉ ổi của hai tên lạc ngũ Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử. Đó là những tên “ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng sản”, chúng cần phải được nghiêm trị. Trong giờ phút trọng đại của đất nước, âm mưu ám hại Tổng thống, vị lãnh tụ anh minh của dân tộc, đồng nghĩa với sự quỳ gối dâng miền Nam tự do cho Cộng sản… Cái đáng tức cười hơn cả là báo chí Sài Gòn phát hành buổi sáng 27-2 đăng tin và tường thuật đêm dạ vũ trong dinh Độc Lập, kèm nhiều ảnh. Riêng các tờ “Cách mạng quốc gia”, “Ngôn Luận”, “Tự Do” in ảnh Diệm và Nolting chạm cốc, bài nói của cả hai. Việt tấn xã viết một xã luận, nhan đề: Không khí đầm ấm Việt Mỹ, một cái tát vào bọn chia rẽ khối đoàn kết thân hữu vững chắc. Tờ Tiền Tuyến đề tựa cho bài bình luận: Bọn tung tin đảo chính, hãy coi đây! Dưới bài, ảnh Nolting và Lệ Xuân, Nhu và Olivia đang lả lướt… * Điện thoại reo. Trần Lệ Xuân bị một mảnh gạch chém nhẹ vào má, cầm ống nghe.- Nolting đây… Việc gì đã xảy ra? Ai ở đầu dây đó? Tổng thống Diệm, ông Nhu, bà Nhu như thế nào? Tôi sẽ đến ngay. - Nolting gọi! – Lệ Xuân che ống nói bảo Nhu. Nhu trong bộ áo ngủ xộc xệch, cau mày. - Em trả lời nhé? – Lệ Xuân hỏi… Nhu gật đầu. - Alô... Tôi, madame Nhu đây… - Hoan hô… - Nolting gào trong máy. - Rất tiếc, thưa đại sứ, tất cả chúng tôi đều bình yên… Lệ Xuân gác máy, mạnh tay. Ngày 28, Bộ ngoại giao Hoa Kỳ tuyên bố: Tình hình Nam Việt rất vững. Tổng thống Kennedy gửi điện chúc mừng Tổng thống Diệm thoát nạn, lên án “những tên Cộng sản” phá hoại… Ngô Trọng Hiếu và Trương Công Cừu kiến nghị tổ chức cuộc mittinh phản đối bọn Thức – Phong – Cộng. Nhu trả lời: Dẹp! Tốn tiền vô ích. Ngày 4-3, lễ Không quân nhất trí tại bến Bạch Đằng. Tổng thống Diệm ngồi sát đại sứ Nolting xem các kiểu phi cơ nhào lộn, trong lúc các tàu hải quân chĩa cao xạ tua tủa. Cùng ngày, Trần lệ Xuân đáp máy bay sang Nhật: vết thương trên má cần được các chuyên gia thẩm mỹ xử lý. Chỉ có Ngô Đình Nhu và các con tiễn Lệ Xuân. … Cuộc điều tra cấp tốc do Trần Kim Tuyến tiến hành cho biết: 7 giờ 10 phút sáng, hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử được lệnh xuất kích can thiệp ở vùng Đức Hòa – một toán Việt Cộng không rõ quân số tấn công một đồn Bảo an. Khi hai máy bay AD6 rời phi đạo, lấy vòng bay khác thường. Đài chỉ huy cảnh cáo phi công: máy bay mang bom, không được vượt ngang thành phố. Từ độ cao 3.000 mét ở phía Nhà Bè, tránh ánh mặt trời vừa nhô, hai máy bay nối tiếp nhau lao xuống dinh Độc Lập, nhả liền mỗi chiếc hai quả bom loại sát thương, cân nặng mỗi quả 100 cân Anh… Bom rơi khá chính xác. Lấy bựng khói làm điểm, máy bay lao lần thứ hai, xả tiểu pháo 20 ly kỳ hết đạn. Chiếc do Cử lái cất đầu lên và bay thẳng về phía tây. Chiếc do Quốc lái vì tránh cao xạ của Hải quân, bay chệch về phía Nhà Bè và trúng đạn. Quốc nhảy dù, rơi xuống vùng Tân Thuận… Quốc không chống cự khi bị lực lượng an ninh bao vây. Nhu gọi cả Bộ tư lệnh không quân đến Sở mật vụ, đích thân hỏi cung: Có đúng là hai phi công cần phải xuất kích can thiệp một đồn bị tấn công không? Tại sao hai phi công phản loạn lại có thể cùng bay một lượt? Tại sao chọn rạng sáng ngày 27 là ngày dinh Độc Lập dậy muộn sau đêm dạ vũ? Những cuộc bắt bớ âm thầm nhưng ráo riết lan ra ngoài binh chủng không quân. Số tình nghi Đại Việt đều bị câu lưu. “Sau Dù và Không quân, đến lượt binh chủng nào trở mặt?”. Nhà báo Fanfani đặt câu hỏi. Đó cũng là câu hỏi của Nhu – và cũng là của Nguyễn Thành Luân. * Khi những tiếng bom rung chuyển đập mạnh vào kính cửa sổ, Luân vọt ra khỏi nhà. Anh linh tính là sự cố đang đến.- Đúng như bà Soroyan nói với anh. – Dung bảo. Thạch trèo lên ngọn cây trước nhà: - Dinh Độc Lập “bị” rồi! Hai chiếc Skyraider lao xuống lần thứ hai, tiếng rít rờn rợn. - Công trình của Fishel… - Luân và Dung ngó nhau. Luân chưa đoán tình thế sẽ đi đến đâu và cũng chưa biết việc nên làm trước mắt là gì thì pháo cao xạ nổ dữ dội. Trên đường phố, tiếng xe chữa lửa réo liên hồi – chứ không phải xe tăng. - Một máy bay trúng đạn, bốc cháy… Phi công nhảy dù… - Thạch tiếp tục thông báo. - Chắc chỉ có bấy nhiêu thôi… - Luân bảo Dung, thất vọng. Anh quay điện thoại. Dinh Độc Lập trả lời… - Một lời cảnh cáo nữa… - Dung nhận xét. - Có thể, lần cảnh cáo sau cùng… Luân chợt nhớ đến Mai. Nhưng, nhiệm vụ không cho phép anh mạo hiểm gặp Mai. Nơi anh phải có mặt là dinh Độc Lập. Luân vấn an Tổng thống và giám mục. Cả hai đã chuyển sang dinh Gia Long. Mặt cả hai tái mét, có thể không vì sợ những quả bom phản bội vừa rồi mà sợ những bất trắc khôn lường trong những ngày sẽ tới. Nhu lạnh lùng nhìn Luân. - Thế đấy! CIA! – Nhu rít qua khẽ răng. Chỉ có mấy mươi phút, Nhu như già thêm hàng chục tuổi. Rồi Nhu lên xe, đến chỗ bác sĩ Tuyến. Trông bàn tay anh ta run run mở cửa xe; Luân biết bầy cọp ở Sở thú sẽ được no nê. Buổi chiều, Dung từ Tổng nha cảnh sát về cho biết: Phạm Phú Quốc, sau 15 phút hỏi cung, đã khai tuốt luốt. Vũ Liệu chạy trốn song không thoát – ông ta bị Mai Hữu Xuân bắt trên đường ra miền Trung. Trong danh sách những kẻ trọng phạm, có Mai và người chú của cô, lao công Sở thú. Luân không ngại một chút nào Mai khai cho anh. Song, anh thấy không thể nào cứu Mai nổi. Mai sẽ chết thôi, chết cực kỳ đau đớn như người chồng. * Đầu tháng 4, Luân được lệnh của Tổng thống đi tu nghiệp ở Trường tham mưu sĩ quan cao cấp tại Fort Brag, Hoa Kỳ. Thời hạn là một năm. Dung cũng được tu nghiệp ở Học viện cảnh sát Bắc Caroline. Đồng thời với lệnh đó, Luân được thăng hàm đại tá và Dung, trung úy.Họ thu xếp để Thạch vào Trường cảnh sát Quốc gia, khóa đào tạo sĩ quan, mở ở Chợ Nhỏ, Thủ Đức. Báo chí đưa tin về Luân xuất ngoại. Như vậy, anh Sáu Đăng, A.07 và Sa sẽ biết… Tổng thống, giám mục và vợ chồng Nhu tiễn họ bằng một bữa cơm gia đình. Đó là bữa cơm mà những người dự ít nói nhất. - Tôi mong anh, sau khi tốt nghiệp, về ngay… - Nhu bắt tay Luân thật chặt. - Nếu tướng Harkins không làm áp lực đến mức chỉ định đích danh anh, tôi không chịu nhả anh trong lúc này đâu… Thôi, đằng nào cũng phải qua một khóa – cái nhãn bắt buộc các sĩ quan và tướng lãnh Việt Nam Cộng hòa. Luân định từ giả số bạn bè như Nguyễn Thành Động, đại tá Lâm, Lê Khánh Nghĩa… song thấy không có lợi. Đại tá Đặng Văn Quang đưa vợ chồng Luân ra tận cầu thang máy. Đưa vợ chồng Luân còn có Fanfani, James Casey và một thiếu tướng thay mặt cho Harkins. James Casey cho hay hè này hắn về Mỹ và sẽ tìm thăm Luân và Dung… Fanfani đùa: Có thể tôi về Mỹ vì bị trúc xuất! Soroyan điện thoại cho Luân trước đó: hẹn gặp ở Mỹ. Chiếc Boeing nghiên cánh, quay ra biển cả. - Một năm tái ngộ! – Luân vẫy thành phố Sài Gòn đang chói chang nắng. - Một năm! Bao nhiêu biến đổi! Dung chép miệng. Qua ô cửa máy bay, dinh Độc Lập tàn phá đang bị đập nốt phần còn sót. Sơ đồ xây lại dinh đã thông qua. Lần này, chính Tổng thống Diệm chỉ đạo, dinh Độc Lập sẽ kiến trúc theo các quẻ của Kinh Dịch, mặc dù người thiết kế là một Tây học – Ngô Viết Thụ. --- (1) Gái nhảy. (2) Vũ khúc trong bóng mờ. (3) Chỉ là tạm biệt.
__________________
![]() |
#7
|
||||
|
||||
![]() Ván Bài Lật Ngửa Phần 7 - Chương 1 Cao áp và Nước lũ Thông báo của Bộ nội vụ: Sáng 8-5-1963, nhân cuộc rước Phật từ chùa Diệu Đế lên chùa Từ Đàm, nhiều biểu ngữ được giương lên chống đối chính phủ. Ngay tại Từ Đàm, chỗ tập trung hành lễ, các biểu ngữ ấy được nhà sư tên Trí Quang đọc lớn qua máy phóng thanh và giải thích một cách xuyên tạc đường lối của Việt Nam Cộng hòa. Nhiều đại diện chính quyền có mặt nhưng vẫn bình tĩnh và nhờ đó, cuộc lễ được cử hành đến kết thúc, không có việc gì đáng tiếc xảy ra. Tối lại, theo dự kiến của chương trình đã phân phát rộng rãi và đã phát thanh thì phải có cuộc múa hoa tại chùa Từ Đàm nhưng không biết vì lẽ gì, chương trình đó bị Ban tổ chức lễ Phật đản hủy bỏ. Vài trăm người kéo xuống Đài vô tuyến Huế để nghe phát thanh, nhưng buổi phát thanh này bãi bỏ vì Ban giám đốc Đài vô tuyến Huế cho rằng nếu phát cuốn băng ghi âm cuộc tập họp buổi sáng ở chùa Từ Đàm thì có phương hại đến an ninh quốc gia. Một cuộc cãi vã xảy ra giữa ông Giám đốc Đài vô tuyến Huế với một số người háo thắng. Ngay lúc đó, nhà sư Trí Quang và ông Tỉnh trưởng Thừa Thiên đến, tiếp theo là ông Phó tỉnh trưởng nội an và Ban an ninh nhằm dàn xếp ổn thỏa sự tranh chấp. Trong khi các vị này đang nói chuyện trước cổng Đài vô tuyến thì ông Phó tỉnh trưởng bị liệng cục đá làm móp chiếc nón sắt nhà binh của ông. Ông Phó tỉnh trưởng ra lệnh xịt nước giải tán đám đông song vô hiệu. Để bảo đảm an toàn cho Đài vô tuyến và cho các quan chức cùng nhà sư Trí Quang, ông Phó tỉnh trưởng ra lệnh ném lựu đạn cay nhằm giải tán đám đông, bấy giờ bị những phần tử Cộng sản xúi giục đang hò hết những khẩu hiệu bôi lọ chế độ tự do của Việt Nam Cộng hòa và xúc phạm cả đến vị lãnh tụ anh minh của dân tộc Ngô Tổng thống. Bỗng hai tiếng nổ lớn phát ra, rõ ràng là do bọn Cộng sản thực hiện, làm nhiều người chết và bị thương. Hai lỗ thủng dưới dưới đất do tiếng nổ đào xới là bằng chứng mà các chuyên viên đều kết luận đó là loại plaxtic MK chỉ Cộng sản mới có chứ quân đội quốc gia chưa từng sử dụng bao giờ. Còn tin đồn rằng Ban an ninh đã cho xe thiết giáp, tăng cán người, đó là sự vu khống bỉ ổi mà tác giả không ai khác là Cộng sản và các phần tử bất mãn, tay sai của thực dân và phong kiến. Xe tăng hay xe bọc thép không thể nào leo lên cổng Đài vô tuyến Huế vì đài nằm trên ngọn đồi cao, phai vượt qua nhiều bậc tam cấp. Cơ quan an ninh chính phủ đang ráo riết truy tầm thủ phạm và chắc chắn trong một ngày không xa, sẽ đem bọn người ấy ra trước pháp luật để bắt chúng phải đền tội. Sài Gòn ngày 10 tháng 5 năm 1963 Bộ trưởng Bộ nội vụ VNCH BÙI VĂN LƯƠNG Báo cáo tuyệt mật của Chi cục Trung ương tình báo Mỹ: 1. 13 giờ ngày 6-5-1963 tức theo lịch Trung Quốc là 13-4, viên Tỉnh trưởng Thừa Thiên đến chùa Từ Đàm ở cố đô Huế gặp nhà sư Trí Quang, chuyển mật lệnh của Ngô Đình Cẩn, em ruột của tổng thống Diệm và là người đầy quyền lực ở phần phía Bắc của Việt Nam Cộng hòa. Ông Cẩn ra lệnh cho những người theo đạo Phật không được treo cờ Phật nhân lễ Phật đản lần thứ 2.507. (Theo nghi thức Phật giáo ngày này tương ứng với ngày Noel). Viên tỉnh trưởng Thừa Thiên yêu cầu nhà sư Trí Quang ký vào một thông cáo nhân danh Phật giáo về vấn đề nói trên. Nhà sư Trí Quang đề nghị viên tỉnh trưởng giải thích lý do của yêu cầu đó. Viên tỉnh trưởng trả lời rằng chính mình cũng không rõ nhưng vẫn kiên quyết yêu cầu nhà sư thực hiện. Nhà sư Trí Quang cho rằng ông không đủ thẩm quyền ra một thông cáo như vậy. 2. 20 giờ 30 ngày 6-5, tỉnh trưởng Thừa Thiên chuyển công điện của tổng thống Ngô Đình Diệm cho nhà sư Trí Quang. Công điện mang số 9.159 gởi từ Sài Gòn vào hồi 15 giờ ngày 6-5 và nhận được ở Huế cùng ngày vào 16 giờ. Toàn văn bức điện mà bản sao của Tỉnh trưởng Thừa Thiên mang số 40/TT/HC/PT kèm chữ ký của Tỉnh trưởng: “Đổng lý văn phòng Phủ Tổng thống điện quí ông Tỉnh trưởng. Văn phòng Phủ Tổng thống trân trọng chuyển đến quí ông chỉ thị sau đây của Tổng thống: Ra chỉ thị cho các cơ quan phụng sự bất kỳ tôn giáo nào, trên các cơ sở phụng tự (nhà thờ, chùa chiền v.v…) chỉ treo cờ quốc gia mà thôi. Chính phủ đã hỏi các tổ chức tôn giáo, họ đều đồng ý là công dân trong một nước chỉ treo cờ quốc gia. Sự treo cờ ảnh phía trong thì tùy nghi (thường thì treo ảnh, có dán ảnh như bức vải lá cờ, ở các nước dẫu phía trong nơi phụng tự người ta cũng treo cờ quốc gia). Lúc trước vì tránh treo cờ đỏ sao vàng Việt Minh hay cờ tam tài của Pháp thì có những tôn giáo treo cờ hiệu tôn giáo. Nay nước nhà đã độc lập nên chỉ treo cờ quốc gia, các tư gia cũng vậy. Nay chỉ thị”. 