|
#1
|
||||
|
||||
![]() Ván Bài Lật Ngửa Phần 7 - Chương 7 Frederick E. Nolting thỏa mãn với bài trả lời của ông cho ký giả Don Paker của Hãng UPI. Nolting nhẩm đọc: “Hơn 2 năm sống tại Việt Nam, tôi chưa bao giờ nhận thấy dấu hiệu nào chứng tỏ có sự kỳ thị tôn giáo tại xứ này. Vấn đề Phật giáo bỗng dưng nổi lên và tôi công nhận tình hình đang rất xấu nhưng không thể nghĩ rằng nguồn gốc của nó là từ phía chính phủ. Trái lại, chính phủ Việt Nam thành thật mong muốn giải quyết vấn đề Phật giáo theo nguyên tắc dàn xếp những hiểu lầm nho nhỏ bị phóng đại với những động cơ rõ ràng là không minh bạch. Với tư cách là người đại diện cho Hợp chủng quốc Hoa Kỳ ở Việt Nam, tôi rất tiếc có người tung hỏa mù quanh vấn đề Phật giáo cốt làm xóa nhòa những thành quả của chính phủ Việt Nam trong công cuộc chiến đấu chống Cộng sản và phát triển kinh tế, nâng cao mức sống rõ rệt của người dân tại xứ này. Dư luận Mỹ và các nước khác cần được soi sáng nếu chúng ta vẫn còn nuôi ý chí chiến thắng Cộng sản. Đó là những gì tôi thấy cần thiết nói với công chúng Mỹ”. Nolting bấm chuông gọi thư ký. Vài giờ sau, phát biểu của ông sẽ truyền về đến Mỹ và được công bố rộng rãi. Bản sao của bài trả lời được gửi tới cho tờ The Times of Viet Nam tại Sài Gòn. Với Nolting, đây là một động tác quan trọng cuối cùng với tư cách đại sứ Mỹ trước khi rời Việt Nam. Chiều nay, ông sẽ bay lên Đà Lạt, dĩ nhiên theo lời mời của Trần Lệ Xuân. Ông và Lệ Xuân thỏa thuận nghỉ hai ngày tại Đà Lạt. Ngày thứ ba sẽ dành cho cuộc tiễn đưa của dân Khánh Dương, phía tây Nha Trang, nơi ông và vợ đỡ đầu xây dựng trụ sở của chính quyền, trường học và bệnh xá. Bà Lindsay Nolting sẽ từ Sài Gòn bay thẳng ra Nha Trang để gặp ông và Trần Lệ Xuân từ Đà Lạt xuống. Quyết định của Tổng thống Mỹ thay thế đại sứ ở Việt Nam Cộng hòa đã khiến cho chế độ Sài Gòn hoang mang. Còn với Nolting, ông ta đã sửa soạn từ lâu cho việc rời Sài Gòn. Vai trò của ông đã xong. Ông thỏa mãn hoàn toàn. Và, đã đến lúc không nên dấy sâu hơn nữa: Lệ Xuân hết còn là cái gì khiến Nolting háo hức. Trong vòng nửa tháng nay, hầu như ngày nào Nolting cũng gặp Lệ Xuân. Điều kiện nơi ông làm việc cũng như nhà riêng của ông, không cho phép hai người vượt quá mức nghi lễ mặc dù Nolting cảm thấy Lệ Xuân dễ dàng đối với ông hơn bao giờ hết. Dẫu sao thì cuối cùng rồi hai người vẫn có thể sống bên nhau một cách thỏa mãn và cũng có thể nói là hoàn toàn tự do trong vài ngày. Nolting có trong tay bản báo cáo của Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Mac Namara trình cho Tổng thống Mỹ ngày 15-5 cùng với bản báo cáo của Ngoại trưởng Dean Rusk. Nolting tin rằng lần gặp gỡ này với Lệ Xuân được hứng thú là nhờ Mac Namara. Làm sao Lệ Xuân không cảm động được khi đọc những dòng trong báo cáo tuyệt mật này: “Tôi có cảm giác rằng việc nước Mỹ ủng hộ Tổng thống Ngô Đình Diệm là hoàn toàn chính xác. Ông Diệm xuất hiện ở Việt Nam như một phép màu. Chỉ một mình, ông Diệm đã soạn thảo bản Hiến pháp, tổ chức chính phủ mới và trong vòng không đầy mười năm đã biến Nam Việt Nam từ một nước đang ở chế độ phong kiến trở thành một quốc gia tân tiến, đã tăng gấp 3 hệ thống giáo dục trong nước, đã tổ chức được một quân đội quy củ, thiện chiến, trung thành và đã đem lại trật tự trong nước. Cần lưu ý rằng Tổng thống Ngô Đình Diệm đã thực hiện ngần ấy công cuộc trong khi phải đương đầu với các hoạt động chiến tranh do Việt Cộng gây ra. Tuy chúng ta chưa có thể tiên đoán một cách chính xác kết quả chung cuộc của cuộc chiến tranh ở Nam Việt Nam, nhưng công bình mà nói, Tổng thống Ngô Đình Diệm cho chúng ta niềm hy vọng lớn nhất. Quan điểm của Bộ quốc phòng là bất kỳ một ý định nào nhằm loại Tổng thống Ngô Đình Diệm, thậm chí nhằm giảm bớt quyền lực của ông, cũng sẽ đưa nước Mỹ đến tai họa”. Tường trình của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ không là một tài liệu mật. Sau khi công bố phát biểu của Ngoại Trưởng Dean Rusk trong đó, ông xác nhận lập trường không thay đổi của Hoa Kỳ là ủng hộ chính phủ Việt Nam do tổng thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo, mặc dù tình hình nội bộ Nam Việt có rối ren do vấn đề Phật giáo gây ra. Richard Phillips, phát ngôn viên của Bộ ngoại giao đã đính chính những tin tức đăng tải trên một số báo Hoa Kỳ cho rằng chính phủ Hoa Kỳ có thể đã dự liệu một giải pháp thay thế ở Việt Nam. Vấn đề nội bộ Cộng hòa Việt Nam về Phật giáo không làm thay đổi lập trường của Hoa Kỳ. “Chúng tôi,” Richard Phillips nói, “nghĩ rằng chính phủ Việt Nam Cộng hòa và giới Phật giáo sẽ giải quyết thỏa đáng và sớm về vụ tranh chấp này”. Tài liệu thứ hai tuy công khai song Nolting vẫn dùng nó để minh họa cho tài liệu thứ nhất. Nolting đang chìm sâu trong suy nghĩ, sửa soạn trước những lời lẽ một khi chỉ còn riêng ông ta với Trần Lệ Xuân trên biệt điện Đà Lạt, thì tiếng ồn ào từ bên ngoài vọng tới. Phó đại sứ Trueheart hấp tấp xô cửa bước vào: - Phật tử biểu tình đòi gặp ngài! - Gặp tôi? – Nolting sửng sốt. - Vâng. Họ muốn nhờ đại sứ chuyển một bức thư của Phật giáo cho Tổng thống chúng ta. - Tôi không thể gặp họ, tôi không thể tiếp xúc với những người biểu tình, nghĩa là chính phủ Mỹ không thể nhúng tay vào công việc đơn thuần nội bộ của Việt Nam Cộng hòa! - Nhưng nếu họ cứ ngồi lì hoặc phá cửa vào, thì sao? - Điều đó nhất thiết không được xảy ra, ông nghe rõ chứ, ông Trueheart? - Tôi nghe rõ! Phó đại sứ Trueheart quay lưng, nhưng Nolting đã gọi lại: - Tuyệt đối không để có va chạm nhỏ giữa quân cảnh Mỹ và người biểu tình! Trueheart gật đầu. Ông ta hỏi: - Thế còn quân cảnh và cảnh sát dã chiến Việt Nam? Nolting nhún vai. * Chiếc trực thăng hạ cánh trên một khoảng đất trống ngay rìa quận lị Khánh Dương. Đám đông dân chúng tụ tập - một số người là Thượng, một số là người Kinh, một số là Hoa kiều. Nhưng, binh lính và gia đình họ vẫn đông hơn. Mỗi người cầm trên tay hai lá cờ Việt Nam Cộng hòa và Mỹ. Nhiều băng treo quanh. Đại loại, những băng đó ghi: Tri ân đại sứ Nolting! Tổng thống Ngô Đình Diệm muôn năm! Nhiệt liệt hoan nghênh ông bà Nolting, công dân của Khánh Dương! Nhiệt liệt hoan nghênh bà dân biểu Ngô Đình Nhu!Vợ chồng Nolting được Trần Lệ Xuân hướng dẫn bước ra cầu thang tiếp nhận tiếng hoan hô của những người có mặt. Trần Lệ Xuân lần này mặc áo pull và quần jean. Khó mà đoán Lindsay Nolting cảm nghĩ như thế nào về Lệ Xuân khi mà bà thừa biết sự đi lại và mưu đồ của chồng và mụ ta từ 2 năm nay – vụng trộm với bà nhưng gần như công khai với người khác. Cái lý do mà Nolting bảo là ông cần cùng Lệ Xuân bàn việc 2 ngày trên Đà Lạt không thể thuyết phục được bà. Nhưng Lindsay Nolting đã là vợ của một nhà ngoại giao Mỹ chuyên nghiệp, bà hiểu ý nghĩa của những sự tiếp xúc kiểu đó. Nolting có say đắm Lệ Xuân hay không? Lindsay Nolting chỉ băn khoăn bấy nhiêu. Và khi bà nắm chắc chồng bà là một kịch sĩ lão luyện, bà an tâm. Thậm chí đôi lúc bà nghĩ, nếu Lệ Xuân sinh được một đứa con giống hệt Nolting thì chưa hẳn là một điều không may. Bổng lộc của một đại sứ Mỹ ở Việt Nam Cộng hòa rất dồi dào, không phải xét, từ đồng lương hoặc quỹ mật của đại sứ quán. Bà đã có một bộ sưu tập về nghệ thuật điêu khắc người Chàm gần như vô giá. Bà lại có đến hàng trăm cổ vật Trung Quốc - những ấm, những chén cách nay hàng nghìn năm. Quà biếu của Lệ Xuân. Cả Nolting và bà đều được tặng một tượng bán thân bằng vàng do một nghệ sĩ có tài của Việt Nam sáng tác, mỗi tượng cân gần một ký lô. Cũng là quà của Lệ Xuân. Bà đã có thể ký gửi ở ngân hàng Thụy Sĩ và Canada một số dollar hàng trăm vạn - cả đời Nolting dù tằn tiện mấy cũng không thể dành dụm nổi một phần số tiền đó. Lindsay Nolting biết tính toán. Một lần, tại nhà riêng của đại sứ, bà tiếp lệ Xuân và như vô tình để rơi một bức ảnh kẹp trong một quyển sách. Bức ảnh chụp Lệ Xuân và Nolting đang hôn nhau, trên người Lệ Xuân chỉ còn vài miếng vải mỏng. Lệ Xuân đỏ bừng mặt và hai tượng bán thân ra đời sau sự kiện như vậy để đổi lấy tấm ảnh và phim. Lindsay Nolting trao ảnh và phim với lời dặn gọn gãy bằng tiếng Pháp: Sois prudente! (1) Kỳ mục Khánh Dương đón vợ chồng Nolting và Trần Lệ Xuân khá độc đáo. Ba người được mời lên ba chiếc kiệu thường chỉ dành để rước sắc thần, đòn chạm trổ và sơn son thiếp vàng. Tám người lực lưỡng khiêng một chiếc kiệu. Màn vén lên để chúng dân chiêm ngưỡng. Theo sau kiệu, các kỳ mục, có người râu tóc bạc, vận áo dài bằng the xanh, bịt khăn be. Kiệu đi một vòng sân rồi thẳng vào một ngôi nhà mà các kỳ mục gọi là công quán. Tại đây Nolting thay quần áo. Ông ta mặc y hệt kỳ mục trong làng, còn Lệ Xuân thì diện chiếc áo dài, lần này không hở cổ. Chỉ có mỗi Lindsay vẫn mặc như cũ. Sau tuần trà, kỳ mục mời ba vị khách đến ngôi đình. Trẻ con, hẳn là đã được người lớn dạy cẩn thận, vẫn cố nín cười bởi một ông Mỹ lại mặc áo dài khăn be, trông hết sức ngộ nghĩnh. Lệ Xuân liếc về các kỳ mục, cau mày. Mụ ta cảnh cáo thái độ vô lễ, không những của trẻ con mà của một số phụ nữ: có người che miệng cười. Ba hồi trống vang rền rừng núi. Ba hồi đại hồng chung ngân dài. Lindsay Nolting tựa lưng vào cột đình theo dõi, có thể bà thích thú. Nolting và Lệ Xuân thắp hương rồi quỳ xuống chiếu đã kê sẵn hai chiếc gối. Người ta có cảm giác Nolting và Lệ Xuân làm lễ tơ hồng. Một kỳ mục chắc chắn là niên trưởng, đọc một văn kiện như sau: Các bậc trưởng thượng quận Khánh Dương cùng với các hội đồng hương chính trong quận, căn cứ vào lời thỉnh cầu của đại sứ Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ Frederick Nolting, đã quyết định nhận Frederick Nolting là công dân danh dự của quận Khánh Dương và cũng quyết định đổi tên Nolting thành Nguyễn Đôn Tín... Nolting trịnh trọng tiếp nhận tờ quyết định, đứng nghiêm trước bàn thờ thần chừng một phút. Sau đó, một cuộc mít tinh quần chúng, Nolting nói bằng tiếng Việt, thay mặt cho vợ tỏ lòng cám ơn kỳ mục và dân chúng quận Khánh Dương. Trần Lệ Xuân thay mặt cho quận Khánh Dương đáp lời. Mụ ca ngợi Nolting là một đại sứ vĩ đại, một người bạn vĩ đại của Việt Nam Cộng hòa. Bữa tiệc kéo dài đến xế chiều. Trực thăng đón họ và đêm đó họ nghỉ tại Nha Trang. Không hiểu bằng cách nào mà Nolting lại đến được với Lệ Xuân lúc gần sáng. - Em nên xuất ngoại một chuyến để giải độc dư luận châu Âu và châu Mỹ. Đó là sáng kiến cá nhân cuối cùng của Nolting với Lệ Xuân, trước khi ông ta vội vã mặc quần áo, và chuồn khỏi phòng Lệ Xuân. Dù vội vã, ông vẫn như để lại cái nuối tiếc - chính cái nuối tiếc ấy nuôi hy vọng cho Lệ Xuân... Nolting không ngờ ở Sài Gòn, nhà sư Thích Tâm Châu đã gửi cho ông một văn thư chính thức phản đối bài phát biểu của ông với hãng UPI, kèm theo bản sao bức điện của Tổng hội Phật giáo Việt Nam đánh cho Tổng thống Kennedy, cũng với nội dung như vậy. * Sài Gòn (VTX)Sáng 14/8/1963, bà cố vấn, Chủ tịch sáng lập Phong trào phụ nữ liên đới Việt Nam đã vi hành đến Ba Xuyên thăm Phong trào phụ nữ liên đới địa phương. Tại lễ tuyên thệ của Phụ nữ bán quân sự của tỉnh, sau khi bà Trưởng ban chấp hành Phong trào liên đới tỉnh đọc diễn văn chào mừng và đệ trình công tác huấn luyện bán quân sự từ 7-7-1962 đến 7-7-1963, bà cố vấn đã ban huấn từ cho hơn 1.000 thanh nữ bán quân sự hai khóa Đồng Tâm và Đồng Tiến với sự hiện diện của một số rất đông thính giả gồm quan khách và dân chúng. Bà cố vấn đã nhắc lại về cuộc tranh đấu của phụ nữ cho chính nghĩa, trong đó phụ nữ đã cố gắng tột bực và luôn luôn tôn trọng sự thật và lòng ngay thẳng. Đó là tiêu chuẩn của một thành công vững bền và lâu dài. Bà cố vấn Ngô Đình Nhu đã ứng khẩu nhấn mạnh như sau: - Như chị em thấy, không phải bất chiến tự nhiên thành, không phải chỉ với chính nghĩa mà tự nhiên chúng ta thắng. Nước của chúng ta không có tham vọng đi xăm lăng nước người, chúng ta chỉ có một ước vọng rất chính đáng là được ăn yên ở yên, được phát triển và bảo vệ đất nước. Theo ý nghĩa đó, phụ nữ chúng ta không ưa giành giật gì của ai, cai trị gì ai. Chúng ta chỉ suy luận là chúng ta không phải là một con dân thấp kém và chúng ta chỉ xin được thật sự nam nữ bình quyền, bình đẳng. Như tôi đã nói nhiều lần, chính nghĩa ấy mặc dầu kết sức chính đáng, đã không tự nhiên thắng và cũng không thắng dù chúng ta đã cố gắng khá nhiều một cách ngay thẳng. Lý do là vì giá phải trả để thắng không những dựa trên một sự đấu tranh ngay thẳng, mà còn phải đấu tranh tột bực. Ngay thẳng nghĩa là không được dùng các thủ đoạn xảo trá, lừa bịp. Ngay thẳng nghĩa là phải luôn luôn rất trung thực khi đấu tranh. Tột bực nghĩa là không phải đấu tranh trong một phạm vi nào đó, mà bỏ phạm vi khác, tột bực là làm tròn nhiệm vụ trong tất cả các phạm vi: gia đình, xã hội, quân sự. Dĩ nhiên có thể một người không thể lo được hết nhưng nói chung, chúng ta phải liệu sao có phụ nữ tại cả ba phạm vi, một người phải đảm nhận ít nhất là hai phạm vi. Hơn thế nữa, để khỏi phản bội chính nghĩa của một con dân là bảo vệ xứ sở, kiến thiết nước nhà và chính nghĩa của phụ nữ là bảo vệ nhân vị, củng cố quyền lợi chính đáng của chúng ta, cũng như để khỏi phản bội công lao của chúng ta để đừng bao giờ trở thành như dã tràng, cố gắng hết sức nhưng không đến đâu, chúng ta phải đặt tất cả cố gắng của chúng ta trong một khuôn khổ có tổ chức bảo đảm, có quy tắc vững chắc, rồi dựa vào đó mà áp dụng kỷ luật “triệt để”. Một tràng pháo tay vang dội tiếp đón lời huấn thị bà cố vấn. Xong buổi lễ, bà cố vấn cùng phái đoàn lần lượt đến thăm các cơ sở xã hội của phong trào liên đới: trụ sở tỉnh, cô nhi viện Khánh Hưng và quán cơm xã hội Khánh Hưng. Bà Chủ tịch sáng lập Phong trào phụ nữ liên đới Việt Nam nhân dịp này, đã ứng khẩu nhắn nhủ chị em về đường lối hoạt động của phong trào liên đới trong kỷ luật và dựa trên nguyên tắc dân chủ. Cử tọa dồn hết tâm trí theo dõi từng chi tiết các lời huấn thị của bà Chủ tịch sáng lập Phong trào phụ nữ liên đới, nhất là khi bà Chủ tịch đề cập đến vấn đề như sau: “Chị em đừng để cho sự dị đoan, mê tín mê hoặc chị em. Có thể nói tất cả gia đình chúng tôi là theo đạo ông bà. Riêng thân mẫu tôi theo Phật giáo, thân sinh tôi theo đạo Khổng – 20 năm về trước tôi cũng đã rất chú ý tới Phật giáo và cũng có đi chùa, niệm Phật - vì lý do đó, tôi có hiểu phần nào về Phật giáo. Cũng vì tôi hiểu mục đích chính của Phật giáo nên tôi mới ghét thậm tệ những người dám lợi dụng Phật giáo để mê hoặc chị em. Theo tôi được biết thì giáo lý đạo Phật đã dạy mình phải tự giải thoát ra khỏi những điều nô lệ hóa chúng ta như đau khổ, bằng cách kiềm hãm và không thỏa mãn nó. Những đau khổ của loài người như: đói, khát, lạnh, giận, ghét, hận, tham lam... bất cứ cái gì có thể nô lệ hóa chúng ta. Theo tôi, ai cũng có thể tin giáo lý đạo Phật vì chính Đức Phật đã thi hành các điều Đức Phật đặt ra và nhờ đó, đã tự giải thoát được, nghĩa là đã đạt được Niết Bàn. Vậy nếu Đức Phật đã thi hành được các điều đó, thì ai cũng có thể làm được. Chính Đức Phật không bao giờ tự xưng là một thánh nhân nào hết mà chỉ coi mình như một người thường, cố gắng đạt được mục đích của loài người là tự giải thoát. Vì thế mà chị em có thể hiểu ngay là mê tín dị đoan cũng như các chiến dịch không dựa được trên một lý lẽ chính đáng nào và chỉ gây oán hận, bạo động và lộn xộn với những lời mỉa mai mạt sát vu vơ kẻ khác, rồi lại đổ cho họ những tội mà chính mình công khai phạm hằng ngày, nhất là không thể nằm trong đường lối do Đức Phật đã vạch ra. Chẳng những vậy, đó còn là một sự nô lệ hóa chúng ta một cách trắng trợn, và với ý gì? Không lẽ để bảo vệ một tín ngưỡng mà không ai tranh chấp, nhất khi đức tin là một sức mạnh mà giá trị chính ở điểm là không ai có thể đụng chạm gì tới được vì ở trong lòng ta. Tôi thấy làm lạ khi thấy những người tự xưng là theo giáo lý đạo Phật mà lại mê tín dị đoan hoặc tệ hơn nữa dùng mê tín dị đoan để mê hoặc thiên hạ. Việc đó, chúng ta không thể chấp nhận được. Vừa mới đây, có một em bé nhỏ mới 18 tuổi tự nhiên đi chặt tay mình (may mà không đến nỗi gì) và cho biết rằng “bà Ngô Đình Nhu, là người phụ nữ chúng tôi rất biết ơn vì đã giải phóng phụ nữ, nhưng vì bà đã động tới các sư, những người mà đức độ hơn bà tới một trăm phần, nên tôi thấy tín ngưỡng của chúng tôi bị lâm nguy, vậy tôi chặt tay hy sinh để phản đối và bảo vệ tín ngưỡng”. Nghe việc đó, tôi hết sức ngao ngán, không phải là vì em đó phán rằng ai đó đức độ trăm phần hơn tôi, vì sự thật về việc đó chỉ có trời mới biết được đúng thôi. Tôi chỉ ngao ngán là vì em đó là một phụ nữ. Thật vậy, nếu một ai khác làm việc đó thì có lẽ tôi không chú ý gì lắm vì tôi ít khi trọng các việc quá khích vô lý. Theo tôi, mình làm chủ mạng mình. Vậy ai coi rẻ mạng mình đến nỗi sẵn sàng hy sinh mà không cần muốn biết là có nên hay không, thì họ toàn quyền. Quyền mình là phê bình và xem nên đề cao hay coi thường sự hy sinh đó. Nhưng đây là một phụ nữ lại mới bằng tuổi con tôi, thì có chán không? Mục đích của kẻ trá hình là ngăn cản tôi làm nhiệm vụ công dân, là giải độc ai đã bị mê hoặc. Bây giờ chúng lại xui trẻ con dọa tôi. Tôi mở miệng thì các trẻ tự tử. Vậy chị em nghĩ sao? Nếu ai không đồng ý với tôi, sao không nói công khai lý lẽ của họ đi, các lý lẽ của tôi được nêu rõ khi tôi không tán thành, sao lại mạt sát tôi sau lưng rồi nếu tôi phúc đáp lại xúi các trẻ tự tử phản đối? Quan niệm gì lạ vậy? Như vậy thì ai còn trọng cái chết phi lý của mình nữa. Nhưng như vậy cũng đủ để chị em chú ý đến vấn đề đọc kỹ các lời tuyên bố của tôi và cấp tốc thực thi chiến dịch giải độc và chiêu hồi nếu thấy nên. Chúng ta không thể để cho một thiểu số phi lý áp đảo tinh thần của ta đến nỗi ta có thể quên đại đa số phụ nữ đang trông đợi ở một sự lãnh đạo sáng suốt, bất khuất nhưng cũng nhân đạo của chúng ta, nếu những người lầm đường lạc lối biết chiêu hồi”. Lời tuyên bố của bà cố vấn được đại hội nhiệt liệt hoan nghênh. Bà cố vấn và phái đoàn trung ương rời Ba Xuyên lúc 15 giờ 30 và đã để lại cho chị em Ba Xuyên một mối tình liên đới sâu đậm, một ý chí quyết thắng vì chính nghĩa và một niềm tin tưởng trong công cuộc giải độc cùng chiêu hồi những kẻ đi lầm đường lạc lối. * BÀ CỐ VẤN NGÔ ĐÌNH NHU TRẢ LỜI BÁO NEW YORK TIMESThưa ông, Tham chiếu bài bình luận ngày 9-8-1963 của báo ông mạ lỵ tôi một cách vô căn cứ và vô ích, với một giọng điệu làm tôi ngạc nhiên khi đọc thấy ở một tờ báo như tờ của ông, tôi xin hỏi rằng: Khi có những người không xứng đáng dám lợi dụng tôn giáo để làm chuyện lố bịch thì những ai sùng kính tôn giáo phải tiếp tay cho cái trò chơi xúc phạm thần thánh hay là phải vạch mặt chỉ tên bọn chúng ra? Nếu ta không có can đảm để tố giác, nếu ta cúi đầu trước sự điên rồ và ngu xuẩn, thì làm sao có hy vọng đối phó được bao điều lầm lạc sơ hở của thế nhân, thường bị Cộng sản lợi dụng cùng theo một cách thức như vậy? Có lẽ tôi gây xúc động cho một số người khi nói rằng: “Phải đánh những kẻ khiêu khích mười lần hơn, nếu những kẻ ấy dám khoác áo thầy tu” hoặc “chỉ còn nước vỗ tay cổ võ khi coi tuồng nướng thầy tu. Thật vậy là sao mà chịu trách nhiệm về sự điên rồ của kẻ khác được!” Đúng vậy, có lẽ tôi gây xúc động thật đối với những lời ấy, nhưng tôi đã phải nói sao bây giờ khi một phần thế giới này đang mất trí – về vấn đề mệnh danh là “Phật giáo”, nhờ sự giúp sức của các báo như báo của ông – nên cần phải được chữa trị bằng cách cho điện giật”. Hơn nữa, tại sao lại phải bị mê hoặc và áp đảo đến nỗi không thể nhận thấy rằng các nhà tu hành, chính vì được coi là “thánh thiện” và “học thức” nên càng phải được coi là phạm tội và khó bề dung thứ khi họ dám hành động xúc phạm thần thánh nhằm mục đích gây nên tình trạng bất an cho xứ sở đang ở trong tình trạng chiến tranh, cũng như khi họ dám coi thường luật lệ của xứ sở và của tín ngưỡng họ nữa, chung qui gọi là để tranh đấu cho một quyền lợi mà thật sự không bao giờ bị ai chối bỏ, và hơn thế nữa, đã được chính phủ luôn luôn cố gắng bảo vệ. Một vài người còn nói rằng: “Mọi việc tiến triển êm đẹp cho đến khi bà Ngô Đình Nhu đánh đổ tất cả với những lời công kích”, với những người này, tôi thấy cần phải nhắc lại rằng sự thật không bao giờ đã ổn thỏa - bằng chứng là những lời hăm dọa của những kẻ phản loạn hằng ngày được phổ biến trong nước và trên báo chí hoàn cầu mà ai cũng đều biết. Thật vậy, làm sao ổn thỏa được khi mà, để làm vừa lòng và xoa dịu một thiểu số thầy tu giả trá, nghĩa là đem lại một tình thế êm dịu với họ, chỉ có cách là quỳ gối dâng cho họ trên khay vàng trọn đất nước và thành công của ta. Mục đích của tôi không bao giờ như thế. Mục đích của tôi là lột trần bộ mặt thật của bọn chúng dù chúng núp với hình thức giả hiệu nào cũng vậy. Tôi đã gọi họ đúng tên, nghĩa là Việt gian, là Việt gian. Còn ông, thì vì bị chìm đắm trong mặc cảm giả tạo về một vấn đề mà ông cũng như báo chí Hoa Kỳ đã tưởng chỉ là “vấn đề Phật giáo”, ông chỉ thấy rặt có chùa và áo cà sa. Nhưng tại sao ông không nhìn thẳng con người nấp sau bộ áo, ông lại không nhìn thẳng về những hoạt động lén lút sau bình phong của chùa chiền? Vả lại, nếu phải nhận là “tu hành” những người thật sự không bao giờ có tư cách ấy, và chỉ vì họ muốn vậy, tại mình quá sợ những gì mình tưởng là sức mạnh của họ, thì tại sao chúng ta lại phải hy sinh lớn lao như thế kia để chống lại sự giả dối và nhất là lực lượng Cộng sản, thật sự mạnh hơn biết bao? Tôi cũng tự nhận là đang đấu tranh bảo vệ tôn giáo và Tổ quốc, và tôi thách thức bất cứ ai có thể nêu lên bất cứ gì trong hành động và lời nói của tôi mà đã xúc phạm đến mục đích ấy. Vì tình giao hữu giữa hai quốc gia chúng ta, tôi khẩn cấp yêu cầu ông hãy cố gắng tìm hiểu bạn hữu và đồng minh trước khi lao đầu vào cạm bẫy của kẻ thù, kẻ thù chung cho nước ông cũng như nước tôi; và cạm bẫy rõ rệt nhất mà chúng ta phải tránh là không bao giờ được hốt hoảng, đừng có cắn rứt nhau đến nỗi không lo lột mặt nạ những kẻ dám lạm dụng và lợi dụng những gì mà chúng ta coi là thiêng liêng nhất, tôn giáo và tín ngưỡng. Thành thật Bà Ngô Đình Nhu * Thùy Dung sanh một đứa con trai. Hai vợ chồng đặt tên là Nguyễn Thành Lý. Thằng bé hội được những nét đẹp của cha và mẹ, rất kháu khỉnh.Tổng thống cử Chánh văn phòng đến chúc mừng. Ngô Đình Nhu và Trần Lệ Xuân đều có quà tặng. Riêng Lệ Xuân đã vào nhà bảo sanh thăm Dung ngay sau Dung xổ lòng. Đức Tổng giám mục cũng điện vào thăm hỏi. Ngày đầy tháng của bé Lý, người đến thăm khá đông. Tổng giám đốc Cảnh sát quốc gia, đại tá Đặng Văn Quang và một số quan chức tuy không thân tình với Luân nhưng vẫn muốn tỏ ra quan tâm đến Luân. Chiều tối thì Nguyễn Thành Động, Lê Khánh Nghĩa bấm chuông. Một lúc sau thiếu tướng Lâm cũng có mặt. Họ bày bàn ở sau vườn. Mừng con trai của Luân đầy tháng chẳng qua là cái cớ. Những sĩ quan này, tuy mỗi người một quan điểm, nhưng gặp nhau trong một suy nghĩ chung: tình hình rồi sẽ ra sao? Thiếu tướng Lâm mở đầu câu chuyện, sau khi nổ một chai sâm banh: - Hấp hối! Tôi nói rằng chế độ đang hấp hối. Cũng tốt thôi. Vậy là một triều đại sẽ phải cáo chung. Chúng ta chưa có thể biết hình dạng của bước cáo chung nhưng phải cáo chung. Anh Luân có nhớ không, tôi từng nói ông Diệm là một người anh hùng nhưng ông trở thành anh hùng quá nhanh và do đó, như một ngạn ngữ: Từ chỗ vĩ đại đến chỗ lố bịch chỉ có một bước. Ông Diệm đang ở trên phần đất của sự lố bịch... - Lâm nâng ly: - Ta hãy uống chúc sức khỏe ông Diệm – và cũng chúc sức khỏe đại tá Nguyễn Thành Luân người đã làm tất cả những gì có thể làm được để chống đỡ cho gia đình ông Diệm không rơi vào cảnh chán chê như hiện nay. Không ai trách được anh Luân, người Mỹ hay các phe nhóm đang muốn hạ bệ ông Diệm. Trong nhiều lần nói chuyện với nhau, tôi và bạn bè của tôi ví anh Luân như Gia Cát Lượng, tài bất phùng thời! Luân cười thật tươi: - Thiếu tướng xỏ tôi. Tôi không phải là Gia Cát Lượng, và tôi không theo xu hướng khôi phục nhà Hán. Tôi bảo vệ cái mà tôi cho là cần bảo vệ... - Cái cần bảo vệ đó là cái gì? – Thiếu tướng Lâm phản kích. - Tôi biết cái mà đại tá muốn bảo vệ. - Nguyễn Thành Động lên tiếng – Nhưng thật khó. Tôi đã làm thử ở Bến Tre theo gương đại tá và tôi đã thất bại. So với lúc đại tá có mặt, Kiến Hòa bây giờ nát như tương bằm. Ấp chiến lược thoi thóp. Chúng ta là những quân nhân, khổ nổi là quân nhân cấp thấp. Tôi băn khoăn mãi, không biết mình phải làm gì nếu Sài Gòn ra lệnh cho tôi bắn vào các nhà sư biểu tình và cũng sẽ không biết phải làm gì nếu một cấp trên nào đó ra lệnh tôi bắn vào dinh Tổng thống... Giọng Nguyễn Thành Động thật chán chường. - Đúng, chúng ta là quân nhân, nhưng mỗi quân nhân đều có cái đầu riêng. Đầu để suy nghĩ. – Người nói câu đó là Lê Khánh Nghĩa. - Ông Diệm sẽ đổ và chắc sẽ đổ trong thời gian không xa mấy. – Lê Khánh Nghĩa nói tiếp – Có lẽ ông Diệm hết còn là cái gì để chúng ta bận tâm. Cái mà chúng ta bận tâm là sau ông Diệm. Nếu sau ông Diệm, một chính phủ hợp lòng dân ra đời, thật là điều tốt lành. Hợp lòng dân bây giờ nghĩa là làm đủ mọi cách để chấm dứt chiến tranh, thực hiện một nền dân chủ, chấm dứt chế độ độc tài gia đình trị. Chấm dứt chiến tranh chỉ có thể bằng thương lượng với đối phương. Còn ngược lại, sau ông Diệm là mở rộng chiến tranh, là chiến tranh ác liệt hơn thì có nghĩa đất nước sẽ bị tàn phá kinh khủng và những quân nhân như chúng ta là lính đánh thuê. Người Mỹ sẽ diễn lại cái trò Cao Ly tại đây. Chắc chắn gay gắt hơn Cao Ly thập bội, thiếu tướng Lâm cũng như trung tá Động nếu quan tâm thì nên quan tâm theo hướng đó... Luân cố giấu một nụ cười. Những điều Lê Khánh Nghĩa trình bày cũng chính là những điều ghi trong chỉ thị của A.07 gửi cho Luân. Thiếu tướng Lâm và trung tá Động rõ ràng bị Lê Khánh Nghĩa thuyết phục. Động thở dài: - Lực lượng bảo an một tỉnh như Kiến Hòa không thể xoay chuyển nổi cục diện. - Tôi còn không có lấy được một tiểu đội. – Thiếu tướng Lâm gầm gừ - Tôi cảm giác là thời cuộc đi quá nhanh. Ông Diệm, ông Nhu, bà Nhu dường như nóng ruột hơn cả chúng ta, họ đẩy cho tình thế nhảy vọt. Đặc biệt là bà Nhu, con sư tử cái. Ai đời dám trả lời với báo New York Times: Đánh sư như thế chưa ăn thua, tôi còn đánh mạnh gấp mười lần; đến nỗi ông Trần Văn Chương, bố của bà đã phải ra tuyên bố nói rằng bà Ngô Đình Nhu đã tỏ ra vô lễ và không có tư cách khi tuyên bố về Phật giáo. Tôi chán gia đình ông Diệm – xin lỗi đại tá Nguyễn Thành Luân – nhưng tôi còn chán hơn người Mỹ. Đại sứ Nolting nói rằng vấn đề Phật giáo không có gì quan trọng. Không đáng kể, vấn đề đáng kể là phải thắng trong cuộc chiến tranh và mọi người phải dồn hết tâm lực theo hướng này. Ông Diệm, bà Nhu có thể chết vì cái trò mặt sấp, mặt ngửa của ông đại sứ kỳ quặc này... - Chẳng kỳ quặc đâu. – Nguyễn Thành Động lắc đầu – Tôi chưa thấy một đại sứ nào làm tròn trách nhiệm bằng ông Nolting. Với nước Mỹ, ông đã tạo điều kiện đủ chín muồi cho một sự thay đổi danh chánh ngôn thuận. Người Mỹ được giới Phật giáo ngưỡng mộ như là ân nhân nếu họ lật ông Diệm. Người Mỹ tức là chính phủ Mỹ, còn Nolting thì nếu không về hưu cũng sẽ gầy một sòng bạc khác ở nơi khác. Với bà Nhu, đại sứ Nolting đã đóng rất tròn vai người yêu, một mực che chở cho bà Nhu. Bà Nhu lõa lồ đấy, nhưng vẫn được nặn tượng đặt ở công viên Mê Linh bởi bà được nấp sau cái lưng của Nolting... - Tôi muốn nói chuyện về người Mỹ. - Thiếu tướng Lâm ngắt lời trung tá Động – Trong thời gian còn chiến tranh ở Đông Dương, Mỹ bảo chúng ta đánh Cộng sản cho Pháp là đồng minh của họ rồi sau họ sẽ cho chúng ta một chính phủ tốt: bây giờ thì họ lại bảo chúng ta đánh Cộng sản cho ông Diệm và khi nào hòa bình trở lại, họ sẽ cho chúng ta một chính phủ tốt. Nay mai họ lại sẽ bảo chúng ta đánh Cộng sản cho một cha chủ ba trợn nào đó để có một chính phủ tốt. Nghe họ làm quái gì! Không khí đột nhiên trầm lặng. Gần như không ai buồn mở miệng. Luân hiểu trong ba người khách thì trừ Lê Khánh Nghĩa, hai người kia mới đạt đến mức phê phán chế độ cần phải soát xét những người bất mãn với chế độ trong hàng sĩ quan cấp cao đông đến bao nhiêu và lý do bất mãn của từng người hoặc từng nhóm người. Về phương diện này, có vẻ CIA và các cơ quan tình báo nước ngoài, kể cả Trung Cộng, nắm được bao quát hơn Luân. - Phải làm gì? – Nguyễn Thành Động đặt câu hỏi, phá tan sự im lặng. Nhưng sự im lặng không bị phá tan. Không hẹn, cả ba người đều ngó Luân, như chờ đợi ý kiến phán quyết. “Làm gì?”. Chính Luân cũng chưa biết. Khách ra về, bắt tay nhau khá nặng nề. Luân trở vào phòng. Dung thay tã lót cho con. Thằng bé, tay nắm chặt, tay và chân co duỗi liên hồi như nó định bơi trong không khí, đôi mắt mở to, miệng cười. Luân ngồi cạnh vợ. Anh thở dài. Dung đánh giá đúng tiếng thở dài của Luân. Cô ngước nhìn chồng, chia sẻ. - Nếu tình thế bất lợi, em sẽ bồng con vào chiến khu! Luân không trả lời vợ. Đúng, trong bài toán cần giải đáp đối với thời cuộc bây giờ thêm một con số mới và Luân không thể không đếm xỉa đến... * Tuyệt mậtĐại cương về “Kế hoạch nước lũ” Kế hoạch “Nước lũ” được chia thành hai phần: - Phân hóa và cô lập. - Trấn áp và đấu tranh. A) Phân hóa và cô lập - Giữa các chùa ở Sài Gòn. - Giữa Sài Gòn và các tỉnh. - Kiểm soát chặt chẽ và hạn chế sự xê dịch của nhà sư và chư tăng, ni. - Bao vây kinh tế, nhất là những vận dụng cần thiết cho sự thông tin và tuyên truyền. B) Trấn áp và đấu tranh: Phần này có hai biện pháp: - Tiêu cực - Tích cực 1. Tiêu cực Liên tiếp tổ chức những tuần lễ như: - Biết ơn tử sĩ. - Giúp đỡ thương phế binh. - Giúp đỡ gia đình tử sĩ. - Mừng chiến thắng - Ghi ơn những vị tiền bối cách mạng quốc gia. - Ghi ơn những vị anh hùng dân tộc - v.v... Những tuần lễ này được tổ chức với mọi phương tiện sẵn có của chính quyền. Kế hoạch này được chỉ thị tối mật cho các cơ quan, đoàn thể chia nhau luân phiên làm rùm beng trong thời gian từ 3 đến 4 tháng, nhằm mục đích cho quần chúng quên lãng cuộc đấu tranh của Phật giáo. 2. Tích cực. Chủ trương làm mạnh để đàn áp hợp pháp: - Mệnh danh các phong trào này, đảng nọ, nhóm kia... viết những bức thư công kích, đả kích, tố cáo Phật giáo gửi đến các cơ quan chính phủ và các nhân vật cao cấp (Phật giáo) và các báo chí trong và ngoài nước cùng các tòa đại sứ, lãnh sự tại Sài Gòn. - Tổ chức đánh cắp trái tim (2) để phanh phui sự lừa bịp và thần thánh hóa của Phật giáo. - Cho người len lỏi vào trong các chùa để lấy tài liệu, tìm tòi hay “tạo nên” (monter coups) những nhà sư có cấp bậc cao phạm pháp bằng mọi hình thức để truy tố trước pháp luật, quần chúng trong nước và quốc tế. - Mua chuộc một số nhà sư cao cấp tố cáo những hành động của Tổng hội Phật giáo. - Theo dõi để bắt hết những người cộng tác hay tiếp tay với các nhà sư để chặt tay chân, tai mắt của Tổng hội Phật giáo. (“Kế hoạch nước lũ” không mang chữ ký của cơ quan dự thảo, lại do Tổng hội Phật giáo phát hành, gửi đến các cơ quan thông tấn và cả Tổng thống – ghi chú của hãng UPI) * TIN VỀ MỘT CUỘC ĐẢO CHÍNHSài Gòn (phóng viên báo Phillipines Herald). Hiện nay, đang có dư luận dai dẳng ở Sài Gòn về khả năng nổ ra một cuộc đảo chính hoặc do những quân nhân tán thành Phật giáo, hoặc do chính phủ tạo cớ để đàn áp Phật giáo mạnh tay hơn hoặc do một số thế lực chống Cộng cho rằng chính phủ hiện hữu quá nhu nhượt, cần thay đổi. Gần đây ông cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu đã công khai tuyên bố về khả năng đảo chính từ những sĩ quan bất mãn các nhượng bộ đối với Phật giáo của chính phủ. Các giới am hiểu tình hình Nam Việt, đều cho lời ông Nhu mang tính cách đe dọa hơn là phản ánh khả năng có thật. Dẫu sao, không khí Sài Gòn hình như gần kề với một đột biến nào đó. * ĐIỆN CỦA PHÂN XÃ UPI GỬI TỔNG XÃCử ngay sang Sài Gòn một số phóng viên năng nổ, kèm cả máy quay phim. * Tuyên bố báo chí của bà cố vấn Ngô Đình Nhu: Chúng ta không thể thối lui được nữa.“Ngày 6-8-1963, Đài tiếng nói Hoa Kỳ có mô phỏng một lời tuyên bố của đại sứ Việt Nam tại Hoa Thịnh Đốn, dựa theo đó đại sứ không tán thành các lời nhận xét “thiếu lễ độ” của tôi, liên quan đến vụ ám sát thượng tọa Thích Quảng Đức, do Đài vô tuyến truyền hình CBS truyền ngày 1-8-1963. Tại cuộc phỏng vấn đó và đáp lại câu hỏi: “Bà có nghĩ rằng các Phật tử muốn lật đổ chính quyền này không?” tôi đã có trả lời chính xác như sau: “Không phải các Phật tử. Mà chỉ có vài người tự xưng là “lãnh đạo Phật giáo” mà chúng tôi ví như những kẻ tàn bạo, muốn lật đổ chính quyền này mà thôi. Nhưng giữa mong muốn và năng lực làm được, có cả một sự khác biệt. Thật vậy, đối với chính phủ này đang đem quốc gia đến thắng lợi trong chiến tranh chống Cộng sản và đang xây dựng chính ngay tại căn bản quốc gia, nghĩa là tại các cấp – một nền dân chủ thật sự, có đủ đảm bảo nhất vì được cấu tạo từ hạ tầng cơ sở - đối với các thành tích ấy, thử hỏi các nhà tự xưng là “lãnh đạo Phật giáo” đã làm được những gì? Họ không có chương trình và cũng chẳng có nhân vật khả dĩ thay thế cho sự thiếu sót chương trình. Và tất cả hành động của họ chung qui vào việc là đem “nướng” sống nhà tu, ngay cả không phải với phương tiện tự túc, mà với xăng dầu được nhập cảng. Lý do của cuộc sát nhân ấy là gì? Chỉ là mạo nhận để bênh vực một lập trường mà không bao giờ bị xúc phạm đến! Lời lẽ ấy của tôi có thể được xem là “thiếu lễ độ” thật đấy, nếu sự kiện này liê quan đến các “việc thần thánh” chân chính; nhưng thật ra trường hợp ở đây đâu có phải như vậy! Ngoài ra, tôi không hiểu tại sao chúng ta lại phải chịu để cho các lý sự cùn, dựa trên những hoàn cảnh giả tạo, mà kẻ thù chính tông đã dựng đứng lên, mê hoặc và áp đảo chúng ta?” Dù sao tôi rất biết ơn đại sứ Việt Nam tại Hoa Thịnh Đốn đã cho tôi có dịp xác nhận lại quan điểm của tôi về vấn đề này: Nước Việt Nam ở trong tình trạng chậm tiến về nhiều mặt, nguyên nhân sự chậm tiến ấy do chiến tranh ác liệt mà Cộng sản quốc tế đã đem lại. Vì lý do ấy, Việt Nam không thể nào cho phép một cuộc thoái bộ nữa. Và thật là một sự thoái hóa đến... tối tăm, man rợ của tiền lịch sử, khi xui khiến phụ nữ, trẻ con, và các bô lão, dù có điên rồ, bệnh hoạn hay vô dụng đến đâu đi nữa – đi đến chỗ hủy mình vì một quyền lợi không bao giờ bị ai chối cãi, với mục đích phong các người khốn khổ ấy thành “thánh nhân và tử vì đạo”, để khiêu khích chung quanh xác chết của họ một sự thờ phượng khả dĩ gây mầm móng rối loạn xã hội và ngay cả việc sát nhân khác. Những hành động này chứng tỏ sự vô liêm sĩ đến độ mà nhân cách và lòng tự trọng của dân tộc Việt Nam không thể nào tha thứ được, tại vì những hành động này chứa đựng, không những một sự lạm dụng trắng trợn lòng tin tưởng của các tín đồ, mà hơn nữa, đó là một cuộc xâm phạm đến sự kính nể mà dân tộc Việt Nam có quyền hưởng đối với toàn thế giới. Vì danh dự và thể diện nước nhà, những hành động ấy phải được tố giác và được đặt lại đúng trong nội dung của nó. Tôi chỉ có làm thế thôi... và tôi rất tiếc KHÔNG nói được rằng tôi đồng ý với những người nào đã nghĩ một cách khác”. Bà NGÔ ĐÌNH NHU * TIN CỦA BÁO NEW YORK TIMESTrả lời phỏng vấn của chúng tôi hỏi về việc nếu các nhà sư cứ tiếp tục tự thiêu thì chính phủ có biện pháp gì đối phó không, bà cố vấn Ngô Đình Nhu trả lời: “Chúng nó là bọn bán nước. Bởi thế, dù chúng nó có nướng sống 30 nam và nữ, hoặc hơn, chúng tôi cũng sẽ vẫn tiến tới và vỗ tay hoan hô. Chúng tôi không phải chịu trách nhiệm gì về sự điên rồ của những kẻ ấy”. * THÔNG BÁO CỦA BỘ QUỐC GIA GIÁO DỤCDo không còn thích hợp với nhiệm vụ đang gánh vác, linh mục Cao Văn Luận, Viện trưởng Viện đại học Huế được phép thôi giữ chức này. Chính phủ sẽ cử một Viện trưởng khác. TIN CỦA HÃNG AFP Kể từ ngày 18-8-1963, một loạt các Khoa trưởng đại học thuộc Viện đại học Huế đã xin từ chức để phản đối việc chính phủ bãi chức Viện trưởng của linh mục Cao Văn Luận. Hành động này không hẳn vì cảm tình với linh mục Viện trưởng mà để bày tỏ thái độ bất bình với chính phủ. Tiếp sau thái độ của các nhà giáo là thái độ của học sinh. Trong một tuyên cáo, Liên đoàn học sinh Phật giáo Việt Nam đã nói thẳng với chính phủ là họ không tín nhiệm cách cai trị vừa qua. Họ nhắc đến một học sinh bị đã bị người Pháp bắn chết cách đây 13 năm tên Trần Văn Ơn. Điều đó có nghĩa là nếu chính phủ không tìm cách giải quyết tình hình đang hết sức căng thẳng ở Nam Việt thì xu hướng chống chính phủ vì lý do Phật giáo có thể biến thành một cái gì nguy hiểm hơn. Trần Văn Ơn là một học sinh được Cộng sản suy tôn như anh hùng. Cho tới nay, chưa có một dấu hiệu rõ rệt nào Cộng sản lợi dụng phong trào Phật giáo ở Nam Việt, nhưng người ta không loại trừ xu thế của chính phong trào, trước sự ngoan cố của chính phủ, sẽ nghiêng về phía tả. Còn các nhà sư có tham vọng chính trị, trong khi đính chính thẳng thừng mối quan hệ của họ với Cộng sản, đã không bỏ qua một cơ hội nào lợi dụng Cộng sản – lợi dụng sức ép của Cộng sản hiện nay về chính trị và quân sự ở Nam Việt, và lợi dụng cả quá khứ của Cộng sản. Giới Phật giáo đã quảng bá khắp nơi những lời tuyên bố nảy lửa của bà Ngô Đình Nhu. Giới ngoại giao ở thủ đô Nam Việt nhận xét rằng đó là cách làm tốt nhất dấy lên sự công phẫn của quần chúng. ---------- (1) Hãy thận trọng (2) Trái tim của hòa thượng Thích Quảng Đức Phần 7 - Chương 8 Luân quyết định thăm dò giới Phật giáo, trước hết là tìm hiểu ý đồ của một số nhà sư đứng đầu Ủy ban liên phái. Trong bộ thường phục nghiêm chỉnh, Luân đến chùa Xá Lợi vào buổi chiều 20-8. Trước khi đi, Luân điện cho Nhu. Nhu trả lời uể oải: - Tùy anh. Nhưng, tôi nghĩ là sẽ không thể nói chuyện đạo lý với các nhà sư quá tự phụ và quá ỷ lại vào nước ngoài này. Anh định đến chùa nào? Nghe Luân sẽ đến chùa Xá Lợi, Nhu ngập ngừng một thoáng trong điện thoại rồi buông thõng: “Anh cứ đi!” Một thoáng ngập ngừng của Nhu gợi cho Luân và Dung nhiều suy đoán. Nhu ngại một thông đồng nào đó giữa Luân và giới Phật giáo? Nhu ngại Luân nghe giới Phật giáo tố khổ rồi phân vân? Hay cái khác? Thật ra, cho đến bay giờ, Luân vẫn chưa “phân thế” rạch ròi trong Phật giáo. Có thể xác định được thế lực thân Mỹ, thậm chí là CIA trong một số nhà sư liên quan mật thiết với đảng Đại Việt, phần lớn là di cư. Cũng có thể biết chắc số nhà sư có lòng yêu nước liên quan đến mức này hay mức khác với kháng chiến trước kia và hiện nay cùng với một số nhà sư tu hành đơn thuần, tỉ như hòa thượng Thích Quảng Đức. Nằm giữa hai thế lực này là ai? Thế lực nào giữ vai trò quyết định? Phật tử thì đương nhiên đang sôi sục. Luân hiểu rằng phạm vi Phật tử ở đây không chỉ để chỉ những tín đồ của đạo Phật theo cái nghĩa chặt chẽ. Trong hàng ngũ biểu tình mấy tháng nay, có không ít người thật sự chưa một lần đi chùa, chưa một ngày ăn chay. Vấn đề Phật giáo trở thành vấn đề quần chúng đông đảo. Nó chứng tỏ không ai không muốn thay đổi chế độ hiện hành – mục đích thay đổi thì khác nhưng nguyện vọng thay đổi thì thống nhất, có lẽ trừ một bộ phận theo đạo Thiên chúa. Ngay với đạo Thiên chúa, cũng bắt đầu ló dạng những bất đồng quan điểm với Tổng thống Diệm chung quanh chính sách Phật giáo của chính phủ. Theo tin của cảnh sát, một ít linh mục đã có mặt tại các chùa và tỏ thiện cảm với những Phật tử bị đàn áp. Cổng chùa Xá Lợi được thanh niên Phật tử và một số nhà sư trẻ canh phòng cẩn mật. Luân xuất trình danh thiếp. Anh phải đợi hơn 15 phút, một cư sĩ lớn tuổi, có vẻ là một trí thức, đón anh. Thạch, bảo vệ của Luân không được theo Luân. Luân bước vào một gian phòng rộng, có máy điều hòa nhiệt độ. Ba nhà sư – tất cả còn trẻ - đứng lên niệm Phật hiệu và một trong ba người mời Luân ngồi. Cư sĩ đón Luân cũng ngồi cạnh đấy. Chỉ cần liếc qua, Luân đã có thể nhận xét đây không phải những người cao cấp nhất của Ủy ban liên phái nói chuyện với Luân. Một nhà sư mắt nâu, mỏng môi mở lời: - Chúng tôi hân hạnh được đón đại tá, người của gia đình Tổng thống. Lẽ ra các thầy của chúng tôi hầu chuyện với đại tá nhưng các ngài đang tĩnh tọa. Chúng tôi được các thầy cho phép trao đổi mọi vấn đề với đại tá. Tôi là Thích Đức Nghiệp, trong phái tăng già Bắc Việt. Còn đây là đại đức Thích Từ Đức, thuộc phái tăng già Nam Việt. Nhà sư được giới thiệu dong dỏng cao, nét chất phác bộc lộ ra ngoài, khẽ cúi đầu niệm: Mô Phật! Thích Đức Nghiệp chỉ sang người phía bên phải ông: một nhà sư đeo kiếng trắng, gọng vàng. - Đây là đại đức Thích Nhất Hoa, tiến sĩ, nhà văn, nhà thơ. Người được giới thiệu hơi ưỡn ngực. - Tôi là kiến trúc sư Nguyễn Văn Thi. – Cư sĩ dẫn Luân vào, tự giới thiệu. - Các vị đã biết tôi, chắc cũng biết luôn tôi là tín đồ đạo Thiên Chúa. Nhưng hôm nay, khi đến đây, tôi không đại diện cho chính phủ và cũng không dính dáng gì đến tín ngưỡng. Tôi là một quân nhân, phàm quân nhân thì không được phép làm chính trị. Tôi chỉ muốn tìm hiểu những gì khiến Ủy ban liên phái và Ủy ban liên bộ không thể gặp nhau: không thể đi đến thỏa thuận mặc dù đã có thông cáo chung. Các vị có thể xem tôi như một người quan tâm đến sự ổn định nội bộ của Việt Nam Cộng hòa và có thiện chí. Tuy không cùng tín ngưỡng với các vị, tôi vẫn rất tôn trọng đạo Phật... Hai nhà sư ngó nhau – Thích Đức Nghiệp và Thích Nhất Hoa. Có lẽ họ trao đổi cách phải đối phó với Luân mà sự xuất hiện tại chùa Xá Lợi có lẽ là đột ngột. - Chúng ta nên bắt đầu từ chỗ nào? – Thích Đức Nghiệp nói. – Chẳng lẽ chúng ta lại phải lùi thời gian trở về các sự kiện ở Huế vào tháng 5 hoặc xa hơn? Đại tá, dù cho rằng mình không được quyền làm chính trị nhưng với cương vị quan trọng trong tham mưu biệt bộ của Tổng thống, đồng thời là người cộng sự thân tín của ông cố vấn Ngô Đình Nhu, hẳn đã rõ hết mọi tình hình. Chúng tôi không dám tiếp nhận những lời tốt đẹp của đại tá về tôn giáo chúng tôi. Chúng tôi tạm thời tin vào thiện chí của đại tá. Nhưng đã đến lúc chúng ta phải sòng phẳng với nhau. Chúng tôi không có điều gì phải giấu giếm Tổng thống. Hằng ngày, mật vụ của Tổng thống hẳn đã phúc trình đầy đủ cho văn phòng của Tổng thống. Một cuộc điều tra, dù cho một đại tá thực hiện, vẫn sẽ không thêm được điều gì mới so với các phúc trình ấy! Thích Đức Nghiệp tiến công Luân ngay, trong khi nói, đôi mắt của ông ta lóe lên những tia hung tợn, mâu thuẫn với chiếc áo nâu mà ông ta mặc và Luân nghĩ rằng, ông ta chưa hề được giáo lý Phật cảm hóa. Luân chợt thấy vui vui: Tay này mà đấu khẩu với Lệ Xuân thì đúng là “kỳ phùng địch thủ”! - Dẫu sao thì chúng ta cũng cần phải minh bạch. Tôi đến đây không để trinh sát nhà chùa, không để thu thập tài liệu. Đó không phải là công việc của tôi. – Luân vừa nói vừa mỉm cười – Chúng ta có thể bắt đầu từ chỗ nào mà các vị thấy cần bắt đầu. Trong vai vế nhỏ bé của mình, tôi sẽ cố gắng hết sức để tìm được tiếng nói chung giữa chính phủ và các vị cầm đầu đạo Phật. - Chúng tôi xin lỗi đại tá. Đại đức Thích Đức Nghiệp vốn nổi tiếng là người nóng tính, bộc trực, mong đại tá hỉ xả. Như ý của đại tá, chúng ta sẽ bắt đầu từ chỗ phân tích xem vì sao thông cáo chung không được thi hành. Thích Nhất Hoa chen vào câu chuyện với thái độ đĩnh đạc. - Cũng chẳng có gì khó hiểu khi thông cáo chung biến thành mảnh giấy lộn, bởi vì chính phủ chỉ muốn có một thông cáo chung. Phó tổng thống, xét về danh vị, là nhân vật số hai của đất nước nhưng xét về giá trị có thật thì ông Nguyễn Ngọc Thơ chỉ là bù nhìn. Chữ ký mang tên ông cũng giả tạo như chức tước của ông. Không phải đây là lần đầu ông Thơ làm cò mồi. Có điều, thời thế đã khác lúc ông Thơ dụ hàng tướng Lê Quang Vinh. Chúng tôi sẵn sàng ký thông cáo chung nhưng chúng tôi cũng sẵn sàng đối phó với mọi lật lọng. Ngay cả Tổng thống Ngô Đình Diệm cũng không phải là người giữ quyền lực cao nhất ở đây. Ông Nhu, bà Nhu! Chính hai người đang thao túng quốc gia và căm ghét thông cáo chung. Hai người căm ghét thông cáo chung bởi vì họ nghĩ rằng, những người theo đạo Phật sẽ từ bỏ yêu sách thiêng liêng của mình với vài dòng chữ ru ngủ và khi điều đó không xảy ra, họ điên cuồng tức giận. Thiện chí nghĩa là đôi bên cùng nghĩ đến cách giải quyết êm đẹp những bất đồng này, khác. Chính phủ rất có thiện chí với đạo Thiên Chúa nhưng lại rất ít, thậm chí không hề có thiện chí với đạo Phật. Từ khi có thông cáo chung đến nay, thời gian cũng chưa lâu lắm nhưng tình hình thì phát triển hết sức khẩn trương, đến nổi, nếu quả chính phủ có thiện chí như đại tá nói, cần có một thông cáo chung thứ hai mà nội dung không thể dừng ngang mức thông cáo chung lần trước! - Nghĩa là thế nào? – Luân hỏi. Thích Nhất Hoa mỉm cười – tuy chỉ là một nụ cười thật nhẹ mà hàm chứa một cái gì của kẻ bề trên, của người nghĩ rằng mình đang chiến thắng. - Phật giáo không làm chính trị. Nhưng Phật giáo biết đòi hỏi những người làm chính trị phải có một thái độ như thế nào đối với đạo Phật, một tôn giáo về thực tế là quốc giáo ở Việt Nam. Trước đây, chúng tôi chỉ yêu cầu chính phủ Thiên Chúa giáo của ông Ngô Đình Diệm cư xử phải chăng với tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam. Bây giờ chúng tôi cảm thấy rằng không thể dừng yêu sách ở mức đó. Đã có quá nhiều các bậc tu hành và những tín đồ hy sinh cho đạo pháp. Cách nào đó, chúng tôi phản bội lại những hy sinh cao cả đó. - Nghĩa là các vị muốn thay đổi chế độ? - Không! Không có chuyện thay đổi chế độ tự do ở nước Cộng hòa chúng ta. – Thích Nhất Hoa trả lời. - Các ngài nghĩ gì về chiến tranh? - Tôi phải nói để đại tá an tâm. – Thích Đức Nghiệp nói – Chẳng những chúng tôi chủ trương phải loại bỏ Cộng sản vô thần ở miền Nam mà còn thực hiện yêu cầu lớn lao hơn, điều mà Tổng thống Ngô Đình Diệm không làm nổi: chúng ta sẽ Bắc tiến! Câu nói sắt máu của Thích Đức Nghiệp được những người có mặt tiếp nhận, theo quan sát của Luân, bằng nhiều thái độ khác nhau: Thích Nhất Hoa khẽ liếc Thích Đức Nghiệp như một nhắc nhở thận trọng trong lời ăn tiếng nói; Thích Từ Đức và cư sĩ kiến trúc sư Nguyễn Văn Thi khẽ lắc đầu. Với Luân, tuy anh đã dự đoán nhưng vẫn không ngờ nhà sư di cư này lại háo sát đến thế. - Vậy là chính phủ hiện hữu và các vị gần như là không còn có thể tìm được tiếng nói chung. Tôi diễn đạt như vậy có đúng không? - Lỗi không phải từ phía Phật giáo. – Thích Nhất Hoa trả lời. - Tôi muốn lưu ý các vị là chính phủ có trong tay lực lượng quân sự mạnh... - Và cảnh sát, mật vụ, Thanh niên, Thanh nữ Cộng hòa, Phong trào cách mạng quốc gia, Phụ nữ liên đới, đảng Cần Lao, Tổng liên đoàn lao công... - Thích Nhất Hoa chen vào, giọng mỉa mai – nhưng chính phủ không còn ông Nolting. Mọi thứ sẽ đảo lộn bởi ông Cabot Lodge không phải là ông Nolting. - Tôi hiểu! – Luân nói, hết sức điềm đạm – Tôi hiểu rất rõ. Và Luân thở dài. Những người có mặt dứt khoát không thể hiểu tiếng thở dài của Luân. Vừa lúc đó, một nhà sư lao vào phòng như một ngọn gió mạnh – một nhà sư cũng trẻ. - Báo động! Kế hoạch “Nước lũ” bắt đầu thực hiện đêm nay! Trao cho Thích Đức Nghiệp một mảnh giấy, ông ta chợt thấy Nguyễn Thành Luân. - Ủa! Có đại tá ở đây? Luân lễ phép chào ông. Mảnh giấy được trao cho hai đại đức và ông kiến trúc sư. - Xin giới thiệu với đại tá, đây là đại đức Thích Tâm Giác... Luân đã nghe tiếng nhà sư này từ lâu. Trong báo cáo mật của Trần Kim Tuyến, nhà sư đã được nhắc đến như một phần tử có tham vọng trở thành đại tá Trưởng phòng tuyên úy của Phật giáo trong quân đội. - Một tín đồ đạo Phật báo cho chúng tôi đêm nay chính phủ sẽ tiến công các chùa. Không rõ ông đại tá có nắm được kế hoạch đó không và – xin lỗi đại tá – việc đại tá đột ngột đến chùa có liên quan gì đến kế hoạch đó không? Luân có đọc kế hoạch “Nước lũ” trong bản tin của UPI. Dung không biết về kế hoạch này. Trần Kim Tuyến không hé môi mà Luân thì không tiện hỏi Ngô Đình Nhu. - Thú thật, tôi chỉ biết cái danh xưng này qua hãng thông tấn ngoại quốc. Còn tôi, như từ đầu đã trình với các vị, tôi đến chùa Xá Lợi với tư cách riêng. Năm người có mặt trong phòng đều nhìn Luân. Họ hoài nghi. Thích Nhất Hoa cười lạt. - Tôi không tán thành bạo lực đối với Phật giáo – do đó tôi không tán thành cái gọi là kế hoạch “Nước lũ”. Nếu quả có một kế hoạch như thế, tôi sẵn sàng làm con tin tại đây khi chính phủ tấn công các chùa. Luân nói, rất thành khẩn. - Nguồn tin này chính xác một trăm phần trăm! - Thích Tâm Giác nhấn mạnh, ông ta ngồi xuống và chìa tấm giấy cho Luân xem. Nửa tờ polure, viết tay: Các thầy nên sẵn sàng, nội đêm nay chính phủ sẽ tiến công bằng võ lực các chùa. Không có chữ ký. Nhưng nét chữ thì không xa lạ với Luân: Mai Hữu Xuân. - Đã trình cho chư tôn hòa thượng chưa? – Nhất Hoa hỏi Tâm Giác. - Đã và cũng đã báo động cho các vị lãnh đạo các chùa trong đô thành nhưng không báo động kịp các tỉnh. - Ở chùa có điện thoại không? – Luân hỏi. - Có. Nhưng để làm gì? – Nhất Hoa hỏi – Đại tá định nói chuyện với ông Nhu? Luân gật đầu và đi đến chỗ đặt máy. Điện thoại bị cắt đứt. - Với những triệu chứng như thế này, có khả năng các chùa chiền bị tấn công thật. – Luân bảo, căng thẳng – Tôi muốn liên lạc với Phủ tổng thống. Phiền các vị cho người cầm thư của tôi ra cổng chùa, giao cho người bảo vệ của tôi mang vào Phủ tổng thống. Tâm Giác, Nhất Hoa, Đức Nghiệp không thích thú với sự can thiệp này. Nhất Hoa bảo: - Không cần! chính phủ muốn gặt cái quả lớn hơn thì cứ gieo cái nhân tương xứng... - Nhưng, tiến công có nghĩa là đổ máu, Phật tử khó tránh khỏi ít nhất cũng là thương tích! Không thể được! – Luân gằn giọng. Trước mặt anh, ba nhà sư rõ ràng coi thường sinh mệnh của tăng ni và Phật tử. Có vẻ họ còn sốt ruột khi kế hoạch “Nước lũ” thực hiện chậm. – Một cơn giận nổi lên khiến Luân mất bình tĩnh: - Các vị muốn đánh đổ ông Diệm, tôi không ngăn. Nhưng không thể lợi dụng xương máu của quần chúng. Các vị không sẵn sàng mang thư thì tôi sẽ ra cổng giao thư và trở vào đây cùng chịu chung số phận với các vị! Không cần biết phản ứng của chung quanh, Luân xé một tờ giấy trong sổ tay và hí hoáy viết. - Tôi sẽ mang thư ra cổng cho đại tá. – Thích Từ Đức nói. Từ khi Luân bắt đầu cuộc trao đổi ý kiến, đây là lần đầu Thích Từ Đức lên tiếng – Tôi nghĩ đại tá cũng có thể ra về... Luân trao mảnh giấy cho Từ Đức. - Cám ơn đại đức. Tôi ở đây! Từ Đức tất tả bước ra khỏi phòng. Gian phòng im ắng một cách nặng nề. Trong đầu Luân, nhiều điều được soi sáng. Người báo tin cho Phật giáo cũng sẽ là người chỉ huy cuộc đàn áp – Mai Hữu Xuân là một con người như thế đó. Kế hoạch “Nước lũ” có thể do chính tay ông ta thảo ra, có tham khảo ý kiến của Fishell, John Hing, thậm chí tham khảo cả ý kiến của Thích Tâm Châu và ba nhà sư đang ngồi trước anh. Thích Từ Đức trở vào, trả thư cho Luân, giọng buồn bả: - Chùa bị phong tỏa rồi! - Ai phong tỏa? – Luân hỏi. - Tôi ra đến cổng thì gặp một toán an ninh quân đội đuổi tôi trở vào... - Bên ngoài có cảnh sát hay quân đội không? - Chưa thấy... Tín đồ ở ngoài đường đông lắm... Luân cười gằn: - Mai Hữu Xuân! Thích Từ Đức và kiến trúc sư Nguyễn Văn Thi không thấy có điều gì khác lạ trong nhận xét của Luân, còn ba người kia thì mặt hơi biến sắc. - Không phải... - Thích Đức Nghiệp buộc miệng nhưng ông ta ngừng ngang và Luân thấy rõ Tâm Giác ra hiệu bằng cách đạp lén chân ông ta. “Thằng cha Mai Hữu Xuân ra tay trước, hắn bít cửa chùa để “kế hoạch nước lũ” đánh thật đau vào Phật giáo – nghĩa là đánh thật đau vào Ngô Đình Diệm” – Luân nghĩ như vậy. * Song song với cuộc đối thoại giữa Luân và một số đại đức, bên trong hậu liêu của chùa, các hòa thượng và thượng tọa không phải tham thiền như Thích Đức Nghiệp nói mà họ, cấp cao nhất của những người lãnh đạo phong trào Phật giáo hiện thời, đang họp. Hòa thượng Hội chủ Thích Tịnh Khiết vì mệt nên vắng mặt. Thượng tọa Thích Tâm Châu tự giới thiệu là được hòa thượng Hội chủ trao cho toàn quyền quyết định, đã chủ trì cuộc họp.Từ chiều, giới lãnh đạo Phật giáo đã nhận được nhiều nguồn tin khác nhau về cuộc tấn công của cảnh sát. Trong những nguồn tin đó, có cả nguồn tin của giáo sư Fishell. Thượng tọa Thích Tâm Châu gửi giấy mời các vị có chân trong Ủy ban liên phái đến chùa Xá Lợi. Trừ một vài vị bận việc, hầu hết đều có mặt. Mở đầu, thượng tọa Thích Tâm Châu thông báo về tình hình có thể xảy ra trong đêm. Thượng tọa cũng nhắc lại gần như toàn văn thông tin của giáo sư Fishell, người mà các vị trong Ủy ban liên phái chỉ biết là một học giả Mỹ am tường các vấn đề phương Đông, vấn đề Phật giáo, một nhà nghiên cứu khoa học có tầm cỡ. Một vị đã nêu câu hỏi với Thích Tâm Châu: Vì sao giáo sư Fishell lại biết kế hoạch tấn công các chùa chiều đêm nay? Thích Tâm Châu trả lời rằng có thể vì Fishell giao thiệp rộng. Một vị thượng tọa khác hỏi: Nếu giáo sư Fishell giao thiệp rộng, biết được tin đích xác các chùa sẽ bị tấn công tại sao ông không can thiệp với sứ quán Mỹ và với Tổng thống Ngô Đình Diệm? Thích Tâm Châu không tả lời câu hỏi đó mà nhắc lại rằng, đã được tin thì Ủy ban liên phái phải đối phó. Ông phác ra một kế hoạch. Một mặt, ông thông báo cho giới báo chí trong và ngoài nước về khả năng xấu có thể xảy ra và đánh động dư luận. Hai, ông thông tin cho tất cả các chùa sửa soạn đối phó, chỉ thông tri cho các vị lãnh đạo, không cho tăng ni nói chung và Phật tử biết. Ba, đối phó cụ thể là sẵn sàng hy sinh vì đạo pháp. Ông tuyên bố: “Giờ lâm tử đã đến mà kế hoạch của chúng ta không thể vượt khỏi khuôn khổ bất bạo động cổ truyền. Nhưng bất bạo động mà không chịu chết âm thầm, không để cho bạo quyền tàn sát một cách lặng lẽ khiến họ có thể bưng bít dư luận. Bởi vậy, kế hoạch đối phó nằm trong khuôn khổ bất khuất, dụng nguyên lực biến thân để thành kim cương, thành gang thép rồi kết khối lại chịu cực hình cho đến chết để được tử đạo và để cầm cự cho tới thanh thiên bạch nhật khiến sự hy sinh cao cả này vang dội lên làm rung động từ cội rễ thiện tín con người và để Phật giáo đồ noi gương tiếp nối đấu tranh vì chính pháp”. Quan điểm của thượng tọa Thích Tâm Châu được chấp thuận. Nhưng, có một vị cao tăng nêu lên một vấn đề: Tại sao chúng ta báo động với cơ quan báo chí trong và ngoài nước, với các tòa đại sứ với lãnh sự mà lại không báo động với Ủy ban liên bộ hoặc với Tổng thống, đồng thời cũng lại không thông báo cho thanh niên tăng sĩ trong các ban trật tự các chùa, cho các tín đồ có mặt ở các chùa? Theo vị cao tăng này thì nếu ủy ban liên phái làm tất cả những việc trên, sẽ có hy vọng buộc chính quyền đình chỉ kế hoạch tấn công và tránh cho tăng sĩ và đồng bào Phật tử khỏi bị thảm sát. Chúng ta – vị cao tăng ấy nói – rất hoan hỉ noi gương thánh tăng Thích Quảng Đức nhưng chúng ta không nên để những tăng ni tuổi đạo còn non thay mặt cho đạo pháp mà tử nạn như các vụ tự thiêu hoặc có hành động phản kháng gần đây. Chúng ta cần phải tránh cho Phật tử bất kể mức độ hy sinh nào. - Thì giờ quá gấp rút, chư tôn hòa thượng miễn cho tranh cãi. - Thích Tâm Châu đã lẩn tránh câu hỏi của vị cao tăng. * Tường thuật của một phóng viên.(Bản in ronéo) Tối 20-8-1963, nếp sinh hoạt thường nhật của chùa Xá Lợi có thay đổi đôi chút. Khác với mọi khi, đêm nay, mới 9 giờ giữa lúc các thiện tín, sau khi lễ Phật xong, ra về. Nhưng, ra tới cổng, họ đụng một số an ninh quân đội, buộc họ quay vào chùa. Cái sự khác thường này khiến tăng sĩ và tín đồ lo lắng. Nhưng, một đại đức đã động viên họ: “Không việc gì phải sợ!” Thời gian cứ chậm chạp trôi qua. Cổng chùa, mặt tiền, bên hông đều được đóng lại kỹ lưỡng. Ngoài đường, người qua lại bắt đầu thưa thớt, thỉnh thoảng mới có một chiếc xe hơi hoặc xe gắn máy lướt nhanh trên đại lộ. Trong sân chùa, trái với lệ thường, các ngọn đèn điện thường được tắt bớt, hôm nay ánh sáng như rực rỡ hơn. 11 giờ đêm, thời gian vẫn lặng lẽ trôi. Trên gác, các thượng tọa hầu hết đã vào phòng riêng an nghỉ. Tín đồ nằm la liệt ngoài sân. Thỉnh thoảng mới có một đại đức lướt nhanh qua hành lang hướng về phòng thượng tọa Thích Tâm Châu, nơi duy nhất có tiếng máy đánh chữ nhè nhẹ. Dưới nhà hậu, phần lớn chư ni đã nghỉ, chỉ còn một số đang lom khom, lặng lẽ lau nốt mấy bậc thềm hoa. Số khác bận rộn trong việc quay ronéo, đóng thành từng bản tin tức để phân phối vào sáng hôm sau. Họ yên lặng làm việc, thận trọng, nhẹ nhàng. 