#12
|
||||
|
||||
![]() PHỤC SINH Chương 94 Đoàn tù dài đến nỗi khi những người ở hàng đầu đi đã xa, không trông rõ nữa, những chiếc xe trở đầy hành lý và người ốm mới bắt đầu chuyển bánh. Nekhliudov lên chiếc xe đứng đợi và bảo cho xe chạy vượt đoàn tù để xem có ai quen biết và để khi tìm thấy Maxlova trong đám phụ nữ thì hỏi xem nàng đã nhận được những thứ chàng gửi cho chưa. Trời nóng như thiêu như đốt. Không có hơi một ngọn gió, đám mây bụi từ hàng ngàn bàn chân bốc lên luôn luôn bao phủ lấy đoàn tù đang đi giữa đường. Họ đi rất nhanh và con ngựa chậm chạp kéo chiếc xe chở Nekhliudov khó nhọc lắm mới vượt qua được. Hàng nọ tiếp hàng kia, đám sinh linh lạ lùng, hình dạng ghê gớm đó kéo đi, hàng ngàn bàn chân đi cùng một loại giầy, cánh tay vung vẩy nhịp nhàng như thể tăng thêm dũng khí cho mình. Họ rất đông, hình dung dáng dấp giống nhau, lại cùng ở vào một tình trạng đặc biệt kỳ dị khiến cho Nekhliudov tưởng như họ không phải là những con người mà là những con vật gớm ghiếc, quái dị nào đó. Cái ấn tượng đó chỉ tan đi khi chàng nhận ra trong đám tù khổ sai, người phạm tội sát nhân Fedorov, và trong dám tù đi đày anh chàng Okhotin hay bông lơn và cả một gã lưu manh mới cách đây ít lâu đã yêu cầu chàng giúp đỡ. Hầu hết các tù nhân đều quay lại nhìn chiếc xe ngựa đang vượt lên và cái ông ngồi ở trên đang quan sát họ. Fedorov nghển đầu lên để cho Nekhliudov biết rằng hắn đã nhận ra chàng, Okhotin thì nháy mắt, nhưng cả hai không ai chào vì họ cho rằng cái đó bị cấm. Tới ngang đoàn phụ nữ, Nekhliudov nhìn thấy ngay Maxlova. Nàng đi ở hàng thứ hai. Người đi đầu hàng nầy là một người đàn bà trông thật gớm ghiếc, mặt mũi đỏ gay, người lùn, thấp, mắt đen, vạt áo choàng vén lên giắt ở lưng. Đấy là "Nàng Tiên". Đi cạnh chị ta là một phụ nữ có mang, bước đi nặng nề. Rồi đến Maxlova. Lùng đeo bọc hành lý, nàng đi, mắt nhìn thẳng về phía trước, vẻ mặt bình thản, kiên quyết. Người thứ tư là một thiếu phụ trẻ tuổi, có khuôn mặt dễ thương, mặc áo choàng ngắn, khăn vuông bịt đầu theo lối nông dân, bước đi mạnh dạn; đó là Fedoxia. Nekhliudov xuống xe, lại gần đám phụ nữ, định hỏi Maxlova xem nàng đã nhận được những thứ chàng gửi cho nàng chưa và nàng có khỏe không, nhưng viên hạ sĩ quan áp giải đoàn tù đang đi ở sườn bên đó trông thấy ngay và chạy lại: - Nầy, ông kia, không được lại gần đoàn tù! Cấm đấy! - hắn kêu lên khi đến lại gần. Nhưng khi nhận ra Nekhliudov (trong nhà tù ai cũng biết chàng) thì hắn đưa tay lên rìa mũ chào, đứng lại bên cạnh và nói với chàng. - Thưa ngài, bây giờ thì không thể được. Xin để ra đến ga, lúc bấy giờ thì có thể được, ở đây có lệnh cấm. - Rồi y quát tù nhân: Đừng chậm bước lại, đi nhanh lên! - Rồi cố lấy vẻ nhanh nhẹn, hắn chạy trở về chỗ cũ không kể trời nắng, chân đi đôi ủng lịch sự mới tinh. Nekhliudov quay lên vỉa hè bảo người đánh xe theo sau, còn mình đi bộ theo đoàn tù… Đi đến đâu đoàn tù cũng làm