3. Trong đêm hôm đó, từ 21 giờ đến gần sáng, Phật giáo họp tại chùa Từ Đàm do Tổng hội chủ Thích Tịnh Khiết, một cao tăng được các nhà sư và Phật tử trọng vọng như lãnh tự tinh thần tối cao, chủ tọa. Người thuyết trình là nhà sư Trí Quang. Tổng hội chủ muốn đi đến một giải pháp ôn hòa nhưng nhiều thành viên tham dự hội nghị không đồng ý. Một số chủ trương Phật giáo tuyên bố không tổ chức lễ Phật đản năm nay để phản đối. Số khác, đông hơn, quyết định phản kích quyết liệt. Nhà sư Trí Quang được phân công thảo bức điện khẩn gởi Phật giáo thế giới: Cờ Phật giáo đã bị cấm treo ở các chùa Phật ngay trong ngày Phật đản quốc tế. Yêu cầu can thiệp với chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Cũng nhà sư này thảo bức điện gởi Ngô Đình Diệm: “Phật giáo rất xúc động về công điện 9.159 cấm treo cờ Phật trong ngày lễ Phật đản quốc tế. Chúng tôi không tin rằng quyết định đó có xuất phát từ ý kiến của Tổng thống. Thỉnh cầu Tổng thống ra lịnh điều tra và thu hồi công lịnh nói trên. Trân trọng”. Một bức điện khác, đúng hơn là một thông tư gửi các tập đoàn Phật giáo Việt Nam: Cờ Phật giáo bị triệt hạ bởi công điện của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Các tập đoàn sẵn sàng chờ lệnh. Cả ba bức điện đều mang tên Tổng hội chủ Thích Tịnh Khiết. 4. Nhà cầm quyền ở Huế quyết định không chuyển ba bức điện nói trên và vào 9 giờ sáng ngày 7-5, tỉnh trưởng Thừa Thiên mời nhà sư Trí Quang và một số nhà sư khác đến tư dinh của Ngô Đình Cẩn để gặp Bộ trưởng Nội vụ Bùi Văn Lương và tỉnh trưởng Thừa Thiên. Cuộc trao đổi nhanh chóng thu kết quả. Bộ trưởng Nội vụ sẽ bay về Sài Gòn yêu cầu Tổng thống thu hồi quyết định 9.159. Tại đây, Ngô Đình Cẩn đã nói một câu hay nhất trong đời ông: “Tôi xin đoan chắc rằng, một trò Ơn chết làm chết cả một chính phủ, huống chi cờ của một tôn giáo lớn bị hạ ngang ngược như thế”. 5. 14 giờ ngày 7-5-1963, hàng nghìn người theo đạo Phật đến chùa Từ Đàm là nơi coi như tổng hành dinh của Phật giáo miền Trung báo tin toàn bộ cờ Phật bị triệt hạ bởi những đoàn cảnh sát hung hăng, chẳng những triệt hạ mà còn xé nát vứt xuống đường, đánh đập, dọa dẫm tín đồ. Những chiếc đèn lồng có dấu hiệu hoa sen cũng chung số phận với như cờ Phật giáo. Vào 17 giờ, tại chùa Từ Đàm người ta đã có thể kết luận rằng chiến dịch khủng bố Phật giáo không chỉ ở Huế mà khắp Trung phần, thậm chí rộng hơn nữa. Tại hai con đường chính của thành phố Huế là Trần Hưng Đạo và Phan Bội Châu, tình trạng không thể nào mô tả khác hơn là chế độ của Tống thổng Diệm hay ít nhất cũng là chính quyền Thừa Thiên đã sử dung vũ lực kể cả súng, để hạ những ngọn cờ Phật. 6. Từ 18 giờ trở đi, chùa Từ Đàm bị bao vây bằng bộ binh, quanh cảnh và thiết giáp. Bốn chiếc xe bọc thép vượt sườn đồi, húc đổ cổng tường nhà chùa. Nhưng quân lực chỉ làm đến mức đó. 7. Tất cả trở nên bi đát thật sự và vô phương cứu chữa từ 6 giờ sáng 8-5, địa điểm bùng nổ lại không phải là ngôi chùa mà trước cổng Đài phát thanh Huế. Lấy cớ bảo vệ Đài phát thanh, Phó tỉnh trưởng nội an Thừa Thiên, thiếu tá Đặng Sỹ đã ra lệnh ném lựu đạn cay, bắn súng và sử dụng luôn chất nổ. Có tất cả 44 người chết tại trận, tới 33 người bị thương. Đây là một sự kiện nghiêm trọng chưa từng có. Ghi chú của Helen Fanfani, phóng viên tờ Financial Affairs: Toàn văn cái gọi là “báo cáo tối mật” của Chi cục tình báo Mỹ lại được in ronéo, dịch ra nhiều thứ tiếng và tôi gửi về cho ban biên tập có thể đã chậm so với các hãng thông tấn khác. Thông cáo của Tổng nha Thông tin: Về việc lộn xộn nhỏ xảy ra tại Huế đã bị nhiều hãng thông tấn nước ngoài xuyên tạc. Tổng nha Thông tin được phép trình bày sự thật: Vì một hiểu lầm đáng tiếc nhân viên công lực và một số tín đồ Phật giáo có va chạm nhỏ. Lợi dụng tình hình, Việt Cộng tung lựu đạn làm chết 7 người và bị thương 6 người. Phương tiện duy nhất mà cơ quan an ninh sử dụng để vãn hồi trật tự và ngăn ngừa Cộng sản chỉ là vòi xịt nước, loại thường, vòi cỡ 2 phân không có khả năng gây thương tích cho bất kỳ người nào. Hiện nay, tình hình đã yên tĩnh. Dân chúng rất phẫn uất về việc Việt Cộng lợi dụng lễ Phật đản để tàn sát, quấy rồi và chia rẽ đồng bào với chính phủ. Sài Gòn ngày 9 tháng 5 năm 1963 Tổng giám đốc Tổng nha Thông tin PHAN VĂN TẠO Tổng thống Việt Nam Cộng hòa nói chuyện với đồng bào ở Huế: “Đồng bào ở Huế, Sau một thời gian để cho các gia đình thiêng liêng và các cán bộ công cũng như tư, tự nhận định đường lối chính nghĩa về những điều kiện thiết yếu cho sự bảo vệ chính nghĩa chung cũng như chính nghĩa riêng của mình, nhất là trong giai đoạn sống còn này của dân tộc, mà tự giải quyết lấy những sự hiểu lầm về vấn đề treo quốc kỳ và những sự thi hành lệch lạc đường lối quốc gia do một số cán bộ công cũng như cán bộ tư. Tôi rất buồn khi nhận thấy đồng bào và nhất là cán bộ công, tư hãy còn chưa đủ thấm nhuần đường lối của dân tộc, nên tôi kêu gọi đồng bào hãy tự động nhận thức nhiệm vụ bảo vệ lấy an ninh công cộng triệt để tuân hành kỷ luật quốc gia, học tập chính chắn mọi vấn đề trên lâp trường lương tri và chính nghĩa quốc gia, để tôi giải quyết vấn đề cho đúng với đường lối đấu tranh của dân tộc”. Cuộc họp báo của cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu (Ghi chép của phóng viên Helen Fanfani, báo Mỹ Financial Affairs). Sáng nay, 10-5, vào 8 giờ, giờ địa phương tại dinh Độc Lập, cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu mở cuộc họp báo, dĩ nhiên quanh tình hình sôi động mấy hôm nay liên quan đến “vụ Phật giáo”. Tôi đặt vụ Phật giáo trong ngoặc kép bởi vì như những gì sẽ chứng minh dưới đây, trong các câu hỏi và câu trả lời của cuộc họp báo cho phép người ta liên tưởng đến một phạm vi chính trị rộng lớn hơn nhiều lần sự bất đồng về các nghi thức tôn giáo trong khuôn khổ luật lệ hiện hành ở Việt Nam Cộng hòa. Có lẽ đây là lần đầu tiên ở Sài Gòn mà các nhà báo Việt Nam và ngoại quốc đến dự cuộc họp báo đông đúc nhất mà cũng háo hức nhất, một số không ít từ Mỹ, Pháp, Tây Đức, Nhật, Úc, Hongkong, Bangkok vừa xuống sân bay Tân Sơn Nhứt đã chạy một mạch vào dinh Độc Lập. Ông Ngô Đình Nhu mặt áo complet màu tro, đầu chải rẽ, thắt cà vạt xanh sậm, bề ngoài thật tươi tỉnh hiếm có đối với người luôn luôn trầm tư. Ông muốn tạo cảm giác cho các nhà báo là chế độ vẫn nắm chắc tình thế. Tổng giám đốc thông tin Phan Văn Tạo, ít tiếng tăm, lặng lẽ ngồi cạnh cố vấn và thủ vai người đệm đàn - không phải một người đệm đàn sành nghề nghiệp. Không nghi thức, không đọc thông báo trước, cố vấn Ngô Đình Nhu đi ngay vào thực chất của cuộc gặp mắt giới báo chí: Tình hình một tuần lễ này đã được các bạn theo dõi chăm chú, tôi nghĩ như vậy – ông nói, mắt ngó thẳng chúng tôi đầy tự tin. Các luồng thông tin không nhất thiết phù hợp nhau. Tôi không cho điều đó là không bình thường. Tuy nhiên, hôm nay, tôi muốn cùng các bạn nhìn sự việc với đôi mắt khách quan. Chúng ta là những người trong trận tuyến tự do. Cơ sở đó sẽ giúp chúng ta dễ dàng cùng nhau thông cảm. Tôi đề nghị các bạn nêu câu hỏi và tôi sẽ trả lời và trả lời ngay từng câu hỏi. Tôi muốn cuộc họp báo không bị bất kỳ một gò bó nào. Chúng ta có thể gọi hôm nay là buổi trao đổi, cùng thỏa đáng. Xin mời… Ông Nhu châm lửa vào điếu thuốc và tôi lưu ý, chiếc gạc tàn pha lê lớn sạch bóng đã đầy tàn thuốc lá sau cuộc họp báo: ông Nhu hút có lẽ đến 40 điếu trong vòng 2 giờ… PHÓNG VIÊN ASAHI: Theo thông báo chính thức, sự việc bùng nổ ở Huế vào ngày 8-5. Song, chính tôi có mặt ở Huế, sự việc bắt đầu từ 24 giờ ngày 2-5, nghĩa là khi giới Phật giáo sửa soạn lễ Phật đản thường lệ của họ. Cuộc đàn áp diễn ra khi đám đông dân - hôm đó là ngày chủ nhật và trước lễ Phật đản đúng một tuần – bị cảnh sát chận không cho vượt cầu Nguyễn Hoàng. Các nguồn tin của chính phủ cho biết - tất nhiên mãi về sau này mới cho biết – số dân lối 300 và có 54 người bị thương, không ai bị thương nặng, tất cả đã về nhà, không ai bị bắt… Con số dân, với chính ống kính của tôi ghi nhận, nhiều hơn nguồn tin của chính phủ hơn 10 lần, con số bị thương hơn 5 lần, bị thương nặng như bị cảnh sát bẻ gãy tay, đánh gãy chân gồm 16 người và ít nhất 6 người đã chết ngay tại chỗ, hoặc khi đến bệnh viện. Tôi không rõ số chết, khi về nhà. Còn số bị giam, như dư luận, chính là con số của 6 ni cô và 10 nhà sư… Tôi xin nêu lên ba câu hỏi: Một: Lệnh cấm treo cờ phải chăng đã được dự kiến trước? Hay nó là kết quả của sự việc ngày 2-5? Hai: Vì sao nhà cầm quyền Huế hành động như vậy? Ba: Vì sao chính phủ Trung ương không thi hành một biện pháp nào trừng phạt các lực lượng vô cớ đàn áp đám đông và chỉ có biện pháp tiếp sau tức là lệnh số 9.159 ngày 6-5? NHU: Không hề có lệnh cấm treo cờ Phật giáo. Chỉ có lệnh, như mọi quốc gia khác, nơi công cộng không một lá cờ nào được thay quốc kỳ như Dụ số 10 của Tổng thống quy định. Công chức Thừa Thiên hành động không có ý kiến của Trung ương. Ta hiểu Huế ở gần vĩ tuyến 17, nhà cầm quyền tại đây e ngại sự đột nhập của Cộng sản, điều không phải là viễn vông. Tuy vậy, họ đều bị kỷ luật, do qua nhiệt tình và không đủ khôn khéo, cũng không loại trừ một ít ai đó bị giật dây. ASAHI: Cho phép tôi hỏi thêm ba câu: Một, tại sao Dụ số 10 không áp dụng với đạo Thiên Chúa? Chính ống kính của tôi ghi nhiều cuộc rước lớn theo nghi thức đạo Thiên Chúa tại Huế nhân Noel, cách lễ Phật đản chưa được 5 tháng. Đó là chưa kể cuộc rước lễ từ La Vang về Huế, lễ rước Trà Kiệu? Hai, theo chúng tôi biết, thiếu tá Đặng Sỹ bị bãi chức sau lễ Phật đản chứ không phải sau ngày 2-5. Ba, có thể xem ý kiến của ông Ngô Đình Cẩn là Trung ương không? NHU: Tổng giám mục địa phận Sài Gòn đã ra thông báo: chỉ treo cờ đạo bên trong các nhà thờ, tu viện… ASAHI: Xin lỗi, đó là thông báo mới đây thôi và cũng ở địa phận Sài Gòn thôi… NHU: Nhưng, ông thấy đấy, chúng tôi không kỳ thị tôn giáo. Chúng tôi thi hành kỷ luật nhiều sĩ quan cảnh sát Huế ngay ngày 3-5. Tất nhiên, xin ông hiểu, không phải bất kỳ kỷ luật nội bộ nào của chúng tôi đều công bố cả. Có lẽ mọi chính phủ đều làm như vậy, nhất là với ngành nội chính. Còn câu hỏi thứ ba của ông, tôi nhắc lại, đại biểu của chính phủ tại Trung nguyên Trung phần của Việt Nam Cộng hòa hiện nay là ông Nguyễn Xuân Khương. ASAHI: Ông cố vấn vẫn chưa trả lời về sự việc tại cầu Nguyễn Hoàng. NHU: Tất cả đang được cứu xét và ai phạm tội sẽ bị nghiêm trị… LE FIGARO: Trong các thông cáo, chính phủ Việt Nam nhắc nhiều lần rằng Việt Cộng chủ mưu xúi giục tín đồ đạo Phật biểu tình và cũng chính Việt Cộng ném chất nổ MK… Nhưng, nhiều người tận mắt trong thấy chính lực lượng an ninh làm việc đó… NHU: Ông không biết rằng bộ sắc phục an ninh không phải là vật mà Việt Cộng khó tìm? LE FIGARO: Nhưng người ta biết cả mặt người cho nổ chất nổ… Và, đó là khối TNT rất thông dụng trong quân lực Việt Nam Cộng hòa. NHU: Cũng như thế, Việt Cộng tìm TNT và các loại vũ khí của quân lực Việt Nam Cộng hòa không phải là điều mới xảy ra… LE FIGARO: Thế tại sao phải đổi TNT qua MK? NHU: Một sơ sót kỹ thuật, chúng tôi đã khiển trách bộ phận thông tin. LE FIGARO: Thông báo của Tổng nha Thông tin nhắc, ngoài Cộng sản, còn tay sai thực và phong nhúng vào vụ Huế. Dư luận Pháp muốn hiểu rõ hai danh từ “thực” và “phong” nhằm ám chỉ ai? NHU: Tôi nói về “phong” trước. Huế là cố đô. Các thế lực bảo hoàng vẫn còn đông. Còn “thực”, ông muốn hiểu như