12 giờ. Trên đường phồ bỗng xuất hiện một toán người mặc áo sơ mi bỏ ngoài, quần tây. Họ ngồi trên xe đạp, từ từ lượn quanh, ngó vào chùa dò xét... Thế rồi, trong giây lát, một hồi còi ré lên và một đoàn trên 200 người, tay lăm lăm súng cắm lưỡi lê ào tới bao vây chùa. Đoàn người này mặc đồ trận rằn ri, mũ sụp xuống lấp trán. Họ thi nhau xông tới phá hai cổng chùa. Trong chốc lát, các cổng đều bật tung và đoàn người võ trang hùng hổ tràn vào chùa. Họ cúi lom khom, lủi nhanh, núp vào các gốc cây, bờ tường, giống như đoàn quân thiện chiến đang xung kích trận địa sống chết với kẻ thù. Lúc này chư tăng, ni đều đã dậy cả, ai nấy vồn vã leo cầu thang rút lên thượng điện. Các thượng tọa gấp rút gọi dây nói cho các ký giả, sứ quán, nhưng đường dây đã bị cắt đứt, đồng thời điện trong chùa cũng bị cắt luôn. Thế là, trong màn đêm, lờ mờ qua ánh điện đường, sân chùa tràn ngập bọn người hung dữ, sát khí đằng đằng. Họ ồ ạt xông vào chính điện, đập phá cánh cửa, đạp đổ bàn thờ hòa thượng Thích Quảng Đức và phá tan hộp đựng tiền công đức của thiện tín thập phương rồi cướp hết. Họ như điên cuồng, đập phá bàn ghế, xô đạp hương đài, chặt cánh tay và móc mắt Phật lấy cặp nhãn kim cương trị giá trên hai chục triệu đồng. Trong khi đoàn người mệnh danh “quân đội chính phủ” đang đột nhập phá phách ở phía dưới chùa, thì trên thượng điện, tất cả tăng, ni và đạo hữu đều quay quần chung quanh hòa thượng và các thượng toạ. Người người nhất trí, khỏe trước yếu sau trấn đóng hai đầu cầu thang không cho bọn người hung dữ tiến lên xâm phạm vào các thượng tọa. Ngay từ phút đầu của cuộc tấn công, cảnh chùa đã trở nên huyên náo, bên dưới bọn người hung dữ phá phách rầm rầm, ở trên thượng điện, chư tăng ni khua trống, đánh chuông, đập thùng thiếc cùng kêu la inh ỏi làm náo động cả một góc thủ đô. Khi thanh toán xong dưới nhà, bọn người hung dữ nương theo hai cầu thang xông lên thượng điện. Nhưng họ gặp ngay phản ứng của hàng ngũ thanh niên tăng sĩ; ngoài những bàn ghế chất đầy hai đầu cầu thang dùng làm chướng ngại vật, tăng ni còn đem ấm chén, bát đĩa và tất cả vật dụng trong phòng ra xếp thành một đống phía sau; hễ kẻ nào nhô lên từ phía chân cầu thang, lập tứ các đồ vật dụng được ném xuống xối xả, khiến bọn người hung dữ không sao tiến lên được. Lập tức, lựu đạn cay từ dưới thi nhau tung lên sân thượng điện, tiếng nỗ chát chúa vang ra, cả trăm tăng, ni bị khói cay ho sặc sụa, nước mắt, nước mũi chảy ròng ròng. Một số người sức yếu, ngất đi nằm vật xuống. Bọn người hung dữ lại từ dưới xông lên. Các thanh niên tăng ni, mặc dù nước mắt nước mũi chảy ràn rụa làm mù mịt không trông thấy gì, nhưng họ vẫn liên tiếp thay phiên nhau nhắm hướng cầu thang liệng vật dụng xuống. Lựu đạn cay lại từ dưới nhất loạt tung lên, khói đen tỏa dầy đặc, nhiều tăng, ni bị lựu đạn nổ ngay trên mình hoặc bị vỏ thủy tinh bắn ra cắt đức da thịt, máu chảy quá nhiều nên ngã quỵ xuống. Để đối phó lại, hàng tiền đạo tăng sĩ được võ trang bằng khăn ướt, bịt trên mặt để ngăn bớt khói cay. Lần thứ ba, sau khi hưu chiến 15 phút, bọn người không tim không óc lại nhất loạt xông lên, lần này họ đội trên đầu mỗi người một chiếc ghế tựa để ngăn “đạn” từ trên xả xuống; đồng thời, họ vừa xung kích vừa tung lựu đạn cay. Nhưng, kẻ xung kích dùng đòn độc, lấy ghế làm mộc, thì người bị tấn công, cũng đổi chiến lược, các đạn hạng nặng, như bàn giấy, chậu cảnh được quăng xuống và bất cứ một thứ thì như nước sôi, vỏ chai, hễ vớ được là họ quăng liên hồi... Nhưng, bọn người phía dưới hung dữ quyết bám sát trận địa, hết lớp này đuối sức thì đám kia xông lên và lựu đạn vẫn nổ liên tiếp làm đinh tai điếc óc chư tăng. Trận chiến diễn ra ác liệt, chư ni một số ngã gục, một số bị ho sặc sụa, phải chạy vào phòng tắm, đóng chặt cửa tránh khói, còn một số vẫn hăng hái tìm kiếm vật dụng cho chư tăng ném xuống. Thời gian khủng khiếp nặng nề trôi... chư tăng đã phần kiệt sức mà lực lượng cứu viện không có. Kẻ ngoại cuộc duy nhất ủng hộ là hãng USOM. Từ các cửa sổ trên lầu cao, những bàn tay người ngoại quốc, đàn bà có, đàn ông có, đưa tay vẫy liên hồi, rồi cũng những bàn tay đó, nắm chặt lấy nhau đấm vào không khí ngụ ý tán trợ và cổ võ. Thế rồi, từ trên đỉnh ngôi nhà lầu hãng USOM, ánh điện của máy chụp hình lóe lên ánh sáng, lại càng chớp nháy liên tiếp khi một bóng người đàn bà vận quân phục từ trên xe Haptơrăc nhảy xuống. Người đàn bà này đứng giữa đường, hai tay chống ngang hông ngó vào cổng chùa Xá Lợi. Lập tức viên chỉ huy bọn người hung dữ được báo động và y chạy tới khúm núm trước người đàn bà này. Người đàn bà vận quân phục chỉ trỏ và quát tháo một hồi rồi lên xe đi thẳng. Trong chùa, trận chiến khởi đầu từ 1 giờ đến 2 giờ 45 phút thì thế cờ bắt đầu chuyển hướng. Lực lượng vũ trang xông lên hùng hổ bao nhiêu thì sức kháng cự của tăng ni yếu dần đi bấy nhiêu. Các vật dụng của nhà chùa dùng làm vũ khí đã hết... Thậm chí, chư tăng phải dùng đến cả những bàn ghế trước đây dùng làm chướng ngại vật quăng xuống... Thế là mọi người chỉ còn hai bàn tay trắng, đưa ra đón lấy những mũi nhọn của lưỡi lê ào ạt từ dưới lao lên. Lần lượt những người tu hành bị bọn người hung dữ thúc lưỡi lê vào ngực, vào lưng, dồn tới một xó chùa. Còn cảnh nào thương tâm bằng cảnh những người tu hành, từ bỏ tất cả trừ mảnh áo cũ kỹ che thân. Nay áo đó cũng bị rách tả tơi hoặc bị lựu đạn làm cho cháy xém rách nát cả da thịt. Khi đã chiếm xong thượng điện, bọn người hung dữ tiếp tục khủng bố. Họ tràn vào thư viện bắt trói đánh đập các thầy ở đây rồi dẫn đi. Thầy Hoàng Lạc, không chịu để cho chúng bắt, thầy chạy ra sân lầu đại điện, nhào xuống đất để chết. Không ngờ lại rớt xuống trúng đầu bọn hung dữ ở phía dưới; chúng hoảng hốt nổ súng, nhưng thầy Hoàng Lạc đã rơi xuống sân nằm bất tỉnh, khiến những viên đạn này lại bắn lộn vào đám đông, mấy mạng gục xuống. Sau đó, chúng lục xạo khắp các phòng, chân đạp tung cửa, tay chuẩn bị bóp cò súng, miệng gầm thét chửi rủa tục tĩu... Có nhiều thầy vừa ra tới cửa bị chúng còng tay, rồi đẩy đi. Qua một trận ngửi hơi ngạt các thầy mệt mỏi, bước đi chậm chạp, bị chúng tống báng súng vào lưng, khiến các thầy ngã sấp xuống gạch. Tay lại bị còng ra phía sau, không thể chống đỡ nên các thầy đành chịu cảnh dập mày dập mắt, máu tuôn ướt áo, ướt đường. Như để hả giận, vừa dồn các thầy ra chỗ ngồi tập trung trước sân thượng điện, bọn người hung dữ vừa chửi rủa vừa đánh đập, chúng bất kể già trẻ, ngôi vị trong chùa. Kế đó, đèn được bật sáng; mọi người mới biết đoàn người hung dữ này không ai xa lạ mà chính là bọn mật vụ, cảnh sát, và lực lượng đặc biệt do Trần Văn Tư, Giám đốc cảnh sát đô thành chỉ huy tổng quát. Riêng Dương Văn Hiếu, tay chân đắc lực của lãnh chúa miền Trung được đặc biệt phái vào Sài Gòn, chỉ huy mật vụ của Ngô Đình Nhu và Lê Quang Tung, Tư lệnh lực lượng đặc biệt thì chỉ thấy quân mà không thấy mặt chúng. Không rõ chúng chỉ huy đánh chiếm mạn nào hay nằm ở “Bộ tư lệnh chiến dịch đánh chùa”? Theo lệnh Trần Văn Tư, bọn mật vụ lần lượt bắt hòa thượng Hội chủ, các thượng tọa, đại đức dẫn ra xe. Chúng vừa tìm kiếm vừa reo lên “A, thằng Tâm Châu đây rồi... cả thằng Giác Đức nữa, may quá!”. Lập tức chúng xúm lại khiêng hai thượng tọa xuống. Đại đức Thích Đức Nghiệp cũng bị chúng lôi đi lệt xệt trên cầu thang. Thế rồi các vị bị chúng đưa đi, giam mỗi người một phương nào không ai biết. Sau khi chúng kiểm soát kỹ lưỡng khắp chùa một lần nữa, thấy không còn sót ai, bọn mật vụ, cảnh sát, lực lượng đặt biệt, xếp hàng hai bên lối đi, mỗi đứa cách nhau một thước, nối tiếp nhau từ trên Phật điện, xuống cầu thang vòng ra cổng. Chúng quay mặt đối diện với nhau, rồi một bọn khác tới lùa mấy trăm tăng ni ra xe. Chư tăng, ni đông quá nên cầu thang trở nên chật chội, không thể nào đi nhanh được. Điều đó lại để cho bọn mật vụ có cơ hội tức giận nguyền rủa. Từ phía sau, bọn chúng chửi bới, xô đẩy và dùng báng súng thúc mạnh vào lưng chư tăng. Trong đoàn tăng, ni bị xô đạp này, nhiều người yếu quá ngã xuống, nhất là chư vị, chân không dẫm lên những đống máu đông đặc lầy nhầy đọng trên cầu thang, khiến không gượng được nên ngã xuống. “Mặc kệ!”, “Chết bỏ!”, chúng vừa quát tháo, vừa xô mạnh cho những người phía sau giày xéo lên những người phía trước vừa ngã dưới bậc cầu thang. Có nhiều vị tăng chỉ vì cố dừng lại khiêng mấy ni cô bị ngã nhưng vì yếu sức không sao gượng dậy được giữa đám chân người lủng củng, dồn dập từ trên cao lấn xuống, nên bị chúng dùng gậy đập lên đầu đến váng óc té xỉu đi. Cho tới 3 giờ rưỡi sáng, bọn người gian ác này hoàn toàn thành công trong việc đánh phá chùa Xá Lợi. Ngoài những thượng tọa bị đưa đi, giam riêng, còn bao nhiêu tăng ni chúng chất lên xe chở về Rạch Cát nhốt trong một cái đồn hoang dại, hẻo lánh thuộc quận 7, ngoại ô Chợ Lớn. Sau đó, chúng đem xe hơi tới hốt các tăng, ni, đạo hữu bị chết, bị ngất hoặc bị thương trầm trọng, nằm la liệt trên sân thượng điện về bệnh viện Cộng Hòa. Chúng chở luôn cả những “chiến lợi phẩm” mà chúng không “nuốt” được như máy móc, giấy tờ về quận 3, còn bao nhiêu thứ có thể bỏ túi được thì chúng “chia bùi xẻ ngọt” với nhau. Chùa Xá Lợi sau hơn 3 tiếng đồng hồ sóng gió kinh hoàng, lúc này hoàn toàn tan hoang. Thứ duy nhất còn lại ngoài mấy chục bức tượng, đồ đạc hư nát là máu tươi, thịt bấy của tăng ni loang lổ khắp sân chùa. Sáng ra, người ta mới biết người đàn bà đêm qua mặc quân phục, hằn học nhìn vào chùa Xá Lợi là bà Ngô Đình Nhu tức Trần Lệ Xuân. Trần Lệ Xuân tới để chứng kiến cảnh tàn sát cho hả lòng căm giận đối với những người độc nhất trên đất nước này, dám công khai đả kích bà ta và công khai chống lại uy quyền của họ Ngô. Ngoài ra, Trần Lệ Xuân còn tới để đôn đốc bọn tay sai phá chùa, chiếm lại bức thư của thân phụ bà ta mới gửi về tạ lỗi với các vị thượng tọa cách đây mấy ngày về việc Trần Lệ Xuân đã vô lễ xúc phạm tới mấy thầy, mạt sát Phật giáo, một tôn giáo mà họ Trần tôn thờ. Trong khi chùa Xá Lợi chìm trong cảnh tang tóc máu lửa, thì hầu hết các chùa trong lãnh thổ gia đình Ngô Đình Diệm thống trị đều chung một số phận như vậy. Riêng tại chùa Từ Đàm, Huế, trong đêm 20-8-1963, với 5.000 Phật tử túc trực bao quanh nhục thân cố thượng tọa Thích Tiêu Diêu đã là một cản trở rất lớn cho bọn tay chân Ngô Đình Cẩn. Ngô Đình Cẩn phải huy động 2.000 quân, chiến đấu từ 1 giờ đêm đến 8 giờ sáng mới thanh toán xong chiến trường. Sở dĩ có trận chiến đấu ác liệt như vậy là vì Phật giáo đồ tưởng rằng lực lượng Ngô Đình Cẩn tới cướp thi hài thượng tọa Thích Tiêu Diêu như chúng đã từng làm đối với các tăng ni tự thiêu trước đây. Và cũng vì vậy nên chư thượng tọa có mặt trong chùa để yên cho Phật giáo đồ cầm cự, cố sống chết bảo vệ lấy thi hài duy nhất của bốn vị tự thiêu tại miền Trung còn lại. Trong những phút cuối cùng của cuộc giao tranh, Phật giáo đồ đã có lần phóng hỏa đốt chùa để cùng nhau chết trong vòng vây nguy khốn chứ không chịu khuất phục trước bạo quyền... Nhưng việc làm này bị thất bại bởi lực lượng Ngô Đình Cẩn quá đông, chúng ào vào dập tắt lửa và tấn công dữ dội, làm cho Phật giáo đồ rối loạn, xô lấn, ngã chồng chất lên nhau. Trong chùa lúc này, Phật tử chỉ còn hai bàn tay không giơ ra chống đỡ với lưỡi lê của kẻ bạo tàn. Bao nhiêu củi đuốc, bàn ghế, ấm chén, nồi niêu, bát đĩa, soong, chảo trong chùa, Phật giáo đồ đều dùng thay vũ khí và đã ném đi hết sạch. Vì thế, lực lượng vũ trang của Ngô Đình Cẩn chỉ còn việc lần lượt bắt trói từng người dẫn đi. Thế rồi sáng hôm sau, ngày 21-8-1963, tại thủ đô Sài Gòn, thành phố Huế và khắp các tỉnh, khi mọi người thức dậy ra đường, đã thấy nhan nhãn những truyền đơn, hiệu triệu và sắc lệnh thiết quân luật dán đầy trên tường. Xe thông tin gắn loa phóng thanh chạy khắp phố thường thôn xã loan tin: “Chính phủ đã diệt trừ xong bọn phản động!”. Chiều tối quần chúng lại được chính quyền cho biết, trong cuộc kiểm soát các chùa, quân đội tịch thu được vũ khí, tài liệu, chứng tỏ nhiều nhà sư hoạt động cho Việt Cộng... * TUYÊN CÁO CỦA TỔNG THỐNG VIỆT NAM CỘNG HÒATrước những biến cố gần đây do Cộng sản chủ mưu, đặc biệt nhất tại miền Đông Nam Á, Lào quốc, trực tiếp ảnh hưởng đến biên giới Việt Nam. Đồng thời tại quốc nội, giữa lúc toàn dân toàn quân đang tận lực chống Cộng sản xâm lăng, đồng bào đã thấy rõ, từ 3 tháng rưỡi nay, ý chí hòa giải tột bực của chính phủ trong việc giải quyết những vấn đề do Tổng hội Phật giáo nêu lên, nhưng những cố gắng ấy không được hưởng ứng do một số người đầu cơ chính trị, lợi dụng tôn giáo, lợi dụng thái độ hòa giải tột bực của chính phủ liên tiếp hành động bất hợp pháp để tạo nên một tình trạng rối loạn phá hoại chính sách ấy, cản trở chủ trương dân chủ pháp trị, rất tổn thương cho uy tín của Phật giáo, chỉ lợi cho Cộng sản. Do đó, chiếu điều 44 Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa, kể từ ngày 21 tháng 8 dương lịch 1963, tôi tuyên bố ban hành lệnh giới nghiêm trên toàn lãnh thổ quốc gia. Ủy nhiệm cho quân đội Việt Nam Cộng hòa tận dụng mọi phương tiện và thi hành mọi biện pháp cần thiết do sắc lệnh ban hành giới nghiêm qui định để vãn hồi an ninh trật tự công cộng hầu bảo vệ quốc gia, chiến thắng Cộng sản, xây dựng tự do dân chủ. Sài Gòn ngày 20-8-1963 Tổng thống Việt Nam Cộng hòa NGÔ ĐÌNH DIỆM * Việt Nam Cộng hòaTổng thống phủ Văn phòng Số 84 – TTP TỔNG THỐNG VIỆT NAM CỘNG HÒA Chiếu hiến pháp Việt Nam Cộng hòa nhất là điều 55; Chiếu sắc lệnh số 124-TTP ngày 28-5-1961 ấn định thành phần chính phủ; Chiếu nhu cầu hiện tại; Để đảm bảo an ninh trật tự công cộng. SẮC LỆNH Điều 1: Nay tuyên bố tình trạng giới nghiêm trên toàn lãnh thổ Việt Nam, kể từ ngày công bố sắc lệnh này cho tới khi có lệnh mới. Điều 2: Luật lệ nào xét ra cần ngưng thi hành sẽ được tuyên bố tạm đình chỉ áp dụng. Điều 3: Quân đội Việt Nam Cộng hòa chịu trách nhiệm hoàn toàn về an ninh công cộng, và để đạt tới mục đích ấy, có quyền trong suốt thời hạn giới nghiêm: + Xét các tư gia bất cứ giờ nào, bắt giữ các người xét có hại cho an ninh công cộng. + Cấm mọi cuộc hội họp, tụ tập có thể phương hại cho an ninh trật tự công cộng. + Hạn chế tự do báo chí, kiểm soát hệ thống phát thanh, kiểm soát phim ảnh kịch trường. + Cấm tàng trữ, lưu hành những ấn loát phẩm, tài liệu, truyền đơn xét có hại đến an ninh công cộng. Điều 4: Tất cả mọi vi phạm đến trật tự công cộng đều thuộc thẩm quyền của tòa án quân sự. Điều 5: Các bộ trưởng và tổng tham mưu trưởng liên quân chiếu nhiệm vụ, thi hành sắc lệnh này. Sắc lệnh này được công bố theo thủ tục khẩn cấp. Sài Gòn, ngày 20-8-1963 Ký tên: Ngô Đình Diệm * QUÂN LỆNH SỐ 1 CỦA QUYỀN TỔNG THAM MƯU TRƯỞNG LIÊN QUÂN QUÂN ĐỘI VIỆT NAM CỘNG HÒAChiếu sắc lệnh ngày 20-8-1963, tuyên bố tình trạng giới nghiêm trên toàn lãnh thổ Việt Nam, bắt đầu từ ngày 20-8-1963 cấm chỉ dân chúng: 1. Trong giờ giới nghiêm không được ra khỏi nhà. 2. Cấm hội họp, tụ tập có thể gây phương hại đến an ninh trật tự công cộng. 3. Không được có hành động gián tiếp hoặc trực tiếp phá rối trị an như ấn loát, lưu hành và tàng trữ mọi tài liệu báo chi truyền đơn, hình ảnh có tính cách phá hoại an ninh quốc gia. Tất cả mọi ấn loát phẩm và điện tín đều phải chịu chế độ kiểm duyệt. 4. Phải trao lại tức khắc cho cơ quan quân sự địa phương gần nhất những vũ khí đạn dược dù đã được phép mang, kể cả những vũ khí bén nhọn. 5. Mọi vi phạm một trong các điều khoản ghi trên sẽ bị truy tố trước tòa án quân sự theo thủ tục khẩn cấp KBC 4.002 20-8-1963 Trung tướng Trần Văn Đôn * LỜI KÊU GỌI ĐỒNG BÀO CỦA TIẾNG NÓI QUÂN ĐỘIKính thưa đồng bào, Đã đến lúc toàn thể mọi người phải đứng dậy đập tan những mưu mô chia rẽ của bọn người vong bổn cấu kết với phong kiến thực dân và Cộng sản làm đất nước chúng ta lâm nguy từ mấy tháng gần đây. Không lúc nào bằng lúc này, quân đội chúng tôi đang xả thân chiến đấu vì chính nghĩa, vì tự do, vì sự an ninh của đồng bào thì trong khi đó một số người ngoan cố đã giày xéo lên sự hy sinh vô bờ bến đó. Hàng chục vạn chiến sĩ đã đổ máu gục ngã ngoài chiến trường chống Cộng để bảo vệ sự sống yên vui của toàn dân, để giành giật từng thước đất tự do, để lo bồi từng niềm tin mà lẽ dĩ nhiên có cả niềm tin rộng lớn của tất cả các tôn giáo. Trong khi đó, một bọn người an nhàn đã lợi dụng che mặt bằng hình thức này hay hình thức khác làm phân tâm ly tán, cố làm những hy sinh của chiến sĩ trở nên vô nghĩa. Hơn một năm nay, chính đồng bào từ thành thị tới thôn ấp đã hăng say nỗ lực nhỏ mồ hôi hòa cùng máu chiến sĩ để xây dựng một xã hội mới, một đời sống mới trên các tiêu chuẩn công bằng bác ái và dân chủ pháp trị. Sự hy sinh đó đang tiến mạnh trên con đường chiến thắng thì thình lình bị phản bội do mưu mô của bọn Việt gian phản quốc cấu kết cùng Việt Cộng, giặc chia rẽ và giặc chậm tiến phá hoại dân tộc chúng ta. Đã từ lâu rồi, quân đội chúng tôi im lặng chịu đựng, tuân theo sự ôn hòa tột bực của chính phủ. Sự chịu đựng, câm nín đó, chính là một sự hy sinh thứ hai mà chúng tôi đã phải gánh chịu. Mặc dầu bị khiêu khích bằng mọi cách, kể cả những cách nhỏ nhen nhất như ném đá vào đầu quân đội, tuyên truyền rỉ tai để phỉ báng quân đội, vu cáo cho đồng đội chúng ta đàn áp tự do, là vô nhân cách trong khi chúng tôi chiến đấu vì tự do, vì chính họ, vì hạnh phúc của toàn dân. Bọn Việt gian phản quốc đã gây dư luận xấu xa khiến thế giới tự do, một số người nhẹ dạ, đã nghe chúng làm hại đến uy danh của dân tộc. Danh dự của quân đội bị phỉ báng. Danh dự của dân tộc bị bán đứng như vậy mà bọn chúng reo cười! Bọn chúng reo cười cả trên những cái chết thảm khốc nhất. Chúng tưởng rằng như vậy là quân đội đã thua, quân đội đã chịu hàng phục trước những mánh khoé xảo quyệt của chúng. Nhưng chiến sĩ Cộng hòa không bao giờ chịu khuất phục. Đồng bào hãy cùng chúng tôi vùng lên quyết đập tan mọi mưu mô xảo quyệt, thanh toán tận gốc rễ bọn Việt gian phá hoại. Giờ phút lịch sử đã điểm! * ĐÀ NẴNG THIẾT QUÂN LUẬT SAU KHI CÓ BIỂU TÌNH BẤT HỢP PHÁP.Đà Nẵng (VTX) 20-8. Theo thông tín viên Việt tấn xã, một cuộc biểu tình bất hợp pháp tổ chức hồi 16 giờ ngày 18-8 vừa qua đã diễu hành từ hai chùa Phổ Đà và Thị Hội qua các đường phố thị xã Đà Nẵng. Lối một nghìn người, kể cả những kẻ hiếu kỳ kéo theo sau, có mặt trong cuộc biểu tình này. Chính quyền và quân đội tỏ tinh thần thiện chí hòa giải tột bực. Chính quyền địa phương và quân đội đồn trú tại Đà Nẵng đã không ngăn trở cuộc biểu tình này vì muốn bày tỏ thiện chí hòa giải tột bực do Ngô tổng thống đã đề ra trước đây. Trung tá Trần Ngọc, Thị trưởng Đà Nẵng, đã kịp thời kêu gọi anh em binh sĩ triệt để biểu dương tinh thần kỷ luật khả dĩ tránh được mọi âm mưu phá vỡ thiện chí hòa giải của chính phủ. Nhờ đó, trật tự đã duy trì. Dân chúng vô sự, nhưng một quân dân bị thương. Phía chính phủ, xe thông tin bị đập phá, một quân dân bị thương. Phía đoàn người biểu tình, không có ai việc gì. Cuộc biểu tình đã chấm dứt hồi 18 giờ cùng ngày. * THIẾT QUÂN LUẬT.Lệnh thiết quân luật toàn thị xã Đà Nẵng đã được nhà cần quyền ban hành nội trong đêm 18-8 từ 22 giờ 30 cho đến 6 giờ sáng 19-8, nhằm bảo vệ an ninh cho dân chúng. Đặc biệt lệnh này được thi hành suốt đêm ngày kể từ 6 giờ sáng ngày 18-8 cho đến khi có một quyết định mới. * TUYÊN NGÔN CỦA CHÍNH PHỦ(21-8-1963) I- Chính sách quốc gia từ tình trạng chậm tiến, chia rẽ và chiến tranh phá hoại của Cộng sản, nhằm tạo một cách nhanh chóng những điều kiện thuận lợi nhất cho sự thực hiện tinh thần hiến pháp và thực thi dân chủ pháp trị đồng đều cho mọi người, không phân biệt giai cấp, sắc dân, hay tôn giáo, là một chính sách mà chính phủ quyết tâm theo đuổi cho đến cùng bất kể trở ngại từ đâu đến. II - Chính sách của chính phủ trong “vụ Phật giáo” nhằm cốt yếu việc thực thi chính sách quốc gia nói trên, vẫn được chính phủ theo đuổi một cách kiên nhẫn và quyết tâm hơn. Chính sự quyết tâm này đã đưa đến việc Tổng thống ban hành lệnh giới nghiêm để bẻ gãy sự cố tình phá hoại chính sách trên do một thiểu số sư tăng thuộc Tổng hội Phật giáo, và để sau đó tái lập những điều kiện thuận lợi cho sự thực thi chính sách của chính phủ, chính sách mà mọi người đều công nhận không những là hợp với lẽ phải, mà còn là dựa trên một sự kiên nhẫn tột bực. III - Chính phủ nhất định từ đây không dung túng một sự lạm dụng nào về tôn giáo với mục đích chính trị, một sự lạm dụng nào về các chùa chiền, biến nơi tôn nghiêm để cầu nguyện, suy niệm và hành đạo trở nên những trụ sở tuyên truyền phá rối, khủng bố hay âm mưu chống lại an ninh quốc gia, mọi hành động nào nhằm đầu độc những linh hồn ngây thơ, mê hoặc các tâm trí, xúi giục người khác tự hủy rồi khai thác xác chết trong 4 ngày để tổ chức mít-tinh, biểu tình chống lại an ninh quốc gia. Chính phủ, vì quyền lợi tối cao của quốc gia và vì tôn trọng Phật giáo, coi tất cả những hành vi đó là trọng tội, thứ nhất là nước đang có chiến tranh. IV - Tất cả những người bị giữ vì những biện pháp đầu tiên của lệnh giới nghiêm đều được đối xử tử tế và họ sẽ được trả lại tự do một cách nhanh chóng nếu họ sớm dứt khoát với sự lầm lẫn đạo với đời, với sự lạm dụng tôn giáo vào mục đích chính trị. V - Tất cả các cán bộ quân dân chính đều phải theo đường lối minh định trên đây. * Sài Gòn (VTX).Vì phải bảo đảm an ninh và trật tự chung của hàng triệu sinh mạng đồng bào tại đô thành. Vì quân đội đã nhiều lần kêu gọi và nhắc nhở toàn thể đồng bào hợp tác với quân đội để thi hành lệnh giới nghiêm. Vì cần phải áp dụng mọi biện pháp cứng rắn cần thiết để ngăn chặn mọi cuộc bạo động có thể đưa đến kết quả tai hại cho nền an ninh quốc nội. Vì phải cương quyết tiêu diệt mọi âm mưu khuynh đảo để tiếp tay cho bọn Cộng sản tạo điều kiện quấy rối để thôn tín quốc gia. Tổng trấn đô thành Sài Gòn thông báo lần cuối cùng: Kể từ ngày hôm nay, tất cả các lực lượng phụ trách an ninh tại đô thành như Quân đội, Bảo an, Dân vệ, Cảnh sát và Thanh niên chiến đấu đã được lệnh nổ súng vào tất cả các cuộc tụ họp, các đám biểu tình, các nhóm người bạo động vi phạm lệnh giới nghiêm tại đô thành. Đồng bào hãy bình tĩnh, sáng suốt và tích cực đề cao cảnh giác để khuyên răn, gìn giữ, và dạy dỗ các con em hầu tránh mọi vi phạm luật pháp quốc gia, có thể đưa đến hậu quả vô cùng tai hại. Sài Gòn, ngày 20-8-1963 Thiếu tướng TÔN THẤT ĐÍNH Tổng trấn đô thành Sài Gòn * Việt tấn xãSau đây là bức tâm thư gửi sinh viên, học sinh của thiếu tướng Tôn Thất Đính, Tư lệnh quân đoàn 3 kiêm Tư lệnh vùng 3 chiến thuật, kiêm Tổng trấn đô thành Sài Gòn: Trong cuộc chiến tranh cách mạng hiện nay của toàn dân chống kẻ thù chung Cộng sản; quân đội cũng như các bạn bảo an, dân vệ, thanh niên, hằng ngày phải dãi nắng dầm sương, và chịu xả thân khắp đó đây trên chiến địa để tạo thành sức mạnh chống đở quốc gia và giữ gìn biên cương lãnh thổ. Trong lúc đó, từ tiền tuyến đến hậu phương, toàn dân ai nấy đều nỗ lực hăng say để kiến thiết quốc gia, xây dựng hạnh phúc và tiêu diệt Cộng sản thì lại có một nhóm âm mưu lợi dụng sự tranh chấp về tôn giáo làm mục tiêu đấu tranh chính trị, cấu tạo tình trạng rắc rối, phân tán tiềm lực quốc gia và cản trở sự chiến đấu của quân đội mà thật ra chỉ có lợi cho Cộng sản. Ở tiền tuyến, quân địch đang tìm mọi cách áp dụng mọi hình thức chiến tranh để tiêu diệt ta mà hậu phương thì an ninh bị hăm dọa, trật tự bị xáo trộn, sinh hoạt quốc gia bị đình trệ, tạo nên tình trạng bế tắc mà dù cho nhân dân có tinh thần cao cả đến đâu, quân đội có hùng mạnh thế mấy đi nữa, cũng không thể nào đương đầu nổi với Cộng sản. Trước tình trạng đe dọa và vô cùng nguy ngập hiện nay, có thể đưa đến sự tồn vong của đất nước, chính phủ đã ban hành lệnh giới nghiêm để giao nhiệm vụ bảo vệ an ninh và duy trì trật tự lại cho quân đội, hầu tạo lại tình trạng ổn định cho toàn thể đồng bào được yên vui sinh sống. Trước hơn ai hết, các anh chị em là thành phần trí thức, là rường cột của đất nước, và tương lai và vận mệnh của quốc gia suy vong hay hưng thịnh đều tùy thuộc ở thế hệ của các anh – chị – em, gái cũng như trai. Các anh – chị – em phải suy luận kỹ càng và mạnh dạn gánh lấy nhiệm vụ lịch sử để cùng góp sức với quân đội trong công cuộc cứu quốc và kiến quốc hiện nay. Tôi không đòi hòi ở các anh chị em một việc làm khó khăn, một công tác nguy hiểm, mà chỉ mong các anh chị em nhận thức rõ ràng tình trạng nguy ngập cho đất nước mà tất cả các anh chị em đều có trách nhiệm về sự tồn vong hầu phụ giúp quân đội chóng hoàn thành nhiệm vụ vì cứu quốc. * Bản tin tức về việc Quân đội Việt Nam Cộng hòa thi hành sắc lệnh ngày 20-8-1963.Tại Sài Gòn – Thi hành Sắc lệnh ban hành tình trạng giới nghiêm của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, quân đội Việt Nam Cộng hòa đã tức khắc mở các cuộc khám xét nhiều nơi được ghi là khả nghi. Kết quả, tại chùa Ấn Quang ta đã tịch thâu được 3 trái mìn, 10 dao găm. Tại chùa Théravada, ta đã tịch thâu được 1 tiểu liên, 14 bánh plastic, radio. Tại chùa Xá Lợi, ta đã bắt gặp nhiều dụng cụ ấn loát. Cuộc khám xét chấm dứt hồi 1 giờ 30 sáng. Công cuộc duy trì an ninh trật tự trên toàn lãnh thổ đang được thi hành nghiêm chỉnh, chúng tôi sẽ lần lượt loan tin trong những bản tin đặt biệt trong ngày. Sài Gòn: Giới nghiêm từ 9 giờ tối đến 5 giờ sáng. Lưu thông trong giờ giới nghiêm phải có giấy đặc biệt. * Sài Gòn (VTX)Thiếu tướng Tôn Thất Đính, Tổng trấn Sài Gòn – Chợ Lớn kiêm tư lệnh vùng 3 chiến thuật và quân đoàn 3 vừa ra thông cáo để cho dân chúng rõ về lệnh giới nghiêm tại thủ đô như sau: Kể từ 9 giờ tối ngày 21-8-1963, lệnh giới nghiêm từ 9 giờ tối đến 5 giờ sáng được áp dụng trong phạm vi thành phố Sài Gòn – Chợ Lớn. Dân chúng cư trú trong thành phố Sài Gòn – Chợ Lớn không được ra khỏi nhà hay đi trong các đường phố trong giờ giới nghiêm mà không có giấy thông hành đặc biệt do nhà chức trách quân sự cấp phát. Người nào bị bắt gặp ngoài đường phố, trong các giờ giới nghiêm mà không có giấy thông hành kể trên sẽ bị nghiêm trị theo quân luật. Các toán tuần tiễu đã nhận được chỉ thị nổ súng vào bất cứ người nào bị bắt gặp ngoài đường phố trong những giờ giới nghiêm lẫn tránh hay chạy trốn không để toán tuần tiễu xét hỏi. * Luân về đến nhà vào 4 giờ sáng. Trong đời hoạt động của anh, đêm vừa qua đặc biệt nặng nề. Cọ xát với thực tế, anh đã có thể kết luận về điều gì nhất thiết phải xảy ra, không ngày mai cũng ngày kia. Khi đám cảnh sát dã chiến, mật vụ xông vào chùa, Luân áng ngữ ngay cửa. Anh lóe một chút hy vọng: một sĩ quan cảnh sát nào đó nhìn ra mặt anh và anh có thể đứng ra dàn xếp. Nhưng, chính Thích Đức Nghiệp và Thích Tâm Giác đã lôi anh lên cầu thang. Rõ ràng cả hai không thích cuộc tấn công chùa Xá Lợi bị chận ở ngoài sân. Tiếng kêu thét kinh hoàng bên dưới giống lưỡi dao đâm vào tim Luân. Anh vùng khỏi hai nhà sư, gọi to:- Dừng lại ngay! Tôi là... Anh không thể nói hết câu. Bây giờ, không phải hai nhà sư mà đến mấy người lực lưỡng – anh không kịp đếm – vật anh ngã, bịt miệng anh. Anh cố vùng vẫy nhưng đã bị trói tay và chính Thích Đức Nghiệp nhét vào miệng anh chiếc khăn. Họ tống anh vào một góc phòng. Trận chiến đấu vô nghĩa diễn ra trước mắt anh. Tại đây, anh chỉ quan tâm đến những cái chết, những vết thương mà anh biết không phục vụ cho cái gì cả. Chính phủ Ngô Đình Diệm ngu xuẩn đến độ dùng bạo lực đánh vào tăng ni. Và, một số người mang cái vỏ Phật giáo quyết dùng số tăng ni ấy làm vật hy sinh... Luân cố cựa quậy. Anh cởi được dây trói anh, rút chiếc khăn khỏi miệng: - Dừng lại! – Anh thét lớn. Nhưng, một thanh gỗ - anh không thể biết từ phía nào – đã nện vào gáy anh và anh ngã quỵ, thiếp luôn... - Dậy! Luân bừng tĩnh nhờ một cú đá vào lưng của một cảnh sát dã chiến. Anh bị còng tay và bị xô xuống cầu thang. Anh không nhớ đã thiếp bao lâu, nhưng bây giờ cảnh chùa Xá Lợi tan hoang, toàn bộ sư, ni, tín đồ, quần áo tả tơi, máu me đầy người, đang khó nhọc trèo lên những chiếc xe bít bùng. - Lẹ lẹ... Đồ... ! Có tiếng chửi thề. Và khi Luân nhận ra người chửi thề thì người ấy cũng nhận ra Luân. - Ủa!... Người đó là Trần Văn Tư, Giám đốc cảnh sát đô thành. Tư hốt hoảng. Ông ta vừa chập gót chân vừa quát tên cảnh sát đang lôi xểnh Luân: - Không được đụng đại tá! Tên cảnh sát ngơ gác. - Đứa nào còng đại tá? Mở còng ngay! – Tư quát, nhưng tay vẫn để trên vành kêpi. Luân không buồn đáp lễ. - Vì sao đại tá lại lọt vào đây? Luân không buồn trả lời. Anh rất muốn được theo các tăng, ni đến nơi giam giữ. Tư ra lệnh cho một cảnh sát. Luân biết Tư cho gọi bộ đàm báo cáo với ai đó. - Đại tá! Người lao đến Luân là Thạch. - Trời ơi! – Thạch kêu thảng thốt. Luân cười an ủi Thạch: - Không có chi, chú đừng quýnh... - Em bị ngăn bên ngoài, không sao vào được. Em toan đi gọi điện, nhưng an ninh quân đội đã buộc em bất động trên xe. - Thạch hổn hển phân trần, y như việc vừa xảy ra với Luân là do lỗi của anh ta. - Trình đại tá, ông cố vấn muốn nói chuyện với đại tá! – Trần Văn Tư báo cáo. Luân nghiêng đầu nhìn viên chỉ huy cảnh sát thành phố, bước ra cổng chùa – không phải đến máy bộ đàm nói chuyện với Nhu mà lên xe về nhà. - Còn gì để nói? – Luân lẩm nhẩm. Dung thức trắng canh chờ chồng. Cô khóc òa khi Luân xuất hiện ở cửa.
__________________
![]() |
#2
|
||||
|
||||
![]() Ván Bài Lật Ngửa Phần 7 - Chương 9 Người đến chia buồn đầu tiên với Luân sau cái đêm hãi hùng ở chùa Xá Lợi là Trần Kim Tuyến. Thoạt nghe Thạch báo Tuyến xin gặp Luân, Luân và Dung hơi ngờ ngợ. Lẽ nào gã trùm mật vụ này dám vác mặt gặp Luân khi sự biến đẫm máu ở chùa Xá Lợi là công trình mà nếu gã không vạch kế hoạch và chỉ huy thì cũng đồng tình. Nhu định qua Trần Kim Tuyến, bày thêm trò gì với Luân đây? Luân là một nhân chứng và Nhu chắc chắn không thích thú về những nhân chứng cỡ Luân. Sáng nay, Luân điện đàm với Nhu. Anh quyết định không nói chuyện với Nhu song chính Nhu gọi anh. Anh tóm tắt những gì anh thấy và bản thân là nạn nhân của trận càn quét hung bạo chưa từng có vào chùa chiền. Luân không dấu sự bực dọc và phê phán nặng lời hành động của chính phủ. Anh đã dùng cả từ “ngu xuẩn”, “man rợ” để chỉ vụ chùa Xá Lợi. Nhu trước sau im lặng. Câu hỏi duy nhất của anh ta liên quan đến sức khỏe của Luân rồi gác máy, lẩn tránh tranh luận. Bây giờ, Trần Kim Tuyến đến. - Ít nhất hắn cũng sẽ báo cho anh hay một chân tùy viên quân sự tại một sứ quán nào đó đang chờ anh, trong vòng 24 giờ nữa... - Luân bảo Dung. - Có thể xấu hơn không? Luân cười siết vợ vào ngực: - Không... Bởi vì nếu Nhu định một biện pháp tồi tệ với chúng ta thì bác sĩ Trần Kim Tuyến không cần đến đây. Một vụ chùa Xá Lợi kiểu “bỏ túi” sẽ diễn ra, có khi cả vào ban ngày! Thằng Lý thức giấc, nhoẻn miệng cười – nó cười tiếp với một bà tiên nó gặp trong giấc ngủ. Luân cúi hôn con và hôn Dung. Bác sĩ Trần Kim Tuyến đợi Luân ở phòng khách. Vẻ mặt bồn chồn của vị bác sĩ đứng đầu cơ quan mật vụ khiến Luân rút liền nhận xét: Anh đoán sai. Và, anh đoán sai thật. - Tôi đến chào từ biệt ông bà kỹ sư... - Tuyến bắt tay Luân giọng rầu rầu. - Thế nào? – Luân kinh ngạc đến sững sờ. - Đây, ông kỹ sư đọc thì rõ. Tuyến chìa cho Luân tờ giấy đánh máy: “Nay bổ nhiệm bác sĩ Trần Kim Tuyến làm Tổng lãnh sự Việt Nam Cộng hòa tại nước Cộng hòa Ả Rập thống nhất (Ai Cập)”. Diệm ký quyết định, đề ngày 21-8, tức là hôm nay. Luân hoàn toàn không hiểu, thậm chí chưa bao giờ nghĩ đến khả năng kỳ cục như vậy. - Bác sĩ từ chức Giám đốc Sở Nghiên cứu chính trị. Tôi chưa nghe và cũng không thấy anh Nhu dự định, việc này... - Tôi không từ chức. Tổng thống chấm dứt nhiệm vụ của tôi vào tối hôm qua. - Tại sao? - Ông Nhu giải thích: Tôi bị giới Phật giáo và cả người Mỹ buộc cho nhiều tội, tôi phải rời Sài Gòn. Giọng Tuyến càng ngao ngán: - Một Tổng lãnh sự mà phải rời thủ đô trong vòng 48 tiếng đồng hồ... Và, không cần biết chính phủ Le Caire chấp nhận hay không! Lối “thí tốt” của ông Nhu thật tàn nhẫn... Tôi còn quá ít thì giờ nên gặp ông kỹ sư. Tôi muốn trao đổi vài việc hệ trọng với ông... Tuyến ngó quanh. Phòng khách chỉ có hai người. Luân cố suy đoán. Cử chỉ của Tuyến đặt cho Luân nhiều câu hỏi và câu hỏi quan trọng hơn cả là liệu Nhu và Tuyến đẩy anh vào cái bẫy rập gì. Tới giờ này, dù Tuyến cầm công lệnh đi làm Tổng lãnh sự - với Tuyến, một cuộc lưu đầy – Luân vẫn chưa thể nhẹ dạ tách hai người riêng lẻ. Trong đảng Cần Lao, Tuyến giữ ngôi thứ chỉ sau Nhu và Luân; còn trong quân đội, Tuyến – không mang quân hàm – là nhân vật quan trọng số hai của đảng: Phó quân ủy trung ương mà Luân chỉ là ủy viên. Từ năm 1955 cho đến nay, Nhu và Tuyến gắn bó như hình với bóng. Ý kiến của Nhu phải qua bàn tay của Tuyến mới trở thành hành động. Tuyến thuộc hạng ít nói, ít xuất hiện chính thức, song bộ máy mật vụ đầy quyền lực của Tuyến ám ảnh mọi nhân vật, kể cả nhân vật quan trọng. Chỉ cần một vài chữ nguệch ngoạc của Tuyến, mạng sống của bất kỳ ai đều được định đoạt trong nháy mắt. Tuyến khử hàng nghìn đối thủ của gia đình Diệm – Nhu bằng đủ biện pháp, chung lại là ám sát, còn cách thức thì muôn hình trạng, từ thuốc độc, bắn, đánh chết, chặt đầu đến cho cọp xé ở P.42. Hai hung thần ấy đâu dễ phân hóa, nhất là vào lúc chế độ nhà Ngô giống “nghìn cân treo sợi tóc” như hiện nay? Tuyến chẳng khó gì mà không hiểu sự hoài nghi của Luân. Môi của tay trùm mật vụ nhếch cười chua chát, đôi mắt sau kiếng cận bừng lên ánh oán độc – không phải với anh Luân, rõ rồi. - Ông kỹ sư chưa tin tôi... Và cũng khó tin thật. Không ai tin. Luôn tôi, tôi không tin sẽ có ngày này... - Tuyến nói, đều đều. - Tôi phải rời đất nước, nếu không, sẽ là nạn nhân của chính bộ máy do tôi xây dựng. Sở Nghiên cứu chính trị bị thủ tiêu... Ông kỹ sư không biết sao? Luân không biết. Tuyến chìa cho Luân một tờ giấy khác, cũng do Diệm ký, quyết định giải tán Sở nghiên cứu chính trị, với lý do “không cần thiết nữa”. Quyết định ký ngày hôm qua và ghi rõ “gửi các báo”. Luân chưa đọc báo hôm nay. - Báo đăng cả tin tôi được bổ Tổng lãnh sự. Mọi việc đã công khai hóa. Quân ủy cho phép tôi thôi nhiệm vụ. Ban chấp hành đảng cho phép tôi rút ra khỏi Trung ương... Tôi sụp đổ trước khi chế độ sụp đổ... Thế mà Luân mù tịt. Nhu không bàn với anh một lời dù anh không phải là hạng “chạy hiệu” trong Trung ương Cần Lao. Giữa lúc anh rơi vào thế trận hỗn độn tại chùa Xá Lợi thì Nhu quyết định một loạt chủ trương. Như vậy – Luân nghĩ – không chỉ có anh lãnh một gậy vào gáy mà còn Tuyến. Anh trỗi dậy nổi, Tuyến phải đội nón ra đi. Trong trường hợp này, rõ ràng Nhu như con bệnh tiến gần đến chỗ hôn mê. Anh ta không đủ sáng suốt. Anh ta sợ Tuyến, sợ một kẻ rành nội bộ triều đình nhà Ngô như rành những sợi chỉ trong lòng bàn tay Tuyến. Bao giờ thì đến lượt Luân? Không! Nhu kiệt sức rồi, không thể cho anh đo ván, dù muốn chăng nữa. Tuyến hăng lên – hiện tượng hiếm có – cắt dòng suy nghĩ miên man của Luân: - Tôi tha thiết với công lao của chúng ta – ông Nhu, ông kỹ sư, tôi... Tôi không muốn thấy công lao ấy thành làn khói. Cái gì sẽ xảy ra nếu một cuộc đảo chính do ai đó chủ xướng và, nói thật, tôi không sợ sinh mệnh mình bị đe dọa mà đau lòng vì bước đường chống Cộng của chúng ta đi chưa trọn... Một cuộc đảo chính! Tuyến nhấn mạnh “Một cuộc đảo chính” và dừng ngay đó. Luân hoàn toàn ý thức về một cuộc đảo chính khó tránh khỏi, ngày mai, ngày kia... Chế độ thúc đẩy đảo chính – đã như cơn dịch từ khi Nguyễn Chánh Thi đánh vào dinh Độc Lập – gấp rút chín muồi. Giờ thì khả năng đảo chính nhều hơn bất kỳ thời gian nào trước đây, có vẻ ai cũng có thể đảo chính, chứ không riêng gì lính Dù. Lực lượng đảo chính sẽ được dân chúng và giới Phật giáo coi như anh hùng cứu dân khỏi ách đàn áp khủng khiếp. Người Mỹ, với thói quen dùng đảo chính để răn dạy tay sai, không đời nào bỏ qua cơ hội. So với lúc Nguyễn Chánh Thi, ngày nay người Mỹ dấn sâu vào Nam Việt, nắm trong tay cả chiếc mũi của ông Diệm, nếu thấy cần thì bóp... Luân và Tuyến không nói, mỗi người theo đuổi suy nghĩ riêng của mình. Đã có thể kết luận được: Tuyến không làm trò cò mồi rẻ tiền cho Nhu. Hắn đang bất mãn – Luân nhủ thầm. - Một cuộc đảo chính! – Tuyến nhắc lại, chấm dứt những phút im lặng nặng nề - Tôi không thích kẻ khác làm cuộc đảo chính ấy. Tại sao không phải chúng ta? Chúng ta không thiếu lực lượng... Tuyến đi thẳng vào lý do mà ông đến gặp Luân. - Một cuộc đảo chính? – Luân hỏi gặng, trong khi trong đầu óc anh lóe lên một loạt phương án hành động. - Đúng, một cuộc đảo chính và đó là tình hình không thể khác. Chúng ta buộc phải lựa chọn, bởi vì đảo chính nhất thiết sẽ nổ ra: hoặc những tên dùng đảo chính để quét tất cả công sức của chúng ta hoặc chúng ta đảo chính để giữ và đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp mà chúng ta gắn bó bằng mạng sống... Ông Diệm, ông Nhu đã tỏ rõ thiếu năng khiếu chính trị, bất tài, thất đức. Phải thay thế nguyên thủ quốc gia. Và chỉ thay thế nguyên thủ quốc gia mà thôi... - Ai sẽ thay thế? – Luân hỏi nghiêm túc, Tuyến nhận thấy người đối thoại quan tâm đến vấn đề mà ông ta đặt. - Trước mắt, không thể không là một quân nhân. Một quân nhân được các tướng lĩnh nghe theo đồng thời người Mỹ cũng chấp thuận... - Còn về lâu về dài? - Ông kỹ sư thừa biết tướng lĩnh không cai trị được. Người cai trị phải đủ điều kiện chính trị... - Tuyến lập lờ. - Bác sĩ nên nói thẳng. Tôi không thích úp mở. - Luân nói hơi cau mày. - Với ông kỹ sư, không có gì gọi là bí mật trong quan hệ giữa ông và tôi. – Tuyến mau miệng – Người có đủ điều kiện chính trị hiện thời, theo tôi và theo một số đông bạn Mỹ mà tôi tiếp xúc, là ông! - Tôi? – Luân cười mỉm. - Tôi nói với trách nhiệm... Phải, ông! Đại sứ Mỹ vừa nhận chức nói thẳng với tôi như vậy. Luân chợt nhớ lần trao đổi với Nhu, cách đây bảy, tám năm. Kiểu “luận anh hùng” của Trần Kim Tuyến đưa Luân lên mây xanh và trong bài toán của hắn, Luân chẳng qua cũng chỉ là một chất độn. - Tôi nghĩ hơi khác. – Luân tiếp tục cười mỉm – Người có thể gánh vác trọng trách quốc gia hiện thời phải là bác sĩ. Tôi nói với tinh thần trách nhiệm. Tôi tự biết năng lực của mình... - Ông kỹ sư khiêm tốn quá... Dĩ nhiên, tôi và nhiều người khác sẽ hết lòng cộng tác với ông kỹ sư... Ông kỹ sư là cái gạch nối quý giá giữa các thế lực, đảng Cần Lao và số cán bộ của ông Diệm, ông Nhu dễ dàng chấp nhận ông kỹ sư, người Mỹ thì dứt khoát rồi, giới Phật giáo không chống ông, các tướng lĩnh tin cậy ông... Sau đảo chính, ông kỹ sư sẽ nhận một trọng trách dân sự, tỷ như thủ tướng và sau đó, chúng ta lần lần điều chỉnh... Tuyến nói y như ông ta là một phù thủy, tự bày binh bố trận. Tuy nhiên, Luân hiểu rằng Tuyến nuôi nấng ý định này từ lâu và đã xếp tới xếp lui nhiều lần các quân cờ, với sự gợi ý và tham gia của nhóm người Mỹ nào đó. - Giả tỷ như điều ông nói là tất yếu xảy ra, số phận ông Diệm, ông Nhu ra sao? – Luân hỏi. - Thiếu chi cách! – Tuyến nhún vai – Chủ tịch hội đồng cố vấn tối cao, nếu ông ta ở lại. Sang Pháp hoặc Mỹ đều trị bệnh gì đó. Tôi nói ông Diệm. Còn ông Nhu, đành phải lưu vong cùng bà vợ thôi! - Tại sao bác sĩ thố lộ tất cả các cơ mật như vậy với tôi? – Luân hỏi đột ngột. - Tôi chờ câu hỏi này của ông kỹ sư... Ông Diệm, ông Nhu hiểu ông có chừng mực. Tôi thì khác, tôi hiểu... Nói bấy nhiêu, có lẽ ông kỹ sư hết thắc mắc. – Tuyến đáp lại, rất bình tĩnh. Tuyến bủa một cái lưới bí hiểm quanh Luân. Hắn hiểu mình như thế nào? Thằng cha láu cá thật... - Tôi chưa hết thắc mắc, trái lại, thắc mắc thêm. Tôi và ông bác sĩ là yếu nhân của đảng Cần Lao cả hai đều có chân trong quân ủy... - Đúng vậy! – Tuyến ngắt lời Luân – Ông cùng Nhu kiến tạo chủ thuyết Cần Lao. Hơn nữa, ông là con nuôi của Giám mục Ngô Đình Thục... Song... Tuyến ngừng lại, ngó Luân. Đôi mắt của ông ta không có vẻ gì cận, linh hoạt hẳn. Luân không tránh, anh cũng ngó thẳng Tuyến. Chừng năm giây chậm chạp trôi qua. - Song, ông từng đi kháng chiến, có đầu óc Quốc gia thực sự, không chấp nhận một chế độ độc tài. Ông không bán linh hồn cho ông Diệm, ông Nhu mà có chủ kiến riêng... Luân chưa thể thở phào. Thằng cha láu cá này đưa dẫn Luân đến đâu? - Tôi là mật vụ. Tôi theo dõi ông. Ông Nhu bảo tôi theo dõi ông về một hướng khác, tôi cần hiểu ông về hướng khác. Những ngày đầu ông về thành, tôi đặt máy ghi âm, bắt song đôi điện thoại, bố trí tài xế Vũ Huy Lục theo ông và nhiều cách khác, chắc ông chả lạ gì. Và, tôi nói thật, không phải tôi không nắm trong tay một số bằng chứng mà tôi tin là ông không chối cãi nổi về những dính dáng của ông với phía bên kia... Trường hợp Vũ Huy Lục, chẳng hạn! Vũ Huy Lục không chết mà đã gặp ông – nơi gặp thì tôi không rõ song ông ngồi trên xe Lục lái, tôi có ảnh! Luân như nghẹt thở. Khủng khiếp quá. Trong một thoáng, anh nghĩ phải bắn chết ngay tên trùm mật vụ này. Tuyến có vẻ chẳng để ý đến phản ứng của Luân, nói tiếp, giọng đều đều: - Không chỉ vụ Lục, tôi hoài nghi khi ông tổ chức tự vệ Bình Dương, xử lý nhiều trường hợp ở Kiến Hòa và tôi biết chắc – tiếc là không có bằng chứng – ông quan hệ với một phụ nữ tên Mai, người đứng đằng sau trận ném bom dinh Độc Lập năm ngoái. Tôi không nói việc ông tiếp đại úy Phan Lạc và giúp gã vượt biên giới – ông khôn ngoan nhờ ông Nhu cho phép gã vượt biên giới một cách công khai, có đủ lý lẽ. Phan Lạc cùng một số sĩ quan Cộng hòa đã liên minh với Việt Cộng. Hôm nay, khi tôi định bàn với ông chuyện lớn của đất nước thì không cần giấu giếm: tôi từng định “khử” ông. Thời gian cho phép tôi cộng một loạt hiện tượng về ông và tại sao tôi để cho ông sống? Đơn giản thôi, chỉ cần tôi báo cho tất cả nghi vấn cùng vài bằng chứng với ông Nhu, ông sẽ nằm dưới P.42... Nhưng đó đâu phải là chuyện của tôi? Nói thật chính xác, từ trước vụ ném bom dinh Độc Lập, tôi chưa hội đủ tài liệu về ông. Lúc đó, nếu tôi hiểu về ông như sau này thì nhất định tôi đã ra tay. Lúc đó, tôi không như từ đó về sau... Từ đó về sau, tôi thay đổi. Tôi không thích chết chùm cùng gia đình ông Diệm, không thích chết mà mang tiếng xuẩn ngốc. Tôi bắt đầu phân tích về ông và vỡ lẽ rằng, ông giác ngộ sớm hơn tôi. Ông sửa soạn khá kỹ, không phải phao để tự cứu lúc đắm đó, mà cả một phương lực khả dĩ tạo vị thế mới cho Việt Nam Cộng hòa... Ông giữ liên lạc với phía bên kia vừa mức khiến họ ảo giác về ông, ông tham gia nhiệt liệt vào chế độ ông Diệm mà vẫn giữ khoảng cách trước công luận, ông xây dựng lực lượng, ông tiếp xúc với người Mỹ mà không lọt vào cái thòng lọng CIA, ông giữ cảm tình với phái trung lập thân Pháp cả với Sihanouk... Tóm tắt, ông là một con người chiến lược, nhìn xa, tính rộng. Ngay việc ông lưu ân tình với Lại Văn Sang cho thấy, không phải bây giờ như tôi, mà từ khi hợp tác với chế độ, ông đã “phân thế”, dự kiến... Tôi hiểu ông như vậy. Tôi đảm bảo rằng người Mỹ cũng hiểu ông như vậy... Luân cố qua lời nói, nét mặt của Tuyến để đo độ thành thật của hắn. - Tôi và ông, nếu còn chỗ chưa đồng nhất thì chỗ đó là thời gian xử sự. - Tuyến nói tiếp – Tôi thấy không thể chần chờ. Đảo chính là cái không sao tránh khỏi, vấn đề sống chết đối với chúng ta không phải có đảo chính hay không mà ai đảo chính. Ai đảo chính có lợi nhất? Đảng Cần Lao đảo chính là có lợi nhất... Giáo sư Fishell nghiên về hướng đó. Ông kinh ngạc về Nolting? Nolting nói riêng với tôi sau khi chia tay. Ông ta tuy vẫn luyến tiếc những lần đi lại với Trần Lệ Xuân song không mù quáng. Tôi hỏi ông ấy: Đã ướm thử đại tá Luân chưa? Ông ấy nhún vai: Đại tá Luân sẽ nổi giận. Nolting vừa rời nước ta mấy hôm nhưng tôi tin là ông kỹ sư không nổi giận. Mọi tệ hại đã phơi bày. Tình hình đòi chúng ta hành động... * Đúng, tình hình bao quát của miền Nam Việt Nam vụt qua trong trí Luân. Cái “có lợi nhất” của Tuyến và của Luân không giống nhau. Nhưng Tuyến rất đúng khi nhấn mạnh rằng “đảo chính là không tránh khỏi”. Ngày càng lộ rõ những dấu hiệu đảo chính. Về cơ bản, mọi đổi thay bộ máy chính trị ở miền Nam đều phải có ý kiến của Mỹ. Tuy nhiên, Luân đánh giá ảnh hưởng của Mỹ còn mức độ - chưa hoàn toàn chi phối mọi ngóc ngách của tình thế và chưa nắm tuyệt đối mọi lực lượng chống Diệm. Bàn tay CIA thọc khá sâu vào các lĩnh vực nhưng có sự có mặt chưa đến hai chục nghìn sĩ quan và binh lính Mỹ còn mỏng để Mỹ giựt dây – kẻ lãnh dollar Mỹ và sẵn sàng làm bất cứ điều bại hoại nào, lại hoặc giữ vị trí khiêm tốn trong chế độ Diệm, hoặc chỉ như con rối, hò hét các khẩu hiệu mà không có thực lực: kẻ tuy đi với Mỹ mà lòng vẫn vương vấn Pháp, số này thật sự nắm binh quyền; kẻ đáng ngờ về những dính dáng với Cộng sản kể cả dưới hình thức tình cảm bè bạn, gia tộc... Cuộc chống đối giới Phật giáo cung cấp cho Mỹ cơ hội nghìn vàng. Song CIA thừa biết, tay sai của chúng chỉ là số ít. Trong lần James Casey gặp anh gần đây nhất, anh hiểu Mỹ không phải đắn đo mặc dù chế độ Diệm sống nhờ dollar Mỹ, cắt đứt viện trợ kinh tế tức bóp mũi Diệm, song Diệm sẽ giãy giụa, rất không có lợi cho Mỹ.- Đại tá nhìn phong trào Phật giáo hiện nay như thế nào? – James Casey hỏi Luân, và không đợi Luân trả lời, y nói luôn – Tôi rất ngại Phật giáo đi chệch con đường mà họ chọn... Con đường đòi hỏi bình đẳng tôn giáo. Khá nhiều nhà sư tán thành – tán thành kín đáo thôi – Mặt trận Giải phóng. Chiều hướng có thể xấu nếu các nhà sư ấy giữ vai trò chi phối phong trào giáo hội, họ khá đông và uy tín lớn. Tôi có đủ tài liệu về nhà sư Thích Quảng Đức, ông ta là một phần tử ít nhất cũng không chống Cộng. Tôi cũng có đủ tài liệu về nhà sư Thích Thiện Hoa, Thích Thiện Hòa, Thích Trí Tịnh, bà Huỳnh Liên v.v... Những nhà sư này được ông Thích Tịnh Khiết, ông Thích Đôn Hậu và các ông lãnh đạo tinh thần cao cấp của Phật giáo trọng vọng... Luân xen vào: - Còn các ông Thích Tâm Châu, Thích Đức Nghiệp, Lâm Em, Thích Tâm Giác, Thích Nhất Hạnh, Thích Huyền Quang... - Ôi chà! – James Casey xua tay – Nếu kể hạng đó thì quá số cần thiết! Tôi nói chuyện nghiêm chỉnh với đại tá. Ngay Thích Hộ Giác, tôi mách riêng với đại tá, bố ông ta là một thủ lĩnh Phật giáo tên Thiện Luật, thân Cộng ra mặt! Một biến động xuất phát từ sự chống đối của Phật giáo rất dễ trở thành liên minh giữa tín đồ, các nhà sư đầu óc quốc gia với Việt Cộng. Tôi không thổi phồng nguy cơ đâu... James Casey thuyết phục Luân nên tìm cách tác động Diệm, Nhu sửa soạn nhanh đường lối chính trị, James Casey thừa nhận Mỹ còn do dự vì thế lực của Mỹ trong Phật giáo chưa đủ liều lượng cho một đột biến. Cũng như Trần Kim Tuyến, Luân băn khoăn về cái nút: ai đảo chính. “Ai đảo chính” sẽ quyết định bước phát triển sắp tới của miền Nam. Luân nhớ một tài liệu mật do anh Sáu Đăng gửi vào. Tài liệu mật đó là bức điện của đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn gửi Ngoại trưởng Mỹ Dean Rusk đề ngày 12-5-1961, sau chuyến Phó tổng thống Mỹ L.B. Johnson thăm Sài Gòn: “Tướng Mac Garr và tôi có mặt tại các cuộc thảo luận giữa Diệm và Phó tổng tống về việc đưa các lực lượng Mỹ vào Việt Nam. Diệm nói với Phó tổng thống rằng hắn ta không muốn quân chiến đấu Mỹ đánh nhau ở Nam Việt trừ phi miền Bắc công khai vượt vĩ tuyến 17”. Một tài liệu mật khác – cũng của anh Sáu Đăng – là báo cáo của Johnson gửi Kennedy, có đoạn: “Việt Nam giữ vai trò quyết định cơ bản tình hình Đông Nam Á trong thời điểm hiện nay và chưa ai đoán đến bao giờ thì vai trò đó sẽ giảm nhẹ. Chúng ta phải quyết định hoặc giúp đỡ các nước Đông Nam Á hết khả năng của chúng ta hoặc chịu thua ở khu vực này, kéo lùi đường phòng thủ của chúng ta về tận San Francisco và với khái niệm “nước Mỹ phòng ngự”. Quan trọng hơn, chúng ta sẽ nói với thế giới rằng đừng trông cậy ở chúng ta như họ từng trông cậy vào lúc Triều Tiên... ” Nolting đã làm công việc gây sức ép, qua cả Lệ Xuân. Sự việc này thì Luân nắm chắc. Do đó ngày 13-10-1961, Diệm miễn cưỡng yêu cầu Mỹ gửi thêm lực lượng chiến đấu vào miền Nam. Diệm và Nolting thống nhất: lực lượng có giới hạn dưới một vạn và phải đưa vào hết sức bí mật. Robert, Mac Namara, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ và tướng Taylor, cố vấn quân sự của Tổng thống Mỹ đến Sài Gòn, kết quả là Taylor đề nghị gửi ngay, dưới danh nghĩa “cứu trợ nạn lụt” ở Trung phần Nam Việt từ 8.000 đến 10.000 quân Mỹ, tất cả đặt dưới sự quản lý và điều khiển của CIA. Cửa đột phá đã mở. Đến nay, 18.000 quân Mỹ có mặt ở Nam Việt, mặc dù như tin tình báo Mỹ mà Luân nắm, Nolting thẳng thừng bác con số quân Mỹ quá lớn đó và ngay trong Nhà Trắng, Roger Hillsman cũng phản đối Kennedy cho rằng “cần cứu Diệm” bằng cách đưa quân Mỹ vào Nam Việt. Bạn thân của Kenendy, đại sứ Mỹ tại Ấn Độ John Kenneth Galbraith không tán thành Mỹ tiếp tục ủng hộ Diệm. Helen Fanfani đã hé cho Luân biết tin này: Galbraith cho rằng Diệm là tên độc tài non choẹt, cùng với em trai điều khiển công việc Nhà nước bằng cảnh sát, thích củng cố quyền lực gia đình hơn là theo đuổi lý tưởng Quốc gia và giải pháp tốt nhất là loại Diệm. Kennedy đã nghĩ đến khả năng cử Galbraith hội đàm với chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa song Dean Rusk lại tin là tình hình chưa xấu đến như vậy. Mac Namara và Taylor lại được Kennedy cử sang Sài Gòn. Luân chẳng rõ hai người đã phúc trình như thế nào với Kennedy nhưng Fanfani cho anh biết rằng cả hai đều bi quan... - Tôi đoán Tổng thống Mỹ đã tiến hành nhiều phiên họp thu hẹp của Hội đồng an ninh quốc gia để bàn việc thanh toán ông Diệm. – Trần Kim Tuyến nói – Cơ sở cho phép Mỹ định các biện pháp là lời hứa của một số nhà sư. Tôi có tài liệu: Thích Tâm Châu hứa nếu Mỹ lật ông Diệm thì Mỹ có thể đưa bao nhiêu quân vào Việt Nam tùy ý. Cũng theo Thích Tâm Châu, sau khi ông Diệm bị lật có khả năng Mỹ không cần thêm quân: một chính phủ được lòng dân đảm bảo công cuộc chống Cộng tiến triển tốt đẹp, thậm chí các đồng chí của Thích Tâm Châu đảm bảo “Bắc tiến”... Ta phải tranh thủ hành động nhanh hơn các thế lực khác. Tướng Big Minh còn nghiêng ngả. Tướng Tôn Thất Đính tuy bảo vệ ông Diệm song nếu lực lượng của ta hành động, ông ấy sẽ nhập bọn thôi... Rất tiếc, tôi phải rời Sài Gòn. Tôi bày tâm sự với đại tá vì tôi chưa bao giờ xét lầm người. Đại tá thay tôi nắm các đầu mối và tùy nghi hành sự. Tôi bí mật trú tại Băng Cốc và giữ liên lạc chặt với đại tá... - Đồng thời, giữ liên lạc chặt với Phân cục tình báo Mỹ. - Luân bổ sung, hơi cười. - Tất nhiên! – Tuyến mau lẹ xác nhận – Đại tá thừa hiểu nếu người Mỹ không ôkê thì chớ hòng có một cải cách nhỏ, đừng nói đảo chính. Người Mỹ không ôkê, không có Nguyễn Chánh Thi, không có Nguyễn Văn Cử và cũng không có nốt Thích Tâm Châu... - Người Mỹ? – Luân châm biếm – Đến mấy “người Mỹ”? Đến mấy CIA? - Cánh Fishell mạnh nhất thế giới hiện nay! - Chưa chắc! Tôi rất ngại Cabot Lodge. Ông ta không ưa Fishell... - Sau lưng Fishell là Mac Namara! - Sau lưng Cabot Lodge là Kennedy! Và, tôi nghĩ còn một nhân vật nữa mà bác sĩ không nhắc, một nhân vật người Việt Nam thèm đảo chính hơn tất cả... - Đại tá muốn nói Mai Hữu Xuân? Không sợ! Gã chẳng có lực lượng. Phòng Nhì Pháp không đủ lực lượng... - Ông bác sĩ! Nếu trong tính toán của ông có chỗ nào chưa ổn thì chỗ đó là Mai Hữu Xuân... - Thôi được, tôi sẽ bổ cứu sau... Tôi ít thì giờ quá. Ta hãy đi vào kế hoạch cụ thể... Trần Kim Tuyến thấp giọng. * Sau khi tân đại sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge đến Sài Gòn, một tuần lễ sau buổi tiễn đưa lưu luyến cựu đại sứ Nolting tại Phủ tổng thống, tình hình thủ đô Nam Việt như sợi dây đàn lên thật căng. Ngay trong vụ Xá Lợi, gần sáng, Ngô Đình Diệm triệu tập hội đồng chính phủ để thông báo quyết định của cá nhân ông ban hành lệnh giới nghiêm trên toàn lãnh thổ, giao quân đội giữ an ninh trật tự. Người phản đối tổng thống là Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu. Ông Mẫu trình bày vắn tắt quan điểm của ông: hành động vũ lực của chính phủ sẽ khiến cái hố ngăn cách giữa chính phủ và Phật giáo càng thêm sâu. Không phải không có người nghĩ như ông Mẫu, song chẳng ai dám hó hé: Tổng thống đằng đằng sát khí. Ông Mẫu trình với Tổng thống: ông xin từ chức để cá nhân ông không dính đến, theo ông, một “sai lầm chết người”. Người ta chờ một sự trừng phạt sấm sét của ông Ngô Đình Diệm. Diệm tái mặt, ngó trừng trừng Vũ Văn Mẫu – điều rất khác thường đối với Diệm; ông ta ít ngó thẳng mặt người đối thoại. Nhưng, Diệm chỉ nói: Tôi đồng ý nhưng giáo sư phải xử lý Bộ Ngoại giao một lúc, chúng tôi bổ nhiệm người thay. Hẳn không vì Diệm sợ Mẫu, song với một nhân sĩ từng cộng tác với chế độ bảy, tám năm trời, Diệm thấy không tiện đối xử thô bạo.Do vậy, khi Mai Hữu Xuân, bao giờ cũng rất thính mũi trước các sự kiện, mới 6 giờ sáng, xin gặp riêng Diệm – và được Diệm cho gặp – đã cung cấp nhiều tài liệu về Vũ Văn Mẫu, Diệm không nghe. Xuân báo với Diệm: Vũ Văn Mẫu là bạn cột chèo với luật sư Hoàng Quốc Tân mà Tân là cán bộ Cộng sản. Diệm hỏi lại: Thế, trường hợp nào ông sẽ bảo với tôi ông Tân là con cháu Hoàng Trọng Phu, Hoàng Cao Khải? Ông nên nhớ luật sư Trần Văn Chương là thông gia với chúng tôi... Sáng hôm sau, Vũ Văn Mẫu xuống tóc, bày tỏ cái thái độ đứng về phía Phật giáo. Ngày hôm sau nữa, đại sứ Trần Văn Chương bị Diệm chấm dứt nhiệm vụ tại Washington. Phi cảng Tân Sơn Nhất, do lệnh giới nghiêm, ngừng hoạt động. Tuy nhiên, chuyến máy bay chở đại sứ Cabot Lodge đã phá cả lệnh giới nghiêm ấy. Các nhà báo, phần lớn Mỹ và nước ngoài – chực khai thác vài lời của đại sứ - nhưng Cabot Lodge, không cười, nói cộc lốc: Không có gì để tuyên bố! Chế độ Sài Gòn đón tân đại sứ bằng một loạt biện pháp mà qua chúng, ai cũng hiểu Diệm muốn nhắn với Mỹ: Sài Gòn không nhượng bộ Phật giáo – nên hiểu là không nhượng bộ sức ép của Mỹ, Bộ giáo dục đóng cửa tất cả các trường học kể từ 24-8. Ngày 29-8, hằng mấy vạn học sinh sinh viên biểu tình phản đối lệnh đóng cửa trường học, khi tập trung tại bùng binh chợ Bến Thành thì cảnh sát vũ trang xông vào giải tán. Một trận chiến bùng nổ - bùng nổ dữ dội. Học sinh, sinh viên dùng đá, gậy chống lại dùi cui. Nữ sinh Quách Thị Trang bị cảnh sát đâm chết. Gần 2.000 học sinh, sinh viên bị bắt, đưa thẳng lên Quán Tre, trại huấn luyện này biến thành nhà tù khổng lồ mà cai tù là tướng Trần Tử Oai – ông ta bắt số học sinh sinh viên phơi nắng, phơi mưa, nhịn đói theo chỉ thị trực tiếp của Nhu. Buổi trình ủy nhiệm thư của Cabot Lodge ở Phủ tổng thống trùng với lễ cầu siêu cho Quách Thị Trang ở khắp các chùa. Sau phần nghi thức, Diệm và Cabot Lodge trao đổi ý kiến. Diệm chờ Cabot Lodge phàn nàn trút cơn giận dữ lên chính phủ Mỹ, nhưng Cabot Lodge hoàn toàn giữ buổi trình ủy nhiệm thư trong khuôn khổ xã giao. Ông ta chuyển đến tổng thống Nam Việt lời chào và chúc sức khỏe của Tổng thống Mỹ. Diệm cũng làm như vậy, thêm vài câu chúc tân đại sứ đóng góp hữu hiệu vào mối quan hệ thân hữu giữa hai quốc gia. Điều duy nhất mà Diệm nhắc là ông ta mong Cabot Lodge tận tụy và khách quan như cựu đại sứ Nolting. Đáp lại, cũng là điều duy nhất mà Cabot Lodge gợi ý là chính phủ Việt Nam Cộng hòa nên “thắt chặt khối đoàn kết quốc dân chung quanh Tổng thống”. Chẳng rõ có phải vì gợi ý của Tổng thống hay không mà mấy hôm sau, báo chí đưa tin Ngô Đình Diệm viếng một ngôi chùa ở Phú Nhuận. Cử chỉ rất tượng trưng này của Diệm lọt tỏm giữa một tràng biến cố ồn ào: Vương quốc Cambốt tuyên bố đoạn giao với Việt Nam Cộng hòa; Vũ Văn Mẫu hành hương sang sứ Phật Ấn Độ, chùa Xá Lợi được giải tỏa nhưng chính phủ cử một ban quản trị mới thuộc Hội phật học Nam Việt giữ chùa. Tổng trấn Tôn Thất Đính cho biết số học sinh, sinh viên giam ở Quán Tre đã được trả tự do, trừ vài người. Chính phủ hình như quyết định phản công bằng chính trị: Thanh niên, Thanh nữ cộng hòa biểu tình lớn ủng hộ chính phủ và Tổng thống; các trường trung học mở cửa lại... Quần chúng vẫn có cách phản ứng: học sinh các trường lớn như Trưng Vương Võ Trường Toản... không chịu đi học. * Ngày 2-9, vào buổi chiều, một chiếc xe Ford dừng trước nhà Luân. Xe mang số tư nhân, không có hộ tống. Thạch mở cổng cho Luân đi làm về, vừa thay quần áo, đang đùa với bé Lý và chờ Dung còn ở nơi làm việc. Khách vào nhà, tất cả bốn người – đều là người Mỹ. Ba dừng ngoài sân, một bước nhanh lên bậc thềm. Khách cao quá khổ, mặc bộ tropical xám tro. Khách là tân đại sứ Mỹ Henry Cabot Lodge.