mọi người chú ý, vừa thương hại vừa kinh hãi. Những người đi xe thò đầu ra cửa đưa mắt nhìn theo cho tới khi đoàn tù đi khuất; người đi bộ dừng lại sợ sệt và ngẩn ra nhìn cảnh tượng khủng khiếp đó. Có người đến gần bố thí, được bao nhiêu lính áp giải lấy cả. Có người như bị thôi miên, đi theo đoàn tù rồi dừng lại và lắc đầu, chỉ đưa mắt trông theo. Đến đâu người ta cũng gọi nhau ra đứng ngoài cổng, bậc thềm hoặc cúi người trên cửa sổ và lặng lẽ, không nói câu gì, họ nhìn đoàn người ghê rợn. Đến ngã tư, đoàn người chắn mất đường của một cỗ xe ngựa sang trọng. Người đánh xe, mặt mày bóng nhẫy, mông đít lồng bàn, có hai hàng khuy áo cài ở sau lưng. Một cặp vợ chồng ngồi ở phía sau: người vợ gầy gò, xanh xao, đầu đội một chiếc mũ tươi sáng, tay cầm một chiếc dù sặc sỡ; người chồng đội chiếc mũ cao, mặc áo choàng lịch sự màu nhạt. Trước mặt họ là hai đứa con: một đứa con gái bé ăn mặc đẹp đẽ, tươi như bông hoa, những món tóc quăn vàng óng quăn vàng xoã xuống lưng, tay cũng cầm một chiếc dù sặc sỡ, và một thằng bé độ tám tuổi, cổ dài ngoẵng và gầy, xương quai xanh dô lên, đầu đội một chiếc mũ lính thuỷ có dải lòng thòng. Người bố giận dữ, quở anh xà-ích đã không kịp thời vượt trước đoàn tù; còn người mẹ thì cau có nheo cặp mắt ra bộ ghê tởm; giương chiếc dù lụa sát tận mắt để che bụi và ánh nắng. Anh xà-ích có đôi mông đít lồng bàn, chau mày cáu tức vì bị chủ quở mắng vô lý, bởi vì chính lão ta ra lệnh cho hắn đi theo con đường nầy. Hắn phải khó nhọc mới kỳm lại được những con ngựa nòi đen nhẫy, mồ hôi đầy mình, đang hục hặc đòi đi. Viên cảnh sát rất muốn chặn đoàn tù lại cho chiếc xe đi để chiều ý chủ nhân chiếc xe sang trọng, nhưng hắn cảm thấy dù có vì một người giàu sang như thế đi nữa, hắn cũng không thể phá cái không khí trang nghiêm buồn thảm của đoàn người đang đi kia được. Hắn đành đưa bàn tay lên mũ chào để tỏ lòng cung kính đối với những người giàu có và quàu quạu nhìn đoàn tù khổ sai, làm như hắn sẵn sàng bảo vệ những người ngồi trên xe, trong mọi trường hợp bất trắc không cho bọn kia phạm tới. Thế là cỗ xe buộc phải đợi cho đến khi tất cả đoàn tù đi hết; và khi chiếc xe tải cuối cùng chở hành lý cùng tù đàn bà cọt kẹt đi khỏi, cỗ xe mới chuyển được bánh. Người phụ nữ bị loạn thần kinh đã im lặng ngồi ở trong xe, nhưng khi trông thấy cỗ xe ngựa sang trọng nọ thì chị ta bắt đầu khóc nức nở và hét đến inh tai. Đến lúc ấy, anh xà ích mới khẽ chạm vào dây cương và những con ngựa ô lóc cóc nện móng sắt trên nền đường, kéo chiếc xe lắc lư nhè nhẹ trên đôi bánh cao su, chạy về biệt thự ở thôn quê: về đó vợ chồng, con gái, con trai - đứa con trai vai so, cổ ngẳng - sẽ cùng nhau vui thú nhởn nhơ. Cả cha lẫn mẹ, chẳng người nào giải thích cho con cái một tí gì về những điều chúng đã trông thấy trước mắt. Cho nên chúng buộc phải tự tìm hiểu lấy ý nghĩa của cảnh tượng chúng vừa được mục kích. Đứa con gái xét đoán sự việc theo