thế nào, tùy ông, một nhà báo Pháp! LE FIGARO: Tôi sẽ rất hân hạnh thông báo câu trả lời của ông cố vấn với dư luận Pháp trong số báo Figaro số mai. Cảm ơn ông cố vấn! ĐẠI DIỆN TRUNG ƯƠNG XÃ ĐÀI BẮC TẠI HỒNG KÔNG: Ông cố vấn giải thích như thế nào việc Phật giáo là một tôn giáo dễ dàng nghe Cộng sản vô thần? NHU: Hồng Kông gồm các nhà doanh nghiệp lớn vẫn có người theo Trung Cộng kia mà! TRUNG ƯƠNG XÃ: Nhưng đây là dân chúng, những bức ảnh cho thấy dân chúng khá đông… NHU: Ông quên dân chúng dự Phật đản. Họ tụ họp vì lý do đó… ĐẠI DIỆN UPI: Nếu bạn đồng nghiệp của tôi, ông Raymind Wang, không hỏi tiếp ông cố vấn, tôi xin phép từ câu trả lời của ông cố vấn mà đặt một câu hỏi: Dân chúng tụ họp đông đảo vì lý do tôn giáo thế thì việc gì lực lượng an ninh của chính phủ phải dùng vòi rồng và hơi cay? NHU: Liệu rằng cảnh sát ở nước Mỹ có cách nào phân biệt được trong đám đông, ai là dân thường đi hành hương hay làm một việc gì đó, đi dạ hội chẳng hạn với một người Cộng sản? Vòi rồng và lựu đạn cay càng không có khả năng phân biệt những thứ mà chính con người còn chưa phân biệt nỗi! UPI: Một câu trả lời có tính triết lý. Rất tiếc chúng ta đang nói chuyện chính trị. Vì một ít người mà đi đến sự thô bạo với số đông, dư luận phương Tây khó đồng tình với chính phủ của Tổng thống Diệm. NHU: Trong trường hợp này, thưa ông Roger Spekinsk, có vẻ hãng thông tấn UPI hoặc chính xác hơn, cá nhân ông, là một đồng minh đáng tin cậy của Việt Cộng! ĐẠI DIỆN WASHINGTON POST: Nhân danh Nghiệp đoàn các phóng viên nước ngoài ở Sài Gòn mà tôi là thư ký, tôi phản đối cách nói của ông cố vấn. NHU: Các ông có thể phản đối mặc dù trong thâm tâm tôi muốn các ông đồng tình. Tuy nhiên vấn đề là sự thật. FANFANI: Tôi xin phép được hỏi một câu… NHU: À! Financial Affairs đây rồi. Xin mời… FANFANI: Tôi sẽ hỏi một câu rất hiền lành: Từ câu trả lời của ông cố vấn cho bạn đồng nghiệp Washington Post, người ta có quyền lật ngược nội dung: những cuộc đàn áp đẫm máu liên tục diễn ra ở Huế phải chẳng là đồng minh đáng tin cậy của Cộng sản? NHU: Cô Helen thân mến, chúng ta nên nghiêm chỉnh. FANFANI: Tôi không thấy trong câu nói của tôi có một chút khôi hài nào… Ông cố vấn muốn hôm nay không phải là một cuộc họp báo mà một cuộc trao đổi. Vậy thì, ông có cho rằng nhà sư Trí Quang đại diện cho một xu hương chính trị nào đó không? NHU: Tôi không thích võ đoán. Tuy nhiên, với những bằng chứng xác thực, tôi có thể giới thiệu hai đặc điểm của ông Trí Quang: Một là, quê của ông ở phía Bắc vĩ tuyến 17, từng học đạo với một nhà sư nay đang ở Hà Nội. Hai là, ông Trí Quang có nhiều bạn bè thuộc đảng Đại Việt… FANFANI: Ông cố vấn lại bắt đầu rơi vào cái chỗ mà ông vừa kết án, tức là ông nói chuyện tiếu lâm. Quê của gia đình ông cố vấn – nghĩa là có Tổng thống Diệm – cũng ở phía Bắc vĩ tuyến 17. Điều đó hình như không hề cắt nghĩa bất kỳ một khía cạnh nào của sự cố ở Huế và của cá nhân nhà sư Trí Quang. Còn về đảng Đại Việt, cũng tiếu lâm nốt khi ông cố vấn hàm ý chỉ ra rằng giữa Cộng sản và đảng Đại Việt có mối quan hệ thân ái thông qua môi giới của nhà sư Trí Quang. NHU: Cô nhà báo đi quá xa giới hạn của cuộc trao đổi giữa chúng ta rồi. Cô có quyền suy luận song không phải ở đây… FANFANI: Cảm ơn ông cố vấn đã làm sáng tỏ nhiều uẩn khúc mà chúng tôi rất quan tâm… ĐẠI DIỆN BÁO JEO (1): Thưa ông cố vấn, độc giả tiếng Pháp ở Việt Nam rất cần một minh định: Những người Pháp dính dáng như thế nào đối với vụ lộn xộn vừa rồi? NHU: Trước hết, ông Hubert thân mến, ở Việt Nam không có ai trong cộng đồng cái gọi là Francophone (2), càng không có ai Francophile (3), nếu có – và với hơn 100 năm kể từ khi pháo thuyền Pháp bắn những quả đại bác vào Cửa Hàn, tức Đà Nẵng hiện nay để rồi sau đó chiếm cứ đất nước chúng tôi, ở Việt Nam hiện nay có một cộng đồng tên của nó là Francophobe (4)! Tuy nhiên, đó là chuyện dĩ vãng, dù dĩ vãng chưa phải đã xa xôi lắm. Hiện nay, năm 1963, tháng 5, tôi có thể nói rằng tôi không thấy một yếu tố nào để nói về một dính líu như vậy, dính líu theo cái nghĩa người Pháp tại Việt Nam, người Việt vẫn còn giữ mối quan hệ dưới một dạng nhất định với người Pháp, chính phủ Pháp – những lực lượng đó liên can đến vụ Huế. PHÓNG VIÊN BBC: Còn sự dính líu của người Hoa, nói rộng hơn của Trung Cộng? NHU: Câu trả lời của tôi tương tự như câu trả lời vừa rồi. ĐẠI DIỆN HÃNG THÔNG TẤN TANJUNG: Ông cố vấn có tin rằng sự kiện ngày 8-5 ở Huế sẽ không phát triển thêm về mức độ cũng như về phạm vi? NHU: Trước hết, tôi xin cảm ơn đại diện của hãng thông tấn Nam Tư, một nhà báo Cộng sản duy nhất nước ngoài và là nhà báo Cộng sản không ngụy trang. Triển vọng của tình hình không phải là việc dễ đoán hay quyết đoán bởi tình hình không chỉ tùy thuộc ở chính phủ. Tuy nhiên mọi người Việt Nam trở lại khung cảnh mà Việt Nam Cộng hòa đang sống. Chúng tôi đang chiến đấu, một cuộc chiến đấu sinh tử với kẻ thù của chúng tôi ở trong và ngoài nước, những kẻ thù địch với thế giới tự do. Và luôn cả những người trong thế giới tự do mà vì những lợi ích thiển cận, những suy nghĩ thiếu tầm chiến lược đang thọc tay vào cục diện đất nước chúng tôi. Tôi tha thiết mong các bạn nhà báo có mặt hôm nay, với lương tâm nghề nghiệp và với cái nhìn sáng suốt, góp sức với nước cộng hòa non trẻ chúng tôi đang bị xâm lược và dừng ngay chiến dịch có tính chất quốc tế bôi nhọ Việt Nam Cộng hòa, việc làm không lường nổi hậu quả tai hại. Việt Nam Cộng hòa là tiền đồn của thế giới tự do. Chúng tôi không chỉ đổ máu cho riêng mình… Tôi nhấn mạnh rằng ở Việt Nam Cộng hòa không có vấn đề kỳ thị tôn giáo, không có vấn đề áp bức đạo Phật cũng như không có đàn áp dân chủ. Trái lại, dân chủ ở Việt Nam Cộng hòa phần nào quá trớn là khác. Nhưng tôi cũng cảnh cáo những người đội lốt đạo Phật rằng, vì lợi ích tối thượng của Tổ quốc, chúng tôi sẽ không mềm yếu. PHÓNG VIÊN NEWSWEEK: Thưa ông cố vấn, lời kêu gọi bạn hữu quốc tế của ông vừa rồi có nhằm nước Mỹ không? NHU: Thưa bà Catherine Barbara, bà là một nhà báo kỳ cựu, thay mặt cho một tờ báo có uy tín ở Mỹ, lại sống nhiều năm ở Sài Gòn, bà có thể hơn ai hết biết rằng Việt Nam Cộng hòa coi nước Mỹ là một đồng minh lớn, một đồng minh trụ cột. Sự nghiệp độc lập tự do của Việt Nam Cộng hòa không tách khỏi mối liên minh huynh đệ ấy… Chúng tôi rất vui mừng trước chính sách liên tục của nước Mỹ ở châu Á và ở Việt Nam Cộng hòa hiện nay Tổng thống Kennedy đang thực hiện. Tuy nhiên, trong dư luận Mỹ, kể cả trong quốc hội, có một bộ phận nhỏ thôi, đang nhìn thực trạng Việt Nam Cộng hòa với cặp mắt ngờ vực, đôi khi độc ác… NEWSWEEK: Tin đồn khá rộng rãi ở Mỹ và ở Sài Gòn về vai trò của đại sứ Frederich Nolting – vai trò thiên vị, che đỡ cho chính phủ ông Diệm. Ông cố vấn đánh giá tin đồn đó như thế ào? NHU: Đại sứ Nolting là một người bạn quý của Việt Nam Cộng hòa, là một người giàu kiến thức và thấu đáo điều kiện của đất nước chúng tôi. Dĩ nhiên, không phải không có những cự ly trong nhận thức những sự việc nào đó giữa đại sứ và chúng tôi. Điều mà tôi nhấn mạnh là Ngài Nolting không bao giờ lầm lẫn giữa vai trò một toàn quyền hoặc thái thú xa xưa. Chắc chắn rằng đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến các đồn đãi mà bà Catherine nhắc tới… Cuộc họp báo chấm dứt vào 10 giờ. Cố vấn Ngô Đình Nhu có vẻ sửa soạn trước khá kỹ cho cuộc “đụng độ” và ông biểu lộ sự mãn nguyện sau đó; ông đi bắt tay khắp các ký giả, chụp hình chung với họ thậm chí quàng vai tôi khá âu yếm và đùa với Victor, chồng tôi: “Khi Helen ngã vào tôi, ông nhớ chỉnh ống kính cho thật “nét” nhé!”. Tuy nhiên tôi cảm ơn ông “đã làm sáng tỏ nhiều uẩn khúc”, nghĩa là tôi cảm thấy hết sức rõ sự rối rắm trong các câu trả lời của ông Nhu, một nhà hùng biện mà không ai không phục. Ông Nhu tươi tỉnh bề ngoài, cố giữ tự chủ trong khi toàn bộ tư tưởng của ông thiếu xuyên suốt. Ông không thể giải thích nỗi vụ Huế - một vụ chủ mưu ở phía chính phủ. Nói theo thuật ngữ quân sự, chính phủ Sài Gòn “ngự phòng từ xa” và họ sợ Phật giáo là ngòi pháo. Dẫu sao, Huế vẫn là một thị trấn bé nhỏ, biệt lập. Ông Nhu hiểu như vậy. Và, ông thành công hay thất bại tùy thuộc vào ở một điểm thôi: ông khoanh vùng vụ Huế ở Huế hay ngược lại… Dẫu sao, với các tín hiệu tháng 5 này tại Việt Nam Cộng hòa, phóng viên báo chí, truyền hình khắp thế giới sửa soạn visa vào Sài Gòn chắc không phải là quá sớm… Văn thư của Văn phòng cố vấn Ngô Đình Nhu gởi Việt tấn xã: “Ông cố vấn chỉ thị: cứ cho các phóng viên nước ngoài phát tin về buổi họp báo của ông cố vấn, không cắt xén, hạn chế. Tuy nhiên, chú ý cho phát ưu tiên bài tường thuật của hãng Reuter và đài BBC, nhất là của đài BBC vì nội dung rất có lợi cho ta”. Báo cáo mật của bác sĩ Trần Kim Tuyến gửi Ngô Đình Nhu: “Tôi đã thực hiện đúng chỉ thị của ông cố vấn: Chỉ cho phái viên Viễn Đông của BBC, cho phóng viên Manila Time và cho Hambourg Zeitung đưa tin như ý của ông cố vấn. Họ hứa sẽ liên tục có bài và tin. Đang vận động Đài truyền hình Bỉ phỏng vấn ông cố vấn. Đài Pháp và Mỹ từ chối. Riêng Paris Match sẵn sàng ra một số đặc biệt, hủy bỏ các ảnh đã săn ở Huế nhưng giá quá cao, chờ quyết định của ông cố vấn. Đã điều đình với Victor mua các ảnh, nhưng chưa có hiệu quả. Sẽ dùng biện pháp Hải quan khi Victor rời Sài Gòn sang Hồng Kông sáng mai…” Thông cáo của Tòa đại biểu chính phủ ở Trung nguyên Trung phần: Bộ trưởng Bộ nội vụ quyết định bổ nhiệm thiếu tá Lê Quang Hiển, nguyên Giám đốc Cảnh sát quốc gia miền Nam Trung nguyên Trung phần làm Giám đốc cảnh sát quốc gia miền Bắc Trung nguyên Trung phần thay trung tá Trần Văn Thương chuyển hoàn về Bộ nội vụ. Điện đàm giữa Fishell và Bộ trưởng Phủ tổng thống Nguyễn Đình Thuần: THUẦN: Thưa giáo sư, ông có ý kiến gì về quyết định đối với thiếu tá Đặng Sỹ. Chúng tôi đã thảo xong lệnh… FISHELL: Ông Bộ trưởng có thể cho biết nội dung của lệnh đó không? THUẦN: Thưa được. Xét trách nhiệm trực tiếp của thiếu tá trong vụ lộn xộn ở Huế, quyết định bãi chức Phó tỉnh trưởng nội an, cách hàm thiếu tá, đương sự phải trình diện ở Tổng nha Cảnh sát quốc gia chịu sự thẩm vấn và bị tạm giữ theo chế độ sĩ quan chờ cứu xét… FISHELL: Tôi nghĩ rằng cách chức Phó tỉnh trưởng là đủ. Tạm thời để thiếu tá Đặng Sỹ thôi giữ chức Phó tỉnh trưởng nội an… Lời văn như vậy có lẽ thỏa đáng. Các biện pháp khác không cần thiết và không công bằng. THUẦN: Thưa giáo sư, tôi sẽ báo lại với ông Nhu ý kiến của giáo sư. FISHELL: Không phải ý riêng của tôi. Chào ông Bộ trưởng. Thượng tọa Trí Quang bay vào Sài Gòn. Tin riêng của báo Sài Gòn Mới: Theo nguồn tin đặc biệt của bổn báo, thượng tọa Trí Quang từ Huế đã bay vào Sài Gòn, ngày 12-5 đang ngụ tại một ngôi chùa ở đô thành. Nhân đây, Sài Gòn Mới xin hiến bạn đọc cấp bậc các giáo phẩm Phật giáo mà từ trước tới nay chúng ta chưa biết… Lệnh đặc biệt của Tổng giám đốc Cảnh sát quốc gia gửi Cảnh sát đô thành và các tỉnh: Theo dõi di chuyển của các nhà sư từ Huế vào phía Nam. Tìm mọi cách khéo léo nhưng kiên quyết giữ họ tại Huế. Cảnh sát sân bay Phú Bài, đường bộ và xe lửa phải chấp hành triệt để lệnh này. NGUYỄN VĂN Y Phúc trình của Tổng giám đốc Thông tin: Kính gởi ông cố vấn chính trị Phủ tổng thống. Tuân lệnh của ông cố vấn, chúng tôi đã triệu tập một số nhà báo của các tờ “Cách mạng quốc gia”, “Ngôn luận”, “Tự do” đến Nha tổng giám đốc phổ biến đường lối của chính phủ về việc đưa tin tức ở Huế: Giảm bớt lượng tin, bỏ hẳn việc trưng bằng cớ về Việt Cộng ném lựu đạn và đặt chất nổ, giữ giọng thật hòa dịu với