- Xin lỗi đại tá, tôi đường đột đến nhà riêng đại tá mà không xin phép. Tôi không muốn cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng ta bị nhà báo lợi dụng. Cabot Lodge chìa tay. Luân hơi bối rối vì bộ quần áo mặt trong nhà của anh. - Đại tá khỏi thay quần áo. – Cabot Lodge hiểu liền sự bối rối của Luân – Ta nên xem nhau như bạn... Hẳn là bà đại tá đi làm chưa về. Cabot Lodge không đợi Luân mời, đã ngồi xuống ghế, sau khi vuốt tóc bé Lý: - Chà, chú bé Lý kháu quá! – Cabot Lodge khen. “Gã biết về mình khá rõ!” – Luân nghĩ – “Gã biết chăc giờ này mình có ở nhà, Dung chưa về, biết cả thằng bé Lý”. Chị Sáu mang nước. - Chào chị Sáu! – Cabot Lodge nói và Luân dịch lại. Chị Sáu ngỡ ngàng buột miệng: - Vì sao ông đại sứ biết thứ của tôi? Luân chưa kịp trả lời thì Cabot Lodge đã nói: - Có phải bà ta ngạc nhiên vì tôi gọi đúng tên của bà ta? Tôi còn biết người mở cổng tên Thạch, quê Chợ Gạo, tức là một vùng quê thuộc châu thổ sông Cửu Long, còn biết bác sĩ Soạn, biết kỹ sư Gustave... Nói xong Cabot Lodge cười ha hả. “Ngón đòn phủ đầu đây!” – Luân nhận xét. Luân hiểu về Cabot Lodge cũng không kém. Anh bắt đầu nghiên cứu về tay chính khách cỡ bự này khi gã xuất hiện trong các cuộc vận động tranh cử bên Mỹ. Henry Cabot Lodge Jr, sinh ở bang Massachusetts, năm nay 61 tuổi, vợ là Emily Sears, hai con – Georges Cabot và Henry Sears – thuở nhỏ học ở Boston, quê nhà, tiến sĩ văn chương Đại học Laval ở Canada, dạy học ở nhiều trường, viết các báo lớn ở Mỹ như Boston Evening Transcrift, New York Heral Tribune, Time, Life, Fortune magazines, Tổng giám đốc Viện nghiên cứu Đại Tây Dương, thượng nghị sĩ bang Massachusetts, đại diện Mỹ trong Hội đồng bảo an Liên hợp quốc từ năm 1953 đến 1960... Tóm lại, một nhân vật nặng ký so với các đại sứ Mỹ tiền nhiệm ở Việt Nam Cộng hòa. Rõ ràng, Kennedy “xuất chủ bài” để đối phó với tình hình đã sấn sâu vào rối loạn ở Sài Gòn. Và, Kennedy cũng ít nhiều có ẩn ý: Cabot Lodge là lãnh tụ đảng Cộng hòa, thôi thì các anh Cộng hòa ó ré về chính sách của chính phủ Mỹ thuộc đảng Dân chủ ở Viễn Đông, mời các anh tự tay giải quyết! - Chúng ta bắt đầu, được chứ? Cabot Lodge hỏi, không cần Luân đồng ý, nói luôn: - Đại tá hãy tìm hiểu sau, hoặc tôi sẽ nói nhờ đâu tôi nắm các chi tiết quanh đại tá... Tướng Collins, đại sứ Rheinardt, Durbrow, và – Cabot Lodge bỗng cười nụ - Tướng Jones Stepp đều dặn tôi: người Việt Nam đầu tiên mà tôi cần gặp ở Sài Gòn là đại tá... Tất nhiên gặp theo cái nghĩa trọn vẹn, chứ tôi đã gặp tại sân bay Tân Sơn Nhất Phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ, Ngoại trưởng Mẫu – gặp tôi xong, ông Mẫu xuống tóc và tôi phải thanh minh rằng hành động của ông Mẫu không hề liên đới một tí gì với tôi – và đã trình ủy nhiệm thư cho Tổng thống Diệm... Tiện thể, xin báo cáo với đại tá tin vui: tướng Jones Stepp và phu nhân, bà Saroyan ấy mà, sắp sang Sài Gòn... Luân vui thật. Thế là Saroyan giữ lời hứa. Có Saroyan lúc này, lợi cho công việc của Luân. Cabot Lodge đánh giá vẻ rạng rỡ của Luân theo hướng khác: - Tướng Jones Stepp quí đại tá, qua phu nhân... Và, mọi quý trọng đều có giới hạn. Luân không cần cãi lại. Anh hiểu Saroyan hơn là Cabot Lodge. Trong khoảnh khắc, công vụ lùi xuống hàng thứ yếu và Luân xót xa. Saroyan có quyền có một người chồng mà cô ấy yêu, còn việc cô ấy nhận lấy Jones Stepp, tuổi đáng bố cô, thì vì Luân... - Theo đại tá, tình thế Nam Việt hiện thời ra sao? – Cabot Lodge đi vào trung tâm của cuộc gặp gỡ không hẹn này. - Xấu... rất xấu! – Luân trả lời gọn. - Xấu theo nghĩa nào? - Theo nghĩa, tiềm lực đoàn kết quốc gia bị phá hoại nặng nề, chính phủ đối địch với dân chúng... -... Và tạo cơ hội cho Cộng sản thu thắng lợi? – Cabot Lodge nói xen. - Hậu quả đó là tất nhiên... - Đại tá thấy có lối ra không? - Chỉ thấy có sự phức tạp! - Đâu đến bi quan như thế? Bác sĩ Trần Kim Tuyến gặp tôi... - Cabot Lodge nhìn chằm chằm vào mặt Luân – Chỉ 15 phút thôi, tôi thấy ông Tuyến không bi quan! - Bi quan hay lạc quan là khái niệm và cảm thụ có thể của từng người, ông Diệm đang lạc quan đấy... Nhưng, trên lợi ích rộng lớn, ai cũng phải đắn đo, nhất là vị đại diện cho nước Mỹ. Có lần, tôi hỏi đại sứ Frederick Rheinardt: liệu người Mỹ định đưa bao nhiêu quân vào Nam Việt? - Đại sứ Rheinardt trả lời như thế nào? - Đại sứ lắc đầu. - Tôi không khác ý đại sứ Frederick Rheinardt. Nếu đại tá nêu câu hỏi như vậy, tôi cũng lắc đầu. Tôi cho là 18.000 người Mỹ ở đây là thừa. Tôi muốn giảm... - Một nguyện vọng lành mạnh! – Luân kêu lên. - Song thưa đại sứ, chỉ là nguyện vọng. Tôi muốn nhân dịp này xét duyệt, cùng đại sứ, một vài tấm gương. Ta hãy soi gương người Pháp... Được chứ? - Tốt! Mời đại tá... Người Pháp ở Đông Dương? - Không! Người Pháp ở Algérie. Bài học Đông Dương mà người Pháp rút ra là: phải có quân số đông hơn đối phương mới hòng chiến thắng. Họ đã nhân lý thuyết của Mao Trạch Đông lên gấp mấy lần – Mao bảo 3 đánh 1, người Pháp theo công thức 11 đánh 1: 760.000, để đè bẹp 65.000 quân kháng chiến Algérie. Đánh nhau 8 năm, mỗi ngày Pháp tốn 15 triệu franc. Đến hai cuộc phản nghịch trong nội bộ Pháp, rất hiếm đối với các nước văn minh phương Tây. Tướng Salan và Massu dù bị trừng phạt, nước Pháp vẫn lao đao, nền Đệ tứ cộng hòa sụp đổ... Có thể nói là nước Pháp đã thắng bằng quân sự ở Algérie nhưng rồi người Pháp phải ra đi, đi vĩnh viễn... - Tôi hiểu ý đại tá. Còn tấm gương nào nữa? - Hy Lạp... Thống chế John Harding của Anh có những 4 vạn quân trong khi cách mạng Hy Lạp chí có 300 quân, dưới quyền của đại tá Grivas... - Và, người Anh đã thắng! - Đánh nhau 5 năm... Quân số thay đổi, người Anh sắp thua nếu không có ván bài chính trị... Đúng, người Anh đã thắng, nhưng không thắng bằng quân sự... Đáng tuyên dương không phải John Harding, mà cơ quan tình báo Anh! - Cứ cho đại tá có lý, Nam Việt thì sao? - Đại sứ đã đọc bài South Vietnam’s international problems (1) đăng trong Pacific Affairs, số tháng 9-1959, của Bernard Fall chưa? - Rất tiếc... - Giáo sư Bernard Fall do khối SEATO thuê nghiên cứu công trình “Sự thâm nhập của Cộng sản vào khu vực”. Ông ta trình cho SEATO một lô nhận xét, đáng để ý là, Nam Việt đã bị bao vây và chia cắt bởi trong một thời gian ngắn, Cộng sản đã thủ tiêu các nhân viên cai trị của chính quyền Sài Gòn thuộc cấp xã. Phát hiện của Bernard Fall dẫn đến thông điệp liên bang của Tổng thống Kenendy tháng 5-1961 nói cụ thể con số cán bộ xã của Việt Nam Cộng hòa bị loại là 4.000 trong một năm và, ngài đại sứ chắc đã rõ, tướng Taylor sang Việt Nam, tiếp theo, sự can thiệp quy mô lớn của Mỹ. Với sự can thiệp đó, 10.000 trưởng ấp bị thủ tiêu. Vậy thì, ta cứ làm con toán nhỏ: bảo vệ 4.000 viên chức cần 18.000 nghìn lính Mỹ, bảo vệ 10.000 trưởng ấp cần 45.000 lính Mỹ. Và ai đoán nổi con số trưởng ấp sẽ bị loại lên đến bao nhiêu? Cái cớ thì đơn thuần tưởng tượng, còn biện pháp thì hao tốn khôn lường... - Chúng ta dễ dàng nhất trí với nhau. Cho nên tôi đã gặp bác sĩ Trần Kim Tuyến. “Gã mật vụ này thố lộ cái gì với Cabot Lodge?”. Luân huy động tất cả mọi thứ mà anh có: phản xạ, ấn tượng, bộ nhớ... - Bác sĩ có đến từ giã tôi... - Luân tự chọn được phương pháp. - Tôi biết... Bác sĩ Tuyến thông báo với tôi về cuộc gặp gỡ đó, và khuyên nên sớm làm quen với đại tá. Theo bác sĩ Tuyến, lối thoát ở Nam Việt dính dáng – không phải dính dáng mà tùy thuộc đại tá... - Cabot Lodge nói rất nghiêm chỉnh. Luân vụt cười to: - Ông Tuyến thổi phồng tôi đến nổ tung mất! Tôi là cái gì để xoay chuyển tình thế? - Đại tá Luân, ông đừng cười! Ảnh hưởng của ông đối với ông Diệm thật quan trọng. Tôi muốn ông giải bày cặn kẽ các mặt lợi hại cho ông Diệm nghe. Ông bà Nhu nên rời Việt Nam. Chỉ bấy nhiêu thôi, chúng tôi lãnh phần thu xếp với Phật giáo. Đừng để quá muộn. Đừng để phong trào Phật giáo vượt khỏi khuôn viên nhà chùa, đừng để đám thanh niên quá khích – không thể không chú ý một bộ phận của đám này chịu tác động của Cộng sản – chiếm mặt bằng của phong trào... Nếu cần một sức ép, tôi xin hứa với đại tá. Ông Tuyến dự định một kế hoạch, tôi không phản đối... Thế là Luân yên tâm. Tuyến không hé với Cabot Lodge những điều gã thì thầm vào tai Luân. - Tôi thử cố gắng... Tuy nhiên, tôi không hy vọng. - Cứ cố gắng! Ông Diệm cần hiểu chính phủ Mỹ làm mọi việc để tránh cho ông ta một thảm cảnh. Phần đại tá, chúng ta còn tiếp xúc nhiều lần. Những ngày sắp tới không nhẹ nhàng với đại tá. Cabot Lodge cho số điện thoại riêng. - Đại tá gọi, tôi sẽ đích thân nói chuyện với đại tá. Chỉ có tôi thôi! Cabot Lodge ra về. Luân tiễn khách xong, thay quần áo, dặn chị Sáu bảo Dung ăn cơm trước, hôn thằng Lý rồi lên xe vào Phủ tổng thống. “Mỹ vẫn còn do dự!” - Luân kết luận – “Phải sửa soạn hết sức đề kháng từ phía Diệm. Sức đề kháng mạnh, kéo dài đến đâu, cách mạng khai thác thời cơ thuận lợi đến đó... ” * Nhu tiếp Luân lạnh nhạt. Luân làm vẻ chẳng để ý đến sự cư xử khác thường của Nhu. Anh quyết định thuật tỉ mỉ cuộc nói chuyện với Cabot Lodge, trừ phần liên quan đến Trần Kim Tuyến. Nhu cau mày và sau đó, đưa Luân vào phòng làm việc của Diệm.Diệm phờ phạc hẳn. Ông ta bắt tay Luân hời hợt rồi lặng lẽ nghe Nhu. Nhu thuật khá đủ, Luân khỏi báo cáo thêm. - Chi mà thảm họa? – Diệm nổi nóng – Thằng ni chẳng am tường tình hình, lại quen phách lối, lãnh tụ đảng Cộng hòa mà như rứa! Nhu và Luân chào Diệm, sang phòng Nhu: - Tổng thống dạo này hay cáu gắt... Việc nước rối rắm mà – Nhu mời Luân ngồi. - Anh Luân này, tôi dự kiến một cú... “Cú” dự kiến là Nhu cho nổ ra một cuộc đảo chính lật đổ chính phủ với lý do chính phủ bất lực trong nội trị để giới Phật giáo lộng hành. Cuộc “đảo chính” không đụng đến tổng thống nhưng thành lập một “Nội các cứu quốc”, Nhu nắm quyền quân sự, an ninh... “Như vậy là liều thuốc “giới nghiêm” và “tình trạng khẩn cấp”, vụ đột kích chùa Xá Lợi, sát hại Quách Thị Trang, đóng cửa trường học... chưa đủ đô.” Luân nghĩ bụng. Quả Nhu giải khát bằng thuốc độc. - Tôi phân vân. – Anh nói – Liệu người Mỹ sẽ phản ứng ra sao. - Ở Sài Gòn, không chỉ có Cabot Lodge. Còn Fishell... - Nhu trả lời, chắc nịch. - Nhưng tôi nghe giáo sư Fishell sắp rời Việt Nam sang Ba Tư... - Fishell đi, chính sách của Fishell ở lại! - Ai sẽ đứng ra “đảo chính”? - Tổng trấn Sài Gòn, tướng Tôn Thất Đính! Luân im lặng khá lâu. - Anh ngại ông tướng hoàng tộc này? Anh Diệm đã nhận Đính làm con nuôi. Người nhà chúng ta đấy! Luân im lặng song đầu anh hoạt động dữ dội. Trò chơi của Nhu cực kỳ nguy hiểm. Nguy hiểm đối với bản thân Diệm, Nhu. Những gì mà Luân có trong tay về viên tướng – hống hách, rỗng tuếch, thạo chơi bời hơn cầm quân, nhiều khả năng phản trắc – không phiền lòng anh mà anh lo lắng vì người điều khiển Đính một cách thật sự dứt khoát không phải là Nhu. Tại sao không phải là Fishell? Và tại sao Fishell không qua Đính loại Diệm – loại nhanh chóng, tránh mọi sơ hở khiến cách mạng lợi dụng được? - Hay là... - Nhu sốt ruột vì Luân cứ ngó ra ngoài cửa sổ, không nói không rằng – Hay là anh gặp tướng Đính... Tôi giao cho anh bàn với Đính các chi tiết. Anh sẽ chỉ đạo Đính. Luân không hứng thú trước việc Nhu giao, tuy nhiên, anh muốn gặp Đính. Xe Luân vào trại Lê Văn Duyệt. Đính đón Luân, do Nhu điện dặn trước. Bề ngoài cởi mở của Đính không khỏa lấp nổi cái lúng túng của anh ta khi Luân đương nhiên là cấp trên mà anh ta phải phục tùng. - Tôi rất mừng nhận quyết định của ông cố vấn. Có đại tá bên cạnh, tôi vững lòng hơn... - Đính xởi lởi, lúc chỉ có hai người ngồi kề nhau. Kế hoạch của Đính quá đơn giản. Đó là vụ Xá Lợi mở rộng, thế thôi, toàn bộ nội các, kể cả Nguyễn Ngọc Thơ sẽ tạm trú tại trại Lê Văn Duyệt một thời gian. Diệm sẽ lên Đà Lạt. Trại Quán Tre thêm kẽm gai, bót gác để nhốt chừng ba hay bốn vạn người. Số cầm đầu Phật giáo bị an trí ở Phú Quốc, cùng với số nhân sĩ dính với đảng Đại Việt. Đính – như Nhu hứa – vừa là Tổng trưởng quốc phòng vừa là Tổng tham mưu trưởng. Các tướng như Dương Văn Minh, Lê Văn Kim, Trần Văn Đôn... nhất loạt cho về hưu. Luân không tin đó là kế hoạch thật. Kế hoạch thật là gì? Chuông điện thoại reo. Đính nhấc máy. Luân nghe văng vẳng tiếng của một người Mỹ. À, tiếng của James Casey. - Pardon! Je suis accupé... Le colonel Nguyễn Thành Luân est ici! Voulez vous parler avec lui? (2) Đính nói ào ào. Chỉ trẻ con mới không hiểu là anh ta báo động về sự có mặt của Luân với James Casey để gã người Mỹ đừng nói tiếp. - James Casey rủ tôi đi uống... - Đính lấp liếm. - Tôi sẽ nghiên cứu kế hoạch của thiếu tướng và sẽ nhận xét sau. – Luân nhỏm dậy, toan kiếu từ. Chuông điện thoại lại reo. Lần này, Luân nghe giọng của John Hing. Ra hiệu cho Đính, Luân ra khỏi phòng. Anh chạm mặt Mai Hữu Xuân ngay hành lang. - Chào đại tá! – Xuân đưa tay trước... - Chào thiếu tướng! – Luân chập gót chân... - Thiếu tướng Đính đang ở trong phòng. Mời thiếu tướng vào... Như bận việc, Luân bước vội ra xe. Anh hiểu là Xuân ngó theo anh và chủ đề mà Xuân trao đổi liền với Đính là anh... * ... Ngày 9-9, văn phòng Quốc hội ra thông báo: Bà Trần Lệ Xuân, dân biểu, xuất ngoại sang Belgrade dự hội nghị phụ nữ quốc tế đồng thời kết hợp đi một số nước nhằm “giải độc” dư luận thế giới về tình hình Nam Việt.Cái “cú” mà Nhu sửa soạn không xảy ra. Anh ta buộc phải lùi một bước trước yêu sách của Cabot Lodge... Trước hôm Trần Lệ Xuân rời Sài Gòn, có một bữa cơm gia đình vào buổi tối. Ngoài Diệm, Nhu, Lệ Xuân, Giám mục – từ Huế vừa đến – các con của Nhu, vợ con Trần Trung Dung, còn có vợ chồng Luân. Không khí nặng nề. Mọi người im lặng, thỉnh thoảng trao đổi với nhau bằng mắt, ngay nĩa muỗng cũng khua uể oải. Đám trẻ con len lén ở một bên bàn, Ngô Đình Lệ Thủy lừ mắt chúng mãi... Lệ Xuân xuất ngoại với danh nghĩa cầm đầu đoàn đại biểu Sài Gòn dự hội nghị Liên hiệp các nghị sĩ thế giới. Mặc dù hội nghị lần này tổ chức tại Belgrade, thủ đô Nam Tư, một nước Cộng sản, báo chí Sài Gòn gần như không khai thác khía cạnh độc đáo ấy – đệ nhất phu nhân Việt Nam Cộng hòa chống Cộng khét tiếng có mặt ở một nước Cộng sản, sẽ được đón tiếp theo nghi thức dành cho dân biểu – mà xoay quanh danh từ “giải độc”. Tuyên bố của Lệ Xuân vẫn nảy lửa: thóa mạ giới Phật giáo, xỉa xói Mỹ. “Họ cần diêm quẹt và xăng không? Tôi sẽ cấp cho”. Mụ nói về các vụ tự thiêu đã xảy ra hoặc dự định. Hà Như Chi, Phó đoàn, giải thích với báo chí về chuyến đi như là một nhu cầu bức thiết và hoàn toàn chủ động của Việt Nam Cộng hòa. Tất nhiên, bộ mặt thật của sự việc chỉ phô bày bên trong các bức tường dinh Gia Long và tại bữa cơm chia tay ảm đạm này. - Ta lùi một bước rồi đó! – Cuối cùng, Lệ Xuân ném cái hậm hực ra bàn ăn, khuấy động không khí – Sẽ tới lượt anh Nhu. Còn ai nữa? Giám mục bỗng đằng hắng. Diệm từ từ cúi đầu xuống dĩa súp. Dư luận chưa được thông báo song cả nhà đều biết Khâm mạng Tòa thánh truyền đạt chỉ thị của Vatican gọi Giám mục đầu tháng 10 sang La Mã yết kiến Giáo hoàng. “Thế là lùi tới hai bước!”. Luân hiểu như vậy. Tình hình vài hôm nay tạm lắng dịu đôi chút. Học sinh lai rai trở lại trường, song chủ yếu không phải để học. Truyền đơn, báo tay tràn ngập, nhất là những loại mang danh nghĩa Phật giáo. - Em định chấm dứt giới nghiêm từ trưa ngày 14 tới – Nhu nói với Diệm, tránh câu hỏi của Lệ Xuân. - Ừ! – Diệm buông thỏng. - Lại lùi! Battre en retraite (3)! Lùi tận đâu? – Lệ Xuân quắc mắt ngó chồng. - Phải chận trước một số nước nêu vấn đề Phật giáo ở ta tại Đại hội đồng Liên hiệp quốc. Phức tạp lắm! – Nhu nói trổng. - Mặc kệ họ... Việc gì họ lại xía vô nội trị của ta? Lệ Xuân hung hăng tuy rằng mụ cũng rất lo khả năng “quốc tế hóa” vụ Phật giáo. - Tiến triển ở Liên hiệp quốc đến đâu rồi, hả cháu Luân? – Diệm hỏi. Luân trình bày vắn tắt: Ngày 4-9, có 16 nước gồm Afghanistan, Algérie, Cambodia, Sri Lanka, Guinée, Ấn Độ, Indonésia, Mông Cổ, Nigéria, Iran, Ruwanda, Sierra Léone, Somalie, Trinité và Tobago, Mali và Népal gửi văn thư cho Tổng thư ký Liên hiệp quốc xin ghi vào chương trình nghị sự Đại hội đồng Liên hiệp quốc khóa XVIII vấn đề mệnh danh là “sự vi phạm nhân quyền tại Nam Việt”. Văn thư, kèm phụ bản giải thích, đã gửi cho tất cả hội viên Liên hiệp quốc. Rất nhiều khả năng văn phòng Liên hiệp quốc sẽ ghi vấn đề vào chương trình nghị sự và Đại hội đồng sẽ xem xét theo thủ tục khẩn cấp. Cũng rất chắc chắn Đại hội đồng sẽ cử một đoàn điều tra sang Sài Gòn... - Thật là bọn tiếp giáo cho giặc! – Lệ Xuân nói như quát... - Ông Bửu Hội phản ứng ra răng? – Diệm hỏi. - Giáo sư đã phổ biến một văn thư phản đối việc đưa một vấn đề đơn thuần nội bộ Nam Việt ra Liên hiệp quốc. – Nhu trả lời. - Em sẽ đến Mỹ! Em phải nói thẳng... Ông Bửu Hội chỉ làm lấy lệ thôi; bà mẹ của ông nằm trong danh sách tự thiêu phản đối chúng ta; ông ta thuộc hoàng tộc... - Lệ Xuân xô ghế, ra khỏi bàn. - Nếu có phái đoàn điều tra thì có thể gồm những nước nào? – Diệm giả như không để ý thái độ của Lệ Xuân hỏi tiếp. Nhu ngó Luân, Luân từ tốn: - Chưa thể chắc chắn, song bằng các nguồn tin tin cậy được, đoàn thế nào cũng có các nước trung lập thuộc châu Á, châu Phi và Nam Mỹ. Trưởng đoàn, đại diện của Vương quốc A Phú Hãn (3), như Hoa Kỳ đang vận động và tên cụ thể là đại sứ Abdul Rama Pazhwak... - Một người theo đạo Hồi? – Giám mục hỏi. - Thưa, đúng vậy. - Trong 16 nước đứng lên chống mình chẳng có nước nào hiểu tình hình thực tế của Nam Việt. – Nhu càu nhàu. - Anh Luân nói ông đại sứ gì sẽ làm Trưởng đoàn? – Lệ Xuân từ bàn của đám nhỏ hỏi vọng sang. - Tôi đoán và cộng với tin của các hãng thông tấn, của cô Fanfani... Có thể không đúng hẳn. Nhưng, A Phú Hãn đứng đầu danh sách đòi Liên hiệp quốc xét vụ Phật giáo ở ta cho nên tôi nghĩ ông Pazhwak sẽ đảm đương trách nhiệm ấy, vì ông là đại sứ của A Phú Hãn tại Liên hiệp quốc... Lệ Xuân bảo Lệ Thủy đưa cho mụ mảnh giấy và cây bút: - Tên ông ta viết như thế nào? – Lệ Xuân hỏi Luân. Dung kín đáo liếc Luân. Cả hai đoán Lệ Xuân ghi Pazhwak vào bảng tên những người mà trong chuyến đi này mụ sẽ tác động đến bằng cách nào đó. - Tôi sang Mỹ, thế nào cũng gặp bà Kennedy. Bà Kennedy mà Lệ Xuân nhắc là mẹ của đương kim Tổng thống Mỹ, người đã sang Sài Gòn và Lệ Xuân cùng Diệm chính thức tiếp bà, sau đó Lệ Xuân hướng dẫn bà đi thăm viếng một số cơ sở xã hội, giống như những lần Lệ Xuân cùng Diệm tiếp nhà báo nữ nổi tiếng Suzane Labia, hoàng hậu Thái Lan và nhiều phu nhân khác. Vào những lúc bối rối, người ta thường ảo tưởng – Trần Lệ Xuân nhớ đến mẹ Kennedy và ngỡ rằng bà là cái phao. Luân và Dung gặp nhau trong sự đánh giá này. Bữa cơm kết thúc sớm. Những chai sâm banh nổ giòn mà ai cũng chỉ nhúng môi. - Tại sao chúng ta có vẻ thúc thủ? Tại sao? – Lệ Xuân đứng dậy, tay chống lên bàn. Thái độ ấy khiến Luân nhớ câu chuyện đối đáp giữa Diệm, Nhu và Lệ Xuân mà có người thuật cho anh nghe, trong biến cố 11-11-1960. Lính Dù bao vây dinh Độc Lập, Nguyễn Chánh Thi kêu gọi Diệm đầu hàng; Diệm đã tuyên bố trên đài phát thanh từ chức và giao quyền cho phái đảo chính. Số phận coi như đã định đoạt, Diệm ngồi thừ trên ghế bành. Nhu cau mày mà chưa tìm ra kế. Diệm hỏi Nhu, uể oải: “Chú định thế nào?”. Nhu trả lời, hờ hững: “Anh làm Tổng thống thì anh định đoạt chứ tôi đâu có làm Tổng thống!”. Giữa lúc đó, Lệ Xuân giận dữ, chồm tới: “Tại sao chúng ta lại thất bại một cách dễ dàng như thế? Gọi Nguyễn Khánh vào cho tôi!”. Nguyễn Khánh hấp tấp vào, đứng nghiêm. Lệ Xuân đi đi lại lại, ra lệnh với từng chi tiết. Khánh dập gót chân, chạy vụt ra khỏi phòng. - Không thể đầu hàng bất kỳ mức nào! – Lệ Xuân rít lanh lảnh... - Chúng nó thích đảo chính thì ta cho chúng nó được đảo chính, sợ gì? Thời thế bây giờ không giống 1960 đâu... ! Người hầu gái vào, báo: dân biểu Huỳnh Ngọc Nữ xin gặp Lệ Xuân. - Ta sẽ trở lại phương pháp đối phó... Tôi bận giây lát – Lệ Xuân ra ngoài. Diệm và Thục có vẻ lên tinh thần đôi chút, nhưng Nhu thì vẫn trầm trầm. Hẳn Nhu so sánh tình hình 1960 khác bây giờ, khác theo hướng bất lợi cho chính phủ. Phật giáo là một. Thế của chính phủ trong Thiên Chúa giáo không như trước – đã xuất hiện nhiều nhóm liên kết với Phật giáo – là hai. Việt Cộng mạnh hơn 1960 gấp bội, là ba. Biết bao người nuôi mộng thay thế Diệm, họ có quân trong tay, là bốn. Mỹ không giấu diếm quan điểm “thay đổi chính sách” ở Sài Gòn, tức ít nhất cũng điều chỉnh bộ máy của Diệm, là năm. Harriman, Hillman, Forrestal, Mac Namara lũ lượt kéo sang Sài Gòn và phúc trình của họ thật là tai hại. Cách đây 2 tháng, Mỹ cắt đứt viện trợ cho lực lượng đặc biệt, chỗ dựa chính của Diệm. Tám năm trước, Diệm cũng dùng kiểu đó: cắt viện trợ quân các giáo phái và các giáo phái bị đánh rã dễ dàng. Ngày hôm qua, Cabot Lodge chính thức thông báo với Diệm: Kennedy đang nghỉ mát ở Cape Cod, thông qua đề nghị của Forrestal yêu cầu ông Diệm phải loại Nhu, bằng không, Mỹ sẽ không chịu trách nhiệm về sự ổn định của Sài Gòn. - Họ kề dao vào cổ chúng ta! – Nhu bảo Luân. - Bà Huỳnh Ngọc Nữ đến vì việc chi, hỉ? – Diệm hỏi, không ăn nhập gì với câu chuyện đang chi phối tâm trạng mọi người. - Chắc là bàn phong trào phụ nữ - Nhu trả lời. - Hay là bàn về hãng giấy Cogido, rạp Rex, nhà sách Xuân Thu? – Diệm quật lại giọng rầu rĩ... Luân và Dung ra hiệu với nhau, đứng lên xin phép về. - Anh nhớ việc tôi bàn với anh. – Nhu giữ tay Luân trong tay anh ta hơi lâu – Anh nên xuống Cần Thơ gặp tướng Cao, tiện thể, ghé Mỹ Tho gặp Bùi Đình Đạm. Luân gật đầu. - Chú nhắc tôi mới nhớ, đã lâu rồi, thằng Cao không về thăm tôi. – Diệm bảo. - Có, có về, song anh bận việc nên chỉ làm việc với em... * ... Luân và Dung có mặt trong số người tiễn Trần Lệ Xuân tại sân bay. Bài ứng khẩu của Lệ Xuân được các nhà báo thu băng tại phòng khách danh dự.“Tôi sẽ trở về, nhanh thôi. Người ta đầu cơ trên xương máu chiến sĩ, trên những hy sinh của dân tộc và giới phụ nữ. Song, chân lý không dễ dàng bị khuất lấp. Chúng ta có rất nhiều bè bạn khắp thế giới. Tôi sẽ cố gắng hết sức mình để khôi phục lại bộ mặt thật của tình hình Việt Nam Cộng hòa và chỉ ra ai là kẻ chủ mưu, ai phải chịu trách nhiệm, ai là tòng phạm, ai là nạn nhân. Như các bạn biết rõ, một nhà sư tự nhiên chạy vào lánh nạn ở sứ quán một nước đồng minh của Việt Nam Cộng hòa. Tại sao phải “lánh nạn”, “nạn” là gì? Tại sao không chọn một sứ quán nào khác mà chọn sứ quán của nước đồng minh kia? Cần phải làm cho thế giới hiểu rằng sứ quán của một nước đặt ở một nước không nên và không thể là trung tâm chỉ huy các hoạt động gây rối, tạo điều kiện lật đổ hoặc là hang ổ để các hạng gián điệp ẩn náu”. Phòng khách bỗng chốc biến thành nơi họp báo chớp nhoáng. Nhà báo Helen Fanfani hỏi: Bà tự nguyện xuất ngoại hay do một áp lực nào? Lệ Xuân cau mày: Tại sao lại có áp lực? Ai áp lực? Nhà báo Financial Affairs nên nhớ Việt Nam Cộng hòa là một quốc gia có chủ quyền... Helen hỏi tiếp: Bà định sang Mỹ, có “xin” gặp Tổng thống Mỹ không? Lệ Xuân nhún vai: Người cần nghe ý kiến khách quan về tình hình Việt Nam Cộng hòa không phải tôi. Tôi không “xin” gặp. Nếu nhà báo thích dùng chữ “xin” gặp thì chắc chắn cũng không phải là tôi! Francois Sully, tuần báo NewsWeek, hỏi: Thưa bà, bà có định đến Liên hiệp quốc không? Lệ Xuân trỏ mặt nhà báo: Ủa, chúng tôi đã trục xuất ông từ năm ngoái, sao ông còn luẩn quẩn ở đây? Francois Sully cười: Có lẽ bà không còn nhiều thì giờ lắm... Tôi trở lại Việt Nam vì thời hạn cấm tôi hành nghề tại đây đã hết hiệu lực, mặc dù những gì tôi phản ánh vẫn còn nguyên: tham nhũng, chính phủ chuyên đánh giặc mồm... Lệ Xuân: Và, tôi nhớ, ông tuyên bố: các ông – nghĩa là Mỹ, tờ báo ông viết xuất bản ỡ Mỹ - không nên cùng chết chìm với chúng tôi... Thật đáng tiếc cho ông, ông Francois Sully, các ông sẽ cùng chết chìm với những kẻ chống chúng tôi... Francois Sully: Tôi nhắc lại: Bà không còn nhiều thì giờ lắm! Lệ Xuân: Ông nói câu đó với ý nào? Francois Sully: Với ý nghĩa cụ thể nhất – ông vén đồng hồ đeo tay – bà chỉ còn 15 phút thôi. Lệ Xuân: Với mươi phút, chúng tôi thừa đủ vả vào mồm những tên ăn tiền của một nước nào đó vu không chúng tôi... Tôi sẽ đến Liên hiệp quốc! Haberstam, phóng viên tờ New York Times: Xin bà cho tôi nửa phút... Lệ Xuân: Mời ông! Ông bị Tổng thống Mỹ gọi về nước vì ông phanh phui sự dính líu của Mỹ ở Nam Việt... Haberstam: Có phải bà cho rằng tình hình rối loạn hiện nay ở Nam Việt là do Mỹ đạo diễn? Lệ Xuân: Tôi xin trả lời câu hỏi nửa phút của ông chỉ bằng một phần mười giây: Đúng!... Tôi xin lỗi các bạn, tôi còn phải từ giã chồng con và người thân của tôi... Trên đường từ nhà ga ra sân bay, Lệ Xuân nói rất khẽ với Nhu điều gì đó và Nhu gật đầu. Sắp đến cầu thang, Lệ Xuân kéo Dung tách khỏi đám đông. - Mọi sự chị trông cậy vào em và anh Luân. Em nhớ cho: nhiều người đang khúm núm Tổng thống, anh Nhu và chị, sẽ dễ dàng trở mặt. Tổng thống hay cả tin, cụ thích những kẻ cúi mọp, đi giật lùi trước cụ. Chị nghi ngờ bọn đó... Em nên bàn với ông Tổng giám đốc cảnh sát bám sát số quân nhân đang nắm quân. Chị đã bàn với anh Nhu nên tăng quyền cho anh Luân. Lực lượng đặc biệt của ông Tung không đủ sức đâu... Lệ Xuân ôm hôn Dung và bắt tay Luân thật chặt. Mụ lần lượt ôm hôn các thành viên của Phong trào Phụ nữ liên đới. Điều rất lạ là trong số khách tiễn Lệ Xuân có vợ bác sĩ Trần Kim Tuyến, người đã từ lâu gần như bị Lệ Xuân trù. - Mọi hiểu lầm cũ, ta qua! – Lệ Xuân nói vào tai vợ Trần Kim Tuyến. Nhu cầm tay vợ, đưa lên cầu thang. Cả hai, đến giữa cầu thang, quay lại để các nhà báo chụp ảnh. Lệ Xuân ngã hẳn vào ngực chồng, quanh hai người là bầy con: một ảnh gia đình Nhu đầm ấm nhất mà báo chí lần đầu có được... Luân và Dung không ngờ một chuyến máy bay đáp xuống Tân Sơn Nhất trong lúc Lệ Xuân đang ở phòng khách, mang đến Sài Gòn hai nhân vật: Jones Stepp, thiếu tướng, phụ trách tình báo, trợ lý tướng Paul Harkins – thay cho Fishell đã sang Ryad – và phu nhân Soroyan... * Đúng buổi nhiều ngày tổ chức tuyển cử Quốc hội pháp nhiệm ba – thêm một ít liên danh “trang trí” nhưng phe thân chính phủ vẫn chiếm đa số tuyệt đối như mọi người dự đoán, kể cả Lệ Xuân vẫn đắc cử - Câu lạc bộ quân đội rộn ràng một cách khách thường. Sân tennis đông nghịt.Tướng Dương Văn Minh, cố vấn quân sự của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa đấu giao hữu với tướng Maxwell Taylor, cố vấn quân sự và phái viên đặc biệt của Tổng thống Mỹ; đại tá Nguyễn Thành Luân, trong tham mưu biệt bộ Phủ tổng thống đấu với trung tá James Casey, tùy viên của tướng Paul Harkins. Sau trận đánh đơn – Minh thắng Taylor, Casey thắng Luân – đến trận đấu đôi: cặp Minh – Casey thắng cặp Luân – Taylor, rồi cặp Minh – Taylor thắng cặp Casey – Luân. Sau cùng, cặp Minh – Luân thắng đậm cặp Taylor – Casey. Dư luận xì xào về trận banh nỉ ngoại lệ này và chẳng ai quan tâm đến tỷ số cùng sự thắng bại. Chính Luân cũng không được báo trước – mãi trưa, anh mới được điện thoại của tướng Trần Văn Đôn, người tổ chức trận “giao hữu”. Sự bắt cặp cũng do tướng André bố trí. Luân phân tâm một lúc, giao và trả bóng hỏng nhiều, Taylor và Casey chơi bình thường – tuy họ cố tỏ ra xông xáo, theo Luân nhận định. Người “chơi ra chơi” là tướng Minh. Có lẽ hơn một chục lần Minh nhắc Luân khi hai người dự trận chót – lúc đầu, Minh nhắc nhã nhặn, sau thì cự hẳn. Luân phải tập trung tinh thần hơn và nhờ đó, thắng đậm. Lúc chia tay, Taylor cười với Luân: - Ông tướng của ông, – Ông ta ám chỉ tướng Minh – Có mỗi một bận tâm thôi, đó là quần vợt! Dừng giây lát, Taylor nói tiếp: - Tôi cám ơn đại tá đã không đem hết sở trường trong trận đấu đánh đôi mà tướng Minh và tôi đứng chung sân... Tôi tin đó là thái độ của đại tá. Tướng Minh và tôi là bạn, sẽ mãi mãi là bạn. Luân về nhà thì gặp Saroyan cùng Thùy Dung ngồi ở phòng khách. Anh cố kiềm chế nhưng Saroyan vẫn sà vào anh khóc òa, mặc Thùy Dung ngồi đó. Thùy Dung cũng chặm nước mắt... - Cám ơn Saroyan! – Luân thủ thỉ. - Cám ơn đức Ala! Anh và Dung bình yên, thêm cháu Lý... Saroyan bồng Lý trong lòng. Cả một thùng quà to tướng dành cho Lý và trong tiếng líu lo, Saroyan nói với Lý – dĩ nhiên, thằng bé chẳng thể hiểu – cả Luân và Dung thấu rõ nỗi xót xa của cô: Saroyan thèm một thằng bé giống như Lý. Tất cả đều thấy bất lực... - Thôi ta hãy vào việc... - Saroyan tự trấn tĩnh – Em sang đây với Jones. Vào giờ chót, có trục trặc: người ta định cử tướng Lansdale, bây giờ đã hưu trí nhưng làm hợp đồng với Pentagone. Chính Tổng thống Kennedy can thiệp, nên Jones mới được đi. Em và Jones ghé Bangkok mấy hôm và em gặp bác sĩ Trần Kim Tuyến đang chờ thủ tục sang Cairo. Em hỏi thẳng ông ta: ai mưu toan giết hại em. Ông ta bảo: Mai Hữu Xuân, với sự đồng lõa của Fishell. Em và Jones vừa đặt chân lên đất Sài Gòn, Mai Hữu Xuân đã đến chào. Em hỏi luôn ông ta... Ông ta không chối, chỉ nói rằng em bây giờ có thể yên tâm vì thời thế đã khác. Em bảo em sẽ đến thăm anh, ông ta thản nhiên: “Bà có thể thăm bất cứ ai... ” Rồi ông ta và Jones thì thầm... Em biết, qua Jones: ngày 24-8, một số tướng Sài Gòn đề nghị lật ông Diệm, sau đêm lực lượng an ninh tấn công đẫm máu các chùa. Cabot Lodge chuyển điện về Mỹ, đúng ngày cuối tuần. Tổng thống không có mặt ở thủ đô. Các tướng Sài Gòn định ngày 29 hay 30 tháng 8 thì hành động... - Các tướng nào, cô có thể kể vài tên không? - Luân hỏi. - Điện viết tắt, em nhớ các chữ đầu K, X, D, và M. Hình như ba người. Luân cau mày. Dung lẩm bẩm: K... Kim? X... Xuân? D... ? - K là Khiêm, X đúng là Xuân, D tức là Đ theo mẫu tự ta... - Luân bảo. - Vậy thì là Đính! - Không! Chính... Đôn! André Đôn... Và, một trong các người đề nghị lật ông Diệm vì vụ tấn công các chùa lại chính là kẻ đã trực tiếp thực hiện vụ tấn công man rợ ấy! Tôi nhắc Saroyan, đó là Mai Hữu Xuân! Còn M? Minh? Big Minh? Không! Trần Văn Minh? Ít có khả năng M. nào? - Em nói tiếp. – Saroyan rạng rỡ khi thông tin của cô có ích cho những người mà cô quý mến, thương yêu – Đầu tuần, Tổng thống chỉ thị: đại sứ Lodge phải chuyển cho ông Diệm một “tối hậu thư” gồm ba điểm: chấm dứt đàn áp Phật giáo kèm theo hủy bỏ giới nghiêm và trả tự do cho các sư và người theo đạo Phật bị bắt, cho các đảng không tán thành chính phủ hoạt động công khai và tham gia với một tỷ lệ thích đáng các cơ sở chính phủ, vợ chồng ông Nhu rời Việt Nam. Ông Diệm không thèm tiếp ông Lodge, không chịu nói chuyện điện thoại với sứ quán Mỹ... Ông Lodge điện cho Ngoại trưởng Dean Rusk, bức điện em nhớ đề ngày 29-8 và cũng nhớ một câu: “Nước Mỹ không còn mặt mũi nào trở lại làm lành với Diệm”. Nhưng, chính Lodge cũng báo cáo với Rusk rằng các tướng Sài Gòn chưa nhất trí lắm về việc lật Diệm. Tướng Harkins cũng yêu cầu Tổng thống Mỹ nên xem lại... Thế là Victor Krulak, phái viên Bộ quốc phòng và Joseph Mendenhall, phái viên Bộ ngoại giao bí mật bay sang Sài Gòn... - Tôi có biết, tuy không gặp... - Luân nói. - Krulak cho rằng nếu ủng hộ ông Diệm mạnh hơn nữa thì có thể chiến thắng Cộng sản, Mendenhall cho rằng nếu chính phủ ông Diệm sụp đổ thì sẽ xảy ra chiến tranh tôn giáo – giữa Phật giáo và Thiên Chúa giáo – cho nên “Nhu phải rút lui hoặc bị loại” và ông Diệm “không phải là một hoàng đế mà là một Tổng thống dân chủ”. - Ý của Jones Stepp thế nào? Saroyan nhún vai: - Một người thừa hành, không hơn không kém. Tùy những người quan trọng hơn. Luân trầm ngâm. - Trận bóng vừa rồi do sáng kiến của Cabot Lodge. Theo em, Cabot Lodge chỉ chịu làm đại sứ một thời gian ngắn... Sau đó, chính Taylor, tác giả của một kế hoạch bình định Nam Việt do ông ta và tiến sĩ Staley thảo. Taylor rất lạc quan, ông ta phát biểu với Jones rằng nếu nội tình Nam Việt được thu xếp ổn thì chậm nhất mùa thu năm 1965 ở Nam Việt không còn bóng dáng của một cuộc nổi dậy nào nữa mà chỉ là “bọn cướp có tổ chức”. Chiều hôm qua, tại đại sứ quán Mỹ, Cabot Lodge họp với Jones, Taylor, Casey và John Hing... Sau cuộc họp, họ ăn tối. Em không dự. Giá mà em dự, cũng có thể nắm đôi điều ngoài những cái mà Jones thuật lại. Em không thể dự! Luân hiểu: Saroyan không chịu chạm mặt John Hing, kẻ mà cô đã tát vào mặt trước đây, khi Fishell toan dùng cô làm vật đổi chác trong nghề tình báo của hắn. - Họ thống nhất hoạch định những bước đi sắp tới, như Jones hé với em. - Gây sức ép mạnh hơn? - Đúng... Tiếp tục đình viện trợ mọi mặt cho lực lượng đặc biệt, trì hoản các chuyến vận chuyển gạo, thuốc lá, sữa và các hàng hóa khác cho cả dân sự lẫn quân sự, cốt gây tâm lý hoảng loạn... - Thâm độc thật! – Dung kêu lên. - Theo em, – Saroyan vẫn nói như thầm thì với Luân – Sớm muộn gì ông Diệm cũng phải rời ghế Tổng thống... Đó là chuyện của ông ta. Còn chuyện của anh, của Dung và bé Lý... thật sự bận tâm em. Cho đến bây giờ, Jones rất coi trọng anh. Em chưa hề nói một lời về quan hệ riêng tư giữa chúng ta và, Dung đồng ý chứ? – quan hệ riêng tư giữa tôi và anh Luân bình thường thôi. - Bình thường! – Dung siết cánh tay Saroyan. - Nhưng Fishell không phải không thích thêu dệt. – Luân cười nhẹ - Tuy vậy, chắc chắn tướng Stepp chẳng đặt việc cá nhân của Saroyan vào thời cuộc... Mỹ sẽ dùng bàn tay sắt hay bàn tay nhung ở Sài Gòn tùy thuộc các yếu tố khác, lớn hơn nhiều. - Anh để em nói... - Saroyan cướp lời. – Em muốn anh lánh xa ông Diệm. Tại sao anh không nhận một chân đại sứ ở một nước nào đó, chờ thời cuộc. Ông Tuyến đã làm như vậy. Luân lắc đầu: - Saroyan ngây thơ quá! Ông Tuyến không chọn mà người ta gán cho ông chức Tổng lãnh sự. Tôi xin đi làm đại sứ có nghĩa là tôi xin vào tù! - Tại sao? Em đảm bảo Jones Stepp sẽ ủng hộ anh! - Trước khi người Mỹ hạ bệ ông Diệm – nếu quả họ định – thì chớ có chọc tức ông ta. Jones Stepp, cả Cabot Lodge, Harkins... , đều không bịt được họng súng của ông ta... Vả lại, tôi không cần đi đâu cả. Là quân nhân, tôi phải đứng tại nơi quân nhân phải đứng... Saroyan thở dài, cáo từ. - Thỉnh thoảng, Saroyan đến chơi. – Dung bảo. - Jones sẽ mời anh Luân và Dung đến chỗ chúng tôi... Nhớ mang bé Lý theo! Saroyan ra khỏi phòng. - Có một điều tôi dặn Saroyan. Không nên hỏi Jones Stepp nhiều quá, đừng đọc các giấy tờ mà ông ta giữ mật... - Luân choàng vai Saroyan, đưa ra xe. - Anh không cần? - Không phải... Song tôi cần hơn sự an toàn của Saroyan. - Cám ơn anh... Em không đến nỗi quá ngốc đâu! - Saroyan rất tốt, – Luân nói với Dung khi xe của Saroyan ra khỏi cổng nhà – Nhưng chưa có kinh nghiệm. CIA sẽ dùng Saroyan hoặc dọ dẫm anh, hoặc đánh lạc hướng anh, kể luôn những tài liệu và tin ngụy tạo... - Anh lo xa là phải, song theo Saroyan, tướng Stepp say đắm Saroyan đến điên dại... - CIA là những diễn viên mà chưa diễn viên chuyên nghiệp danh tiếng nào so nổi. – Luân cắt lời vợ. * Bài của Helen Fanfani: Bước ngoặt trong chính sách Mỹ ở Nam Việt?Không có một sự kiện tầm cỡ đòi Tổng thống Kennedy xét duyệt lại chính sách Đông Nam Á của Mỹ, tỷ như cơn khủng hoảng vùng Caraibe hoặc viên phi công Power của chiếc U2. Thế nhưng, chính sách Mỹ vẫn đang được những người chóp bu của Nhà Trắng đánh giá một cách tổng quát trên một bình diện mà chính CIA thiết lập và nay đã hình thành như ý muốn của kẻ chủ xướng. Nam Việt dấn vào cuộc chiến tranh không tuyên chiến đã 3 năm và thật sự nước Mỹ cũng chỉ ném một lực lượng yểm trợ chưa đến 2 vạn người vào vùng núi non, nóng bức nam vĩ tuyến 17. Khí tài chiến tranh chủ yếu là những loại lỗi thời. Đương nhiên, Hội đồng an ninh quốc gia quan trọng hóa sự thể ở Nam Việt, dựa vào câu nói của J. Kennedy bấy giờ còn là thượng nghị sĩ: Việt Nam là nền tảng của thế giới tự do tại Đông Nam Á như viên đá đỉnh vòm cung, như nút chặn lỗ rò... Việt Nam là tác phẩm của chúng ta, chúng ta không thể bỏ rơi nó và chúng ta không thể lờ đi các nhu cầu của nó... (Phát biểu ngày 1-8-1956 tại Hiệp hội Những người Mỹ, bạn của Việt Nam). Cái “viên đá đỉnh vòm cung”, cái “nút chặn lỗ rò”, cái “tác phẩm của chúng ta” ấy từ chỗ chính phủ Mỹ tưởng tượng bây giờ đã trộn lẫn sự tồn vong với uy tín của nước Mỹ. Năm 1956, 2 năm sau chiến tranh Đông Dương kết thúc, 7 năm sau Trung Cộng thôn tín toàn bộ Hoa lục, 5 năm sau chiến tranh Triều Tiên. Sự lên gân kỳ quặc của thượng nghị sĩ Kennedy liên quan đến chiến lược ngừa Trung Cộng tràn xuống Đông Nam Á và Bắc Việt thu hồi nốt phần Nam Việt còn lại, giữa cuộc chiến tranh lạnh lên độ băng giá nhất. Và, về thực chất, Kennedy lấy sự ủng hộ hay ruồng bỏ ông Ngô Đình Diệm làm chuẩn cho cái gọi là “chúng ta không thể bỏ rơi nó và chúng ta không thể lờ đi các nhu cầu của nó”. Việc Diệm thay Bảo Đại là sản phẩm của F. Dulles, Spellman, Lansdale, có cả bàn tay mụ đỡ của Mansfield và Kennedy. Công bằng mà nói, Harriman sáng suốt hơn; ông ta (Ông Diệm)... hoài bão một triều đình, trầm tư sống với nội tâm, không có sức hấp dẫn quần chúng, không hiểu cái gì xảy ra trong vòng 18 năm đảo lộn trên nước Việt Nam. Mẫu người lùn, béo tròn, đi đứng lạch bạch, luôn trang phục màu trắng như trong tháp ngà. Ham nói, chuyện nhỏ cũng thuyết hàng giờ, ít nghe nên ít biết phản ứng... Ý kiến của Harriman bị chế nhạo là chỉ “chú ý ngoại hình”. Tháng 8-1954, đại sứ Mỹ, tướng Collins, bảo tướng Pháp Ely rằng chớ ủng hộ tướng Hinh trong một mưu toan đảo chính, nếu ông Diệm bị lật thì Mỹ rút, Pháp phải tự mình đối phó với Cộng sản – nghĩa là đón một trận Điện Biên Phủ thứ hai tồi tệ hơn nhiều lần. Tháng 11-1954, một lần nữa, Lansdale bóp chết một âm mưu đảo chính, lần này do các tướng Hinh, Vỹ, liên minh với tướng Viễn. Số sĩ quan định đảo chính được Lansdale giải quyết theo kiểu lập dị của ông ta: mỗi người đuợc sang Manila chơi một tháng với các cô gái. Rồi, ngày 7-4-1955, tới phiên Collins đề xuất: Diệm không có khả năng đạt sự thống nhất cần thiết giữa ý chí và hành động... để làm cho Nam Việt khỏi rơi vào tay Cộng sản. Lowton Collins muốn thay Diệm, Tổng thống Eisenhower đồng ý, mọi sự đã sẵn sàng. Nhưng, Pháp đã cứu Diệm! Pháp bật đèn xanh cho Bình Xuyên nổ súng và trong khói đạn mịt mù, Diệm tỏ rõ đủ bản lĩnh dẹp tan nhón “Mafia” Bảy Viễn chẳng mấy khó khăn. F. Dulles đã nói: Không thể để Diệm thành một Kérensky! Mỹ thử nghiệm. Năm 1956, tướng 3 sao Samuel Williams điều khiển vỏn vẹn có 629 chuyên viên quân sự Mỹ, Williams từng đánh ở Triều Tiên, ông ta bị kiểu tấn công ồ ạt của Bắc Triều Tiên ám ảnh cho nên chỉ chú trọng xây dựng lực lượng dòm ngó Bắc Việt Nam – sau này, khi Nam Việt diễn ra tình trạng nổi dậy của du kích tại chỗ, ông ta bất lực. Không riêng gì ông ta, mà cả bộ tham mưu và học viện quân sự Mỹ đều “hố”. Chương trình huấn luyện sĩ quan Việt Nam của Mỹ nặng nề chiến dịch tấn công trung và sư đoàn, kể cả sử dụng vũ khí nguyên tử chiến thuật. Từ khi du kích mở rộng phạm vi hoạt động giữa ông Diệm và chính phủ Mỹ phát sinh nhiều bất đồng. Ông Diệm thăng tướng tá cho những mà ông nhìn suốt trong ruột họ sự trung thành mù quáng với cá nhân ông. Mỹ đòi các sĩ quan phải đánh giặc. Tuy nhiên, Lansdale và phái bộ Mac Garr vẫn ủng hộ Diệm – họ dồn sức chăm sóc Bảo an, Dân vệ và chủ trương Bảo an, Dân vệ phải được trang bị cả trực thăng, chiến xa. Phái đoàn Michigan chủ trương ngược lại: trang bị Bảo an, Dân vệ nhẹ, chăm sóc quân chính quy và các binh quân chủng khác. Lầu Năm Góc nghiêng về quan điểm của phái đoàn Michigan. Cuối năm 1960, Cộng sản kiểm soát bộ phận lớn nông thôn Nam Việt, đại sứ Mỹ Durbrow và phái bộ của tướng Mac Garr lại cãi vã. Mac Garr cho yêu cầu số một của Nam Việt là xây dựng lực lượng vũ trang chống Cộng! Durbrow cho phải thực hiện dân chủ - do đó, ép Diệm cải tổ chính phủ. Chính phủ Mỹ chưa kết luận – Nam Việt lùi hàng thứ yếu trước điểm nóng Berlin, hội nghị cấp cao Paris thất bại và Fidel Castro lên cầm quyền ở Cuba. Eisenhower bàn giao chính quyền cho Kennedy. Mỹ thậm chí coi Lào mới là nơi nguy ngập nhất Đông Dương. Giữa lúc Mỹ lừng chừng, vụ vịnh Con Heo đánh một đòn nặng vào uy tín của Kennedy và Kennedy hoài nghi các dự án của Bộ tham mưu liên quân cùng các luận cứ của CIA: không có việc Mỹ gửi quân đến Lào đúng như lời khuyên của đại sứ Galbraith. Năm sau, Taylor đề nghị đưa 8.000 quân đặc nhiệm vào Việt Nam. Harriman bác thẳng thừng. Khi MACV thay MAAG, Paul Harkins, tướng 4 sao thay Mac Garr, quân Mỹ lên 9.000 người. Bom napalm đã được sử dụng. Cái rủi cho Harkins là đầu 1963, chiến thuật trực thăng vận bị Việt Cộng đánh bại, Nolting gợi ý với Diệm tăng thêm một ít lính Mỹ. Diệm nói thẳng: Tôi không thích chế độ bảo hộ! Từ non 700, nay Mỹ đã lên ngót 2 vạn – chẳng lẽ con số đó còn thấp? Chúng tôi cần vũ khí và phương tiện kỹ thuật tốt, người Mỹ các ông chỉ cho những thứ phế thải. Sự chênh lệch trình độ trang bị giữa lính Mỹ tại Việt Nam với quân đội chúng tôi xa cách đến mức ai trông cũng ngượng. Không trang bị, cắt giảm viện trợ đồng thời một số người Mỹ hô hoán: chúng tôi bất lực. Chúng ta là đồng minh nếu Tổng thống Mỹ hiểu chữ “đồng minh” hoàn toàn không mang hơi hướng của lối quan hệ bất bình đẳng của thời thực dân cũ thì phải giúp chúng tôi mạnh. Tự chúng tôi biết mình phải thắng Cộng sản như thế nào. Nhiều lần tôi trình bày rõ ý kiến của cá nhân tôi: Việt Nam Cộng hòa cần Mỹ giúp trong mức mà Mỹ không đổ bộ lên đất nước tôi một đội quân như người Pháp đã làm và thất bại. Việt Nam Cộng hòa sẵn sàng nghe mọi lời khuyên xây dựng song tôi sẽ phẫn nộ nếu đó không phải là lời khuyên mà mệnh lệnh. Lời khuyên thì tốt, mệnh lệnh thì sẽ chẳng bao giờ được xét tới vì Việt Nam Cộng hòa không có nghĩa vụ phải chấp hành mệnh lệnh của một nước khác, dù cho đó là Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ!... Có thể trưng vô số trường hợp Diệm phát biểu ý kiến nhất quán như vậy. Nolting báo cáo tận chi tiết nhỏ quan điểm của Diệm. Và Nolting đã giã từ Sài Gòn, giữa lúc chính phủ Việt Nam và Phật giáo từ đấu khẩu chuyển sang đấu lưỡi lê, bom cay, gạch, đá, với hằng tá nhà sư tự thiêu. Cái đáng ngạc nhiên là tại hội nghị Honolulu, tháng 4 năm nay, tướng Paul Harkins vượt qua tất cả những vai lạc quan nhất về tình hình Nam Việt – ông long trọng thông báo với Bộ quốc phòng Mỹ rằng một bộ phận lớn, nếu không nói là tất cả nhân viên quân sự Mỹ đang có mặt ở Nam Việt sẽ ăn lễ Noel 1963 nơi quê nhà vì chiến tranh đã kết thúc! Thói thường các tướng hay nói lố, Leclerc từng tiên đoán sai sự thật đến những 9 năm ở Việt Nam, Ridgway cũng lấy ý muốn riêng làm thước đo thời gian chiến tranh ở Triều Tiên... Chẳng lẽ tướng Paul Harkins không học bài học lịch sử chưa xa xôi lắm ấy? Toàn bộ thông báo của tướng Harkins chưa được đưa ra công khai, song hình như luận điểm của ông dựa vào mức độ hoạt động không dồn dập của đối phương cuối năm 1962 và lòng tin tuyệt đối của ông vào chính sách ấp chiến lược. Sau hội nghị Honululu chẳng bao lâu, vụ Phật giáo nổ bùng. Báo chí chưa có dịp nghe tướng Harkins luận giải – bây giờ thì ông được một trạng sư biện hộ lỗi lạc, ấy là sự rối loạn nội bộ Việt Nam Cộng hòa khiến lính Mỹ không thể về Mỹ dự lễ Noel được! Những chuyên gia vấn đề Nam Việt đều nhất trí về khả năng nước Mỹ rẽ bước trong chính sách đối với Nam Việt, chắc chắn sẽ được công bố nay mai. Các phái đoàn gồm các nhân vật sừng sỏ, đặc biệt, tướng Maxwell Taylor – dư luận xưng tụng ông là ngôi sao sáng chói nhất trong các nhà quân sự chuyên nghiệp Mỹ hiện nay – đi lại như con thoi giữa Washington và Sài Gòn báo hiệu kế hoạch đã được âm thầm sửa soạn và đang ở vào thời kỳ thêm vài dấu chấm trước khi Tổng thống Kennedy ký. Bước rẽ ấy là gì? Có ba khả năng: Một là ông Diệm làm lành với Phật giáo đồng thời làm lành với các lực lượng bấy lâu thù địch ông, tỷ như nhóm Tinh Thần thân Pháp; ông bà Nhu rời hẳn Việt Nam, không can dự vào chính trị, giải tán đảng Cần Lao, mật vụ và thủ tiêu quyền binh của ông Cẩn ở Trung phần. Hai là người Mỹ tự mình cầm quyền cả quân sự lẫn dân sự và tiến hành cuộc chiến tranh theo kiểu Mỹ, với người Mỹ - để hay hạ bệ ông Diệm sẽ không mang ý nghĩa bao nhiêu. Ba là ông Diệm liên minh với Việt Cộng và trạng thái đấu tranh ở Nam Việt thay đổi từ căn gốc. Khả năng thứ ba – có vẻ quái đản, song không phải là sản phẩm của sự tưởng tượng. Tất nhiên, nếu anh em ông Diệm quyết tâm tạo mối liên minh này thì họ phải từ bỏ nhiều thứ: dinh Gia Long, quang cảnh ngày ngày quan lại đến rạp mình hầu hạ, quyền lực, tài sản... thậm chí, chấp nhận bộ áo quần du kích. Ông Diệm, ông Nhu hẳn từng tính đến lối ra ấy – xét theo thứ tự, lối ra cuối cùng – nhưng cũng hẳn họ chưa hình dung từ vấn đề bao quát dẫn đến mỗi tình tiết dính liền với chiếc ghế bành, chiếc giường nhún nhẩy, cái búng tay... Trước kia, ông Diệm, ông Nhu thỉnh thoảng núp bóng Việt Cộng để eo sách Mỹ, bây giờ, có thể họ coi đó là một giải pháp. Nhưng, những người cách mạng Việt Nam có lý do hoài nghi chính đáng trước một “lời rao vặt” kiểu đó. Ông Diệm chống Cộng – và đang chống Cộng – lại nhờ vả kẻ ông bắn giết một cách không ân hận chìa bàn tay với ông giữa lúc ông đang đắm thuyền. Chiến thuật dù mềm dẻo đến đâu cũng không dành chỗ cho một nhượng bộ như vậy ở người Cộng sản, nhất là chưa bào giờ có dấu hiệu họ sẽ thua trận. Rốt lại, ông Diệm, ông Nhu định lợi dụng Mặt trận Giải phóng. Thế nhưng, Đảng Cộng sản Việt Nam rất ít giống Elas ở Hy Lạp, càng khác hẳn đảng Cộng sản Indonésia, Malaysia, Philippine. Người Mỹ chỉ có lợi khi công bố các tài liệu liên quan đến sự “đi đêm” này của ông Diệm. Khả năng một khó xảy ra không kém. Ông Diệm mà không có vợ chồng ông Nhu, đảng Cần Lao, mật vụ, mà không có lực lượng Thiên Chúa giáo di cư hưởng đặc quyền thì không còn là ông Diệm nữa. Chính thể Sài Gòn mà gồm cả nhóm Phật giáo, Đại Việt, trí thức do Pháp đào tạo, quân đội Sài Gòn do các tướng chẳng chịu ân sủng của ông Diệm, chẳng đồng hương, đồng đạo chỉ huy sẽ không còn là chế độ Sài Gòn nữa. Chịu danh xưng “Tổng thống”, chịu tổ chức bầu cử mỗi nhiệm kỳ mà không là hoàng đế và “Tổng thống suốt đời”, đó là nấc lùi tận cùng của ông Diệm. Lùi hơn nữa, ông không tưởng tượng được. Cho nên, khả năng thứ ba cũng không có nốt. Phật giáo không đánh trốc ông Diệm thì ông Diệm sẽ đánh trốc Phật giáo. Canh bạc chỉ còn hai cửa “sấp và ngửa”. Loại hai khả năng đầu và chót, còn khả năng giữa. Khả năng của người Mỹ. Giữa người Mỹ với nhau, không phải không còn vấn đề tranh luận – chắc chắn giới chức cao cấp Mỹ tốn khá nhiều giấy, nước bọt và Tổng thống chắc chắn đang nhứt đầu... Dầu gì, quả bóng vẫn đang ở trong chân Mỹ. Sút thẳng, giáo bóng thêm vài lượt... bài toán đặt ra như vậy, trừ phi chính phủ Mỹ lại sút bóng vào chính lưới của mình... * Luân nóng lòng chờ chỉ thị của A.07. Anh viết một báo cáo thật dài – dài nhất so với tất cả các báo cáo mà anh đã gửi về cấp trên từ khi anh nhận nhiệm vụ. Anh phản ánh nhiều mặt tình hình và cũng đề xuất nhiều phương án, trong đó, anh xin phép được trực tiếp gặp một đồng chí lãnh đạo ở nơi nào do cấp trên chọn và cũng xin phép được quan hệ thẳng với Lê Khánh Nghĩa, bây giờ là chỉ huy trung đoàn thuộc sư đoàn 5 bộ binh, đóng ở Bầu Trài, cách Sài Gòn không quá xa. Những đầu mối mà Trần Kim Tuyến giao cho anh, anh kiểm tra chặt chẽ rồi, độ tin cậy không cao – tất nhiên, tin cậy theo nghĩa họ hành động đơn thuần vì bất mãn Diệm và là bộ hạ chịu ơn hoặc ăn chịu với Trần Kim Tuyến. Một trong những đầu mối đó là đại tá Nguyễn Văn Thiệu, Sư trưởng Sư 5 – cấp trên của Lê Khánh Nghĩa – và thiếu tá Nguyễn Bá Liên, chỉ huy phó thủy quân lục chiến. Trong bản danh sách khá dài, Luân chọn lựa mãi, anh tra cứu hồ sơ, nhờ Dung sưu tra thêm và anh đi đến kết luận: Tuyến nắm người nào thì tình báo Mỹ cũng nắm người đó. Vả lại, Tuyến không thể biết, có người do John Hing, có người do Mai Hữu Xuân chi phối. Làm một cuộc đảo chính vào thời điểm bấy giờ có lẽ không có gì dễ hơn, song, đối với Luân, mục đích và kết quả thực tế của đảo chính quan trọng hơn bản thân cuộc đảo chính. Luân thức thâu đêm với các phương án. Lật đổ Diệm, giải tán cơ cấu chính quyền hiện thời, thành lập một chính quyền có xu hướng ít nhiều dân tộc, chấp nhận thương lượng chấm dứt chiến tranh... Đó là phương án cao nhất. Muốn đạt một phương án như vậy, đảo chính phải chủ yếu gồm các lực lượng thật sự có ý thức chính trị, muốn tránh cho miền Nam đất nước cảnh chết chóc, tàn phá. Phải thanh toán chính quyền Ngô Đình Diệm thật nhanh và một chính phủ mới – đã được sửa soạn – công bố liền đường lối mới, kêu gọi Mặt trận Giải phóng ngồi vào bàn đàm phán. Như vậy, chính phủ mới phải có lực lượng nòng cốt bởi khả năng đảo chính liền sau đó – do các thế lực chống Cộng và do Mỹ điều khiển – nhất thiết xảy ra. Chính phủ mới sẽ ban bố các quyền dân chủ và Luân hy vọng quần chúng đứng lên chung quanh chính phủ mới. Có thể Nguyễn Khánh, Trần Thiện Khiêm, Huỳnh Văn Cao, Tôn Thất Đính, đặc biệt Mai Hữu Xuân sẽ phản ứng mạnh, kể cả Lê Quang Tung, Hồ Tấn Quyền, Nguyễn Cao Kỳ... nhưng nếu quần chúng tham gia đông đảo, những sĩ quan kia không dám liều lĩnh, chỉ cần Lê Khánh Nghĩa thọc nhanh trung đoàn 7 vào ruột Sài Gòn! Phương án “trung sách” là Diệm đổ, một chính phủ thân Pháp cầm quyền, tuyên bố theo đuổi trương đối ngoại trung lập, tuy vẫn chống Cộng nhưng loại dần ảnh hưởng Mỹ và đến một lúc nào đó sẽ đàm phán với Mặt trận Giải phóng. Phương án này dễ nhận diện hơn cả, bởi các tướng tiêu biểu hiện nay đều xuất thân từ “lò” Pháp. Nhưng đó lại là một phương án khá cơ động – Mỹ đủ sức nắm các sĩ quan dù thân Pháp trong máu. Phương án cuối cùng, chưa thể đo lường giá trị ngay là Diệm chống cự, trận đánh kéo dài, gây xáo trộn dữ dội...Dung dự vào công việc vạch phương án của Luân. Cô cân nhắc từng chi tiếc và gợi ra nhiều khía cạnh để Luân suy nghĩ. Dung có một điểm khác Luân – rất khác: không tán thành liên hệ với Lê Khánh Nghĩa. Lập luận của cô rõ ràng; đảo chính mở đầu chứ chưa kết thúc, Luân không có quyền bộc lộ thân phận. Cuối tháng 9, Luân nhận được chỉ thị - sở dĩ chỉ thị chậm là vì anh Sáu Đăng phải đích thân ra Hà Nội trình bày với A.07. “Kỵ sĩ và Mimosa không cần gặp bất cứ đồng chí lãnh đạo nào. Việc đó, để cấp trên quyết định khi thấy thích hợp. Trong ba phương án, phương án một nó quá “lý tưởng”. Hai phương án sau khả dĩ gần thực tế, song điều quan trọng nhất là phải tùy cơ ứng biến. Bất cứ tình huống nào, Kỵ sĩ và Mimosa phải giữ thân phận là người Quốc gia. Tuyệt đối không được liên hệ với LKN. Hết sức đề phòng các diễn tiến nghịch thường, bọn tình báo bấy lâu “ngửi” thực chất của Kỵ sĩ và Mimosa, nhân dịp này gây khó khăn, thậm chí hãm hại. Cố mà tạo ra các điều kiện để quần chúng nổi dậy càng rộng càng tốt. Mỹ còn rất cay cú, chúng thất bại với con bài Diệm không có nghĩa là chúng chịu thua. Tóm lại, tình hình còn phức tạp, lực lượng so sánh chưa cho phép chúng ta “dứt điểm”... Không nên coi thường việc hóa thân vào các nhóm của Tuyến, tức là của một thế lực của Mỹ. Không từ chối cương vị mà Mỹ giao. Nên phân tích thái độ của Taylor sau trận “giao hữu”.” Chỉ thị ngắn mà rõ. Luân cầm tay Dung: - Em giỏi lắm... Dung nép vào Luân và sau đó ghì chặt bé Lý rồi đưa con đi ngủ, để Luân tập trung, chắc là thâu đêm. Vạch ra, xóa đi, lại vạch ra chương trình hành động. Bây giờ, đã phải tính từng ngày... * Tờ Cách mạng quốc gia đăng một lời rao chen lẫn giữa vô số lời rao: Bán vườn cây ăn quả: xoài riêng, măng cụt, chôm chôm tại Lái Thiêu, hoa lợi lớn. Hỏi ông Hoãn ở 26/10 đường Phan Đình Phùng.Đến ba nơi đồng thời đặt lời rao vặt ấy dưới kiếng “lúp”. - Họ chưa chấp nhận ngày 26-10! – Tướng Trần Thiện Khiêm uể oải trao đổi với Mai Hữu Xuân. - Trở ngại chắc chắn là vì tướng Đính... Bao giờ? – Xuân hỏi. Khiêm nhún vai. Cả hai tiếp tục buổi câu cá trên bờ sông như họ vẫn thường ngồi chung như vậy. - Nhóm đảo chính chọn ngày Quốc khánh 26-10 nhưng chưa được Mỹ cho phép... - Luân bảo Dung. - Hoãn có nghĩa là sẽ xảy ra và xảy ra không xa ngày 26-10 bao nhiêu... - Ta ra tay liền sau 26-10. – Nhu bảo Luân khi Luân được gọi vào dinh Gia Long – Tôi bàn với Tôn Thất Đính thực hiện một cuộc đảo chính gọi là kế hoạch Bravo. Giải tán toàn bộ chính phủ, tống giam một số tướng tá khả nghi, thiết lập tòa án binh xét xử ngay... Tổng thống sẽ tuyên bố trao quyền cho tôi. Đây, anh xem bài tôi sẽ phát biểu trên vô tuyến. Luân nhận tờ giấy và đọc dòng mở đầu: “Nhân danh Chủ tịch Ủy ban cứu nước, tôi tuyên bố từ nay cho đến khi tình hình trở lại bình thường, Tổng thống Ngô Đình Diệm không đảm đương công việc nước. Chủ tịch Ủy ban cứu quốc sẽ kiêm nhiệm quyền Quốc trưởng, chủ tọa nội các và Tổng tư lệnh tối cao... ” Nhu và Luân không hề biết, vào lúc đó, một “giáo sư” đoán điềm giải mộng và chiết tự nổi tiếng tên là Minh Tân gặp Thiếu tướng Tư lệnh quân đoàn 3 và vùng 3 chiến thuật, kiêm Tổng trấn Sài Gòn Tôn Thất Đính ở nhà riêng của thiếu tướng, theo môi giới của Ly Kai. - Tôi ghét dị đoan! – Đính bảo – Như Huỳnh Văn Cao, bất cứ điều gì xảy ra ông ta cũng nhờ Đức Mẹ báo mộng... - Thiếu tướng yên trí... Tôi là một nhà khoa học. Tôi chỉ phân tích trên cơ sở khoa học. Thiếu tướng, xin lỗi, tên Đính. Tôi chưa rõ cụ thân sinh đặt tên thiếu tướng theo chữ nào? Có nhiều chữ Đính... Tôn Thất Đính cười: - Răng mà tôi biết! - Cũng được... Đính bộ “Thạch” có nghĩa là hòn đá cột vào neo để giữ thuyền khỏi lắc lư mà cũng có nghĩa là cây cột gỗ để cột thuyền. Đính bộ “Kim” là đóng, như đinh đóng vào cột ấy. Đính bộ “Ngôn” nghĩa là ước hẹn và giữ lời, còn có nghĩa là nơi cao nhất, ví dụ hình tam giác thì nơi chóp bu là đính. Đính thiên lập địa: đội trời đạp đất... Đính nha, cái mầm non trên chóp cây – bourgeon terminal... Đính với chừng ấy nghĩa... Lúc đầu, Tôn Thất Đính nghe lơ đãng, nhưng càng về sau càng chú ý. - Lạ thật! – Đính nói thầm – Quả là điềm lành... Tên ta không có một nghĩa nào xấu cả? Nhất là cái nghĩa sommet của một triangle (5)... Tam đầu chế! Đính thưởng cho “giáo sư” Minh Tân thật hậu. Hôm sau, Đính vui miệng khoe với Luân về những kỳ ảo quanh cái tên của mình. Luân chia vui với Đính. Luân biết gã thầy bói còn giấu ba cái nghĩa xấu của chữ “đính”. Một là “say rượu” hai là “cúi đầu sát đất”, ba là “mạo tên người khác”... Có vẻ ba cái nghĩa sau thích hợp với viên tướng hoàng tộc này hơn. Và, Luân tư lự: - “Bravo” sẽ tiếp sau như thế nào? --- (1) Những vấn đề nội tại của Nam Việt. (2) Xin lỗi! Tôi bận. Đại tá Luân đang có mặt ở đây. Ông có muốn nói chuyện với ông ấy không? (3) Vừa đánh vừa rút lui (4) tức Afghanistan (5) Đỉnh của tam giác.