Phật tử và các nhà sư theo tinh thần thông điệp của Tổng thống… Nhưng, một số ký giả vẫn viết bài theo chiều hướng cũ, đặc biệt ký giả Tô Văn và một số trong danh sách thân Đại Việt. Chúng tôi được biết linh mục Raymond De Jaegher, Chủ tịch Hiệp hội Thái Bình Dương tự do họp riêng với số ký giả này và hình như trả thù lao khá cao bằng đôla để họ viết các bài bài xích Phật giáo, những bài đó đăng rải rác trên tờ Buổi Sáng của Mai Lan Quế là em ruột của thiếu tướng Mai Hữu Xuân và một vài tờ Việt ngữ. Tờ Đông Phương tiếng Hoa, chịu sự bảo trợ về tài chính của linh mục Raymond De Jaegher cũng dịch đăng. Dĩ nhiên, tờ “Free Pacific” đăng các bài đó bằng tiếng Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha. Trong trường hợp này, Tổng nha Thông tin không thể can thiệp được. Xin kính trình để ông cố vấn tường và cho chỉ thị. PHAN VĂN TẠO Phúc trình của Tổng nha Cảnh sát: Đài phát thanh Hà Nội và đài Việt Cộng cho tới nay chưa đăng tin hoặc bình luận gì về vụ ở Huế. Đài Moscou, phần tiếng Việt, nhắc lại một tin của Pháp tấn xã, không bình luận. Trái lại, đài Bắc Kinh cả phần tiếng Việt và các tiếng Hoa phát cho Đông Nam Á đưa nhiều tin, kèm bình luận gay gắt. Thông báo chiến sự hàng tuần của Bộ Tổng tham mưu: Từ 2 đến 9 tháng 5, toàn chiến trường lắng dịu một cách bất thường trừ trận Tân Bình (Quảng Tín). Chung quanh Huế, không có một dấu hiệu tập trung nào của Việt Cộng. Tin vắn của báo “Cách mạng Quốc gia” Sau một thời gian nghiên cứu ở Học viện chỉ huy cao cấp tại Fort Bragg, Hoa Kỳ và nghiên cứ tình hình chống du kích Huk ở Phi Luật Tân, du kích Mã Lai, đại tá Nguyễn Thành Luân đã về đến Sài Gòn hôm qua, 14-5. Cùng về với đại tá có phu nhân cũng tốt nghiệp Học viện nghiên cứu cảnh sát Mỹ. Đại tá Đặng Văn Quang, chỉ huy trưởng, Tham mưu biệt bộ Phủ tổng thống, ông Đổng lý văn phòng Phủ tổng thống, đại tá Phó tổng giám đốc Cảnh sát quốc gia, trung tá James Casey đại diện cho Bộ chỉ huy viện trợ Mỹ và ông Trần Trung Dung với tư cách gia đình Tổng thống đã ra sân bay đón đại tá Nguyễn Thành Luân và phu nhân. Thông cáo của Tổng hội Phật giáo Việt Nam: Lễ cầu siêu cho các nạn nhân ở Huế trong vụ Phật đản sẽ được tổ chức khắp các chùa trong toàn quốc vào một ngày thống nhất, sẽ thông báo sau. THÍCH TÂM CHÂU (Thừa lệnh Tổng hội chủ) Đại diện của tổ chức Phật giáo Thế giới gửi Tổng Thống Ngô Đình Diệm: Rất xúc động và rất tiếc về sự việc bi thảm ở Huế ngày 8-5. Mong chính phủ Việt Nam Cộng hòa có biện pháp trấn an và bảo đảm quyền hành đạo của đạo Phật. --- (1) Journal d’ Extrême Orient: Nhật báo Viễn Đông (báo tiếng Pháp, xuất bản ở Sài Gòn) (2) Francophone: nói tiếng Pháp (3) Francophile: thân Pháp (4) Francophobe: chống Pháp. Phần 7 - Chương 2 Luân và Dung vắng mặt ở Sài Gòn hơn một năm, Trong thời gian ấy, ngoài những tháng nghiên cứu trong Học viện, họ đi lại nhiều nơi trên nước Mỹ và cả châu Âu. Dĩ nhiên, lần xuất ngoại dài ngày đầu tiên này trong đời, giúp họ một loạt hiểu biết mới và kèm theo một loạt suy nghĩ mới.Tình hình trong nước đến với họ qua thông báo của đại sứ quán, qua đài phát thanh và một số báo chí. Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Mỹ: Trần Văn Chương và quan sát viên của Việt Nam Cộng hòa tại Liên hợp quốc: bà Trần Văn Chương, đã dành cho vợ chồng Luân một ưu ái gia đình đặc biệt. Người viết thư thường xuyên nhất cho Luân, ngoài Nguyễn Thành Động lại là Ngô Đình Nhu. Trong những bức thư này, có cái khá dài. Nhu phản ảnh tình hình trong nước thì ít, mà than thở thì nhiều. Đôi bức thư bộc lộ nỗi hoảng sợ, mặc dù anh ta không nói rõ nỗi hoảng sợ đó là gì và cứ băn khoăn mãi về thời gian ở nước ngoài của Luân mà anh ta cho là quá dài. “Tôi nghĩ là tôi đã sai lầm khi đồng ý để anh vào Học viện Fort Bragg. Anh không cần phải có những kiến thức chuyên môn quá sâu về hành quân. Chắc chắn anh có thể trở thành một tướng lĩnh nổi tiếng, nhưng như thế sẽ là một tổn thất đối với sự nghiệp của chúng ta. Anh đi rồi, tôi thấy hết sức trống trải. Người ta chửi tôi đương nhiên là không đếm xuể, nhưng họ chửi lén, còn số tâng bốc tôi cũng tương ứng như vậy. Tóm lại, tôi không có interlocuteur (1) và thẳng thắn, tôi không có cả adversaire – adversaire (2) với nghĩa franc-jeu (3). Gia đình đã dời sang dinh Gia Long, anh cũng biết, và ủy ban tái thiết dinh Độc Lập được thành lập, anh cũng biết. Thật buồn cười khi Tổng thống đích thân nghiên cứu bảng thiết kế xây dựng lại dinh Độc Lập. Tôi sẽ không nói về dáng dấp của cái dinh tương lai ấy. Bởi ý của tôi là phục chế lại kiểu của cái dinh từ thuở nó còn mang tên Norodom. Kiến trúc Pháp vừa bệ vệ vừa thanh tú. Mà thôi, cái buồn cười lại ở chỗ khác. Tổng thống mời một chiêm tinh gia – thông thường chúng ta gọi là thầy địa lý, hoặc nôm na hơn là thầy bói - để tính các quẻ Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài... sao cho nơi ở của nguyên thủ quốc gia tránh được những quả bom kiểu cuối tháng 2. Tôi không phản đối xây hầm bêtông kiên cố, nhưng tôi hết sức lạ lùng về lòng tin nhiệt thành của Tổng thống đối với các thuyết âm dương ngũ hành. Đã thế, khôi phục quách ngọn cờ quẻ Ly của Trần Trọng Kim để đạt một sự hài hòa đúng mức! Hôm tay thầy bói - cũng may là một tay thầy bói chưa mù - giảng về những cửa, những hướng mà dinh Độc Lập phải xây theo, thì Tổng thống bảo tôi ngồi nghe, cùng với Đức cha. Tôi không nói một lời vì biết Tổng thống sẽ nổi cơn thỉnh nộ. Đức cha gật gù, sau cùng bảo: “Kết hợp cả Đông Tây cũng là một cách tốt, tôi cho xây dựng nhà thờ Phú Cam theo những nguyên tắc na ná như vậy”. Nhà tôi khuyên tôi: “Thôi anh, Tổng thống chẳng có thú vui gì, mình đừng làm cho ảnh phiền”. Tôi không rõ kiến trúc sư số một của ta, người được giải thưởng lớn ở La Mã là Ngô Viết Thụ có ẩn ý gì hay không, khi trong bản thiết kế mặt tiền của dinh nhìn qua thấy toàn là xương, cũng còn may mắn, không phải là xương sọ! Vào những lúc “đơn thương độc mã” như vậy, tôi thấm thía về sự vắng mặt của anh. Anh ở nhà, có thể giảm nhẹ những việc lố bịch đó, bởi tiếng nói của anh dễ được Tổng thống nghe hơn của tôi và anh biết cách nói hơn tôi. Một chuyện khác cũng không vui. Tượng bà Trưng được dựng khá bề thế ở giữa một công viên, nhưng dư luận thì cho đó là tượng của nhà tôi. Anh thấy đấy, toàn những chuyện chẳng ra làm sao cả trong khi cường độ chiến tranh mỗi lúc mỗi gia tăng và thiệt hại của chúng ta mỗi lúc một lớn hơn. Tướng Paul Harkins úp mở với tôi rằng viện trợ Mỹ về khí tài quân sự được thực tế chứng minh là không đủ để giành chiến thắng. Chắc anh hiểu hàm ý của nhận xét đó. Tôi hỏi đại tướng: cần bao nhiêu thực binh Mỹ nữa. Ông ta nhún vai và trả lời: “Cần đủ để chiến thắng”. Tôi lại hỏi: “Có thể lấy chiến tranh của Pháp ở Đông Dương hay chiến tranh Triều Tiên làm một tiêu chuẩn tính toán không?”. Ông ta nhíu mày: “Lúc cao nhất Pháp có 20 vạn quân viễn chinh ở Đông Dương - mỏng quá chăng? Còn ở Triều Tiên, Mỹ cần gần 30 vạn - nhiều quá chăng?”. Rồi ông ta cười: “Lính Nam Triều Tiên đánh giỏi hơn lính Nam Việt”... Và, ông ta nhấn mạnh: “Cần bao nhiêu thực binh Mỹ là tùy ở năng lực chiến đấu của Nam Việt”. Tình hình Lào cũng kích động dư luận trong nước. Pathet Lào mở rộng địa bàn kiểm soát đến nỗi thủ tướng Boun Oum và tướng Nousavan bay sang Sài Gòn vận động chúng ta ủng hộ họ chống Cộng. Một đồng minh láng giềng mong manh cỡ đó thì thật nguy hiểm đối với cao nguyên Trung phần của chúng ta. Còn Sihanouk, như anh đã biết, le prince qui boude (4), ông ta luôn luôn đồng bóng, chửi Cộng sản Cambôt tàn tệ nhưng lại cho phép Việt Cộng thiết lập một phòng thông tin tại Nam Vang và làm ngơ để Kossem tiếp tục cái Fulro lá mặt lá trái của hắn ta, lôi kéo một nhóm người Thượng, và người Chàm từ Việt Nam Cộng hòa sang Camp Rolland huấn luyện. Triển vọng của tình hình, chưa thấy sáng sủa, đặc biệt khi tướng Paul Harkins vừa được chính phủ Mỹ chỉ định kiêm nhiệm Tư lệnh quân đội Mỹ cả ở Việt Nam và Thái Lan. Thôi, anh liệu mà thu xếp về nước càng sớm càng tốt. Cho tôi hỏi thăm cô Thùy Dung.” Trên đây là một trong các bức thư của Nhu gửi cho Luân. Với các bức thư đó, Luân hình dung được sức ép của quân Giải phóng đối với quân Sài Gòn và từ cái nền như vậy, biến động chính trị ở Nam Việt là không tránh khỏi. Luân tin chắc rằng cú ném bom của Nguyễn Văn Cử và Phạm phú Quốc là lời cảnh cáo sau chót của Mỹ. Bây giờ, không cần cảnh cáo nữa. Nếu Diệm đủ khôn ngoan thì còn buộc Kennedy cân nhắc, bằng ngược lại... Nguồn tin chính trị thì Luân theo dõi qua các bài của Helen Fanfani. Luân đặc biệt lưu ý đến tin về ngày Phật đản năm 1962 được cử hành hết sức long trọng tại chùa Xá Lợi Sài Gòn với cả trăm nghìn người tham gia theo quyết định của Phật giáo thế giới. Fanfani đã phân tích sự việc đó như là một dấu hiệu chính trị nổi bật: Phật giáo leo lên vũ đài và đằng sau các nhà sư là một khối lượng người rất khó ước định. Fanfani là một nhà báo sắc sảo, càng về sau, Luân càng khâm phục cách ghi nhận và đánh giá tình hình Nam Việt của cô. Nhiều phóng viên báo chí và thông tấn ở Sài Gòn, song Fanfani xứng đáng đại diện cho giới tài chính ngân hàng Mỹ - bao giờ cũng suy tính mọi lợi hại trên tầm bao quát. Luân đã cắt một bài của Fanfani mà anh cho là hay nhất trong các bài của cô. Dung cũng đồng ý như vậy. Bài báo viết vào đầu năm 1963, sau kỳ Noel mà Fanfani về Mỹ và gặp vợ chồng Luân - họ đi chơi tận Chicago, Los Angeles và San Francisco. Đó là lần duy nhất mà Luân gặp Fanfani ở Mỹ. Trái với Saroyan, Fanfani không hề viết riêng thư cho Luân. Cô cười khi cùng sóng đôi với Luân trên bãi biển: “Tôi viết cho ông thường nhất đấy chứ... Chẳng lẽ ông không đọc bài của tôi?” Bài báo đặc sắc gợi cho Luân suy nghĩ, không dài, tựa là Việc đầu tư của Mỹ ở Nam Việt. “Cái đích mà những người có quyền thế ở Mỹ, quyền thế thật sự mặc dù chưa bao giờ họ ký tên vào bất cứ một mảnh giấy con nào về các vấn đề hành chính, có vẻ mỗi lúc mỗi xa tầm với của họ ở Nam Việt. - Fanfani mở đầu bài báo. Cô viết tiếp: “Thực tế Nam Việt dấy lên cuộc tranh chấp mà vào lúc sơ khởi, hầu như chưa ai nghĩ rằng sẽ có cuộc tranh chấp như vậy. Việt Nam hay Đông Dương thuộc Pháp, vốn định mệnh đã an bày, và thật ít người Mỹ biết đến sự có mặt của nó trên hành tinh, chứ đừng nói ý định nước Mỹ dính líu vào đây. Vào thế kỷ XIX, một đại diện của hoàng đế Việt Nam tên là Bùi Viện sang Washington xin cứu viện chống lại người Pháp thì Tổng thống Mỹ lắc đầu. Nhưng lịch sử không chịu đừng yên. Năm 1951, tướng 5 sao - sau khi ông ta chết, được truy phong thống chế - Jean de Lattre de Tassigny, với tư cách là Tổng tư lệnh quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương đến Mỹ để xin viện trợ quân sự giữa lúc chiến tranh Triều Tiên vào hồi sắp tàn cuộc. Cái bóng ma ám ảnh cuộc thương lượng của De Lattre và chính phủ Mỹ là sự can thiệp của Trung Cộng, điều mà đúng vào ngày De Lattre hấp hối trên giường bệnh, một tướng 5 sao khác của Pháp, tướng Juin - và ông này về sau cũng được phong thống chế - khẩn cấp có mặt ở Washington xin Mỹ hãy hành động như ở Triều Tiên. Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ lúc bấy giờ là đại tướng Bradley hoài nghi về khả năng Trung Cộng dám liều lĩnh. Theo tướng Bradley, Trung Cộng đủ khôn ngoan để học bài học Triều Tiên: nếu Mac Arthur bị Tổng thống Mỹ cách chức vì chuẩn bị vượt sông Áp Lục tiến đánh cảnh cáo Trung Quốc; thì Trung Cộng gửi liền cho Mỹ một thông điệp bằng hành động: nguyên soái lừng danh Bành Đức Hoài bị Mao Trạch Đông cách chức vì ông ta thề quét quân Mỹ ra ngoài vịnh Triều Tiên. Chính phủ Hoa Kỳ nhắc lại sự cam kết đầu tiên là quan tâm hàng đầu đến viện trợ kinh tế theo điểm 4 trong chương trình Truman (5), mặc dù chính phủ Pháp từng cử đại sứ ở Viễn Đông để trao đổi những kiến nghị với chính phủ Mỹ về thái độ của Mỹ trong cuộc chiến Đông Dương. Sự lơ là của tướng Bradley còn liên quan đến tuyên bố của tướng Pháp Carpentier, Tổng tư lệnh quân viễn chinh Pháp vào đầu năm 1950 tại Đông Dương: “Nếu Mỹ muốn việc trợ quân sự cho các quốc gia Đông Dương thuộc Pháp thì nhất thiết sự viện trợ đó phải thông qua Liên hiệp Pháp, tức là quân đôi Pháp”. Có lẽ tướng Carpentier bị chính phủ Pháp khiển trách, do đó mà giữa tháng 5-1950 Bộ trưởng ngoại giao Anh, Pháp, Mỹ họp tại Paris với chủ đề: Viện trợ quân sự và kinh tế cho Đông Dương. Đầu tháng 6 cùng năm, Robert Blum, Trưởng phái đoàn Mỹ tới Sài Gòn chính thức thông báo phần viện trợ kinh tế của Mỹ cho Đông Dương tài khóa 1950-1951 lên đến 23.5 triệu dollar, còn viện trợ quân sự chỉ bằng vũ khí và quân nhu, sẽ qua tay quân đội Liên hiệp Pháp. Sáu ngày sau, một ủy ban viện trợ kinh tế Hoa Kỳ được thiết lập ở Sài Gòn để tiếp nhận những triệu dollar khiến nhiều người thèm rỏ dãi nói trên. Chúng ta có thể nói được rằng, đó là số tiền đầu tư quan trọng của Mỹ vào Đông Dương mà chủ yếu là vào Việt Nam. Cũng cần thiết nhắc lại rằng, con số 23.5 triệu dollar của Mỹ đã góp phần đưa cuộc đàm phán Pau thoát khỏi tình trạng cù nhầy mà nguyên do là chính phủ Pháp của Vincent Auriol vẫn luyến tiếc chế độ trực trị các thuộc địa cũ. Ngày 22-7-1950, hai chuyến máy bay đầu tiên mang cờ Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, hạ cánh ở sân bay Tân Sơn Nhất, bấy giờ còn rất cũ kỹ. Thuốc men, bột DDT, thuốc kháng sinh, dụng cụ y tế v.v... nhãn hiệu USA được phân phối trực tiếp cho chính phủ Việt Nam mà không qua các cơ quan Pháp, dù cho cái “chính phủ Việt Nam” đó gồm những người xem tiếng Pháp là tiếng mẹ đẻ. Bất cứ một mưu đồ lớn nào của các nhà chính trị cũng đều mở đầu một cách hiền lành, nhân đạo như vậy cả. Chính phủ Mỹ tự rút kinh nghiệm: Mùa xuân cùng năm, hai chiếc tàuchiến Mỹ bỏ neo trên sông Sài Gòn, ngay cái thành phố rất náo động và bài ngoại nổi tiếng, đã bị hàng mấy trăm ngàn người giận dữ xua đuổi. Tiếc là nhà tiên tri Nostradamus (6) không dự đoán nổi cái điềm trên là hứa hẹn hay hăm dọa. Thận trọng hơn, một phái đoàn viện trợ quân sự Mỹ do Thứ trường quốc phòng Malby và tướng Erskine cầm đầu “không kèn không trống” đến Sài Gòn và phúc trình sau đó của họ được Tổng thống Mỹ chấp nhận cực kỳ nhanh chóng nếu không nói là Tổng thống đã quyết định từ trước. Âm thầm và rón rén như những kẻ buôn lậu, giữa tháng 8-1950, một tàu buôn Mỹ cập bến Sài Gòn và mọi hoạt động chỉ về đêm: súng, đạn pháo, xe bọc thép v.v... hối hả nhập vào các kho của quân đội Pháp. Quyển sử về sự dính líu của Mỹ vào Việt Nam và Đông Dương mở ra chương thứ nhất với chuyến tàu trọng tải 15.000 tấn đó. Thang 10 cùng năm, Thủ tướng Pháp Pleven lại cử bộ trưởng quốc phòng Jule Moch sang Mỹ thúc viện trợ quân sự nhưng nói rõ chỉ viện trợ vũ khí mà thôi. Một ngày đáng ghi nhớ trong quyển sử mà tôi tin thế nào cũng sẽ xuất hiện, ngày 10-10-1950 một phái đoàn viện trợ quân sự Hoa Kỳ đặt dưới quyền của tướng Brinsk chính thức treo ngọn cờ lấm chấm những ngôi sao xanh và vằn vện những sọc đỏ giữa Sài Gòn. Nước Mỹ quyết định từ bóng tối bước ra ánh sáng vào đúng cái thời điểm bản lề của cuộc chiến Đông Dương: toàn tuyến biên giới Việt Bắc do những lực lượng tinh nhuệ nhất của quân viễn chinh Pháp trú đóng bị chiếc chổi khổng lồ của tướng Giáp quét một nhát sạch nhẵn, từ Cao Bằng qua Đông Khê, Thất Khê đến Lạng Sơn với 5.000 tù binh và hai đại tá sừng sỏ. Giới doanh nghiệp Mỹ lúc đầu chú ý đến Việt Nam ít hơn giới chính trị và giới quân sự. Ngót trăm năm cai trị của Pháp, miền đất hẻo lánh này của thế giới chỉ trưng bày được trong thông tin kinh tế quốc tế với mặt hàng quá khiêm nhường: cao su thì thua Malaysia, cà phê xếp sau Brasil, các loại quặng chỉ mới tính bằng đơn vị tấn, trừ than đá và lúa gạo. Nhưng cuộc chiến tranh Pháp - Việt đã khiến cho giới doanh nghiệp Mỹ từ chỗ thờ ơ, đến chỗ quan tâm đặc biệt tình hình Việt Nam. Có lẽ cái khác nhau giữa họ - giới doanh nghiệp - với giới quân sự và chính trị chung quanh những vấn đề như vị trí chiến lược, như tiền đồn ngăn chặn làn sóng đỏ, vẫn còn trừu tượng; nhưng cái yếu tố hấp dẫn lồ lộ như nhà thôi miên cuốn hút họ: những chục triệu dollar công khai và hàng trăm triệu dollar bí mật cần phải được sử dụng, tuy tận miền Viễn Đông nhưng không thể vượt ngoài quỹ đạo của nền kinh tế Mỹ. Giới doanh nghiệp Mỹ bắt đầu làm tính với Việt Nam một cách thực dụng như họ làm tính với đồng bào họ và khi Trưởng phái bộ kinh tế đầu tiền của Mỹ ở Sài Gòn, ông Williamon, công bố số tiền viện trợ kinh tế cho Việt Nam tài khóa 1951-1952 là 25 triệu dollar thì các hãng buôn Mỹ thiết lập nhanh nhẩu chưa từng có cơ quan đại diện của mình trong các khách sạn sang trọng giữa trung tâm Sài Gòn. Một viện hối đoái được thành lập và một Huỳnh Văn Lang thân Pháp, một Đinh Quang Chiêu thân Mỹ song song điều hành công việc. Giới doanh nghiệp Mỹ không cần thiết lập nhiều ngân hàng ở Sài Gòn, trừ chi nhánh ngân hàng Manhattan, bởi các ngân hàng của Trung Hoa Tưởng Giới Thạch và của Hongkong thật sự hay phần quan trọng là của họ. Rồi cuộc chiến tranh Việt - Pháp kết thúc, rất bi thảm đối với nước Pháp nhưng rất rực rỡ đối với chính phủ Mỹ. Thế là, từ trước, khu vực ảnh hưởng xa nhất Đông Nam Thái Bình Dương của Mỹ dừng tại Philippines, bây giờ, nó thêm hàng nghìn cây số lên mép lục địa Đông Nam Á, trên đất liền. Bỗng nhiên trong giới doanh nghiệp Mỹ lưu hành một luận điểm mỗi ngày mỗi trở nên chính thống: Đông Dương có vị trí chính trị, quân sự, kinh tế với tầm cỡ chiến lược, mà nếu như Mỹ bị hất ra khỏi nơi đó thì có nghĩa thủ đô Washington sẽ thất thu! Người xướng xuất cái lý thuyết viễn tượng khá phi thường ấy là giáo sư Henry Kissinger với một đồng minh mang bệnh tâm thần là thượng nghị sĩ Mac Carthy, dưới sự bảo trợ của một kẻ lõi đời: Foster Dulles. Các con số về tiềm năng kinh tế của Việt Nam đều được máy tính điện tử thổi phồng theo cấp số nhân. Foster Dulles chết vì bệnh ung thư nhưng rất tiếc trình độ khoa học chưa đủ sức tìm trong các tế bào rối loạn của cựu Ngoại trưởng Mỹ phần nào tượng hình ung nhọt Việt Nam. Giới doanh nghiệp Mỹ nhảy xổ vào Nam Việt Nam sau Hiệp định Genève, nói trắng ra là nhảy xổ vào 300 triệu dollar viện trợ và chừng đó dollar viện trợ quân sự hằng năm giống những cầu thủ ruby XV thô bạo dùng quyền Anh, võ Judo và cả những nhọn lao người da đỏ đánh rạp người Pháp trên thương trường. Ngày nay, những người định đoạt chính sách nước Mỹ rất thống nhất với nhau: Phải đẩy lùi càng xa càng tốt nguy cơ Trung Cộng thọc tay vào Đông Dương. Thật là may mắn, Mao Trạch Đông đã viện trợ hào phóng cho nước Mỹ bằng cách ông ta thọc tay khuấy động nội bộ nước Trung Hoa và cả phe Cộng sản quốc tế, trong đó thế nào cũng có giới Hoa kiều đông đúc ở Chợ Lớn. Phải giữ Bắc Việt tạm thời tồn tại phía Bắc vĩ tuyến 17. Lúc bấy giờ, nghĩa là mấy năm liền sau Hiệp nghị Genève, ý định này không phải là viễn vông: ông Hồ Chí Minh còn bận nhiều việc gấp hơn. Nước Mỹ phải nhập cảng vào Nam Việt thật nhiều cirage và verni để đánh bóng chiếc tủ kính trưng bày sự có mặt của nước Mỹ ở khu vực Đông Nam Á. Đó là sự có mặt rất đỗi ôn tồn và niềm nở, giàu có và vung tay, thậm chí rất tế nhị. Nước Mỹ chăm sóc cả những bộ ngực mỹ miều của các cô gái Nam Việt, dành một sự quan tâm ngang với quan tâm kinh thánh, vòng nở nang của đùi và mông. Nhưng - chữ “nhưng” mà Eisenhower nổi đóa và Kennedy sắp chửi thề - Tổng thống Việt Nam Ngô Đình Diệm thích dùng cirage và verni của Mỹ đánh bóng cho cái mà danh từ Á Đông gọi là chiếc ngai vàng. Ông ta say mê trở thành hoàng đế hơn các nhà doanh nghiệp Mỹ say mê khai thác các thứ có thể khai thác trên đất nước ông. Và ở đây, tồn tại một sự can thiệp của lịch sử dù chính phủ Mỹ có nhắm mắt cũng phải thấy - đó là Cộng sản. Bây giờ họ tự xưng là Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Họ nói rằng họ chống sự xâm lược của Mỹ và chế độ độc đoán của gia đình ông Ngô Đình Diệm để xây dựng một miền đất nước không có tiếng súng, không có áp bức của nước ngoài, không có bóc lột và đối xử ngang ngược trong nước. Họ đòi thi hành Hiệp nghị Genève và tuyên bố độc lập với chế độ Cộng sản Bắc Việt bởi họ chủ trương trung lập. Nhưng đồng thời họ cứ nhắc đi nhắc lại mãi rằng đất nước Việt Nam của họ là một dân tộc của họ thống nhất từ 4.000 năm. Muốn thắng Cộng sản ở Nam Việt, không một nhà chiến lược quân sự Mỹ nào không nghĩ đến qui mô chiến tranh nhất thiết phải mở rộng toàn cõi Việt Nam, hơn nữa, toàn Đông Dương. Cái nguy cơ Trung Cộng can thiệp dứt khoát đã lùi xa, xa hơn cả những gì mà giới chiến lược Mỹ mơ ước, nghĩa là tấn thảm kịch Triều Tiên gần như tuyệt đối không thể tái diễn: không có những yếu tố vật chất, đối ngoại và tâm lý để tái diễn. Cái giá sinh mệnh hàng triệu lính Trung Quốc tại Triều Tiên chỉ để làm ranh chia hai Triều Tiên, nhích xuống phía nam vài chục cây số thì quả là giá quá cao. Trung Cộng vẫn giúp Cộng sản Việt Nam ở cả Nam và Bắc, nhưng đó là một sự giúp đỡ tự nó đã có giới hạn. Trung Cộng không muốn một Việt Nam thuộc Mỹ để phải hứng ngọn đòn vu hồi từ phía dưới khó đối phó. Nhưng Trung Cộng cũng không thích thú một Việt Nam thoát ly sự chi phối của Trung Quốc mà các hoàng đế tiền bối của họ luôn luôn nhắc nhở họ phải hoàn thành tốt. Nước Mỹ rõ ràng chỉ phải đối phó với một nước Việt Nam, mà theo Mao, cần thiết cắt đôi lâu dài như Triều Tiên, Đức. Ngay cái đảo nhỏ xứ Đài Loan mà họ cũng chỉ dọa bằng những lần cảnh cáo nhiều đến nỗi thành lố bịch. Nhưng Nga Sô đã là nước đầu tiên đưa người lên vũ trụ. Thành tựu về kỹ thuật quân sự của Nga sẽ được Cộng sản Việt Nam thụ hưởng trong chừng mực cần thiết. Ở chiến trường Nam Việt, người Mỹ và quân lực Việt Nam Cộng hòa đã bắt đầu nếm khá cay đắng những thành tựu ấy, kể luôn những vũ khí tuy mang nhãn hiệu Trung Cộng nhưng từ model Nga Sô. Nước Pháp vẫn bất đồng với Mỹ về vấn đề Đông Dương, Ấn Độ luôn trung thành thuyết trung lập ảnh hưởng ngày một rộng. Thế là bài toán Việt Nam đối với nước Mỹ thêm nhiều con số mới. Chiếc tủ kính trưng bày hàng mẫu không chỉ gồm có thuốc lá Salem, nịch vú và xilip, mà còn có cả những khẩu súng của các hãng Colt, Remington v.v... Dĩ nhiên giới doanh nghiệp chẳng thiệt thòi gì. Không bán tủ lạnh, xe hơi du lịch thì bán các bộ quân phục và xe tăng, máy bay ném bom - lãi to hơn nhiều. Công cuộc đầu tư ở Nam Việt cứ lộn rồng lộn rắn như thế và mỗi ngày thêm nhiều triệu chứng cho thấy sự đầu tư sẽ chủ yếu bằng sinh mệnh của những người Mỹ và bằng cả vận mệnh của nước Mỹ. Các tổng thống Mỹ từ nay trở đi có dám chấp nhận một cuộc phiêu lưu như vậy hay không, đó còn là ẩn số. Song, không còn là ẩn số điều sau đây: chính giới Mỹ giải thích cái tình trạng tấn thối lưỡng nan của mình ở Nam Việt, sự thụt lùi của nỗ lực chống Cộng với các kết quả xám xịt bằng một luận điểm bất ngờ nhất nhưng lại được thống nhất nhất - sự tồn tại của chính cá nhân Tổng thống Ngô Đình Diệm. Con người mà 9 năm trước nước Mỹ gọi rằng “vị cứu tinh của nước Việt Nam đau khổ”, trong phút chốc đã trở thành một thứ Dracula không chỉ hù con nít mà là một hiểm họa thật sự đe dọa nước Mỹ. Chính thức mà nói, nước Mỹ đầu tư vào Việt Nam bằng cái vốn Ngô Đình Diệm. Và bây giờ, bán chính thức mà nói, nhà độc tài Nam Việt đang lên giá cực cao trên thị trường chứng khoán Mỹ - cái giá của “một vật tế thần”, hiểu theo cách phương Đông. Cái có thể trở nên chuyện huyền thoại là ông Diệm cứ ngỡ mình như một thực thể do ý Chúa. Giới doanh nghiệp Mỹ, trái lại, tiêm nhiễm một thói quen sau Thế chiến thứ 2 - nước ít bị tổn thất nhất - là không cần biết ông A hay ông B cầm quyền ở nước nào đó. Lý Thừa Vãng hay Phác Chánh Hi, Magsaysay hay Macapagal... mà chỉ cần biết các kết số lời lỗ trong các giao dịch tính bằng dollar. Và, nói theo ngôn ngữ của giới gangster: “Diệm! Hãy cầu nguyện đi!”