__________________
![]() |
#3
|
||||
|
||||
![]() Ván Bài Lật Ngửa Phần 8 - Chương 1 Vòng hoa trước mộ Giữa tháng 9, chính phủ Ngô Đình Diệm tung ra một đòn ngoạn mục: chấm dứt tình trạng giới nghiêm trên toàn quốc kể từ 12 giờ trưa ngày 14. Thoạt nhìn, người ta có thể ngỡ rằng nội tình Việt Nam Cộng hòa đã được ổn định. Tổng thống Ngô Đình Diệm có vẻ lờ mờ về một hiện thực như vậy, trong khi cố vấn Ngô Đình Nhu có một cái nhìn khác hẳn. Nhu không rời bỏ chủ trương cho nổ ra một cuộc đảo chính giả để quét mọi thế lực chống đối theo kế hoạch mà anh ta đã trao đổi với Luân. Sở dĩ Nhu chưa bật đèn xanh cho Tôn Thất Đính là vì anh ta muốn Tổng ủy tình báo đánh giá thật chặt chẽ khả năng lợi dụng của Việt Cộng một khi Hội đồng cứu quốc do Nhu điều khiển thay cho chính phủ. Nhu cũng muốn chờ tin tức của Trần Lệ Xuân trong chuyến đi “giải độc”, nhất là tại Mỹ. Theo Nhu, biện pháp cứng rắn của Việt Nam Cộng hòa phải được sự đồng tình của một bộ phận dư luận Mỹ, đặc biệt là thượng nghị viện. Ngày 20-9, khối Á – Phi, với lời lẽ ôn hoà, yêu cầu Việt Nam Cộng hòa trình bày trước Đại hội đồng Liên hợp quốc vấn đề Phật giáo. Như vậy, bản thân khối Á – Phi cũng không hoàn toàn đồng nhất với kiến nghị do Afghanistan, Nepal và Cambodia đề xuất. Trên tất cả, một vài nguồn tin phần nào khích lệ Nhu: Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn phân hóa, một bộ phận chống Ngô Đình Diệm, một bộ phận ủng hộ. Trước khi rời Việt Nam sang Arabie Seoudite, giáo sư Fishell đã gặp Nhu. Hơn 2 tiếng đồng hồ, Nhu và Fishell trao đổi như hai người bạn chí thân, thông cảm và chia xẻ với nhau mọi phấn khởi và lo lắng. Fishell không giấu giếm về sức ép ngày một tăng trong giới cầm quyền Mỹ cho một sự thay đổi căn bản ở Nam Việt Nam mà tổng thống Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu là mục tiêu hàng đầu. Nhưng tay trùm CIA nhấn mạnh rằng tổng thống Kennedy đủ sáng suốt để thấy Ngô Đình Diệm là nhân vật không thể thay thế được trong sự nghiệp chiến thắng Cộng sản trên bán đảo Đông Dương và là tối cần thiết đối với sự có mặt của mặt tại khu vực Đông Nam Á. Tất nhiên, vấn đề Phật giáo đang gây rầy rà cho Diệm, nếu chính phủ Việt Nam Cộng hòa xử lý thật gọn vấn đề này thì quả bong bóng chống Diệm sẽ lập tức xẹp xuống – Fishell khuyên nhủ Nhu như vậy. “Xử lý bằng cách nào, tùy các ngài, miễn là nó không đẻ số. Cách nào cũng phải thật gọn”. Fishell nói thêm. Nhu không hé môi với Fishell về kế hoạch “Bravo” nhưng rõ ràng quan điểm của Fishell phù hợp với quan điểm của Nhu. Nhu nhận được một điện tín của Trần Lệ Xuân gửi từ Belgrade: “Hội nghị liên hiệp nghị sĩ thế giới vừa bế mạc. Đại biểu Việt Nam Cộng hòa đã trình bày đầy đủ, với nhiều tài liệu và hình ảnh, về chính sách của Việt Nam Cộng hòa đối với Phật giáo cũng như đối với tín ngưỡng và nhân quyền nói chung. Trừ các phái đoàn Cộng sản và một số nước không Cộng sản bị thông tin xuyên tạc, hầu hết các phái đoàn đại biểu hoan nghênh chính sách của chúng ta cũng như cám ơn đoàn đại biểu chúng ta đã cung cấp cho họ những sự thật không thể chối cãi. Khác với nhận định khi chúng tôi còn ở nhà, vị thế của Việt Nam Cộng hòa không vì vấn đề Phật giáo mà lung lay. Qua hội nghị này, chúng tôi thấy rõ sự cần thiết phải gấp rút “giải độc” dư luận chung trên thế giới. Đề nghị chính phủ cử thêm nhiều đoàn công cán nước ngoài, nếu được một số nhà sư có tên tuổi trong các đoàn công cán ấy thì rất có lợi... ” Điện tín bổ sung cho cuộc nói chuyện bằng điện thoại giữa Nhu và Lệ Xuân: - Anh đó hả? Em đây... - Em khỏe không? - Khỏe. Rất khỏe! Anh thế nào? Nên nghỉ ngơi, anh nhé. Tình hình sẽ bình thường thôi. Các con thế nào? Anh Tổng thống khỏe không? Gia đình có việc gì mới không? - Bình thường... Em nhớ tranh thủ thêm nhiều bạn, cân nhắc lời lẽ. Anh mừng thấy việc làm của em thu kết quả tốt. Anh Tổng thống cũng mừng. - Cân nhắc lời lẽ là thế nào? Không đánh động dư luận một cách mạnh mẽ thì không bịt mồm được bọn nói láo và không tỉnh ngộ được bạn bè. Anh tin là em làm bất cứ việc gì cũng đều suy xét cẩn thận. Ra ngoài em mới thấy lối nhượng bộ của chúng ta là vô cùng tai hại. Em đã điện cho giáo sư Bửu Hội phải phát hành một kháng thư phản đối việc Đại hội đồng Liên hiệp quốc mang nội tình của Việt Nam Cộng hòa ra thảo luận... Em sắp bay sang Balê. Có thể gặp Đức cha ở đó, trước khi Đức cha triều kiến Giáo hoàng. Nếu Đức cha đồng ý em sẽ sang La Mã... - Có nên không? - Nên. Rất nên! Em và Lệ Thủy sẽ thăm Hy Lạp... Mẹ con em thanh thản như người du lịch. - Chúc em mạnh, vui... Hôn Lệ Thủy. - Nếu em chưa về, anh có định sang Pháp không? Em muốn gặp anh, rất nhớ anh. Lệ Thủy nhớ ba lắm. - Anh chưa định... công việc còn bề bộn qua... - Vụ “Triangle”... -... Anh định nhờ anh Luân lo. - Được lắm... Thôi, hôn anh nhiều, hôn các con. Kính chào Tổng thống. Thăm gia đình. Anh nói giùm với Thùy Dung: Cô ấy đừng quên điều em dặn tại sân bay... Lệ Thủy đi chơi, nó sẽ tiếc không được nói chuyện với ba... * - Tôi bàn với anh một việc tuyệt mật và thượng khẩn... – Nhu bảo Luân vào buổi sáng đầu tháng 10.Mở đầu trịnh trọng như vậy nhưng Nhu lại không vào đề ngay. Anh ta hớp từng hớp cà phê, mắt dò xét Luân. “Việc gì?”. Luân chưa đoán ra. Kế hoạch “Bravo”? Thì Nhu đã lật sấp lật ngửa, thậm chí đã đưa cho Luân đọc bản thông cáo viết sẵn một khi “cuộc đảo chính” do Nhu đạo diễn nổ ra. Hay Nhu định phái anh vào chiến khu gặp “phía bên kia”? Không chắc. Gần đây. Nhu ít trở lại đề tài này, có vẻ anh ta cho rằng con đường thỏa hiệp với Mặt trận dân tộc giải phóng mất hết các cơ sở hiện thực. Thế thì việc gì? Tách cà phê đã cạn, Nhu ngả người rít thuốc. Đến 10 phút trôi qua. - Tôi suy tính kỹ rồi, chỉ có anh gánh vác nổi việc này. Anh đừng băn khoăn tại sao tôi rào đón và ngập ngừng trrước khi nói với anh. Anh còn nhớ một lần, sau vụ Nguyễn Chánh Thi, lúc Nolting mới sang, tôi có trao đổi với anh về tài chính của ta. Luân nhớ, bấy giờ để trả lời lo lắng của Luân về khả năng dùng áp lực tài chính để bóp cổ chế độ Nam Việt của Tổng thống Diệm, Nhu bảo rằng anh ta “có cách”. “Cách” của Nhu không phải là một khẩu hiệu chính trị. Lúc đó, Luân mơ hồ. Nhu hỏi Luân, rất nghiêm chỉnh: - Có khi nào anh nghe nhắc một người thuộc dân đảo Corse, tên Francisci hay không? - Có, ông ta là trùm buôn nha phiến... - Đúng rồi... Thế, có khi nào anh nghe nói đến “Tam giác vàng” không? - Báo chí thế giới nhắc đến khu vực này không chỉ một lần... - Công việc mà tôi sắp bàn với anh liên quan đến tên người và tên địa phương đó. Luân bị bất ngờ. Cái mà Nhu gọi là “tuyệt mật” và “thượng khẩn” lại liên quan đến một tên buôn lậu nha phiến sừng sỏ và khu vực sản xuấtkhối lượng lớn nhất thứ hàng hóa giết người này. - Chắc anh phân vân. Chẳng lẽ anh lại xếp tôi vào hạng buôn lậu nha phiến? – Nhu cười. Luân cố kiềm chế để không nhìn đôi môi bắt đầu thâm của Nhu. Những người chống Nhu rêu rao Nhu nghiện á phiện từ nhiều chục năm, Luân biết không phải như vậy: Nhu mới đánh bạn với ả phù dung vài tháng nay, có thể từ sau biến cố Phật giáo ở Huế. Anh ta cần “ngoại viện” cho bộ não thêm hưng phấn trước bao nhiêu là sự cố dồn đập, toàn là sự cố thách thức sự tồn vong của chế độ Nam Việt. Chẳng rõ Trần Lệ Xuân phản ứng cái tật nguy hiểm này ra sao, riêng Luân, đôi lần theo lối thông cảm bạn bè, khuyên Nhu nên tránh hoặc nên bớt hút. Mỗi lần như vậy, Nhu chỉ thở dài. Anh ta thừa hiểu tác hại của mỗi liều á phiện. Nhưng, - Luân đoán – anh ta quá mệt mỏi. Dù sao, việc mà Nhu sắp giao cho Luân không phải do nhu cầu riêng của Nhu – nó chẳng là bao; vài cân thuốc phiện dự trữ là quá thừa... - Chính phủ Mỹ giảm viện trợ kinh tế cho chúng ta. Không loại trừ khả năng, đến một lúc nào đó, họ dùng viện trợ để đánh chúng ta một cú quyết định. Tôi không muốn ngã quỵ như một tên ăn xin, khi kẻ cho tiền khóa tủ sắt, chúng ta chỉ còn nước đầu hàng. Những chuyến buôn nha phiến đã giúp chúng ta chống đỡ, từ năm 1962 đến nay. Chúng ta đang cần rất nhiều tiền. Nhưng những cơ sở chế biến heroine đặt ở Bắc Lào nay không còn an toàn vì Pathét Lào mở rộng vùng kiểm soát của họ, tình hình ở Kontum cũng xáo trộn vì bọn Fulro lẫn lực lượng Mặt trận Giải phóng. Cơ sở chính của chúng ta đặt trong khu tam giác Lào – Trung Quốc – Miến Điện. Cần thêm vài đường băng cho máy bay sử dụng, cần thêm một số máy móc cho xưởng chế biến mở rộng. Anh cũng biết, “Tam giác vàng” luôn luôn rất an ninh bởi nó là vùng biên giới, thường hứng chịu các cuộc hành quân của nước này hay nước kia – kỳ thật, lực lượng biên phòng của mỗi nước không nhượng cho ai giữ độc quyền sản xuất heroine. Còn tàn quân của Tưởng Giới Thạch, còn các nhóm ly khai và nhất là còn sự can thiệp ráo tiết của tổ chức buôn lậu nha phiến quốc tế mà tổng hành dinh đặt tại Bangkok. Anh cần đến đó mộtlần để đánh giá khả năng phòng thủ và anh cho tôi biết kế hoạch tăng cường lực lượng vũ trang của chúng ta. Tôi đặt thiếu tá Nguyễn Thuần dưới quyền anh. Thiếu tá Thuần khá thành thạo vì trước đây anh ta thực hiện chỉ thị của Trần Kim Tuyến. Thuần là người có thể tin cậy được, nhưng cần phải giấu kín với Nguyễn Cao Kỳ... Tôi nói trước với anh: chuyến đi khá nguy hiểm và, tôi chỉ yêu cầu anh mỗi việc nghiên cứu cách bố phòng. Do đó, thời gian cũng eo hẹp – anh chỉ được tối đa là 10 ngày để lập một tờ trình, kể cả ngày đi và ngày về. Mọi chi tiết, thiếu tá Thuần sẽ báo cáo với anh... “Nguyễn Thuần? À, gã sĩ quan không quân gặp Dung ở biệt điện Ban Mê Thuột, trươc vụ ám sát hụt Ngô Đình Diệm... ” - Luân nhớ lại. - “Hình như anh ta gọi điện thoại xin lỗi Dung, nói rằng anh ta “làm quen” sỗ sàng với Dung không do ý riêng mà do “một mệnh lệnh” từ đâu đó... Thôi được, bây giờ là việc thi hành ý kiến của Nhu... Ta sẽ có lợi gì? Chẳng lẽ chuyển nghề thành “nhân viên kinh tài” cho Diệm – Nhu? Và “cách” Nhu giãy giụa khỏi thòng lọng tài chính của Mỹ là đây! Còn gã Trần Kim Tuyến nữa, trong các thứ hắn “sang sổ” cho mình, tuyệt nhiên không nhắc một lời về vụ pha phiến này... Gã lại đang ở Bangkok, tổng hành dinh của các “băng” buôn lậu... Có thể do đó mà Nhu sợ?... ” - Cần chăng một tổ chức như GMCA của Roger Triquier? - Luân hỏi. GMCA, chữ tắt của Groupe Mobile des Commandos Aeroportés – Nhóm biệt kích không vận cơ động. - Chà! Anh thông thạo dữ! – Nhu kinh ngạc ngó Luân – Có thể không cần đến mức đó... - Lúc tôi làm trưởng sở mật vụ kháng chiến, tên tuổi của viên thiếu tá Roger Trinquier cùng đội biệt kích của y thường xuất hiện trên các bản tin riêng. Y tuyển một lính sơn cước và hoạt động trong phạm vi “xứ Thái tự trị” ở Tây Bắc Việt và Bắc Lào, nơi sản xuất một lượng á phiện đáng kể... - Tình hình thay đổi, đã thay đổi nhiều! – Nhu thở dài – Hơn 10 năm rồi, còn gì! Trinquier vẫy vùng được nhờ địa bàn thuộc quân đội Pháp kiểm soát. Chắc anh thấy rõ, quân đội Pháp chết sống bám Nà Sản, Xiêng Khoảng, Điện Biên Phủ... không đơn thuần vì quan điểm chiến lược. Á phiện giữ một tỷ lệ không nhỏ trong quyết định của người Pháp... Nhu bộc lộ một luyến tiếc: Khu “Tam giác vàng” nằm ngoài khả năng khống chế của chính phủ Sài Gòn. Lúc bấy giờ, đầu những năm 1950 Trinquier thu á phiện sống, thường vào tháng 4, đưa về Vũng Tàu bằng máy bay quân sự. Từ Vũng Tàu, á phiện chuyển thẳng theo đường sông Soài Rạp hoặc đường bộ giao cho Bình Xuyên. Sĩ quan tình báo Savani chịu trách nhiệm kiểm tra các mối phân phối của Bình Xuyên chủ yếu qua Ly Kai và các nhóm người Hoa Chợ Lớn. Riêng Bảy Viễn, hắn có nhiều cơ sở chế biến đặt ngay trung tâm thành phố, tất nhiên ngụy trang với một cái tên nào đó. Thật sự, cả Bảo Đại lẫn Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm đều chia chác với Bảy Viễn, số tiền lên đến hàng trăm nghìn dollar... Sau này, những tên Pháp có máu mặt giành phần với số người Hoa – như Franchini, chủ khách sạn lớn Continetal: á phiện sơ chế hoặc tinh luyện tìm được nơi tiêu thụ quan trọng là các hải cảng trên nước Pháp. Pháp rút khỏi Đông Dương đồng nghĩa với sự cáo chung của đường dây buôn á phiện so Pháp bảo trợ. Nhu và Tuyến không bỏ lỡ cơ hội Trinquier, Franchini, Bảy Viễn bị tước đoạt mọi thứ và thay vào đó bằng bộ máy: vẫn những người Pháp dày dạn kinh nghiệm thu mua, vận chuyển và chế biến mà xưa kia vốn là đàn em; vẫn những người Hoa đông khách hàng. Francisci và Mã Tuyên nổi lên như “người hùng” của ngành buôn lậu á phiện, bây giờ, do Ngô Đình Nhu bảo trợ. Tàn dư của Trinquier chưa chịu bó tay. Nhưng Francisci thừa sức cho xộ khám hoặc tán gia bại sản những tên dám léo hánh đến “vương quốc á phiện” của anh ta như Enjahal, Labenski... - Anh lưu ý thêm sức chở, máy bay hai động cơ chỉ có thể mang non một tấn á phiện sống. Ít quá... Vả lại, từ “Tam giác vàng” về Sài Gòn, gần hàng nghìn cây số đường bay. Chúng ta bắt buộc phải bay trên không phận Lào đến Hạ Lào mới chuyển hướng sang cao nguyên Trung phần... Không thể không tiếp nhiên liệu ở sân bay Vattay Vientiane, sân bay Savanakhet, sân bay Liên Khương Đà Lạt... Hiện nay, còn có thể thả dù trên vịnh Thái Lan song đường bay khó đảm bảo, dễ lộ bí mật nếu ta dùng Phú Quốc làm trạm. Không thể thả dù ở biển Đông, thả gần bờ thì đụng thuyền đánh cá, thả ngoài khơi thì đụng tàu tuần của Mỹ. Nhất thiết “hàng” phải xuống sân bay Biên Hòa. Đáng tiếc căn cứ Sa Thầy đành đóng cửa nay mai, ta không thể chuyển tải được bằng trực thăng ra vịnh Cam Ranh. Cũng có vài đường băng đón máy bay hai động cơ, nhưng phần lớn của các đồn điền cao su Pháp... Tôi đã nghĩ đến vùng biên giới Nam phần giáp Cambốt đó là một chuyện sắp tới... Gọn hơn hết, ta chiết suất morphine, heroine tại “Tam giác vàng”, trọng tải nhẹ... - Francisci liên quan như thế nào với Savani?- Luân hỏi. - Cho tới bây giờ, không thấy dấu hiệu về sự liên quan đó... Chắc anh ngại Mai Hữu Xuân? Francisci ít về Sài Gòn và tôi có tài liệu về thái độ cay cú của Mai Hữu Xuân với Francisci... Xuân là bạn thân của Franchini. - Nguyễn Cao Kỳ? - Hắn từng được ông Tuyến giao vận chuyển “hàng”. Hắn và bạn bè của hắn như Lưu Kim Cương, Nguyễn Ngọc Loan nắm khá sâu công việc... Anh nên cẩn thận. Nhu căn dặn Luân y như giao cho anh một kế hoạch quan trọng, một chiến dịch cỡ “Bravo” chẳng hạn. Nhìn đối thủ của mình, Luân man mác trong lòng niềm thương hại: Nhà tư tưởng, nhà chiến lược của triều đình họ Ngô dồn tâm trí cho một cái râu ria của đại cuộc, tầm nhìn xa của anh ta chỉ đóng khung trong tuyến buôn lậu nha phiến và khói thuốc phiện quả rất giống lớp sương mù huyễn hoặc Nhu đến độ anh ta thổi phồng những cân bạch phiến lên mức cứu tinh toàn chế độ... - Giá mà “Tam giác vàng” nằm ở một nơi như Xuân Lộc! – Nhu nói giọng tiếc rẻ. Luân cho rằng Nhu than thở về sự cách trở đối với nguồn tài chính mà anh ta cần. Nhưng, không phải, bởi Nhu nói tiếp: - “Tam giác vàng” ở Xuân Lộc, ở Hớn Quản, ở Bảo Lộc... Chúng ta sẽ xây dựng chiến khu tại một nơi tuyệt vời như vậy! Luân cố giấu nụ cười mỉa. Nhu dự kiến cả chiến khu, thật trớ trêu, chiến khu mà Nhu tưởng tượng dính dáng với những cây anh túc cho chất nhựa, ru con người những phút lâng lâng quên đời, hoặc – trộn với giấm thanh – đẩy vào cái chết vô phương cứu chữa... * AI ĐÃ ĐẨY TỔNG THỐNG KENNEDY VÀO CON ĐƯỜNG BẾ TẮC Ở VIỆT NAM(Frank Connif – New York American Journal). Chúng ta đang mắc vào mớ chỉ rối ở Việt Nam và có lẽ đã đến lúc cần xem xét vì đâu chúng ta lại bị sa trong vũng lầy đó. Tổng thống Kennedy dường như đã bảo đảm cho Bộ Ngoại giao thì hành một kế hoạch để phá hoại một chính phủ đồng minh đang chiến đấu chống Cộng sản, bằng những mưu kế nửa mùa. Không một ai đầy đủ lý trí lại dám chê trách gì Tổng thống Kennedy về việc để mất nước Cuba lọt vào tay Cộng sản bởi vì vụ ấy đã xảy ra từ thời Tổng thống Eisenhower với sự góp sức của hệ thống tin tức của nó: tờ New York Times. Cũng trong tình trạng này, sẽ không một ai có thể tha thứ cho Tổng thống Kennedy nếu ông bắt chước những hành động trong thời Eisenhower bằng cách chấp thuận việc lật đổ một chính phủ đã từng chiến đấu chống Cộng trong 9 năm trường như Eisenhower đã bỏ rơi Batista vào lúc nguy nan nhất. Việt Nam là một món quà của tờ New York Times tặng Tổng thống Kennedy thuộc loại một trái bom chính trị nổ chậm chẳng khác nào trước đây họ tặng Cuba cho Tổng thống Eisenhower. Hơn nữa, không căn cứ vào những bài tường thuật mà chỉ vào quyết định của những bài bình luận, tờ New York Times đã biến đổi một cuộc tranh chấp chính trị nội bộ thành một cuộc chiến tranh giữa những người Công giáo và những người Phật giáo. Quả thật không cần ai vẽ cho ông Kennedy mới biết về ảnh hưởng chính trị của lời phỏng định hoàn toàn sai lầm đó... Cần phải nhắc rằng, ngày 8-5-1963, cuộc tranh chấp giữa Tổng thống Ngô Đình Diệm và các tín đồ Phật giáo bùng nổ thì 10 ngày sau, tướng Maxwell Taylor, chủ tịch Hội đồng tham mưu liên quân Hoa Kỳ đã tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn dành cho tập đoàn báo chí Hearst: Tôi có thể nói là cuộc chiến tranh ấy đang diễn tiến khá tốt đẹp; chúng tôi đang đạt được những thắng lợi thật sự, từng tháng một... Giữa lúc đó thì việc gì đã xảy ra? Tổng hội Phật giáo tiếp tục hoạt động bí mật chống chính phủ của Tổng thống Ngô Đình Diệm, gây ra một cuộc tuyên truyền phá hoại mà không một chính phủ nào có thể tha thứ được trong thời kỳ chiến tranh. Bây giờ thì tờ New York Times đòi “triệt hạ” Tổng thống Ngô Đình Diệm, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ a dua theo luận điệu đó và Tổng thống Kennedy đã nghe họ. Nhưng chỉ mới đây thôi, chính trị cố vấn quân sự mà Tổng thống Hoa Kỳ tự ý lựa chọn để mạt sát những cố gắng về chiến tranh tại Việt Nam dưới quyền lãnh đạo của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Hai thái độ này quả là không ăn khớp với nhau chút nào. Quan niệm của chúng tôi là: Nếu có bao giờ cần phải chờ để cho bụi lắng xuống, thì đó chính là lúc mà cuộc tranh chấp giữa Tổng thống Ngô Đình Diệm và Phật giáo đồ trở nên công khai. Chúng ta không biết rõ rệt về những gì đang diễn ra ở Việt Nam thì Tổng thống Kennedy và Bộ Ngoại giao có thể chờ đợi cho đến khi sự thật rõ ràng ra đã. Nhưng thay vì làm như vậy, chính phủ một lần nữa lại ngoan ngoãn nghe theo lối bình luận của tờ New York Times. Họ sẽ bị gậy ông đập lưng ông! * ĐÀI PHÁT THANH AUSTRALIA PHỎNG VẤN TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM(Do phóng viên phụ trách Đông Nam Á Peter Barnett thực hiện) HỎI: Những cuộc tranh chấp mới đây (với Phật giáo đồ) có dấu hiệu nào tỏ ra có ảnh hưởng đến tinh hình chính sự của miền Nam Việt Nam hay ảnh hưởng đến tinh thần của các sĩ quan và binh sĩ hiện đang hành quân không? ĐÁP: Có và không. Có, vì rằng lúc đầu nhờ ở sự ngụy trang hết sức khéo léo, chiến dịch tuyên truyền do một nhóm nhà sư phản loạn phát động đã tạo được đôi chút ảnh hưởng tại một vài thị trấn, phần lớn là trong số các phụ nữ đã đứng tuổi và các thanh niên. Không, vì càng ngày chiến dịch đó càng mở rộng, những sự bịa đặt quá đáng và những mục tiêu chính trị phản quốc gia ngày càng trở nên rõ rệt và đã gây ra một ảnh hưởng ngược lại, nghĩa là làm cho quân đội căm phẫn và đoàn kết. Sự kiện đó đã đưa tới việc ban hành tình trạng giới nghiêm như ông đã thấy. Thật là một điều hết sức đáng tiếc là báo chí ngoại quốc đã đóng một vai trò chính yếu đầu độc dư luận thế giới, về “vụ Phật giáo” này. Thật ra vụ Phật giáo có rất ít tính cách Phật giáo và hơn nữa còn đi ngược những quyền lợi cao cả của Phật giáo. HỎI: trong giai đoạn hiện tại, Tổng thống có thấy cách nào vượt qua những sự bất đồng chính kiến giữa Tổng thống với các đồng minh của Tổng thống không? ĐÁP: Hiện đang có một âm mưu quốc tế lớn lao, song song với âm mưu Cộng sản quốc tế chống lại chính phủ Việt Nam. Khi thi hành tình trạng giới nghiêm, quân đội đã tịch thu tại các chùa nhiều tài liệu, hiện đang còn được nghiên cứu. Những tài liệu này chứng tỏ một âm mưu rộng lớn đã được sắp đặt chống chính phủ chúng tôi. Một trong những căn bản của âm mưu ấy là chiến dịch đầu độc dư luận quốc tế như hiện đang diễn ra trước mắt ông. Các bạn hữu của Việt Nam có bổn phận làm sang tỏ dư luận nhân dân nước họ, giải độc thế giới tự do, hơn là đòi hỏi chúng tôi phải làm việc đó, vì chúng tôi chỉ là nạn nhân của chiến dịch đó mà thôi. Nếu không có sự giúp đỡ đó, chúng tôi quả thật không thể vừa làm được công việc đó, vừa tiếp tục cuộc chiến tranh chống Cộng sản. HỎI: Tổng thống có thể cho chúng tôi biết ý kiến về các tin đồn rằng có những người trong gia đình Tổng thống muốn đảm nhiệm việc điều khiển quốc gia thay Tổng thống không? ĐÁP: Những tin đồn ấy là một trong những khí giới chính yếu của chiến dịch đầu độc khổng lồ nhắm nhiều mục tiêu cùng lúc: làm nản lòng những người có thiện chí, cắt đứt Việt Nam với các đồng minh, gây chia rẽ giữa nhân dân và chính phủ, gieo rắc sự ngờ vực và hoang mang khắp nơi v.v... Đó là cuộc chiến tranh cân não phụ họa vào cuộc chiến tranh nóng mà tôi cần vượt qua. Tôi có thể bảo đảm với ông rằng, không có một người nào trong gia đình tôi muốn chiếm đoạt địa vị của tôi. Trong tình thế hiện tại, địa vị ấy thật không có gì đáng mong muốn cho lắm! Những kẻ muốn thay thế tôi chỉ nghĩ đến việc ấy khi trong thâm tâm họ tưởng rằng có một cường quốc bảo hộ nào đó sẽ đảm nhiệm trên thực tế những trách vụ nặng nề của vị nguyên thủ quốc gia. Nhưng cường quốc ấy không bao giờ có. * ĐẠI SỨ CABOT LODGE KHÔNG PHẢI LÀ NGƯỜI ĐE DỌA RỔNG TUẾCH(Bài của báo New York Forum) Tổng thống Kennedy đã hoạt động một cách sốt sắng và vất vả trong vụ khủng hoảng ở Việt Nam, nhưng ông đã thất bại. Trước hết là Tổng thống Kennedy đã không nhận thức được sớm hơn tính cách quan trọng của cuộc khủng hoảng và các Phật giáo đồ đã châm ngòi vào kho thuốc súng. Tổng thống đã để cho tình thế rối nát đến mức ông không còn biết xử sự cách nào nữa. Vì không biết xử sự cách nào nên dĩ nhiên là Tổng thống đã làm những việc không nên làm. Đáng lẽ đừng làm gì cả khi người ta không biết chắc cần phải làm gì. Tổng thống lại bắt đầu lên tiếng. Việc đó đã làm cho tình trở nên tệ hại hơn nữa, bởi vì Tổng thống đã nói những điều không đúng, không đúng lúc và cũng không đúng chỗ. Ngoài ra, cũng có nhiều người khác lên tiếng nữa. Một phát ngôn viên Bộ Ngoại giao đã tuyên bố về nhiều việc rất tế nhị, chẳng hạn như việc thay thế và lật đổ một chính phủ ngoại quốc. Và chỉ cốt để cho nhân dân Việt Nam thấy rõ điều đó, Đài tiếng nói Hoa Kỳ liền phát thanh những lời tuyên bố ấy. Kết quả, cả Tổng thống Kennedy và các cộng sự viên của ông với những lời tuyên bố lảm nhảm đó, đã không làm được gì hơn là để lộ cho người ta thấy rõ sự thất bại, sự mất bình tĩnh và sự phân vân của họ. Đây quả thật là những đám mây mờ Á châu. Họ đã nói rõ là họ muốn tổ chức lại hoặc lật đổ chính phủ “độc tài” của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Và cũng sau đó, họ lại nói một cách không kém rõ ràng là họ không muốn lật đổ chể độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm, nếu việc này là một sự mạo hiểm có thể dẫn tới việc đưa toàn thể miền Nam Việt Nam vào chế độ Cộng sản. Tổng thống Kennedy bây giờ có thể nhận ra rằng tình thế nghiêm trọng đến nỗi ông cần phải đề cao các nhà chuyên nghiệp trách nhiệm giải quyết. Nói cho cùng, chúng ta đã có một nhà ngoại giao giàu kinh nghiệm ngay tại chỗ là Đại sứ Cabot Lodge. Đại sứ là người không khờ dại công khai đe dọa rỗng tuếc. Dùng biện pháp ngoại giao ôn hòa, đại sứ có thể đem lại yên ổn nội bộ tại Việt Nam và giữa Sài Gòn và Washington. * TUYÊN BỐ CỦA CỐ VẤN NGÔ ĐÌNH NHU(tại cuộc họp báo ở dinh Gia Long) Theo cái đà tiến triển chung hiện nay của nước nhà, tôi tin rằng trong 2 năm nữa, mình (người Việt miền Nam nói chung) sẽ có đủ tự do, tự do ngôn luận, tự do hội họp v.v... Tuy nhiên mình cũng phải biết tránh sự phá hoại của Cộng sản lợi dụng tự do của mình mà đập mình. Thời gian 2 năm không phải cái mức nhất định, mà mình tranh đấu tới cấp nào thì hưởng tới cấp đó. Không phải tranh đấu tới với chính phủ Ngô Đình Diệm, mà mình phải biết đặt đối tượng tranh đấu. Đối tượng tranh đấu của chúng ta hiện nay là Phong – Thực – Cộng. Mà Phong – Thực – Cộng ở đâu? Chính ở ngay trong mình và ở chung quanh mình. * Trả lời phỏng vấn vô tuyến truyền hình NBC của Tổng thống Mỹ Kennedy (tóm tắt)1- Không có sự rút lui của quân đội Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam trong điều kiện hiện nay. 2- Nếu Việt Nam Cộng hòa sụp đổ thì toàn miền Đông Nam Á sẽ sụp đổ theo. 3- Hoa Kỳ không thể mong mỏi Việt Nam làm bất cứ điều gì theo ý muốn của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, chính phủ Hoa Kỳ mong chính phủ miền Nam Việt Nam áp dụng những biện pháp cần thiết hầu có thể lấy lại sự ủng hộ của dân chúng; việc này cần một khoảng thời gian và chúng ta cần phải kiên nhẫn. Bất kể như thế nào, không thể để tình hình phát triển như đã phát triển ở Trung Quốc sau Thế chiến thứ hai. Trung ương tình báo Mỹ không làm bất cứ điều gì để chống lại chính phủ của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Giám đốc trung tâm, ông McCone thường xuyên tham dự Hội đồng an ninh quốc gia và chính tôi – Tổng thống Mỹ - quyết định chính sách chứ không phải ai khác. Có nhiều người Mỹ sốt ruột trước các diễn biến ở Đông Nam Á, khuyên chính phủ Mỹ nên rút lui. Như vậy, chỉ có lợi cho Cộng sản. Tôi tưởng, chúng ta nên ở lại. Chúng ta nên sử dụng ảnh hưởng của chúng ta một cách hết sức hữu hiệu nhưng chúng ta không nên rút lui. * CUỘC ĐẢO CHÍNH BẤT THÀNH ĐÃ ĐẶT HOA KỲ VÀO MỘT TÌNH TRẠNG LÚNG TÚNG VỀ VẤN ĐỀ VIỆT NAM(Washington Post). Bây giờ đã rõ ràng là trong tuần lễ trước, một số nhà lãnh đạo dân chính và quân sự Việt Nam, với sự khuyến khích của Hoa Kỳ, đã dự định hoạt động để lật đổ chế độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm hay ít nữa cũng loại ra khỏi chế độ ấy ảnh hưởng của ông Ngô Đình Nhu, bào đệ Tổng thống. Nhưng vào khoảng giữa tuần, vì những lý do mà ở Washington người ta chưa biết được rõ rệt, các nhà lãnh đạo dân chính và quân sự ấy đã quyết định bỏ rơi tất cả. Tuy vậy, vào ngày thứ hai tuần này, Tổng thống Kennedy lại tuyên bố rằng chế độ ở Việt Nam cần phải thay đổi “về chính sách hoặc có thể về nhân viên”. Sự thật là sự khuyến khích một cuộc đảo chính của Hoa Kỳ không có nghĩa đó phải là một cuộc đảo chính do cơ quan tình báo Trung ương điều khiển. Các nhân vật hữu trách ở đây quả quyết như thế. Điều đó có nghĩa là Hoa Kỳ đã minh xác – và hiện nay vẫn còn tiếp tục minh xác như thế - rằng Hoa Kỳ quan tâm hơn hết một chính phủ cương quyết theo đuổi cuộc chiến tranh chống Việt Cộng một cách thắng lợi. Như thế, đường lối của chính phủ Hoa Kỳ hiện nay tóm tắt như sau: Hoa Kỳ quan tâm nhiều đến những việc đang xảy ra hơn là việc ai cầm quyền. Rõ ràng là những người đang nắm quyền chính hiện này là Tổng thống Ngô Đình Diệm và ông cố vấn Ngô Đình Nhu cùng phu nhân, đã bắt đầu làm trở ngại cuộc điều khiển chiến tranh vì họ, đã làm cho dân chúng Việt Nam thất vọng. Những lời nhận xét của Tổng thống Kennedy, sau khi cuộc đảo chính không xảy ra, nhằm mục đích để cho Tổng thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu biết rằng Hoa Kỳ vẫn chưa hài lòng. Có thể Tổng thống Ngô Đình Diệm đã trả lời về vấn đề này trong cuộc phỏng vấn ngày hôm qua dành cho hãng thông tấn Associated Press về vụ Phật giáo và sinh viên. Điều người ta nghi ngờ ở đây là ông Ngô Đình Nhu có thể tin rằng ông có thể điều đình với Bắc Việt và lời tuyên bố của Tổng thống Pháp De Gaulle hôm gần đây có thể khuyến khích ông Nhu đi theo một đường lối như vậy. (L.T.S. – Trong cuộc phỏng vấn ngày 5-9-1963 dành cho các ký giả ngoại quốc, ông cố vấn Ngô Đình Nhu đã nói rằng việc thành lập một chính phủ liên hiệp với Bắc Việt phải có nhiều điều kiện tiên quyết, và lúc này không phải là lúc đề cập tới vấn đề đó). Tuy nhiên, các nhân vật hữu trách ở đây cho rằng ý định dùng Pháp để thay thế Hoa Kỳ - như một vài người nghĩ rằng ông Ngô Đình Nhu có thể cho là việc ấy làm được – là một sự khôi hài rõ rệt, vì chỉ có một mình Hoa Kỳ mới có đủ quân sự và muốn dùng quân lực ấy trong cuộc chiến tranh chống Việt Cộng (L.T.S. – Trong cuộc phỏng vấn dành cho ký giả ngoại quốc hôm 5-9-1963, ông cố vấn Ngô Đình Nhu đã nói rằng các lời tuyên bố của tướng De Gaulle có thể nhắm vào những viễn ảnh xa xôi của vị Quốc trưởng Pháp). Ngày nay, Hoa Kỳ trong tình trạng lúng túng, mặc dù không ai muốn thú nhận như thế. Nếu ông Ngô Đình Nhu vẫn còn giữ chức vị thì dù cho Tổng thống Ngô Đình Diệm nói thế nào đi nữa, Washington vẫn thắc mắc về vấn đề không biết cuộc chiến tranh (chống Cộng) có thể tiếp tục một cách thắng lợi nữa không. Và việc tiếp tục cuộc chiến tranh ấy, mà ở ngay Washington người ta cảm thấy có sự tiến triển hết sức tốt đẹp trong mấy tháng gần đây, chính là bí quyết của quyền lực và uy tín của Mỹ tại Đông Nam Á, một khúc rẽ quan trọng của cuộc chiến tranh lạnh chống Cộng sản trên toàn thế giới. * HỌ YÊU NƯỚC HƠN CẢ TÔI?Sài Gòn. Tổng thống Việt Nam Cộng hòa đã dành cho ông Peter Hunt, đại diện Hãng liên hiệp vô tuyến truyền thanh và truyền hình (Associated Rodifusion Ltd) một cuộc phóng vấn mà sau đây là bản dịch. HỎI: Các thông tín viên ngoại quốc từ Sài Gòn viết tin đi, tố cáo chính phủ quý quốc đàn áp Phật giáo đồ Việt Nam và như vậy, phá hoại nỗ lực cuộc chống Việt Cộng. Xin Tổng thống bình luận về những sự tố cáo ấy. ĐÁP: Các thông tín viên ngoại quốc tự phụ rằng họ yêu nước tôi hơn cả tôi. Đó là một điều rất lạ lùng. Các Phật giáo đồ không là nạn nhân của một chính sách đàn áp nào cả: họ là nạn nhân của chính sự thành công của họ, của sự phát triển quá mau lẹ, ngoài khả năng của họ về mặt cán bộ; do đó đã không tránh được việc đi sai chính đạo. Kể từ ngày tôi chấp chính năm 1954, nhờ ở chính sách khuyến khích tín ngưỡng tôn giáo của chính phủ tôi, 1.275 ngôi chùa mới đã được xây dựng và 1.295 ngôi khác được trùng tu, tính ra tất cả hơn gấp đôi số chùa có trước năm 1954. Vì vậy mới có vấn đề khủng hoảng về sự phát triển mau chóng mà chính các Phật giáo đồ có bổn phận phải tự giải quyết lấy trong nội bộ của họ; chính phủ chỉ có thể đảm bảo cho họ những điều kiện tự do à an ninh cần thiết để cho Tăng thống Phật giáo khỏi bị bọn quá khích và phần tử ngoại lai tràn ngập lấn át. Đó là điều mà chính phủ đã làm. Tăng thống Phật giáo đã nắm lại được các sư sãi và chùa chiền theo đường lối của riêng họ. HỎI: Chính phủ quý quốc đã theo chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ hay hình như đã làm như thế. Hiện nay tướng De Gaulle chủ trương một đường lối khác. Vậy kính xin Tổng thống cho chúng tôi được biết tôn ý về vấn đề này. ĐÁP: Nói rằng chính sách ngoại giao của chính phủ tôi nghiêng theo chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ thì thật không đúng. Hoa Kỳ là nước giúp chúng tôi mạnh nhất trong cuộc tranh đấu giải phóng chúng tôi, chúng tôi xét rằng tỏ rõ sự liên đới của chúng tôi với quốc gia này là một sự ngay thẳng tối thiểu. Tuyên bố của tướng De Gaulle không gửi cho chính phủ tôi, vì vậy chính phủ tôi không thấy cần bình luận gì về tuyên bố đó. * TUYÊN BỐ CỦA TỔNG THỐNG DE GAULLEĐông Dương luôn luôn chiếm một khoảng quan tâm rất lớn đối với nước Pháp. Những liên hệ lịch sử và văn hóa hàng thế kỷ đã khiến cho mọi người Pháp vui mừng hoặc lo lắng trước các biến động ở khu vực này. Sự tranh chấp, đôi khi đẫm máu, ở Đông Dương mang tính chất xung đột bộ phận trong một thế giới phân chia nhiều cực như hiện nay. Tôi không xem các chuyển biến đang xáo trộn tình hình Nam Việt Nam như một cái gì đơn độc, riêng lẻ. Lối ra của một thực tế như vậy chỉ có thể xuất phát từ chính sách khôn ngoan nhất của những người có trách nhiệm tại đây - ấy là chính sách trung lập. Mặc dù theo con đường không phải lúc nào cũng suôn sẻ, Vương quốc Lào đã tránh được hiểm họa nội chiến cùng sự đụng độ của các thế lực bên ngoài tại địa bàn này nhờ vào chính sách trung lập. Vương quốc Cambodie là một tấm gương đầy giá trị thuyết phục về sự đứng bên ngoài mọi tranh chấp ý thức hệ quốc tế. Nước Pháp, trong bổn phận cao quý của mình, sẵn sàng hỗ trợ cho nỗ lực của toàn bán đảo Đông Dương theo phương hướng mang đến phồn vinh và ổn định ấy... * HÃY CHẤM DỨT “TRẬN GIẶC” BẰNG VÔ TUYẾN TRUYỀN THANH, BÁO CHÍ VÀ TRUYỀN HÌNH(Trả lời báo chí của Tổng thống Mỹ Kennedy) HỎI: Tổng thống có thể cho biết chính sách của chính phủ Hoa Kỳ đối với chính phủ hiện hữu ở Việt Nam hay không? ĐÁP: Tôi đã từng tyên bố quan điểm của tôi như thế nào rồi. Chúng ta chủ trương áp dụng những hành động và chính sách khả dĩ giúp được cuộ chiến tranh ở đó. Đó là lý do tại sao 25.000 người Mỹ đã vượt 10.000 dặm để sang tham gia cuộc chiến đấu tại đây. Chúng ta ủng hộ những gì giúp chiến thắng cuộc chiến tranh đó. Và chúng ta chống lại những gì ngăn cản nỗ lực chiến đấu ở đó. Tôi đã từng tuyên bố rằng, bất cứ một hành động của bất cứ một chính phủ nào có thể làm hại đến sự chiến thắng trong cuộc chiến tranh đó cũng đều không phù hợp với chính sách và mục tiêu của chúng ta. Đây là sự thử thách mà tôi cho rằng, tất cả các cơ quan và các nhân viên trong chính phủ Hoa Kỳ cần phải đối phó trong tất cả mọi trường hợp. Và chúng ta sẽ đối phó với mối thử thách đó bằng nhiều đường lối khác nhau trong những tháng sắp tới, mặc dầu tôi không cho rằng, chúng ta nên trình bày tất cả mọi quan điểm của chúng ta trong lúc này. Theo ý tôi, những quan điểm này sẽ trở nên rõ rệt hơn về sau. Nhưng chúng ta có một chính sách rất giản dị ở đó. Và về một vài phương diện khác, tôi cho rằng dân chúng Việt Nam và chúng ta (dân chúng Hoa Kỳ) đều đồng ý: chúng ta muốn chiến thắng trong cuộc chiến tranh đó, muốn chận đứng Cộng sản và muốn người Mỹ trở về nước. Đó là chính sách của chúng ta và tôi tin chắc đó cũng là chính sách của nhân dân Việt Nam. Nhưng chúng ta không thể ở đây để chứng kiến một sự thất bại. Và chúng ta sẽ theo đuổi chính sách mà tôi vừa nói đến hôm nay, xúc tiến những chính nghĩa và những vấn đề sẽ giúp chiến thắng trong cuộc chiến tranh đó. HỎI: theo như ban nãy Tổng thống đã nói, phải chăng Tổng thống cho rằng, chừng nào mà ông Ngô Đình Nhu vẫn còn làm cố vấn cho Tổng thống Ngô Đình Diệm thì chừng đó, sẽ không có một sự thay đổi có ý nghĩa nào trong chính sách của chính phủ Việt Nam? ĐÁP: Ngoài những lời nói tổng quát đã từng được đưa ra cho Đại sứ Lodge và những người khác thảo luận đến. Tôi không thấy có một ích lợi nào để đem vấn đề này ra thảo luận trong lúc này. HỎI: Khi chỉ trích những chính sách và những lời bình luận của Tổng thống về Việt Nam có một vài điều nói rằng, Tổng thống hành động dựa theo những tin tức sai lầm và không được đầy đủ. Vậy xin Tổng thống cho biết ý kiến. ĐÁP: Tôi hành động dựa theo những quan điểm theo những ý kiến đồng nhất của những người Mỹ có kinh nghiệm hiện có mặt ở Việt Nam thuộc các giới quân sự, ngoại giao, cơ quan viện trợ và những người mà chỉ có một mối quan tâm duy nhất: mong muốn chiến thắng càng sớm bao nhiêu càng hay bấy nhiêu. Tôi xin nói rằng, tôi đã không nói nhiều đến mối quan tâm của họ đối với các vấn đề ở Việt Nam và chúng ta không có một mối quan tâm nào khác. Ngoài ra, như tôi đã từng nói trước đây, tôi cho rằng chúng ta may mắn có Đại sứ Lodge ở đó và tôi xin nói rằng, bất cứ một lời tuyên bố nào mà tôi đã đưa ra để bày tỏ mối quan tâm về tình hình Việt Nam cũng đều phản ánh quan điểm của ông Lodge và phản ánh một cách rất ôn hòa. HỎI: Tổng thống nghĩ như thế nào về bản nghị quyết của Thượng nghị sĩ Church định đệ trình, yêu cầu Tổng thống đừng viện trợ thêm cho Việt Nam nếu chính phủ Việt Nam không thay đổi chính sách và nhân viên của họ? ĐÁP: Bản nghị quyết của Thượng nghị sĩ Church phản ánh mối lo ngại của ông. Ông Church đặc biệt quan tâm tới Viễn Đông cũng như Thượng nghị sĩ Turson và một vài thượng nghị sĩ khác. Tôi đã từng trình bày quan điểm của tôi là chúng ta nên ở lại đó và tiếp tục trợ giúp miền Nam Việt Nam. Nhưng tôi cũng đã trình bày, tỏ rõ quan điểm của tôi là sự trợ giúp mà chúng ta cung cấp cho họ cần phải được sử dụng làm sao cho có hiệu lực nhất. Tôi nghĩ rằng, dường như đó cũng là quan điểm của Thượng nghị sĩ Church. HỎI: Tổng thống có nghĩ đến việc cho gia đình của các nhân viên Mỹ ở Việt Nam trở về nước hay không? ĐÁP: Như tôi đã nói, tôi cho rằng bất cứ một vấn đề nào mà chúng ta hiện đang cứu xét, tốt nhất cũng nên để cho chính phủ cứu xét và bất cứ một quyết định nào mà chúng ta đạt tới cũng sẽ được công bố vào lúc nào thích hợp nhất. HỎI: Gần đây, báo chí, các đài truyền thanh và truyền hình liên tục công bố các ý kiến rất trái ngược của các nhân vật Hoa Kỳ và Việt Nam về tình hình Nam Việt Nam. Tổng thống có cho đó là phương pháp thông tin mang ý nghĩa xây dựng hay không? ĐÁP: Tôi cho là nên chấm dứt các hình thái tạm gọi là “trận giặc” giật gân bằng báo chí, đài phát thanh và đài truyền hình ấy để các bên suy nghĩ và tìm đáp số cho những vấn đề tuy phức tạp nhưng vẫn chứa sẵn trong lòng nó những nhân tố giải quyết thỏa đáng. Phần 8 - Chương 2 “Chấm dứt cuộc chiến tranh bằng báo chí, truyền thanh và truyền hình để mở đầu cho một loại hình chiến tranh nào đây?” Dung đọc nhiều lần những câu trả lời trên báo của tổng thống Kennedy. Có vẻ người đứng đầu Nhà Trắng đã hết kiên nhẫn. Đây là những câu trả lời thằng thừng nhất của Kennedy sau nhiều lần trả lời úp mở. Kennedy không thể lẩn tránh các vấn đề mà lẽ ra ông ta cần tế nhị hơn, chẳng hạn như việc thay đổi Ngô Đình Diệm, cả số phận của con ngựa tuy nhiều chứng tật nhưng rất có công với Mỹ trong thời điểm Mỹ cố chen chân với Pháp ở Đông Dương. Có thể hiểu những câu trả lời này như là một tín hiệu cho phép đại sứ Cabot Lodge hành động hay không? Luân rời Sài Gòn lên Lào sang hôm nay, không kịp đọc những câu trả lời này. “Anh ấy nhạy cảm hơn mình. Trước khi đi, anh ấy bảo: Chúng ta không còn nhiều thì giờ... Anh ấy xem một tuần lễ chỉ cho vụ “Tam giác vàng” là phí phạm. Nghĩa là anh ấy đoán trước sắp có đột biến... ”. Dung miên man với cách suy nghĩ thì chuông ngoài cổng reo, chị Sáu vào báo: - James Casey đến. Gã trung tá Mỹ luôn luôn quấy rầy Dung. Và lần này, gã thừa biết Luân vắng nhà nên đến gặp Dung mà không xin phép trước. Dung có thể viện cớ này cớ khác để tống khứ gã sĩ quan Mỹ nhưng cô lại đắn đo. “Tại sao mình sợ? Mình sợ cái gì? Biết đâu qua James Casey, mình thêm được những cơ sở mới để báo cáo cho các anh?” Dung bảo chị Sáu mời James Casey vào phòng khách và cô đi thay quần áo. - Tôi muốn gặp đại tá... - James Casey bắt tay Dung. “Hình như gã chưa biết Luân không có mặt ở Sài Gòn.” Dung chợt nghĩ, và qua đôi mắt và cách nói của James Casey cô hiểu rằng gã đến đây không phải để tán tỉnh Dung. - Nhà tôi chưa về... Dung đưa đến quyết định: - Mời trung tá ngồi. - Xin lỗi, bà vừa đi làm về hay sắp đi đâu? - James Casey hỏi Dung bởi bộ đồng phục sĩ quan cảnh sát của Dung. Đây là lần đầu tiên Dung tiếp James Casey trong bộ đồng phục, không quên đính lên cầu vai cấp hiệu đại úy. - Tôi vừa đi làm về và sắp trở vào Tổng nha. James Casey ngồi xuống ghế. - Trung tá dùng chi? James Casey đưa tay ra hiệu từ chối: - Cám ơn bà, khỏi, tôi cũng rất bận... - Dạo này, Tổng nha Cảnh sát Quốc gia thường phải làm “việc đêm hay sao? - James Casey hỏi, Dung hiểu gã muốn khai thác ở Dung nhịp độ làm việc của Tổng nha cảnh sát - một dấu hiệu về độ khẩn trương của guồng máy an ninh Nam Việt, đại diện cho bộ thần kinh của chế độ. - Có lẽ gần ba tuần lễ rồi, không hôm nào tôi không làm đêm và chỉ về nhà sau 11 giờ. Không có luôn ngày Chủ nhật! Dung chọn lựa cách tiến công. - Thế đấy!- James Casey như đồng tình với Dung – Tôi cũng vậy, thậm chí mỗi đêm chỉ ngủ không quá 5 tiếng đồng hồ. - Tình hình mỗi lúc mỗi khó khăn... - Dung nói câu lơ lửng. - Đúng! - James Casey xác nhận. – Nhưng... James Casey cũng bỏ lửng chữ “nhưng’. Gã cười, không có vẻ gì bí hiểm. - Nhưng, – gã nói tiếp – Có lẽ đại tá đã trấn an bà: Tình hình khó khăn là trên tổng quát, liên quan đến những nhân vật đang “so găng” với nhau... Đại tá gần như một trọng tài, mà trọng tài thì khác đối thủ! Nếu phải dùng đến chữ “khó khăn” đối với đại tá, tôi cho rằng có thể đúng vào một trận đấu khác... - Một trận đấu khác hay một hiệp đấu khác? - Dung hỏi, như không quan tâm lắm sự tiết lộ của James Casey. Với Dung, một đảm bảo quan trọng về an toàn cho Luân... - Trận đấu! – James Casey xác định... - Thậm chí, tôi nghĩ đến một hiệp phụ nữa! – Dung vẫn lạnh lung. - Bà đánh giá vai trò quá thấp của đại tá... Thôi được... Hôm này, tôi muốn gặp đại tá bởi vì Tổng thống nước chúng tôi quyết định hưu chiến với ông Diệm trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Nhưng bà Nhu vẫn lắm lời. Bà Nhu lắm lời đặt Tổng thống nước chúng tôi vào thế mất sĩ diện. Một Tổng thống Mỹ giữ sĩ diện đồng nghĩa với một biến cố. Cả đại sứ Cabot Lodge, cả tướng Jones Stepp... dĩ nhiên, cả cá nhân tôi, chưa ai cho rằng mọi thứ đã chín muồi. Đặc biệt, đại tá – tôi nói rõ, đại tá Nguyễn Thành Luân – cần một thời gian đủ để chứng tỏ với dư luận Mỹ và với các thế lực chính trị Sài Gòn rằng ông luôn luôn có quan điểm độc lập. Tốt nhất, khớp mõm bà Nhu! Đừng dại dột đổ xăng vào lửa... Đại tá có thể làm việc đó, tức là can thiệp với ông Nhu hoặc ông Diệm. Đồng thời, đại tá nên khuyên ông Thục, khi sang dự Công đồng Vatican II, đừng khuấy động dư luận Ý. Giáo hoàng La Mã đang đứng trước một sự kiện tế nhị ở Nam Việt – ông ấy không thể công khai ủng hộ con chiên của mình đàn áp một tín ngưỡng khác... James Casey nói một thôi dài. - Người Mỹ muốn giữ chủ động cao... - Dung bình luận. - Bà nói chưa thật chính xác. Phải diễn đạt như thế này: Chúng ta muốn giữ chủ động cao. Chúng ta gồm tôi, những người Mỹ, và các bạn bè Việt Nam, trong đó, một khuôn mặt quan trọng là đại tá Luân. - Mấy giờ đại tá về? – James Casey xem đồng hồ tay. - Tôi không rõ. Nhà tôi không bảo hôm nay anh ấy làm việc ở đâu. - Chỗ ông Nhu chăng? - Tôi không dám chắc... - Thôi tôi đành phải đi. Khi nào đại tá về, bà thuật lại những điều tôi vừa nói với bà và tôi mong đại tá gọi điện cho tôi... Tốt nhất, gọi điện vào 7 giờ sáng... Tới bây giờ, James Casey mới nhìn Dung như gã từng nhìn trước đây... - Bà có biết khi cùng các người Mỹ phát quang con đường đi của đại tá, tôi đã làm một việc ngược lại với trái tim của tôi không? Dung nghiêm mặt: - Tôi sẽ nhắc nhà tôi gọi điện cho trung tá... Cô không chìa tay cho James Casey và không tiễn gã ra cửa. * John Hing ung dung bao nhiêu thì Lâm Sử bồn chồn bấy nhiêu. Cuộc gặp gỡ lần này diễn ra tại khách sạn Thu Thủy, Long Hải, theo yêu cầu của Sử, qua trung gian Bá Thượng Đài. Lâm Sử đề nghị gặp Hing trước ngày 26-10. Với các tin tức mà anh ta nắm, kể luôn phần tin do Ly Kai cung cấp, Sài Gòn sẽ đảo lộn dữ dội đúng vào ngày Quốc khánh hàng năm. Nhưng John Hing nhởn nhơ, hẹn rồi hoãn đến mấy lần. Ngày 26-10 nhích gần, Lâm Sử quá sốt ruột. Đến Bá Thượng Đài luôn, đôi khi đến cả Tần Hoài, Tào Phu. Các “ông vua” sắt, gỗ sốt ruột không kém Lâm Sử. Tin tức đảo chính lan truyền đến mức thành câu chuyện đầu môi của các tay phổ ky tiệm nước: “Hà, ngày mai ông Diệm không “hui nhị tì” (1) thì cũng “hui” sang ở chung với Xưởng Cái Xạch... (2)”. Nhưng ai lật Diệm? Các “ông vua” quan tâm điều đó hơn hết. Có tin đồn chính Nhu lật Diệm. Ối, thứ đảo chính “cụi” này chẳng ăn nhằm gì. Có tin đồn Dương Văn Minh lật Diệm... À, nếu quả vậy, còn chờ xem. Mai Hữu Xuân lật Diệm? Những tay bồ bịch lâu năm với các công ty Pháp mừng rơn. Tôn Thất Đính? Các “bar” sẽ mọc ra, đếm không xuể, “ chị em ta” rộng đường kiếm ăn!Lâm Sử cần báo cáo về Bắc Kinh – Hoa kiều vụ nhắc nhiều lần, qua đại sứ Trung Quốc ở Nam Vang. Hệ thống sưu tra tin tức của Lâm Sử quá yếu – những tay Hoa kiều giàu có tỏ ra kém khiếu chính trị - rốt lại, có mỗi Ly Kai là giúp được cho Lâm Sử ít nhiều. Sau này, Ly Kai làm cao, mỗi tin theo độ mật, lên giá vùn vụt. Không hiếm trường hợp Ly Kai cung cấp tin gọi là “tuyệt mật” nhưng thật ra hắn nghe lỏm hoặc là tin trên báo Mỹ mà hắn xào nấu lại, Lâm Sử cự hắn, hắn trả lời tỉnh bơ: Vậy thì thôi, ông tìm người khác! Lâm Sử không dám buông hắn – buông hắn thì còn biết khai thác tin chính trị ở ai? Bởi vậy, Lâm Sử hy vọng lần gặp John Hing này. Cuối cùng, Bá Thượng Đài móc nối, và hai người chọn Long Hải vào ngày giữa tuần, vắng khách. Họ trao đổi ngoài bãi cát. Đúng ra, Lâm Sử còn lâu mới có thể đối đầu với John Hing. Một thầy giáo tiểu học miền hẻo lánh đuối sức trước một tay lõi đời, tốt nghiệp đại học thương mại, cổ đông quan trọng trong nhiều công ty hỗn hợp Mỹ - Hongkong, chủ chứa nhiều song bạc và trên tất cả, một tình báo có cỡ đứng đầu một cơ quan tình báo tư nhân lớn nhất nước Mỹ, chuyên làm thuê cho những cơ quan tình báo nào trả tiền hời. Mấy lá bùa của Lâm Sử đều vô hiệu hóa: John Hing bĩu môi về cái luận điểm cách mạng thế giới của Mao, cười khẩy về “đại tiến vọt” ở Hoa lục. Cầu thần chú “Tổ quốc” là để John hốt hồn người khác chớ đâu phải để cho Lâm Sử lên gân với gã, cả thuyết “huyết thống” cũng vậy. - Đã gọi là hội đàm, mỗi bên phải mang đến cho bên kia một cái gì... Ông có cái gì? – John Hing đi thẳng vào cuộc trả giá. Lâm Sử không có cái gì cả, ngoài các mẩu tin vụn vặt. - Nghĩa là ông nhờ tôi hé cho ông vài tin để ông báo cáo cho Liêu Thừa Chí? – John Hing cười với vẻ thương hại – Tôi chưa gặp Nghị Lực, cánh Hoa vận của Việt Cộng, nhưng tôi nghĩ rằng Nghị Lực biết nhiều hơn ông... Lâm Sử thẹn đến chín người. “Có lẽ mình chưa chi đủ tiền cho bọn săn tin”, Lâm Sử chợt nghĩ. - Ông cần học tập cách hệ thống tình báo ở các nước mà đồng đôla có tiếng nói chung thẩm. – John Hing lên lớp một cách thô bạo – Tôi có thể cho ông biết vài tin, nhưng tôi biết chắc rằng ông không đủ tiền để trả cho tôi... - Ông cứ thử ra giá... - Lâm Sử muốn lấy lại một chút uy phong. John Hing lắc đầu: - Tôi không mơ ước làm cách mạng thế giới với khẩu súng trường và gói cơm khô, cho nên ông không thể trừ vào giá biểu những khẩu hiệu suông mà lại tính bằng đôla. Ông nên nhớ đơn vị thanh toán của tôi – trực tiếp với tôi, tôi nhắc lại – đều theo đơn vị gồm đến 5 con số và tôi chỉ quen với các ngoại tệ đôla Mỹ, Canada, quan Pháp và Thụy Sĩ, bảng Anh... Tôi không dùng đôla Hồng Kông, giá bấp bênh. Tôi cũng không dùng Yên của Nhật – nhiều chữ số quá, tốn giấy! Liệu ông có sẵn vài chục nghìn đôla Mỹ để mua một tin của tôi không? Một tin thôi nhé! Tất nhiên, tin của tôi xứng với giá biểu đó... Tỷ như, sắp tới, ai sẽ đứng lên lật đổ ông Diệm, chính sách đối ngoại của nhóm đảo chính ra sao, ngày nào đảo chính nổ. Đó là ba tin, mỗi tin không thể dưới năm vạn đôla... Sao? Ông không đủ tiền? Lâm Sử im lặng. Đúng là những tin cực kỳ hấp dẫn. Bắc Kinh mà nhận được, anh ta sẽ lên như diều. Bắc Kinh nhận sớm, sẽ có chỉ thị cho anh ta, anh ta đủ thì giờ xoay xở. Nhưng, món tiền quá lớn. Tào Phu, Tần Hoài, Bá Thượng Đài... không ai đủ “lòng yêu Tổ quốc” đến mức mở tủ sắt tuôn ra chừng ấy đôla. Đại sứ Trung Cộng ở Nam Vang nhất định “chỉnh” Lâm Sử nếu nghe yêu cầu chi xuất như vậy: Phải dựa vào người Hoa khai minh! Không thể nào dám gửi về Hoa kiều vụ Bắc Kinh một đề nghị như vậy. John Hing đứng lên, phủi những hạt cát bám vào quần. Lâm Sử ủ rũ. - Có lẽ tôi không nên quá nghiêm khắc với ông. – John Hing nheo mắt ngó Lâm Sử - Dẫu sao, nhờ ông mà tôi được nghỉ ngơi tại bãi biển tuyệt đẹp này... Tôi báo cho ông: ngày 26-10 không có cái gì xảy ra cả, tôi cam đoan... - Còn sau ngày 26-10? – Lâm Sử rối rít. - Tôi tặng không ông một tin. Nếu ông muốn thêm một tin, chúng ta trở lại điều kiện ban nãy... John Hing bước đến chiếc dù, ngả lưng lên ghế, sau khi uống một ly bia. Lâm Sử ngồi chỗ cũ, đón mấy đợt sóng quất vào mặt mà anh ta không buồn vuốt... * Mai Hữu Xuân thầm thì với Tôn Thất Đính tại sở chỉ huy của Đính. Cửa phòng đóng kín. Với người ngoài, hai vị tướng bàn bạc công vụ, rất bình thường.Xuân đã cẩn thận cho thiếu tá Hùng dò trên trần nhà, gỡ từng tấc vuông bức tường, kiểm tra ngay các chiếc quạt trần – biết đâu Nhu không cài máy ghi âm. Ngay đối với Mỹ, Mai Hữu Xuân cũng đề phòng. Chính Savani, trong mật thư, đã nói lóng để Xuân lưu ý mọi bất trắc, dù tình báo Mỹ trực tiếp gợi ý Xuân tham gia vào cuộc đảo chính – về nguyên tắc, nhất thiết không tránh khỏi. “Điều mà chúng ta quan tâm là thời gian nào thích hợp nhất và vài chi tiết kỹ thuật cần xem xét thêm”. Đại tá Đỗ Mậu, mà Xuân biết rõ ông ta là người của CIA, là một chỉ huy có cỡ chứ không phải một nhân viên quèn kiểu Thích Tâm Châu. Đỗ Mậu xuống tóc, biểu tượng đứng về Phật giáo của ông – sĩ quan cấp đại tá đầu tiên công khai chống lại Ngô Đình Diệm. Nếu ông Vũ Văn Mẫu xuống tóc gây tiếng vang lớn trong giới trí thức và ở nước ngoài – ông Mẫu là một luật gia tên tuổi và là Bộ trưởng Ngoại giao khá lâu của Diệm – thì hành động của đại tá Đỗ Mậu nhằm tác động quân đội đồng thời cũng nhằm sửa soạn chỗ đứng trong hàng ngũ Phật giáo của ông ta. Vả lại, Đỗ Mậu là CIA, ông ta đi nước cờ của CIA, với từng chi tiết.Mai Hữu Xuân bắt tay Đỗ Mậu, nhưng không phải vì vậy mà Xuân quên lai lịch của Đỗ Mậu. “Thời gian thích hợp” đôi khi đồng nghĩa với hết nhiệm kỳ Tổng thống của Kennedy, tận cuối năm 1964. Với khoảng thời gian ấy, Đỗ Mậu dám bán Xuân cho Nhu lắm! “Chi tiết kỹ thuật” là gì? Rất có thể người Mỹ e ngại một loạt tướng tá do Pháp đào tạo nắm cuộc đảo chính, đưa Nam Việt Nam theo con đường của De Gaulle, nên cần điều chỉnh đôi chút – gạt Xuân ra, chẳng hạn... Cái gì cũng có thể xảy ra trên trường đỏ đen cả! Ngay với Tôn Thất Đính, chưa phải đã có thể rút ruột mà đối xử. “Thằng cha giống Lữ Bố quá chừng”. Xuân đánh giá Đính như vậy. - Nhu còn do dự. - Đính bảo - Lẽ ra ngày 26-10 “Bravo I” ra mắt, nhưng bỗng Nhu đổi ý. Ông ta gọi tôi vào dinh Gia Long, dặn tôi chờ Nguyễn Thành Luân... - Luân không có mặt ở Sài Gòn. - Có lẽ không có mặt. Hai hôm rồi, hắn chẳng liên lạc với tôi, ngay bằng điện thoại. Tôi gọi về Tham mưu biệt bộ, vợ hắn trả lời hắn đang ở chỗ Nhu. Tôi gọi chỗ Nhu, thư ký của Nhu trả lời Luân và Nhu đang bận... Song, tôi nghĩ rằng Luân đi đâu rồi. - Đi đâu? - Răng mà tôi biết được? - Hỏi chỗ Harkins xem? - Không nên... - Đỗ Mậu biết không? - Chắc không biết... - Coi chừng! - Răng mà coi chừng? - Nó ra khu hoặc ra Hà Nội! - Nếu Luân ra khu hoặc ra Hà Nội thì thiếu tướng và tôi muốn “coi chừng” cũng không coi chừng nổi. Nhất định hắn thực hiện lệnh của Jones Stepp. Nhưng, tôi không nghiêng về giả định của thiếu tướng... - Thằng đó láu cá lắm. Tôi nghĩ xem! Xuân ngồi thừ khá lâu. Bỗng Xuân quay điện thoại: - Alô! Bộ chỉ huy không quân, phải không? Tôi là Mai Hữu Xuân, muốn nói chuyện với trung tá Nguyễn Cao Kỳ... Chào trung tá... Chúng tôi, thiếu tướng Tôn Thất Đính và tôi, muốn nói chuyện với đại tá Nguyễn Thành Luân... Ông ấy không có ở đó? Ông ấy có đến sân bay không? Ở Tân Sơn Nhất thì không, còn ở Biên Hòa? Cám ơn, tôi sẽ hỏi sân bay Biên Hòa... Xuân gác máy, không quay hỏi sân bay Biên Hòa. - Có vẻ thiếu tướng mất bình tĩnh... - Đính nhận xét, giọng hơi châm biếm. - Không nên coi thường sự vắng mặt kỳ lạ này. – Xuân mím môi và quay tiếp điện thoại. - Hello! Tôi Mai Hữu Xuân, xin nói chuyện với tướng quân Jones Stepp... Ồ... Chào phu nhân... Tôi muốn biết đại tá Nguyễn Thành Luân có chỗ tướng quân không... Vâng, có việc... Rất khẩn... Xin lỗi, nếu đại tá bàn xong công việc với tướng quân, nhờ phu nhân nói lại tôi muốn nói chuyện với đại tá qua điện thoại... Cám ơn phu nhân! - Hắn ở chỗ Jones Stepp... - Xuân thở phào. - Luân vắng mặt bây giờ thì tôi không thích, - Xuân đã nhồi thuốc vào pipe – Nhưng khi bắt đầu “Bravo”, tôi lại muốn hắn vắng mặt. Cả thằng Hồ Tấn Quyền. Những tiểu đỉnh ở bến Bặch Đằng, với pháo cao xạ và pháo tấn công, không phải là chuyện giỡn! Điện thoại reo. Đính nhấc máy. - Dạ, trình cụ, con đây... Dạ, con đến ngay... - Trong “Dinh” gọi – Đính nói nhỏ với Xuân, sửa lại cổ áo, đội mũ, bước ra khỏi phòng. ... Saroyan đến nhà Luân, khi Dung đi làm vừa về. - Đại tá đi vắng?- Saroyan hỏi lo lắng. Dung gật đầu, cũng lo lắng. - Có chuyện gì sao? - Không! – Saroyan nắm tay Dung – Đại tá đi đâu? - Hình như đi Lào... - Đi Lào? - Nhu giao cho anh ấy một công vụ gì đó ở vùng “Tam giác vàng”... Dặn giữ bí mật. - A!- Saroyan gục gặc đầu – Dính chuyện buôn nha phiến... Vừa rồi, thiếu tướng Mai Hữu Xuân hỏi đại tá. Tôi chưa đoán ra việc gì nên trả lời bừa là đại tá đang ở chỗ Jones... Thế, bao giờ đại tá về? - Lối một tuần... Đi hai hôm rồi. - Họ săn đón đại tá cẩn thận lắm, tôi rất ngại. – Saroyan nói, giọng buồn. Dung cảm thấy hơi ân hận với Saroyan. Thật ra, Dung biết tường tận chuyến đi của Luân, nhưng không thể nói thật. - Tôi có đọc vài phúc trình của tình báo Mỹ ở Bangkok chung quanh “Tam giác vàng”. Tôi không rõ đại tá thực hiện công vụ gì ở đó? Khá nguy hiểm. Những băng buôn thuốc phiện khử tất cả những gì chúng cho là cản trở ngại. Chúng có máy bay, cao xạ, xe tăng. Tại sao Dung không báo cho tôi biết? Tôi có cách bảo vệ đại tá... - Chắc không cần, Saroyan ạ! Anh Luân đối phó được với mọi tình huống... - Tất nhiên tôi tin anh Luân... Xin lỗi Dung, tôi tin đại tá! – Giọng Saroyan run rẩy. - Từ nay, Saroyan cứ gọi anh Luân bằng tên, mình không buồn đâu! Việc gì mà buồn? - Cảm ơn Dung nhiều. Saroyan không điên đến nỗi báo cho Jones về sự vắng mặt của anh Luân, nhưng nếu Jones bỗng muốn gặp Luân thì sao? - Dung chưa nghĩ điều đó... Hôm kia James Casey đến đây, cũng muốn gặp anh Luân. - Rắc rối quá! Saroyan bỗng như tức giận: - Gia đình lão Diệm đáng giá bao nhiêu mà anh Luân phải chịu cực, chịu nguy hiểm? Tôi bảo Jones: Định “súp” lão thì “súp” ngay đi... - Tướng quân trả lời sao? - Ông ta chỉ cười... Tôi biết tôi kém khiếu chính trị, nên không hiểu ông ta cười với ý nghĩa gì... Saroyan quay sang bé Lý. Cô đùa với thằng bé như không chịu dứt. --- (1) ra nghĩa địa (2) Tưởng Giới Thạch
__________________
![]() |
#4
|
||||
|
||||
![]() Ván Bài Lật Ngửa Phần 8 - Chương 3 Luân không lên sân bay Tân Sơn Nhất và cũng không lên sân bay Biên Hòa. Chuyến đi của anh do Nhu trực tiếp bố trí. Anh được mang Thạch theo, mặc dù lẽ ra phải một sĩ quan an ninh lo bảo vệ Luân – Nhu muốn hạn chế hết mức người hiểu biết công việc mà Nhu giao cho Luân Thiếu tá Nguyễn Thuần đón Luân tại cổng Bộ tư lệnh Hải quân. Đại tá Hồ Tấn Quyền, tư lệnh Hải quân mời Luân ăn sáng ngay tại phòng khách của Bộ tư lệnh. Cùng ăn sáng có một thiếu úy tên Tường, người Thừa Thiên, là hoa tiêu kiêm truyền tin của chuyến bay. - Chuyến đi của đại tá chỉ ngần này người biết mà thôi. - Hồ Tấn Quyền giới thiệu với Luân và Thạch hai sĩ quan kia, một thuộc Không quân, một thuộc Thám báo. Qua Quyền, Luân biết Tường chuyên trách các chuyến bay thả biệt kích ra Bắc trên vĩ tuyến 17. - Ông cố vấn chỉ thị riêng cho tôi tổ chức các chuyến bay của đại tá vừa thật nhanh, thật an toàn, vừa phải giữ bí mật triệt để. - Hồ Tấn Quyền khoe với Luân đầy vẻ tự đắc. Hải quân và cả Thủy quân lục chiến vừa mới xây dựng được Nhu tin cậy sau khi lính Dù và Không quân đập chế độ hai cú choáng váng cuối năm 1960 và đầu năm 1961. Chính lực lượng Hải quân đã bắn rơi chiếc AD.06 của Phạm Phú Quốc trong cuộc nổi loạn của Không quân. Có lẽ không có gì nóng bỏng hơn trong người của Hồ Tấn Quyền bằng cái thèm khát được đeo lon chuẩn đô đốc. “Trễ rồi, ông Tư lệnh hải quân!” – Luân cười thầm cái vẻ lăng xăng của Quyền đối với anh, “người của gia đình tổng thống”. - Đại tá sẽ đến Cam Ranh sau non một giờ bay. Lấy nhiên liệu và nghỉ ngơi độ nửa giờ, đại tá sẽ bay lên một điểm sát vùng ba biên giới. Mất khoảng một tiếng bay. Từ đó sẽ đổi máy bay và bộ phận khác chịu trách nhiệm đưa đại tá đến nơi quy định - mọi việc thiếu tá Thuần nắm rất chắc, có thiếu úy Tường trợ lực. Tôi sẽ trực tiếp giữ liên lạc vô tuyến điện với đại tá, chúc đại tá, chuẩn úy Thạch và toàn đoàn bình yên! Hồ Tấn Quyền chia tay Luân trên một chiếc tàu tuần bỏ neo trước Bộ tư lệnh Hải quân. Bốn người lên một trực thăng. Nguyễn Thuần khởi động, nhấc cần lái trong khi thiếu úy Tường giới thiệu với Luân đường bay trên bản đồ. Trực thăng bay về phía đông rồi men bờ biển bay lên hướng Bắc. “Nhu muốn khỏa mọi dấu vết. Người ta sẽ xem chuyến đi của Luân như chuyến thị sát thường lệ của tham mưu biệt bộ”. Luân nghĩ thầm. Cho tới bây giờ Luân cũng chưa xác định, đối với nhiệm vụ, anh sẽ rút ra được lợi gì trong chuyến đi này. “Thật vô duyên nếu rốt cuộc mình can dự vào tội ác gieo rắc nha phiến khắp thế giới”. Người không che giấu được sự căng thẳng là Thạch. Anh đã nghe loáng thoáng về cuộc hành trình, anh chẳng hiểu mục đích đồng thời cũng trách Luân: nhận làm gì chuyện tào lao. Thạch không rời mắt khỏi tên thiếu tá lái máy bay và tên thiếu úy hoa tiêu. Anh đã từng chứng kiến thượng sĩ Toàn và tên bảo vệ đã nổ súng vào Luân ở Bình Dương, còn phát đạn của thiếu úy Hồ Vĩnh Thanh chỉ cách một sợi tóc là có thể kết thúc cuộc đời Luân ở Trúc Giang. Nguyễn Thuần thoải mái dựa lưng vào ghế, Tường thì thỉnh thoảng nói vào máy micro đeo ngay ở miệng: “Sao Kim đây... Sao Kim đây!”. Cả hai không lộ một nét ranh ma nào. Nhưng, Hồ Vĩnh Thanh còn hiền lành hơn, vậy mà... Mỗi lần trực thăng sà hơi thấp để tránh một đám mây, Thạch nhấp nhỏm: chúng nó dám hạ cánh ở một vùng nào đó, theo hiệp đồng với bọn bên dưới. Thạch tiếc đã không chịu cãi lại Luân, chỉ mang một khẩu súng ngắn mà không mang khẩu tiểu liên báng xếp - với khẩu tiểu liên, Thạch yên tâm hơn. Trực thăng lại tiếp lên độ cao và luôn bám chặt bờ biển, cùng bay bên trên quốc lộ 1, hết qua khu dân cư này đến khu dân cư khác. - Đại tá chắc không biết em... - Nguyễn Thuần quay lại hỏi Luân. - Tôi có nghe nhà tôi nói về thiếu tá... Câu trả lời của Luân biến đổi một thoát sắc mặt của Thuần. Anh ta như đăm chiêu. - Nhà tôi khen thiếu tá là người tự trọng. – Luân nói tiếp - Rất tiếc vì ít rảnh rang, nhà tôi và tôi không có dịp làm quen với thiếu tá... Nguyễn Thuần nghiêng người như cám ơn Luân. Anh ta trở lại phong thái của một phi công già dặn, miệng mỉm cười. Có vẻ Thuần trút được cái ám ảnh ở Ban Mê Thuột, đã ngót 6 năm... “Phải tìm hiểu sâu hơn tay này” – Luân tự nhủ - “Một con người có cá tính”. Trực thăng đảo một vòng rộng trên vịnh Cam Ranh rồi đáp xuống một chiếc tàu tuần duyên mang tên “Vân Đồn 2”, theo chỉ dẫn bằng cờ của một thủy thủ và của một máy truyền tin. Hôm nay vịnh Cam Ranh gió to, chiếc Vân Đồn 2 lắc lư. Nhưng Nguyễn Thuần đã đổ trực thăng xuống đúng giữa các vạch sơn trên boong tàu. Hạm trưởng, một đại úy, mời Luân và những người đi theo vào gian phòng hẹp, đài chỉ huy của chiếc tuần duyên. Nguyễn Thuần xin phép Luân ở trên boong để theo dõi việc châm thêm nhiên liệu đồng thời rà soát động cơ của trực thăng. Anh ta dùng sandwich và uống cà phê cạnh máy bay mặc dù từng cơn gió tạt mạnh đến nỗi anh ta phải tựa lưng vào trực thăng mới không bị hất tung. Hạm trưởng hoàn toàn không biết Luân sẽ bay về đâu. Anh ta đề nghị Luân nghỉ lại vịnh Cam Ranh chờ lặng gió, bởi gió có thể tăng cấp như đài khí tượng thông báo, sẽ không an toàn nếu Luân định ra đầm Thị Nại, cảng Đà Nẵng hoặc cửa Thuận An. - Không sao, tôi có thể ghé xuống bất kỳ khoảng đất trống nào, nếu thời tiết xấu. – Luân cảm ơn hạm trưởng. Chuyến bay tiếp tục. Họ lại men theo bờ biển, vượt khỏi thành phố Nha Trang và khi đến Ninh Hòa thì rẽ ngoặt về hướng tây, bay trên quốc lộ 21. Thiếu úy Tường chuyển làn sóng vô tuyến điện. Từ một nơi nào đó, người ta hướng dẫn đường bay của trực thăng. - Chúng ta đang ở độ cao tối đa. - Nguyễn Thuần báo cáo với Luân. Kim đồng hồ cũng đã chỉ con số 8.000 feet. - Có khi nào thiếu tá đụng phải đạn súng trường của du kích không? – Luân hỏi Thuần nhún vai - Nói theo cách của người Sài Gòn thì đó là chuyện “cơm bữa”. - Vùng chúng ta đang bay thế nào? - Có một bằng chứng sống tại đây. - Thuần hất hàm về thiếu úy Tường. Bây giờ Luân mới nhớ chân Tường hơi khập khiễng. Hẳn đạn du kích đã xuyên vỡ một mảnh xương chân của Tường. Dưới máy bay là một tầng mây xốp. - Hôm nay chúng ta gặp may... - Thuần cười mỉm. - Tầng mây dày đặc kia che chở cho chúng ta. Trực thăng không bay về thành phố Buôn Mê Thuột mà vòng về phía Tây của thành phố, ngược ra Bắc. Máy truyền tin từ tai nghe của thiếu úy Tường đã vang rõ một giọng ồ ề. Người hướng dẫn trên mặt đất nói tiếng Pháp. Thạch sửng sốt. Luân đoán rằng đó là Francisci. Trực thăng xuyên qua tầng mây xốp, những chóp núi và những cánh rừng già trải như bất tận bên dưới. - Chúng ta đang qua vùng nguy hiểm. - Thuần báo cáo, thái độ bình tĩnh. - Rất dễ va vào núi và cũng rất dễ hứng đạn vừa của Giải phóng, vừa của mấy cha nội Fulro! Thuần dán mắt tìm kiếm phía trước. Trong thung lũng chợt hiện lên những mái nhà tôn xám xịt. Từ trên máy bay đã trông rõ ngọn cờ ba sọc uể oải lượn trong gió núi. - Đồn Sa Thầy... Cách đồn non cây số là đất Cambốt và đất Lào. Nhưng chúng ta không đáp xuống Sa Thầy. Đại tá nhìn về phía tay trái, đấy, khoảnh đất trống với mấy miếng vài trắng cắm bên cọc... Chúng ta sẽ đến đó... Trực thăng chầm chậm hạ đứng xuống khoảnh đất không rộng hơn sân bóng chuyền. Dưới tán cổ thụ, những ngôi nhà lợp tranh, lớp lá rừng chen chúc quanh khoảnh đất trống. Thế mà từ trên cao, Luân không thấy gì cả. Một người Pháp – đúng hơn một người miền Địa Trung Hải – mũi cao, mắt đục nhưng tóc đen, cao có lẽ trên 1 mét 8, tuổi xấp xỉ 40, mặc bộ quân phục dù loang lổ, đón Luân khi cánh quạt chưa dừng hẳn. Bằng giọng lơ lớ, anh ta tự giới thiệu: - Tôi là Bonaventure Francisci, rất hân hạnh đón đại tá. Francisci bắt tay Thạch - Tôi được thông báo chuẩn úy là bảo vệ của đại tá. Hân hạnh. Francisci cố tỏ ra bặt thiệp, có học thức, song toàn bộ con người anh ta phản lại anh ta. Nháy mắt với Tường - kiểu lố bịch – anh ta huýt sáo mồm: hẹn ở Savanakhet! Câu nói lóng của Francisci chỉ có Tường hiểu được. Gã thiếu úy nháy mắt đáp lại. Thạch bắt tay Francisci nhưng mắt không rời khỏi hai khẩu “rulo” Vesson nòng dài - loại bắn cực nhanh - xệ trước bụng Francisci. Francisci xiết chặt tay Thuần, họ quá quen nhau. - Mời đại tá vào nghỉ! Luân theo Francisci, rời khoảng đất trống trong lúc hàng chục người, có lẽ là Rhadé ùa ra, dùng một chiếc lưới ni lông cắm chi chít cành cây, phủ lên chiếc trực thăng. Bây giờ thì khoảng đất trống đã biến mất, còn lại một lùm bụi um tùm, máy bay trinh sát không tài nào phát hiện... Con đường mòn nhỏ đưa nhóm Luân vào sâu trong rừng, xuyên qua nhiều lớp nhà. Thật khó tưởng tượng, trên vùng cao hoang vu này lại mọc lên một “thị trấn”. Đúng, một thị trấn với một cừa hàng tạp phẩm – Luân nhìn thấy những chai rượu Cognac, Whisky còn trong hộp, những “tút” thuốc lá Dunhill, Cravel A, những két bia Larue - với mấy quán ăn, tiệm cắt tóc... “Thị trấn” được bố phòng khá kỹ: nhiều ụ súng, nhiều chòi gác ụ đất, nhiều hầm trú ẩn. “Tên của gã cũng hay hay!” – Luân nhớ Francisci tự giới thiệu là Bonnaventure - cuộc phiêu lưu may mắn. Con người của gã có vẻ phù hợp với cái tên - Bonnaventure Francisci bước khá nhanh, để rồi chốc chốc phải dừng lại. Francisci ở trong một ngôi nhà sàn lợp tranh, thoáng, “nên thơ” nữa: nhà cất cạnh dòng suối nhỏ. - Lẽ ra tôi phải mời đại tá và các bạn uống thả cửa. Song, chúng ta sẽ làm việc đó ngày kia... Bây giờ chúng ta cần no bụng và nghỉ ngơi một chút, rồi bay tiếp... Thiếu úy Tường có thể báo cáo về cho đại tá Quyền rằng “sao Kim đã đáp xuống quỹ đạo”... - Hình như ông mới dời cơ ngơi về đây? Tôi thấy nhà cửa đều mới... - Luân hỏi, lúc tất cả ngồi vào bàn, họ ăn món thịt rừng nấu theo kiểu Ý. - Vừa dời xong, đại tá là vị khách đầu tiên... - Francisci trả lời, không vui. - Trước kia, chúng tôi ở sát thị xã Kontum... Nhưng gần đây, phong trào tự trị ở Tây Nguyên của Ibih Aleo dậy lên. Thế là tôi phải rời nơi tôi đã dừng chân ngót 10 năm... Phải phá hủy nhà cửa, xóa dấu vết đường băng và đốt luôn lò chế biến morphine. Ở chỗ mới, mọi cái đều bắt đầu từ con số không. Ymơ Eban thông báo với tôi: chớ xây dựng đồ sộ, Sa Thầy không an toàn. Nhóm Fulro ly khai – và vẫn do Kossem điều khiển - dễ dàng thọc sang đánh chúng tôi. Nhóm Champasak từ Hạ Lào cũng có thể làm như vậy. Phoumi Nosavẳn – đại tá biết ông ta? – đang nắm quyền ở Lào, ông ta đòi chia lãi. Đòi chia lãi mà không tiêu tốn một đồng kíp! Nếu không có Raticun, Tổng tham mưu trưởng Lào, tôi đã bị Phoumi xử bắn rồi! Bữa ăn trở nên nặng nề - Nói thế thôi, tôi đâu phải chỉ có bàn tay trắng... - Francisci lại cười hồ hởi. - Ngay cả Phoumi, ông ta không chịu biết điều thì cái mạng của ông ta chưa chắc đã giữ nổi! Nếu chẳng bị các điều kiện chính trị ràng buộc, tôi thừa sức lật độ chế độ chính trị của Phoumi... - Ông Nhu muốn chúng ta không sơ xuất nên phái đại tá lên tận ổ. Tôi không quen việc quân. – Francisci lại cười – Tôi mang súng và tôi bắn súng khá thạo. Nghe đồn đại tá bắn súng lục khá thạo, hôm nào chúng ta thử chơi... Nhưng tôi chỉ biết bắn súng cá nhân. Tổ chức bảo vệ cơ sở chế biến heroine - cứ xem như một xí nghiệp với dây chuyền sản xuất đến một quy mô nhất định – không thể là chuyện của tôi. Tôi yêu cầu ông Nhu đảm bảo vòng ngoài - tại “tam giác vàng” và tại các trạm vận chuyển - để tôi rảnh tay. Việc của tôi là thu mua á phiện sống, chế biến thành morphine, heroine hoặc cocaine, tối thiểu cũng thành “nhựa nhứt” và phân phối chúng ở các thị trường... Tôi có thể thỏa mãn đòi hỏi của ông Nhu: mỗi năm tôi bán không dưới vài tấn heroine. Đại tá có biết giá ở New York, mỗi kilo heroine là bao nhiêu không? Thậm dốt về môn này, Luân lắc đầu. - Hai trăm năm chục ngàn dollar! Mười kilo á phiện sống được một kilo heroine! – Francisci rõ ràng không phải là kẻ kín miệng - Loại vàng trắng mua bán từng gramme một... Một con gà ở Sài Gòn giá không đến một dollar. Một con gà ở Vientine còn rẻ hơn. Trong khi một kilo heroine giá 250.000 dollar. Luân nhẩm tính: mỗi tấn heroine thu trên 200 triệu dollar! Một con số khủng khiếp! - Tất nhiên, chi phí không nhẹ. - Francisci hình như đoán được cái nhẩm tính của Luân - Thiết bị vận chuyển, hàng hóa trao đổi để lấy được á phiện sống, trám mõm bao nhiêu là tai to mặt lớn, chi phí bảo vệ, hoa hồng cho đại lý, bảo hiểm... mất hơn nửa... Có khi mất đứt hàng trăm kilo, mất luôn cả người. Tổ chức quốc tế Interpol săn buôn nha phiến hoạt động rất gắt gao... Tôi đã phải mua Tư lệnh quân khu Bắc Thái Lan, lãnh tụ nhóm Shan ở Miến Điện, tướng họ Lý của tàn binh Quốc dân đảng thậm thò thậm thụt ở Vân Nam. Tôi mua Ymơ Eban, mua hoàng thân Bun Oum của Lào. Chỉ trừ ba ông Giải phóng Việt Cộng chưa mua được! Mang trong người vài chục gramme heroine, luật pháp nhiều nước đã kết án tử hình! Ông đã thấy tôi phải mạo hiểm ra sao. Luân biết Francisci ba hoa song không bịa đặt. Bây giờ đã rõ vì sao Nhu tin cậy gã. Còn vì sao gã phải dựa vào Nhu? Tạm thời, Luân chưa trả lời được. - Chúng ta sửa soạn lên đường. – Francisci bảo sau bữa ăn - Trước hết xin đại tá và mọi người thay thường phục... Chúng ta là những khách du lịch, kể cả tôi. Và, chúng ta cứ giữ súng nhưng đừng để người ngoài trông thấy. Đặt chân lên đất Lào, xin các vị nhớ cho: Bonnaventure Francisci là Tổng Giám đốc Công ty hàng không dân dụng Vương quốc Ai Lao... - Francisci ra điệu bộ trịnh trọng và cười lớn. Họ xuyên khu rừng, đến một đám đất nguỵ trang bằng nhiều cành cây. Người của Francisci dọn một thoáng, mặt đất trống trơn: một phi đạo bê tông dùng cho máy bay loại nhỏ. Một chiếc L.19 được đẩy từ chỗ khuất ra đường băng. Nguyễn Thuần kiểm tra máy, nhiên liệu. Cánh quạt bắt đầu quay khi mọi người đã ngồi yên. Máy bay lấy đà. Francisci vẫy tay tạm biệt nhóm nhân viên của anh ta. Nguyễn Thuần như quen chiếc máy bay này – sơn quốc kỳ Lào. Máy bay rời phi đạo. Nhìn xuống, Luân thấy sân bay dã chiến đang hối hả khoác các cành lá. - Đúng 40 phút, chúng ta sẽ đáp xuống sân bay Savanakhet... - Francisci bảo Luân. Thiếu úy Tường mở bản đồ và gọi vào máy bằng tiếng Pháp - Cùng lúc, đại tá Quyền ở Sài Gòn cũng nghe thiếu úy Tường... - Francisci nói. - Đoạn này không có gì nguy hiểm dù chúng ta bay trên một số vùng do Pathet Lào kiểm soát. - Nguyễn Thuần thông báo. - Thiếu tá nhớ đừng vòng rộng sang phía bên kia sông Mékong. – Francisci dặn - Gần đây giữa tôi và viên chỉ huy biên phòng Thái Lan không êm ả lắm. Hắn ta dám bắn dọa chúng ta, buộc máy bay phải hạ cánh để đòi tiền chuộc. Thuần gật đầu. Tường đã liên lạc được với sân bay... Francisci giống một ông chủ cỡ bự, rời sân bay Savanakhet trên chiếc Mercedes đen, sau khi bẹo má mấy cô nhân viên hàng không. Luân và Thạch cùng ngồi với anh ta, Thuần và Tường đi trên một xe Jeep. - Ta ngủ đêm tại đây, mai lên Vientiane. Francisci chọn khách sạn sang nhất Savanakhet – khách sạn “Con gà vàng”. Chủ khách sạn, một phụ nữ, đon đả mở cửa xe mời Francisci... Khi nhận xong chìa khoá phòng, Francisci bảo nhỏ Luân: - Đại tá biết bà chủ là ai không? Nguyễn Thị Lý... Luân vẫn chưa hiểu Nguyễn Thị Lý là nhân vật nào mà Francisci tỏ ra thận trọng. Một người nói giọng hơi khó nghe, tuổi trên dưới 40, không đẹp, không xấu. - Chị ruột của Nguyễn Cao Kỳ đấy! À ra thế... Hèn chi giọng nói hơi khó nghe - giọng Sơn Tây. - Bà ta chỉ là chủ khách sạn? Francisci nhún vai: - Đại tá quên em của bà ta hiện nay là chỉ huy trưởng sân bay Tân Sơn Nhất, đồng thời chỉ huy trưởng phi đoàn vận tải số một gồm ba mươi hai chiếc C.47! Savanakhet là trạm trung chuyển của phi đoàn... Luân biết chức trách của Kỳ, song anh không dè Kỳ có người chị ở đây - Tại sao bà ta không rút về Sài Gòn? Ông Kỳ không còn được chỉ huy tuyến đường bay sang Lào nữa. Luân nói về sự trừng phạt của Mỹ đối với Kỳ. Mỹ thay máy bay C.47 hai động cơ bằng máy bay C.54 bốn động cơ, bọn Kỳ phải tập lái: ngay trong chuyến đầu, Kỳ đã chở hàng tá gái nhảy - hắn tỏ cho Mỹ biết lái C.54 chỉ là trò trẻ đối với hắn, cố vấn Mỹ bực mình, quyết định cử phi công Đài Bắc sang lái và cấm Kỳ léo hánh lên Lào. - Chờ thời cơ! Biết đâu… – Francisci nhướn mày theo lối anh chị của dân Corse. Trời vừa tối, Nguyễn Thị Lý mời cơm cả đoàn. - Quý vị chưa biết tôi... nhưng ông chủ Francisci thì biết... Hai vị này cũng biết… - Mụ Lý chỉ Thuần và Tường – Quý vị chớ ngại, với những bạn bè của ông chủ Francisci, khách sạn “Con gà vàng” tiếp đãi chu đáo, không lấy tiền phòng, không lấy tiền cơm. - Bởi vậy, đến Savanakhet tôi không thể chọn chỗ nào khác. – Francisci đùa. - Ông chủ thì đâu phải ngại tốn mà đến đây... Của riêng vẫn dành cho ông chủ. Mụ Lý nheo mắt cười. Luân hiểu hai người đang nói về gái. Và ngay lúc đó 5 cô gái ùa vào phòng. Mà cô sà vào đùi Francisci, cả 5 cô đều là người lai: Hoa – Lào, Hoa - Việt hoặc Hoa – Thái, hết sức khêu gợi. - Ông chủ chưa giới thiệu hai vị khách lạ với chúng tôi. - Mụ Lý ngó Luân và Thạch. - Đây là ông Thành, người trong công ty của tôi. – Francisci chỉ Luân – Còn đây là ông Chuẩn, em họ của ông Thành... - Francisci nói về Thạch. - Vậy, tôi may mắn gặp một ông chủ nữa. Xin chúc các vị ngon miệng. Các cô sẽ hầu các vị... Tôi xin kiếu... Mụ Lý ra ngoài. Luân thầm khen Francisci khôn khéo trong đối phó. - Đại tá chú ý, có thể bị chụp ảnh! - Nguyễn Thuần ghé sát tai Luân thì thào. Không phải ai đó cần ảnh Luân đang ôm trong lòng một cô gái - người ta cần biết những cộng sự của Francisci. Nguyễn Cao Kỳ sẽ đặt câu hỏi: Luân sang Lào làm gì? Nhưng làm sao ngăn được? Cabot Lodge, Jones Stepp, thậm chí Maxell Taylor sẽ nhìn Luân với cặp mắt: thì ra gã là tay buôn bạch phiến. “Được, mình có cách...” - Cuối cùng rồi Luân bình thản trở lại. Anh tỏ cho Thuần hiểu anh không sợ. Chỉ có hai cô gái được giữ suốt đêm, một với Francisci, một với Tường. * Ngày hôm sau, họ đến Vientiane, bằng chuyến bay thường lệ của Hãng hàng không dân dụng Lào. Tất cả nghỉ ở nhà khách của hãng, Francisci tiếp họ với tư cách Tổng Giám đốc. Buổi chiều, Francisci vắng nhà. Khi đi, chiếc cặp của anh ta căng phồng, lúc về, lép kẹp. Anh ta làu bàu: mất đứt hơn một vạn dollar.Bữa cơm vội vã. Trời sụp tối, đoàn lặng lẽ rời nhà khách, ra bờ sông. Họ ngồi trên một chiếc thuyền vượt sông, không gây một tiếng động nhỏ. Đổ bộ lên đất Thái Lan, họ âm thầm nối đuôi nhau – Francisci dẫn đầu - băng qua cánh đồng khá rộng, sau đó lẩn vào rừng. Thỉnh thoảng, Luân nghe tiếng huýt sáo và Francisci đáp lại cũng bằng huýt sáo... - Ổn rồi! – Francisci thở phào khi cả nhóm lọt ra một con đường mòn. Ánh đèn pin lấp loáng trước mặt họ. Ba chiếc Land Rover chực sẵn. Francisci mời Luân lên xe. Xe nổ máy. Trước và sau Luân là xe bảo vệ: Luân đã thấy tốp người mặc quân phục Thái Lan mang tiểu liên. Đoàn xe theo con đường gồ ghề chạy mãi về hướng tây bắc. - Các bạn nên ngủ... Ngủ trong tư thế khó chịu nhưng nên ngủ. Nhanh gì cũng phải quá nửa đêm chúng ta mới đến trạm. Sẽ có một bữa ăn khuya đền bù... - Francisci khuyên mọi người, anh toa xoãi chân, tựa đầu vào thành cửa, một lúc sau, đã ngáy... ... Nơi mà đoàn xe đến là một thị trấn không to, nhưng khá sầm uất. Nguyễn Thuần cho Luân biết tên thị trấn của Bắc Thái Lan này: Chiêng Rai. Và, họ vào dinh của viên huyện – ông ta xun xoe đón Francisci, dù đã nửa đêm. “ Ghê thật! Francisci xỏ mũi cả huyện trưởng Thái” – Luân thực tâm phục tài Francisci. - Chúng ta ăn thật nhanh. – Francisci giục mọi người. Hai giờ sáng, ba chiếc Land Rover lại lăn bánh và độ nửa giờ sau, đến một đường băng, ở đó, một chiếc C.47 đã đợi họ. - Chúng ta phải bay đêm. Không thể đến “Tam giác vàng” vào ban ngày được. – Francisci bảo Luân. Nguyễn Thuần và Tường vào buồng lái. Francisci, Luân, Thạch cùng nửa tiểu đội vũ trang ngồi bẹp ở khoang giữa – không có ghế. Mùi thơm bốc nực mũi: đây là máy bay chở thuốc phiện. Máy bay nặng nề rời đường băng. Ánh sáng lù mù của thị trấn Chiêng Rai lùi dần. - Nhớ tắt đèn báo hiệu! – Francisci mở cửa buồng lái nhắc Thuần. - Chúng ta sẽ đến nơi trước rạng sáng – Francisci bảo Luân. ... Chiếc C.47 đáp xuống đường băng, lấy chuẩn từ mấy đống lửa. Trời còn tối, Luân không nhìn thấy khu vực - một màu đen sẫm. Họ lại lên những chiếc Land Rover. Vẫn đường mòn xuyên rừng, chỉ khác là nhiều dốc. Trời mát lạnh. Họ đang ở trên một cao nguyên. - Đến rồi! – Francisci nhảy ra khỏi xe. Trời vừa hửng, Luân có thể nhìn rõ vòng rào kẽm gai, tuyến chiến hào bao bọc một khu giống doanh trại quân đội. Chiếc cầu treo từ từ thả xuống. Đoàn xe qua cổng. Những người lính – khó mà đoán họ thuộc sắc tộc gì - mặt lầm lì, chào Francisci theo nhiều kiểu. Họ trở nên rạng rỡ khi đám bảo vệ lôi trong xe ra những thùng rượu... Tam giác vàng là một khu vực nằm trên tả ngạn sông Saluen – con sông bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng chảy qua Vân Nam, đông Miến Điện, đổ ra Ấn Độ Dương ở vịnh Martoban - độ cao hơn 1.000 mét so với mặt nước biển; là giáp giới của ba nước: Trung Quốc, Lào và Miến Điện mà phần đất của Miến Điện như chiếc gối nhô sâu vào tỉnh Vân Nam đến hàng trăm cây số. Nhiều tộc cư trú tại đây, Thái, Môn – Khơme, Tạng - Miến, Mèo – Dao... Trong lịch sử xa xưa, khu ba biên giới này không được xác định rõ rệt, lại rất hẻo lánh - gần như tách với thế giới vì không có đường giao thông thuận lợi - thường xảy ra tranh chấp giữa các chính phủ, chủ yếu là giữa các bộ tộc, các lãnh chúa. Dân cư bên này hay bên kia biên giới vốn có họ hàng với nhau nên sự phân định địa lý chỉ có ý nghĩa tương đối. Đặc biệt, tộc Mèo – Dao tránh sự xâm chiếm của người Hán ở phương Bắc, từ nhiều thế kỷ trước đã tràn xuống vùng biên giới. Thời kỳ cuối Minh đầu Thanh, những vua nhà Minh kéo dài cuộc đề kháng tại đây. Tại đây, vua Vĩnh Lịch của nhà Minh bị Ngô Tam Quế bắt và bị giết. Do đó, một số người Hán định cư luôn, và nhờ trình độ văn hóa và tài tổ chức, họ thành thống lĩnh các bộ tộc, nói chung, sống ngoài vòng pháp luật của chính phủ ba nước. Trong Thế chiến thứ hai, Anh và Mỹ dùng con đường Miến Điện tiếp tế cho Tưởng Giới Thạch, qua ba biên giới. Quân đội Nhật không mò tới khu vực này. Khi Trung Cộng kiểm soát lục địa Trung Hoa, một bộ phận quân của Tưởng Giới Thạch lại chọn vùng ba biên giới làm căn cứ ẩn náu. Là phần đất nhiệt đới nhưng khí hậu mát mẻ do độ cao, cây á phiện mọc kháp vùng. Cây á phiện trong vùng - rộng đến nửa triệu cây số vuông – cho chất lượng nhựa tốt hơn tất cả á phiện trồng ở Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Bắc Việt Nam, Trung Á... Nơi giáp giới ba nước nghiễm nhiên thành “Tam giác vàng”, nguồn lợi lớn, cứ mỗi 5 năm lại lớn hơn. Với cây á phiện, tình hình khu vực đột nhiên phức tạp. Các thế lực buôn lậu á phiện quốc tế tìm cách thâm nhập “Tam giác vàng”. Luân khi nhận nhiệm vụ của Nhu, nghiên cứu mấy nét về vùng này. Kasen, từ gốc Miến Điện: Kayin, có nghĩa là “man rợ” do thực dân đặt cho một sắc tộc trên cao nguyên Dawna và lưu vực sông Tennaserrin. Vào thế kỷ XVII, các nhà truyền giáo Anh thu hút hàng trăm nghìn người Kasen vào đạo Thiên Chúa trong tổng số 4 triệu dân Kasen, xui Kasen chống lại các cuộc nổi dậy của Miến Điện – năm 1947, Anh tổ chức mặt trận Kasen với quân đội hẳn hoi. Sau này mặt trận phân hóa, phe nắm các nhóm Kasen mà bọn buôn á phiện lậu là thế lực chi phối quan trọng, thậm chí đứng đằng sau cả “Phong trào đòi quốc gia Shan độc lập”. Xứ Shan thuộc Miến Điện, liền ranh giới “Tam giác vàng”. Có thể nói, tam giác vàng là nơi cung cấp á phiện sống quan trọng nhất thế giới, tính hàng nghìn tấn mỗi năm. Trước kia, các “băng” buôn lậu chủ yếu thu mua á phiện sống tại đây, chuyển tải sang Hongkong chế biến. Nhu cầu tiêu thụ á phiện trên thế giới tăng vùn vụt, do lượng người nghiện ngày càng đông. Theo thống kê của tổ chức chống ma túy quốc tế, số người nghiện ma túy ở Cộng hòa Liên bang Đức từ 5.300 năm 1955 lên 50.000 năm 1960. Con số tương ứng ở Canada là từ 3.400 lên 60.000, ở Anh từ 335 lên 20.000, ở Hongkong từ 9.000 lên 90.000, ở Ý từ 165 lên 10.000, ở Thái Lan từ 18.000 lên 350.000, ở Mỹ từ 10.000 lên 600.000. Riêng ở Mỹ, 25 đến 40% sinh viên nghiện ma túy dưới những mức khác nhau. Cũng theo thống kê của tổ chức chống ma túy quốc tế, sản lượng heroine đã lên 50 tấn mỗi năm và riêng Hongkong đã cất chế đến 20 tấn. Tuy nhiên, việc chuyên chở á phiện sống ngày một khó khăn: khối lượng kềnh càng khó che giấu. Các “băng” - gọi theo một nghĩa thông dụng là các công ty - quyết định chế biến ở những vùng gần nguyên liệu. Nhưng, đầu những năm 1960, Tây Bắc Lào, Đông Bắc Miến Điện, Đông Bắc Thái Lan xáo trộn liên miên – đánh nhau giữa các phe nhóm, phong trào cách mạng phát triển... Thế là các công ty buộc phải chế biến tại chỗ, mặc dù cơ sở vật chất thiếu thốn, mướn nhân viên tốn kém, khó bảo vệ, dễ sạt nghiệp nếu bị quân chính phủ tấn công. Mỗi công ty, do thỏa thuận theo “luật giang hồ”, chia nhau khu vực thu mua và cũng chia nhau thị trường tiêu thụ. Francisci - từng ở Việt Nam lâu năm - chọn Sài Gòn làm cảng xuất khẩu, bằng đường bay và tàu biển, qua hệ thống người Triều Châu rất già dặn kinh nghiệm xuất khẩu á phiện, qua nhóm thủy thủ đi châu Âu và châu Mỹ, qua cả quân nhân Mỹ. Như vậy, thắc mắc của Luân được giải đáp: Francisci phải liên kết với Nhu. Mối “đồng minh” này thiết lập từ năm 1960, sau cuộc đảo chính không thành của Nguyễn Chánh Thi. Trần Kim Tuyến môi giới và Francisci gặp Nhu nhiều lần. Nhu cho phép Tuyến thành lập một đơn vị vũ trang gồm mươi sĩ quan người Kinh và một đại đội người Rhadé bảo vệ cơ sở chế biến của Francisci ở ngoại vi thị xã KonTum, sau đó, rời về Sa Thầy. Một nhóm công binh xây dựng đường băng cho máy bay, bố trí công sự mà họ chỉ biết là để phục vụ cho công tác biên phòng. Francisci đóng một số chuyên viên chế biến kỹ thuật từ Lào và Hongkong sang. Anh ta sản xuất loại á phiện sơ chế mang nhãn hiệu U.4 – nhãn hiệu thật ra của Raticun, Tổng tham mưu trưởng của Hoàng gia Lào, rất được tín nhiệm trên thị trường vì “nguyên chất” và được luyện với tay nghề cao. Francisci cũng sản xuất các loại kẹo ngậm có thành phần á phiện dành cho trẻ con và tẩm á phiện vào thuốc lá – cách gieo giắc nghiện ngập từng bước và cũng là cách tạo khách hàng bền vững. Francisci không cần chuyện chính trị. Anh ta có mỗi mong ước là làm sao sản xuất và xuất càng an toàn nhiều heroine, món hàng này không bao giờ xuống giá. Anh ta đang hợp tác với Nhu và sẽ hợp tác với ai khác - chẳng có gì phải bận tâm. Với bất kỳ ai, anh ta luôn là kẻ mạnh thế, mọi chia chác thực sự tự anh ta quyết định. Ngân hàng Thụy Sĩ, ngân hàng Pháp, Mỹ, Anh, Ý... đâu cũng có tiền gửi của anh ta với nhiều bí số, bí danh. Trong lúc vui miệng, anh khoe với Luân, lãi suất hàng tháng, đã lên hàng triệu dollar. Anh ta tậu cả một đồn điền cà phê ở Brasil, là cổ đông trong các hãng điện tử Nhật, cơ khí Pháp, đóng tàu Tây Đức, sản xuất ôtô Anh... - Tôi sẽ bỏ nghề vào tuổi 50. Và, bấy giờ tôi sẽ lấy vợ, cùng vợ ẩn cư đâu đó, mọi ân oán chấm hết... - Tại sao phải 10 năm nữa? – Luân hỏi. - Ông hẳn đinh ninh tôi còn muốn làm giầu... Phải. Song, không chỉ có bấy nhiêu. Tôi còn sức, còn thích thách đố nguy hiểm... Không sao chịu nổi cảnh nằm yên. Tôi hy vọng thời gian giúp tôi. Francisci nói thật. Luân nghĩ như vậy. - Ông không định trở thành một chính khách? Hay một nhà hoạt động xã hội, một nhà từ thiện tên tuổi. Cái vỏ đó cần cho sự an toàn cuối đời của ông. - Tôi dễ dàng trở thành một nghị sĩ Mỹ - quốc tịch Mỹ của tôi cho phép. Nhưng, tôi ghét chính trị. Còn một nhà hoạt động xã hội, một nhà từ thiện... Không cần, cái vỏ che cho tôi tại Mỹ, một nước Nam Mỹ, tại Thụy Sĩ hay một hòn đảo ở giữa Thái Bình Dương là tiền. Đủ rồi. Tôi không hối hận việc tôi đã và đang làm, tại sao tôi phải chuộc lỗi? Interol đang săn lùng tôi như săn lùng con thú ăn thịt người, nhưng họ lại làm ngơ trước những công ty đúc súng... Ông thấy đấy, heroine đâu có giết người nhanh và hàng loạt bằng những họng súng, những quả bom? – Francisci đang thao thao bỗng ngừng ngang – Tôi lại thuyết chính trị với đại tá rồi! Tuy vậy sẽ không thừa nếu tôi lưu ý đại tá về sự tin cậy đến độ quá cao của ông Nhu dành cho đại tá... Luân không vồ vập cái chợt lóe lên trong lời của Francisci. Cả hai đang ngồi trên ban công ngôi nhà hai tầng xây gạch cho phép nhìn bao quát toàn khu doanh trại. Họ nhấm nháp ly Wishky pha soda với những mảnh nước đá lấp lánh. - Với tôi, một khi giã từ cái nghề này – cái nghề mà một số nước treo cổ tôi ngay lập tức nếu vớ được tôi giữa lúc này – thì mọi nguy hiểm tan biến giống làn thuốc phiện. Interpol quên tôi nhanh hơn quên một tay buôn lậu thuốc trị hôi nách giả. Tôi ẩn cư để sống những ngày tháng cuối đời đền bù mấy chục năm đùa giỡn với cái chết chớ không phải vì sợ sự săn lùng. Tôi có thể về Ajoccio và sống đường hoàng nơi quê nhà; sở dĩ tôi không có ý định ấy là vì tôi không thích đảo Corse, chỉ vậy thôi... Francisci hình như vẫn chưa nói hết điều anh ta muốn nói. Luân lặng lẽ nghe, đằng xa, trong một dãy nhà lợp tôn, một ít khói nhẹ vương vấn cành cây – có lẽ đó là nơi sơ chế á phiện. - Đại tá và tôi thuộc hai số phận không có chút gì giống nhau. – Francisci kiên nhẫn ém ý nghĩ khi anh ta chưa nói hết - Người Corse, người Sicile, người Sardainge... đều mang tính khí bẩm sinh miền biển Nam châu Âu như vậy. Luân bỗng nhớ đến các truyện của Prosper Merermee, các truyện của các nhà văn Ý viết về con người Địa Trung Hải... - Nhưng tôi có một tương lai vững vàng, còn đại tá - tất nhiên, hiện nay, chúng ta đều phải đương đầu với những may rủi y nhau... Hiện nay sẽ lùi vào kỉ niệm. Ngày mai! Francisci tặc lưỡi: - Tôi biết về đại tá, biết đủ để tôi khâm phục. Tôi thích phiêu lưu. Đảo Corse dạy tôi phiêu lưu ngay lúc tôi tập bước. Đại tá cũng là một người phiêu lưu. Từ một kỹ sư, đại tá tham gia cuộc nổi loạn chống nước Pháp, chỉ huy hàng nghìn người, rồi bỏ sự nghiệp mà may mắn đại tá không ngã gục vì nó, lao vào hướng khác, ngược hẳn lại, trong 8 năm lên ba cấp... Ông Nhu tin cậy đại tá song song với người Mỹ. Nhưng, ông Nhu cho phép - hoặc, nói thật đúng – xô đẩy đại tá vào tận cái bí mật không còn thể có cái nào bí mật hơn, tức là đường dây sản xuất và buôn nha phiến ở bản Huoi Then này – nơi chúng ta đang uống Whisky – không có trên bản đồ, dù là bản đồ mang tỉ lệ xích lớn nhất, chính là cái rốn của bí mật. Phải chăng ông Nhu muốn cột ông chung một rọ với ông ta? Sống cùng sống, chết cùng chết! Luân không chen một lời, để Francisci nói. Ai bảo anh ta chỉ biết buôn á phiện lậu? - Đại tá chắc kinh ngạc vì tôi không quá tách biệt với thời cuộc... Trẻ con ở Việt Nam cũng hiểu như tôi. Ông Nhu, ông Diệm thọ làm sao nổi... Phật giáo là cái cớ của người Mỹ, không có Phật giáo thì sẽ có cái khác. Buôn á phiện không đủ sức nặng để xóa triều đại ông Diệm sao? Francisci hớp một hớp rượu - Tôi quen nhiều nhân vật CIA. Họ thích quà cáp của tôi. Nhưng, tôi không bao giờ là CIA dù họ rủ rê, thậm chí dọa già. Tôi không cần tiền – tôi giàu hơn bằng vạn lần bất kỳ tay CIA sừng sỏ nào. Tôi lại ghét trò rình rập... Đại tá có thể yên tâm. Người Mỹ thích đại tá, tôi dám cam đoan nhận xét này. Và, ông Nhu thừa hiểu đại tá nằm trong danh sách dự bị mà CIA sửa soạn. Tôi thông báo với đại tá: ngay ông Trần Kim Tuyến cũng chưa đến đây, ông ta không được phép. Thiếu tá Nguyễn Thuần và thiếu úy Huỳnh Tường được phép - những con tốt mà ông Nhu muốn cho biến mất lúc nào cũng dễ. Tại đây, ông Nhu dùng cả một số người Bình Xuyên cũ. Tôi không xếp đại tá vào cùng lứa với số đó. Ông Nhu cột đại tá vào ông ta trong cuộc hụp lặn sắp tới! - Ông cũng bị cột như vậy! – Luân cười... - Không! – Francisci lắc đầu – Tôi khi hề bị cam kết sống chết với ông Nhu. Tiền, vàng, tiền – đó là mối quan hệ giữa chúng tôi. Hàng về sân bay, có khi Liên Khương, có khi Tân Hòa, có khi Tân Sơn Nhất, có khi Cát Lái... người của tôi tiếp nhận và cho đi. Ông Nhu sẽ được thông báo trương mục mang ký hiệu của ông ấy thêm bao nhiêu dollar, giới hạn quyền lực của ông ấy chỉ tới đó. Ông Nhu toàn quyền chi xuất thông qua đại diện của ông ta ở nước ngoài... Tôi thấy chẳng có gì phải dè dặt với đại tá: đại diện của ông Nhu ở nước ngoài là Mã Hằng... Đại tá chưa nghe bao giờ? Chưa chắc đã có một tên Hằng thật. Họ Mã thì thật. Đại tá có nghe tên Mã Tuyên? Cũng không... Tuyên ở Chợ Lớn. Tóm lại, họ Mã giữ tủ sắt cho ông Nhu. Tôi dại gì uống máu ăn thề với ông Nhu... Nhiều ông Nhu, theo nhiệt kế chính trị, trong khi chỉ có một Francisci! Trước khi làm ăn với ông Nhu, tôi đã làm ăn với Bảy Viễn... - Thế ông có định làm ăn với tôi không? – Luân trêu chọc - Tôi nói đúng đắn... Đại tá chớ đùa. Đại tá Nguyễn Thành Luân mà buôn lậu á phiện! Thực tâm, tôi mến đại tá, nhưng nếu vì lí do gì mà đại tá không chia sẻ số phận với ông Nhu thì chính tôi phải chuyển hướng: vĩnh biệt Sài Gòn! Không sao, tôi còn Bangkok, Rangoon... Ngược lại, nếu cuối cùng đại tá thấy chính trị là thứ vớ vẩn, xin cứ tìm tôi... Francisci đứng lên: - Đại tá lấy súng, ta thử chơi! Không đợi Luân đồng ý, Francisci đã nhét hai khẩu Vesson vào lưng, chỏ một cành cây bằng cổ tay, cách ban công chừng mươi thước: - Đạn sẽ xuyên qua cành cây đó, đúng chỗ nó uốn cong... Đại tá thấy chưa? Hệt một tay Garry Cooper (1) chính cống, nhanh như chớp, Francisci rút cùng lúc hai khẩu súng; hai tiếng nổ nối tiếp, cành cây bị xé toạc. Luân mỉm cười: - Ông bắn giỏi quá! - Xin mời đại tá! Luân vẫn mỉm cười, lắc đầu... * Nguyễn Thuần cung cấp cho Luân một loạt hiểu biết về các cuộc xung đột ở “Tam giác vàng”. Bản Houi Then nằm ở phía nam “Tam giác vàng”, không trực tiếp bị tàn quân Lý Mật của Quốc dân đảng Trung Hoa khống chế, nhưng khi quân của Lý bị quân đội Miến tấn công thì chúng mượn đường này chạy sang đường Lào. Đó là tháng 1-1961. Tên tù trưởng địa phương U Bwê thu góp số súng rơi rớt của Lý Mật, tập hợp một lực lượng chừng 200 tên chiếm bản Hoiu Then, liên hệ trực tiếp với nhóm chống chính phủ Miến Điện. Nhóm ly khai này bị đánh tan, U Bwê đầu hàng chính phủ. Nhưng, sau đó, y lại hợp tác với U Ba Thiên, một lãnh tụ ly khai khác. Giữa năm 1961, U Ba Thiên tuyên bố thành lập quân đội Quốc gia Shan, có sự hỗ trợ của CIA. Nhà sư Kham được phong làm Tổng chỉ huy. Chẳng bao lâu, Thiên bắn chết Kham vì tranh giành quyền lợi, chủ yếu là á phiện. U Bwê, thủ hạ tin cẩn của Kham, bất mãn. Thiên bao vây bản Houi Then, triệt hạ nhà cửa, U Bwê chết trong lúc lộn xộn. Francisci đến Houi Then khi bản đã tiêu điều. Anh ta nắm em ruột của U Bwê, quy tụ người La Hủ - tộc của U Bwê - mở con đường sang Bắc Lào, nơi Francisci có một bàn đạp tiếp nhận máy bay. Thế là bản Houi Then hồi sinh nhờ Francisci. Thiên lại tấn công lần nữa, nhưng lần này Thiên đại bại; súng của bản Houi Then tốt hơn - phần lớn là súng trường tự động và trung liên – và được mấy tay “anh chị” của Bảy Viễn chỉ huy – tù binh bị bắt năm 1955, Nhu tha cho, đưa đi phục dịch cho Francisci.Cơ ngơi mở rộng từ đó. Francisci sử dụng các dân bản tỏa rộng nương rẫy người Mèo, đổi muối, vải, rượu, đồng hồ, thuốc lá... lấy á phiện sống khi tới mùa thu hoạch. Xưởng chế biến hoạt động, triển vọng tốt. “Chuyên viên” từ Hongkong sang. Đường băng cũ được tu sửa – nguyên là đường băng của người Anh. Francisci đã cho thả dù trên vịnh Thái Lan mấy trăm cân á phiện sống và Hồ Tấn Quyền thừa lệnh Nhu, thu nhặt mang về Sài Gòn. Heroine không thể thả theo dù bừa bãi, phải bằng đường hàng không... Bản Houi Then bố phòng như một thành cổ phương Tây - kiến thức của Francisci không thể vượt những gì anh ta tưởng tượng. Luân mất trọn hai ngày luồn rừng quan sát ngoại vi của bản. Dẫu sao, anh cũng phải hoàn thành công việc do Nhu giao. Nguyễn Thuần và Tường giúp Luân vẽ bản đồ tổng thể của cả vùng mà bản Houi Then là trung tâm, đồng thời Luân phác một kế hoạch phòng thủ nhiều lớp với nhiều tình huống tiến công giả định. - Chưa biết đề án của đại tá sẽ do ai sử dụng? - Nguyễn Thuần nói với Luân trong khi Luân đánh dấu chấm hết trong bản kế hoạch. - Nghĩa là? – Luân hỏi lại - Đại tá quá rõ... - Thuần ngó Luân, mắt như giễu cợt. Từ hôm đi cùng với Luân, Thuần ít nói. Nhưng Luân đánh giá viên thiếu tá phi công này không phải là “bình thường”. Anh ta từng nhận làm cò mồi cho ai đó để gài bẫy Dung, sau lại tỏ vẻ hối hận... Và anh ta được Nhu tin dùng. - Chúng ta là quân nhân, nghĩa là chỉ biết kỷ luật! – Luân trả lời chung chung. - Còn có những thứ kỷ luật khác nghiêm khắc hơn các hoa mai mà đại tá và tôi cài lên ve áo! Tôi nói kỷ luật của thời thế... - Theo thiếu tá, thời thế sẽ ra sao? - Câu hỏi như vậy nên để tôi đặt cho đại tá, một trong không nhiều người lắm ảnh hưởng đến thời thế... - Thiếu tá coi tôi như Nã Phá Luân không bằng! - Chắc chắn đại tá không là Nã Phá Luân. Trước hết, vì đại tá không thích làm hoàng đế, kế đến, vì thời gian chúng ta cách xa thời đại Nã Phá Luân đến 150 năm. Nhưng, đại tá dù không phải Nã Phá Luân vẫn phải gách vác trách nhiệm, có phần do người ta đùn cho đại tá, có phần do đại tá tự nguyện... Nguyễn Thuần tiếp tục dồn Luân. “Anh ta hiểu mình như thế nào? Hiểu đến đâu?”, Luân tự trách chưa đi sâu về anh chàng này. - Tôi là một sĩ quan lái máy bay... Chưa ai có thể trình lý lịch gọn bằng tôi! Tôi thích ngành không quân, được tuyển đi học và lái máy bay, từ máy bay trinh sát, chiến đấu, ném bom đến vận tải. Có thể đại tá thắc mắc, tôi đóng trò bỉ ổi ở Buôn Mê Thuột để làm gì? Quá đơn giản. Tôi thích bà – dù đã là phu nhân của đại tá – lúc ấy, mới là thiếu tá. Có người khích tôi? Vì sao họ khích tôi? Tôi không cần biết. Tôi nghĩ rằng không khó chinh phục một phụ nữ nếu tôi muốn. Tôi nhận lời thách. Nhận như từng nhận và từng thắng trước đây - kể cả với những bà nổi tiếng đức hạnh, vợ của tướng, bộ trưởng, thậm chí, vợ của các cố vấn nước ngoài. Tại Biệt điện, tôi thua – thua như một võ sĩ hạng ruồi lại nghinh chiến với võ sĩ siêu nặng. Tôi tự ái, căm ghét bà, căm ghét luôn ông. Nhưng, không lâu, tôi lại bị “nốc ao” lần nữa. Lần này, khác hẳn về diễn biến. Một bà – xin phép đại tá, tôi giấu tên, vả lại cái tên chẳng nghĩa lý bao nhiêu - từng buông thả vào vòng tay tôi, bỗng trở chứng ngay trong lần hò hẹn mà bà chủ động. Tôi bị kết tội toan cưỡng dâm một mệnh phụ. Đáng lý tôi vào quân lao để chờ ngày lĩnh một cái án, ít nhất cũng 10 năm tù... Người ta làm ra vẻ rộng lượng và tôi phải chuộc tội. Tôi chuộc tội bằng cách lái máy bay chở thuốc phiện. Tôi được thăng cấp, Francisci tặng tôi tiền, nghĩa là đôla. Với đôla, tại Sài Gòn, tôi bảo một tay dắt mối tìm cho tôi một mệnh phụ đẹp và nổi tiếng đỏng đảnh. Kẻ đến hiến cho tôi chính là bà mệnh phụ nọ! Lần này, tôi đủ khôn ngoan. Tôi bố trí chụp ảnh lúc ân ái. Bà mệnh phụ khóc, thú nhận trước kia mê cái mã của tôi, lần bà hại tôi là do mưu của chồng, lần này, bà cần tiền... bà xin tôi hủy các bức ảnh... Tôi không đồng ý, phòng xa vẫn tốt hơn. Tôi ra điều kiện: làm trắng cái án cũ của tôi đi. Vài hôm sau, người ta tặng huân chương cho tôi với thông báo toàn quân chủng: thiếu tá Nguyễn Thuần anh dũng trong công vụ, từ trước tới nay luôn luôn giữ đúng tư cách sĩ quan... Tôi xé ảnh, đốt phim trước mặt hai vợ chồng – tôi buộc chồng bà ta chứng kiến. Ảnh và phim vừa cháy, cả hai trở mặt: sẽ hủy huân chương và tôi phải ra toà vì bản cung do tôi ký vẫn còn nguyên... Nhưng, tôi sẽ được khoan hồng nếu tôi lung lạc được bà Thùy Dung. Họ nói rõ cần các bức ảnh giống như tôi vừa đốt. Hai vợ chồng gã lái buôn mạt hạng này đắc ý không lâu: tôi bảo cho họ biết, phim đã phiên bản và tôi còn giữ nhiều ảnh.. Người chồng thất thểu ra về, người vợ ở lại với mọi trò mà chắc người đứng đắn như đại tá không sao tưởng tượng nổi. Tôi tống cổ mụ ta ra cửa. Tôi kinh tởm. Tôi bảo: thà ngủ với điếm vẫn an toàn hơn, điếm có giá biểu, nếu nhỡ đụng phải vi trùng thì đã có bác sĩ, còn ngủ với loại điếm lậu, vừa đòi hỏi nhục dục vừa muốn giữ danh giá, vừa thèm tiền, vừa tráo trở thật nguy hiểm... Tôi cũng dạy họ, chớ đụng vào bà Thùy Dung... Nguyễn Thuần nói một hơi và kết luận: - Một chế độ như thế mà đại tá cùng tôi phục sự nó! Thái dương Nguyễn Thuần giật giật... Anh ta không bịa, Luân tin ở xét đoán của mình. Đến một anh chàng trác táng còn hiểu được cái nhơ nhớp của cái gọi là “chế độ cộng hòa”... Sự cáo chung của nó là tất yếu. Nhưng, Thuần vẫn chưa khám phá bàn tay thực sự xô cả một tầng lớp thượng lưu vào tấn tuồng bỉ ổi đó. Thuần chưa hiểu và cũng chưa phải lúc làm cho Thuần hiểu. Họ quay về, lần này theo lối khác: dùng đường bộ đến bản Huôi Xai của Lào rồi về Luang Prabang, nơi họ sẽ đáp máy bay tới thẳng Savanakhet. Lộ trình do Nhu quy định, để Luân quan sát được các con đường vận chuyển khác nhau. Bản Huôi Xai vẫn còn tương đối an toàn, ít ra đến vụ thu hoạch mùa xuân sang năm. Đoàn xe rời bản Huôi Then vào lúc gà rừng chưa gáy. Đoàn xe vòng lên phía bắc thị trấn Mong Wao, rồi quặt xuống phía Nam, xuyên qua thị trấn Kentung - chỉ là một khu dân cư với vài hàng quán. Có vẻ dân địa phương quen với những đoàn xe kiểu này. Xe dừng, mọi người vào một quán điểm tâm. Chủ quán người Hoa rối rít mời khách. Một phụ nữ đen đúa cho con bú; một chú bé chắc chừng 3 tháng, mặc dù trời khá rét, vẫn trần truồng. - Chang Xưởng và vợ ông ta... - Nguyễn Thuần giới thiệu riêng với Luân. - Người Quảng Đông? - Phải, bà vợ người H’Mông. Quán là một căn trong dãy nhà lợp ngói vách ván. Nếu không có người phụ nữ, Luân ngỡ mình đang ở Chợ Lớn. Bày trí, khói, mùi mỡ hành, tiếng dao băm thịt, giống mọi tiệm hủ tiếu. Đủ cả, xíu mại, dầu cháo quẩy, bánh bao... Sau cùng, cà phê và trà – trà ướp lài. Lúc đoàn xe sắp rời quán, một toán người từ phía Mong Wao sải ngựa đến. Họ gồm trên hai chục, tất cả đều cầm súng carbine và đeo súng ngắn, kèm theo ngọn dao to bản đuôi bọc da dắt trên lưng, đội nón lá cọ rộng vành, đi giày nhà binh, có thể của Mỹ. Họ cột vào gốc cây trước quán bầy ngựa Bắc Thảo, bờm dựng đứng, không một người nào trong họ cao ngang yên ngựa. Francisci lầm lì hẳn. Khi lên đến xe, anh ta nói với Luân - Bọn U Ba Thiên đó. Luân ngoảnh lại: các kỵ sĩ trông theo đoàn xe và hình như một gã nói điều gì đó với đồng bọn, vẻ nghiêm trọng, gã chủ quán cũng châu đầu vào... - Có thể xảy ra việc gì? – Luân hỏi. - Chưa biết... Cũng có thể không xảy ra việc gì cả. Ta đi xe, chúng đi ngựa... - Francisci trả lời. - Hơn nữa, chúng đã đếm số người của ta và nhất là đã thấy số người của ta được trang bị như thế nào... Ba chiếc Land Rover gồm 15 tay súng loại tiểu liên cực nhanh, cực mạnh, chưa kể đến Francisci và nhóm Luân, không kể lái chính và lái phụ đều có súng tùy thân, mỗi xe thêm một trung liên. Đoàn xe theo con đường đá từ Simao của Vân Nam đổ theo triều Đại Lĩnh qua đầu nguồn sông Mékong, xuôi xuống Nam. Đó là quan lộ duy nhất nối miền heo hút này với thế giới bên ngoài. Đường mở vào năm 1941, nay hư hỏng nặng. Tốc độ của đoàn vì thế rất chậm, đôi đoạn nhích từng mét một. Hai bên đường không có làng, bản; các nương ngô cũ cây cỏ dại bít chịt. Mãi trước lúc mặt trời lặn, đoàn mới đến xóm nhỏ, với năm ba ngôi nhà sàn. - Đây là nơi giáp giới Thái Lan. - Nguyễn Thuần chỉ cho Luân trên bản đồ cùng tô màu đỏ sậm; dải núi Tanen Tong ngăn Miến Điện và Thái Lan. - Chúng ta vẫn còn ở độ cao gần 2.000 thước. - Nguyễn Thuần nói tiếp. Bữa cơm nếp thịt gà thật ngon miệng, Francisci cấm các người trong đoàn uống rượu. - Đoạn thử thách bắc đầu... - Francisci gọi toán bảo vệ quây quần chung quanh anh ta căn dặn. Xe chở Francisci và nhóm Luân chạy giữa, hai xe bảo vệ chạy trước và sau. Mọi người ở trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Đoàn xe bấy giờ chuyển sang hướng đông - Khoảng 10 giờ, chúng ta vượt sông Mékong; trễ lắm 2 giờ sáng cũng tới bản Huôi Xai. – Francisci xem đồng hồ tay bảo Luân. Đoàn xe theo đường mòn, xuống dốc dần. Họ vượt qua một thung lũng chắc có cư dân – ánh lửa, ánh đèn ẩn hiện sau đám lau sậy. Đến sông. Nước dân cao bởi đang mùa lũ. Xe được chở trên chiếc bè kết bằng nứa, lần theo sợi dây mây căng trên hai bờ. Các đoàn lặng lẽ, luôn những người chống bè. - An toàn rồi! – Francisci thở phào khi xe lên bờ. Anh ta cho phép cả đoàn hút thuốc, nghỉ ngơi giây lát. Luân bấm đèn pin soi bản đồ, chợt hỏi: - Từ Kentum đến bản Huôi Xai ngoài đường mòn dùng cho xe hơi mà chúng ta đang đi có con đường tắt nào chỉ đi ngựa? - Có. – Francisci trả lời - Một con đường rất hẹp, ngoằn nghèo, gần như song song với xe hơi, trịch về phía Bắc... - Hai con đường sẽ gặp nhau ở đâu? - Ngay trên đỉnh đồi trước mặt chúng ta... - Vậy thì chúng ta nên đi ngay, thật nhanh! Francisci như hiểu ra nhưng lại nhún vai. Đoàn xe gấp rút rồ máy, vách núi dựng đứng, xe chậm chạp bò lên đồi. - Trong số người của U Ba Thiên mà ông gặp ở quán, có ai là sĩ quan? hoặc cầm đầu? họ là người thuộc tộc nào? – Luân hỏi. - Hai thằng chỉ huy, một thì tôi từng chạm mặt song không biết tên, nó nguyên doanh trưởng của Lý Mật – như tiểu đoàn trưởng – sau này về với U Ba Thiên. Một thằng phó chỉ huy, tên Vàng Pao, vốn là tướng cướp. Phần lớn số đó là người H’Mông, cư trú vùng này. - Hình như U Ba Thiên có căn cứ ở Thượng Lào? - Đúng, hơn trăm cây số phía đông bắc Huôi Xai, sát biên giới Vân Nam... Vàng Pao chỉ huy căn cứ đó. - Ông Francisci, ông cho phép tôi bố trí đoạn đường này... Theo tôi, chúng ta chưa an toàn. Francisci cười nửa miệng: - Xin mời đại tá, phòng xa tốt thôi, nhưng cũng chi là phòng xa. Qua ngọn đồi này, chúng ta đã đến các bản ngoại vi thị trấn bản Huôi Xai, cách ngọn đồi không xa, đồn binh của tướng Raticun... Luân không tranh cãi với Francisci - Chú Thạch! – Luân bảo – Chú lái xe thay tài xế... Thạch trèo lên chỗ tay lái. Người tài xế cũ lầm lì ngồi xuống chỗ của Thạch. - Tôi sẽ ngồi chỗ người phụ lái! – Luân quyết định tiếp, anh lôi khẩu trung liên lên ghế đầu với anh. - Thiếu tá Thuần, thiếu úy Tường, khi tình hình cần nổ súng, chú ý bắn cấp tập... Ông Francisci, ông dặn số bảo vệ cũng làm như thế. Francisci ra lệnh cho tổ bảo vệ trong xe và gọi bộ đàm cho hai xe hộ tống, dặn một cách chiếu lệ. - Thế còn tôi? Tôi làm gì? – Francisci hỏi, vẫn cười. - Phiền ông nạp đạn giúp tôi! – Luân bảo, không hề ẩn giấu ý đùa cợt. - Nạp đạn? – Francisci hỏi ngạo nghễ - Tôi mà nạp đạn cho đại tá? Đại tá xem tôi là hạng người nào? Francisci lên giọng: - Chính tôi cầu mong bị phục kích ngay lập tức, để đại tá đánh giá lại tôi như tôi vốn có cái giá ấy... Làm một tên nạp đạn! Hừ! - Hình như có tiếng vó ngựa… – Luân lắng nghe – Đúng, tiếng vó ngựa rầm rập Francisci cũng nhô người qua cửa xe, lắng tai. - Ừ, tiếng vó ngựa... Khá đông! - Chú Thạch đạp hết ga nghe! Bóp còi giục xe trước... Ta phải chiếm đỉnh đồi trước họ... Chiếc Land Rover rùng mình, chồm chồm trên những đoạn đường gồ ghề, một bên vách núi, một bên vực thẳm. - Cẩn thận! Giặc đâu chưa thấy mà xe lăn xuống vực, chết ráo bây giờ... - Người tài xế cũ hậm hực. Trước kia ở trong quân đội Bảy Viễn, gã đầu hàng Diệm, được giao lái xe đường này, đã hơn 5 năm. - Ngựa thồ của tụi Mèo đi chợ phiên, đâu phải giặc. – Francisci đốt thuốc. Nhưng Francisci chưa kịp hút thì từ đỉnh đồi súng nổ rộ, có cả carbine, súng trường và trung liên... - Cái gì? – Francisci quăng điếu thuốc, rút khẩu Vesson. Súng càng nổ dữ dội. Francisci luống cuống. Anh ta gọi vào máy bộ đàm, mong liên lạc được với đồn binh của Raticun. Đồn binh trả lời: bọn U Ba Thiên phục kích đấy và đồn không đủ lực lượng để giúp Francisci. Francisci quăng ống nói, giọng lạc hẳn: “Nguy!”. Chiếc xe đi đầu trúng đạn, quay ngang, Francisci toan phóng xuống đất, Luân giữ anh ta lại: Đừng! - Tắt đèn, tăng ga! – Luân ra lệnh cho Thạch. Francisci mọp sát, núp sau lưng Luân. Đạn vạch từng dây, từng chấm đỏ ối, tuôn xối xả. Khi đến sát chiếc xe dẫn đầu đang quay ngang, Luân ra lệnh: - Nhảy ra! Anh là người trước tiên kê khẩu trung liên lên thành xe, miết cò. - Chúng nó chỉ có một khẩu Bren thôi! Luân vừa thay băng đạn vừa nói. Chiếc xe đoạn hậu dừng lại từ xa, bắn ẩu. Nhiều phát đạn véo ngay cạnh bọn Luân. - Ông bảo họ đừng bắn, thế mà cũng gọi là bảo vệ... - Luân nổi cáu, quát Francisci. Súng từ đỉnh đồi tuy rộ nhưng rõ ràng không phải là những xạ thủ chuyên nghiệp - Thiếu tá Thuần, ông lợi dụng những tảng đá bên sườn núi, bắn thật rát vào khẩu trung liên của chúng nó. Thuần chấp hành lệnh của Luân khá tốt. Khẩu Bren im bặt... Súng trên đỉnh đồi thưa dần.... - Chú Thạch thử khởi động xe! – Luân chỉ vào chiếc xe đang là công sự của họ - Tôi bắn yểm trợ, chú quay đầu xe lên đỉnh đồi, bật pha. Ánh pha soi rõ đỉnh đồi. Luân bắn liên tục. - Phóng lên đồi! – Luân đập vỡ kính chắn gió, nhả đạn về phía trước. Xe lên đến đỉnh đồi. Chỉ còn vài phát carbine lẻ tẻ của những tên tháo chạy. Mấy con ngựa lăn kềnh, máu đầy mặt đường. Mấy tử thi, kể cả xạ thủ khẩu Bren, mấy người bị thương kêu khóc. Francisci nạp đạn vào khẩu Bren, nằm xuống, theo ánh pha nhằm số lố nhố lưng đồi quát: - Cho bọn mày biết tay Francisci! Nhưng, anh ta chưa bóp cò thì Luân đã giật khẩu trung liên. - Không bắn! - Giọng của Luân thật nghiêm. Francisci ngỡ ngàng - Ông gọi họ: đừng sợ, ở đó ta giao người chết, bị thương của họ. Ông gọi ngay đi! Francisci đứng lên, ngó Luân trân trối. Nhưng, anh ta làm đúng theo lời Luân. - Chưa đủ sao? - Giọng Luân khàn đặc – Vô lý đến bao nhiêu người chết, chưa đủ sao? Người của U Ba Thiên được đưa lên xe, mang xuống đồi. Tổn thất của U Ba Thiên trên đỉnh đồi không nhỏ: 5 chết, 7 bị thương. Phần của Francisci nhẹ hơn nhiều: tài xế chiếc xe đầu trúng đạn, chết liền, số còn lại chỉ bị xây xát. - Ta đánh một trận giặc thực sự, nhưng để làm gì? - Nguyễn Thuần hỏi Luân. Luân cắn môi, không trả lời. - Ông đụng độ như vậy bao nhiêu lần rồi? – Lúc sau, Luân hỏi Francisci - Ác liệt, thì đây là lần đầu... Luân tư lự. “Bọn U Ba Thiên chỉ là đám cướp, không thạo đánh trận, nếu tên chỉ huy có kiến thức hơn... Không cần chiếm đỉnh đồi, cứ dựa vào vách núi bắn tỉa, chẳng ai có thể thoát đạn của họ”. - Thật là vô lý! – Luân lầm bầm - Những cái vô lý nhất trên thế gian chạm trán tại vùng hoang dại này... Khi đoàn xe lăn bánh, Francisci nói với Luân, giọng đứt quãng. - Tôi thách đại tá bắn súng... Đại tá từ chối. Tại đây tôi chỉ có thể làm người lắp đạn cho đại tá...Và, khi tôi lấy lại can đảm, đạn của tôi lạc lõng... Đó là tôi chưa nói cái sai lầm lớn của tôi, chỉ khoảnh khắc, đưa chúng ta vào chỗ chết. Đại tá, về hình thể, thấp hơn tôi ít nhất cũng một tấc, nhưng về trí tuệ thì hơn tôi cả một cái đầu, còn gan dạ, lòng nhân hậu... tôi không biết phải đo bằng gì cho xứng... Tôi không tin Chúa, thế mà lần này, tôi nghĩ là Chúa phái đại tá đến với tôi! Một người như đại tá cần cho mọi chỗ. Nếu đại tá nhận lời, tôi xin làm một tay giúp việc... - Francisci bỗng thủ thỉ - Thưa đại tá! Biết đâu đến lúc nào đó, đại tá cần tôi. Súng chẳng hạn. Tôi biết đại tá theo sức tôi có. Tiền? Đại tá gọi một tiếng... Đại tá không dùng tiền cho cá nhân mình, rõ ràng như vậy! “Vô lý! bao nhiêu người chết...” - Luân ngó thi thể người tài xế trong xe, tiếp tục nghĩ. - Tôi hiểu những cuộc nổ súng vừa rồi thật vô lý, khiến đại tá đau lòng. Nhưng, xin đại tá đừng giận, tôi sinh ra không để làm những việc có lý. Nếu có thể, lần đầu và chắc cũng là lần cuối, tôi sẽ thử làm việc có lý... Việc đó có liên quan đến đại tá! Luân liếc Francisci. Gã dân đảo Corse dù hết sức bừa bãi về đủ các mặt vẫn chưa phải mất sạch lương tri. Dưới bầu trời khuya lung linh sao, Francisci sốt ruột nhìn Luân như chờ một cái gật đầu. Phía trước đoàn xe, thị trấn Huôi Xai mờ ảo trong sương... * Luân về đến Sài Gòn, không ghé nhà mà đi thẳng vào dinh Gia Long. Nhu tiếp Luân rất thoải mái. Nghe Luân xong – Luân trình bày kèm bản đồ bản Huôi Then, sơ đồ bố phòng, các yêu cầu xây dựng công sự và vũ khí, quân số... - Nhu hỏi tỉ mỉ nhiều khía cạnh của cơ sở chế biến bạch phiến, mặc dù anh ta chỉ giao cho Luân nhiệm vụ xem xét và đề xuất ý kiến về phòng thủ. Nhu xúc cảm thật sự trước cuộc đụng độ gần bản Huôi Xai; Luân chỉ thuật qua nhưng Nhu lại dừng ở đó khá lâu.- Tôi đoán là anh có thể gặp nguy hiểm nhưng không ngờ nguy hiểm đến mức như vậy. Cũng may anh là sĩ quan quân đội, bằng không... Tôi phải cảm ơn anh, anh không thích tôi vẫn cảm ơn. Ít ra, anh cũng giúp tôi yên được một bề. Người Mỹ muốn bóp chẹt viện trợ cỡ nào, tôi cũng không sợ. Francisci sắp sang Hongkong. Khách hàng của ông ta đòi số lượng “hàng” lớn hơn trước đây gấp ba gấp bốn. Chúng ta phải có đủ tiền để nuôi quân. Chúng ta cần tiền cho chiến dịch “giải độc” – chúng ta tiêu tốn không ít cho một bài viết tốt về chúng ta đăng trên một tờ báo lớn ở Mỹ. Sắp tới, tôi phải chi thật hào phóng cho phái đoàn điều tra của Liên hiệp quốc. Một nhóm nhà sư gửi thư riêng cho tôi, họ xin thành lập tổ chức bảo vệ tôn chỉ đạo Phật, ủng hộ chính phủ chống lại phe quá khích, không thể để cho họ chạy theo các đám cúng; họ cần ra báo, lập trụ sở... Còn “Bravo” nữa. Trần Quang Bửu dốt về chính trị nhưng thạo về cách tiêu tiền sao cho có lợi... Nhu càng nói càng hồ hởi: - Nhà tôi báo tin, cuộc gặp gỡ với giới chính trị và báo chí ở các nước La Mã, Pháp, Mỹ của phái đoàn ta đạt kết quả không ngờ... Dư luận thế giới bắt đầu chuyển hướng có lợi cho chúng ta. Có lẽ vì vậy mà tổng thống Mỹ quyết định cử sang đây Bộ trưởng quốc phòng và tướng Taylor chứ không cử những nhà chính trị. Nghĩa là, điều mà Mỹ quan tâm không phải là chuyện Phật giáo. Cần thêm sức mạnh quân sự để chúng ta mau chóng đẩy lùi Việt Cộng. Tuy nhiên, tôi vẫn thấy cần quét sạch mọi mầm nguy hiểm từ trong ruột của chúng ta. Không rảnh tay trong đối nội thì khó thể thắng kẻ thù, càng khó ăn nói với Mỹ. So với lúc anh đi, tình hình khả quan hơn nhiều... Bây giờ, anh nghĩ. Rất tiếc anh không thể nghỉ dài ngày. Trưa mai, anh nên nắm vững tin tức, các báo cáo và có thể tướng Taylor gặp anh, tất nhiên, về những vấn đề đơn thuần quân sự. - Về việc anh vắng mặt, tôi đã bảo Việt tấn xã sửa soạn một bản tin, theo đó, anh thị sát lực lượng hải quân theo lệnh của tổng thống... - Nhu nói tiếp. - Có lẽ không nên...- Luân lắc đầu – Có lẽ, Việt tấn xã đừng nên nhắc đến tôi. Còn những người tò mò, tôi có cách làm họ tin. - Cũng được... Tùy anh. À! – Nhu chợt nhớ - Anh đừng nói gì với tổng thống về chuyến công tác của anh. Luân chào Nhu ra về. Luân cảm giác Nhu không đủ minh mẫn như trước, từ việc lớn đến việc nhỏ. Tuy chưa nắm tất cả tin tức, Luân khẳng định rằng Lệ Xuân không gặp may như Nhu khoe: Mac Namara sang Sài Gòn không có nghĩa Kennedy đặt quân sự cao hơn các rắc rối về nội bộ Nam Việt, hoặc do nhu cầu quân sự mà phải kết thúc nhanh các trở ngại chính trị. Tại sao lại không là một thứ nghi binh trước khi Mỹ hành động? Luân hiểu Kennedy đứng trước một khó khăn lớn nhất của nước Mỹ đối với Nam Việt từ 1954, thế lực ủng hộ Diệm vẫn còn trong chính giới Mỹ, thậm chí trong CIA, và bài toán mà CIA chưa tin vào đáp số: cái gì xảy ra sau Diệm? Nhu đã tự lừa dối mình. Khi bắt tay từ giã, Luân thấy Nhu cười, Luân không cười. Anh muốn giữ thái độ độc lập trong cách phán đoán tình hình. Đọc được ý nghĩ của Luân, Nhu bảo: - Anh không vui? Anh quên Rabelais rồi sao? Tôi nhắc nhé, Rabelais nói: “Mieux est de ris que de larmes, écrire pour ce que rire est le propre de l’homme!” (2) Nhu dựa vào một câu triết lý của nhà văn Pháp - chỗ dựa của Nhu mong manh đến thế. Nhu vốn ít cười. Bây giờ anh tìm chút lạc quan trong tiếng cười. Có lẽ đó là dấu hiệu hoảng loạn thần kinh của Nhu dễ thấy nhất. --- (1) Tên một diễn viên điện ảnh của Mỹ, chuyên đóng phim cowboy (2) Tốt hơn là viết về cái cười hơn là bàn về cái khóc, vì cười là thuộc tính của con người Phần 8 - Chương 4 ... Dung nghe Luân. Mắt cô đỏ. Những giây phút nguy hiểm đó có đáng cho Luân gánh chịu không? Luân lựa lời an ủi vợ: “Anh chưa rút ra được điều lợi gì trong chuyến đến “Tam giác vàng”, nhưng ít ra anh cũng nắm thêm được hiện tượng về cơn thoi thóp của chế độ. Riêng việc làm quen với Francisci chắc không phải hoàn toàn vô nghĩa. Còn thiếu tá Nguyễn Thuần nữa... ” Dung tóm tắt tình hình lúc Luân vắng nhà: Trần Lệ Xuân bị đả đảo ở Ý, ở Pháp, ở Mỹ. Tổng thống Kennedy không tiếp mụ ta, trong khi đó, cựu đại sứ Trần Văn Chương – bố mụ ta – kịch liệt chỉ trích Trần Lệ Xuân là kẻ gây rối tình hình Nam Việt. Ngày hôm qua, quốc hội triển hạn thêm 2 năm nữa quyền ban sắc luật của Diệm. Phái đoàn điều tra của Liên hiệp quốc hôm nay đến Sài Gòn. Liên lạc với anh Sáu Đăng và A.07 đứt, không rõ lý do. Dung định nhắn tin trên báo theo quy ước nhưng chờ Luân quyết định. James Casey hỏi tin Luân. Tham mưu biệt bộ trả lời: Luân đi công cán ở miền Trung theo lệnh đặc biệt của cố vấn Ngô Đình Nhu. Saroyan dặn hễ Luân về thì báo ngay vì tướng Taylor muốn gặp riêng Luân. - Mỗi ngày, có điện thoại hỏi thăm anh, lúc em vắng nhà. Chị Sáu không biết ai hỏi, nhưng hình như ba nơi, theo chị Sáu đoán... - Cabot Lodge có gọi anh không? - Một lần, gọi đến văn phòng em. Em trả lời anh đi công vụ dài ngày... - Còn ai nữa? - Tướng Andre gọi hai lần. Tướng Đính gọi thường hơn. - Còn Mai Hữu Xuân? - Không... Giữa lúc hai vợ chồng Luân nói chuyện, Thạch vào, thái độ lo lắng: - Thưa đại tá, nhà em đau nặng. Thạch chìa bức điện cho Luân. “Em đau nặng. Stop. Anh xin phép đại tá về ngay mới còn mong thấy mặt em. Stop”. Lê Thị Kỷ. Điện đánh ngày 21-10. Luân đọc đi đọc lại bức điện mấy lần. Thạch thở dài liền liền. - Không biết vợ em đau bệnh gì... - Tôi nhớ vợ chú không đánh điện cho chú bao giờ. Phải không? – Luân hỏi. - Dạ, đúng vậy... Vợ em không quen đến nhà dây thép... - Hình như vợ chú dặn chú đừng về làng? - Dạ đúng vậy... Luân cau mày một hồi lâu. - Chắc không phải chị Thạch điện cho anh đâu! – Dung cũng đoán như Luân. - Kỳ cục quá! – Thạch gãi đầu, phân vân. - Ta có thể kiểm tra, không khó đâu. Luân lại máy điện thoại đặc biệt dành liên lạc với các đơn vị quân đội, gọi thẳng đơn vị trưởng sân bay Thân Cửu Nghĩa, làng của Thạch, nhờ phái người đến nhà vợ Thạch. - Chú đợi, độ một tiếng đồng hồ nữa, người ta sẽ trả lời... - Luân bảo Thạch. Điện trả lời của đơn vị trưởng sân bay Thân Cửu Nghĩa làm sáng tỏ nghi vấn của Luân: vợ Thạch chẳng đau ốm gì cả, nghĩa là bức điện tín giả mạo. Gạt Thạch về quê để bắt Thạch. Tất nhiên bắt Thạch nhằm khai thác những việc liên quan đến Luân. Đến lúc mà các đối thủ muốn thật chắc mọi bằng cớ hiển nhiên, đầy đủ về Luân, từ đó, định một thái độ dứt khoát với anh, kể cả cái ghê rợn nhất: để anh sống hay chết! Ít ra, chúng muốn tìm hiểu sự vắng mặt của Luân trong tuần lễ vừa qua. Nhưng, bọn nào? Không ngoài những kẻ gọi điện thoại hỏi thăm Luân mà chị Sáu không thể biết. Bọn nào? Luân và Dung trao đổi. Theo phương pháp loại trừ, Tổng nha, Tổng ủy tình báo không nằm trong số khả nghi. Còn lại, có thể Mai Hữu Xuân. Xuân không trực tiếp hỏi tin tức Luân nhưng hắn đời nào rời mắt bất kỳ động tịnh nhỏ lớn của Luân. Có thể John Hing. Tay này chăm sóc Luân khá kỹ. Ai nữa? Nguyễn Cao Kỳ? Không! Kỳ nhất định có ảnh hưởng của Luân ở khách sạn “Con gà vàng” trên Savanakhet. Và CIA? Điện thoại reo. Dung nhấc máy: Saroyan hỏi thăm tin Luân. - Saroyan sẽ đến ngay, hình như có việc cần... - Dung gác máy, bảo Luân. ... Saroyan vừa vào nhà, bắt tay vợ chồng Luân, chưa kịp ngồi, đã nói, giọng lo lắng: - Jones muốn gặp anh. Ông ta định gặp ngày hôm qua, nhưng anh chưa về. Jones có vẻ nghi ngờ sự vắng mặt tương đối lâu của anh. Anh nên gọi ông ta, đang ở chỗ tướng Harkins, cho một cái hẹn. Liệu... - Saroyan không nói tiếp, đôi mắt âu lo của cô đã nói thay. - Cám ơn Saroyan! – Luân cười – Chẳng có gì đáng lo đâu, Saroyan yên tâm. Được, tôi nói chuyện với tướng quân. Saroyan ngồi chơi với Dung... Luân lại máy nói. Dung thuật vắn tắt chuyến đi của Luân. Saroyan lắng nghe và cô, cũng như Dung mắt đo đỏ... Khi Luân nói chuyện xong với Jones Stepp, quay lại salon, Saroyan đứng lên: - Mình xin phép Dung nhé! Cô hôn mạnh vào mắt Luân... - Mừng anh thoát hiểm... Tuy vậy, em không thích anh dấn vào những chỗ kỳ quặc. Dung nghĩ giống em... Luân nhìn Saroyan, tự nhiên anh ứa nước mắt. - Tôi đi ngay đến MACV, tướng quân chờ tôi... Saroyan ở chơi với Dung. Luân không dám kéo dài cơn xúc động. ... Jones Stepp tiếp Luân hơi lạnh nhạt. Nhìn chiếc gạt tàn thuốc, Luân đoán Paul Harkins vừa rời chỗ này và chắc hai người đã mổ xẻ Luân trước khi Luân đến. - Đại tá đi vất vả lắm, phải không? – Jones hỏi, bản thân câu hỏi đã chứa cả đống nghi vấn. - Thưa tướng quân, không chỉ vất vả vì đường xa mà còn vì nguy hiểm. Tôi thoát một trận phục kích vào đêm khuya, trên một ngọn đồi... - Luân trả lời. - Người anh sạm, hốc hác, - Jones có vẻ đồng ý. - Tất nhiên, tôi nghĩ đại tá không đi nghỉ mát. Nhưng rơi vào ổ phục kích thì... quái lạ! Ai phục kích? Phục kích trên ngọn đồi nào?... - Giọng Jones vẫn khô khốc. - Thế, theo tướng quân, tôi đi đâu? – Luân mím môi. - Thông báo của Tham mưu biệt bộ Phủ thổng thống đã cho tôi biết: đại tá đi kiểm tra các lượng lượng hải quân. Trên biển có một ngọn đồi ư? Hoặc đại tá nói chưa chuẩn xác: tàu của đại tá đụng Việt Cộng tại một hòn đảo nào đó... Không hề gì, ta đính chính lại được thôi. – Jones bắt đầu theo kiểu hỏi cung của CIA. - Tôi không đi kiểm tra hải quân! Nói cho chuẩn xác như tướng quân muốn, công vụ kiểm tra hải quân là cái cớ bên ngoài... Jones khẽ động đậy, đôi mắt xanh đục của viên tướng già giống con diều hâu phát hiện mồi, nhưng giả bộ trông về hướng khác. - Nơi tôi bị phục kích, thưa tướng quân, cạnh bản Huôi Xai, sát sông Mekong... Jones Stepp vẫn giữ đôi mắt trong trạng thái rình mò: - Vùng đó do Pathet Lào kiểm soát? Ai phục kích? - Vùng đó thuộc quân khu II của Vương quốc Lào, đặt trực tiếp dưới quyền của tướng Raticun... - Luân hơi cười mỉm. - À tôi nhớ... Nhưng... - Bọn phỉ U Ba Thiên chen vào công việc của đại tá? – Jones vẫn lục vấn đều đều. - Dễ hiểu. Tôi từ “Tam giác vàng” quay về... Jones kinh ngạc thật sự: - Đại tá đi “Tam giác vàng”? - Vâng! - Thôi, tôi không cần hỏi thêm... Ông Nhu phái đại tá vì một yêu cầu không phải chính trị... Tôi tạm tin như thế... - Để tướng quân rút chữ “tạm tin”, tôi đề nghị tướng quân điện cho trung tá Nguyễn Cao Kỳ... Tướng quân chỉ xin vài tấm ảnh mà người của trung tá Kỳ, chủ một khách sạn, đã làm việc đó. - Chị của trung tá Kỳ? - Vâng, chị ruột... Jones chống cằm, đôi mắt bắt đầu ấm áp đôi chút. - Thưa tướng quân, tôi không hề phiền long, trái lại, mong tướng quân đi cho hết đà, điều mà tướng quân muốn tìm hiểu. Jones đứng lên, đủng đỉnh lại máy nói. - Trong vòng nửa giờ nữa, chúng ta có thể thỏa mãn. - Jones trở lại chỗ ngồi. - Lúc chờ đợi, ta uống cái gì chứ? Tôi gọi Whisky, còn đại tá? Cũng Whisky? - Không! Tôi xin bia... Jones bấm interphone, gọi rượu, rồi nheo mắt với Luân: - Đại tá không theo sở thích của cấp trên? - Không! – Luân trả lời cụt lủn. - Tại sao? - Ở đây, vì nhiều lẽ: sở thích là cái riêng của mỗi người, quyền lực không thể can thiệp được; về cấp bậc, thiếu tướng đương nhiên cao hơn đại tá, song chúng ta thuộc hai quốc gia, hai quân đội, tôi cho rằng tướng quân chẳng thích thú gì nếu đặt sĩ quan Mỹ lên trên sĩ quan Việt... Một đại úy Mỹ cố vấn cho một trung đoàn Việt Nam, điều đó có thể chấp nhận vì là kiến thức, nhưng nếu một đại úy Mỹ lại chỉ huy một trung tá Việt Nam, thì trước hết, kỷ cương đảo lộn, tôi chưa nói đến tâm lý... - Đúng lắm! – Jones Stepp reo lên... - Cám ơn đại tá! Có lẽ người Mỹ chúng tôi phải cố gắng giữ cho được sự phân biệt này... Tuy nhiên... - Jones không nói tiếp, nâng ly mời Luân. - Tuy nhiên, cũng không ít sĩ quan Việt Nam muốn tự hạ cấp bực mình trước sĩ quan Mỹ... - Jones cười ha hả. - Có, có nhiều nữa... - Luân đặt cốc bia xuống bàn nói đủng đỉnh... - Cái đáng quan tâm là người Mỹ định làm gì ở đây? Tổng thống Kennedy nhắc hơn một lần ý chí chiến thắng. Làm sao chiến thắng được nếu mọi binh sĩ Việt Nam chỉ biết nghiên cứu sở thích của người Mỹ hơn là nghiên cứu cách chiến thắng! - Chắc giữa chúng ta không có gì khác nhau. Tuy vậy, biên độ cho phép không thể vô giới hạn... - Tướng quân muốn nói đến chính sách đối nội hiện nay của chính phủ Việt Nam Cộng hòa? Jones gật đầu, rót tiếp ly rượu thứ hai. - Có biên độ... Tôi hiểu biên độ đó là chiến thắng! - Hoàn toàn thống nhất với đại tá! – Jones chia tay bắt rất chặt tay Luân. - Hình như Saroyan đang ở chỗ đại tá? – Jones Stepp làm vẻ ông ta hỏi tình cờ. - Vâng, phu nhân đến thăm tôi... Giờ này, có thể bà còn trò chuyện với vợ tôi... - Tôi theo dõi sự vắng mặt của đại tá qua Saroyan, cô ấy luôn bồn chồn... - Jones ngó thẳng Luân. - Vợ tôi còn bồn chồn hơn. Không ai được biết chuyến đi của tôi, trừ những người cùng đi... - Saroyan rất mến đại tá! - Tôi và vợ tôi cũng rất mến phu nhân! - Ta nâng ly! – Jones uống ly thứ ba... - Mọi cái đều có biên độ. Thưa tướng quân, tôi hy vọng ly này là ly cuối cùng... - Không! – Jones rót ly thứ tư – Tôi phải uống một ly để cảm ơn cái biên độ mà đại tá vừa nói... Mọi thứ đều có biên độ, phải không? Trừ tình bạn giữa đại tá và tôi... vì vậy, tôi uống thêm ly thứ năm... Jones đã ngà ngà – những 5 ly Whisky chính cống Scotland, mỗi ly bằng 50 grammes. Người sĩ quan hầu cận mang vào một phong bì, Jones xé ra: mấy bức ảnh chụp Luân, không chỉ với cô gái điếm mà cả ảnh Luân xuống sân bay Savanakhet, lên máy bay đi Vientine... Jones ngó qua, trỏ Francisci: - Ai đây? - Một trùm buôn nha phiến quốc tế. Jones bỗng cười sặc: - Đại tá phải chuộc cái gì đáng giá, bằng không tôi gửi cho bà đại tá bức ảnh này, – Jones chọn bức ảnh cô gái sà vào lòng Luân – Thì đất dưới chân đại tá sẽ sụt... Jones dồn các bức ảnh vào phong bì, bảo sĩ quan hầu cận: - Vứt đâu đó! Viên sĩ quan hầu cận ngập ngừng: - Thưa tướng quân... - Gì? - Trung tá Nguyễn Cao Kỳ đích thân mang những bức ảnh này đến và chờ chỉ thị của tướng quân! - Chỉ thị? À, có. Anh báo với ông Kỳ tôi bận làm việc với đại tá Nguyễn Thành Luân, cho phép ông ấy về... Viên sĩ quan hầu cận chập gót chân, ra khỏi phòng. - Thêm một kẻ chuyên làm theo sở thích của chúng tôi! – Jones bĩu môi. - Ông Kỳ vẫn có sở thích riêng... - Tôi biết! Tôi biết! Hắn chở gái điếm lên máy bay bốn cánh quạt. Vượt quá biên độ cho phép! - Bây giờ, tôi báo với đại tá một tin: ngày mai, tướng Taylor sẽ tiếp đại tá... Giọng Jones Stepp tỉnh như sáo. Khi bắt tay Luân, Jones Stepp nói thêm: - Tôi có thể cho mình quyền thay mặt tướng Paul Harkins chúc mừng đại tá trở về Sài Gòn bình yên... * Hoa Thịnh Đốn (VTX)LẬP TRƯỜNG CỦA HOA KỲ VỀ VẤN ĐỀ NAM VIỆT Hôm thứ tư, Tòa Bạch ốc vừa cho công bố một bản tuyên cáo toàn thể chính sách của Hoa Kỳ tại Việt Nam, trong đó có dự định riêng rằng viện trợ Hoa Kỳ cho Việt Nam có thể sẽ chấm dứt vào cuối năm 1965. Bản tuyên cáo được công bố sau một phiên họp bất thường của Hội đồng an ninh quốc gia, đã xác nhận rằng Hoa Kỳ tiếp tục ủng hộ Chính phủ và nhân dân Việt Nam để dẹp tan những hoạt động phá hoại của Việt Cộng càng sớm càng hay. Thuyết minh mới đây của chính sách Hoa Kỳ căn cứ vào bản phúc trình của ông Mc. Namara và của tướng Macwell Taylor công nhận rằng tình hình chính trị tại Việt Nam vẫn còn rất nghiêm trọng nhưng chưa gây thiệt hại trực tiếp cho những cố gắng về quân sự. * Bản tuyên cáo của tòa Bạch Ốc dự định có thể bớt 1.000 cố vấn quân sự Mỹ ra khỏi Việt Nam từ nay tới cuối năm.Các điểm chính trong bản tuyên cáo: Washington (AFP) Như tin đã loan, sau một phiên họp bất thường của Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ, lâu 50 phút, hôm thứ tư, dưới quyền chủ tọa của tổng thống Hoa Kỳ, Nhà Trắng đã công bố một bản tuyên cáo về toàn thể chính sách của Hoa Kỳ đối với Việt Nam. Bản tuyên cáo này được ông Pierre Salinger, Tham vụ báo chí Nhà Trắng, trao cho các ký giả. Bản tuyên cáo đã căn cứ vào bản phúc trình rất dài của Bộ trưởng quốc phòng Mac Namara và tướng Maxwell Taylor, Chủ tịch Hội đồng tham mưu liên quân Hoa Kỳ vừa đệ trình một bản lên Tổng thống Kennedy và một bản lên Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ. Bản tuyên cáo của Nhà Trắng xác nhận rằng bản phúc trình ấy gồm có một số tin tức và lời khuyến cáo mật, sẽ được đem ra nghiên cứu kỹ càng. Những lời xác nhận căn bản trong phúc trình ấy đã được toàn thể các nhân vật trong Hội đồng an ninh quốc gia chấp thuận và Tổng thống Hoa Kỳ đã chấp thuận bản tuyên cáo sau đây về chính sách của Hoa Kỳ, căn cứ trên những lời khuyến cáo của ông Mac Namara, tướng Taylor và ông Henrry Cabot Lodge: 1. Nền an ninh của Việt Nam là một yếu tố quan trọng đối với Mỹ và những quốc gia tự do khác. Chúng ta cương quyết duy trì chính sách của ta là hợp sức với nhân dân và chính phủ Việt Nam để bảo vệ xứ này chống Cộng sản và sớm diệt trừ phản loạn do bên ngoài khuyến khích và ủng hộ. Chính sách của chúng ta ở Việt Nam nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện công cuộc đó một cách hữu hiệu. 2. Chương trình quân sự ở Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ và theo nguyên tắc, chương trình ấy vấn có giá trị, tuy rằng chúng ta luôn luôn cương quyết tìm cách cải thiện cho hoàn hảo. 3. Phần lớn viện trợ của Hoa Kỳ dành cho nỗ lực quân sự đó sẽ đem ra sử dụng cho đến khi nào dẹp tan được phiến loạn mới thôi, hay là đến khi nào lực lượng an ninh quốc gia Việt Nam có thể tự mình đảm trách được nhiệm vụ ấy. Về phần ông Mac Namara và tướng Taylor thì cho rằng phần lớn nỗ lực quân sự của Mỹ sẽ được hoàn tất từ nay cho đến cuối năm 1965. Tuy nhiên, sau thời hạn đó có thể còn giữ lại một số hạn chế huấn luyện viên quân sự Mỹ. Ông Mac Namara và tướng Taylor đã tuyên bố trong bản báo cáo rằng, từ nay đến cuối năm, chương trình huấn luyện của Mỹ giúp cho Việt Nam, sẽ tiến triển tốt. 4. Tình hình chính trị ở Việt Nam vẫn còn nghiêm trọng. 