. Bài báo tuyệt vời! Luân tấm tắc. Nếu không bị các ràng buộc về trách nhiệm, Luân đã gọi điện khen Fanfani. Nhưng, thật kỳ quặc, Nhu không hề nhắc đến các nhận định đó của Fanfani trong hằng tá thư anh ta viết cho Luân. Fanfani, chẳng thiện cảm chế độ Diệm, nhưng cô cũng không hoàn toàn tán thành cách dính líu của Mỹ vào Nam Việt. Hiểu theo một nghĩa nào đó, Fanfani đánh động ông Diệm. Tờ Financial Affairs sở dĩ đăng bài này của Fanfani là vì - chính Fanfani tiết lộ với Luân - số ngân hàng chi phối tờ báo chưa chia chác được bao nhiêu món viện trợ Mỹ ở Nam Việt. Luận gặp Saroyan hai lần. Lần trước, chỉ vài tháng sau khi Luân đến Fort Bragg. Lần sau tại Paris, nơi Luân dừng chân ngơi nghỉ và sửa soạn đi Philippines và Malaysia. Saroyan đến Fort Bragg và hẹn gặp Luân ở khách sạn, ngày chủ nhật. - Tôi đã nói chuyện qua dây nói với bà đại tá. - Saroyan bắt tay Luân, nói luôn - Và tôi cũng báo cho bà đại tá là tôi sẽ gặp ông. Bà đại tá tỏ ý tiếc vì chương trình nghiên cứu không cho phép bà cùng ông tiếp tôi... Saroyan, trong trang phục hè, “đẹp mê hồn” như chính Luân nói với Dung sau đó, mặc chiếc áo pull mỏng ngắn tay, quần jean bó sát, ngồi trước mặt Luân, dành cả mấy phút ngắm anh. - Tôi nhớ ông... Nhớ một tình nhân... – Saroyan nói giọng thật buồn - Tôi cùng Fishell về Mỹ nghỉ hè ba tuần. Fishell lao đầu vào công việc của các cơ quan, quá nhiều cơ quan. Tôi chỉ đến Hội phụ nữ từ thiện Mỹ vài lần. Yêu cầu của tôi không có gì to tát nên họ đồng ý dễ dàng. Vài chục nghìn chiếc chăn, với chục nghìn đôi tất, một ít thuốc sốt rét... Thì giờ rỗng. Sang Việt Nam rồi, tôi mới biết nước Mỹ rỗng. Thr61 là tôi báo với Fishell tôi đi chơi. Ông ta chỉ xin lỗi tôi đã không thể rời Washington lấy một giờ... Tôi đến đây, bang Bắc Carolina này. - Bà có bảo với giáo sư là bà sẽ gặp tôi không? - Luân hỏi, nhíu mày. Saroyan cười, phô hàm răng trắng và, do đó, đôi môi càng nổi màu đỏ ướt, ngoẻo đầu, nũng nịu: - Không báo! Luân vẫn ngồi yên. - Không báo không vì tôi sợ Fishell ngăn cản hay nghi ngờ tôi... Fishell không ngăn cản đâu, trái lại. Nếu tôi mà nhắc ông thì chính Fishell sẽ gợi ý tôi nên đến Fort Bragg ngay. Dĩ nhiên, gợi ý luôn một vài việc gì đó, bẩn thỉu không chịu được. Fishell không nghi ngờ, bởi tại sao lại nghi ngờ? Ông chắc không thể hiểu rằng nếu ông và tôi trở thành tình nhân thì kẻ sung sướng nhất lại là Fishell... Thế đấy, đại tá Luân! Bỗng nghiên, vẻ nũng nịu dễ thương của Saroyan tan tựa làn khói mỏng. Và, cô ta ôm mặt khóc nức nở. Tim Luân se thắt. Anh không mảy may nghi ngờ Saroyan chơi trò gài bẫy. Không, một cô gái – Saroyan đáng được gọi cô gái hơn là bà - đau khổ thật sự khi phải lấy một tay trùm tình báo. Anh đứng lên, vòng sau lưng Saroyan, dùng chính khăn tay của anh lau mắt cho cô. - Đừng khóc, Saroyan! Làn đầu tiên, Luân gọi Saroyan âu yếm như vậy. - Đi rửa mặt nhé. - Luân xốc Saroyan đứng lên. Gian phòng tĩnh mịch, ấm cúng, khiêu gợi. Cái gì cũng có thể xảy ra và xảy ra tới cùng. Saroyan đứng lên, gần như áp sát vào Luân, bộ ngực phập phồng theo hơi thở dồn dập. Luân nhìn vào mắt thăm thẳm của Saroyan, quàng lưng cô, dìu vào phòng rửa mặt. Luân biết rằng không chỉ riêng anh kiềm chế, mà Saroyan cũng kiềm chế. - Tại sao Saroyan không ly dị Fishell? -Luân hỏi. - Tại sao tôi không ly dị? - Saroyan cười héo hắt, khi trở lại ghế, cô không tô lại má và Luân bỗng thèm hôn lên đôi má không trang điểm đó. - Cả tiếng Pháp và tiếng Anh đều nghèo từ hơn tiếng Việt và tiếng Ảrập - Saroyan nói - Trong xưng hô, tôi sẽ không gọi ông là đại tá Luân. Vous, toi, you, moi, I... cần hiểu theo tiếng Việt. Tôi biết tiếng Việt quá ít và chưa hề dùng nó bao giờ. Anh, em.. Được không? Luân cười buồn và gật đầu. - Em trở lại câu hỏi của anh. Không ly dị vì luật Hồi giáo không cho người phụ nữ cái quyền đó. Ly dị là một khái niệm xa lạ đối với đạo Hồi. Chỉ có việc người đàn ông bỏ một người đàn bà... Người đàn ông có quyền lấy nhiều vợ và ruồng bỏ... - Nhưng, Saroyan không cần cả cái mạng che mắt, biết uống rượu, hút thuốc lá, ăn thịt lợn, chắc không bao giờ đọc kinh Coran và hành hương về La Mecque (7) - Biết khiêu vũ nữa! - Saroyan tươi tỉnh lại. - Koweit không phải là nước Ảrập quá bảo thủ, anh hiểu như vậy... . - Anh chưa hiểu gì cả, Luân ạ... Em còn cha mẹ, còn chị, anh và em... họ đang sống ở Koweit. Anh có biết ai dự lễ cưới của em với Fishell không? Tiểu vương Koweit. Nước Mỹ và riêng Fishell cần dầu lửa Koweit, nhà vua Koweit biết rằng dân Koweit không thể bới bằng tay để tìm dầu lửa. Đó là một sợi dây cột em cho đến khi nào chính Fishell thấy cần một người vợ khác, một phụ nữ da đen chẳng hạn, bởi nước Mỹ và cơ quan của Fishell không dừng tầm dòm ngó trong một giới hạn nào cả. - Coi chừng vợ Fishell có thể là một phụ nữ ở sao Kim! - Luân đùa. - Anh nói không quá đâu. - Saroyan vẫn nghiêm nghị - Nếu sao Kim có sinh vật và nước Mỹ mò tới... Nhưng em không cắt sợi dây ràng buộc ấy chẳng phải chỉ vì số phận những người thân ở Koweit. Em tự hỏi: Tìm tình yêu ở đâu? Saroyan lại khóc lần nữa. Luân không ngăn cô. Thôi để cho cô ấy khóc, nước mắt làm vơi đi u uất... - Em chưa có tình yêu. Fishell là người đàn ông đầu tiên biến em thành đàn bà nhưng giữa ông ta và em có đủ các thứ của mối giao tiếp nam nữ, trừ tình yêu. Giả sử Fishell yêu em, chắc chắn em sẽ đáp ứng lại với tất cả tấm lòng. Ngoài lý do chữa trị, Fishell cần đàn bà. Chỉ có thế thôi... Em nói hơi thô, anh đừng giận. Fishell coi đàn bà như một giống vật và đàn bà đối với Fishell được ghi trong chương trình hằng ngày của òng ta, vào giờ nào và bao lâu. Fishell cấm em có con với ông ta. Fishell trên 60 tuổi, chính thức ăn ở với năm người gọi là vợ và ông ta không có một đứa con nào cả. Trên tất cả em muốn anh hiểu một điều: Fishell là người Mỹ... Luân thở dài. Ngồi cách anh có nửa mét, một phụ nữ đẹp đang oằn oại. Chắc chắn Saroyan không thiếu các loại trang sức đắt tiền nhất, các tiện nghi sinh hoạt hiện đại nhất. Vậy mà Saroyan vẫn là người nghèo, rất nghèo... - Anh biết John Hing không? - Saroyan hỏi đột ngột. - Có! - Fishell và John Hing thuộc hai huyết thống khác hẳn nhau nhưng lại giống nhau như hai giọt nước. Với anh, em không muốn che giấu bất kỳ điều gì. Em đã quan sát kỹ gian phòng này, không có máy nghe lén... Một lần, Fishell đưa em đến nơi John Hing, nói là thăm xã giao. John Hing ngụ tại khách sạn Majestic. Fishell dặn em mặc jupe, để hẳn vai trần. John Hing ôm hôn em như hôn vợ một người bạn, sau đó, bảo Fishell: Bà nhà thật mỹ miều, nhưng tôi bao giờ cũng hành lạc vào buổi trưa. Tôi không phí thì giờ ban đêm, bởi đêm tối cho ta nhiều gợi ý; giữa lúc thiên hạ ngủ, ta thức!? Chúng ta nên bắt đầu trao đổi những suy nghĩ, còn bà Fishell có thể tìm nơi giải tri khác. Em hoàn toàn không ngờ Fishell sử dụng em như một con điếm. Em tát vào mặt cả Fishell lẫn John Hing và ra khỏi phòng. Không ai trong họ phản ứng - có, có phản ứng, họ cười. Tiếng cười cũng không lâu. Đêm đó, em khóc. Fishell về nhà, không mang theo một tí mùi rượu nào. Ông ta thay quần áo và bảo em, giữa lúc chiếc gối của em ướt đẫm: Xong rồi! Thống nhất rồi!... John Hing là tay rất biết điều. Ngày mai, Lansdale sẽ gặp tôi. Ngày kia, tôi sẽ gặp Lâm Sử, một tay Trung Cộng, có cỡ... Fishell vừa nói vừa lột quần áo em. Em chống cự. Gì thế? - Fishell hỏi. Và ông ta không cần em trả lời, bởi đồng hồ trên bàn chỉ cái giờ mà Fishell đã xếp công việc hàng ngày. Luân lấy một chiếc khăn ướt, lau mặt Saroyan. - Fishell biết rõ quan hệ giữa Nolting vả Lệ Xuân. Chính Fishell tạo điều kiện cho quan hệ đó nẩy nở, kéo dài. Ảnh làm tình của hai người phải kể đến hàng xấp trong tủ Fishell. Nhưng bây giờ, Fishell cho rằng không cần thiết nữa. Ông ta hay đùa với Nolting: Anh say mê nghề ngoại giao mà buông thả trái tim thì tốt nhất nên về vườn! Fishell chưa một lần hôn Lệ Xuân, ông ta bảo: Tôi không tìm cảm giác trong cái hôn, còn dấn sâu với con mụ này, tôi lại không có nhu cầu, mặc dù công bằng mà nói, thân thể mụ hấp dẫn. - Saroyan! - Luân kêu khẽ. Saroyan đưa tay ngăn Luân: - Anh cần nghe, nghe cho hết. Phần cốt yếu khiến em đến gặp anh, em chưa nói... Tất nhiên, em không bao giờ được tiếp xúc với các tài liệu mật của Fishell, song thỉnh thoảng vẫn nghe Fishell nói với người này người khác, đôi khi nói với em. Lần nghỉ hè này, Fishell thật sự làm việc với Colby - anh thừa biết Colby là ai. Cùng về Mỹ, tuy xê dịch thời gian, cả Lansdale, William Porter, James Casey. Em tin rằng họ sửa soạn một phúc trình cho Tổng thống Mỹ - những bản phúc trình của họ bao giờ cũng được Tổng thống đánh giá cao. À, em quên, John Hing cũng về Mỹ. Có thể ông ta không trực tiếp hội họp với Colby nhưng, theo em hiểu, tiếng nói của John Hing đặc biệt nặng trong chính sách Viễn Đông của Tổng thống Mỹ, bởi cũng theo em suy luận, John Hing vừa là thành viên quản trị Công ty vũ khí Colt, vừa là phó chủ tịch Tổng công ty hóa chất Ohio Chemical Corporation, chuyên sản xuất thuốc diệt cỏ, và nhiều công ty siêu quốc gia khác nữa, vừa giữ liên hệ chặt với giới Hoa kiều Đông Nam Á, được cả Đài Bắc lẫn Bắc Kinh tin cậy... Vấn đề sẽ được đặt ra là còn hay không còn cần ông Diệm ở Nam Việt, đứng về lợi ích của Mỹ và cả của những quan hệ đan chéo trong vùng. Fishell gần đây hay cáu kỉnh với Nolting và theo em, Nolting sắp bị thay thế. Luân rót cho Saroyan một cốc nước. - Nếu chỉ là việc ông Diệm, em không phải bận tâm... Nhưng anh là người của ông Diệm. Fishell từng nhiều lần khen anh. Em không đủ sức phán đoán các khả năng. Tuy nhiên, em vẫn linh tính có đến hai triển vọng về anh. Hoặc anh sẽ trở nên một con người mà vị trí na ná như ông Diệm ở Nam Việt hoặc anh sẽ không còn là gì cả. Fishell khen anh. Nhưng, trong lời khen, ông ta hàm ý gờm anh. Fishell gờm ai thì thật rất rủi ro cho người đó... Những điều Saroyan thổ lộ không phải bất ngờ đối với Luân, kể cả phần mà tình báo Mỹ dành riêng cho anh - chiếc ngai hay một phát súng. Trong lần gặp gỡ đầu tiên với đại sứ Mỹ Rheinardt tại Câu lạc bộ thủy trên bán đảo Bình Quới Tây, Luân đã nghe ý định của người Mỹ. “Nước Mỹ cần những con đại bàng biết khống chế những con đại bàng khác bay cho đúng hướng”. Hình như Rheinardt nói một câu tương tự như vậy. Tuy nhiên, Luân vẫn băn khoăn và anh không đủ dữ kiện để giải đáp: Liệu rằng thay thế Diệm trong thời điểm hiện nay đã thật có lợi cho cách mạng chưa? Năm 1957, Luân tán thành, thậm chí nhúng tay vào một hành động nhằm trừ khử Ngô Đình Diệm trên cao nguyên Buôn Ma Thuột. Lúc bấy giờ, thế lực thân Pháp chưa sụp hẳn mà thế lực thân Mỹ còn phôi thai. Mỹ có mặt ở Nam Việt chỉ với vài trăm cố vấn. Diệm mà bị lật đổ lúc đó thì Nam Việt rơi ngay vào cảnh hỗn loạn. Nhũng người kháng chiến chống Pháp, các đảng viên và quần chúng yêu nước chưa bị tổn thất lớn, cách mạng có thể giành được một cái gì đó. Sự biến tháng 11-1960 nếu thành công, tình thế tuy phức tạp nhưng chắc cách mạng sẽ giữ một vai trò có ý nghĩa. Sự biến đầu năm 1962 chỉ là trò trẻ con. Tỉ dụ như Diệm chết vì những quả bom thì Nguyễn Tôn Hoàn sẽ đăng quang. Một đảng Đại Việt cầm quyền mở đường cho lực lượng Mỹ đổ ồ ạt lên Nam Việt và trong phần nội trị, Đại Việt sẽ không chỉ xây một P.42... Bây giờ, cũng chưa cỏ những nhân tố mới khả quan hơn cho thời kỳ “hậu Ngô Đình Diệm”. Nhận định của anh chính xác không? Người mà anh có thể trao đổi trên đất Mỹ là Thùy Dung, vợ anh. Dung cũng băn khoăn như anh. Thật cực khi mà tình thế phát triển vùn vụt, anh lại phải mỗi ngày nếu không có mặt ở giảng đường để nghe các tướng lĩnh, các giáo sư Mỹ thuyết giảng thì vẫn cắm đầu trước những trang sách trong thư viện. Dung không khác anh. Cô than thở: phải nghe, phải đọc, phải ghi chép và phải nhớ những nguyên tắc và biện pháp nghiệp vụ cảnh sát, đối lập trong từng chi tiết với kiến thức và tình cảm của cô. Họ khổ sở trong vai diễn, nhưng họ khổ sở hơn khi ở đây, cách Tổ quốc cả một đại dương, anh Sáu Đăng hay A.07 chẳng thể nào hướng dẫn họ. Nguyên tắc hoạt động của họ ngăn cấm một cách khe khắt mọi quan hệ với bên ngoài, kể cả những thế lực, nhân sĩ, cá nhân tốt bụng đối với Mặt trận Dân tộc Giải phóng, dù người Mỹ, người nước ngoài hay Việt kiều. - Em đến đây với mục đích thông tin cho anh, mà cũng chỉ có thể thông tin bao quát như vậy thôi... Saroyan ái ngại nhìn Luân. Cô tôn trọng cái trầm ngâm kéo khá dài của anh. - Bây giờ em phải về và sửa soạn theo Fishell sang Việt Nam để tiếp tục những tháng ngày cay đắng. Cầu Đức Ala phù hộ cho anh và mong anh cầu đức Chúa Trời phù hộ cho em... Saroyan lại bưng mặt khóc... Luân đứng lên, đến cạnh cô, nhẹ nhàng nâng cô dậy, âu yếm vuốt tóc cô. Saroyan ghì chặt Luân và trong nước mắt đầm đìa, cô hôn Luân trong tiếng kêu nho nhỏ: “Anh yêu!” Luân chợt nhớ đến Tiểu Phụng trong vùng tối của một tàng cây trên đường phố Sài Gòn vào một đêm mà sau đó, sau cái hôn nồng nàn Tiểu Phụng tặng anh, cô gái người Hoa đáng thương đã chết thê thảm. Luân rùng mình. Saroyan đờ đẫn ngó anh: - Anh khinh em? Luân lắc đầu. Với cả hai bàn tay, Luân áp chặt má Saroyan và từ từ cúi xuống. - Em cảm ơn anh, nhưng em không chấp nhận một sự ban ơn và thương hại! - Saroyan thều thào. “Trời! Chính Tiểu Phụng cũng nói một câu như vậy!”. Luân ngó vào mắt Saroyan và, rất kiên quyết, anh luôn cô đắm đuối. Hai người ghì chặt nhau khá lâu. - Bây giờ, em mới cảm ơn anh đúng với ý nghĩa của chữ “cảm ơn”. Anh cho em cái mà em khao khát... Lân tiễn Saroyan ra sân bay và anh chỉ quay lại Học viện khi chiếc Boeing lẫn vào chân trời. Thùy Dung, một tuần lễ sau đến Fort Bragg, theo yêu cầu của Luân. Cô nghe tất cả và cô cũng khóc nức nở, không phải vì ghen tức. - Nếu có một người con gái mà em thương thì người đó chính là Saroyan, cũng như trước đây em thương Tiểu Phụng. Anh của em đã làm một việc đúng. Lần thứ hai Luân gặp Saroyan tại Paris. Lần đó có Thùy Dung. Luân tế nhị để cho hai người nói chuyện trên những lối mòn của khu rừng Boulogne. Saroyan sắp trở lại Koweit và cô cho biết, có lẽ không phải cô mà Fishell thực hiện việc ly dị. Lý do rất đơn giản: trữ lượng dầu mỏ của Koweit thấp hơn của Arabie Seoudite và Fishell sau ly dị sẽ lấy một người trong hoàng tộc Faycal - nghe đâu bà này trên 50 tuổi. Cả Luân và Dung đều chỉ có thể chia sẻ nỗi đau của Saroyan bằng những lời khuyên. Saroyan cung cấp cho họ thêm một số tài liệu mới, đặc biệt là những tài liệu về mối quan hệ của Fishell với một nhà sư ở Nam Việt. Không phải ngẫu nhiên mà khoa Phật học được thành lập vài năm nay ở trường Đại học Berkeley và Michigan. Người ta bắt đầu nói đến các nhà sư tiến sĩ Phật học như các tiến sĩ Thần học là linh mục trước đây. - Với anh, em chỉ khuyên một câu trong lần chia tay có thể coi như là vĩnh biệt này: hết sức cẩn thận… Saroyan nói với Luân như vậy trước mặt Dung. Cô chỉ bắt tay Luân mà không hôn, mặc dù Dung đã bước cách họ khá xa, một dấu hiệu cho phép. - Em chỉ cần một lần được yêu là đủ. Anh hãy dành tất cả cho Thùy Dung. - Saroyan bảo Luân, rưng rưng nước mắt. - Tại sao vĩnh biệt? - Luân hỏi. Saroyan nhún vai. - Em không thể tiếp tục ở Sài Gòn cho đến khi nào xong thủ tục ly dị? - Luân bảo. - Em hiểu! - Saroyan cười - Em sẽ cố gắng và có gắng vì anh. Anh cho phép em? - Saroyan hôn Luân - Em hôn để cảm ơn sự tin cậy của anh. Saroyan ôm ghì Dung khá lâu. Cả hai đều khóc. Saroyan khẩn thiết xin Luân và Dung đừng tiễn cô ra sân bay. * Thư của Nguyễn Thành Động gồm toàn tin chiến sự với cái giọng xốc hông quen thuộc của anh ta.“Lão Harkins bị Việt Cộng đấm cho gãy hết cả răng - từ nay lão sẽ không ăn bánh mì mà chỉ ăn cứt thôi. Ngày 2-1-1963, con ách chủ của Harkins bị cháy queo. Tin tình báo cho biết Việt Cộng tập trung 2 tiểu đoàn ở rìa Đồng Tháp Mười, tại một địa danh mà khi xuất hiện trong bản thông báo chiến sự thì chỉ có trời mới cạy cái tên đó ra khỏi lịch sử quân sự nước Mỹ: Ấp Bắc. Tôi đoán chắc là đại tá không thể tìm trên bản đồ tỉ lệ lớn nhất tên cái ấp này. Thế là Harkins ra lệnh cho Bộ tổng tham mưu của ta, với sự yểm trợ của một khối lượng trực thăng lớn chưa từng thấy chở 5 tiểu đoàn gồm Biệt động quân, lính Sư 7, lính Dù đổ xuống cánh đồng đã khô ráo. Việt Cộng từ trong các công sự đã bố trí đón sẵn trận đánh này, dùng súng trường, trung liên là chính, với vài khẩu đại liên, hạ bầy trực thăng đen như quạ ấy khi chúng lọt vào tầm hiệu quả của hỏa lực. Trực thăng rơi như lá vàng rơi - đại tá cho phép tôi nói văn chương một chút. Thông cáo của tướng André êm đềm như bài Blue Danube nhưng vợ con bọn lính kéo đến nhà xác để nhìn mặt lần chót người thân của mình thì náo động cả Sài Gòn, cả Mỹ Tho. Cái huyền thoại “chiến thuật trực thăng vận” gãy đổ giống những nhà cao tầng giữa một cơn động đất. Thế mà, 3 hôm sau, tướng Harkins dù mất hết răng vẫn ca ngợi nhưng chiếc trực thăng của ông ta. Đại tá thấy rồi đó, 11.000 quân Mỹ ở Nam Việt không múa được một bài nào cho ra hồn. Tôi có thể tóm tắt tình hình quân sự như sau: chúng ta bị đánh tơi bời khắp các hưởng, bị đánh đến sặc máu mũi, què giò, bò lê bò lết. Khi đại tá về nước sẽ làm việc với xếp mới: trung tướng Dương Văn Minh được cử làm cố vấn quân sự Phủ tổng thống, giao chức Tư lệnh hành quân lại cho Mai Hữu Xuân và trung tướng André từ Tư lệnh vùng I về giữ chức Tư lệnh lục quân. Kiến Hòa thân yêu của chúng ta, nhờ trời, chưa bị vố nào choáng váng, có lẽ vì chúng tôi chưa chịu nhận cố vấn quân sự Mỹ. Có tin sắp tới Trần Ngọc sẽ ra làm tỉnh trưởng Thừa Thiên thay cho Nguyễn Văn Đăng nào đó. Em út của đại tá, thằng Động này ớn sườn nếu người ta lại nổi điên cử Động làm tỉnh trưởng. Cầu trời khấn phật cho đại tá về sớm, họa may bầy em út sống lâu được chăng. Bọn thằng Trương Tấn Phụng, Lê Khánh Nghĩa, luôn cả ông Lâm - vừa mới lên lon thiếu tướng - cũng mong như tôi. Thằng cha Cao Tòng gì đó sư trưởng 13, đã thôi nghề cầm quân và được giao nhiệm vụ đúng sở trường của y - y vốn nổi tiếng “đại tá lái bò” - phụ trách quân nhu vùng III, chuyên cung cấp thuốc lá quân tiếp vụ cho lính cùng với những hộp thịt bò đóng nhãn một hãng miền Nam nước Mỹ, nhưng ra lò tại các căn phố của “chệc” Chợ Lớn… Thêm vài cái mới, nói trước để đại tá khỏi bỡ ngỡ khi trở về: máy bay bắt đầu rải các chất hóa học làm trụi lá cây. Vườn dừa hiền hòa của tụi mình còn một cái thân chĩa lên trời. “Tô hủ tiếu” (8) vừa tuyên bố một chính sách đặc biệt ly kỳ rùng rợn, gọi là chính sách chiêu hồi và cho thành lập những khu để nhốt mấy thằng cha Việt Cộng hụ hợ, chầu rìa, giả hiệu. Thành phần phe Quốc gia tụi mình “được tăng cường” với mấy thằng chó chết đó thì mùi xú uế càng lừng. Bao giờ thì tụi này có thể khui sâm banh đón đại tá?” Mỗi lần nhận được thư của Nguyễn Thành Động, Luân toát mồ hôi. Thư bị kiểm duyệt thì chết cả đám Rất may, Động không bao giừ gửi thư theo đường bưu điện, mà do những người bạn thân mang sang... Đại sứ lưu động Ngô Đình Luyện gặp vợ chồng Luân ở London. Vợ chồng Luân sang thăm người chị của Luân đang dạy học tại đây. Luyện trao cho Luân một bức thư của Nhu mà Luyện không rõ nội dung. “Anh Luân! Nếu có cách nào tiện và an toàn tuyệt đối, anh sang Berlin gặp người anh của anh đang làm đại sứ ở Đông Đức. Điều kiện của phía bên kia về một giải pháp cho vấn đề Việt Nam là những gì? Anh đốt thư này. Chào anh, thăm cô Thùy Dung. Nhu. 16-2-l963. Tái bút: Giữ kín cả với ông bà nhạc của tôi và với chú Luyện”. Bức thư ngắn gần như một điện tín được bọc trong ba lần phong bì. Luân lặng lẽ đốt thư và suy tính. Có nên không? Qua người chị, Luân biết anh của mình mạnh khỏe và trong gia đình, họ vẫn thư từ cho nhau. Người chị không có gì phải ngại: một nhà giáo không hoạt động chính trị. Chị đã vài lần sang Đông Berlin thăm anh. Khi Luân đến London, chị định gọi dây nói cho người anh, nhưng Luân ngăn lại - điều khiến người chị giận dỗi. - Anh em ruột nói chuyện, thăm hỏi một chút cũng không được sao? Phía ông Diệm cứ cho phía bên kia nằm sau bức màn sắt, bây giờ chị hiểu ai mới đố kỵ các quan hệ bình thường của con người... Luân không giải thích và biết khó mà giải thích cho người chị thông. Luân cứ phải đặt mình luôn luôn trong tầm theo dõi của tình báo Mỹ và các phe chống Diệm đang lưu vong. Anh nhớ nhiều cú điện thoại của Nguyễn Tôn Hoàn, của Nguyễn Chánh Thi, Phan Huy Cơ… mặn có, chua có, cay có, thậm chí hăm he, chửi bới. Ngay chuyện James Casey đến Học viện cảnh sát thăm Dung cũng cho thấy sự bao vây đó. James Casey, sau nhiều lần nói chuyện với Dung bằng điện thoại, đã bất thần đến trường, vào một buổi mà hắn nắm chắc là Dung có mặt một mình nơi phòng riêng. Học viện cảnh sát đặt tại thành phố Greewonod, cách Fort Bragg 4 giờ xe lửa tốc hành và 50 bay. James Casey gõ cửa. Dung ngồi cạnh điện thoại, đang nói chuyện với Luân, ngỡ người phục vụ gõ cửa nên mời vào. James Casey lọt vào phòng, Dung thoáng cau mặt, nhưng cô thay đổi liền thái độ. - Chào trung tá... Xin mời ngồi... Chờ tôi một chút, tôi đang nói chuyện với nhà tôi... Dung nói cho cả James Casey và Luân cùng nghe. - Vâng, trung lá James Casey đến thăm em... Anh muốn nói chuyện với trung tá? - Dung quay về phía James Casey - Nhà tôi muốn nói chuyện với trung tá... Thật ra, Luôn không bảo như vậy, chính Dung gài thế trận. Trước khi trao máy cho James Casey, Dung nói thêm: .- Bây giờ là 14 giờ. Em sẽ đón anh vào 16 giờ để cùng đi xem hát và ăn tối... Vâng, máy bay cất cánh lúc 15 giờ, em nhớ... Đó là cái hẹn không có thật - James Casey cầm máy, hau háu dán mắt vào ngực Dung - Dung mặc robe de chambre - và khi Dung đi vào phòng trong thay áo thì tuy miệng liếng thoáng nói với Luân, James Casey trông theo đôi chân trần của Dung như muốn nuốt chửng... Dung trở ra trong bộ quần áo sĩ quan cánh sát. James Casey hiểu đó là dấu hiệu tống khứ hắn. Hắn ngồi đối diện với Dung, chưa mở lời thì người phục vụ đã vào phòng mang thức uống. Dung gọi người phục vụ từ phòng ngủ của cô. Người phục vụ - một cô gái Mỹ - ngồi ở góc phòng khánh, chờ yêu cầu. - Rủi ro cho tôi. - James Casey thở dài. – Tôi đến không đúng lúc. Bà sắp phải đón ông... Trong dự định, tôi muốn xin bà cho cái hân hạnh là được cùng bà đi dự một buổi nhạc, cùng ăn... Tôi sắp sang Sài Gòn, dành phần thời gian cuối này cho cuộc gặp gỡ mà tôi ao ước từ lâu... Thật rủi ro.... - Có gì gọi là rủi ro, thưa trung tá. - Dung trả lời, giọng oai nghiêm - Nếu không trở ngại, xin mời trung tá trở lại vào 17 giờ, vợ chồng tôi sẽ rất vui mừng được mời trung tá đi xem kịch, nhạc và dùng bữa. - Cảm ơn bà. Có lẽ tôi phải trở về Florida ngay, thăm qua gia đình... Từ hôm tôi về Mỹ, chưa thăm nhà. - James Casey tỏ tình khá trắng trợn. Tất nhiên hắn nói láo. Vợ hắn đeo hắn, có lẽ hôm nay hắn bày một mẹo đó mới thoát tới đây... - Tôi hỏi bà một việc; bà có cần gửi thư cho ông cụ ở Hà Nội không? Tôi sẽ chuyển đi giúp. Nghe đâu ông cụ đang yếu. - James Casey thì thào. James Casey đánh đúng cái khao khát của Dung. Từ lâu, cô bặt tin cha. “Chà, viết được cho bố vài chữ, hay quá!” Dung nghĩ. - Tôi cũng có thể chuyển trở lại cho bà thư của ông cụ... Với bà, điều gì làm được, tôi không từ chối... James Casey ngó trân trối vào môi Dung. “Không được!”