5. Chính sách của Mỹ ở Việt Nam – cũng như các nơi khác trên thế giới – vẫn luôn luôn nhằm mục đích hỗ trợ những cố gắng của nhân dân xứ này để ngăn ngừa xâm lăng do đó mở đường tiến tới một xã hội hòa bình và tự do. * Theo nguyện vọng riêng của giáo sư Vũ Văn Mẫu, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa đã chấp nhận đơn từ chức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của ông và quyết định cử ông Trương Công Cừu, Bộ trưởng đặc nhiệm xã hội văn hóa kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.THÔNG CÁO CỦA PHỦ TỔNG THỐNG Tổng thống cũng chấp nhận cho giáo sư Vũ Văn Mẫu được xuất ngoại để hành hương ở Ấn Độ. * Tổng thống Việt Nam Cộng hòa vừa ký sắc lệnh bổ nhiệm Trung tướng Nguyễn Ngọc Lễ, Tổng thanh tra bảo an và dân vệ làm Phụ tá Tổng tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng hòa.TIN VỀ BỔ NHIỆM * Đại tướng Maxwell Taylor, Chủ tịch Hội đồng tham mưu liên quân Mỹ, tiếp Luân tại cơ quan của tướng Paul Harkins và lần này, không cần nghi trang bằng một trận đấu quần vợt. Xe Luân dừng tận thềm văn phòng của P. Harkins và Jones đích thân mở cửa xe mời Luân. Cái bắt tay rất chặt của viên tướng tình báo được máy ảnh, máy quay phim ghi nhận.Fanfani vẹt các nhà báo, đứng sát Luân: - Chúc mừng đại tá! Luân chưa kịp chào đáp lễ, Fanfani đã mở máy ghi âm, hỏi: - Đại tá cho nửa phút... Tự đại tá xin gặp đại tướng hay đại tướng mời đại tá? - Điều đó có ý nghĩa gì? – Luân mỉm cười. - Đại tướng đã ra kia, xin đại tá trả lời, chúng ta có quá ít thời giờ... - Tôi vẫn thấy không cần thiết phải trả lời câu hỏi của cô. Nó vô nghĩa. - Đại tá không chú ý cơ quan USIS, các nhà báo nước ngoài, hãng truyền hình CBS... chầu chực đại tá như một người hùng sao? Câu hỏi rất có ý nghĩa, thưa đại tá... Luân nhún vai. Và anh đã phải tiến lên khỏi các bậc thềm, đón bàn tay đang chìa ra rất ân cần của Taylor. Fanfani bực dọc tắt máy ghi âm và giương chiếc máy ảnh. Hình như, trong dự kiến Taylor sẽ ôm Luân giống đôi bạn thân lâu ngày gặp nhau nhưng có lẽ vì Luân giữ đúng quân phong, nghiêm người chào ông ta mà cái màn “ôm hôn thắm thiết” không diễn ra – nếu diễn ra, sẽ khá sượng. Hai cánh tay Taylor dang rộng rồi khép lại. Ông cũng phải chào lại như một cấp trên. Đúng là Jones Stepp cố tình làm rùm beng cuộc gặp gỡ này, mà danh xưng sẽ gây hứng thú cho các nhà báo. Luân thăm xã giao: Đại tướng Taylor mời Luân trao đổi công vụ... Gì thì gì, một đại tá Nam Việt tùng sự trong Tham mưu biệt bộ Phủ Tổng thống, chẳng giữ chức quyền to tát, lại được một đại tướng Mỹ, nhà quân sự được xem là số một của phương Tây hiện nay, đón như thượng khách, một thiếu tướng Mỹ mở cửa xe và hướng dẫn, hai lính thủy quân lục chiến Mỹ bồng súng chào... Dứt khoát được báo chí khai thác đến mức giật gân nhất. Trong khi đó, không hề có một nhà báo Sài Gòn nào có mặt, trừ tờ Viễn Đông nhật báo xuất bản bằng tiếng Pháp. - Tôi chờ mãi, hôm nay mới gặp đại tá! – Taylor choàng vai Luân vào phòng khách, sau khi hai người phải đứng một lúc để các nhà báo lấy bức ảnh “chính”. Các nhà báo chưa buông tha Taylor và Luân. Họ ùa vào phòng khách và chỉ chịu rút lui khi lấy được bức ảnh Taylor và Luân chạm ly mừng cuộc “tái ngộ”. - Đại tá khó chịu các nhà báo? – Taylor hỏi. - Tôi vốn ít xuất hiện trên báo, trên phim... - Đôi khi vẫn phải chịu cái mà mình ít thích, thậm chí ghét nữa, - Taylor nói – Tôi không khác đại tá về điều đó! - Lúc đầu, Bộ trưởng Mac Namara muốn gặp đại tá, dĩ nhiên tại đại sứ quán Mỹ, song vào giờ chót, ông ấy bận gặp Tổng thống Diệm nên nhờ tôi xin lỗi đại tá và tôi được ủy quyền thay mặt Bộ trưởng... - Giọng Taylor trở nên trịnh trọng. Jones Stepp đứng lên: - Tôi xin phép tướng quân và đại tá. Một công việc khẩn đang đợi tôi... Luân hiểu Jones Stepp muốn tránh mặt để Taylor và Luân dễ nói chuyện riêng. - Ta hãy trao đổi như hai quân nhân... - Taylor nói, khi Jones khuất sau cửa phòng – Dù sao thiếu tướng vẫn là một nhà chính trị. Taylor cười mỉm: CIA là một ngành chính trị! - “Tam giác vàng” chắc gợi cho đại tá ít nhiều não nề... đúng không? – Taylor ngó Luân, thăm dò. Quan hệ giữa hai người đúng ra còn mang ý nghĩa thầy trò. Taylor từng giảng nhiều giờ học viện tham mưu cao cấp mà Luân theo học. Lúc ấy, tuy Taylor nhìn Luân không hoàn toàn như mọi học viên khác – những ý kiến phản bác hoặc bổ sung của Luân về chiến thuật quân sự trên các chiến trường vùng nhiệt đới đối đầu với các lực lượng theo chủ nghĩa dân tộc và được lãnh đạo, chỉ huy tốt thường khiến Taylor trầm ngâm khá lâu trước khi giải đáp – song Luân mới dừng lại mức gây ấn tượng đối với Taylor. Lần sang Sài Gòn gần đây nhất, Taylor thay đổi cách cư xử với Luân – hẳn cơ quan tình báo Mỹ yêu cầu Taylor lưu ý Luân trong ván cờ mà CIA bắt đầu sắp xếp các quân, không còn nằm trong dự kiến xa xôi nữa. - “Tam giác vàng”? Thưa tướng quân, nếu tôi là Interpol! – Luân trả lời, hơi cau mày. - Tôi hiểu... Bẩn thỉu! ta hãy xem như không có cái tam giác đó... Chẳng thể nào để cái mùi nha phiến, dù đã tinh chế, chen vào công việc của chúng ta. Nước Mỹ không dính đến sự cố gọi là nha phiến cách nay hơn trăm năm mà người Anh dùng chiêu bài đó tiến công Trung Quốc... - Vâng! Nếu cần bàn thì lại là khía cạnh quân sự của cuộc viễn chinh ấy... - Luân gật đầu, nói thêm một câu hơi mơ hồ. Taylor ngó Luân đăm đăm. - Người Anh thành lập đội “Viễn chinh phương Đông” với 41 tàu chiến và 15.000 quân... - Luân nói thêm. - Và, viên chỉ huy Trung Quốc, tôi quên tên... - Khâm sai đại thần Lâm Tắc Từ... - Luân giúp cho Taylor một chút sử liệu. - Gọi theo âm Anh thì Lin... Phải, viên quan to từ Bắc Kinh xuống đã thua dễ dàng quân thật nhỏ bé trước một Trung Hoa mênh mông... Hình như quân Anh chỉ bắn phá vài lần. - Tướng quân nhớ rất chính xác. Sau vài lần bắn phá, Trung Quốc nhượng Hongkong cho Anh... Chuyện của thế kỷ trước thường đơn giản như vậy! Taylor bỗng cười to: - Cám ơn đại tá giúp tôi trở lại thế kỷ chúng ta đang sống. Người Mỹ đã có trên 20.000 tại Nam Việt... - Sau khi người Pháp đã có trên 200.000... - Thật chính xác! Cách đo lường mỗi thời gian một khác. Dầu vậy, chúng tôi – Bộ trưởng Mac Namara, một người am hiểu sâu rộng các vấn đề quân sự và tôi – nghĩ rằng có thể giới hạn con số cố vấn và thực binh Mỹ như hiện nay mà vẫn tìm được chiến thắng. Đại tá có tin điều đó không? - Tôi vừa đọc phần công bố công khai phúc trình của ngài Bộ trưởng và tướng quân, tôi cũng nghe tuyên cáo của Tổng thống Kennedy. Chắc không ai không thở phào khi biết đến năm 1965, quân nhân Mỹ giã từ miền đất nóng bức ẩm ướt này và càng phấn khởi hơn với những quân nhân nào trong số 1.000 được dự lễ Noel năm nay trên đất Mỹ... Về mặt đó, tôi xin chia vui với tướng quân. Câu nói văn hoa lại kèm nụ cười của Luân kéo Taylor – đang tựa lưng trên ghế - bật dậy: - Đại tá nghĩ khác chúng tôi? - Phải nói thế nào đây, thưa tướng quân? Một phúc trình công bố công khai với những chứa đựng thật sau các từ ngữ có thể vẫn tách biệt nhau, thậm chí, chẳng liên quan gì với nhau... Không! Có liên quan. Cái nọ che cái kia... Sau cùng, một điều mà Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ cố ý – cố ý một cách lộ liễu – nhét vào giữa tuyên cáo ấy: “Tình hình chính trị ở Nam Việt vẫn còn nghiêm trọng” lại chính là cốt tủy của bản tuyên cáo dài dòng... Năm 1965 người Mỹ về nước, Noel năm nay, 1.000 quân nhân Mỹ đoàn tụ với gia đình... Tất cả tùy thuộc ở chỗ tình hình chính trị kia. Nó vẫn còn nghiêm trọng. Và, nếu cái gì mà phái đoàn của ngài Bộ trưởng và tướng quân không thể chủ động, cái đó nằm trong điều thứ tư... Logic sẽ như thế này: Chiến thắng chắc chắn đến, có quyền tính từng tháng, nếu xóa được điểm thứ tư kia... Điểm thứ tư trong tuyên cáo trùng hợp với Fourth Point của Tổng thống Truman... Taylor lại cười lớn: - Tôi chỉ đính chính một chi tiết. Điểm 4 của tuyên cáo lần này chẳng giống gì điểm 4 của Tống thống Truman. Vấn đề Nam Việt chưa đến mức cần cả một chính sách tầm cỡ thế giới hậu thuẫn. Còn các nhận định của đại tá, tôi đồng ý. Thâm chí, tôi kinh ngạc: Phải thú thật với đại tá rằng tôi chưa hiểu đúng tầm vóc của đại tá!... Ta uống nhé! Hai ly rượu mùi cụng nhau. - Tướng quân là một nhà chiến lược quân sự lớn thế giới. Nhưng tôi, xin phép nói thẳng, cái trở ngại nói trong điều 4 không lớn đến thế... Taylor cướp lời Luân: - Ở đây, như nhiều chuyên gia nhấn mạnh và nếu tôi không lầm, đại tá cũng đồng quan điểm với các chuyên gia ấy, là cuộc chiến tranh chính trị. Một chính phủ phải được lòng dân... - Liệu rằng sẽ có một chính phủ được lòng dân hơn không? Với ông Diệm, 20.000 người Mỹ đến Nam Việt... Sau ông Diệm, con số đó e quá thấp! – Luân cũng cướp lời Taylor. - Chà! Chúng ta đều không phải là những nhà tiên tri. Nhưng dù sao, cuộc chiến đấu không thể xúc tiến bình thường nếu những người cầm sung theo đạo Phật thích xả thân cho một vị Tổng thống dùng cả xe tăng ủi sập chùa, bắn vào đồng đạo của họ... Luân thấy không nên tranh luận thêm với Taylor. Số phận Ngô Đình Diệm đã được Washington phán quyết. Đó là điều chủ yếu nhất mà Luân cần biết. - Chúng ta đi hơi xa mục đích cuộc gặp gỡ. – Luân cười thân ái – Không phải hai quân nhân nói chuyện với nhau về nghề nghiệp mà về chính trị. Taylor đưa tay lên trời: - Biết làm thế nào được? Tôi là Chủ tịch Hội đồng tham mưu liên quân kiêm cố vấn của Tổng thống Mỹ, còn đại tá – Taylor mỉm cười – cũng đảm đương nhiệm vụ sau na ná như tôi... Chúng ta bị ràng buộc và không thể tự mình phá vỡ sự ràng buộc đó. Thành tâm, tôi rất mong quân đội Mỹ càng ít dính líu vào Nam Việt càng tốt. Kế hoạch mang tên tôi, giáo sư Staley và Vũ Quốc Thúc chính là để tránh một thảm họa Triều Tiên thứ hai. Bởi vậy, tôi ái mộ đại tá, người không thích tiếng súng át mọi âm thanh đáng yêu khác. Luân rời Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ. “Taylor muốn tốn ít máu người Việt nhất để đạt kết quả lớn nhất... ”. Luân trầm ngâm cho đến khi xe qua cổng vào nhà anh, về cái mà anh từng gọi là “học thuyết Taylor”. “Nhưng liệu Taylor bảo vệ nổi học thuyết của ông ta không?” * TUYÊN BỐ CỦA PHÁI ĐOÀN MAC NAMARAThay mặt đại tướng Taylor và những nhân viên khác trong phái đoàn chúng tôi, tôi xin cảm tạ tất cả quý vị đã sốt sắng giúp đỡ chúng tôi trong lúc chúng tôi lưu lại ở Việt Nam Cộng hòa. Trong tuần lễ qua, đại tướng Taylor và tôi cùng các nhân viên trong phái đoàn đã đi thăm khắp nơi ở Việt Nam. Chúng tôi đã chuyện trò với hàng trăm người. Chúng tôi đã đến thăm cả 4 vùng chiến thuật. Chúng tôi đã tiếp xúc với dân chúng ở mọi tầng lớp. Chúng tôi đã hội đàm với Tổng thống Ngô Đình Diệm, Phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ và những viên chức trong chính phủ. Chúng tôi đã đàm luận với các nhân viên quân sự Việt và Mỹ, ở mọi cấp bậc, từng người cũng như từng nhóm. Chúng tôi đã viếng thăm các cơ sở huấn luyện và đặt chân đến những bộ chỉ huy hành quân ở trận tuyến. Chúng tôi đã thu hoạch được rẩt nhiều kết quả tốt đẹp trong một tuần lễ. Tối hôm nay, chúng tôi rời Việt Nam để trở về Washington và sẽ đệ trình lên Tổng thống Kennedy bản phúc trình của chúng tôi, bổ sung bản phúc trình mà dư luận đã được thông báo. Trong hoàn cảnh tế nhị của chúng ta, chúng tôi nghĩ là không nên nói những gì tạo ra nghi vấn về thái độ của nước Mỹ quyết đứng bên cạnh Việt Nam Cộng hòa và dân chúng của nước này. * Bỗng nhiên Tòa đại sứ Mỹ được tăng thêm lực lượng bảo vệ khác thường. Một hàng rào chiếm đến nửa đường Hàm Nghi, nhiều tốp quân cảnh Mỹ đứng đằng sau các bao cát, tiểu liên cực nhanh như sẵn sàng nhả đạn. Trên tầng cao các nhà đối diện, cảnh sát dã chiến Nam Việt cũng ở trong tư thế tương tự. Tin đồn về một sự phẫn nộ của dân chúng có thể dẫn đến một cuộc tấn công đập phá sứ quán, ám sát nhân viên ngoại giao Mỹ, kể cả đại sứ Cabot Lodge đã đặt tòa nhà đại sứ vào tình trạng báo động. Hình như chính đại sứ quán nhận được nhiều cú điện thoại hăm dọa.Nhu bực bội. Anh ta đích thân nói chuyện với Cabot Lodge, đảm bảo rằng sẽ không thể nào xảy ra bất cứ điều gì gây tổn hại cho đoàn ngoại giao Mỹ nhưng Tòa đại sứ vẫn thi hành biện pháp mà họ cho là “đề phòng”. - Người Mỹ muốn tạo ra không khí bất ổn ở ngay thủ đô chúng ta. Họ rất cần một cái cớ! Nhu nói với Luân. - Jones Stepp có trao đổi gì với anh không? – Nhu hỏi, đôi mắt sau thăm thẳm. Luân lắc đầu. - Tôi biết sắp thêm một vài vụ tự thiêu nữa làm quà cho phái đoàn điều tra của Liên hiệp quốc... chẳng lẽ chúng ta khoanh tay? Nhu gieo những bước nặng nề trên hành lang. Anh ta tự nêu câu hỏi và không trả lời. - Tổng nha cảnh sát mà để cho một Phật tử tự thiêu, tôi tống cổ Tổng giám đốc vào khám! Luân lặng lẽ song đôi với Nhu. Đến bây giờ, Luân biết nhiều bí ẩn hơn Nhu, qua Saroyan. Và ngay cả Tổng giám đốc cảnh sát quốc gia không phải đã báo cáo với Nhu mọi tin tức mà Tổng nha nắm. Về mặt này, Dung biết cũng nhiều hơn Phủ Tổng thống. Quả có nhiều cú điện thoại hăm dọa đại sứ quán, quả tình báo Mỹ bắt được một kế hoạch ám sát, đập phá nhằm vào nhân viên và sứ quán Mỹ. Song, tất cả là tác phẩm của chính CIA, dưới hình thức thông báo mật của tướng Trần Văn Đôn – thông báo miệng, tất nhiên. Điện thoại được ghi âm và chuyển sang Phủ tổng thống coi như bằng chứng. Người gọi điện thoại nếu không phải thủ hạ của Đỗ Mậu thì của Mai Hữu Xuân. Washington xếp các bằng chứng ấy vào một hồ sơ đặc biệt và Tổng thống Mỹ đọc chúng không phải hằng ngày mà hằng giờ. Cái mà Kennedy sốt ruột chờ đợi là nhận xét của phái đoàn điều tra Liên hiệp quốc – chỉ cần phái đoàn thừa nhận chính phủ Nam Việt đang theo đuổi chính sách trấn áp những người theo đạo Phật thì lập tức tổng thống Mỹ bắn tín hiệu xanh cho Cabot Lodge. Dẫu sao, Kennedy cũng không thích bị dư luận kết án thọc quá sâu vào nội tình một nước đồng minh... - Tại sao Việt Cộng dạo này tấn công thưa thớt? – Nhu lại hỏi Luân, đột ngột. Luân không trả lời vì anh biết Nhu bày tỏ một nguyện vọng hơn là đặt một câu hỏi. Giữa lúc này, Mặt trận Giải phóng đánh mạnh sẽ hậu thuẫn cho lập luận của Nhu: giới Phật giáo gây rối nên bị Việt Cộng khai thác. Cái gì là mâu thuẫn đan chéo đều bộc lộ trong thời điểm hiện nay. Tấn bi hài kịch, thắt nút từ lâu, cần bật tung cho một kết thúc đúng đòi hỏi của sân khấu – không thể hạ màn thiếu cao trào... Hai người bước tới lui ở hành lang đến nửa giờ. Nếu thỉnh thoảng Nhu không nói, người ngoài dễ nghĩ rằng đôi bạn đang tản bộ cho tiêu cơm. Chỉ mới hai ngày thôi, Nhu từ trạng thái thoải mái – khi tiếp Luân sau chuyến Luân đi “Tam giác vàng” – đổi sang cau có. Nhu cố che đậy song Luân thấy rõ anh ta lo lắng
__________________
![]() |
#5
|
||||
|
||||
![]() Ván Bài Lật Ngửa Phần 8 - Chương 5 Họp báo của bà cố vấn Ngô Đình Nhu ở Nữu Ước Hôm thứ tư vừa qua, bà cố vấn Ngô Đình Nhu đã xuất hiện lần đầu tiên tại Nữu Ước, trong ánh sáng của các máy chụp hình trước hơn sáu trăm ký giả và độ một nghìn người chen lấn nhau trong phòng khách danh dự lộng lẫy ở khách sạn Waldorf – Astoria Bữa “tiệc họp mặt” này do Câu lạc bộ Báo chí Nữu Ước tổ chức, nhưng lẫn lộn trong đám ký giả ngoại quốc ở Hoa Kỳ, còn có một số người đủ các thành phần – nhà xuất bản, hội trưởng các hội phụ nữ.. và điều đáng chú ý là có cả sự hiện diện của một vị chức sắc “Phật giáo Hoa Kỳ”, đại đức Cakya Anatta, tên thật là Edward Elbuch, từ thành phố New Jersey đến để dự cuộc họp mặt này, trong bộ áo cà sa màu vàng nghệ. Trong một bài diễn từ đọc sau bữa tiệc, bà Nhu cho biết ngay rằng bà đến Hoa Kỳ không phải để đấu khẩu nhưng, khi gián tiếp nhắc về việc bà đến thăm Hoa Kỳ đã làm cho chính quyền ở Hoa Thịnh Đốn bối rối, và nhất là cuộc đón tiếp vô cùng nồng nhiệt mà báo chí tại đây đã dành cho bà – trái hẳn với sự lạnh nhạt của chính quyền – bà đã cho biết rằng bà đã từ chối nhiều cuộc phỏng vấn vô tuyến truyền hình vì bà không muốn các nhân vật chính thức Hoa Kỳ oán hận bà. Về tình hình báo chí Mỹ tại Sài Gòn, bà Ngô Đình Nhu nhận định rằng các ký giả ngoại quốc tại Sài Gòn không có thiện cảm với chính sách của tổng thống Ngô Đình Diệm và vì thế, “những tin tức họ đưa ra đều sai lạc vì họ bị những cảm xúc chi phối”. Bà nói tiếp, “các ký giả không tiếp xúc nhiều với chính phủ” và “tiếc rằng tổng thống Diệm là một người ít nói và không có tài hùng biện”. Bà Ngô Đình Nhu nói tiếp: “Nhưng trái lại, các ký giả rất được “những người đối lập với chính phủ” nhất là Phật giáo đồ trọng đãi và họ có xu hướng bênh vực cho các người này”. Trong phần còn lại của diễn từ, bà Ngô Đình Nhu đã trình bày về sự liên lạc chặt chẽ giữa các tổ chức Phật giáo với Việt Cộng, kế hoạch chính trị hoá Phật giáo Việt Nam để tìm cách biến Phật giáo thành một quốc gia trong quốc gia. Bà cũng xác nhận lại một lần nữa rằng những nạn nhân trong các vụ xảy ra ở Huế - các vụ này đã khởi đầu cho các vụ rối ren sau này - đều do các chất nổ gây ra, chớ không phải vì cảnh sát bắn vào nhóm biểu tình. Sau hết, sau khi đã trả lời rất nhiều những câu hỏi của ký giả - trong đấy có những câu rất xấc xược – bà Ngô Đình Nhu đã được mọi người tán đồng khi bà hô hào cần phải có sự đoàn kết giữa Hoa Kỳ và quốc gia đồng minh Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống Cộng và bỏ qua những “hiểu nhầm” và mục đích của bà đến đây là đánh tan những hiểu nhầm đó. Cuối cùng, bà Nhu đã rời diễn đàn với sự vỗ tay của đa số các cử toạ. Trong khi bên trong khách sạn, bà Ngô Đình Nhu đang nói chuyện, thì ở bên ngoài khoảng năm mươi người thuộc nhiều hội tiến bộ hoặc hoà bình tụ họp, phân phát những truyền đơn chống lại tổng thống Ngô Đình Diệm và chống việc tiêp tục chiến tranh tại Việt Nam và họ đã âm mưu tổ chức một cuộc biểu tình chống tổng thống Ngô Đình Diệm, nhưng thất bại. Công chúng Mỹ chưa được kích động đúng mức đối với Việt Nam để có thể biểu tình vì Việt Nam. Về phần bà Ngô Đình Nhu, người ta có thể nói rằng bà đã qua một thời kỳ sơ khảo trước báo chí Hoa Kỳ và đã đậu ưu hạng, và từ nay bà tỏ ra có đủ điều kiện để thuyết phục cả nước Hoa Kỳ *** Tường thuật trên một tờ báo Mỹ kia lẽ ra khích lệ Nhu nhưng, Nhu chưa lú lẫn đến mức không phân biệt tờ báo ít tiếng tăm, số phát hành hạn chế với những tờ báo mà ấn bản lên hàng mấy triệu và thật sự làm chủ dư luận Mỹ - họ mô tả không khí của cuộc họp báo hoàn toàn khác hẳn. Nhu biết Lệ Xuân chi rộng rãi cho các cây bút hạng nhì, hạng ba và thuê hẳn số cột của tờ báo theo giá cao hơn quảng cáo.- Tôi đọc báo Mỹ, cuộc họp báo của chị khá tốt! – Nhu ngó Luân. Trong một thoáng, Luân nhận mình sai lầm khi nhận xét như vậy. - Anh nói thật hay anh định an ủi tôi? – Nhu xẵng giọng. Và, chính Nhu đã gỡ rối cho Luân. - Anh nên bình tĩnh… - Luân gián tiếp trả lời. - Nhà tôi chủ quan quá. Và, bài báo lá cải làm sao đổi ngược ý định của tổng thống Mỹ… - Tôi đã quyết định! – Nhu nói rất nhỏ song thật dứt khoát – anh kiểm tra lần chót kế hoạch của ông Đính và báo cáo với tôi càng sớm càng hay. Nhu bắt tay Luân, bước thật nhanh vào phòng làm việc. Luân đủng đỉnh bước xuống bậc thềm, lên xe. Đầu óc anh căng thẳng, làm gì? Phải làm gì? Có thể làm gì? Làm với cái gì? Xe dừng tận sân nhà mà Luân vẫn còn ngồi thừ, mãi tới khi bé Lý gõ vào cửa xe gọi “ba, ba”, anh mới chợt tỉnh. … Một đêm trôi qua. Một đêm Luân không ngủ. Dung cũng không ngủ. - Anh phải đến nhà chị Cả! Nhà chị Cả là nơi có lần Ngọc đưa Luân đến tạm trú sau vụ Luân bị rượt đuổi ở Hoà Hưng, cách đây tám năm. Dung không ngăn. Chắc chắn chỗ chị Cả an toàn, như những tài liệu công an mà Dung nắm. Luân gọi Thạch. Gọi mấy lần. Thạch không thưa. Cửa phòng Thạch vẫn mở. - Đầu hôm, cậu Thạch nói với tôi đi mua thuốc hút, nhờ tôi đóng cửa… Rồi tôi quên lửng… Chị Sáu cho Luân và Dung biết bấy nhiêu - Thạch bị bắt cóc! – Luân bảo Dung. Thông cáo của Ban chấp hành Trung ương Phong trào phụ nữ liên đới: Một vài hãng thông tấn nước ngoài nhằm đầu độc mối bang giao Mỹ - Việt đã thuật lại sai hẳn nội dung của nó một câu trong bài tuyên bố của bà Ngô Đình Nhu tại La Mã, và do đó gây ra một sự hiểu lầm trong một vài giới người Mỹ. Lời tuyên bố đó, chính đã được bà Ngô Đình Nhu nói ra trong hoàn cảnh sau đây: để trả lời câu hỏi về cảm tưởng của bà Ngô Đình Nhu đối với cuộc viếng thăm của phái đoàn Mac Namara, bà chủ tịch đã nói rằng: “Tôi rất hài lòng được biết ông Mac Namara tới Sài Gòn để xem công việc của người Mỹ ở đây được điều khiển ra sao. Một vài viên chức cấp dưới giúp việc tại các cơ quan Mỹ đã có những thái độ và hành động như những lính trẻ tuổi phiêu lưu giang hồ. Họ không hiểu nổi những gì đang xảy ra xung quanh họ. Do thái độ vô trách nhiệm của mình, họ đã dồn các cấp chỉ huy của họ theo một chính sách mơ hồ” Danh từ “lính” đây không có nghĩa là quân nhân, chỉ có nghĩa là bọn phiêu lưu có mộng lập vương tại xứ người ta. Thế mà các hãng thông tấn nói trên lại bóp méo ra như sau: “Những sĩ quan trẻ tuổi của Hoa Kỳ ở Việt Nam đã hành động một cách vô trách nhiệm như những tên lính trẻ tuổi phiêu lưu giang hồ”. Người ta còn nhớ rằng trong mấy tuần lễ vừa qua, bà Nhu còn tố cáo “những kẻ phiêu lưu quốc tế” âm mưu phá hoại an ninh của Quốc gia Việt Nam. Bà cố vấn đã nói rằng hạng người đó có lối một nửa tá. Các điện tín, báo chí đều đồng ý về điểm này. Và ai ở Sài Gòn cũng đều biết một nửa tá đó là dân sự, không phải quân sự Hoa Kỳ. Bà Ngô Đình Nhu cũng đồng quan điểm rằng nhân dân Mỹ không được biết rõ về những sự thật ở Việt Nam tới mức đáng được biết, nhất là về vụ Phật giáo. Sở dĩ có tình trạng đó cũng vì chiến dịch đầu độc dư luận quốc tế trong đó “những kẻ phiêu lưu quốc tế” nói trên đã đóng một vai trò chủ chốt. Chính bà Nhu đã nói tại La Mã về đám người nửa tá phiêu lưu quốc tế này. Ngoài ra mới đây nhân việc một phái đoàn nghị sĩ Hoa Kỳ có thể sẽ sang quan sát tại Việt Nam, bà Ngô Đình Nhu đã tuyên bố rằng phái đoàn đó sẽ được Việt Nam đón tiếp niềm nở, vì mọi cuộc thăm viếng như vậy sẽ giúp cho các vị đại biểu của nhân dân Mỹ hiểu biết tại chỗ tình hình Việt Nam, một tình hình thật sự rất khác hẳn những điều mà bọn nửa tá “lính trẻ tuổi phiêu lưu giang hồ” nói trên đã cố ý muốn làm cho nhân dân và chính phủ Hoa Kỳ tin theo lời họ nói. Như vậy là rõ rệt: bà Ngô Đình Nhu không hề ám chỉ một binh sĩ nào, cũng như không hề chỉ trích tinh thần trách nhiệm và tinh thần hy sinh của các cố vấn quân sự Hoa Kỳ ở Việt Nam thuộc cấp trên cũng như cấp dưới. Vì theo lời khai của các thượng toạ, tăng ni và sinh viên, bọn phiêu lưu đang mộng lập vương kia đều thuộc giới dân sự cả. Bà Ngô Đình Nhu cũng như tất cả các đoàn viên Phong trào phụ nữ liên đới Việt Nam bao giờ cũng kiên quyết và đích xác tố cáo những hành động đáng chê trách của bọn nửa tá phiêu lưu quốc tế đang tìm cách phá rối những mối giao hảo quốc tế giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Nhưng ngược lại, phong trào phụ nữ liên đới Việt Nam luôn luôn rất khâm phục cũng như rất biết ơn các cố vấn quân sự Mỹ và qua các vị này, phong trào liên đới cũng rất khâm phục và rất bíêt ơn nhân dân Hoa Kỳ, nhất là các bà mẹ và vợ con của các chiến sĩ Mỹ đang chiến đấu cho chính nghĩa chung Mỹ - Việt, tại Việt Nam cũng như các nơi khác trên thế giới. Đó là một điều hợp với lý trí, công bằng và đoan chính. *** Thạch bị bắt cóc… Không còn nghi ngờ gì nữa. Từ trước tới nay, chưa bao giờ Thạch vắng nhà nửa tiếng đồng hồ.- Em gọi Nha cảnh sát đô thành nhé! – Dung gợi ý - Em cứ gọi họ cử người đến đây… Song, anh linh tính Thạch không còn nữa… Thấy Dung ngơ ngác, Luân nói thêm: - Bọn bắt cóc khai thác Thạch, chúng cần nhanh. Làm sao giữ Thạch lâu được? Lộ hết… Và tới giờ này Thạch không về, có nghĩa là chúng không khai thác được gì ở Thạch và thủ tiêu chú ấy. Nước mắt Luân trào. Dung ôm mặt, nức nở. Chị Sáu không hiểu, đứng chết trân. - Bọn nào? – Dung hỏi - Còn bọn nào nữa? Mai Hữu Xuân! - Nên báo với Nhu không? - Anh sẽ báo! - Saroyan? - Khoan… Đừng tỏ ra hốt hoảng. Rất có thể Jones Stepp đứng sau lưng Xuân. - Em không nghĩ như vậy. CIA cần gì ở anh Thạch? - Cần, rất cần. Họ dùng trắc nghiệm theo lối Mỹ để đánh giá anh thật chính xác. Họ muốn từng nghi vấn nhỏ phải được giải đáp trước khi họ xếp các quân cờ trên bàn cờ mới. Chuông cổng reo. Một thiếu tá cảnh sát vào nhà. - Người bảo vệ kiêm lái xe của tôi đi mất từ chập tối hôm qua… Anh ta bảo với chị nấu bếp là đi mua thuốc lá. Rồi, không quay về. - Thiếu uý Thạch? - Người thiếu tá cảnh sát hỏi. - Đúng. - Đại tá cho phép tôi báo cáo về Nha bằng điện thoại, còn tôi sẽ phăng mối từ đây… Từ chỗ bán thuốc lá gần nhất. Tôi sẽ hỏi lực lượng công an chìm được bố trí quanh đây… - Thiếu tá cứ làm nhiệm vụ… Sau đó, Luân gọi điện cho Nhu, Nhu vặn lại: Liệu Thạch chơi bời đâu đó, chưa về? Luân khẳng định không thể có việc đó.. Tới lượt Nhu sửng sốt: - Sao kỳ quặc đến thế! Ai dám? - Vào lúc này, ai cũng dám cả - Luân trả lời. - Chúng định cảnh cáo cả tôi à? Được, nếu quả Thạch bị bắt cóc hay bị một cái gì đó, chúng sẽ biết tay tôi. - “Chúng” là ai? – Luân hỏi, hơi mỉm cười. - Anh đừng hỏi đố tôi, cả anh và tôi đều biết “chúng “ là ai… Mệnh lệnh số 5 của Tổng thủ lãnh thanh niên Cộng hoà Qua tình hình quốc gia gần đây, anh chị em thanh niên chắc đã ý thức được tình thế trầm trọng trong quốc nội gây nên bởi sự hiệp đồng giữa những thế lực chống chế độ cộng hoà chúng ta trong và ngoài nước. Nguyên nhân của sự trầm trọng đó là do một số sư sãi trong Tổng hội Phật giáo đã có những “hành vi, ngôn ngữ và thái độ bất chấp đến “ý chí hoà giải tột bực” của Tổng thống và chính phủ Việt Nam cộng hoà, coi ý chí hoà giải đó là biểu hiện của một sự nhu nhược. Người ta biến các chùa chiền thành những trung tâm khuấy rối, khủng bố các vị chân tu, hàng ngày mạt sát và đả kích chính phủ. Rồi cứ thế được đà, người ta đã tiến tới những âm mưu vận động phá hoại an ninh quốc gia. Súng đạn đã được mang vào các chùa chiền, một mặt uy hiếp các vị chân tu, một mặt tổ chức đảo chính, người ta công khai thiết lập bàn giấy tuyển mộ những lực lượng chiến đấu dưới hình thức “tuyển mộ thanh niên bảo vệ Phật giáo”. Toàn thể anh chị em thanh niên Cộng hoà cũng như toàn thể dân chúng đều thấy rõ hàng nghìn những sự việc thuộc loại trên không có tính chất tôn giáo, chỉ nhằm mục đích không giấu giếm là khuynh đảo chính phủ, phá hoại an ninh quốc gia. Những người ngoại quốc ở trên nước này vô tư và khách quan cũng điều công nhận điều đó là đúng. Mặc dù thế, Tổng thống và chính phủ Việt Nam cộng hoà vẫn theo đuổi thực hiện ý chí hoà giải: luôn trong mấy tháng, vẫn nhẫn nhục đọc những bức thư mà Uỷ ban liên phái gửi tới, giọng khiêu khích và khinh mạn, vẫn chứng kiến những cuộc tụ tập để mạt sát chính phủ, để phổ biến những tài liệu ngoại quốc chống đối lại quốc gia Việt Nam. Chính phủ đã bãi bỏ lệnh giới nghiêm. Thái độ nhẫn nhục của Chính phủ đặt quyền lợi quốc gia lên trên hết đã bị nhiều người kết tội là nhu nhược và bị người ta hiểu lầm là “bất lực” không tìm được biện pháp thích nghi để giải quyết vấn đề Phật giáo. Tới nay thì tình thế không cho phép Tổng thống và Chính phủ Việt Nam cộng hoà chờ đợi sự hưởng ứng của những phần tử đã tiếm đoạt danh nghĩa Tổng hội Phật giáo. Những cuộc vận động phá hoại an ninh quốc gia đã tới mức độ đòi hỏi Tổng thống và Chính phủ Việt Nam cộng hoà phải có thái độ cương quyết chặn đứng những hành động phá hoại trong quốc nội để kịp thời đối phó với Cộng sản. Anh chị em thanh niên Cộng hoà tất phải tự hỏi tại sao “ý chí hoà giải tột bậc” của Tổng thống Việt Nam cộng hoà không được sự hưởng ứng của Tổng hội Phật giáo? Tôi có thể trả lời ngay rằng Uỷ ban liên phái đại diện cho Tổng hội Phật giáo đã bị một số người đầu cơ chính trị, lợi dụng tôn giáo khủng bố, thao túng và giật dây. Tôi tin rằng một ngày gần đây chính phủ cũng như nhân dân sẽ lột mặt nạ những kẻ đó và đưa ra ánh sáng. Tôi tin rằng thái độ và hành động kiên quyết của những người chịu trách nhiệm về vận mệnh của Việt Nam cộng hoà sẽ mang lại bình ổn trong nước. Nhiệm vụ của anh chị em thanh niên cộng hoà lúc này là đóng góp vào nỗ lực của lãnh đạo quốc gia. Một trong những công việc quan trọng của anh chị em là chấp hành kỷ luật, sát cánh cùng lực lượng an ninh và quân đội đập tan mọi mưu toan phản loạn, gây rối, ám sát, bắt cóc, cấu kết với ngoại bang. Không còn có thể nào lùi bước được nữa! Nhân danh Tổng thủ lãnh thanh niên Cộng hoà, tôi đặt toàn bộ lực lượng thanh niên trong tình trạng trực chiến. Mệnh lệnh này cần được phổ biến rộng rãi bằng các phương tiện của quốc gia. Tôi uỷ nhiệm Phó Tổng thủ lãnh Cao Xuân Vĩ ban hành các biện pháp cụ thể và hữu hiệu. Ký tên: Ngô Đình Nhu… Tổng thống Ngô Đình Diệm trả lời báo Pháp France Soir - Sài Gòn – “Việc cần phải gây dựng tại miền Nam Việt Nam, là một cuộc cách mạng nhân dân chống Cộng Sản và hướng về nền kỹ nghệ hoá”, đó là lời tuyên bố của Tổng thống Việt Nam cộng hoà trong một cuộc phỏng vấn giành cho ký giả Eugene Manoni, đặc phái viên báo France Soir. Tổng thống nói tiếp “cuộc chiến tranh hiện nay bắt buộc miền Nam Việt Nam phải thực hiện cuộc cách mạng đó một cách thận trọng, nhưng dầu sao đi nữa cũng phải thực hiện”. Tổng thống Việt Nam cộng hoà cũng đã nhấn mạnh rằng: “chính trong bối cảnh lịch sử đó, trong cuộc chiến tranh không trận tuyến đó mà người ta cần phải tìm hiểu để có quan niệm khách quan về những người chỉ trích nhắm vào những người thân cận của tôi”. Tổng thống giải thích thêm rằng “chúng tôi là một nước đang lâm vào cảnh chiến tranh, và không phải những người thân cận của tôi đã gây ra cuộc chiến tranh đó với những hậu quả của nó”. Tổng thống cũng đã nhấn mạnh rằng “chung quy chính tôi là người mà người ta đang tìm cách ám hại, bởi vì tôi không phải là một con bù nhìn, và cũng bởi vì tôi được quốc dân mến chuộng”. Trong đoạn kết luận, Tổng thống nói: “Tất cả những người bạn của chúng tôi trong thế giới tự do cần phải giúp đỡ chúng tôi cả về phương diện vật chất lẫn tinh thần, và nhất là đừng âm mưu chia rẽ chúng tôi trong lúc chúng tôi đang phải đương đầu với kẻ thù chung”. - Câu hỏi thứ 1: Kính thưa Tổng thống, theo ý Tổng thống, người ta có thể rút ra được những bài học nào về những biến cố vừa qua ở quý quốc? -Trả lời: Mọi người đều nói đến Cộng Sản và vấn đề kém mở mang. Nhưng, trong lĩnh vực chính trị cũng như trong lĩnh vực thông tin, rất ít người có trách nhiệm trong thế giới tự do hiểu được tận gốc, mà lại còn tỏ ra không chú tâm đến các vấn đề đó, mặc dầu những vấn đề đó là những hiện tượng trọng yếu của thế kỷ 20. Tại những quốc gia tiên tiến phương Tây, vấn đề Cộng Sản nội bộ được đặt ra một cách khác hẳn. Quả vậy, những tiến bộ kỹ thuật và kinh tế, thực hiện được một phần cũng nhờ sự khai thác các thuộc địa trong thời kỳ cực thịnh của chủ nghĩa tư bản, đã làm cho những cuộc tranh chấp xã hội và lý tưởng mất hẳn tính chất khao khát của nó. Như vậy, dĩ nhiên là những nhà lãnh đạo chính trị cũng như những nhà lãnh đạo dư luận không thể nào có được một ý niệm rõ rệt về điều kiện nhân sinh tại các nước chậm tiến. Thêm vào đó, lại còn có tệ trạng các quốc gia tiền tiến nghiễm nhiên nắm độc quyền trên thị trường quốc tế cũng như trong lĩnh vực phổ biến nền cao học. Tổng hợp lại các hiện tượng đó, người ta mới hiểu được các nỗi khó khăn mà những dân tộc như dân tộc chúng tôi đã vấp phải trong các mối bang giao với các nước tiên tiến, và cũng mới hiểu rõ được niềm thất vọng cũng như nỗi cay đắng của chúng tôi. Tất cả những sự cách biệt về mặt kỹ thuật, kinh tế và tâm lý giữa các quốc gia tiền tiến và những quốc gia mới thâu hồi độc lập đều bị lợi dụng với mục đích gây ra một cuộc chiến tranh mà trong đó người ta dễ lâm vào cảnh đánh bạn hơn là đánh kẻ thù chung. - Câu hỏi 2: Những người thân cận của Tổng thống đã bị chỉ trích. Người ta đã nghĩ như thế nào về lời chỉ trích đó? - Trả lời: Đó cũng là một hình thức của cuộc chiến tranh không trận tuyến nhằm mục đích làm xáo trộn tình thế, và cô lập hoá chúng tôi. Chúng tôi đang ở trong tình trạng khẩn cấp, đạo quân thứ năm thuộc mọi phần tử, những vụ phản bội, những âm mưu phục kích, tình trạng chợ đen… Mọi người đều có những kẻ thân cận của mình. Nhưng, người ta chỉ trích những kẻ thân cận của tôi với những lý luận cụ thể nào, ngoài những lời đồn đãi? Tôi hoàn toàn đồng ý về điểm phải để ý tới những lời chỉ trích đó, nhưng không phải theo cái lối mà một vài người bạn theo phái tự do đã noi theo. Tôi thiết nghĩ rằng trước hơn hết phải phân tích cái gì là đúng và cái gì là không đúng trong những lời chỉ trích đó. Rồi phải có CAN ĐẢM CÔNG KHAI tỏ một thái độ khách quan về tất cả vấn đề này. Nếu chúng ta làm cách khác, thì cũng ví như chúng ta chấp nhận trước là sẽ bị đánh bại vì dư luận thế giới bị đầu độc bằng những mánh khoé vu khống và tin đồn thất thiệt – mà chẳng có ai dám đứng lên đánh tan những tin đồn đó – và như vậy là người ta đánh bại những người chống Cộng hữu hiệu nhất. - Câu hỏi 3: Theo ý Tổng thống, thì có những biện pháp nào khả dĩ? a) Tái lập được tình trạng hết căng thẳng ở quý quốc? b) Đánh tan được cái trạng huống khó chịu mà người ta đã nhận thấy trong các mối bang giao Mỹ - Việt? - Trả lời: Vì nhiều lý do nước tôi rất dễ bị mọi thứ chủ nghĩa xâm nhập, trong khi đang phải đương đầu với chiến tranh và phải cấp tốc giảm bớt sự chậm tiến quá lớn lao của mình về mặt kỹ thuật, kinh tế và xã hội. Việc cần phải gây dựng tại miền Nam Việt Nam, là một cuộc cách mạng nhân dân và hướng về nền kỹ nghệ hoá, nghĩa là cần phải cố gắng gấp bội chứ không phải chỉ lo nghỉ ngơi. Đó là việc mà phần đông nếu không nói là tất cả, những quốc gia Á – Phi đang thực hiện Vì đó là giai đoạn lịch sử, giai đoạn tiến từ nền văn minh này tới một nền văn minh khác, mà những nước ấy phải thực hiện cho được bằng xương máu của mình, không phải chỉ có một vài cải cách nhỏ nhặt không đáng gì là được đâu! - Câu hỏi 4: Như vậy Tổng thống có nghĩ rằng lời tuyên bố mới đây của Đại tướng De Gaulle là có thể giúp được phần nào để tìm một giải pháp cho những nỗi khó khăn vừa qua chăng? - Trả lời: Tôi rất khâm phục đại tướng De Gaulle vì ông là một nhà đại ái quốc, và lúc cần đến, ông dám có quyết định không được lòng dân ngay lúc đó, nhưng sau mới tỏ ra là có ích cho quyền lợi lâu dài của nhân dân Pháp. Bây giờ không còn là thời kỳ mà người ta có thể chỉ định nghĩa dân chủ bằng những danh từ tự do chính trị và chính thể đại nghị; dân chủ ngày nay đòi hỏi phải có kỹ nghệ và kế hoạch; chính trị và các nghị viện cần phải đáp ứng theo sự đòi hỏi lịch sử đó. Vả lại, Việt Nam không phải là nước Pháp. Việt Nam không còn hạ tầng cơ sở, cũng như không có các cán bộ như nước Pháp, và nhất là kém dân tộc Pháp về tinh thần yêu nước sáng suốt biết chống lại mọi sự xâm nhập của bất cứ phần tử ngoại lai nào. Hiệu triệu của Đại đức Lâm E Từ mấy tháng nay, sự tranh chấp cho năm nguyện vọng của Phật giáo đồ kéo dài quá lâu làm cho có người len lỏi và lợi dụng thời cơ để biến thành một cuộc đấu tranh có màu sắc chính trị. Thật vậy, sau trường hợp đáng tiếc xảy ra ở Huế nhân ngày Phật đản 8/5/63, Chính phủ đã hết sức cố gắng dàn xếp mọi việc trong ý chí hoà giải. Nhờ thế bản “thông cáo chung” đã được ký kết vào ngày 16/6/63 làm toàn thể Phật giáo đồ toàn quốc vui mừng là đã chấm dứt được sự ngộ nhận của đôi bên. Nhưng trong Uỷ ban liên phái, một số người quá khích đã cố tình reo giắc căm thù, đào hố sâu chia rẽ giữa Phật tử và chính quyền làm cho tình trạng trở lại trầm trọng hơn trước đến nỗi Chính phủ phải ban hành lệnh giới nghiêm trên toàn quốc. Kính thưa toàn thể Phật tử Sau những điều trình bày trên đây, toàn thể quý vị Phật tử đều thấy rõ là cuộc vận động của Phật giáo không còn nguyên vẹn ý nghĩa tôn giáo nữa. Là Phật tử, chúng ta không thể nhắm mắt để cho những người chuyên lợi dụng, lấy đó làm đà để đấu tranh cho tham vọng cá nhân. Nhân danh Đại đức Tăng trưởng và Chủ tịch Trung ương giáo phái Therevada tại Việt Nam, chúng tôi tuyên bố tự rút khỏi Uỷ ban liên phái và chúng tôi thành khẩn kêu gọi toàn thể Phật tử Việt Nam nói chung và các vị Đại đức tăng cùng các Phật tử giáo phái Therevada nói riêng, hãy bình tĩnh, sáng suốt tin tưởng vào sự tự do của chính quyền. Hãy đề phòng, hãy cảnh giác đừng để cho những người lợi dụng đưa Phật giáo chúng ta vào con đường phiêu lưu vô định có lợi cho cộng sản. Chúng ta cần phải thành tâm góp sức thực thi bản “thông cáo chung” để sớm chấm dứt tình trạng hiện tại. Chúng tôi đặt cả niềm tin nơi sự sáng suốt của toàn thể Phật tử và thành tâm tin tưởng nơi sự anh minh của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Ngô Đình Nhu ghi vào góc bản hiệu triệu của Lâm E lời phê bằng mực đỏ: “Gửi ông Lê Trọng Hiếu. Liệu Lâm E có thể tổ chức một cuộc tổng biểu tình gồm vài chục vạn người diễu hành trên đường phố để báo chí và đài truyền hình nước ngoài tường thuật, quay phim không? Tốn bao nhiêu, bảo Cao Xuân Vỹ”. Ngô Trọng Hiếu gặp ngay Cao Xuân Vỹ. Cuộc mặc cả bắt đầu. - Tôi có thể huy động hai chục nghìn người… - Tốt lắm. Nhưng phải hai chục nghìn tín đồ Phật giáo, và ít ra cũng vài nghìn nhà sư cả phái Therevada và các phái khác - Vỹ bảo. - Cần tới vài nghìn nhà sư sao? - Hiếu lo lắng. - Chứ sao! Vài nghìn là ít… - Hơi khó… Áo vàng thì dễ, áo dà không may kịp… còn cạo tóc nữa! - Chẳng lẽ ông tổ chức một cuộc biểu tình của dân thường? Đó là việc của tôi. Tôi có thể trong ngày tập hợp bốn năm chục nghìn thanh niên Cộng hoà. Song, ông cố vấn muốn cuộc tổng biểu tình giới Phật giáo kia! - Ông chi chừng bao nhiêu tiền? - Tuỳ ông… Mỗi “tín đồ” hai trăm đồng được không? - Ít quá, ba trăm… - Ừ, ba trăm. Còn mỗi nhà sư? - Sư của Lâm E và mấy ông thầy cúng thì giá hơi cao, hai nghìn đồng một người, riêng Lâm E và các tay trùm phải tính bạc vạn… - Cũng được.! - Bạc Việt hay đôla? - Sao lại đôla? - Lâm E và các tay trùm đòi đôla… - Họ đòi hay ông đòi? - Tôi đòi làm gì! Cần lối hai chục ngàn đôla. Không có thì không tổ chức nổi. - Tôi phải xin ý kiến ông cố vấn… - Chớ! Chớ! Tôi với ông thoả thuận là xong mà… - Vậy tôi ghi ba chục nghìn đôla… - Phần ông bao nhiêu? - Tôi một nửa, ông một nửa… - Ít quá, ghi năm chục nghìn đi! Tôi mười lăm nghìn, ông mười lăm nghìn… - Ôkê! - Còn nữa… - Cái gì? - Mướn báo, truyền hình… Năm chục nghìn đôla thêm… - Ông đừng chơi trội! Tôi được chia bao nhiêu? - Thôi, ông lấy mười nghìn vậy! - Ôkê! Nhưng, nhắc ông: ông cố vấn sẽ đếm người biểu tình, không đủ số thì khó mà nuốt trôi… - Đếm làm sao nổi? Cuộc biểu tình dự định chưa kéo đi đã giải tán: gom góp không được một nghìn người. Ngô Trọng Hiếu và Cao Xuân Vỹ sợ mất mật. Nhưng, Nhu quên cái lệnh của anh ta… *** Báo cáo của Nha cảnh sát đô thành về trường hợp Thạch như sau:Bảy giờ tối, Thạch đến chỗ bán thuốc lá đường Đinh Tiên Hoàng, mua một tút Bastos xanh. Người bán thuốc quen mặt Thạch nên không thể lầm lẫn. Thạch cầm tút thuốc rời chỗ bán thì có một chiếc xe hơi chờ sẵn, vì bóng tối, người bán thuốc không rõ điều gì xảy ra, xong thấy hình như có cãi cọ hay xô đẩy gì đó, rồi xe chạy. Thạch lên xe hay không người bán thuốc không rõ… Xe du lịch, sơn màu hột gà; hiệu và biển số xe thì người bán thuốc không thể biết. Một cảnh sát viên gác ngã tư Tự Đức – Đinh Tiên Hoàng – cách nơi bán thuốc chừng năm mươi thước và cách chiếc xe chừng ba mươi thước cho biết: Vào lúc bảy giờ, một xe Peugeot 240 dừng dưới bóng tối do tàn cây che khuất đèn, hai người xuống xe, đón một người từ nơi bán thuốc lá đi tới, hỏi han việc gì đó, hình như ấn người cầm thuốc lá vào khoang sau, và xe phóng chạy; người cảnh sát chỉ kịp thấy biển xe mang chữ NBO, còn số thì nhìn không kịp, nhưng chắc chắn con số bắt đầu bằng số 2. Xe phóng thẳng đường Đinh Tiên Hoàng, không rẽ qua Phan Thanh Giản. Một cảnh sát viên gác ngã tư Phan Thanh Giản – Đinh Tiên Hoàng cho biết: Chiếc NBO vượt đèn đỏ, anh thổi còi, song xe phóng luôn. Không kịp đọc số xe vì một xe tải che khuất, nhưng anh chắc chắn người ngồi cạnh tài xế, qua đèn đường, có bộ mặt choắt và hình như cằm mọc một chùm lông đen… Tin của Việt tấn xã Gần đây báo chí nước ngoài đề cập đến một cuộc vận động của chính phủ Việt Nam cộng hoà qua một nhân vật ngoại giao thuộc một nước thứ ba để tiến tới sự dàn xếp gặp gỡ giữa chính phủ Việt Nam cộng hoà và chính quyền Cộng sản Bắc Việt. Đó là loại tin đầy ác ý. Việt tấn xã được phép bác bỏ sự bịa đặt lố bịch kia. Thông cáo về phái đoàn điều tra của Liên hiệp quốc Ngày 24 tháng 10, với sự thoả thuận của chính phủ Việt Nam cộng hoà, một phái đoàn của Liên hiệp quốc sang Sài Gòn để điều tra về cái gọi là “vấn đề Phật giáo”, theo nghị quyết ngày 7 tháng 10 của Đại hội đồng Liên hiệp quốc đã tới Sài Gòn trên chuyến bay thường lệ của Pan America. Phái đoàn mang bức thư riêng của Tổng thư ký Liên hiệp quốc U Thant gửi Tổng thống Ngô Đình Diệm và nghị quyết Đại hội đồng Liên hiệp quốc do chủ tịch khoá này là Carlos Sosa Rodriquez ký. Phái đoàn gồm có: Abdul Rahman Pazhwak, A Phú Hãn, trưởng đoàn và các đoàn viên, các ông: Correa Da Costa, đại diện Ba Tây: Seneral Gunewardere, đại diện Tích Lan, Fernado Volis Jimenez, đại diện Costa Rica; Louis Ignacioi Pinto, đại diện Dahomey; Ahmeh Tabi Benhima, đại diện Maroc, Matrica Prasad Koirala, đại diện Nepal Mọi phí tổn của phái đoàn do Liên hiệp quốc đảm nhiệm để bảo đảm cho sự vô tư của cuộc điều tra. Tổng chi phí ước tính 33 nghìn đôla Mỹ. Đón phái đoàn tại phi cảng Tân Sơn Nhất có ngoại trưởng kiêm nhiệm Trương Công Cừu. Theo dự tính, ngày 25 tháng 10, phái đoàn sẽ được Tổng thống Việt Nam cộng hoà tiếp. Lần đàu tiên, Sài Gòn nhắc đến Hà Nội Tin A.P - Việt tấn xã, cơ quan thông tin chính thức của Chính phủ Việt Nam cộng hoà vừa phát một số đoạn trong bài xã luận của tờ “Nhân dân” cơ quan trung ương của Đảng Lao động (Cộng sản) Bắc Việt. Đó là những đoạn mà Hà Nội lên tiếng kịch liệt phản đối việc Đại hội đồng Liên hiệp quốc cử đoàn điều tra sang Sài Gòn để thu thập tài liệu về vụ Phật giáo. Theo “Nhân dân”, việc làm này là “một thủ đoạn của đế quốc Mỹ nhằm tước đoạt danh nghĩa của Liên hiệp quốc và bành trướng sự can thiệp cùng chiến tranh xâm lược tại miền Nam Việt Nam, vi phạm thô bạo hiệp định Geneve năm 1954 về đình chỉ chiến sự và giải quyết hoà bình vấn đề Đông Dương. Cũng theo “Nhân dân”, việc điều tra phải thuộc thẩm quyền của Uỷ hội quốc tế… Đây là lần đầu tiên trong vòng tám năm nay, Việt tấn xã trích trung thực những đoạn của tờ “Nhân dân” và điều đáng lưu ý là Việt tấn xã không hề để vào ngoặc kép những từ “đế quốc Mỹ”, “chiến tranh xâm lược”, “vi phạm thô bạo hiệp định Geneve”… Người ta có thể hiểu rằng Sài Gòn muốn cho thấy, trên một số vấn đề nào đó, họ không khác ý kiến của Hà Nội, điều mà trước đây họ coi như cấm kỵ. Đồng thời Sài Gòn, qua nguồn tin này, thả chiếc bóng thăm dò nhiều phía - cả Bắc Việt lẫn Mỹ. *** Mặc dù rất lo lắng cho số phận của Thạch – và anh đã hình thành trong đầu phương án hành động sau khi đọc đoạn báo cáo của Nha cảnh sát đô thành liên quan đến gã ngồi cạnh tài xế chiếc Peogeut – “có bộ mặt choắt và chùm lông trên cằm” – Luân vẫn đến nhà chị Cả. Chỉ cách này, mong manh song còn hy vọng, anh tìm liên lạc với lãnh đạo.Luân đỗ xe trước Bar Kim Sơn; bây giờ thì anh phải tự lái, gọi cà phê. Luân ung dung uống, kín đáo quan sát. Không có “cái đuôi” nào bám theo anh. Căn phố lầu số 31 bên kia đường Trần Hưng Đạo mang bảng hiệu: Hồng Hoa store. Anh không nhớ lần Ngọc dẫn anh trốn, cửa hàng này có chưa? Và chị Cả còn ở đấy không? Anh ngó lên tầng lầu, cửa đóng kín. Phải sang hỏi thôi… Anh băng qua đường, vào cửa hiệu - Ông đến có việc gì? - Một trung niên ngồi sau chiếc bàn chất đầy giấy tờ, đứng lên lễ phép hỏi Luân. Cả căn phố bày la liệt mẫu hàng cùng với những bánh, những thùng – có vẻ đây là một hiệu buôn đồng thời kho hàng vải sợi. - Tôi xin hỏi: người chủ căn phố này còn ở đây không? Tôi muốn thăm, tôi là bà con… - Ông là bà con với bà chủ nhà? - Dạ, đúng vậy! - Hai tiếng “bà chủ” khiến tim Luân đập mạnh - Bà chủ ở tầng trên… Ông đến thang lầu cách đây ba căn Luân theo chỉ dẫn, gõ cửa tầng trên - Ai đó? - một giọng phụ nữ hỏi. Giọng trẻ, không phải của chị Cả. - Tôi là bà con của chị Cả… - Chị Cả nào? Ở đây, không ai là chị Cả… - Rõ sàng, sau cánh cửa, đôi mắt qua một lỗ nhỏ nhìn Luân - Vậy là tôi nhầm. Xin lỗi – Luân chán nản, quay lưng - Ông kỹ sư! - Vẫn giọng đó và một luồng lạnh chạy theo cột sống của Luân - nhất thời anh chưa phân định được mừng hay sợ. Cánh cửa hé – hé một chút - Mời ông vào! Luân lách qua cửa. Cửa khép sau lưng anh. Gian nhà hơi tối. Luân chỉ nhận ra một bóng nhỏ nhắn. Đèn bật sáng. Luân sững sờ: Mai đứng trước mặt anh. Anh chụp tay Mai, siết mạnh: - Cô bình yên! Luân không giấu nỗi mừng. Mai thoát khỏi tay Trần Kim Tuyến, điều thật lạ. - Mời ông kỹ sư ngồi! Mai trở chiếc ghế tựa. Vẫn là chiếc ghế tựa năm xưa, khi anh được Ngọc đưa đến đây, sau trận bị bộ hạ của Mai Hữu Xuân truy đuổi ở Nhị Tì Quảng Đông, năm 1955. - Tôi bình yên, nhờ ông kỹ sư… Ông kỹ sư nhắc tôi mấy lần về tâm địa của đảng Đại Việt – Mai nói, giọng xúc động – Tôi chuyển chỗ ở trước. Quả, gần trưa ngày 27/2, công an chụp căn phòng tôi ở…Không có dấu vết gì. Tất nhiên, do Phạm Phú Quốc khai… Giọng Mai bỗng như lạc: - Chú tôi… Cô ôm mặt khóc. Thế là, Luân hiểu, người lao công Sở thú không còn nữa – cái chết thảm khốc ở P42, mồi cho một con cọp nào đó…. Luân chợt nhớ tới Ngọc. Chiếc đi văng kia! Anh lấy khăn lau mũi. Mai khó đoán lý do cái đau của Luân. - Mỗi người trong cuộc chiến đấu này đều phải chịu mất mát… - Luân nói thầm. Anh hỏi con của Mai - Tôi gửi đi xa… Người mẹ ngậm ngùi nghe nhắc con, nhưng Luân tìm thấy trong câu trả lời của Mai sự yên tâm - hẳn cô đã gửi con ra miền Bắc. Luân không dám hỏi tin chồng Mai. Đủ rồi… Bây giờ, Luân ngắm Mai. Cô gày rạc, tóc lốm đốm bạc. Trong khoảnh khắc, Luân nhớ liền khuôn mặt của Mai giống một người… - Chú Sáu khoẻ không, cô? - Chú Sáu nào? – Mai hơi bối rối - Tôi tin chú Sáu là ba cô… Mai ngó Luân trân trối: - Tại sao ông kỹ sư biết ba tôi? - Biết. Biết và chịu ơn… Luân thuật vắn tắt cho Mai nghe trường hợp chú Sáu giúp Luân an toàn ra khỏi trạm kiểm soát của công an trên đường Phụng Hiệp đi Cần Thơ khi anh rời chiến khu về thành… - À, tôi có nghe ba tôi nói. Ba tôi nói một cán bộ rất lớ ngớ trước công an… Không ngờ người đó là ông kỹ sư Không khí bỗng nhẹ nhàng. Bao nhiêu hình ảnh buổi ban sơ vụt sống lại. Luân hơi mỉm cười. Đúng, anh lớ ngớ thật, anh nghi kỵ, sợ hãi nữa. Nhưng, người anh gặp lại là chú Sáu, một người dân tốt bụng. Dẫu sao, người tốt bụng vẫn đông hơn… - Chắc chú Sáu vào khu… Mai không xác nhận và cũng không phủ nhận - Chị Cả vẫn ở đây? - Vẫn ở đây… Chị đi chợ, sắp về… - Có tin gì của anh Cả không? - Có.. Hai người thầm thì một lúc. *** Bị kẹp giữa hai người lưng nách. Thạch không thể vùng vẫy. Hai khẩu súng chọc hai bên thông Thạch đau nhói – còn khẩu súng của anh, chúng tước ngay khi ấn anh vào xe.- Mày ngồi yên! Hễ kêu lên hay ra dấu cho tụi cảnh sát gác đường thì coi như mày theo ông bà ông vải ngay lập tức… Gã ngồi băng trước, quay lại doạ Thạch. - Thiếu tá Hùng, như vầy là sao? Thạch hỏi. Thiếu tá Hùng chẳng xa lạ gì với Thạch. - Là sao? – Hùng cười khẩy – là như vậy đó! - Các ông làm sai luật. Tôi là người của Nha cảnh sát… - Thạch vẫn nói cứng. - Im! - Thiếu tá Hùng quát - Luật lệ là cái con mẹ gì? Mày sẽ trả lời, chút nữa thôi. Nên nhớ mày chỉ có nhiệm vụ trả lời chớ không được cãi. Hiểu chưa con? Xe quay về đường Hiền Vương, chạy một lúc, rẽ ngoặt vào một hẻm tối om. Thạch hiểu số phận của anh: khi thiếu tá Hùng không cần giấu mặt thì có nghĩa là chúng sẽ khử anh. Xe chui qua một cổng đã mở sẵn. Khi cánh cửa sắt đóng lại, hai gã kè Thạch bước lên bậc thềm một ngôi biệt thự. - Còng nó lại! - Thiếu tá Hùng ra lệnh. Thạch bị đẩy vào một chiếc ghế. - Mày muốn sống hay muốn chết? – Hùng hỏi. Thạch bây giờ thấy sợ. - Ai mà không muốn sống! - Ừ, biết điều đa! – Hùng cười hô hố, chùm lông cằm rung rinh. - Mày biết thiếu tá Lưu Kỳ Vọng? Tất nhiên là Thạch biết tay trưởng Ty cảnh sát Kiến Hoà. - Tại sao thiếu tá Vọng chết? Thạch thuật lại những điều anh chứng kiến ở Trúc Giang. Anh chưa lấy lại bình tĩnh nên không rõ lý do cuộc cật vấn này - Thiếu tá Vọng và thiếu tá Hùng vốn là bạn chí thân. - Tao không hỏi mày chuyện đó. Tao hỏi mày vậy chớ thiếu tá Nguyễn Thành Luân tổ chức giết thiếu tá Vọng như thế nào? - Giọng Hùng gay gắt. - Dạ, tôi đâu rành… Tôi… - Thạch lắp bắp. - Mày rành! Mày phải rành! Ở bên cạnh thằng Luân mà mày không rành sao được… Thạch chưa bao giờ nghĩ Luân dính vào một tội ác. Tuy sợ, anh vẫn lắc đầu: - Không có chuyện đó đâu… - Hà? Mày không chịu khai hả? - Thiếu tá Hùng chồm tới, dang tay định tát Thạch. Cửa phòng xịch mở. Thiếu tá Hùng vội thu tay về, đứng thẳng người: - Kính chào thiếu tướng! Thạch nhìn lên, gặp nụ cười của Mai Hữu Xuân - Sao lại còng thiếu uý Thạch? – Xuân nghiêm mặt. Còng được tháo. - Ta bắt đầu - Xuân ngồi xuống ghế, đối diện với Thạch. Thiếu tá Hùng vẫn đứng. - Thiếu uý uống cà phê? – Xuân hỏi Thạch. Không đợi Thạch trả lời, thiếu uý Hùng bước ra ngoài. - Tụi nó chắc làm thiếu uý sợ… Không có gì nguy hiểm đâu, thiếu uý cứ yên tâm.. Xuân nhồi thuốc vào pipe sau đó, nhấc bao thuốc Capstan về phía Thạch. - Hút đi! Thạch hoang mang thực sự. Lạ lùng quá. Anh rút điếu thuốc mà tay lẩy bẩy. Thiếu tá Hùng trở vào với hai tách cà phê, rón rén đặt lên bàn. - Mời thiếu uý! – Xuân bảo. - Chắc thiếu tá Hùng vừa cật vấn với thiếu uý về cái chết của thiếu tá Lưu Kỳ Vọng, đúng không? Thạch khẽ gật đầu, lấm lét ngó Hùng - Tầm bậy! – Xuân xoay người nhìn thiếu tá Hùng - Thiếu tá lẫn lộn chuyện chung với tình cảm riêng tư… Ta cần thiếu uý Thạch ở điểm khác. Thạch không thể phân biệt Xuân khiển trách Hùng thật hay giả. “Họ cần gì ở mình?”. Thạch hớp một tách cà phê mà như hớp một thứ nước đăng đắng chẳng ra mùi vị, dù Thạch nghiện cà phê. - Tôi muốn thiếu uý trả lời mấy câu hỏi của tôi, mấy câu hỏi bình thường thôi… - Xuân hút thuốc, phả làn khói xám toả rộng, quanh ông ta - Thiếu uý làm việc với đại tá Nguyễn Thành Luân bao năm rồi? - Dạ, tám năm… - Lâu dữ há? - Dạ, cũng lâu… - Thiếu uý có khi nào định xin thôi việc cạnh ông Luân không? - Dạ… dạ không… - Tại sao? - Dạ, ông Luân đối với em rất tốt… - Vợ anh ở Thân Cửu Nghĩa, Mỹ Tho? - Dạ, phải. - Vùng do Việt Cộng kiểm soát? - Dạ, không. Vùng cửa an ninh… - Nghĩa là ban đêm thì Việt Cộng, ban ngày là quốc gia? - Dạ - Tại sao anh không đưa vợ con anh lên Sài Gòn? - Dạ, em còn cha mẹ già, còn miếng vườn. Lên Sài Gòn sống không nổi. - Ừ, ừ… Tại sao gia đình anh không bị Việt Cộng làm khó dễ? - Em không biết… - Ừ, ừ… Nhà anh có ai theo Việt Cộng không? - Dạ, không. - Tôi hỏi chơi anh. Chớ nếu có người theo Việt Cộng, anh làm sao biết được. Ở xóm anh, người ta biết anh bảo vệ ông Luân không? - Dạ, gia đình em giấu việc này… Dân thì không biết, nhưng một số người trong hội đồng hương, chính đồn trưởng, chỉ huy trưởng sân bay Thân Cửu Nghĩa biết. - Tại sao hôm rồi vợ anh đau nặng, gọi anh về, anh lại không về? - Dạ, em ngại… - Ngại cái gì? - Ngại Việt Cộng gài bẫy… - Ừ, ừ… Rồi anh báo với đại tá? - Dạ. - Đại tá cho xác minh. Chỉ huy sân bay trả lời vợ anh không ốm. Phải không? - Dạ, phải. - Nếu bây giờ tôi báo với anh vợ con bắt bị bắt, anh tính sao? Thạch rơi điếu thuốc, mồ hôi rịn. - Dạ… vợ con em bị bắt… dạ, ai bắt? - Việt Cộng chớ còn ai Xuân ngó chăm chăm nét mặt của Thạch và, Thạch đã tỏ ra không đủ bản lĩnh trước một tay mật thám cỡ Xuân: anh thở phào, tuy nhè nhẹ mà cả Xuân và Hùng đều nghe, mặt anh giãn ra. - Đủ rồi… - Xuân cười nửa miệng – Anh có cảm tình với Việt Cộng nếu không nói anh chính là Việt Cộng! - Thiếu tướng dạy sao? - Thạch dường như nghe nhầm – Em mà Việt Cộng? - Anh đừng đóng kịch nữa.. Hoặc anh nghĩ đến việc nhờ đại tá Luân can thiệp để Việt Cộng thả vợ con anh. Nghe vợ con bị Việt Cộng bắt, Thạch hết sợ. Vì anh tin Việt Cộng không cớ gì hãm hại vợ con anh như anh từng theo dõi các vụ trừng trị của Việt Cộng; anh không phải hạng ác ôn. Nhưng, câu sau của Xuân thì anh chưa nghĩ tới - thật kỳ cục nếu Luân can thiệp và nếu như vậy thì chắc chắn Việt Cộng sẽ trị vợ con anh. Việt Cộng từng nhiều lần khử Luân. - Dạ không. Việt Cộng mà nghe em là người của đại tá thì họ giết vợ con em liền! Việt Cộng oán đại tá thấu xương…. Đôi mắt sắc của Xuân xoáy vào Thạch. Kinh nghiệm nghề nghiệp của ông ta kết luận là Thạch nói thật. - Việt Cộng không oán đại tá Luân đâu. Anh thử xin đại tá giúp cho… - Xuân tiếp tục trò chơi dụ dẫn tuy ông ta đã có phần cụt hứng. - Dạ… em không dám! - Thạch trả lời xuôi xị. - Thôi được. Tôi hỏi anh, anh muốn đặc cách lên lon đại uý không? - Dạ, muốn thì muốn nhưng em chỉ theo đúng quy định chung, cấp trung uý đã quá sức em rồi… - Tôi tặng cho anh một cơ hội lớn. Vừa rồi anh và đại tá đi đâu? - Thưa, đi “Tam giác vàng”… - À! – Xuân chống tay lên cằm, cau mày – Anh thuật cho tôi nghe chuyến đi của anh… Thật tỉ mỉ! Trong lúc Thạch thuật. Xuân lim dim mắt, chốc chốc hỏi xen. Thạch thuật xong, Xuân lại ngồi thừ. - Một chuyến đi chỉ với mục đích nghiên cứu bảo vệ nơi sản xuất bạch phiến… - Xuân như tự nói. Rồi ông ta bỗng hoạt bát hẳn. - Anh ký tên vào tờ cung. - Dạ. Tờ cung gì? - Tờ cung về việc đại tá Nguyễn Thành Luân buôn lậu bạch phiến… Anh ký xong, ngày mai sẽ nhận được quyết định thăng đại úy. Thạch cắn môi. Không thể làm việc tồi bại như vậy được. Đại tá đâu có buôn bạch phiến. - Dạ, em sẽ ký tờ cung như em vừa trình với thiếu tướng… Em không mong được thăng đại uý, em cũng không thể nói sai sự thật. Đại tá không đi buôn, buôn bất kỳ thứ gì, chứ đừng nói đến á phiện… - Anh thật ngu! Anh nhất định không ký? Thạch dứt khoát: - Dạ! Mai Hữu Xuân hất đầu ra hiệu cho thiếu tá Hùng. Thạch đoán: anh sắp chết. Tự nhiên, nước mắt anh trào. Anh sắp quỳ xuống xin Xuân tha mạng. - Anh ký chớ? Thạch ngồi vững lại, không thể ký. Vợ Thạch từng dặn Thạch ăn ở với Luân sao cho phải… và, Luân Dung đối đãi với Thạch… Không thể ký! Anh lắc đầu, chấm dứt mấy phút nặng nề mà Xuân hau háu nhìn anh. Xuân vỗ bàn, không nói gì, đứng phắt lên. Thạch biết, thế là hết. So với lần ở khách sạn Vị Lai, anh tuyệt vọng. Thiếu tá Hùng bấm chuông. Ngay lúc đó, một sĩ quan bước vào… Thạch lạnh toát người nhưng, viên sĩ quan dập gót chân báo cáo. - Trình thiếu tướng, trung tướng Jones Stepp nói chuyện điện thoại với thiếu tướng. Mai Hữu Xuân vội vã ra khỏi phòng. Tiếng Xuân văng vẳng ở điện thoại. Bây giờ, một người nữa bước vào, một gã đen trũi, áo phanh ngực bày dấu xăm xanh lè, cặp mắt ti hí lừ lừ của thiếu tá Hùng, đưa chiếc còng vào tay Thạch. Đã đến lúc phải liều, Thạch chụp chiếc còng và đánh cùi chỏ thật mạnh vào bụng gã, rồi lao vào thiếu tá Hùng. Gã đen trũi đau quá, ôm bụng, sụm xuống. Thiếu tá Hùng bị bất ngờ, không kịp tránh chiếc còng vụt vào đầu hắn vang một tiếng “bốp” khô khan. Hùng té ngửa. Thạch định tước súng Hùng, và anh tính, nếu Mai Hữu Xuân bước vào, anh sẽ bắn…. Rồi ra sao thì ra… Thạch chưa mở được bao súng của Hùng thì cửa mở. - Cái gì? – Mai Hữu Xuân kinh ngạc và ông ta hiểu liền. - Đừng lộn xộn, đứng dậy, đưa tay lên… - Xuân ra lệnh cho Thạch, hai vệ sĩ giương nòng tiểu liên về phía Thạch. - Trung tướng Jones Stepp sẽ đến đây trong mươi phút nữa để gặp thiếu uý… - Xuân bảo Thạch. Gã đen trũi và Hùng được đỡ ra khỏi phòng. Máu tuôn ướt đẫm mặt Hùng. Việc lau quét khẩn trương. Xuân mời Thạch ngồi và ông ta cũng ngồi. Xuân nhìn Thạch khá lâu. - Đại tá Luân dạy một bảo vệ đúng là một bảo vệ… - Tôi không rõ đã phạm tội gì mà các ông cư xử tệ như vậy… Thiếu tướng ra lệnh trả khẩu súng của tôi cho tôi… Tôi muốn nói chuyện với đại tá! Thạch đổi cách xưng hô, không thèm ngó Mai Hữu Xuân. Anh không cần biết Jones Stepp đến là tốt hay xấu với anh. - Chi mà gấp… Gặp trung tướng Mỹ xong, ta sẽ tính… - Xuân nói, giọng đủng đỉnh. “Ta sẽ tính?” Nghĩa là mạng sống của Thạch chỉ được kéo dài thêm một ít nữa. Không! Thạch mím môi. Jones Stepp vào phòng. Xuân chào theo điều lệnh còn Thạch chỉ đứng lên. Jones bắt tay Thạch, người thông ngôn ngồi cạnh. Cửa ra vào, hai quân cảnh Mỹ thay thế cho hai vệ sĩ của Xuân. - Thế nào? – Jones hỏi Thạch - Tôi xin phép được nói chuyện với đại tá Luân - Thạch nhắc đòi hỏi lúc nãy. - Chưa được! – Jones trả lời lạnh lùng. Jones bước ra ngoài cùng Xuân. Hai quân cảnh vẫn lăm lăm tiểu liên. Ngoài hành lang, Jones bảo Mai Hữu Xuân: - Đại tá Nguyễn Thành Luân gọi điện thoại cho tôi về vụ người bảo vệ kiêm lái xe của ông ấy mất tích và đại tá quả quyết thiếu tướng là tác giả. Cả ông Ngô Đình Nhu cũng nghĩ như ông Luân… Mai Hữu Xuân hiểu rằng Jones, qua vụ này, đánh giá nghề nghiệp của ông ta. Tai Xuân nóng bừng. - Chỉ vì cảnh sát nhận dạng được người của thiếu tướng. Mặt như khỉ, có chòm lông ở cằm… Một chi tiết không đáng kể nhưng nó phá vỡ mọi công phu của thiếu tướng. Mai Hữu Xuân bực dọc. “Cái thằng Hùng, bảo nó cạo quách chòm lông, nó không nghe. Phen này, mày sẽ chết với tao!”. Xuân nghĩ trong bụng. - Thiếu uý Thạch! Tôi chỉ muốn hỏi thiếu uý một câu thôi – Jones trở vào phòng, bắt đầu hỏi. - Thưa trung tướng, trước khi trung tướng hỏi và, dĩ nhiên tôi có phận sự phải trả lời ngay thẳng, tôi xin phép trung tướng cho biết vì sao tôi bị bắt, bị xử tử? - Xử tử?… - Jones trố mắt - Dạ phải… Nếu trung tướng đến trễ… - À, ra vậy… - Jones quay sang Mai Hữu Xuân – Tí nữa, thiếu tướng sẽ giải thích cho tôi hiểu… Còn bây giờ - ông trở lại với Thạch – tôi giải thích ngay cho thiếu uý về lí do tôi hỏi thiếu uý. Thiếu uý là người luôn đi sát đại tá Luân, theo thiếu uý, sở thích của đại tá là gì? - Tôi chưa hiểu thật rõ câu hỏi của trung tướng - Thạch đáp lại, rụt rè - Chẳng hạn, có bao giờ đại tá muốn có một đồn điền, một nhà máy… ở Việt Nam hoặc ở ngoại quốc? Thạch lắc đầu. Quả là anh chưa từng nghe Luân nói một việc tương tự như vậy. - Hoặc là đại tá muốn mở một tài khoản ngân hàng ở Hồng Kông hay Thuỵ Sĩ… Thạch lắc đầu. - Hoặc đại tá muốn trở thành một nhân vật chính trị, một tướng lĩnh, một bộ trưởng? Thạch vẫn lắc đầu - Thiếu uý không nghe nhưng ít ra cũng đoán được… Có khi nào đại tá phàn nàn ông Diệm, ông Nhu? - Có… - Thạch gật đầu – Có một số lần, thậm chí gọi ông Diệm, ông Nhu, bà Xuân là ngu. - Về việc gì? - Tôi không nhớ hết, song về nhiều việc. Tôi nghe lỏm khi ông bà đại tá trao đổi với nhau. Gần đây, đại tá phiền vụ Phật giáo… - Đại tá có khó chịu về “Tam giác vàng” không? - Tôi đoán, chắc có… - Suốt thời gian đại tá đi, ở, về trong chuyến “Tam giác vàng”, thiếu uý không rời đại tá? - Dạ, không… - Cả ban đêm? - Dạ, tôi ngủ chung phòng với đại tá. - Đại tá thường nghe radio không? - Không thường lắm… - Nghe đài nào? - Tôi không rõ, những khi tôi gặp, đại tá thường nghe đài tiếng Anh… - Thú tiêu khiển của đại tá là gì? - Câu cá, đi bách bộ, nghe nhạc, nhất là xem sách. - Còn thể thao? - Đại tá tập thể dục nhiều, thỉnh thoảng chơi tennit - Uống rượu? Rượu gì? - Ít lắm… Bia là chính. - Thuốc lá? - Hút nhiều… Thạch vừa trả lời vừa ngó Jones Stepp, có vẻ lạ lùng về các câu hỏi linh tinh kia. - Đại tá thích ăn món gì? Cá, thịt? - Cá… - Vợ chồng đại tá đầm ấm không? - Đầm ấm - Đại tá thường gặp người anh, kỹ sư Gustave? - Lâu lâu một lần. - Con của kỹ sư Gustave có đến nhà đại tá không? - Cũng lâu lâu… - Ông bà đại tá thường đến nhà bác sĩ Soạn không? - Chiều chủ nhật, nếu đại tá không bận. - Khách đến nhà đại tá là những ai? - Nhà ít khác… Trung tá James Casey, trung tá Nguyễn Thành Động, thiếu tướng Lâm, nhà báo Fanfani và… Thạch bỗng ngập ngừng - Và bà Saroyan! – Jones Step nói luôn - Dạ… - Trước khi rời Sài Gòn, bác sĩ Tuyến có gặp đại tá? - Dạ, có… - Anh biết một trung tá, Lê Khánh Nghĩa? - Dạ, biết… - Ông Nghĩa đến với đại tá thường không? - Tôi biết một lần. Nhân đại tá có việc vui gì đó, tôi quên. Trung tá Nghĩa đến cùng thiếu tướng Lâm, trung tá Động và một thiếu tá, quận trưởng ở Kiến Tường… - Thiếu tướng Trương Tấn Phụng, quận trưởng Tuyên Nhơn….- Jones bổ sung giữa sự kinh ngạc của Thạch – Anh có bao giờ gặp một phụ nữ tên Mai? - Dạ, không… - Đại tá thức khuya không? - Thường đại tá nghỉ sau mười một giờ đêm. - Đọc sách? - Tôi không rõ vì đại tá ở trong phòng làm việc… - Chị Sáu là người như thế nào? Chị Sáu nấu bếp ấy… - Thế nào là sao? - Đại khái, hiền lành hay trái lại, mến ông bà đại tá không? - Hiền, ít nói. Chắc là rất mến ông bà đại tá. - Có bao giờ đại tá sai chị Sáu đi đâu vắng lâu không? Nửa ngày chẳng hạn? - Không. Chị Sáu phải lo cơm nước mà. - Thư từ ở hộp thư ngoài cổng, ai nhận mỗi ngày? - Tôi nhận. - Bà đại tá có thường mang các giấy tờ ở Tổng nha về nhà không? - Tôi không rõ. - Anh biết Vũ Huy Lục hiện ở đâu? - Vũ Huy Lục chết rồi - Thạch trả lời, chưng hửng. - À, tôi nhớ rồi. Lục chết ở Nha Trang – Jones Stepp nói, mép hơi nhếch. - Từ hôm từ “Tam giác vàng” về, thiếu tá Thuần có đến thăm đại tá không? - Dạ, không. - Cảm ơn thiếu uý! – Jones đứng lên, chìa tay cho Thạch - Thiếu uý có thể kể cho đại tá nghe về những gì tôi đã hỏi thiếu uý. Jones bắt tay Mai Hữu Xuân. Xuân tiễn Jones ra khỏi phòng. - Tôi phải làm gì, thưa trung tướng? – Xuân hỏi. Jones nhún vai - Thiếu tướng tự định liệu… Đại tá Luân sẽ biết những câu hỏi của thiếu tướng, của thiếu tá Hùng, biết cách cư xử của thiếu tướng. Nếu thiếu tướng đủ gan và đủ mưu thì cứ khử gã tài xế… Nhưng, nên nhớ, tôi sẽ tự coi mình không hay biết cái chết của gã Thạch. Và, nếu chứng cứ buộc tội đủ thiếu tướng thì tôi phải làm cái việc vô nhân đạo là đứng về phía đại tá Nguyễn Thành Luân. Jones Stepp lên xe, vẫy tay tạm biệt Mai Hữu Xuân Thiếu tá Hùng được băng bó, tên đen trũi cũng hết đau. Cả hai hồng hộc chạy tới - Thằng chó đẻ đó đâu rồi? Bắn bể đầu nó! - Thiếu tá Hùng rít lên - Đồ ngu! – Mai Hữu Xuân quát to – Hai đứa bây lủi khuất mắt tao… Hai đứa lỡ bộ, đứng chết trân… Xuân xem đồng hồ: mười giờ - Hỏi thiếu uý Thạch cần ăn gì không? Lo chỗ ngủ tử tế. Nhưng không được để anh ta thoát khỏi nơi đây. Sáng mai, tao sẽ gặp lại. Cấm đụng đến anh ta, cấm nói bậy bạ… Nghe chưa? Xuân bảo trỏng. Hùng đứng nghiêm: Xin tuân lệnh! “Các câu hỏi của Jones Stepp đã bộc lộ các ý đồ của Mỹ, nếu không phải của chính Kenedy thì cũng là của Cabot Lodge, chí ít, của William Porter. Cũng có thể của Marc Cone… Phức tạp. Một con bài! Không đời nào mình để thằng Luân trở thành con bài của Mỹ. Mụ Saroyan… Hừ…!” Mai Hữu Xuân tiếc đã không giết được Saroyan trước kia. Bây giờ, thật khó. Jones Stepp nhất định đã nghe Saroyan ỉ ôi. Thằng tướng già mê Saroyan, hiển nhiên rồi. Xuân chợt rùng mình. Nếu Jones Stepp ra một dấu hiệu khử Xuân, ông ta có chạy lên trời cũng không thoát. Nhưng, Jones Stepp là tướng tình báo thâm trầm. Chưa hẳn nó buông lỏng nghề nghiệp đến độ trả thù cho vợ… Xuân thấy yên tâm đôi chút. Chìm trong mớ ý nghĩ, suy tính khá lộn xộn. Mai Hữu Xuân bỗng giật nảy mình khi nghe xe chở ông ta dừng lại. Không có gì. Đã đến nhà.. Ngày mai vụ của Thạch… làm sao đây? Mai Hữu Xuân uể oải bước lên thềm nhà…. Phần 8 - Chương 6 Điểm báo Nữu Ước (VTX): Tờ Nữu Ước thời báo hôm thứ tư đã viết: “Vị đệ nhất phu nhân” của Việt Nam đã đến rồi thì không lẽ người Hoa Kỳ có tiếng là hay nói thẳng, lại còn dè dặt không chịu nói thẳng trong khi bà Ngô Đình Nhu đã thẳng thắn trong những lời nói của bà... Khi bà từ giã chúng ta, bà sẽ biết được thái độ của người Mỹ về vấn đề Việt Nam”. Đoạn tóm tắt thái độ ấy, tờ Nữu Uớc thời báo viết: “Cuộc chiến tranh ở Việt Nam là một cuộc chiến tranh có tính chất chính trị nhiều hơn quân sự: chỉ có một chính phủ được lòng dân mới có thể dẹp tan bọn phiến loạn Cộng sản. Mặc dù nếu có thể làm việc ấy, người phương Tây cũng có thể tự mình chọn lựa chính phủ, hoặc chính mình đảm đương cuộc nội chiến trong một nước châu Á”. Tờ Nữu Uớc thời báo viết tiếp: “Chính nhân dân Việt Nam phải tự giải quyết cuộc khủng hoảng tại nước của họ. Vai trò của Hoa Kỳ là làm cho họ hiểu rằng cuộc viện trợ và sự ủng hộ của Hoa Kỳ là không thể kéo dài vô thời hạn. Chúng tôi hy vọng rằng “quan điểm ấy của người Mỹ” sẽ được trình bày rõ ràng với bà Nhu, và nếu bà trở về Sài Gòn với ý niệm rõ ràng đó, thì cuộc viếng thăm của bà tại Hoa Kỳ không phải là không hữu ích”. * Tin của Helen Fanfani (Financil Affairs):Ngày 26-10 - một ngày thứ bảy - trôi qua, không có một xáo trộn nhỏ nào. Nhưng, lần đầu tiên từ khi ông Ngô Đình Diệm giành được quyền bính, đây là lễ Quốc khánh tẻ nhạt nhất. Chế độ cố sức thổi phồng quang cảnh tưng bừng, thế mà cả thành phố nín thở chờ đợi một cái gì ghê gớm bùng nổ. Diễn từ chiếm các trang nhất mọi tờ báo, đài phát thanh ra rả đọc mãi cái điệp khúc do Bộ Thông tin chỉ huy. Nguyễn Đình Thuần, thay mặt các bộ, phát một diễn từ ca ngợi Tổng thống hết lời. Đại tướng Lê Văn Tỵ, nhân danh quân đội, tuyên thệ trung thành với Tổng thống, hẳn bài viết của ông đóng hai chữ FM (1) đỏ chót. Tỉnh trưởng từ Quảng Trị đến An Xuyên điện về tới tấp. Ngoại giao đoàn đến chào Tổng thống tại dinh Gia Long. Nguyên thủ nhiều quốc gia chúc mừng Việt Nam Cộng hòa. Điện của Tổng thống Kennedy hết sức thắm thiết: “Tôi xin đảm bảo với Ngài, chính phủ Hoa Kỳ và cá nhàn tôi, chúng tôi xem sự hợp lực với chính phủ Việt Nam Cộng hòa do Ngài đừng đầu là một trong những sứ mệnh cao cả của Chúa giao phó. Chín năm trước Nam Việt đứng trên bờ vực sụp đổ, ngày nay Việt Nam Cộng hòa trở thành tiền đồn chống Cộng hữu hiệu ở Đông Nam Á”. Buổi chiều, Ngô Đình Diệm mở tiệc chiêu đãi ngoại giao đoàn. Đại sứ Cabot Lodge cụng ly với Diệm. Phái đoàn điều tra của Liên hiệp quốc cũng có mặt - từ trưởng phái đoàn đến đoàn viên không che giấu vẻ hả hê. Sau tiệc, quan khách xem phim tư liệu: “Việt Nam Cộng hòa - miền tự do dược chinh phục”. Tuy nhiên, sự giả tạo vẫn là biểu trưng của ngày Quốc khánh. Ông Diệm ý thức rõ thực tế đó - nụ cười của ông chợt tắt và chốc chốc, ông như rơi và trạng thái lơ đãng ngay cả trước những cử chỉ xã giao vồ vập của một số đại sứ. * Điểm báo Tây Đức:Born (VTX) Báo chí tại Cộng hòa Liên bang Đức đã bình luận rất nhiều về bản phúc trình của hai ông Mac Namara và Taylor về tình hình Việt Nam. Tờ “Franxfurter Allgemeine Zeitung” cho rằng quyết định của Hoa Kỳ muốn ngưng toàn thể viện trợ cho Việt Nam kể từ năm 1965 không làm cho báo ấy ngạc nhiên, và theo báo đó, thì Hoa Kỳ không thể bỏ rơi Việt Nam, ít cũng trong tình thế hiện tại. Nhưng Hoa Kỳ rất muốn làm như vậy. Ngoài ra, báo này còn nhận xét rằng tướng Taylor không muốn tập trung nhiều binh sĩ Hoa Kỳ tại một căn cứ hoạt động mà muốn sử dụng những phương tiện chuyên chở tối tân để di chuyển quân đội một cách linh động hơn tới một vùng bị đe dọa. Ông Mac Namara xưa nay vẫn theo đuổi chính sách tiết kiệm tài chính trong vấn đề quốc phòng, cũng đã chấp nhận lý thuyết này. Chính phủ Mỹ đã chịu ảnh hưởng của báo chí Mỹ về vấn đề Việt Nam. Tại Hoa Thịnh Đốn, người ta không thích đọc những tin tức về “sự thối nát của tình hình miền Nam Việt Nam”. Hơn nữa, các báo cáo của những nhà ngoại giao và những ký giả nhiều khi không phù hợp với những tin tức của quân đội và mật vụ. Vị tân Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam đã cố ý làm giảm sút mối giao hảo với chính phủ Ngô Đình Diệm. Ông Bộ trưởng Mac Namara và đại tướng Taylor đã phải củng cố mối bang giao đó. Ông Bộ trưởng quốc phòng Mỹ có cảm tưởng rằng các nước đồng minh sẽ không chiến thắng nếu họ không được sự ủng hộ của nhân dân. Sau khi tiếp xúc với các nhà quân sự, ông Bộ trưởng nhận thức rằng các ký giả đã phác họa tình hình thành một bức tranh quá đen ám... Theo ông thì Tổng thống Ngô Đình Diệm “rất vững”... * Luân đánh giá toàn cảnh buổi chiêu đãi ở dinh Gia Long – một hiện tượng tranh tối tranh sang diễn ra trước mắt anh. Tôn Thất Đính xum xoe đến chào Diệm và hàng tướng lĩnh đều làm như vậy, song hình như tất cả, kể luôn Diệm đều hiểu sâu sắc rằng họ đang đóng kịch. Nhu tuy lánh mặt, qua máy thu hình truyền bằng dây vào phòng riêng, anh ta xác định: không thể không ra tay. Anh ta đã bảo Luân như vậy, sau đó.Paul Harkins, nhân khoảng giữa bữa tiệc và buổi chiếu phim, đi bách bộ với Luân ngoài tiền sảnh. - Đại tá nghĩ gì về tương lai? – Paul Harkins hỏi. - Thưa tướng quân, tôi nghĩ về tương lai thông qua nghĩ về hiện tại. Bất cứ tương lai nào cũng định đoạt ngay từ hiện tại... - Đúng! – Harkins vui vẻ. – Đại tá, một quân nhân lại có khiếu về chính trị, về triết học... - Cám ơn tướng quân quá khen... - Hiện tại không mấy tốt, tôi đồng ý, nhưng làm sao chuyển tình thế tốt hơn? - Mọi người đang chơi ván bài chính trị, xử lý mọi xung khắc bằng điển từ, âm mưu, dàn cảnh... trong khi chúng ta thích nghiên cứu bản đồ. Tình thế sẽ tốt hơn nếu mọi người cùng đứng trước bản đồ. - Tôi quan tâm số phận của quân lính Mỹ. Còn hai tháng nữa, một số cố vấn và binh sĩ Mỹ sẽ về nước dự lễ Noel như tướng Taylor và Bộ trưởng Mc Namara long trọng hứa với dân chúng và Tổng thống Mỹ... Liệu tôi có thể thực hiện điều đó không? - Thưa tướng quân, tôi không nghĩ đại tướng và ngài Bộ trưởng tin vào cái họ hứa! E rằng, chúng ta sẽ chứng kiến nhứng đáp số trái ngược. - Đại tá hơi bi quan chăng? - Thưa tướng quân, rất hạnh phúc nếu nhận xét của tôi sẽ thực tế là bi quan. Tôi không nói về nội tình và những bất đồng giữa chính phủ hai nước mà tướng quân và tôi đều trung thành. Tôi nói về chuyện khác, chuyện nước Mỹ tách xa ý định ban đầu khi mở rộng ảnh hưởng đến khu vực này. Tôi nhớ một ý kiến rất sắc sảo của tiến sĩ Kissinger: “Ở Nam Việt, Việt Cộng sẽ thắng nếu không thua, còn Mỹ sẽ thua nếu không thắng... ”. Cao Ly kết thúc bằng “Match nul” (2). Nam Việt khe khắt hơn: không có hòa. Hai chục nghìn quân Mỹ, con số đẻ con số, lúc đầu dưới dạng toán cộng nhưng ai dám quyết đoán là nước Mỹ sẽ không buộc phải dùng phép toán nhân? Bởi vậy, tôi cho rằng tướng quân sửa soạn bài toán trừ là hơi sớm! Harkins không phản ứng trước lời nói – theo phong cách quân sự - khá vô lễ giữa một đại tá với một đại tướng. Ông ta, một lúc sau, thở dài: - Cánh quân nhân chúng ta chỉ là bức màn khói. Họ - các nhà chính trị ấy – cần chúng ta như cần một dữ kiện để dẫn chứng, để ví dụ, thế thôi... Các nhân viên lễ tân đã mời quan khách vào phòng lớn xem phim. Harkins siết tay Luân: - Đại tá có thể trở thành nhà chính trị! Đại tá thích không? Luân cười, tránh trả lời - anh quyết định giữ thái độ lửng lơ như vậy. * Buổi sáng nay, Ngô Đình Nhu dàn dựng một kịch mới: Phu nhân của đại tá Huỳnh Hữu Hiền, tư lệnh không quân, viếng hải quân tại bến Bạch Đằng, nhận làm “mẹ đỡ đầu Hỏa vận hạm 471”. Có mặt trên chiến hạm đại tá Hồ Tấn Quyền, tư lệnh hải quân và trung tướng Trần Văn Đôn, quyền Tổng tham mưu trưởng, đại úy hạm trưởng, phu nhân của thiếu tướng Trần Thiện Khiêm và đại tá Nguyễn Thành Luân, thay mặt cố vấn Ngô Đình Nhu. Phu nhân đại tá Huỳnh Hữu Hiền, dong dỏng cao, mặc chiếc áo dài lụa trắng đẹp lộng lẫy. Bà ta rất trẻ, toát lên sức quyến rũ đến nỗi trung tướng Đôn nhìn mãi bà, từ chiếc cổ cao trắng ngần, đôi má ửng hồng đến các bộ phận nảy nở bốc lửa khác trên cơ thể bà. Trung tướng ghé vào tai Luân: Lão Hiền tìm đâu ra một hoa hậu của hoa hậu? Luân không đánh giá bà đại tá đến mức đó – anh so bà ta với Dung của anh và không thiên lệch, anh vẫn thấy Dung của anh đẹp hơn, đẹp kín đáo hơn. Bà đại tá cười luôn. Trung tướng không rời bà và có vẻ bà cũng thích gần trung tướng. Vài va chạm như vô tình – ngón thon thả hơi lâu một chút...Thỉnh thoảng, bà cũng nhìn Luân, cố làm vẻ hờ hững. Đáng lẽ lễ “đỡ đầu” tiến hành nửa giờ, nhưng trung tướng kéo dài suốt buổi sáng. Hồ Tấn Quyền than với Luân: “Ông André thấy bà Hiền y như mèo thấy mỡ!”. Khi chia tay, phu nhân đại tá, môi ướt rượt, cho trung tướng một cái hẹn. “Nhu muốn móc gan của tướng Đôn đây!” – Luân mỉm cười. Bà Hiền bắt gặp cái mỉm cười đó, tiến lại chỗ Luân: - Tạm biệt đại tá! Lẽ ra tôi phải làm quen với đại tá từ lâu... - Cám ơn bà! - Không nên làm quen với đại tá Luân. – Trung tướng Đôn cười – Bà đại tá Luân ghen dữ lắm! - Tôi nghe nói bà đại tá rất đẹp, đúng không? Luân hơi đỏ mặt. “Thế là Nhu dấn vào cuộc phiêu lưu với bất cứ thủ đoạn nào.” – Luân nghĩ. Sự phô trương không quân và hải quân đoàn kết chỉ có giá trị tuyên truyền, còn thực chất là vợ của Hiền phải xỏ mũi cho kỳ được tướng Đôn mà Nhu hiểu là tay hoạt động và tổ chức những đòn tấn đánh chế độ - nếu được Mỹ đồng ý. Nhu nặng về chiến thuật – đúng ra, nặng về mưu mẹo vặt thậm chí không được sạch. Bà Hiền – hình như một nữ sinh, tên Ly Ly, chưa đỗ tú tài đã trở thành vợ của một tư lệnh không quân – nhận vai trò này hẳn qua ý kiến của chồng. Xét tới cùng, Nhu đang bí lối, thần kinh mất nhạy bén. Sai lầm của Nhu sẽ thúc đẩy chế độ chóng tan rã... * Trong ba tuần lưu lại Hoa Kỳ, bà Ngô Đình Nhu đi thăm 12 thành phố, tham gia 17 chương trình phát thanh, đọc 17 bài diễn thuyết, dự 15 đại tiệc... và bà đã qua kỳ thi sơ khảo trước báo chí Hoa Kỳ và đã đậu ưu hạng.Nữu Ước (VTX): Hôm thứ tư vừa qua, bà Ngô Đình Nhu tố cáo một số cơ quan thông tấn Hoa Kỳ tại Việt Nam là đã liên can tới một vụ âm mưu lật đổ chính phủ Việt Nam. Bà tuyên bố: “Nếu đã có một vụ âm mưu lật đổ chính phủ như thế, tôi có thể đoán chắc với quý vị là âm mưu ấy đã thất bại”. Đây là lần đầu tiên bà Ngô Đình Nhu nói chuyện với công chúng từ khi bà tới Mỹ Quốc ngày thứ hai. Trong một cuộc phỏng vấn vô tuyến truyền hình, bà tuyên bố rằng bà không tin các cấp lãnh đạo ở Hoa Thịnh Đốn đã tán thành “âm mưu ấy”. Nhưng bà cho biết thêm là các hãng thông tấn Hợp chủng xã (United Press International), Mỹ liên xã (Associated Press), đài phát thanh “Tiếng nói Hoa Kỳ” (Voice of America) và cả tờ “Nữu Ước thời báo” (New York Times) đều có dính líu tới vụ âm mưu kể trên. “Chỉ vì họ không ưa chúng tôi, thế thôi”, bà tiếp. Trong khi bà Ngô Đình Nhu trả lời phỏng vấn, thì khoảng hơn một chục người biểu tình trước khách sạn Waldorf Astoria và khi bà nói chuyện tại “Câu lạc bộ báo chí” thì bọn đó lại tập hợp cách đó chừng vài dẫy nhà. Những người biểu tình đó tự xưng là sinh viên. “Sau đó, bà Ngô Đình Nhu chỉ trích các ký giả Mỹ ở Việt Nam. Bà xác nhận đã có lần chính phủ Việt Nam dự định truy tố 6 ký giả Mỹ ra trước tòa án về tội “ngăn cản” cảnh sát thi hành nhiệm vụ trong một cuộc biểu tình của bọn phiến loạn. Nhưng Hoa Kỳ đã yêu cầu chính phủ Việt Nam đừng khởi tố 6 ký giả Mỹ đó. Nếu nghe theo lời yêu cầu ấy, chính phủ Việt Nam sẽ bị mất thể diện, chúng tôi cảm thấy rằng chính phủ Việt Nam cần phải để cho tòa án quyết định về việc này”. Bà Ngô Đình Nhu cũng cải chính tin nói rằng chính phủ Việt Nam đã bắt giam “hàng nghìn người”. Bà nói: “Chính phủ đã bắt giam 10 nhà sư phản loạn, còn những người khác có bị giữ ít lâu nhưng đã được trả lại tự do”. Bà Ngô Đình Nhu tuyên bố tiếp: “Chúng tôi không tự hào là chính phủ Việt Nam Cộng hòa được toàn thể nhân dân ủng hộ, nhưng các phần tử chống đối chính phủ ở nước tôi rất ít. Chính phủ Việt Nam chỉ bắt giữ những người nào có những hoạt động phá hoại. Chính phủ Việt Nam đã cho bắt giữ một số nhà sư phản loạn vì chúng tôi không muốn bị những phần tử phá hoại khoác áo cà sa lừa gạt. Việt Nam không là một quốc gia độc tài. Mặc dầu sống trong tình trạng chiến tranh từ chin năm nay, chúng tôi đã tổ chức được năm cuộc bầu cử dựa trên nguyên tắc phổ thông đầu phiếu cho những người đã trưởng thành. Nói rằng những cuộc bầu cử ấy đều là “bịp bợm” thì rất dễ nhưng “lấy gì làm bằng cớ?” Bà Ngô Đình Nhu cho biết là Hoa Kỳ đã đem ông cố vấn và bà ra làm bia đỡ đạn. Bà tuyên bố: “Từ bao năm nay, tôi đã khuyên chồng tôi đừng bị các công chức lợi dụng. Nếu chồng tôi còn ở lại chính quyền cốt là để giúp đỡ Tổng thống Ngô Đình Diệm. Nhưng khi Hoa Kỳ đòi hỏi chồng tôi là: “cứ ở lại” nếu chính phủ Hoa Kỳ không thể nói rõ lý do vì sao mà chồng tôi phải bỏ rơi chính phủ”. * Thạch đến nhà đúng lúc Luân từ chỗ chị Cả trở về. Luân nghe Thạch báo cáo tất cả diễn biến.Đêm qua, Thạch không ngủ, anh bị giam lỏng và bọn vệ sĩ dọa anh: hễ rời khỏi phòng thì bọn chúng nổ súng. Thiếu tá Hùng biến mất, sau khi trả lời cho lại cho Thạch khẩu súng nhưng lấy hết đạn. Sáng, Thạch được ăn điểm tâm, uống cà phê, xong rồi ngồi đó. Vệ sĩ không trả lời câu hỏi của Thạch: bao giờ thì anh mới được tự do. Mãi gần 9 giờ, Mai Hữu Xuân đến, gặp Thạch tại phòng khách sạn hôm qua. - Tôi cho phép anh về! – Mai Hữu Xuân bảo. - Anh có thể tường trình mọi việc tại đây với đại tá Luân. Tôi hành động theo lợi ích quốc gia, qua đó, đại tá sẽ hiểu. Ở đây không hề có việc tư thù: tôi và đại tá chẳng có hiềm khích cá nhân. Nhưng, nếu đại tá cố chấp thì tôi đành chịu – cuộc nói chuyện sau này sẽ không qua những bộ hạ cấp dưới như anh mà giữa tôi và đại tá... Dĩ nhiên, riêng với anh tôi nói rõ: thái độ lỗ mãng đối với anh là của thiếu tá Hùng, anh ta sẽ bị kỷ luật; vả lại, anh không thiệt thòi bao nhiêu khi hai người kia đều nhận ở anh mấy đòn chí mạng! “Mai Hữu Xuân chọn cách tốt nhất – không giấu giếm. Hắn dằn mặt mình. Như vậy, có hai yếu tố: một, hắn dựa vào ai đó, kể cả Jones Stepp; hai, tình thế sẽ díễn ra có lợi cho hắn và sẽ diễn ra không lâu. Hắn không sợ Nhu trừng phạt, công khai thách thức quyền lực của Nhu... Thật rõ ràng”. Luân rút ra kết luận đó. Anh an ủi Thạch. “Thạch là con người trung thực”, Luân bắt tay Thạch, không nói lời cám ơn nhưng đôi mắt Luân nhìn Thạch hết sức tha thiết. - Đại tá... đại tá chịu thua bọn họ sao? – Thạch lung bung. - Đừng nghĩ đến chuyện ăn thua! – Luân dặn thêm: - Không hé răng với ai. Nhắn vợ con chú lên. Thạch không thể hiểu vì sao Luân lại “chịu thua”. * Thiếu úy Tường đến nhà Luân. Đây là lần đầu anh ta đến, xe đỗ ngoài cổng. Tường khập khiễng bước vào.- Tôi xin phép nói chuyện cơ mật với đại tá... - Liệu ở đây tiện không? - Tường nhìn phòng khách và Luân hiểu anh ta sợ bị nghe trộm. - Anh cứ nói. Không có máy ghi âm... - Thời giờ không nhiều, tôi xin nói ngay: Bác sĩ Trần Kim Tuyến gửi thư cho tôi, dặn tôi báo với đại tá. - Anh vẫn giữ liên lạc đều với bác sĩ? - Vâng, rất đều... - Anh đã thông báo với bác sĩ về chuyến đi “Tam giác vàng” của chúng ta? - Vâng! – Tường trả lời không do dự. - Bác sĩ vẫn còn ở Bangkok? - Vâng! Trong các “đầu mối” mà Tuyến giao lại, không có Tường. “Chắc chắn không chỉ riêng trường hợp Tường”. - Anh nói đi... Tường rút trong túi ra mảnh giấy nhỏ. - Đây là thư của bác sĩ, thư mã hóa, tôi đã giải mã... Luân nhận mảnh giấy. “Tiến hành gấp phương án Y. Đừng để bọn ta chỉ là hạng đứng bên ngoài vỗ tay khi đại cục kết thúc. Gặp C7, hỏi giờ giấc của thằng cha đó và bàn với C7: có cách nào “điệu hổ ly sơn” không, nếu thằng cha đó vẫn núp trong hang” Phương án Y – C7 – Thằng cha đó – Hang – trong bốn mật danh, Luân biết mình là C7. Nghĩa là, còn những C1, C2... và C8, C9 v.v... Nghĩa là còn A, còn B... Thế mà, Tuyến chẳng hé cho anh một tý gì. Và, rốt lại, cũng như cách của Nhu, mọi người đối với Tuyến đều là loại tốt, một tay sai không hơn không kém. - Tôi xin giải thích – Tường nói – C7 là đại tá... - Còn C6? – Luân cướp lời Tường. - Xin phép đại tá, tôi không có quyền trả lời những câu hỏi khác ngoài những cái ghi trong thư... - Tường nói, giọng kể cả. “Té ra, ngay thằng này cũng là “cấp trên” của mình!” – Luân cười lạt. - Đến một lúc nào đó đại tá sẽ rõ tất cả. - Tường dịu giọng – “Thằng cha đó” là Ngô Đình Nhu. Còn “phương án Y” là kế hoạch ám sát Nhu! Tường thông báo một chủ trương khủng khiếp cỡ đó với thái độ thản nhiên. “Chúng nó dự định từ lâu rồi”, Luân hiểu. Và, có “phương án Y” tức có các phương án A, B... - Cho tôi biết chi tiết về kế hoạch? - Tôi không biết! – Tường trả lời cộc lốc. - Được rồi... Tôi phải đưa ông cố vấn ra khỏi “cái hang” – dinh Gia Long, đúng không? - Đúng... - Ra khỏi dinh thôi, còn đi đâu cũng được? - Đúng... Chỉ cần Nhu ra khỏi vòng rào của Liên binh phòng vệ... - Bao giờ? - Từ nay đến cuối tháng... - Chỉ còn 4 ngày! - Phải, thời gian hạn độ bấy nhiêu... Luân khoanh tay trước ngực, ngó ra vườn.Tường theo dõi Luân – anh ta đinh ninh Luân suy tính mưu kế “điệu hổ ly sơn”. Nhưng, Luân suy tính hướng khác: Biến cố có thể xảy ra đầu tháng 11. Liệu Mai kịp móc liên lạc giúp anh không? “Phương án Y” hết còn bí mật với Luân – nhóm nào đó sẽ khử Nhu khi Nhu rời dinh Gia Long. Tức là Tuyến và phe Tuyến không đặt được người trong dinh, một phát phóng lựu M79, một băng tiểu liên là đủ nhưng Nhu phải ra khỏi “hang”. Tức là dinh Gia Long bị bao vây ngầm. - Tôi cố gắng. Hơi khó, nhưng tôi cố gắng... Mắt Tường sáng lên. Anh ta chào Luân. Luân gọi điện cho Dung, nhưng Dung không về buổi trưa được, Luân ngồi vào bàn, cầm bút. Anh vẽ, xóa, vẽ... như trò giải trí, với những hình thù kỳ dị... James Casey đến. - Chào đại tá! – James Casey bắt tay Luân, ngồi vào ghế, không đợi Luân mời. - Ta uống cái gì? – Luân hỏi. - OK! Nhưng nhẹ nhẹ... Vẻ tất bật của viên sĩ quan Mỹ lây sang Luân – anh hồi hộp. Sau vài hớp bia, James Casey nói: - Tôi gặp đại tá với sự ủy nhiện của phó đại sứ William Porter... - Không có sự ủy nhiệm đó, tôi vẫn tiếp trung tá như đã từng tiếp... - Luân chặn ngang cách rào đón của Casey. - Tất nhiên... Tất nhiên... chúng ta cùng làm việc chung không phải mới ngày hôm qua. Nhưng dù sao, tôi muốn báo với đại tá buổi nói chuyện này thuộc loại chính thức. Để kiểm tra tính chất chính thức đó, đại tá chờ... - James Casey xem đồng hồ tay – Nửa phút nữa. Gã uống tiếp, rồi châm thuốc. Chuông điện thoại reo. Gã nháy mắt, cười: - Đại tá cứ nghe điện thoại đi. - Tôi hân hạnh tiếp ai ở đầu dây đây? – Luân hỏi... - Tôi, Luân đây... Xin chào ngài đại sứ. Vâng, trung tá James Casey đang ngồi tại phòng khách nhà tôi... Vâng, tôi hiểu. Chào ngài. Luân gác máy, trở lại ghế. - Rõ rồi, phải không? – James Casey ngó Luân – Tôi được ủy quyền, báo với đại tá: đại sứ Mỹ muốn biết đại tá cần bao nhiêu tiền – tiền Việt và dollar? - Tôi chưa hiểu... - Luân từng đoán rằng sẽ có lần một người Mỹ nào đó đặt vấn đề như vậy với anh. Nhưng anh vẫn làm như bị bất ngờ. - Có gì khó hiểu đâu? – James Casey cười – Trong công việc sắp tới – sắp tới nghĩa là rất gần, thậm chí bây giờ - đại tá cần chi phí... Bao nhiêu? - Bao nhiêu à? Tôi không rõ... - Tiền Việt để chi trả những món nhỏ. Dollar để chi trả những món lớn, giao tiền mặt một phần, một phần quan trọng hơn sẽ gửi ngân hàng; ngân hàng nào tùy đại tá và “thân chủ” của đại tá định... - Thú thật, tôi rất dốt về món này... - Luân cau mày. - Tôi dự đoán đại tá sẽ coi như bị xúc phạm. Nhưng, đây không hề là một hành động mua chuộc. James Casey nói rất trân trọng: - Ai mà mua chuộc nổi đại tá Nguyễn Thành Luân! - Tôi sẽ không nhận, dù là một xu. Nhưng, khi cần, tôi sẽ báo với trung tá, như vậy tiện hơn... James Casey lắc đầu nguầy nguậy: - Không được! Ngài Porter muốn mọi thứ đều lên sổ sách. “Bọn Mỹ chi li mọi thứ, kể cả mưu mô đảo chính, đều phải biểu hiện bằng con số - đồng Việt, đồng dollar”. – Luân suy nghĩ. “James Casey muốn chính mình cho giá”. - Theo trung tá bao nhiêu? – Luân buộc kẻ mở miệng phải là phía Mỹ. - Bao nhiêu à? Tôi đâu rõ. Đại tá là người nắm “thân chủ”... - Cứ xem như trung tá cần tiền cho một việc cỡ việc mà trung tá sự kiến... - Tôi nói theo lối bịt mắt đi đêm nhé... Hai trăm nghìn dollar và năm trăm triệu đồng Việt... Đủ không? - Tôi không biết lấy gì để đối giá nên xin nghe trung tá. Và, tôi nhắc lại: khi nào cần, tôi báo chớ không nhận... - OK! Một trương mục ngân hàng Hồng Kông sẽ mang tên... Tên gì? À, Lý Dung... Hay lắm, rất có vẻ người Hoa. Cháu bé và bà đại tá... Đại tá nhận được ngân phiếu trong vòng vài hôm. Còn tiền Việt, một tài khoản mang ký hiệu... Ký hiệu gì? À, Hoàng Nguyễn – họ của ông bà... Tại chi nhánh ngân hang Mahattan – Sài Gòn. Ổn chứ? Ổn hay không, Luân không quan tâm. James Casey đi rồi, Luân trở vào bàn viết, tiếp tục vẽ, xóa, vẽ các hình kỳ dị... Nhưng, anh không thể tập trung suy nghĩ, bởi một người khách lại đến. Bây giờ là John Hing. Và đề tài của John giống hệt của James Casey về cơ bản, chỉ khác chi tiết. Hoặc, cũng có thể xem John chính là “con đường nối dài” của James. - Việc trang bị cho quân lực Việt Nam Cộng hòa sẽ đặt ra gay gắt. Đặt ra cho hàng triệu quân, từ dân vệ đến quân thường trực. Tôi muốn biết đại tá sẽ chọn hãng sản xuất vũ khí nào – đưa yêu cầu mới hoặc mua loại cũ. Hãng Mỹ, Pháp, Tây Đức, Ý, Thụy Điển, Bỉ, Canada... Vũ khí bộ binh, nặng nhẹ. Các khí tài khác kể cả xe tăng, máy bay, tàu, bom, xe lội nước, phương tiện truyền tin và, công trình sân bay, quân cảng... Đại tá qua tôi, sẽ được thỏa mãn. Tất nhiên, đây là phần thuộc ngân sách của Việt Nam Cộng hòa. Phần của Mỹ, tôi đã làm việc với người đại diện của Ngũ Giác Đài. “ Vui thật! Mình gặp toàn “trùm” buôn lậu á phiện, buôn lậu khí tài chiến tranh, buôn lậu chính trị! – Dù sao, Francisci vẫn lương thiện một phần nghìn lần hơn John Hing, gã Tây Corse không thu lợi trên sinh mạng con người một cách thô bạo”. Và John Hing cung cấp cho Luân một cơ sở nhận định quan trọng: Mỹ quyết thắng để không thua. Sau biến cố, nhất định sẽ xảy ra, tình hình chiến tranh chỉ thêm khốc liệt. Với Luân, đó là một tai họa cho đất nước. Làm sao tránh đây? Luân rơi vào những day dứt đau xót, không để ý lắm lời của John Hing: - Tôi sẽ mở trương mục cho đại tá. Tùy đại tá lựa chọn, nhưng có lẽ ngân hàng Thụy Sĩ là thuận lợi... - Trương mục gì?- Luân choàng tỉnh. John Hing cười – hắn ngỡ Luân giả ngây thơ. - Không ai làm không công cho người khác. Đại tá xứng đáng được trả công. - Trả công? – Luân nổi nóng. Lớn tiếng xong, Luân hối hận: “Nên như vậy không... ” John nhìn sững Luân: - Đại tá không thích tiền? Luân lắc đầu. - Tuy đại tá không thích, tôi vẫn phải thực hiện đúng nhiệm vụ. Tôi nhắc lại, trang bị tương lại cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa, đại tá gọi tôi, đại tá sẽ hài lòng... - Tôi quyết định thế nào nổi việc to tát ấy! - Nổi, nổi! Tất nhiên, đại tá là một tiếng nói và tôi chỉ cần đại tá nói, thế thôi. John Hinh ngó Luân: - Đại tá có nghe hãng Izui Syozi không? Luân nhớ mang máng hình như anh đọc một tài liệu nào đó nói về hãng này... Phải rồi! Hãng ngụy trang “nhóm đặc biệt Phòng châu Á” chuyên xuất vũ khí khu vực Đông Nam Á. Hãng cạnh tranh với các công ty Mỹ, kể cả công ty “Ngựa bay” Colt và công ty Keytesville mà tướng Taylor có phần hùn. Thấy Luân nhớ ra, John Hing nói liền: - Hãng Izui Syozi có thể cung cấp máy bay, từ trinh sát hai chỗ ngồi, trực thăng H.9 đến máy bay vận tải C1, xe tăng cải tiến, các loại xe vận tải chuyên dụng, xe tải 6 hoặc 7 tấn, tàu kéo, súng cầm tay... Tóm lại, thỏa mãn cho nhu cầu một quân đội lớn, hiện đại. - Tôi nghĩ là Izubissi Busan đủ kinh nghiệm hơn! John Hing trợn mắt: - Hóa ra đại tá không phải là tay mơ... Chắc Francisci mách cho đại tá chớ gì... Không! Izubissi cũ kỹ lắm. Izui tân tiến hơn. Tăng 61 – sản xuất năm 1961, đại tá nhớ cho, 35 tấn, gắn pháo 90 ly, tốc độ 45 cây số/giờ, tổ lái chỉ cần 4 người. Tuyệt! Phải không? Tôi sẽ đưa đại tá catalogue, cả phim 8 ly... - Ông có phần hùn trong Izui? John Hing nheo mắt: - Đó là chuyện phụ. Chuyện chính, những khẩu súng cầm tay gọn nhẹ, nước sơn trông sướng mắt. Sản xuất năm ngoái. John Hing nói đến vũ khí mà như nói về các cô gái hơ hớ. Luân cố kìm chế. - Ta thỏa thuận nhé... Trương mục của đại tá sẽ mang ký hiệu 761921... - 761921... Cái gì vậy? - Đơn giản quá, thưa đại tá. Ngày sinh 7-6-1921, không phải của đại tá sao? Luân suýt kêu to kinh ngạc. Bọn tình báo chẳng bỏ một chi tiết nào về anh. - Số tiền, mà đại tá toàn quyền sử dụng sẽ là 100.000 franc Thụy Sĩ, tương ứng 44.050 dollar, tính theo hối đoái hiện hành, tức 2.28 franc Thụy Sĩ ăn 1 dollar... - Tôi không thể nhận một món tiền lớn như vậy mà lý do không rõ ràng. – Luân kiên quyết. - Lý do rất rõ ràng... Công ty của tôi, công ty rau quả California chia lại cho đại tá theo cổ phần mà đại tá đóng, từ 1955 đến nay. - Tôi không đóng bất kỳ một cổ phần nào... - Hay đại tá thích công ty đồ hộp San Francisco? – John Hing chẳng thèm để ý thái độ của Luân. - Tôi đã nói là không... - Thưa đại tá, chúng tôi đã nói là đại tá có! Đại tá phải nhận. Hoặc đại tá giữ trương mục ở ngân hàng Thụy Sĩ, hoặc đại tá không có gì cả. Không có gì cả không nói về tiền đâu. Chúng tôi quyết định rồi. John Hing bắt tay Luân rất lịch sự, ung dung ra cửa. Âm thanh “chúng tôi” vẫn tiếp tục vang trong đầu Luân. Luân lại phải vào dinh Gia Long. Nhu trao đổi lần nữa với Luân kế hoạch “Bravo”. - Tôi định nổ vào ngày 31-10 hoặc 1-11... Chi tiết đây, anh xem... Luân tập trung đọc bản kế hoạch mà anh biết do Tôn Thất Đính thảo – đúng hơn, do Trần Văn Đôn và Lê Văn Kim thảo... - Anh thấy thế nào? – Luân đọc xong, Nhu hỏi. - Tôi cần suy nghĩ kỹ trước khi trả lời anh. Hẹn anh ngày mai. - Được! Nhưng không quá ngày mai. Chiều mai, vì sáng mai tôi tiếp phái đoàn Liên hợp quốc... - Anh tiếp ở đâu? - Tại đây! - Tốt... Thấy Luân ngập ngừng, Nhu hỏi: - Anh ngại? - Tại đây thì sao. Tôi khuyên anh đừng ra khỏi dinh trong lúc này. - Tôi hiểu. Cám ơn anh... À, thiếu úy Thạch thế nào? - Bình yên. Tôi muốn ta đừng bận tâm những chuyện trẻ con như vậy... - Không trẻ con đâu. Tôi lột da thằng Mai Hữu Xuân! - Anh bình tĩnh. Còn nhiều cái lớn lao hơn đòi hỏi anh đối phó... - Thôi được, tôi tạm nghe anh. Nhưng tôi không bỏ qua. Luân đứng lên. - Tôi đã trình Tổng thống, anh sắp nhận quân hàm thiếu tướng... - Nhu bắt tay Luân, thông báo. - Không nên trong lúc này! Dư luận nhắc mãi danh từ “gia đình trị”. Tôi thăng cấp tạo cớ cho dư luận mở rộng... - Tôi không chịu thua anh lần này! – Nhu kiên quyết – Tổng thống đã ký, anh có chối cũng không xong... Luân lắc đầu, hỏi sang chuyện khác: - Chị thế nào? Nhu chợt rầu rầu: - Lệ Thủy điện về báo mẹ nó xỉu... Căng thẳng quá tội nghiệp. Luân về đến nhà thì Dung báo có hai khách chờ anh. - Chà, hôm nay “được mùa” khách! Ai? - Hai đại diện phong trào sinh viên. Luân cau mày, không biết hai người. - Em sẽ cung cấp tài liệu cho anh, nội đêm nay. Nhưng em báo trước: họ thuộc cánh Phật giáo Thích Tâm Châu. Họ là Tô Lai và Võ Như... --- (1) Franchise Militaire (Trung thực quân sự), dấu hiệu thời Pháp ghi trên phong bì thư từ quân nhân để khỏi dán tem. (2) tỷ số hòa
__________________
![]() |
#6
|
||||
|
||||
![]() Ván Bài Lật Ngửa Phần 8 - Chương 7 Ngày đêm 20 rạng ngày 21 tháng 8, tức đêm kế hoạch “Nước lũ” mở màn, đại sứ quán Mỹ mở một phiên họp đặc biệt. Chủ trì phiên họp là Williams Porter, phó đại sứ. Tham dự, ngoài số nhân viên tình báo đặc trách các vấn đề chính trị, còn có Jones Stepp. - Tôi cho rằng sức ép của chúng ta chưa đủ mạnh... - Porter mở đầu phiên họp khi đồng hồ điểm một tiếng - Tôi xin nói rõ ý tôi: Sức ép thông qua phong trào Phật giáo coi như đến điểm cao nhất , song rõ ràng chỉ với danh nghĩa Phật giáo, chúng ta khó khuất phục ông Diệm và em của ông ta. Ngài Mac Cone nhắc nhở chúng ta: Dư luận thế giới, dư luận Mỹ và bản thân Tổng thống chưa được kích động đúng mức, nếu không nói phần nào phân vân vì cuộc khủng hoảng chính trị rốt lại chỉ là sự xung đột tôn giáo. Ở châu Âu và châu Mỹ, các vị đều hiểu như tôi. Phật không được chấp nhận như người ta chấp nhận Chúa... - Tôi xin phép cắt lời ngài phó đại sứ. - Jones Stepp hắng giọng - Hiện nay toàn bộ tình hình đã được trình bày dưới dạng “vi phạm nhân quyền”, nghĩa là vượt khỏi lằn ranh xung đột tôn giáo... - Thưa tướng quân! - Porter cười mỉm - Đó chỉ mới là ý nghĩ của chúng ta. Hẳn tướng quân theo dõi chặt chẽ tin tức công bố khắp thế giới, danh từ “Phật giáo” chiếm gần hết tỷ lệ các bài, các mẩu tin... Đúng, nếu chúng ta chuyển được tình hình hiện nay ra một chất khác - một nhãn khác, tùy cách nhận thức của mỗi người - như nhân quyền, thì kế hoạch “Cao áp” sẽ đạt hiệu quả như tướng quân mong muốn... Tiếng interphone vang lên: “Một nhà sư xin tỵ nạn, đang đứng bên ngoài vòng rào sứ quán...” Jones Stepp không nhúc nhích - ông ta đang suy nghĩ điều mà Porter vừa nêu. “Mac Cone có lý...”. - Nhà sư nào? - Một nhân viên hỏi. - Tôi biết! - Porter trả lời - Tất nhiên, ta cần ông ấy. Nhưng, giữ bí mật đến độ có thể giữ được vì ông Diệm có thể cột chúng ta vào điều khoản “can thiệp nội bộ một quốc gia có chủ quyền”. Ngài đại sứ không thích trong lúc này lại phải phân trần với dư luận. Jones Stepp hất hàm về một người ngồi ở cuối bàn: - Louis! Việc của ông đấy!... Louis đứng lên, chiếc trán hói bóng lộn như đánh xira, nhún vai: - Sớm hơn tôi dự liệu! - Dù sao, cũng phải tiếp ông ta đàng hoàng. Con bài dự trữ... - Porter ra lệnh - Các ông không nên bao giờ quên: khi Phật giáo thành lực lượng chính trị, tất yếu sẽ có phân hóa: trong số các nhà sư tiêu biểu, có vẻ chúng ta chỉ nắm được các nhà sư mà đạo hạnh không mấy sáng. Về phương diện này, ông Diệm cũng giống ta. Các sư được mọi người tôn trọng chưa đồng tình với chúng ta lắm. Ngay hòa thượng Hội chủ Thích Tịnh Khiết, tôi đọc rất nhiều thông tri, cáo bạch của ông ta, ông ta tránh đả động đến chính trị. Còn ông Thiện Hoa, Thiện Hòa, Trí Tịnh... Hình như tướng quân Stepp chưa thấy vị trí của họ. Họ là người miền Nam... Tiện đây, tôi nhắc ông Louis: nên tốp nhỏ máy phát thanh Thích Đức Nghiệp, Thích Tâm Giác, cả Thích Tâm Châu. Họ tỏ ra quá mẫn cán khi muốn ký biên nhận dollar của ông Louis bằng cách quảng cáo chống Cộng, “Bắc tiến”. Trò trẻ con đó không “Best-seller” (1) hiện nay. Tôi trở lại nhà sư tỵ nạn: sẽ có dịp dùng và dùng đúng dịp. Cứ coi như chuyện ông ta chọn sứ quán Mỹ như vì bước đường cùng và không bao giờ - tôi nhấn mạnh - không bao giờ để ông ấy tuyên bố chống Cộng. Louis gật đầu, ra khỏi phòng. - Ta hãy suy tính xem... - Porter buông thõng. - Về các tướng lĩnh... - James Casey nói. Porter ngăn James Casey và liếc một người đứng tuổi, dáng phục phịch, luôn im lặng: Conein... - Hôm nay, ta không bàn việc đó. - Tôi nghĩ là còn cái kho trí thức và sinh viên Huế đi trước một bước. - Jones Stepp vừa nói vừa mở cặp. - Mời tướng quân! - Porter khuyến khích. Jones Stepp đặt lên bàn xấp giấy khá dày. - Sau khi linh mục Cao Văn Luận bị bãi chức Viện trưởng Viện đại học Huế, các khoa trưởng đồng loạt từ chức: Lê Khắc Quyến - khoa trưởng Y, Bùi Tường Huân - khoa trưởng Luật, Tôn Thất Hạnh - khoa trưởng Khoa học, cùng 32 người nữa gồm giáo sư, nhân viên, giảng huấn có tên tuổi như Cao Huy Thuần, Bùi Nam, Lê Tuyên, Nguyễn Văn Tường... - Và chỉ có bấy nhiêu! - Porter gay gắt - Đã hơn 2 tháng rồi! Vả lại, trong việc này, bóng của linh mục Cao Văn Luận trùm lên quá rõ. Vị linh mục do ngài Fishell nặn ra, luôn luôn tự coi mình như trung tâm của vũ trụ, huênh hoang quá đáng. Ngài Mac Cone không hài lòng. Jones Stepp cụt hứng, nhét xếp giấy vào cặp. - Không phải những người trí thức Huế từ chức đều tán thành chúng ta. Mỗi người có lý do riêng. Họ chống ông Diệm, không có gì phải bàn cãi, song Cộng sản chống ông Diệm còn quyết liệt hơn bất kỳ ai... Tôi nói rõ ý của tôi: Hãy đưa tình trạng Huế vào Sài Gòn và hãy bấm nút: sinh viên! Các ông kiểm tra xong đã có gì trong tay, Nguyễn Hữu Thái, Chủ tịch Tổng sinh viên là người thế nào? Jones ngó một người - trẻ, đẹp trai. - Joseph, anh trả lời! - Phải lật đổ tay này thì mới nắm được Tổng hội Sinh viên. Thái là phần tử tự do... - Anh ra quan hệ với Việt Cộng? - Porter hỏi. - Cho tới nay, chưa có bằng chứng. Nhưng anh ta giao du rộng. - Sinh viên trường nào? - Porter có vẻ chú ý. - Thưa, Kiến trúc. - Cần lật đổ không? - Theo tôi, phải lật đổ... - Anh có chủ bài trong tay chưa? Joseph cười nhẹ, như gián tiếp trả lời là đã có, khá dồi dào nữa. - Tốt! - Porter nói xong, xem đồng hồ. Hai giờ 15 phút. Interphone lại vang lên: - Xung đột dữ dội ở chùa Xá Lợi... - Có đổ máu không? - Porter hỏi. - Tất nhiên, có! - Tiếng interphone trả lời. - Bao nhiêu người chết? - Porter nôn nóng chờ trả lời. - Hình như không ai chết... - Tồi! Làm ăn tồi! - Porter cáu gắt. - Bí số K.4 xin được báo cáo bằng điện thoại... - Thông dây vào interphone, chúng tôi cùng nghe. - Ông ta nói tiếng Anh không thạo lắm! - Tại sao phải nói tiếng Anh? Cứ nói tiếng mẹ đẻ của ông ta. Interphone rè rè. Toàn cảnh “Nước lũ” được phản ánh. - Ông ta sẽ là hội chủ, thay cho ông Tịnh Khiết trở thành nhân vật tượng trưng. - Jones Stepp bảo với mọi người. - Không thể tìm được một người miền Nam sao? - Porter cau mày. - Chúng tôi sẽ cố gắng, song K.4 đi với chúng ta “cả xác thịt lẫn linh hồn”, nếu dùng một cách văn vẻ. - Ông Nhu có khá nhiều tài liệu về K.4 của tướng quân. Cả ảnh không mấy đẹp. Jones Stepp đưa tay lên trời: - Biết làm sao khi chúng ta không thuyết phục ông ta về giáo lý và ông ta đi với chúng ta không bằng giáo lý! - Tôi chỉ muốn cảnh cáo các ngài: ông Diệm thất bại một phần vì linh mục Hoàng Quỳnh. Phương ngôn Á Đông có một câu rất hay: xe trước đổ, xe sau nên tránh! Porter cười độ lượng. - Vấn đề sau cùng: không một ai được lộ với tướng Harkins những gì chúng ta bàn, dù một chi tiết vặt vãnh. Cả Conein lẫn Jones Stepp đều gật đầu. Câu dặn dò rất nghiêm ấy của Porter kết thúc cuộc họp. * Tổng thống Ngô Đình Diệm triệu tập nội các bất thường trễ hơn sứ quán Mỹ: 5 giờ 30 sáng.Nhu sửa soạn cho phiên họp khá chu đáo. Song, anh ta không liên lạc được với Luân - nghe tin Luân kẹt ở chùa Xá Lợi, Nhu hơi bực. Anh ta xẵng giọng với Dung và sau đó “quạt” Trần Văn Tư một trận. Anh ta không nghe lời phân trần của Tư: - Các anh thật ngu... Tôi muốn cách chức tất cả! Đại tá có mặt có nghĩa là đại tá muốn điều chỉnh các hoạt động của anh, lẽ ra các anh phải xin ý kiến của đại tá. - Thưa, thiếu tướng Xuân trông thấy đại tá, nhưng không dặn chúng tôi... - Ai? Ai chỉ huy các anh? Tôi! Nghe rõ không! Tôi có nghĩa là đại tá Nguyễn Thành Luân. Anh đem Mai Hữu Xuân dọa tôi à? Anh có mắt không? Có đầu không? Cuộc họp nội các căng thẳng. Tuy Nhu đã dặn trước nhưng Diệm vẫn bị bất ngờ. Sau khi Diệm thông báo chính thức quyết định của chính phủ, người ngơ ngác đầu tiên là Phó tổng thổng Nguyễn Ngọc Thơ. Thái độ của Thơ rất bất lợi cho Diệm. Ông ta lúng túng trước các cặp mắt thăm dò của thành viên nội các. Ngồi trong phòng riêng, qua máy truyền hình, Nhu tự trách: Lẽ ra, nên cho lão Thơ hay trước và hôm nay, để lão chủ tọa phiên họp, có lợi hơn. Dù sao thì cũng không còn cứu vãn kịp. “Vì Cộng sản xâm nhập các tỉnh lỵ, thị trấn và ngoại vi Sài Gòn, cho nên tôi quyết định thiết quân luật”. Diệm giải thích thêm. Toàn thể chính phủ im lặng. Thật ra, hơn phân nửa đã được phổ biến sự việc - một số tham dự hẳn vào kế hoạch “Nước lũ” như Nguyễn Đình Thuần, Trương Công Cừu, một số nghe mang máng. Chẳng có gì phải quan tâm. Số còn lại bây giờ mới rõ - họ nghe ồn ào nhưng chẳng hiểu lý do. Người duy nhất nói trong buổi họp là Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu. Ông nói khá tế nhị: “Nếu quả thật có sự đột nhập của Việt Cộng vào ngoại ô Sài Gòn thì đã đủ lý do để giải thích sự việc...” Diệm phật ý. “Nếu quả thật...”. Tay luật sư này quả là đáo để. Chẳng lẽ Tổng thống nói láo? Nhưng, không phải là lúc thích hợp để dạy cho Vũ Văn Mẫu bài học ghi chú cẩn thận. Mẫu tự lái xe và tiếp xúc với giới trí thức. - Tại sao chú không cho bắt Mẫu? - Diệm nói gần như quát. - Tại sao lại bắt ông Mẫu? - Nhu hỏi lại, giọng lạnh lùng - Ông ta không phải là Việt Cộng, không phải là tình báo Mỹ, không phải Đại Việt, bắt ông ta là đánh vào số trí thức đứng giữa. Em thích Vũ Quốc Thúc cạo đầu… Bắt kẻ như Thúc mới đập đúng đầu rắn. Bọn CIA khôn ranh lắm. Anh tin Trần Quốc Bửu, em không tin. Chúng xem như đây là cơ hội ngóc dậy. Những loại đó, hề rục rịch, em tóm cổ ngay! Còn ông Mẫu, anh cứ cho ông ta được nghỉ “vì lý do sức khoẻ”. Nghe đâu ông ta xin đi Ấn Độ hành hương, cùng gia đình, anh cứ cho phép. CIA sẽ tịt ngòi. Nước cờ của Nhu khá cao. Thích Tâm Châu gọi điện báo với Jones Stepp và Jones Stepp chỉ khuyên nhà sư mang mật danh K.4 nên tìm mục tiêu khác. Thích Tâm Châu không cần tấn công. Lệnh thiết quân luật kích động cả thành phố. Ngay chiều 21-8, sinh viên Trung tâm kỹ thuật Phú Thọ bãi khóa được một số giáo sư đồng tình. Chiều 22-8, giáo sư Phạm Biểu Tâm khoa trưởng Y khoa từ chức. Sáng hôm sau, ông bị Trần Văn Tư bắt. Không khí náo động, trường Y đông nghẹt sinh viên các khoa. Nhu nhận được tin vào giữa trưa. Trần Văn Tư bị gọi vào dinh Gia Long. - Ai cho phép anh bắt bác sĩ Tâm? - Nhu hỏi, mắt đổ lửa. - Thưa, ông Thuần truyền lệnh của Tổng thống... - Không có ai được ra lệnh trong lúc này, trừ tôi! Anh thả ngay bác sĩ Tâm... Giáo sư Phạm Biểu Tâm được thả. Ra khỏi Nha cảnh sát, ông rơi vào một cuộc bao vây khác. Lấy cớ mừng giáo sư thoát nạn, một bộ phận sinh viên mời giáo sư đến trường đại học Y. - Thưa giáo sư! - Một sinh viên, đầu cạo trọc nhẵn, nói trước micro - Xin thầy cho biết lập trường của sinh viên lúc này nên như thế nào? - Tôi xem các anh như những người lớn, các anh làm những gì các anh muốn làm, tuy nhiên cũng đừng quá khích... Cuộc họp mau chóng biến thành một cuộc mít tinh và một số sinh viên viết ngay đoạn đầu trong câu nói của giáo sư Tâm như khẩu hiệu: “Sinh viên là người lớn, muốn làm những gì sinh viên muốn làm!”. Người sinh viên cạo trọc đầu thét to một câu bằng tiếng Pháp: “Nous sommes dépourvus de tous” (2). Trong cảnh gần như hỗn loạn ấy, một “Ủy ban chỉ đạo sinh viên Liên khoa” công bố thành lập, gồm 19 người, do Tô Lai, khoa Luật, chủ tịch và Đường Thiệu Đồng, Lâm Tường Vũ, Nguyễn Đông, Võ Như... trong ban chỉ đạo. “Ủy ban chỉ đạo” đương nhiên thay thế Tổng hội Sinh viên. Người ta nghĩ rằng “Ủy ban chỉ đạo” đã đập mạnh Vũ Quốc Thúc, khoa trưởng Luật khoa, nhưng không; Vũ Quốc Thúc chỉ bị một số sinh viên cảnh cáo. Người được “Ủy ban chỉ đạo” hoan hô dữ dội là giáo sư Nguyễn Văn Bông - ông ta tham gia biểu tình với sinh viên. Ngô Đình Nhu ra lệnh: Bắt ngay Nguyễn Văn Bông. Nhưng lệnh của Nhu không có hiệu lực. Porter chính thức điện cho Nhu. Nhu ném chiếc gạt tàn vỡ tan tành. “Thằng Đại Việt đầu sỏ, thằng CIA này mà không trị thì thật nguy...” “Ủy ban chỉ đạo” huy động một lực lượng hùng hậu, số sinh viên khoa học bãi thi APM và APD - bao vây văn phòng Viện trưởng Viện đại học Sài Gòn, giáo sư Lê Văn Thới. Giáo sư Thới lánh mặt. Văn phòng bị đập phá. - Tại sao các anh không làm nhục được Lê Văn Thới? Thích Đức Nghiệp xộc đến trụ sở “Ủy ban chỉ đạo” chất vấn. - Thằng ấy có anh đi theo Việt Cộng! Thích Đức Nghiệp không ngờ câu hằn học của y ta phân hóa phong trào sinh viên - một số khá đông ghét Diệm nhưng hoàn toàn không muốn gắn việc làm của họ với khẩu hiệu chống Cộng. * Tuyên ngônTrong khi toàn dân, toàn quân đang nỗ lực đẩy lưu âm mưu thôn tính miền Nam của Cộng sản; trong khi những người quốc gia yêu nước đang phải siết chặt hàng ngũ trước nguy vong của đất nước, mọi hành động chà đạp lên tự do tín ngưỡng của chính quyền miền Nam bằng cách khủng bố, hành hạ các tu sĩ tức là xâm phạm đến tín ngưỡng và công bình xã hội, đều có lợi cho đối phương. Trước tình trạng đó, nhân dân không còn biết đâu là tự do, và vì thế cuộc chiến đấu chống Cộng sản bảo toàn đất nước sẽ mất phần hữu hiệu. Chúng tôi, toàn thể sinh viên, học sinh Việt Nam - Không phân biệt tôn giáo. - Không chịu sự chi phối của bất cứ một đảng phái chính trị nào. nhận thức rằng: Cộng sản và độc tài là kẻ thù của dân tộc, đồng thanh cương quyết thành lập Ủy ban chỉ đạo sinh viên học sinh tranh đấu cho tự do để: 1) Yêu cầu chính phủ thực sự tôn trọng và bảo vệ tự do tín ngưỡng. 2) Yêu cầu chính phủ trả tự do cho những tăng ni, tín đồ Phật giáo, sinh viên, học sinh, giáo sư hiện bị giam giữ. Họ không phải là Cộng sản và vô tội. 3) Yêu cầu chính phủ chấm dứt tình trạng khủng bố, bắt bớ, hành hạ tín đồ Phật giáo. 4) Yêu cầu chính phủ giải tỏa chùa chiền, ban bố tự do ngôn luận. Sinh viên, học sinh Việt Nam nguyện đem mồ hôi, xương máu tranh đấu cho bốn nguyện vọng khẩn thiết trên. Đồng bào hãy sát cánh cùng chúng tôi sẵn sàng hy sinh cho tự do và đòi được quyền phụng sự Tổ quốc. Làm tại Sài Gòn, ngày 23-8-1963 Ủy ban chỉ đạo Sinh viên học sinh * Ngô Đình Nhu phản ứng ngay lập tức: đóng cửa các trường. Phản ứng của Nhu đúng ra là quá trễ. Học sinh, nhất là học sinh các lớp trên cùng sinh viên không ai còn thiết đi học. Mọi người chờ đợi một cái gì đó sẽ nổ ra. Và, ngòi pháo được châm lửa.* Báo cáo của Joseph Stainer, Phân cục tình báo Mỹ.Theo sự vận động của Ủy ban chỉ đạo Sinh viên Liên khoa, học sinh, sinh viên Sài Gòn sẽ tập trung tại trường Dược, đường Công Lý để tổ chức biểu tình vào sáng 25-8-1963. Nhưng khi mọi người tới đây thì lực lượng cảnh sát đã chiếm đóng trường này và phong tỏa tất cả các trường tại thủ đô từ chiều hôm trước. Bởi vậy, học sinh, sinh viên phải đổi địa điểm tập trung từ trường Dược qua chợ Bến Thành. 8 giờ sáng ngày 25-8-63, học sinh, sinh viên từ 8 ngã kéo về Công trường Diên Hồng, người người chật nghẽn đường lối. Dân trong chợ Bến Thành đổ ra hưởng ứng biểu tình cùng sự góp mặt của thanh niên, thanh nữ trong gia đình Phật tử và các đoàn thể Phật giáo, đã biến nơi trung tâm đô thành này thành một biển người. Một vài biểu ngữ vừa được trương lên thì lập tức lực lượng cảnh sát chiến đấu ào tới đàn áp và cuộc xung đột diễn ra. Cảnh sát giơ cao dùi cui, đập túi bụi vào đám học sinh, sinh viên, bất kể nam nữ. Để chống lại, nữ sinh tháo guốc đưa cho nam sinh nhắm đầu cảnh sát quăng tới tấp... Thình lình, súng nổ vang lên. Tiếng súng từ bót cảnh sát Lê Văn Ken hướng vào toán nữ sinh đang xô với nhân viên cảnh sát. Một nữ sinh gục xuống và nhiều người khác ngã theo. Học sinh, sinh viên hoảng hốt chạy tán loạn. Lực lượng cảnh sát săn đuổi ráo riết, thắt chặt vòng vây rồi tiếp tục khủng bố, đánh đập. Trong cuộc biểu tình này, ngoài những nữ sinh bị thương, riêng Quách Thị Trang, nữ sinh đệ nhị bị bắn một viên đạn vào thái dương nên chết ngay sau khi đưa tới bệnh viện được ít phút. Chính quyền Ngô Đình Diệm hết sức che đậy cái chết này. Cái chết của một nữ sinh tại chợ Bến Thành chỉ trong vòng hai tiếng đồng hồ sau đã được loan truyền khắp thủ đô, khiến không những học sinh, sinh viên mà cả công chúng đều căm phẫn. Người ta không rõ nữ sinh đã bỏ mình là ai: là Quách Thị Trang, là Mỹ Hạnh hay Lê Thị Hạnh nhưng người ta chỉ biết và biết rõ ràng máu của một nữ sinh thơ ngây, vô tội đã đổ. Sau cuộc biểu tình này, có trên 2000 nam nữ học sinh, sinh viên bị bắt đưa về nhốt tại Trung tâm huấn luyện Quang Trung. * Điện khẩn:Hàng nghìn sinh viên Việt Nam ở các tỉnh Lyon, Grenoble, Toulouse, Montpellier... kéo về Paris phản đối vụ gọi là “tàn sát Quách Thị Trang”. Dư luận chung cực kỳ bất lợi cho ta. Xin cho chỉ thị. Phạm Khắc Hy, đại sứ. * Điện khẩn:Phúc điện cho đại sứ, nên cố gắng tổ chức phản biểu tình. Phân tích xem trong số sinh viên kéo về Paris gồm những xu hướng nào? Thân Cộng bao nhiêu? Có Đại Việt không? Thái độ của chính phủ Pháp và đại sứ quán Mỹ. Thái độ của nhóm Vương Văn Đông, Trần Đình Lan? Ký: Ngô Đình Nhu. * Điện khẩn:Trong số sinh viên, hầu như đủ xu hướng, tất nhiên số thân Cộng nòng cốt. Đang tiếp xúc phản biểu tình nhưng rất khó. Chính phủ Pháp tỏ ra trung lập, cảnh sát chỉ giữ trật tự mà không can thiệp. Không ai thấy đại sứ quán Mỹ tiếp xúc với sinh viên. Vương Văn Đông, Trần Đình Lan, Quách Sến gặp nhau luôn. Hội đoàn Việt kiều do Cộng sản nắm, được Cộng sản Pháp hỗ trợ chống chính phủ Việt Nam Cộng hòa như từ trước. Ký: Phạm Khắc Hy, đại sứ. * Báo cáo của Joseph Stainer:Chất lượng của phong trào sinh viên Sài Gòn bị pha loãng do sự xuất hiện đột ngột của học sinh. Nữ sinh các trường Trưng Vương, Gia Long, Marie Curie, kêu gọi học sinh toàn quốc chống ông Diệm. Thật ra, nếu không quy mô ở đây, với các trường nữ này, chưa phải là điều chúng ta lưu ý, kể cả sự tham gia sau đó của trường Jean Jacques Rousseau. Nói chung, với số đông trong họ thuộc gia đình quyền quý và mộ đạo Phật, chúng ta thu lợi nhiều hơn. Nhưng, khi học sinh các trường Võ Trường Toản, Chu Văn An, Lê Văn Duyệt, Hưng Đạo, Trường Sơn, Văn Lang, nhất là trường kỹ thuật Cao Thắng nhảy vào vòng chiến, tình thế phức tạp. Số này không làm như nhóm sinh viên Đinh Quốc Ân (Y khoa), Nguyễn Trọng Nho (Nông lâm), Phạm Đức Khoan (Văn khoa) trích huyết viết kiến nghị gửi ông Diệm cốt khoa trương và tạo tên tuổi, nhắc nhở chúng tôi rằng họ đang có mặt và họ cũng xứng đáng được đối xử nhu Tô Lai, Võ Như... Học sinh đông hằng mấy vạn không chịu sự kiểm soát của Ủy ban chỉ đạo và có vẻ muốn tự lập. Không thể không nghi ngờ Việt Cộng len lỏi vào phong trào học sinh, nơi chúng có điều kiện hơn trong sinh viên vì tuyệt đại đa số học sinh là con nhà lao động, thân nhân dính líu với Việt Minh trước đây. Cứ xem các cuộc xung đột trên đường phố thì ta có thể kết luận được rằng Ủy ban chỉ đạo lần lần để vuột khỏi tay mình lực lượng đông nhất. Trong Ủy ban chỉ đạo lại phát sinh tranh chấp ngôi vị lợi quyền. Tôi trực tiếp chứng kiến cuộc đụng độ ngày 9-9, cảnh sát dã chiến với học sinh trường Cao Thắng - một trận đánh hẳn hoi mà tôi có thể minh họa bằng hình ảnh Công xã Paris: chướng ngại vật, các loại vũ khí nào búa, gậy, dao cầm cự suốt nửa ngày với lựu đạn cay, phi tiễn, dùi cui, vòi rồng... Tình hình trường Chu Văn An rất gay go, tuy nhiên biểu thị tính cách Phật giáo rõ hơn. Học sinh hạ cờ Việt Nam Cộng hòa, kéo cờ Phật giáo và đánh nhau với cảnh sát. Cuối cùng, 1200 học sinh bị áp giải... Tôi đề nghị thiếu tướng Jones Stepp nên cùng Tổng nha cảnh sát trao đổi. Yêu cầu của chúng ta là không để phong trào học sinh vượt khỏi lằn ranh cho phép và nhất là không để phong trào học sinh trở thành nòng cốt dẫn dắt trở lại phong trào sinh viên. Trong vụ Chu Văn An đã lọc được 72 tên tình nghi cảm tình Việt Cộng trong khi toàn bộ Cao Thắng có lẽ do Việt Cộng chỉ huy. * Luân thay quần áo, mặc bộ quân phục ra phòng khách. Hai sinh viên có vẻ sốt ruột.- Xin lỗi, tôi vừa đi làm về.... Nào, ta cần gì nhau? - Luân bắt tay Tô Lai và Võ Như. - Chúng tôi xin tự giới thiệu... - Tô Lai nói. - Khỏi! Tôi biết hai anh là ai. Báo chí đăng khá nhiều hình các anh, đặc biệt anh Tô Lai... Một Vũ Văn Mẫu hay một Đỗ Mậu? - Luân cười cười, ngó cái đầu cạo nhẵn của Tô Lai. - Thế thì chúng ta có thể vào đề ngay. Nhưng chúng tôi muốn biết chúng tôi phải xưng hô với ông thế nào cho đúng? Luân cười, ngó thẳng Tô Lai: - Tôi là đại tá Nguyễn Thành Luân... - Nếu ông thích quân hàm đại tá, chúng tôi sẽ xưng hô theo ý thích của ông. - Ở đây, không có chuyện theo ý thích. Hai anh là sinh viên, tôi gọi là anh. Còn chủ tịch Ủy ban chỉ đạo, tôi không biết! - Một đại tá thân cận với Tổng thống Diệm mà không biết chủ tịch Ủy ban chỉ đạo sinh viên, học sinh? - Có thể tôi không biết. Có thể tôi không cần biết. Cái tôi cần biết là hai anh đến gặp tôi có chuyện gì? Tôi đã quá tuổi sinh viên từ lâu, cho nên chức vị của hai anh không khiến tôi phải mất thì giờ. - Chúng tôi chống ông Diệm! - Đó là quyền của các anh. Tôi hiểu. - Nhưng, chúng tôi muốn đại tá tỏ thái độ... - Tại sao tôi phải tỏ thái độ? Và thái độ gì? - Người ta nói với chúng tôi rằng đại tá có uy tín với quân đội, với người Mỹ. Sinh viên muốn đại tá đứng về phía chúng tôi... - Quân nhân chúng tôi không được quyền làm chính trị. Các anh biết luật lệ đó, nhất là anh, anh Tô Lai, sinh viên khoa Luật! - Luân châm biếm. Luân đang cố phân tích xem hai người gặp anh thực chất nhằm mục đích gì. - Tôi xin hỏi thẳng hai anh: Phong trào mà hai anh đứng đầu chống ông Diệm đàn áp Phật giáo, đúng không? - Đúng... - Đã đến lúc tình thế phải ngã ngũ. Ngã ngũ không có nghĩa là nếu ông Diệm thôi đàn áp Phật giáp thì đâu sẽ vô đó... Đúng không? Hai người hơi lúng túng, ngó nhau, chưa tìm ra câu trả lời. - Giả tỷ ông Diệm thôi đàn áp Phật giáo, các anh sẽ thất vọng, đúng không? Vẫn không có câu trả lời. - Nhiệm vụ của các anh là làm thế nào để cho ông Diệm không thể thôi đàn áp Phật giáo - bây giờ, thì đàn áp cả sinh viên, học sinh, trí thức... Đúng không? Võ Như lắc đầu: - Hai chữ “nhiệm vụ” mà đại tá dùng, mơ hồ quá! Luân cười rộ: - Chẳng lẽ hai anh không tự đặt cho mình một nhiệm vụ nào cả? Đùa hả? Đùa với sinh mạng Quách Thị Trang hả? - Nếu theo nghĩa đó, chúng tôi có nhiệm vụ. Nhiệm vụ hoặc lý tưởng... - Tô Lai lấy lại giọng bình tĩnh. - Tôi không cần đi sâu vào danh từ. - Luân ngó hai người với đôi mắt người lớn - Sau khi lật đổ ông Diệm, cứ giả định như vậy, các anh định làm gì? - Xây dựng một chế độ tự do thật sự ở Nam Việt. - Võ Như nói như tuyên cáo. - Nghĩa là mọi người đều được luật pháp bảo vệ? - Luân hỏi. - Tất nhiên, trừ Việt Cộng! - Võ Như tiếp tục khẳng định. - Thế thì vấn đề hòa bình sẽ giải quyết như thế nào? Chúng ta đang có chiến tranh và chiến tranh khá khốc liệt. - Không có cách nào khác hơn phải đánh đổ chế độ Cộng sản Bắc Việt! - Võ Như trả lời thật dứt khoát. - Bằng cách nào? - Đại đức Thích Đức Nghiệp đã chủ trương. Chúng tôi sẽ thành lập quân đoàn giải phóng miền Bắc... - Tiếc quá! - Luân hóm hỉnh - Báo Tự Do có anh ký giả tên Vũ Bắc Tiến. Tôi biết không phải một trong hai anh mang tên đó... Chuyện của hai nhân vật “Ủy ban chỉ đạo” mà trẻ con đến cỡ này sao? - Giọng Luân từ châm biếm sang khinh miệt. - Ông Diệm và cả ông nữa, các ông không làm nổi sự nghiệp thống nhất giang sơn, chúng tôi làm! - Võ Như câng câng mặt. - Người Mỹ! Tôi nhắc lại! Người Mỹ cũng chưa dám nghĩ tới chuyện đó mặc dù họ có thể sẽ lên mặt trăng không bao lâu nữa. Các anh chống ông Diệm, tôi không có ý kiến vì nó thuộc về quyền của các anh. Tôi là quân nhân song tôi không biệt những loại chính kiến trong phạm vi những người Quốc gia với nhau. Tôi chỉ khuyên các anh: Làm người lớn phải có cái đầu người lớn. Các anh đừng tự phơi bày mình như một thứ hình nộm ai muốn giật dây cũng được. Tôi nói thật nghiêm chỉnh đó. Cái đầu cạo láng của anh không nâng anh lên một chút nào. Các anh cứ ghi nhớ: các anh sẽ bị xô giạt bên lề và chính các anh hối hận. Luân nói giọng khô khốc. - Chúng tôi muốn đại tá làm cố vấn cho Ủy ban chúng tôi! - Tô Lai dịu hẳn giọng. - Tôi vừa làm cố vấn cho các anh... Không đủ sao? Nếu cần thêm, tôi lưu ý các anh: Đừng làm con két! Hai người ngượng nghịu bắt tay Luân. - Tập tễnh làm chính khách! Thế lực không lớn, tìm chỗ dựa. CIA nắm, song không nắm được hạng có ý thức. Các cậu sẽ rơi đài sớm thôi! Luân trầm ngâm với ý nghĩ riêng cho đến khi Thạch mang vào chiếc phong bì có dấu mật và gắn xi. * Điện mật:Một đoàn đại biểu Phật giáo do Pháp Tri, phái Tiểu Thừa dẫn đầu, bí mật vượt biên giới và đã đến Nam Vang. Họ viết một bức huyết thư gửi ông U Thant, Tổng thư ký Liên Hợp quốc và thái tử Sihanouk đồng thời liên lạc với Nhất Hạnh cùng Cao Thị Phượng đang ở Mỹ và Mẫn Giác ở Ấn Độ. Họ đã gặp cả hai vua sãi Cambot Phanmayut và Manahica. Ký: Tổng lãnh sự VNCH tại Nam Vang. * Bản sao điện mật chẳng gợi cho Luân một ý nghĩa nào. Sự thể đã phát triển quá xa. Số mạng của chế độ Ngô Đình Diệm không còn đếm từng ngày mà từng giờ. Kề cái chết, họ giãy giụa nhưng càng giãy giụa, sợi thòng lọng càng thít chặt. Tự nhiên Luân nhớ đến Ngô Đình Thục, nhớ cái hôm chia tay.Luân mời Giám mục đến nhà ăn cơm và Dung tự nấu. Bữa ăn chung ở dinh Gia Long thật buồn, bữa ăn ở nhà Luân cũng chẳng hơn. Với Giám mục, ông chỉ linh cảm thôi nhưng chừng ấy điều xảy ra dồn dập cũng cho linh cảm của ông những cơ sở phán đoán. Thức ăn ngon, hợp khẩu vị Giám mục - thường thì Giám mục vừa ăn vừa khen - nhưng hôm nay, ông lơ đễnh, mắt như ngó đâu. - Tình hình rối quá, con hỉ? - Ông hỏi. Luân không biết trình bày sao cho hợp với buổi chia tay - Luân cũng linh cảm Giám mục sẽ không bao giờ về Việt Nam nữa. - Thưa Đức cha, tuy rối, song cũng còn đường ra... Mặt Giám mục không hé một chút phấn khởi. - Cha nghĩ lão linh mục Hoàng có lý. Đặng Sĩ cũng có lý. Giá mà Tổng thống nghe lời thím Nhu, mạnh tay vào, bọn Phật giáo bị triệt từ tháng 5. Sai một nước cờ, hư cả bàn cờ! Luân càng thấy thương hại người cha nuôi của mình. Cũng không nên trách ông. Ông không thể có cách suy nghĩ khác. - Cha sẽ trình bày cho dư luận Công giáo thế giới biết sự thật... Cả Đức Thánh cha cũng cần được thông báo các chi tiết. Đức khâm mạng Tòa thánh cho Cha hay, theo ngài thì chế độ của chúng ta khó thoát khỏi cơn thử thách định mệnh này. Để tránh hậu quả tai hại cho Công giáo, ngài thúc Cha đi La Mã sớm dù Công đồng chưa họp. Cha muốn gặp Đức Hồng y Spellman.. Nhưng, ra đi như thế này, Cha bứt rứt trong lòng... Chúa vốn công bằng, sao lại đưa Tổng thống và gia đình ta vào thế hiểm nghèo? Đức khâm mạng đã dạy, Cha nghĩ ngài nghe được cái gì đó... Ngưng một lúc, Giám mục bảo Luân: - Con sống với gia đình chúng ta thấm thoát 9 năm, bằng thời gian con kháng chiến... Cha, Tổng thống, chú Nhu, mọi người đều xem con và vợ con như ruột thịt. Cha biết con giỏi. So với chú Nhu, con suy tính nhiều việc kỹ, sâu hơn. Cho nên, trước khi ra đi, Cha mong con trước sau như một, hết sức vì gia đình. Con cũng đoán ra, suốt 9 năm, nhiều kẻ ghen ghét toan hãm hại con, song Cha, Tổng thống một mực tin con. Đã qua, con xứng đáng lắm. Trên mình con, bao nhiêu vết thương chí mạng là vì họ Ngô. Không ai không nhớ... Con thường thư cho Cha. Công đồng họp khá lâu, Cha cần tin tức ở nhà.. Cha sẽ năng thư cho con. Khi Giám mục và anh ôm nhau, Luân rưng rưng nước mắt. Ngô Đình Thục thuộc gia đình mà cách mạng không thể không triệt hạ - tội ác của họ cao như núi - nhưng, mặt khác, nếu không được Thục che chở, Luân không bị giết thì cũng trút bộ lốt hiện giờ từ lâu, khó thực hiện được gánh nặng mà anh Hai trực tiếp giao, mà A.07 trực tiếp chỉ đạo... Một cái gì như bất nhẫn dâng lên trong lòng Luân. Dung thông cảm tâm trạng của Luân. Tiễn Giám mục lên xe, còn riêng hai người, Dung ngồi sát Luân: - Anh cứ buông thả tình cảm, em thấy như vậy không có hại gì. Chúng ta là con người. Vả lại, ông ấy chưa hề có ý định xấu về anh. Dung cung cấp cho Luân nhiều tin mới, chúng củng cố thêm nhận định của Luân: “Bravo” của Nhu chính là tín hiệu cho phía đảo chánh hành động. Chuông ngoài cổng reo. Thạch mở cổng. Chiếc xe tải to sầm sơn màu vàng của hãng BGI vào sân. Mấy người khuân các két bia, nước ngọt xuống. Một nhân viên đi vào nhà, với quyển sổ thanh toán trên tay. Luân sửng sốt một giây. - Mời ông ngồi! - Luân chỉ ghế cho nhân viên của hãng BGI. Anh nói khẽ vào tai Dung: - Khi người ta xuống xong các thứ, nhận xong vỏ chai, em bảo Thạch mời tất cả ra chỗ Thạch đãi họ... Lý do? Lấy sinh nhật bé Lý... Dung hiểu. Cô liếc nhanh “nhân viên” BGI - và cô đoán: Anh Sáu Đăng. “Nhân viên” BGI mỉm cười với cô. ...Mỹ dứt khoát loại Diệm bằng hình thức đảo chính. Đó là điều Mỹ cố tránh song không tránh khỏi. Diệm tuy là tay sai của Mỹ nhưng lại không ngoan ngoãn. Y có mặt “tương đối độc lập” của y. Từ khi lên cầm quyền, Diệm bắt tay xây dựng một triều đại kiểu hoàng đế mà không xưng hoàng đế: “Tổng thống suốt đời”. Y dựa vào thế lực Thiên Chúa giáo phản động cực đoan di cư và dân di cư nói chung, dựa vào các phần tử tư sản thuộc gia đình và vây cánh y thay chân số thân Pháp và dựa vào quân đội, cảnh sát. Nhưng, giữa Mỹ và y có một khoảng cách và khoảng cách đó lớn dần. Y muốn thâu tóm mọi quyền hành, Mỹ muốn chia xẻ quyền hành cho nhiều nhóm để kìm chế lẫn nhau. Từ khi nhân dân miền Nam đồng khởi và Mặt trận Dân tộc Giải phóng ra đời, Mỹ - Diệm mất quyền kiểm soát ở nông thôn. Mỹ rút ra kết luận là vì Diệm thực hiện sai lệch chính sách của Mỹ nên Cộng sản mới giành được thắng lợi. Mỹ buộc phải đưa thêm cố vấn vào miền Nam và đến mức phải thành lập cả một Bộ chỉ huy, thực chất là Bộ chỉ huy viễn chinh hay ít ra cũng là tiền thân của Bộ chỉ huy ấy. Với mấy lần cảnh cáo quân sự không kết quả, Mỹ dùng sức ép chính trị thông qua phong trào Phật giáo. Tiếng là phong trào Phật giáo, kỳ thực gần như mọi giới, mọi tầng lớp đều chống Diệm, dựa danh nghĩa Phật giáo. Mỹ hiểu được điều đặc biệt ấy; nếu để các nhà sư tiến bộ lãnh đạo thì phong trào sẽ phát triển về phía mở ra khả năng thương lượng với Mặt trận, nghĩa là Mỹ sẽ thất bại. Cho nên Mỹ phải tung tay sai vào lèo lái phong trào Phật giáo, và bây giờ thêm phong trào học sinh, sinh viên. Tất cả màn chính trị sục sôi là giáo đầu cho một cú quân sự mà cú quân sự sẽ chớp nhoáng để ta không kịp khai thác. Mỹ nắm được một số tướng và thỏa thuận với Pháp một số tướng vốn là người của Pháp. Yêu sách của Pháp, như De Gaulle tuyên bố ở Nam Vang, đặt Nam Việt trong quy chế trung lập, Mỹ ỡm ờ, nhưng chắc chắn cốt lợi dụng Pháp, không đời nào chịu nhả Nam Việt. Có thể có những khả năng sau đây: Nếu Diệm đổ, một ê kíp tay sai gồm cả thân Mỹ và thân Pháp điều khiển khá cuộc chiến tranh, Mỹ khỏi đưa thêm quân vào mà đẩy lùi chính sách liên minh với Pháp; nếu ê kíp mới tỏ ra kém khả năng, sẽ có thay đổi tay sai, loại những người thân Pháp, chỉ để bọn thân Mỹ độc quyền, trong trường hợp này, đẩy lùi được ta thì Mỹ vẫn giữ mức quân như hiện nay, hoặc tăng thêm chút ít nữa; nếu cả giải pháp đó không thu kết quả thí chiến cuộc sẽ thay đổi quy mô, chưa đoán trước quy mô tới đâu song chắc chắn sẽ là cuộc chiến tranh lớn và chiến tranh của Mỹ. Về Diệm, hoặc y đề kháng hoặc y đầu hàng. Y đề kháng, có lợi cho phong trào - nhân rối loạn mà quét ấp chiến lược. Y bị hạ bệ và lưu vong, mâu thuẫn chưa dàn xếp, diễn tiến sẽ còn phức tạp. Về phong trào Phật giáo, nhất định phân hóa. Số chân tu và số quần chúng yêu nước hiện nay đang say, họ căm ghét Diệm mà chưa thấy cái nguy hiểm của Mỹ, nhưng sớm muộn gì họ cũng sẽ thấy. Về phong trào sinh viên, học sinh, đang phân hóa, đã có một số nhận thức chống Diệm đồng thời phải chống Mỹ - số này còn nhỏ nhưng chắc chắn sẽ lớn nhanh. Tương quan chung chưa cho phép ta làm cái gì vang dội nếu đảo chánh xảy ra. Đó là thời cơ tập hợp lực lượng, tiến công chính trị, phá ấp chiến lược, khiến nội bộ Mỹ ngụy không ổn định. Riêng “Kỵ sĩ”, phải bám cho được vị trí hợp pháp - nghĩa là vẫn được Mỹ tin dùng. Có thể tham gia đảo chánh đến mức nào đó và tùy tình hình mà xử lý. Anh Sáu Đăng tranh thủ phổ biến mấy nhận định lớn cho Luân. Luân báo cáo tình hình những ngày qua. - Anh không được liên lạc với cô Mai và chị Cả, rất nguy hiểm. Từ nay, anh khỏi báo cáo tình hình, chúng tôi có điều kiện nắm khá đủ. Anh chỉ có việc hành động theo phương hướng đã vạch, khi cần, chúng tôi trực tiếp móc liên lạc, không sử dụng điện đài hay hộp thơ. Nghĩa là cắt đứt tất cả. Anh phải dấn thân sâu hơn và càng ít dấu viết liên hệ với cách mạng càng có lợi. Chỉ khi nào thật bức bách thì anh hoặc cô Dung đến chỗ này... - Anh Sáu Đăng chấm nước viết lên mặt bàn. - Tôi cần một số người trung kiên tiếp tay, - Luân đề xuất - Chẳng hạn các đồng chí cho tôi một lái xe, một thư ký, một nhóm bảo vệ... - Lái xe thì anh Thạch. Tin cậy được, tuy Thạch không hiểu công việc của anh và cô Dung. Thư ký có lẽ không cần, cô Dung làm tốt hơn. Nhóm bảo vệ thì để xem... - Xin chọn cho ba Đảng viên thật trung kiên, vào dân vệ hay bảo an ở ba nơi, báo cho tôi biết, tôi sẽ điều... - Để chúng tôi bàn thêm. Số người tốt anh liên hệ từ trước nên tùy lúc mà sử dụng như Nguyễn Thành Động, Trương Tấn Phụng, thậm chí Phan Cao Tòng, thiếu tướng Lâm. Riêng Lê Khánh Nghĩa thì không được. Nghĩa có việc của anh ta. Luân báo cáo cho anh Sáu biết Jones Stepp chú ý đến Nghĩa khi hỏi Thạch. Anh Sáu hơi cau mày: - Vậy là có một lỗ dò nào rồi. Tại sao tình báo Mỹ chú ý đến Nghĩa? Tất nhiên Luân không biết. - Tôi sẽ thử tìm nguyên nhân... - Không cần! - Anh Sáu dứt khoát - Chúng tôi lo chuyện đó. Vợ của Thạch tốt, nhưng hình như binh vận Mỹ Tho định qua chị ta tranh thủ Thạch. Việc này hơi rối. Nếu chúng tôi ngăn thì sẽ lộ anh - anh em Mỹ Tho cũng có người ngờ ngợ về anh, do anh em Bến Tre thông báo. A.07 phê bình dữ lắm... Jones Stepp tin anh, nhưng Williams Porter còn đang thẩm tra thêm anh. Có hai tay mà anh phải hết sức đề phòng, một tay tôi đã nói lúc gặp anh trên Đất Ung, tức John Hing. Tay kia là Mai Hữu Xuân. Chúng tôi vẫn có kế hoạch bảo vệ anh, nhưng anh không cần biết. Bây giờ, Luân mới nhìn kỹ anh Sáu. So với lúc gặp ở Đất Ung, anh Sáu có vẻ khỏe hơn. “Nó cũng là mặt báo hiệu phong trào mạnh”, Luân nghĩ - và, qua cách nói của anh Sáu, Luân hiểu ta thâm nhập nhiều ngả vào các cấp ngụy quân, ngụy quyền, tình báo của ta phát triển rộng. Nội việc anh Sáu có thể ung dung vào thành, đến nhà Luân bằng một xe của hãng BGI thì đã rõ. - Nhu nhiều lần ngỏ ý muốn thương lượng với ta. Tôi xin ý kiến anh. - Chúng tôi biết, qua nước thứ ba. Song, Nhu đánh đòn gió thôi. Bây giờ, còn gì để thương lượng, mặc dù ta biết một sự ủng hộ nào đó của ta giúp Diệm đề kháng lâu hơn... Song, để làm gì? Tôi nghĩ anh nên bắt đầu tính đến sự tồn tại của anh sau thời kỳ Diệm. Luân báo cáo về James Casey và John Hing với các trương mục ngân hàng. - Tốt thôi! - Anh Sáu bảo - Anh đừng vồ vập nhưng cũng đừng từ chối... Cũng là một thử thách nữa. - Chúng nói nhiều đến vũ khí. Sau Diệm, chiến tranh có thể... - Đó là một khả năng. Ta đang cố gắng tránh khả năng đó. Nhưng, tránh được hay không, bây giờ chưa thể nói trước. - Anh Sáu Đăng thở dài. - Chiến tranh có nghĩa là tàn phá! - Luân cũng thở dài - Tôi đã nghiên cứu ở học viện Fort Brag, đọc nhiều tài liệu về chiến tranh hiện đại. Trong chương trình, học viện giảng cho chúng tôi sử dụng cả bom nguyên tử chiến thuật... Tôi nghĩ không chỉ như là Triều Tiên. Hơn Triều Tiên! - Vì vậy, trách nhiệm của anh càng nặng... - Tôi có một thắc mắc: bọn CIA biết rằng tôi không có lực lượng để làm đảo chính, tại sao chúng chi tiền cho tôi. James Casey nói rõ như vậy... - Luân hỏi. - Đó là cái cớ thôi. Ý định của chúng là tách anh ra khỏi Nhu với hai mục đích: Anh chống lại kế hoạch đảo chính thì kế hoạch sẽ khó thực hiện; khó sửa soạn vai mới cho anh. - Anh Sáu Đăng giải thích. - Anh có thể cho tôi biết tin các bạn chiến đấu cũ? - Luân chuyển sang chuyện tình cảm. - Lưu Khánh đã về Nam, đang chỉ huy một đơn vị. Vũ Thượng xuất ngũ rồi, tôi không rõ làm gì... Anh Tư đang làm đại sứ ở Liên Xô. - Sức khỏe của anh Hai. - Anh Hai ra Bắc năm 1957, sau nhiều lần suýt bị bắt. Chắc anh biết tin của anh Hai sau đại hội Đảng lần thứ III. Anh Hai khỏe. A.07 cũng khỏe. - Còn về Francisci, - Anh Sáu như chợt nhớ - Cũng có thể có cái gì hay hay, A.07 được bạn Pathet Lào báo về một vụ đụng độ giữa họ với nhóm phỉ U Ba Thiên và được cánh Francisci hỗ trợ. Bạn hơi lạ vì Francisci không bao giờ hành động kiểu đó. Khi được thư anh, tôi mới vỡ lẽ. Francisci là một tay giang hồ, do giang hồ, gã phục những lối hảo hớn như anh. Anh Sáu Đăng hơi mỉm cười. Luân thấy má nong nóng. - Cũng có lúc, phải tỏ ra hảo hớn. Anh khá lắm. - Sa thế nào rồi? Anh Sáu không trả lời, chỉ cười. - Còn Lục? - Đừng hỏi... Không có cái gì xấu xảy ra với họ, anh biết vậy là đủ... Quyến, tôi đoán thế nào anh cũng hỏi - đang học, ở xa. - Saroyan rất tốt với anh. Song, anh nên chú ý Jones Stepp... - Anh Sáu trở lại công việc. - Tôi hiểu. Jones Stepp cũng hiểu lằn mức trong quan hệ giữa chúng tôi. - Fanfani viết nhiều bài hay... Cả anh chồng, cung cấp các ảnh rất giá trị. A.07 cho rằng anh đã ảnh hưởng đến quan điểm của Fanfani. - Không hẳn... Cô ta rất độc lập trong nhận định và rất cứng về nghề nghiệp. - Tình hình ra và Bắc Kinh mỗi ngày mỗi xấu thêm. Đường lối chủ nghĩa của Bắc Kinh dẫn họ vào vũng lầy phản bội. Cho nên, Lâm Sử là một mũi mà anh không thể coi thường. - Các anh mình đánh giá về tướng Minh thế nào? - Không khác đánh giá của anh: có tinh thần quốc gia chừng mực nào, tự trọng nhưng kém kinh nghiệm chính trị. Trong các hoạt động trước mắt, Minh là bình phong, người tổ chức là Andre, nhưng người thật lợi hại là Đỗ Mậu. Tiện thể , Luân báo cáo với anh Sáu về vợ Huỳnh Hữu Hiền mà Luân nghĩ là trò chơi của Nhu. - Chưa chắc! Chưa biết ai xỏ mũi ai... Andre không quá kém về kinh nghiệm dâu... Chuyện chung coi như xong. - Ta cụng một ly! - Anh Sáu đột nhiên đề nghị và anh cùng Luân uống cạn cốc bia. - Tôi được A.07 cho phép thông báo với anh: Do thành tích của anh, của đồng chí Dung, Nhà nước quyết định thăng anh vượt cấp từ trung tá lên đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam và đồng chí Dung là đại úy Công an Nhân dân kể từ ngày 1-1-1963. Anh được tặng Huân chương Quân công hạng nhất, đồng chí Dung, hạng ba.... Luân vừa nghe xong, không tự chủ được nữa, bật khóc... Đoàn thể, Tổ quốc chăm sóc anh và Dung chu đáo đến mức không ngờ tới. Bao nhiêu hình ảnh cũ bỗng vụt hiện trong đầu anh. Kể từ khi anh hiểu cách mạng - trên chuyến xe lửa vào Nam, bạn học của anh, Quý, soi vài tia sáng - đến nay gần 20 năm, trong 20 năm đó, số phận chia đều: một nửa trong tư thế một cán bộ công khai đảm đương các chức vụ khác nhau, sống tập thể có anh có em, sinh hoạt Đảng đều đặn, hòa lẫn với đồng bào; một nửa ngược hẳn - anh phải mang bộ quần áo ngụy, phải nghe, phải nhìn, phải nói, phải làm những điều đôi khi tự chúng sỉ vả anh, chen giữa đám nhơ nhuốc, vượt những thử thách kỳ quặc, luôn giữ vai kịch đến khốn khổ. Từng giây, từng phút anh đặt mình trước bao nhiêu ống kính, bao nhiêu ngọn đèn pha soi anh từ đủ phía. Từng phút, từng giây anh phải đối phó với tráo trở, lừa gạt, lật lọng, gian trá, nham hiểm, láo khoét. Anh từng phát sợ - không phải sợ kẻ thù mà sợ anh: chừng ấy chất độc liệu có len lỏi phần nào vào cơ thể anh không và nếu cuối cùng rồi, anh tìm thấy trong mùi tanh tưởi một chút nước hoa thoang thoảng, thì sao? Không! Không phải những cuộc đọ trí, đọ súng nao núng anh. Sự cám dỗ: Quyền lực, tiền, gái... Anh tự nghĩ, nếu cạnh anh không có Dung. Công lao mà Đảng đánh giá, thật sự thuộc về người anh yêu, vai trò Dung dường khiêm tốn song quyết định, anh hiểu hơn ai hết. Và, xét cho cùng, anh chưa làm được bao nhiêu so với lòng tin cậy của các anh... Qua nước mắt, Luân nhìn ra ngoài sân. Dung đang tiếp mấy người của BGI. Cô rót bia, dịu dàng mời khách. Ngay việc đó, phải đâu không ý nghĩa gì cả.... Anh Sáu im lặng. Anh muốn Luân vơi đi bao nhiêu dồn nén. - Tin của ông cụ và ông chú Dung? - Luân hỏi. - Ông cụ còn khoẻ, rất nhớ Dung... Song chỉ có thể động viên ông cụ thôi, ông cụ tỏ ra người có nghị lực. Còn đồng chí Thuận, chú Dung, cũng khỏe... - Anh Sáu hơi mỉm cười - chỉ mỉm cười thôi Luân cũng đoán ra người cán bộ tình báo già dặn hẳn đang thực hiện một công việc có thể quanh quẩn đâu đây... Hai người bắt tay nhau thật chặt. - Vùng giải phóng lan sát ven Sài Gòn, tôi nói để anh hiểu. Nếu thấy không thể tiếp tục đứng được. Anh ra hướng nào cũng an toàn cả. - Cám ơn anh. - Luân nói - Nhưng sẽ không có việc tôi đào ngũ đâu! Anh Sáu Đăng nghiêm mặt: - Sao lại đào ngũ? Tôi ra lệnh cho anh: nếu cảm thấy không an toàn thì lập tức ra khu ngay. Tôi tin anh chấp hành đúng kỷ luật của Đảng... - Tôi xin hứa! Hai người không dám ôm hôn nhau... Khi chiếc BGI ra khỏi cổng, Dung lững thững vào nhà. Luân bất thần ôm chầm Dung, xốc cô lên. Dung bối rối. Từ khi yêu nhau, chưa bao giờ Luân có cử chỉ sôi nổi như vậy. - Anh! Coi chừng chị Sáu thấy... Luân không nói, bế Dung vào phòng ngủ, hôn Dung tới tấp. Dung không hiểu, không thể hiểu, cái đắm say mà Luân trao cho Dung hôm nay - ngay đêm tân hôn cũng không đến thế. Dung muốn hỏi nhưng đến lượt cô, chỉ còn có thể cắn nhẹ vào vành tai Luân: Anh yêu của em... * Nhu gọi Luân vào dinh Gia Long.- Ngày mai, tôi gặp phái đoàn điều tra Liên hiệp quốc. Anh cùng gặp với tôi. Nhu đẩy cặp hồ sơ dầy cộm cho Luân. Luân chưa vội mở cặp. Chẳng có gì bí mật. Và Luân thừa biết vụ Phật giáo đối với Nhu không phải trong hồ sơ này mà ở chỗ khác - ở mẹo của Ngô Trọng Hiếu. Nói chung, nhà chiến lược, nhà tư tưởng Ngô Đình Nhu sau các biến cố dồn dập, thu hình lại chỉ còn là nhà ảo thuật, một mưu sĩ tầm thường. Về mặt này, Nhu kém xa bất kỳ một kẻ bẻm mép, ma cô nào của đất Sài Gòn. - Anh cùng đi với tôi một lúc. - Nhu mời. Luân ngỡ Nhu muốn thả bách bộ với anh. Nhưng không, Nhu đưa anh vào một phòng nhỏ. “Anh ta định cho mình xem một kế hoạch gì đây?”. Căn phòng có bậc thềm. Đèn bật sáng. Đến đây thì Luân hiểu: Nhu giới thiệu với anh nhà hầm xây dưới dinh Gia Long - Luân biết việc đó, tuy không trực tiếp dính líu. Qua bậc thềm hẹp, hai người xuống một gian hầm rộng hình chữ nhật khoảng trên 20 mét nằm theo chiều từ đường Công Lý qua đường Pasteur, phía sau dinh Gia Long. Luân ước cách mặt đất khá sâu. Nhu và Luân thường ngồi bên trên và bây giờ thì Luân hiểu: thảm cỏ xanh mượt chính là nóc hầm. Hầm chỉ có hai cửa, cửa sắt dày. Một cửa thông với bốn lối xuống hầm: từ phòng ngủ của Tổng thống, từ phòng ngủ của Nhu, từ tầng dưới dinh và từ văn phòng của Tổng thống. Một cửa đi lên mặt đất, dùng cho lính bảo vệ, với lỗ thông hơi và một công sự bố trí đại liên. Hầm chia nhiều phòng nhỏ: Tổng thống có phòng khách, phòng ngủ và phòng tắm. Nhu cũng có ba phòng. Một hành lang nối các phòng. Hầm vừa xây xong, mùi vôi nồng nặc. Chưa trang trí nội thất, ngay quạt và máy điều hòa không khí. Luân cảm giác đây là một chiến hạm, một thứ hầm trú ẩn. Hình như hầm của tướng De Castries ở Điện Biên Phủ kiên cố hơn... Nhu đưa Luân vào một phòng. Phòng đặt đầy máy thu phát vô tuyến điện và điện thoại. Bốn nhân viên - tất cả đều là liên quân của Liên binh phòng vệ, đứng lên chào. - Cho tôi liên lạc với tướng Huỳnh Văn Cao! - Nhu bảo. Máy phát siêu tần số nhấp nháy đèn. - Nhu đây! - Chào ông cố vấn! Cao đây... Xin nghe chỉ thị. - Không có chỉ thị gì. Tôi cùng đại tá Nguyễn Thành Luân kiểm tra hệ thống thông tin thôi. Tốt lắm, nghe rõ lắm... Chào thiếu tướng. - Chúc sức khỏe ông cố vấn và đại tá... Mặt Nhu thoáng nét thỏa mãn. - Cho tôi đại tá Bùi Đình Đạm! Câu chuyện lặp lại. Nhu gọi Nguyễn Khánh tận Pleiku, gọi Nguyễn Văn Thiệu ở Củ Chi, gọi Tôn Thất Đính, Huỳnh Hữu Hiền, gọi cả Nguyễn Cao Kỳ, gọi Lê Quang Tung và Hồ Tấn Quyền... Đâu cũng răm rắp. Hai đường dây chạy thẳng đài phát thanh quốc gia và quân đội. Riêng tại đây, một đài phát thanh “bỏ túi” với công suất 2.000 Watt. - Hầm này chịu được bom tấn! - Nhu bảo Luân khi họ theo bậc thang trở lên. - Anh có đặt đường dây thẳng với sứ quán Mỹ không? - Luân chợt hỏi... - Chưa... mà cần không? - Cần... Tôi nghĩ là cần... - Nội sáng nay, sẽ có đường dây đó... Hai người thả bách bộ quanh dinh. Khoảng trời bên ngoái quá cao rộng, Luân so sánh với căn hầm. Thế là chế độ Ngô Đình Diệm bằng lòng một căn hầm vào chục thước vuông, trong khi họ từng làm chủ cả 170.000 cây số vuông và tham vọng làm chủ 340.000 cây số vuông của cả nước Việt Nam. Anh bỗng nhớ Phạm Công Tắc - giáo chủ đòi những 40 cây số vuông kia... Hai người gặp Diệm, cũng đang thả bách bộ. - Chú Nhu đưa Luân xem căn hầm chưa? Đẹp, chắc, tiện hỉ? Họ định dùng căn hầm làm gì? Luân lại bỗng nhớ Hitler, vào những ngày cuối cùng... Và, cách đây vài tháng, Luân đọc một tin trên báo: một thợ may đường Lê Thánh Tông bị đâm chết giữa đêm. Dung nói riêng với anh: người thợ may tình cờ thấy người ta chở đất lên các xe tải, anh ta không thể sống... Có lẽ là tin thêu dệt. Theo quan sát của Luân, hầm không có lối thông ra ngoài. Một hầm cố thủ hơn là hầm tẩu thoát... --- (1) Bán chạy, ăn khách (2) Chúng tôi bị tước đoạt tất cả