. Dung nhanh chóng trở lại thực trạng.. . - Vô cùng cảm ơn trung tá. Song, tôi thấy không cần thư từ cho cha tôi... - Dung lấy tất cả sức mạnh để nói một câu trái ngược với thâm tâm đến như thế. - Quái! - James Casey kêu - Tại sao bà lại có thể không nhớ ông cụ? Mấy dòng thăm hỏi, sao không làm? - Tôi nhớ bố tôi, tất nhiên. Song, tôi không muốn những hàng chữ của tôi bị lợi dụng. - Dung mỉm cười. - Lợi dụng? - James Casey trố mắt - Ai? Tôi? - Cộng sản bắt được thư của tôi, thật rầy rà... James Casey nhún vai. Chuông điện thoại reo. Dung đến máy. - Alô! Anh đó hả? - Dung reo - Vâng, anh sắp ra sân bay. Em cũng vậy... Trung tá James Casey chắc cũng sắp từ giã em về Florida. Vâng, nhất định em có mặt ở sân bay trước anh... Anh muốn thi với em ư? Anh sẽ thua... Không, em lái cẩn thận. Nếu em đứng ngay cầu thang máy bay khi anh vừa xuống thì anh thua em cái gì nào?... Ồ! Anh yêu, sao anh lại có thể ở với em những ba hôm? Thế thì em phải vạch ngay một chương trình... Dung phấn khởi - đúng vậy - nhưng cô cố tình bộc lộ công khai sự phấn khởi như chặn mọi mơ ước hão của James Casey. Cô biết là Luân không muốn cô một thân một mình đối phó với James Casey. Không phải Luân giả bộ để lừa James Casey, mà anh sắp đến thật. Đặt máy xuống, mặc kệ James Casey ngồi thừ người với ly Cognac, Dung liếng thoắng dặn cô hầu phòng các việc cần sửa soạn, luôn việc phải làm ngay loại hoa mà Luân thích... James Casey đứng lên. - Xin chào bà... Hắn thất thểu ra cửa và, đây là lần đầu, hắn không hôn tay Dung. * Nên hay không nên? Nhu có lẽ đã bị chặn hết lối thông sang phía bên kia nên mới nhờ Luân. Dứt khoát không phải là cái bẫy giăng nhằm vào Luân, một tín hiệu SOS thật sự. Nhưng, cuộc tiếp xúc, nếu có, lợi hại như thế nào? Thôi được, A.07 và các anh sẽ quyết định điều đó. Còn Mỹ? Chúng có chực chờ để vồ Luân khi anh liên hệ với một đại sứ Cộng sản Việt Nam ở một nước Cộng sản, dù cho đó là anh ruột của Luân? Dung cũng nát óc như Luân. Nằm chung trên chiếc gối, hai người ngó lên trần nhà, im lặng. Bên ngoài, sương mù dày đặc.Luân có một người anh - anh Hai - bác sĩ Louis Nguyễn Thành Luân, mở phòng mạch tại Toulouse. Vợ đầm, nhưng Luân và Dung chỉ gặp Louis ở Paris, lần nào cũng đều ra sứ quán vì Louis thuộc nhóm trí thức thiên tả. Chị Tư của Luân, Christine, kiến trúc sư, sống ở Milan, Ý, sang Mỹ thăm Dung và Luân nhiều lần. Hai vợ chồng Luân cũng sang Milan một lần, ở nhà Christine. Christine và chồng - họa sĩ tranh trí – yêu nghề và yêu nước, yêu nước kín đáo. Em út của Luân, Marie-Louise, cũng kiến trúc sư và chồng là kỹ sư hóa học, công khai ủng hộ kháng chiến Việt Nam, hội viên tích cực của phong trào Việt kiều yêu nước Quebec, cho nên khi Luân và Dung sang Canada không bao giờ đến Quebec, chỉ gặp em tại Montreal và cam kết với nhau không nói chuyện chính trị. Marguerite giống Christine. Chồng là một nhà khảo cổ. Hai vợ chồng mù tịt về thời cuộc. Luân và Dung phải giữ gìn từng li từng li; cũng như ở Sài Gòn, thật lâu họ mới đến thăm Gustave, anh Ba của Luân, người ghét Mỹ ra mặt... - Anh ơi! - Dung quay người sang chồng – Em nghĩ là anh nên gọi điện cho anh Năm. Gọi điện từ đây cũng được. Chỉ cần tính câu nói thế nào để anh Năm hiểu được Nhu muốn tiếp xúc với ta... Luân vẫn nằm im. - Theo em, anh không gọi điện hay không tỏ ra một cử chỉ nào muốn thăm hỏi anh Năm sẽ bất lợi. Chúng tinh vi lắm.... Dung nói đúng. Luân cũng tính đến tình huống đó. Anh hôn vội lên má Dung, rồi trỗi dậy. Nửa giờ sau, cuộc điện đàm bắt đầu: - Alô, Robert đây... - Alô, Jean đây... - Khỏe không, Jean? - Khỏe, còn Robert? - Khỏe. Em và vợ em đang ở chỗ Marguerite... - Vậy sao? Đến đó lâu chưa? Chút nữa, cho anh nói chuyện với Thùy Dung. - Vâng... Đã 9 năm rồi, anh em ta không gặp nhau. Em rất nhớ anh... Chà, giá mà em gặp anh để xem anh thay đổi như thế nào? Chị khỏe không? - Tất nhiên, anh rất muốn gặp chú và cô em dâu. Chị khỏe, nhắc chú luôn. Chị than mãi: làm sao nhìn mặt Thùy Dung một lần. Chị đang ở cạnh anh... Chú nói với chị nhé... - Thưa chị, em Robert đây. Chúc chị khỏe. Dạ, Thùy Dung sẽ nói chuyện với chị. - Thưa chị, em là Dung. Dạ, em cũng rất muốn gặp chị… - Chỉ nghe giọng nói, chị đã hình dung thím nó đẹp ra sao rồi... Chị hôn em nhiều. Sao lâu có con vậy... Có con đi... Con gái phải giống mẹ nghe... Em nói chuyện với anh Năm, nghe... - Alô, thưa anh Năm, em chào anh... Dạ, cám ơn. Em không được tin bố em. Cám ơn... Chị Marguerite nói chuyện với anh... - Alô, Marguerite đây... Em “trung lập” nên mới ráp được mối cho mấy người... * Khi Luân trở lại Paris, đổi máy bay sang Manila thì sứ quán Việt Nam chuyển đến anh một bức thư.“Tôi là người của luật sư Jean Nguyễn Thành Luân, muốn gặp riêng ông. Nơi gặp: bờ sông Seine, đoạn ngó sang Ile de France, vào 19 giờ ngày thứ ba. Tôi biết mặt ông, nên sẽ tự tìm ông”. Chữ ký tên không đọc được... Luân mỉm cười. Anh gửi lại sứ quán bức thư đó và đề nghị đại sứ, nếu thấy cần, tìm hiểu người gửi và báo cáo cho Nhu biết. Luân ở Manila 10 ngày. Những cuộc tiếp xúc với các cơ quan chống du kích Huk không có gì đáng chú ý. Chính phủ Philippines chủ yếu dùng lực lượng quân sự tiến công quân Huk. Sai lầm của du kích Huk là bám rùng núi, nơi rất ít dân và khó khăn về lương thực. Philippines lại gồm nhiều đảo, quân chính phủ dễ phong tỏa du kích. Luân biết chắc Huk sẽ chỉ mỗi ngày mỗi khó khăn hơn mà thôi, trừ phi họ đổi phương thức hoạt động. Anh sang Kuala Lumpua. Tình hình chung của du kích Đông Nam Á giống nhau: họ bước vào cuộc chiến đấu bằng các giáo huấn và kinh nghiệm của Mao Trạch Đông. Thật tai hại khi người ta nâng thành phổ cập công cuộc giành chính quyền ở Hoa Lục: Trung Quốc đất rộng, người đông, chọn căn cứ lãnh đạo đầu não ở vùng có thế vững, trực tiếp nhận giúp đỡ của Liên Xô và tiến hành đấu tranh trong những điều kiện đặc biệt: cả thế giới lo chống chủ nghĩa phát xít, vấn đề dân tộc - tức là nạn xâm lược của Nhật – nổi bật trong yêu cầu chính trị của nhân dân Trung Quốc, giai cấp tư sản cằm quyền vừa yếu, vừa thối nát, vừa chia rẽ và nhất là chưa có kinh nghiệm chống du kích; khi Nhật bị Liên Xô đánh bại, Trung Cộng thừa hưởng đủ mọi thứ: thế chính trị, đất đai kiểm soát, cơ sở vật chất và vũ khí... Các nước Đông Nam Á trỗi dậy sau chiến tranh, trừ 3 nước Đông Dương, hầu hết đều do giai cấp tư sản bản xứ lãnh đạo công cuộc đòi độc lập, đi từ những yêu sách tự trị mà thu hồi dần chủ quyền. Những người Cộng sản không giữ được vai trò hàng đầu, nói chung không giành được ngọn cờ độc lập dân tộc. Trong thắng lợi của những nước tư sản ở Đông Nam Á, xét cho cùng, có phần thỏa hiệp của chính các nước thực dân nhằm ngăn chặn cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cũng phải kể đến một thực tế là sức ép của Mỹ. Mỹ lợi dụng sự suy yếu của các đế quốc mà mở rộng ảnh hưởng; các đế quốc muốn duy trì sự có mặt của mình ở các thuộc địa cũ đều phải dựa vào Mỹ. Nơi đấu tranh gay gắt nhất, đồng thời cũng có những tiền đề phát triển cách mạng tốt nhất là Indonésia, nhưng sai lầm của đảng Cộng sản - chính xác hơn là sai lầm của quan điểm Mao Trạch Đông - đã dẫn đến một kết quả cực kỳ đau đớn. Tác động xấu của sự kiện Indonesia len lỏi tận các vùng heo hút của Malaysia, nơi mà thực tế cấu tạo dân số rất phức tạp đã phản ánh vào nội bộ đảng Cộng sản: Chủ tịch đảng là một người Mã Lai, Phó chủ tịch là người Ấn và Tổng bí thư – Trần Bình - một người Hoa chính cống. Có thể diễn đại tình hình Malaysia như thế này: chiến sĩ du kích phần lớn là phu cao su người bản xứ cộng với một ít công nhân nông nghiệp người Ấn, vài người Thái, còn đảng viên lãnh đạo, kể cả Trung ương nằm trong tay người Hoa. Khi Luân đến Malaysia, ấp chiến lược đã trở thành đơn vị hành chính khắp lãnh thổ, vùng du kích thu hẹp và xê dịch dần lên phía bắc, giáp với biên giới Thái Lan. Nguy cơ tan rã của du kích Malaysia lớn đến nỗi nhà cầm quyền Malaysia giới thiệu với Luân hàng loạt cán bộ cấp cao của quân du kích lần lượt đầu thú và đang hợp tác với cơ quan an ninh. Chua xót và tự hào - Luân và Dung sống mấy ngày ở Malaysia trong tâm trạng mâu thuẫn đó. Chua xót vì thất bại trước mắt và triển vọng khá mờ mịt của bạn. Tự hào vì Nam Việt Nam không có một chút gì giống các nước này. Kinh nghiệm chống Cộng của các nước này nhất định bị Việt Nam vô hiệu hóa. Theo chương trình, Luân và Dung ở Malaysia 2 tuần. Nhưng, đến ngày thứ năm thì Luân nhận được điện khẩn của Nhu gọi Luân về Sài Gòn bằng một chuyến máy bay quân sự Mỹ... * Báo cáo Mật.Nơi nhận: Ông cố vấn Ngô Đình Nhu. Chúng tôi biết chắc, từ Luân Đôn, đại tá Nguyễn Thành Luân đã điện đàm dài 15 phút với người anh ruột của đại tá là Jean Nguyễn Thành Luân, đại sứ của Bắc Việt tại Đông Đức. Nội dung cuộc điện đàm chưa rõ. Kính trình ông cố vấn tường. Mai Hữu Xuân. Báo cáo Mật Nơi gửi: Phân cục tình báo Paris. Nơi nhận: Giám đốc Trung tâm tình báo Mỹ, Washington. Đồng gửi: Phân cục tình báo Sài Gòn. Ngày 25-2, vào 19 giờ 6 phút, từ điện thoại đặt tại ngôi nhà số 27 Red Square 411, London, đại tá Nguyễn Thành Luân nói chuyện với đại sứ quán Cộng sản Bắc Việt ở Đông Berlin sau nửa giờ hẹn với trung tâm bưu điện. Người hẹn là Marguerite Nguyễn Thành Luân, giáo sư London Music Center, chủ hộ. Người tiếp nhận điện là Jean Nguyễn Thành Luân, luật sư, đại sứ Bắc Việt. Đã ghi âm được cuộc nói chuyện. Toàn bộ như sau... Trong cuộc điện đàm, xin được phép lưu ý các vị về những câu: “giá mà em được gặp anh” của đại tá, “anh rất muốn gặp chú” của Jean, “em trung lập” của Marguerite... Có thể hiểu như qui ước về một cuộc hẹn nào đó. Tất nhiên cần phải phối kiểm và đối chiếu với nhiều sự kiện khác mới đi đến những kết luận chính xác. Một tràng những sự kiện đó là đại sứ lưu động Ngô Đình Luyện từ Sài Gòn bay thẳng sang London gặp đại tá Luân. Điện khẩn Nơi gửi: Đại sứ quán Mỹ, Kuala Lumpua Nơi nhận: Đại sứ quán Mỹ, Sài Gòn. Độ mật: Tuyệt mật. Đại tá Nguyễn Thành Luân đột ngột rời Malaysia mà lý ra ông ta phải ở thêm gần mười ngày nữa. Yêu cầu theo dõi và xác minh lý do. --- (1) Người đối thoại (2) Đối thủ - đối thủ (3) Thẳng thắn, sòng phẳng (4) Ông hoàng “bốc”. (5) “Point Quatre” Plan Truman: tháng 1-1949, tổng thống Mỹ Truman công bố bổ sung chương trình Marshall một điểm (điểm 4): Mỹ sẽ giúp đỡ tài chính và kỹ thuật cho các quốc gia chậm tiến, nhằm mở rộng ảnh hưởng Mỹ. (6) Nhà thiên văn và bác sĩ (1503-1566), tên thật là Michel De Nostre-Dame, tác giả các quyển sách tiên tri. (7) Đất thánh của đạo Hồi. (8) ám chỉ Ngô đình Diệm, do đọc trại “Ngô tổng thống” mà ra
__________________
![]() |
![]() |
Ðiều Chỉnh | |
Xếp Bài | |
|
|