__________________
![]() |
#7
|
||||
|
||||
![]() Ván Bài Lật Ngửa Phần 8 - Chương 8 Mỹ đào hố dưới chân ông Diệm (Business Week): Chúng ta - nước Mỹ - sẽ phải hậu thuẫn cho một cuộc đảo chính quân sự ở Sài Gòn để chấm dứt chế độ thối nát mà sự kéo dài của nó đồng nghĩa với sự tiêu tốn đôla lẫn uy tín của nước Mỹ một cách ngu xuẩn. Hãy đào hố dưới chân viên Tổng thống hoàn toàn mất cảm giác về tất cả những gì xảy ra quanh ông ta... Nếu có một người hùng (Washington Post): Rốt cuộc, nước Mỹ vẫn phải trở lại ngón sở trường của mình là dùng một hoặc một số tướng nào đó trong quân đội Nam Việt để hạ bệ ông Diệm. Hẳn ông Dean Rusk sẵn sàng hỗ trợ, ít nahats, về tinh thần cho một cú đấm như vậy. Công việc của "người hùng" Nam Việt sẽ đơn giản vô cùng so với một số "người hùng" mà Mỹ xây dựng ở Nam Mỹ bởi dân chúng đang căm ghét đến độ có thể xẻ thịt ông Diệm đồng thời một số nhà sư khét tiếng chống Cộng cùng một số bộ hạ của họ trong các trường đại học nắm chặt xu hướng này, không để có kẽ hở cho Cộng Sản lợi dụng. Uy tín Hoa Kỳ sẽ lên cao (Newsweek) Hạ bệ ông Diệm lúc này là nâng cao uy tín của Tổng thống Kennedy và Hoa Kỳ - những người cứu rỗi Nam Việt thoát ách cai trị gớm ghiếc của một chế độ trở thành thù địch của nhân dân, nhưng liệu rằng hạ bệ ông Diệm, công cuộc chống Cộng đạt hiệu quả cao hơn không? Còn có ý kiến phân vân và có lẽ người phân vân hơn cả là Tổng thống Kennedy. Báo cáo mật: Người nhận: Cố vấn Ngô Đình Nhu. Tổng thống Kennedy vừa họp với ngoại trưởng Dean Rusk và hai thượng nghị sĩ Church và Fulbright. Sức ép của Bộ Ngoại giao và Thượng viện mạnh đòi Kennedy lật đổ Tổng thống ta. Thái độ của đại sứ Bửu Hội rất bất lợi cho chính phủ ta. Trong số nhân vât Mỹ thù địch Việt Nam Cộng hòa, đáng kể hơn hết là Roger Hilsman, Averell Harriman, Paul M. Kattenburg. Người sau chót nay là giám đốc Việt Nam vụ tại Bộ ngoại giao, trước đây là sĩ quan tình báo OSS, đã từng dính líu vào bọn phiến loạn chống ta năm 1955. Ký: Hà Như Chi. Đài tiếng nói Hoa Kỳ (Buổi tiếng Việt): Nhờ bạn mua dùm một chai Whisky tại P.X. Điện mật. Nơi nhận: các tỉnh trưởng. Đài tiếng nói Hoa Kỳ vừa phổ biến ám hiệu cho bọn phản loạn hành động phá rối an ninh quốc gia. Lệnh các tỉnh trưởng: a) Theo dõi chặt chẽ tình hình các thế lực từ trước có dấu hiệu bất mãn, đặc biệt các nhà sư. b) Theo dõi động tĩnh các đơn vị quân đội, kể cả quân vùng chiến thuật và tổng trừ bị trú đóng tai địa phương, nhất là sự đi lại của các tướng, trong đó, hễ tướng Nguyễn Hữu Có đến đâu thì phải giám sát và báo cáo ngay. c) Huy động các hiệp hội, thân hào gửi điện công khai ủng hộ Tổng thống, kết án chính phủ Hoa Kỳ xúi giục đảo chính và cảnh cáo các thế lực tay sai ngoại bang. d) Theo dõi các hoạt động của Việt Cộng về quân sự, chính trị. Điện này chỉ tỉnh trưởng nhận và thi hành. Ký: Ngô Đình Nhu. Những triệu chứng (Helen Fanfani - Financial Affairs). Tôi học bậc tiểu học ở Sài Gòn. Bài giảng nhập môn về triệu chứng các bệnh, tôi nhớ đoạn tóm tắt bênh thương hàn như sau: đau đầu, nhức mỏi, rối loạn đường tiêu hóa... Chế độ Sài Gòn đang có các triệu chứng của một bệnh có lẽ nguy hiểm hơn thương hàn. Điều đặc biệt là con bệnh cố gắng để cho tất cả loại vi trùng thêm sức mạnh phá hủy cơ thể đồng thời thày thuốc thi nhau cho các loại và liều lượng thuốc trái ngược nhau, hình như không vì con bênh, hoắc có vì con bênh, nhưng không nhằm cứu chữa. Ngày 26 tháng 10, tôi có mặt trong buổi Tổng thống Ngô Đình Diệm tiếp các đoàn thể dân chúng Việt Nam. Tôi đã dự nhiều lần tiếp khách nhân lễ Quốc khánh này. Không khí năm nay buồn tẻ và ông Diệm không còn thói quen thịnh nộ khi một cái gì trái ý ông xảy ra. Một bộ trưởng cài nút áo cẩu thả, nếu trước kia, sẽ là cái cớ để ông lên lớp: ông thậm chí không chú ý đến lễ phục của chính ông. Trước giờ tiếp khách độ 5 phút, tôi gặp ông lững thững ngoài vườn, trong bộ quần áo màu xám nhạt, tay chống gậy, đội mũ len, giống như ông đi thăm dinh điền, săm soi mấy hòn non bộ nhỏ vừa đắp xong. Một loạt tướng lĩnh chào ông. Ông hững hờ bắt tay họ và hoàn toàn lơ đễnh khi tướng Tôn Thất Đính đi giật lùi ra cửa - cử chỉ mà ông rất ưa thích trước kia. Sau khi nghe các lời chúc tụng - rõ ràng, ông không nghe - ông nói, giọng cực kỳ ai oán: - Chế độ này tuy còn nhiều khuyết điểm song còn hơn nhiều chế độ khác. Người ta chê nó là độc tài, nhưng tôi ngại sẽ còn những thứ độc tài khủng khiếp hơn. Với các vị đại biểu cho hội đoàn, tôi nói rõ: Tôi tiến thì theo tôi, tôi lùi thì bắn tôi, tôi chết thì trả thù cho tôi... Tổng thống Diệm nói bấy nhiêu - một vài bà sụt sịt khóc. Ông nhắc câu nói của một người Âu xưa, nhưng hình như ông nhập thân vào nó. Buổi tiếp khách quốc nội diễn ra độ nửa giờ. Tôi xuống thềm khi gặp ông Nhu. Ông chào tôi. Tôi kinh ngạc: ông gầy xọp, nét mặt chảy xệ và đen xạm, trông già hẳn. Bỗng nhiên, tất cả gợi cho tôi nhớ bức ảnh to đăng trong số Paris Match tháng 7 năm 1958: Vua Faycal của xứ Irak bị lực lượng đảo chính giết trong cảnh vàng son... Nhà ngoại giao yêu cầu giấu tên bảo tôi: một số tướng lĩnh Nam Việt muốn lật đổ ông Diệm nhưng Bộ ngoại giao Hoa Kỳ trả lời lững lờ: "Hoa Kỳ không xúi giục đảo chính, sẽ không ngăn cản sự thay đổi chính phủ, và sẽ không từ chối viện trợ kinh tế và quân sự cho chế độ mới nếu nó tỏ ra có khả năng tăng cường hiệu quả nỗ lực quân sự, đảm bảo được dân chúng hậu thuẫn để chiến thắng Cộng Sản" Thật ra, câu trả lời chẳng phải lững lờ chút nào. Nó cho thấy Mỹ nghiêng hẳn về giải pháp thanh toán chế độ ông Diệm sau gần mười năm do dự mãi. Tổng thống Mỹ dè dặt- ông ngại hậu quả việc thay Diệm không sáng sủa. Chính Tổng thống Mỹ đích thân yêu cầu tờ NewYork Time gọi Haberstam phóng viên thường trú ở Sài Gòn về Mỹ vì ông này nói nhiều đến sự dính líu của Mỹ ở Việt Nam - điều Kennedy rất muốn tránh từ sau vụ "Vịnh Con Heo" ở Cuba thất bại. Tuy nhiên, chắc chắn Tổng thống Mỹ đang bị thuyết phúc. Ông Diệm hiểu hơn ai hết điều đó. Và, tự ông, đã là một triệu chứng của biến cố mà mọi người, có thể đếm được theo vòng quay của kim đồng hồ... Điện mật: Gửi ngoại trưởng Dean Rush. Mọi cái xấu có thể xảy ra, nhưng sẽ không thể xấu hơn tình hình mà chúng ta đang chứng kiến. Ký: Cabot Lodge. * * * Luân đang ăn sáng. Anh sắp cùng Nhu tiếp phái đoàn điều tra Liên hiệp quốc thì hai người khác không hẹn cùng đến: thiếu tướng Lâm và trung tá Nguyễn Thành Động.- Các anh ăn sáng chưa? - Luân hỏi. Và anh biết liền, họ chưa ăn. Dung và chị Sáu, mấy phút sau, đã bày phần ăn gồm trứng, thịt nguội cho hai người. Động ăn ngấu nghiến. Anh rời Bến Tre từ bốn giớ sáng. - Đài Hoa Kỳ "bật đèn xanh" rồi! - Động nói, khi ba người uống cà phê ở phòng khách. - Anh có cách gì bàn với Nhu giao tôi chỉ huy Liên binh phòng vệ không? - Thiếu tướng Lâm đặt thẳng vấn đề. Luân lắc đầu: - Làm sao việc đó xảy ra được! Nhu tin Lê Quang Tung và rất nghi anh. - Thật là chó đẻ! Lúc này mà chỉ có hai tay không... - Lâm bực dọc. - Tôi khống chế Bến Tre không khó. Song, chỉ là một tỉnh.. Tôi không thích vấy máu ăn phần mà muốn làm cái gì vang dội hơi. Thằng Phụng cũng chỉ được mấy tiểu đoàn ở Kiến Tường. Tôi gợi ý thằng Lê Khánh Nghĩa, nó chết nhát, bảo: đợi cái đã... - Động sôi sục. - Đại tá biết thằng thiếu úy tên Tường không? - Lâm hỏi. - Biết... - Thằng đó là cái chó gì mà nó xộc vô nhà tôi, bảo tôi hợp tác và hợp tác để khử Ngô Đình Nhu... Tôi mà thèm khử Ngô Đình Nhu... Tôi muốn tóm cổ nó giao cho An ninh, song nghĩ chẳng dại giúp thêm cho bọn bồi bếp... - Thiếu tướng quan hệ với Tôn Thất Đính ra sao? - Luân hỏi. - Không quan hệ - Lâm lắc đầu quầy quậy... - Không chơi với bọn điếm... Luân nhìn hai người một lúc. - Theo tôi, điều cần đối với mọi người có ý muốn tốt vào lúc này là nên nghĩ xem nếu một sự kiện lớn xảy ra xong rồi, có thể làm gì và làm với cái gì... Lúc bấy giờ, chính những người có ý muốn tốt mới thật sự làm chủ công việc. Hiện nay, không phải lúc. Động không đồng ý ra mặt: "Bây giờ chầu rìa sẽ chầu rìa suốt đời!" Thiếu tướng Lâm, trái lại, gật đầu: "Tôi phục đại tá! Đúng, tình thế rối như canh hẹ.. Đôi khi, vài đơn vị cũng có thể nổi đình nổi đám. Hạ Diệm hết còn là chuyện bí mật - ngoài quán hủ tiếp, nguòi ta cũng bàn. Nhưng, sau Diệm? Đúng..." Thái độ của thiếu tướng Lâm giúp Nguyễn Thành Động bớt bộp chộp - "Có lẽ phải như vậy... Tôi sẽ gặp Trương Tấn Phụng, Lê Khánh Nghĩa..." - Gặp Phụng thì được, còn Nghĩa có lẽ không nên. Như trung tá nói, Nghĩa nhát... nguy hiểm.. - Luân lựa lời. - Nó nhát, nhưng tụi này bạn thân với nhau. Hai người khách vừa ra khỏi nhà thì điện thoại reo. Thiếu úy Tường gọi Luân. - Xin nhắc "phương án Y".. - Giọng Tường trịnh thượng. - Mọi phương án đều do tôi định - Luân xẵng giọng. Các thứ mà anh và thầy của anh rêu rao chỉ là bọt xà phòng... Anh cần "Phương án Y" lắm phải không, hành động duy nhất chứng tỏ các anh có mặt. Nếu anh có thể thực hiện được thì anh tự làm lấy... - Tôi nhắc C.7... - Tường lắp bắp. - Không có C.7! Tôi khôgn thích lối cắn lén hèn nhát. - Ông sẽ ân hận! - Anh có muốn ân hận ngay bây giờ không? - Luân gác máy. * * * Bản tường trình những hoạt động của phái đoàn điều tra Liên hợp quốc, theo thứ tự thời gian (trích)- Do văn thư ngày 4-9-1963, đệ lên ông Tổng thư ký Liên hiệp quốc những đại diện thường trực của 14 nước: A Phú Hãn, Angieri, Cambot, Tích Lan, Ghine, Ấn độ, Indonesia, Mông Cổ, Nigieria Hồi Quốc, Ruanda (Rwanda), Xiẻa Léon (Sierraleone), Xômali, Trinite (Trinite) và Tôbago (Tobago), về sau có thêm hai nước Mali và Nêpan (Népal) đã xin ghi vào chương trình nghị sự khóa 18 cua Đại hội đồng Liên hiệp quốc một vấn đề mới mệnh danh là "sự vi phạm nhân quyền tại miền Nam Việt Nam". Văn thư này được phát cho tất cả hội viên của Liên hiệp quốc, ngày 9-9-1963. Ngày 13-9-63 một bản giải thích sự việc trên cũng được trao cho tất cả hội viên của tổ chức này. - Trong phiên họp thứ 1232 ngày 7-10-1963, Đại hội đồng đã xét đến điểm 77 của nghị trình. Sau khi đại diện nước Tích Lan trình bày khái quát vấn đề, ông Chủ tịch Đại hội đồng tuyên bố có nhận được hai văn thư của ông trưởng phái đoàn đặc ủy của Việt Nam Cộng hòa tại Liên hiệp quốc và đọc hai văn thứ ấy? Một trong hai văn thư, đề ngày 4-10-63, có lời mới như sau: " Tôi được lệnh của chính phủ tôi trao một bức thư mời, qua sự trung gian của ngài và của ông Tổng thư ký Liên hiệp quốc; một số đại diện các nước hội viên đến viếng Việt Nam trong một ngày gần đây để nhận xét tường tận thực trạng sự giao thiệp giữa chính phủ và tập đoàn Phật giáo Việt Nam. Chính phủ Việt Nam Cộng hòa trân trọng cảm tạ ngài nếu được ngài vui lòng giúp đỡ cho sự thành lập phái đoàn quan sát ấy". Sau đó, đại diện Côxta Rica (Costa Rica) đề nghị Đại hội đồng nên nhận lời mời nói trên đến tại chỗ quan sát một cách đứng đắn và tỉ mỉ tất cả các dữ kiện sẵn có: ông chủ tịch yêu cầu Đại hội đồng chấp nhận lời đề nghị ấy, với những lời lẽ như sau: "Tôi yêu cầu Đại hội đồng cho biết có ai phản đối gì về ý kiến của Costa Rica đề nghị, trước khi thảo luận nên chấp nhận lời mời của chính phủ Cộng hòa Việt Nam cử một phái đoàn gồm một số đại diện của các nước hội viên đến Việt Nam để điều tra sự việc và phúc trình cho đại hội đồng để đại hội đồng bằng vào phúc trình ấy mà xét xử." Sau lời tuyên bố của ông Chủ tịch, đại diện Liên Xô đề nghị Đại hội đồng nên yêu cầu hai đồng chủ tịch của Hội nghị Geneve năm 1954 nhờ Ủy hội quốc tế kiểm soát đình chiến, mở một cuộc điều tra và phúc trình cho hai đồng chủ tịch, để hai vị này phúc trình lại cho Đại hội đồng trước khi khóa họp thứ 18 của Liên hiệp quốc bế mạc. Đại biểu Anh quốc đưa ra những nghi ngờ về quyền năng của hai đồng chủ tịch, cũng như của Ủy hội quốc tế kiểm soát đình chiến về vấn đề này. Sau hai phát biểu ý kiến trên, đại diện xứ Costa Rica tuyên bố sẽ đệ trình một dự án giải quyết vấn đề này, và yêu cầu ngưng phiên họp. Đề nghị này được 80 phiếu tán thành, không một phiếu nào phản đôi, 5 phiếu trắng. - Trong phiên họp khoáng đại thứ 1239 của Đại hội đồng, ngày 11-10-63, ông chủ tịch đã tuyên bố như sau: "Trong phiên họp khoáng đại thứ 1234, tôi đã được đại hội cho phép chấp nhận bức thư đề ngày 4-10-63 trong ấy ông trưởng phái đoàn đặc ủy của Việt Nam Cộng hòa nhân danh chính phủ ông, mời quý vị đại diện một số nước hội viên sang Việt Nam trong một ngày gần đây. Vì thế, tôi đã cử một phái đoàn gồm quý vị đại diện các nước hội viên: A Phú Hãn, B Tây (Braxin), Tích Lan, Cost Rica, Đahomay (Dahomey), Marốc và Nê pan Ông Prazwak, đại sứ A Phú Hãn là trưởng phái đoàn. Nhiệm vụ của phái đoàn, như đã định rõ trong văn thư ngày 4-10- 63, là đến Việt Nam Cộng hòa để nhận xét tại chỗ tình hình của sự liên lạc giữa chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và Phật giáo đồ của nước ấy. Phái đoàn phải lên đường càng sớm cáng hay để bản phúc trình được đệ lên đại hội đồng trong khóa này". - Sau khi phái đoàn điều tra của Liên Hợp Quốc tại Miền Nam Việt Nam được ông Chủ tịch đại hội đồng thành lập như trên, ông Tổng thư ký Liên hợp quốc đã bổ xung vào phái đoàn những nhân viên của văn phòng sau đây: Chánh thư ký: ông John P.Humphey. Nhân viên báo chí: ông Valieri J.G Stavridi. Phụ tá chánh thư ký: ông Ilban Lutem. Phụ tá chánh thư ký: ông Alain L.Dangeard (nhân viên hành chính và tài chính). Văn phòng Ủy hội kinh tế tại châu Á và Viễn Đông ở Vọng Các có cung cấp cho phái đoàn một phụ tá, thông dịch viên Việt ngữ, ông The Pha Thay Vilaihongs và một thông dịch viên Anh ngữ và Pháp ngữ, cô G.Bazinet. Khi đến Sài Gòn, ngày 24-10-63, lúc 0 giờ 30, phái đoàn đã được ông Phạm Đăng Lâm, Tổng thư ký Bộ ngoại giao và các nhân viên khác trong Bộ tiếp đón. Trước sự hiện diện của phóng viên báo chí trong nước và ngoài nước, ông trưởng phái đoán đã lặp lại đại khái nội dung lời tuyên bố mà ông đã nói trước khi khởi hành. Ông nhắc lại sứ mệnh và dự định của phái đoàn là điều tra tại chỗ, nghe nhân chứng, và thu thập những lời khiếu nại. Sau khi lặp lại lời kêu gọi với các thành phần liên hệ đừng biểu tình, và nói thêm: "Chúng tôi đến đây với ý chí muốn biết rõ sự thật và tường trình các sự việc". - Các nhân viên của phái đoàn đến khách sạn Majestic lúc hai giờ sáng. Ông trưởng phái đoàn liền triệu tập ngay một phiên họp của phái đoàn để nghiên cứu dự án chương trình mà chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã đề nghị. Theo dự án này thì phái đoàn ở Sài Gòn ba ngày đầu, rồi đi Vũng Tàu để thăm viếng một ngôi chùa, lên Đà Lạt thăm viếng nhiều ngôi chùa khác, các trường học và các thắng cảnh. Trong chương trình cũng có dự trù thăm viếng chùa chiền và thắng cảnh ở Huế, Phan Rang, Phan Thiết, Ba Xuyên và Vĩnh Bình; ngày cuối cùng sẽ dành cho sự thăm viếng một ấp chiến lược. Vì thời giờ đã quá khuya, ông trưởng phái đoàn đề nghị nên xem xét chương trình dự trù cho ngày đầu là ngày 24-18-63 mà thôi. Phái đoàn chấp nhận chương trình của ngày đầu là: viếng thăm xã giao ông Bộ trưởng Ngoại giao và ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ, yết kiến ông Tổng thống Việt Nam Cộng hòa và dự buổi tiệc do ông Bộ trưởng Bộ nội vụ khoản đãi. - Về các phần sau trong chương trình, phái đoàn ngỏ ý cần có thì giờ xem xét sau. Phái đoàn cũng quyết định tin cho chính phủ biết phái đoàn không nhận đề nghị của chính phủ là đài thọ tất cả chi phí tại chỗ của phái đoàn. Nhưng vị đại diện của chính phủ bảo rằng, vì lý do an ninh, chính phủ phải đảm nhiệm sự di chuyển của phái đoàn ở trong xứ; phái đoàn đã chấp nhân đề nghị ấy. Nhận thấy khi vừa đến nơi, những chiếc xe hơi chở nhân viên phái đoàn đều cắm quốc kỳ mỗi nước của nhân viên phái đoàn và quốc kỳ Việt Nam, ông trưởng phái đoàn yêu cầu tất cả các xe hơi đều chỉ cắm cờ Liên Hợp quốc, bởi vì mỗi nhân viên của phái đoàn không đại diện cho nước họ mà cho Liên hợp quốc. Chính phủ Việt Nam đồng ý là công xa của ông trưởng phái đoàn thì cắm cờ Liên hợp quốc và cờ Việt Nam, còn các xe khác thì không cắm cờ gì hết. - Trong phiên họp sau, ngày 24-10, phái đoàn nghiên cứu chương trình của chính phủ cho những ngày 25 và 26 tháng 10. Dự án của chương trình ngày thứ hai dự trù một cuộc yết kiến ông Tổng thống, một cuộc hội kiến với ông Ngô Đình Nhu, cố vấn chính trị của Tổng thống và sự viếng thăm ba chùa ở Sài Gòn để họi đàm với những hội viên của các hội Phật giáp. Phái đoàn quyết định chấp thuận chương trình ngày 25-10, nhưng ngỏ ý muốn chính phủ dời vào ngày cuối của phái đoàn tại Việt Nam, buổi tiếp tân mà Bộ trưởng Bộ ngoại giao định tổ chức vào rối ngày 25-10. Phái đoàn cũng được chính phủ mời đến dự chính thức cuộc duyệt binh trong ngày Quốc khánh 26 tháng 10. Phái đoàn quyết định nhận lời mời, vì nghĩ rằng, khi Đại hội đồng Liên hợp quốc chấp nhận thư mời của chính phủ Việt Nam Cộng hòa, cũng đã tiên đoán các trường hợp như thế rồi. Nhưng trước khi nhận lời, phái đoàn đã được chính phủ cam đoan là sẽ không đề cập một điều gì về phái đoàn trong các bài diễn văn đọc hôm ấy. - Phái đoàn cũng quyết định báo tin cho chính phủ Việt Nam biết phái đoàn mong muốn hạn chế đến mức tối thiểu các lễ lạt, tiệc tùng và các cuộc du ngoạn. Mặt khác, phái đoàn sẽ ngỏ ý cho các nhân viên chính phủ mà phái đoàn sẽ tiếp xúc trong hai ngày đầu biết rằng phái đoàn muốn tự sắp đặt lấy cuộc điều tra và chương trình hoạt động của mình. - Trong buổi hội kiến đầu tiên với phái đoàn, ngày 24-10, ông Bộ trưởng Bộ ngoại giao, trong khi nhắc lại lời mời của chính phủ Việt Nam, có đoạn nhắc với phái đoàn rằng phái đoàn sẽ được hoàn toàn tự do di động và ông hứa sẽ làm những gì ông có thể làm được để giúp đỡ phái đoàn trong nhiệm vụ thu thập sự việc một cách khách quan và vô tư. Ông nói thêm: "Chúng tôi không hoàn toàn; sự hoàn toàn không có trong thế giới này, Chính phủ không hoàn toàn, các Bộ trưởng không phải là các vị thánh, nhưng chúng tôi sẽ rất hân hạnh nghe những ý kiến của các ngài và cố gắng sửa chữa những khuyết điểm của chúng tôi". Ông trưởng phái đoàn ghi nhận những lời cam kết ấy và sau khu nhắc lại nhiệm vụ của phái đoàn, có cho ông Bộ trưởng hay rằng chương trình làm việc của phái đoàn sẽ được trực tiếp giao cho ông hay gián tiếp thông qua trung gian của ông Tổng thư ký Bộ ngoại giao, người đã được cử làm đại diện của chính phủ bên cạnh phái đoàn. Trong một cuộc thăm viếng xã giao của phái đoàn cũng trong ngày ấy tại Bộ nội vụ, ông Bộ trưởng cũng nói lại những cam kết và sự hợp tác của chính phủ, tương tự nhu những lời của ông Bộ trưởng Ngoại giao. - Sau khi thi hành xong chương trình của ngày đầu, trong ấy có cuộc yết kiến Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, sáng thứ hai 25-10 trong khi hội đàm với ông Ngô Đình Nhu, cố vấn chính trị Tổng thống phủ, phái đoàn có đề cập một lần nữa về những họat động của phái đoàn. Theo lời yêu cầu của phái đoàn, ông Nhu hứa sẽ gửi tất cả những tài liệu mà chính phủ có được trong vụ Phật giáo cho phái đoàn. Ông cũng hứa để cho phái đoàn đến thăm các trại giam trong ấy có những nhà sư bị bắt trong những vụ lộn xộn mấy tháng trước, và các trại thanh niên trong ấy một số thanh niên được gửi đến để "thảo luận với chính quyền". - Chương trình ngày 25-10 gồm có cuộc đi thăm các chùa Xá Lợi, Ấn Quang và Giác Lâm. Đến phút cuối cùng, cuộc viếng thăm chùa Ấn Quang bị bãi bỏ; khi phái đoàn đòi hỏi một sự giải thích về sự thay đổi chương trình ấy, thì người ta bảo rằng các vị tăng ni ở chùa ấy, nhất là bà Diệu Huệ, cũng như ngài Hội chủ Thích Tịnh Khiết bị mệt trong buổi chiều ấy vì tuổi già. Sự đi thăm chùa Ấn Quang, dự trù vào buổi chiều, đã bị hoãn lại bởi chính phủ, như thế là chính phủ đã thay đổi chương trình mà không hỏi ý kiến của phái đoàn. Sau đó, phái đoàn được biết rằng sư bà Diệu Huệ và ngài Hội chủ Thích Tịnh Khiết, thật ra chiều hôm ấy, có đợi tiếp phái đoàn tại chùa Ấn Quang. Về sau, phái đoàn được chính quyền cam kết rằng phái đoàn có thể đến thăm chùa Ấn Quang bất luận lúc nào, nhưng tốt hơn là về buổi sáng, và hai nhân vật nói trên sẽ có ở đấy. - Căn cứ vào sự hợp tác của chính phủ mà ông Nhu, cố vấn chính trị và ông Bộ trưởng ngoại giao đã cam kết trong những cuộc hội kiến, phái đoàn đã trao cho ông Tổng thư ký Bộ ngoại giao ngày 26-10, một bản tổng lược ghi những điểm chính trong chương trình hoạt động của phái đoàn. Trong bản ấy, phái đoàn ngỏ ý muốn hủy chương trình dự trù cho những ngày từ 27 đến 29 tháng 10, mà chính phủ đã đề nghị, và phái đoàn mong muốn để dành ba ngày ấy để đi thăm các trại thanh niên, các tăng ni bị giữ trong các nhà giam và chùa Ấn Quang. Phái đoàn cũng mong được đi Huế ngày 30 tháng 10, như chính phủ đã dự trù trong chương trình, để gặp ông đại biểu chính phủ và nhân dịp ấy, triệu tập một buổi họp có tính cách thông tin để am tường tình hình của đô thị ấy, thăm chùa Từ Đàm, các chùa khác và hội đàm với một số nhân vật mà phái đoàn sẽ trao danh tánh cho chính phủ biết rõ. Phái đoàn cũng quyết định hủy bỏ tất cả những cuộc tiếp tân và thăm viếng thắng cảnh tại Huế. Những ngày cuối tuần dành để nghe nhân chứng ở Sài Gòn. Phái đoàn ngỏ ý hy vọng sẽ rời Việt Nam chậm lắm là vào ngày thứ hai 4 tháng 11. - Chương trình phác họa trong bản tổng lược ấy đã được chính phủ thỏa thuận, nhưng chính phủ đề nghị phái đoàn nên đến thăm vùng Vĩnh Bình là nơi có nhiều Phật giáp đồ gốc Khmer, vì chính phủ cũng bận tâm đến lời khiếu nạu, tại Liên hợp quốc và các nơi khác, cho rằng có sự tàn sát dân thiểu số ở vùng ấy. Phái đoàn quyết định trong hiện tại chưa xét đến đề nghị ấy. - Buổi chiều 26-10, phái đoàn đã thảo một bản công bố mời những ai muốn làm nhân chứng hãy đến gặp phái đoàn hay gởi đến chp phái đoàn một bản khiếu nại. Như đã dự định trước, bản công bố ấy sẽ gửi cho báo chí trong nước và ngoại quốc, và đồng gửi đến cho ông Bộ truỏng Ngoại giao với một bức thư đính theo báo tin cho biết là bản công bố ấy đã được phổ biến. Phái đoàn hành động như thế trong phạm vi của nhiệm vụ mình và yêu cầu sự giúp đỡ của chính quyền để bản công bố kia được phổ biến rộng rãi. - Bản công bố của phái đoàn, gửi đi ngày 26-10 đã được phổ biến bằng Anh ngữ và Pháp ngữ trong bản tin tức của Việt tấn xã. Những nhật báo Anh ngữ và Pháp ngữ trong nước đã đăng tải đúng nguyên văn trong ngày hôm sau. Theo sự thăm dò trong làng báo Việt ngữ, phái đoàn cũng nhận thấy bản công bố ấy đã được dịch đăng trong một số nhật báo Việt ngữ. Nhưng vì theo các báo ngoại quốc, thì báo chí Việt Nam không đăng tải trọn vẹn bản công bố nói trên, nên phái đoàn quyết định sẽ xem xét kỹ lưỡng các báo xuất bản tại đây. Chính phủ hứa sẽ giúp đỡ phái đoàn. Tuy thế, phái đoàn ước lượng rằng những phương tiện thông tin địa phương đến một mức độ vừa phải, trong sự phổ biến kêu gọi các nhân chứng và những người khiếu nại nói trên. - Ngày 31-10, ông trưởng phái đoàn đến gặp Bộ trưởng Ngoại giao để thảo luận về vấn đề có thể thẩm vấn nhà sự Thích Trí Quang, hiện xin tỵ nạn tại sứ quán Hoa Kỳ hay không. Ông Bộ trưởng tuyên bố "theo quốc tế công pháp, một cá nhân được hưởng sự tỵ nạn không có quyền hoạt động gì hết và cũng không được tiếp xúc với người nào, nếu không có sự ưng thuận của chính phủ xứ ấy. Ông còn nói thêm: Trong trường hợp như thế chính phủ phản đối mọi sự tiếp xúc của nhà sư Thích Trí Quang với phái đoàn hay với một người nào khác; chính phủ chỉ có thể chấp nhận một sự gặp gỡ như thế nếu nhà sư này được trao trả cho chính quyền". Ông Bộ trưởng có phát biểu ý kiến là phái đoàn đã tiếp xúc với các giáo phái Đại thừa tại Việt Nam, thì ít nhất, cũng nên đi viếng thăm một giáo phái của Tiểu thức. Cuộc viếng thăm này có thể trù liệu vào ngày thứ bảy. Ông Trưởng phái đoàn trả lời ông sẽ hỏi ý kiến của phái đoàn về vấn đề này; phần ông, ông không thấy có gì trở ngại. - Ngày 30-10, báo chí quốc tế có đăng tải một điện tín cho biết rằng một nhân viên của phái đoàn đã đến thăm ông đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn. Đây là cuộc viếng thăm có tính cách riêng tư và thân hữu, nhưng để đánh tan mọi sự hiểu lầm, phái đoàn nghĩ rằng ông trưởng phái đoàn nên đề cập đến cái điện tín ấy trong buổi hội đàm với ông Bộ Trưởng Ngoại giao. Vì thế ông trưởng phái đoàn cam đoan với ông bộ trưởng rằng buổi viếng thăm trên không liên quan gì đến phái đoàn và có tính cách hoàn toàn riêng tư. - Ngày 29-10, phái đoàn được ông Bộ trưởng nội vụ cho biết có 10 nhà sư định tự thiêu trong dịp phái đoàn sang thăm Việt Nam. Một trong những vị sư ấy đã thi hành dự định trên ngày 27-10. Chính phủ đã bắt được năm vị trước khi họ chưa kịp hành động. Phái đoàn yêu cầu được gặp năm nhà sư ấy, nhưng chỉ gặp được một người vào chiều 30-10. Cũng trong buổi chiều ngày ấy, phái đoàn đến thăm Bệnh viện Đô Thành, ở đây có những nạn nhân của những vụ xung đột từ trước đang được điều trị. Phái đoàn có nghe một nhân chứng tự nguyện đến cung khai tại khách sạn Majestic, trụ sở của phái đoàn. * * * Bản tường trình tất nhiên không thể đi sâu vào một số chi tiết chỉ liên quan đến vài thành viên của phái đoàn và bản thân giờ giấc cũng không đúng như văn bản.Nửa giờ sau khi ngày hai mươi bốn tháng mười bắt đầu, phái đoàn đáp xuống sân bay Tân Sơn Nhất. Họ được đại biểu chính phủ đón tiếp nồng nhiệt và, vào giờ đó, thành phố đang giới nghiêm, không một dân thường có mặt. Những chiếc xe hơi sang trọng đưa tất cả phái đoàn về khách sạn Majestic, cạnh bờ sông. Phòng tiện nghi cao nhất dành cho từng người. Sau bữa ăn nhẹ, có chút rượu, phái đoàn đi nghỉ. Bấy giờ đã gần ba giờ sáng, trưởng đoàn yêu cầu các thành viên mười một giờ sáng sẽ dùng bữa và họp nội bộ để mười lăm giờ chính thức gặp mặt bộ trưởng Bộ ngoại giao bàn về chương trình hoạt động của phái đoàn. Khách sạn Majestic được đặt dưới sự bảo vệ của cảnh sát dã chiến và gần như bị cô lập. Tám giờ sáng, đại sứ X. trong phái đoàn đang ngủ say thì cửa phòng hé mở. Ông tỉnh giấc, vươn người một cách thỏai mái - năm giờ ngủ liền đã giúp ông sảng khóai. Một nữ nhân viên rón rén bày khay cả phê ngay trên chiếc bàn con cạnh giường. Đại sứ X. qua ánh sáng hắt từ ngoài vào, nhìn trọn bộ ngựccuar cô nhân viên. Ông trỗi dậy, vào phòng vệ sinh. Khi ông rửa mặt, tấm kính to in càng nổi hơn cô nhân viên - cô mặc minijupe, như dềnh dàng xếp chăn gối trên giường ông. Đại sứ X. không kịp cạo râu, ông trở ra, ngồi cạnh khay cà phê. - Xin mời ngài.. - Cô gái nói tiếng Anh - Có quá sớm và phiền ngài không? - Không! Cám ơn... - Ngài dùng sữa hay đường? - Cô gái, bấy giờ chỉ cách đại sứ X. có vài tấc, cúi người mở hộp đường, dù đại sứ chưa trả lời. Nhưng cô nghe rõ từ cổ hộng đại sứ tiếng ấm ứ. Đại sứ X. giả như ngăn cô gái, ông cầm tay cô. Cô gái để yên. Nhưng, khi đại sứ kéo mạnh cô vào ông thì cô vùng ra, lùi xa mấy bước. Chiếc áo bật nút, một bên vai cô phơi trần cùng phần trên bộ ngực đồ sộ. - Xin lỗi! - Đại sứ lắp bắp... Nhưng cô gái nhoẻn cười và trở lại khay cà phê. Cô đã nhìn rõ đôi mắt đờ đẫn và cả gân trên thái dương đại sứ giật. Lần này, đại sứ đứng hẳn dậy. Cô gái lọt vào vòng tay màu nâu của ông. Một cuộc giằng co kéo dài chừng ba bốn phút, cứ mỗi lần thoát ra khỏi tay đại sứ, thân thể cô gái mất đi một chút che đậy. Và sau cùng... Không chỉ riêng ở phòng đại sứ X. Phòng đại sứ Y, Z... quang cảnh đại khái như vậy. Mười giờ ba mươi, phái đoàn ngồi vào bàn ăn. Câu chuyện rời rạc. Mười ba giờ, cuộc họp nội bộ chóng vánh. Đêm hai mươi bốn rạng hai mươi lăm màn hấp dẫn không diễn trong vài tiếng đồng hồ mà bắt đầu từ giữa đêm đến tận sáng. Theo chương trình, phái đoàn sắp gặp cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu. Sau bữa ăn, họ nghỉ vài tiếng đồng hồ. Và khi thức dậy, các đại sứ X, Y, Z đều thấy trên bàn một phong bì, các bức ảnh khổ carte postale rơi ra, ảnh màu với những ghi nhận điển hình nhất... Hội kiến với ông Ngô Đình Nhu, cố vấn chính trị Tổng thống phủ (Biên bản tốc ký của phái đoàn Liên hợp quốc). Ông cố vấn chính trị: - Vấn đề chính yếu đặt ra đúng là một vấn đề chậm tiến chung cho nhiều xứ. Vấn đề Phật giáo chỉ là một khía cạnh của vấn đề chính. Những phong trào chính trị, xã hội và tôn giáo tiến triển khá mạnh từ khi xứ sở vừa mới thu hồi độc lập. Nhưng cán bộ lại thiếu trong các phong trào ấy cũng như trong guồng máy chính phủ. Chính phủ bắt buộc phải nhờ đến chuyên viên ngoại cuộc trong mọi lĩnh vực (hành chính, giáo dục, v.v...) nhưng họ đều có chủ thuyết riêng và sự hiện diện của họ trong cơ quan mang đến điều lợi và bất lợi, đó là động lực phát sinh sự tranh chấp. Phong trào Phật giáo cũng ở trong tình trạng ấy. Phong trào Phật giáo phát triển mạnh nhưng cán bộ không đủ, do đó có nhiều sự sai lệch không tránh khỏi. Tôi nghĩ rằng đường lối chính phủ Việt Nam cũng có những lệch lạc. Vấn đề tự do không phải là vấn đề độc nhất mà dân tộc Việt Nam phải giải quyết, vấn đề chính yếu là vấn đề công bằng. Phải động viên các từng lớp dân chúng vào việc kỹ nghệ hóa. Khi nào những đặc quyền chính trị, kinh tế và xã hội chưa lọai trừ được thì chưa có thể động viên được dân chúng. Người ta không thể tách rời vấn đề quân sự và kinh tế khỏi vấn đề xã hội. Trong khối thứ ba, đâu đâu cũng thế, xứ nào cũng có vấn đề, đối với bạn cũng như thù. Nếu quý ông có những câu hỏi cần phải nêu ra, tôi sẽ sung sướng trả lời, trong phạm vi có thể. Ông trưởng phái đoàn: Ông nói rằng vấn đề Phật giáo là vấn đề chậm tiến. Ông quan niệm như thế nào? Như thế phần nào có nghĩa là Phật giáo phát triển không bằng các cộng đồng khác? Ông cố vấn chính trị: Vấn đề Phật giáo bắt nguồn trong những ngày tàn của thời kỳ thực dân và có lẽ xa hơn nữa, trước đệ nhị thế chiến không lâu. Không riêng về Phật giáo, những tổ chức chính trị và tôn giáo khác, nhất là Khổng giáo, cũng đều có những vấn đề như thế. Lúc bấy giờ có sự trỗi dậy của tất cả dân tộc châu Á, nguyên nhân vì đường lối chính trị của Nhật Bản. Đường lối của Hitler và chủ nghĩa phát xít đã gây ra sự khủng hoảng tâm lý ở châu Á và đặc biệt là ở Việt Nam. Hầu hết các đảng phái chính trị ở Việt Nam muốn cố gắng bí mật phát triển đều ít nhiều bị chủ nghĩa phát xít chi phối. Vào thời kỳ ấy cũng có sự phục hưng trên bình diện tôn giáo. Đây là một hiện tượng để xác nhận phẩm giá của Việt Nam về địa vị của mình trên trường quốc tế. Đối với Phật giáp, sự phục hưng không đóng một vai trò quan trọng lắm trong những ngày tàn của thời kỳ thực dân và sự kiện ấy có nhiều lý do: theo cổ truyền của xứ sở, tinh thần tự trị của chùa chiền đã ăn sâu trong Phật giáo Việt Nam. Mỗi ngôi chùa là một giáo đường riêng biệt. Mỗi vị trụ trì và bổn đạo làm thành một cộng đồng độc lập. Giáo lý nhà Phật và tính tình người Việt Nam đều mang màu sắc cá nhân. Vấn đề tu dưỡng chỉ là việc riêng của mỗi người. Vì thế, những cố gắng bị phân tán, không hợp nhất, tuy lúc đó đã có một phong trào để đi đến thống nhất. Sự suy tưởng nội tâm của Phật giáo và tính tình người Việt tạo nên một hiện tượng ly tán. Dù muốn hay không, phải công nhận rằng có nhiều vấn đề quan trọng cần giải quyết và người ta tự hỏi không biết Phật giáo có thể giải quyết nó như thế nào. Thật thế, sự tranh đấu cho độc lập là một sự đấu tranh vũ trang, cần đổ mái, trong khi Phật giáo chủ trương hỷ xã, bất bạo động. Như vậy làm thế nào Phật giáo có thể đại diện cho một uy quyền thần bí khả dĩ tập hợp phong trào chống thực dân? Dù muốn hay không, nước Việt Nam phải được kỹ nghệ hóa vào đệ nhị thế chiến khi xứ sở bị Nhật Bản xâm nhập, người ta cảm thấy từ trước nước Việt Nal không sản xuất gì hết, thật là một khoảng trống không trong lãnh vực kỹ nghệ. Do đó người ta phải tìm ra một uy quyền thần bí để kích động khả năng quốc gia vào công cuộc kỹ nghệ hóa. Vấn đề Phật giáo hiện nay cũng ở trong một hoàn cảnh tương tự. làm thế nào Phật giáo có thể giải quyết sự cần thiết vừa chống Cộng vừa kỹ nghệ hóa xứ sở? Có những vấn đề thế tục cần đặt ra cho những quốc gia trong khối thứ ba: phải tìm một giải pháp hữu hiệu giữa Đông và Tây. Phật giáo có thể giải quyết nhiệm vụ cấp bách và hiện hữu ấy không? Và chính trong điều kiện ấy, phong trào Phật giáo lại phục hưng. Những vấn đề ấy đã có từ năm một nghìn chín trăm ba mươi ba. Năm rôi còn ở Balê và vào thời ký đó đã có những vấn đề. Chúng tôi thành lập những câu lạc bộ tập hợp những bạn hữu khác chủng tộc để nghiên cứu những vấn đế cấp bách cho tương lai. Bắt đầu năm một nghìn chín trăm bốn mươi lắm, những tư tưởng ấy trải qua nhiều thử thách cay chua. Phong trào Độc lập liền bị đặt dưới quyền kiểm soát của Cộng Sản. Những năng lực nhiệt thành đều bị ảnh hưởng của Cộng Sản. Người ta không thể áp dụng nguyên tắc thống nhất cho nhiều xu hướng dân chủ phức tạp. Người ta không thể hợp nhất các lực lượng chống thực dân. Vào lúc đó phong trào Phật giáo cùng phát khởi. Có những cuộc thảo luận sôi nổi để xem người ta đứng về phía Cộng Sản hay chống lại. Chính lúc bấy giờ phong trào Phật giáo cứu quốc cũng ra đời một lần với phong trào Công giáo cứu quốc. Những tổ chức ấy hoạt động khá mạnh, nhất là ở Bắc và Trung vì được tập hợp dưới quyền chỉ huy của Cộng Sản và nằm trong mặt trận đấu tranh của Cộng Sản. Ở miền Nam cũng có một phong trài tôn giáo cùng một xu hướng như trên, nhưng ở trong hoàn cảnh khác: Giáo phái Hòa Hảo và Cao Đài được quân đội viễn chinh võ trang để chống Cộng. Phong trào Phật giáo bành trướng mạnh nhờ phong trào tranh thủ Độc lập. Đây là những hiện tượng lịch sử bộc phát vì liên hệ đến sự tồn vong của Việt Nam. Mỗi tổ chức tìm một cách củng cố theo phương thức riêng của mình: Phật giáo, Gia tô giáo cũng như đảng phái chính trị. Nhưng sự củng cố ấy bị lôi kéo giữa Cộng Sản và Đế quốc. Tình hình hiện tại chỉ là sự nối tiếp của tình hình lúc bấy giờ, Phong trào Phật giáo là một phong trào chính đáng của một tổ chức bị thực dân đàn áp và muốn phát triển vào những ngày tàn của thực dân. Đó là một phong trào chính đáng, nhưng lại phát triển trong những điều kiện không thuận lợi. Phong trào ấy bị lôi kéo giữa Đông và Tây. Mỗi chủ nghĩa đều cố tìm cách lợi dụng phong trào ấy. Những điều vừa trình bày là quan điểm của nhà sử học và xã hội học. Quan điểm của chính phủ lại khác. Chính phủ đứng ngòai vòng tôn giáo. Sự liên lạc giữa chính phủ và phong trào tôn giáo đều dựa vào tính chất thế tục. Nước chúng tôi là một nước chậm tiến muốn tối tân hóa và vì thế phải giải quyết một số vấn đề : động viên quần chúng vào sự đòi hỏi của chiến tranh (vì chiến tranh đối với chúng tôi là bắt buộc) và kỹ nghệ hóa là điều cần thiết cho sự tiến hóa. Nhưng không nên quên thực tại: phong trài Phật giáo bị lôi kéo giữa Đông và Tây. Chính phủ không có một đường lối chính trị nào chống Phật giáo hết, nhưng ngay trong Phật giáo cũng có những vấn đề riêng. Trong tất cả các tổ chức đều có công tác ngấm ngầm do bàn tay Đông và Tây điều khiển. Cho đến cơ quan hành chính và quân đội cũng có sự len lỏi của chủ nghĩa ngoại lai. Ấy là một nhu cầu lịch sử do hoành cảnh chính trị dựa trên địa lý đặc biệt vủa Việt Nam gây nên. Hoa Kỳ chủ trương phát triển tự do để giải quyết vấn đề chậm tiến. Nhưng tự do không phải là giải phóng. Mà giải phóng theo Cộng Sản chủ trương lạ không phải là tự do. Vị cứu tinh không phải là người có tư tưởng tự do, người có tư tưởng tự do không hẳn là vị cứu tinh. Đứng trước hai quan niệm trái ngược ấy, cần phải dứt khoát. Phật tử cũng ở trong tình trạng bối rối như tín đố tôn giáo khác. Viện trợ Hoa Kỳ rất quý báu đối với chúng tôi, nhưng lại chứa mầm phân hóa: Làm thế nào động viên được quần chúng với một thứ tự do không chịu trút bỏ đặc quyền, trái lại người ta còn đề nghị chúng tôi cứ bảo vệ đặc quyền trên con đường tiến hóa! Thật là một chuyện thần thoại. Ông trưởng phái đoàn: Ông đã nhắc lại bất bạo động là một nguyên tắc của Phật giáo, nhưng chúng tôi đọc trong nhiều báo chí lại thấy các đoàn thể Phật giáo bị tố cáo là có bạo hành. Ông có thể giải thích cho chúng tôi rõ điều ấy không? Ông cố vấn chính trị: Trong một cuộc phục hưng nào cũng có sự trở về nguồn. Nếu Phật giáo muốn trở về nguyên thủy thì sự kiện ấy chỉ có thể do một thiểu số ưu tú là những thánh nhân chân chính mà sứ mạng là nói cho chúng ta, những người đang tham gia chiến tranh và góp phần vào công cuộc kỹ nghệ hóa, rằng vật chất không phải là tất cả. Các vị thánh nhân ấy nhắc cho ta, những kẻ đang lao động trong bùn lầy, rằng có một lý tưởng về giá trị tinh thần và sự suy tư, một sức mạnh có thể đập tan sự phản ứng liên tục của thuyết duy vật. Ấy là sứ mạng tôn giáo. Nhưng trong hoàn cảnh lịch sử Việt Nam, phong trào Phật giáo đã đi lạc hướng, đã trở thành công cụ chính trị và đi đến mức muốn lật đổ chính phủ. Có rất nhiều nguyên nhân tâm lý đã thúc đẩy các nhà Phật giáo có sự lệch lạc trên. Về nội dung, Phật giáo đứng trước hai thực tế trái ngược (tại miền Nam Việt Nam mà thôi) nếu trở thành một lực lượng chính trị thì không còn là Phật giáo thuần túy nữa. Đó là mâu thuẫn căn bản ở Việt Nam, và Phật tử từng đau khổ vì mâu thuẫn ấy. Họ thấy những phong trào tôn giáo khác phát triển mạnh hơn rồi họ suy luận là bị đàn áp. Những tôn giáo khác như Hồi giáo, Thiên Chúa giáo tự mình giải quyết những vấn đề thế tục. Phật giáo không phải như thế vì là một tôn giáo chủ trương hoàn toàn thoát tục. Phật tử khi thấy các tôn giáo khác phát triển, kết luận là mình bị bắt nạt. Có nơi tổ chức đưa dân cả toàn xã vào Thiên Chúa giáo. Tín đồ Phật giáo khi thấy nhiều xã theo Công giáo thì lại tưởng đó là áp lực của Chính phủ. Nhưng khi đọc các tài liệu, người ta mới thấy Chính phủ rất lo lắng về sự trở về với Chúa từng loạt như thế, Chính phủ không khuyến khích điều ấy vì đó là Cộng Sản trá hình. Sự kiện này gây cho chúng tôi thiệt hại nhiều vào năm 1960 khi chiến tranh phá hoại phát khởi. Chính phủ Diệm xích mích với hàng giáo phẩm Gia tô về phong trào rửa tội toàn khối ấy. Lực lượng an ninh phải canh chừng những xã ấy nhiều hơn xã khác, nhất là phong trào di cư. Phật tử lập luận rằng chính phủ khuyến khích Gia tô giáo hơn Phật giáp vì trong số 1 triệu dân di cư từ Bắc vào Nam có đến 700.000 tín đồ Gia tô. Người ta tưởng đó là vì Tổng thống Việt Nam Cộng hòa là một tín đồ Gia tô. Người ta không thấy đấy là một vấn đề tổ chức. Trên bình diện thế tục, Gia tô giáo được tổ chức chặt chẽ hơn nên có cả giáo khu được tập hợp và chỉ huy để rời quê hương, trong khi ấy Phật tử lại tản mát và không được tổ chức. Lúc bấy giờ chính phủ Diệm còn yến, ông vừa mới về nước và chính phủ trước đó đã vơ vét hết tiền bạc. Trong ngân khố quốc gia chỉ còn đủ trả lương cho công chức trong một tháng. Những vị Bộ trưởng đều không có lương, vợ tôi nuôi tất cả mọi người. Chúng tôi sống ở đây như đi "picnic". Vì chính phủ yếu và kém tổ chức, nên Tổng thống phải hỏi người Pháp (tướng Salan) có thể giải quyết cho bao nhiêu người di cư vào Nam. Họ trả lời không quá 25.000 trong khi số di cư có đến hàng triệu. Họ đến Hải Phòng và người Pháp bị tràn ngập. Thật là kinh khủng. Người ta đợi hàng tháng để xuống tàu, bao nhiêu của cải mất sạch. Ông Diệm không có phương tiện gì hết. Người Pháp trở nên bi quan, không ngờ tín đồ công giáo đông như thế. Ông Diệm phải nhờ đến người Mỹ vì không cò một cơ quan nào lo việc ấy hết. Vị Bộ trưởng của chính phủ Diệm phụ trách di cư lại chống phong trào ấy. Ông cho rằng về phương diện chính trị, tốt hơn nên để họ ở lại ngoài Bắc vì họ là lực lượng chống đối Cộng Sản, nếu đưa vào Nam mà không làm vừa lòng họ, họ sẽ trở thành lực lượng chống chính phủ. Đó là điều làm cho Phật tử nghĩ rằng Chính phủ ưu đãi tín đồ Công giáo. Ông trưởng phái đoàn: Theo một bản tuyên bố của Chính phủ, tất cả tổ chức bất hợp pháp đều bị tiêu diệt. Có phải tất cả những tổ chức ấy đềy là của Phật tử không? Và có bao nhiêu tổ chức như thế? Ông cố vấn chính trị: Âm mưu ấy được tổ chức do Ủy ban liên phái. Ủy bạn này chỉ đại diện cho một thiểu số Phật tử Việt Nam thôi. Số còn lại, không đồng ý và về phương diện tình cảm, họ đau khổ trước sự kiện ấy. Những kẻ âm mưu là đạo hữu của họ và đối với những kẻ ấy, họ có một sự liên kết tinh thần. Người ngoại quốc lợi dụng điều ấy. Cuộc âm mưu thành hình được nhờ những kẻ xúi giục ngoại quốc và nhất là báo chí Mỹ đã đưa dư luận quốc tế lên chống Chính phủ. Tất cả những tổ chức ấy đều do Ủy ban liên phải điều khiển. Ông trưởng phái đoàn: Quân đội và chính quyền đã khám phá nhiều tài liệu. Chúng tôi có thể xem được bao nhiêu? Ông cố vấn chính trị:: Quý ông có thể xem tất cả. Ông Gunewardene: Có bao nhiêu Phật tử trong Chính phủ? Ông cố vấn chính trị: Ba phần tư. Ông Gunewardene: Trong hàng ngũ tướng lãnh? Ông cố vấn chính trị: Trong mười bày vị tướng thì có mười bốn vị Phật tử, thuần túy hay không, tôi không được rõ, và ba tín đò Gia tô trên hình thích. Ông Gunewardene: Có bao nhiêu Phật tử trong quân đội? Ông cố vấn chính trị Cúng một tỷ lệ như trong dân chúng. Nhưng đa số thờ cúng tổ tiên, thờ cúng những người quá cố. Họ không đến chùa. Việt Nam không phải là một xứ sùng đạo. Đúng hơn, người Việt Nam không muốn ràng buộc vì giáo điều. Họ đến chùa khi bênh hoạn hay đau khổ. Ngòai ra, họ không đến làm gì. Ông Gunewardene: Ai là tưởng chỉ huy Quân đoàn thủ đô? Có phải là một phật tử không? Ông cố vấn chính trị: Thiếu tướng là một Phật tử. Nhưng cho đến này, đối với chúng tôi, đó không phải là một điều quan trọng đểu đánh giá trị. Ông Gunewardene: Nhưng đối với Phật tử điều ấy có làm họ băn khoăn không? Ông cố vấn chính trị Chúng tôi không muốn đi sâu vào những nhận xét ấy. Người ta có thể thay đổi tôn giáo. Như tôi chẳng hạn, tôi là tín đồ Gia tô, nhưng chống Giáo hội. Ông Correa De Costa: Cũng trong vấn đề này, tôi xin đặt câu hỏi sau: Trong điều kiện như thế thì làm sao lại nảy sinh vấn đề đỏi hỏi của Phật giáo? Ông cố vấn chính trị: Trong hoàn cảnh lịch sử của các nước chậm tiến, Phật tử đã đi lệch con đường giáo lý vì thiế cán bộ để nghiên cứu. Với tư cách là tín đồ Gia tô, như tôi chẳng hạn, tôi nghĩ rằng, Hội nghị Công đồng thế giới hiện nay chỉ có kết quả tốt đẹp nếu có sự cải cách trong việc nghiên cứu Thần học. Sự tiến triển về hoạt động của Gia tô giáo không đi đôi với phẩm chất của việc nghiên cứu Thần học. Hiện nạy những nhà Thần học Gia tô ở đâu? Lẽ dĩ nhiên là không phải trong các vị Hồng y. Họ chỉ là cán bộ. Ông Amor: Có những trại thanh niên ở Sài Gòn; chúng tôi có thể đi xem được không? Ông cố vấn chính trị:: Có, những trại ấy cách đây vài cây số. * * * Khi phái đoàn Liên hợp quốc dời dinh Gia Long, Nhu bảo Luân: - Để cho họ điều tra. Càng nhiều nhân chứng càng tốt. Tất nhiên, có nhân chứng nọ, nhân chứ kia... Ta không cần các biên bản tốc ký hoặc ghi âm, dù hàng đống cũng được. Ta cần kéo dài thời gian. Sau "Bravo", mọi thứ coi nhu mất hết giá trị. Sức mạnh, bây giờ là tiếng nói của sức mạnh. Tôi sẽ mở một tiệc thật lớn để tiễn họ và tôi sẽ ghi bằng phim vẻ mặt tiu nghỉu của họ. Tôi tin một trong số họ thích kéo dài cuộc điều tra. Về phương diện này, Ngô Trọng Hiếu làm việc không đến nỗi tồi...Luân ngồi trên xe về nhà, suy nghĩ khác Nhu. Ngô Trọng Hiếu không thể xỏ mũi toàn thể phái đoàn và trò gài bẫy này sẽ vô hiệu hóa nếu những gã đại sứ dại gái kia thú nhận - cá nhân họ mất chức, song câu chuyện Phật giáo vẫn còn nguyên trong chương trình nghị sự, nếu không nói là cũng sự lột mặt của các đại sứ ậm ờ thì bản thân chế độ cũng tự lột mặt, chẳng một tí sạch sẽ, tha hồ cho báo chí thế giới bêu rếu và càng thúc đẩy Tổng thống Mỹ hạ bàn tay còn phần nào do dự xuống bàn cờ; các con cờ nhảy tung cả lên, đôi luyến tiếc cuối cùng của ông với Ngô Đình Diệm sẽ tan biến... Về cuộc gặp gỡ, Luân có thể nhận diện ai rơi vào cái bẫy của Ngô Trọng Hiểu - những câu hỏi mở đường cho chính phủ như lời họ thú tội - nhưng một đại sứ đã gặp Cabot Lodge, nghĩa là gặp cả Bộ tham mưu Mỹ tại Sài Gòn đủ điều chỉnh mọi chuệch choạc. Suốt cuộc gặp gỡ, Luân không nói, ngoài cái bắt tay xã giao với khách. Và Luân biết liền ai đã gặp Cabot Lodge qua cái siết tay hơi mạnh so với người khác. Cabot Lodge hẳn đã giới thiệu Luân. Cái nực cười nhất là Nhu dám đổ cho Cộng Sản tôe chức cả xã vào đạo Thiên chúa - sự ngụy biện trơ tráo báo hiệu khả năng suy nghĩ của Nhu mỗi lúc mỗi tối hơn. Một khách không hẹn đợi Luân. Một Linh mục. Người gầy, đeo kính trắng, nho nhã. Ông tự giới thiệu, Luân mới biết ông là Linh mục - bề ngòai ông như một trí thức bình thường, sơ mi trắng ngắn tay, quần tropical cũ, đi xăng - đan. Luân nghe tiếng Linh mục từ lâu, giảng viên đại học, người Huế, thuộc nhóm mà Nhu liệt vào danh sách "đầu bò". Ông có cái tên đẹp như tên phụ nữ: Kim Huệ. - Chúng ta nên bắt đầu từ đâu, thưa Cha? - Luân cười. Linh mục không cười. Nét căng thẳng hiện rõ trên vẻ mặt khôi ngô của Linh mục - ông không thể quá tuổi ba mươi. - Tôi muốn xác định phạm vi trao đổi. Đại tá là người có đạo, tôi là Linh mục, nhưng đây là cuộc nói chuyện bình đẳng giữa hai người có thể có chung mối quan tâm về tình hình miền Nam và tình hình giáo hội... Tôi nói lại, không chỉ tình hình giáo hội mà tình hình những người theo đạo Thiên Chúa, đặc biệt là đạo Thiên Chúa La Mã. - Cám ơn Cha đã cho phép... Tuy vậy, con vẫn thấy Cha chưa nêu chủ điểm của cuộc trao đổi... - Trước hết, để thực hiện nguyên tắc bình đẳng, tôi đề nghị chúng ta theo cách xưng hô thế tục - gọi nhau là anh, xưng là tôi... Không phải lúc nào cách xưng hô trong đạo cũng thích hợp cả... Còn chủ điểm? Anh hiểu hơn rôi. Chế độ ông Diệm đang thoi thóp... - Và, tôi là thành viên của chế độ đó, không dễ thở... - Luân lại cười. - Chưa hẳn... Tôi không làm nghề tình báo, không có nguồn tin bên trong song tôi hiểu anh và chế độ ông Diệm chưa bao giờ hòa đồng. - Linh mục Kim Huệ nghiêm mặt. - Phong trào Phật giáo không hề uy hiếp những người như Linh mục... - Luân nói. - Đâu phải vì nghĩ rằng phong trào Phật giáo uy hiếp chúng tôi, mà tôi đến đây. Anh không có tư cách thay mặt cho Phật giáo. Tôi đã gặp những người cầm đầu Phật giáo và vì vậy, tôi lo... - Anh đã gặp thầy Thiện Hoa chua? Bây giờ, Linh mục Kim Huệ mới cười: - Tôi đoán không sai. Người mà anh quan tâm là thầy Thiện Hoa, thầy Trí Tịnh, thầy Thiện Hòa, hòa thượng Thiện Luật, hòa thượng Tịnh Khiết... Tôi biết đêm đẫm máu chùa Xá Lợi, anh có mặt. Có người cho rằng anh vào chùa để làm nội ứng cho Trần Văn Tư. Ít người nói vậy thôi... - Thích Đức Nghiệp là một! - Đúng... Có người nói anh muốn tạo chân đứng sau này... - Lập luận của ông Thích Tâm Châu... - Đúng.. Thậm chí, có một lá thư từ Mỹ gửi về dặn các nhà sư coi chừng anh. Anh là người của cơ quan tình báo Mỹ... - Của Thích Nhất Hạnh! - Đúng! - Có lẽ ông ta nói không sai.. Ông ta là người của Mc. Cône - Luân châm biếm. - Thích Nhất Hạnh có là CIA hay không, tôi không rõ và cũng chẳng cần rõ. Nếu anh có tài liệu, thì ông ta cũng chỉ có thể đạt cái mức nhân viên tình báo Mỹ thôi. Còn anh, nếu ông ta nói đúng, thì theo tôi, phải đảo ngược: Tình báo Mỹ là nhân viên của anh! Luân mỉm cười để che cái chớp giật trong người. Linh mục Kim Huệ đáo để thật! - Tôi suy đoán, hoàn toàn theo logich học, dựa trên các hiện tượng rời rạc... Anh đã góp phần không nhỏ vào tình cảnh khốn quẫn hiện nay của chế độ ông Diệm, nghĩa là của Mỹ... Nhân tiện, tôi thuật cho anh nghe cuộc đấu khẩu giữa tôi và Thích Đức Nghiệp. Ông ta cho rằng nếu mai kia ông Diệm dời khỏi chính trường là do công của Phật giáo, chủ yếu là do công của Phật giáo - không có các vụ tự thiêu, không có các chịu đựng tai họa, không có cuộc vận động quốc tế... thì ông Diệm vĩnh viễn là ông Diệm... Tôi bảo: Không có Mặt trận giải phóng, không có quân Giải Phóng, không có một nửa nước độc lập, không có cuộc đấu tranh chống Pháo kiên quyết kéo dài chín năm, liệu có thể có phong trào Phật giáo với quy mô vừa qua không? Ông Thích Đức Nghiệp lắc đầu, lắc đầu một cách yếu ớt. Tôi nói thêm: Tuy hằng triệu người đứng trong hàng ngũ Phật giáo, tín đồ thật sự là bao nhiêu? Ông ta cũng tiếp tục lắc đầu yếu ớt. Tôi biết một số người theo Công giáo có mặt trong các cuộc biểu tình... - Nhưng không thể không đánh giá đúng cống hiến của Phật giáo... - Luân ngắt lời Kim Huệ. - Tôi không nghĩ khác... Chính tôi nói thẳng với thầy Thiện Hoa những ý trên, thầy Thiện Hoa gật đầu: Đạo pháp và dân tộc gắn chặt, cái nền chính là dân tộc... Tôi gặp anh để nêu lên hai câu hỏi: một, cái gì tiếp sau biến động hôm nay. Tốt hay xấu cho đất nước, nghĩa là cho hòa bình và cho cả thống nhất. Hai, người theo đạo Chúa cần làm gì, có thể làm gì... Luân trầm ngâm. Anh mời thuốc lá, Linh mục không hút. Câu hỏi lớn quá. Tâm trạng những người như Kim Huệ bao quát quá. Nó cũng là câu hỏi và tâm trạng của Luân. Thấy Luân chưa trả lời, Kim Huệ nói thêm, rất sôi nổi: - Thay đổi chế độ, mong ước ấy không riêng của Phật giáo. Nhưng, cái gì đang chờ chúng ta? Ông Diệm nói một câu tiên tri: Cái sẽ tới còn ghê rợn hơn... Có thể như vậy không? - Thay đổi chế độ? - Luân hỏi vặn Kim Huệ - Sẽ không có một thay đổi đến mức đó... Anh hiểu chế độ chỉ là ông Diệm? Kim Huệ phản ứng thật nhanh: - Tôi đính chính. Thay đổi bộ máu bản xứ của người Mỹ... - Nếu anh đã nhận thức được như vậy thì anh đã tự trả lời... - Nghĩa là, đối với đất nước vẫn xấu? - Có thể xấu hơn, đồng thời có thể ít xấu hơn... - Có thể... mơ hồ quá. Khả năng nào nhiều? - Nếu để cho diến tiến của tình hình trong phạm vi một cuộc đẩy cây giữa hai phía - ông Diệm và Mỹ, tức là giữa những người do Mỹ khống chế - thì khả năng đầu nhiều hơn... - Tôi không tin Mặt trận khoanh tay... - Cũng như anh, tôi không hiểu chuyện ngoài bưng, ngoài rừng... - Anh không hiểu, tôi đồng ý... Không hiểu cụ thể... - Còn anh? - Tại sao tôi phải úp mở: Tôi có hiểu, tuy chẳng sâu. - Anh nghe tôi: Ván bài cần bốn tay chơi. Anh và tôi mới nghĩ đến ba. Thiếu một. Một quan trọng nhất, sẽ trả lời câu hỏi của anh. - Phải chăng, theo anh, trả lời câu hỏi này liên quan đến câu hỏi thứ hai của tôi? Luân lắc đầu: - Lực lượng Công giáo chưa thể có sức nặng... Tôi nói lực lượng không mù quáng. - Năm một nghìn chín trăm sáu mươi ba này khác những năm một nghìn chín trăm năm mươi bốn, một nghìn chín trăn năm mươi lăm... - Tôi hy vọng. Song, tôi không ảo vọng. Rất có thể sau khi có một đổi thay nào đó? - ta cứ giả định đi - điều anh và tôi hy vọng sẽ lớn ra... Phải làm gì, với một Linh mục, nghĩa là với sự ràng buộc của giáo hội, tôi không dám nói. Anh cũng thấy, một trong những cái dấy lên phong trào phản đối hiện nay là chính sách ưu đãi Công giáo của Tổng thống... - Nhưng, không phải tất cả Linh mục, thậm chí Giám mục đều nhận và tán thành một ân sủng như vậy. - Tôi đồng ý. Dẫu sao, ấn tượng mà dân chúng ghi trong đầu không quá bị bóp méo... Tôi hỏi anh một câu - bởi anh hỏi tôi hàng chục câu - có bao nhiêu Linh mục suy nghĩ và muốn hành động như anh? - Suy nghĩ như tôi, nhất định đông, nhất là số Linh mục trẻ từ Châu Âu về. Còn muốn hành động? Linh mục Kim Huệ nhún vai. - Anh có thể hiểu sức mạnh mà những ngườ như anh cần, dựa vào đâu để tạo ra không? Linh mục Kim Huệ cười rộ: - Tôi không phải quá trẻ... Sau cái bắt tay thật chặt, hai người từ giã nhau như đôi bạn thân. Phái đoàn Liên hợp quốc thẩm vấn các nhân chứng (trích) * Nhân chứng số 1 - Ông trưởng phái đoàn: Theo ý ngài, những lời tố cáo chính phủ Việt Nam đã vi phạm các quyền tín ngưỡng Phật giáo đồ có căn cứ không? Nếu có, chúng tôi mong được ngài cho biết càng nhiều càng tốt những bằng chứng về những vi phạm ấy. - Nhân chứng: Những tố giác về những vi phạm của chính phủ đối với việc tu hành hay với Phật pháp bắt nguồn từ bốn tỉnh ở Trung Việt, cách đây đã ba hay bốn năm. Bốn tỉnh ấy là: Phú Yên, Bình Định, Quảng Nam và Quảng Ngãi. Còn những tố giác khác, tôi không được biết rõ. Những đoàn thể Phật giáo của các tỉnh ấy đã đệ đơn khiếu nại lên chính phủ và lên Tổng hội, đại diện cho họ ở Sài Gòn. Những đơn ấy quý ông có thể tìm thấy trong những tập tài liệu. Chắc quý ông cũng đã biết đến năm nguyện vọng đã được trình lên chính quyền trong mùa hè năm nay. Tôi không được biết những tố giác khác. Tại Việt Nam, 80% dân chúng là Phật tử, mà những lễ lạt của Phật giáo lại không được Tổng thống nhìn với một con mắt có thiện cảm như các lễ lạt của Thiên Chúa giáo. Thí dụ ngày lễn Noel được tổ chức một cách to tát và chính phủ tham gia vào các lễ tại nhà thờ. - Ông trưởng phái đoàn: Có phải, như một số người đồn, phong trào Phật giáo đã bị xúi giục, bằng cách này hay cách khác, bởi Cộng Sản, Việt Cộng hay tay sai ngoại quốc không? Ngài, hoặc những người quen biết với ngài, có ai là nạn nhân của sự xúi giục ấy không? - Nhân chứng: Tất cả vụ này phát khởi từ Huế. Như quý ông đã biết, ở đây trong ngày lễ Phật đản, vấn để lá cờ Phật giáo được nêu lên. Biến cố này đã gieo mầm bất an vào đến Sài Gòn, và cứ thế mà tiếp tục mãi. Riêng về phần tôi, tôi không bị ai xúi giục cả. - Ông Gunewardene: Ở Huế, có sự xúi giục nào không? - Nhân chứng: Tôi không được biết. * Nhân chứng số 3 - Ông trưởng phái đoàn: Ngài có biết phái đoàn đến gặp ngài hôm nay không? - Nhân chứng: Vâng, tôi có biết đại diện của Liên Hợp quốc sẽ đến điều tra về tình hình Phật giáo đồ ở miền Nam Việt Nam. Tôi là phát ngôn viên của Ủy ban liên phái bảo vệ Phật giáo. Tôi ở chùa Xá lợi. - Ông Correa Da Costa: Ủy ban liên phái là gì? Nhiệm vụ của nó thế nào? - Nhân chứng: Ủy ban có nhiệm vụ đòi hỏi quyền tự do tín ngưỡng tại Việt Nam Cộng hòa bằng một chính sách bất bạo động. - Ông Correa Da Costa: Ủy ban liên phái được thành lập ngày nào? - Nhân chứng: Đã năm tháng nay. - Ông Correa Da Costa: Sau những vụ lôi thôi ở Huế? - Nhân chứng: Vâng, tất cả giáo phái Phật giáo đã hợp tác với Ủy ban từ ngày ấy. - Ông Correa Da Costa: Có khoảng mười chín giáo phái Phật giáo quan trọng tại Việt Nam. Vậy có bao nhiêu phái tham dự trong Ủy ban? - Nhân chứng: Trong mười sáu giáo phái ở miền Nam Việt Nam, mười bốn giáo phái có đại diện trong Ủy ban liên phái. - Ông Correa Da Costa: Hai giáo phái nào không tham dự? - Nhân chứng Giáo phái Cổ Sơn Môn và Tịnh độ tông. - Ông Correa Da Costa: Vì sao họ không tham dự? - Nhân chứng: Vì họ cộng tác với chính phủ. - Ông Correa Da Costa: Có những mối liên quan như thế nào giữa Ủy ban liên phái và Tổng hội Phật giáo? - Nhân chứng: Tổng hội Phật giáp thành lập từ năm 1951, 1952 và gồm có tăng già, cư sĩ của tập đoàn Phật giáo. - Ông trưởng phái đoàn: Từ khi bị bắt, ngài có bị hành hạ không? - Nhân chứng: Thật khó trả lời câu hỏi của ngài trong lúc này. Tôi ước mong ngày thông cảm cảnh ngộ hiện tại của tôi. Tôi không thể trả lời nơi đây được. * Nhân chứng số 6: - Ông trưởng phái đoàn: Ngài bị bắt giam lúc nào? - Nhân chứng: Ngày 20-8-1963 - Ông trưởng phái đoàn: Lúc mấy giờ? - Nhân chứng Lúc hai giờ sáng. - Ông trưởng phái đoàn: Cảnh sát có phá cửa khi họ bắt ngài không? - Nhân chứng Có. - Ông trưởng phái đoàn: Cửa chùa hay cửa phòng ngài?? - Nhân chứng: Họ phá cửa sắt mà thôi. Tôi ở trong phòng, họ đến đập cửa và gọi tôi ra. - Ông trưởng phái đoàn: Ai? - Nhân chứng: Những sĩ quan. - Ông trưởng phái đoàn: Những sĩ quan quân đội hay của cảnh sát? - Nhân chứng: Những sĩ quan và binh sĩ của quân đội. - Ông trưởng phái đoàn:: Ngài có bị đánh đập không? - Nhân chứng: Một ít thôi. - Ông Volio: Thế nào? Họ đánh bằng tay hay bằng gậy? - Nhân chứng: Bằng tay. - Ông trưởng phái đoàn: Vì sao họ đánh ngài? - Nhân chứng: Họ không nói lý do vì sao cả. - Ông Gunewardene: Những quân nhân đến đây có vũ trang không? - Nhân chứng: Tôi không biết họ có lọai súng gì. Họ cầm súng như thế này (phái đoàn biết đó là súng có lưỡi lê). - Ông Gunewardene: Họ đem ngài đi đâu? - Nhân chứng: Họ dẫn tôi tới một nơi xa và không biết nơi ấy là đâu cả. - Ông Gunewardene: Họ giao ngài cho ai canh gác? - Nhân chứng: Họ dẫn tôi đến chỗ ấy lúc hai giờ sáng và đến bốn giờ sáng họ lại đưa tôi đến một nơi khác rồi giam tôi vào trong một xà lim. - Ông Gunewardene: Ngài bị giam trong ấy mấy ngày? - Nhân chứng: Vào khoảng một tuần lễ. - Ông Gunewardene: Họ đối đã với ngài như thế nào? - Nhân chứng: Tôi không bị ngược đãi. - Ông Gunewardene: Đêm ngài bị bắt có bao nhiêu nhà sư ở trong chùa? - Nhân chứng: Vào khoảng mười. - Ông Gunewardene: Họ đề bị bắt cả? - Nhân chứng: Vâng. - Ông Koirala: Người ta cho rằng Cộng Sản, Việt Cộng và những nhân viên ngoại quốc khác, là nguyên nhân của các vụ lôi thôi ấy, ngài nghĩ sao? - Nhân chứng: Tôi chỉ biết tu mà thôi, tôi không thể nói được việc ấy. * Nhân chứng số 26. - Trưởng phái đoàn: Anh có phải là phật tử không? - Nhân chứng Tôi là Phật tử. - Trưởng phái đoàn: Anh bị bắt khi nào? - Nhân chứng: Ngày hai mươi tám tháng tám. - Trưởng phái đoàn: Anh có dự các cuộc biểu tình của sinh viên không? - Nhân chứng: Có. - Trưởng phái đoàn: Anh có bị đánh đập không? - Nhân chứng: Không. - Trưởng phái đoàn: Bao nhiêu sinh viên tham dự cuộc biểu tình? - Nhân chứng: Hơn một nghìn sinh viên. - Ông Gunewwardene: Bao nhiêu bị bắt và bị giam? - Nhân chứng: Tám trăm bị giam, rồi được thả ra. - Ông Gunewwardene: Anh biểu tình để chống đối gì? - Nhân chứng: Vì tôi nghĩ rằng đó là việc phải làm sau các biến cố xảy ra, và đó là lý do khiến tôi tham dự cuộc biểu tình. Tôi không biết tôi có bị các phần tử ngoại lai khai thác hay lợi dụng không. Lúc khởi đầu đó là một phong trào thuần túy, không có sự can thiệp nào từ bên ngoài cả, nhưng về sau - theo ý tôi, có một phần nào. * Nhân chứng số 34: - Ông Amor: Anh có phải là Phật tử không? - Nhân chứng: Tôi không phải là Phật tử, không phải theo Thiên chúa giáo, cũng không phải là Cộng Sản. Tôi không có tôn giáo. - Ông Correa De Costa: Vì sao anh bị bắt. - Nhân chứng: Tôi không phải là Cộng Sản. Tôi bị bắt vì có liên hệ với các tổ chức chính trị. - Ông Amor: Anh nghĩ gì về vấn đề Phật giáo? - Nhân chứng: Tôi không lưu tâm đến vấn đề ấy. Là một sinh viên khoa chính trị học, tôi nhìn vấn đề dưới một khía cạnh khác. - Ông Pinto: Với tư cách sinh viên khoa chính trị học, vấn đề Phật giáo không làm anh xúc động một tí nào sao? - Nhân chứng: Như mọi sinh viên khoa chính trị học theo dõi những mục tiêu chính trị, không phải tôi không bị xúc động vì vấn đề Phật giáo, nhưng tôi cho nó chỉ có một tầm quan trọng nào đó thôi. Do đó, phản ứng của tôi không phải là phản ứng của một công dân thường. - Ông Koirala: Anh có tham dự các cuộc biểu tình không? - Nhân chứng: Tôi không tham sự biểu tình, nhưng tôi là thủ lĩnh một nhóm sinh viên và tôi không quên cho biết quan điểm của tôi trong mọi cơ hội. Tôi không đi theo nhóm biểu tình ngòai lộ. - Ông Gunewrdene: Anh có phát biểu ý kiến về vấn đề Phật giáo không? - Nhân chứng: Từ lâu, tôi đã phát biểu ý kiến và tôi chống chính phủ này, nhưng, vì lí do tôn giáo, thật rất khó khăn. Tôi muốn rằng các Phật tử bị bắt được thả ra. - Ông Koirala: Anh có nghĩ rằng vấn đề Phật giáo là triệu chứng của một sự bực bội rộng lớn hơn trong xứ này không?. - Nhân chứng: Những người thấy điều ấy có thể có cảm tình nồng nhiệt với phong trào trên, những người không thấy gì có thể bị đánh lạc. - Pinto: Anh có bị đánh đập không? - Nhân chứng: Trường hợp tôi là một trường hợp đặc biệt. Vì người ta biết rằng tôi là thủ lĩnh một nhóm chính trị trong sinh viên, không bao giờ tôi bị đánh đập, người ta để tôi yên. Lẽ tất nhiên, có thể khác đối với những người khác. Trong quá khứ, tôi không bị phiền lụy gì, còn vai trò của tôi trên trường chính trị, bao giờ tôi cũng được xem như một thủ lĩnh; do đó, người ta đối xử với tôi rất tử tế, người ta cố gắng không đụng tới tôi, nếu không có lý do khác, về các vấn đề chính trị, người ta để tôi làm điều gì tôi muốn. - Ông Gunewardene: Như một người không có tôn giáo, anh nghĩ gì về việc quân đội tấn công các chùa chiền? - Nhân chứng: Tôi không thấy điều đó. Tôi chỉ nghe nói, nhưng không thấy tận mắt...
__________________
![]() |
![]() |
Ðiều Chỉnh | |
Xếp Bài | |
|
|