sắc mặt của cha mẹ; nó cho rằng những người kia là một loại người hoàn toàn khác hẳn cha mẹ, họ hàng thân thuộc nhà nó, đó là những con người xấu xa, cần phải đối xử với họ đúng như người ta đang đối xử. Cho nên nó chỉ thấy ghê rợn và khi những tù nhân đã đi khuất hẳn, nó thấy mừng. Nhưng đứa con trai cổ ngẳng đã chăm chú nhìn đoàn tù đi qua không chớp mắt; nó đã hiểu khác con chị. Nhờ cảm thông trực tiếp lời Chúa dạy, nó biết chắc chắn, không một chút hoài nghi, rằng những con người đó cũng giống y như nó và bao nhiêu người khác, và nếu như có ai làm tình làm tội họ thì điều đó là không nên. Nó thấy thương hại cho họ và còn thấy ghê sợ cả những người bị cạo trọc đầu và bị cùm xích kia lẫn những kẻ đã cạo đầu họ, cùm xích họ. Vì thế cho nên môi nó mỗi lúc một dẩu ra, nó cố nén không khóc vì cho rằng khóc trong những trường hợp như thế nầy thật là xấu hổ. Chương 95 Nekhliudov bước nhanh theo đoàn tù. Tuy chỉ mặc quần áo mỏng, và khoác áo ngoài một chiếc áo choàng phong phanh, mà chàng vẫn thấy nóng ghê gớm, nhất là vì bụi bậm và cái không khí im lìm, nóng như thiêu như đốt của đường phố làm chàng ngột ngạt cả người. Đi được độ khoảng ba trăm thước, chàng lại lên xe vượt lên trước đoàn tù. Ngồi trong xe đi giữa đường, chàng lại càng thấy nóng hơn. Chàng cố nhớ lại những ý nghĩ của mình về cuộc nói chuyện ngày hôm qua với người anh rể, nhưng giờ đây, những ý nghĩ đó không còn làm chàng xúc động như ban sáng nữa. Nó đã bị lấn át vì những ấn tượng trước cảnh đoàn tù khởi hành và lũ lượt kéo nhau đi. Nhưng cái chính là vì trời nóng bức khó chịu quá. Chàng nhìn thấy ở cạnh một cái hàng rào, dưới bóng cây có hai cậu học sinh trung học, đầu trần, đứng trước mặt một người hàng kem rong đang quỳ xuống bán hàng. Một cậu ăn ngon lành, đang mút một chiếc thìa nhỏ bằng sừng, còn một cậu đang đợi cái cốc người bán kem đắp đầy lên quá miệng một chất màu vàng. - Gần ở đây có chỗ nào giải khát không nhỉ? - Nekhliudov hỏi người đánh xe, chàng thấy khát không chịu được. - Có một cái quán cũng tốt, ở gần ngay kia ạ, - anh đánh xe trả lời và đến góc phố, anh ta rẽ quặt sang, đưa Nekhliudov đến trước một cửa hiệu trên treo một tấm biển lớn. Người chủ quán béo húp híp, mặc áo sơ-mi trần, đang ở đằng sau quầy hàng; hai anh hầu bàn bận áo choàng màu cháo lòng, vì vắng khách nên đang ngồi chơi ở bàn; thấy người khách bất thường vào, họ tò mò nhìn rồi đứng dậy đón tiếp. Nekhliudov gọi một chai soda và ngồi vào một chiếc bàn nhỏ có phủ khăn bàn, ở xa cửa sổ. Có hai người đàn ông đang ngồi trước một bộ ấm chén uống trà, họ vừa lau mồ hôi lấm tấm trên trán vừa bình tĩnh tính toán với nhau. Một người da bánh mật và hói, đằng sau gáy có một đường viền tóc đen giống như đầu Ignati Nikiforovich. Cái điểm giống nhau đó gợi cho Nekhliudov lại nhớ tới cuộc nói chuyện với anh rể và ý định của mình muốn gặp lại hai vợ chồng chị ruột trước khi đi. "Có lẽ mình sẽ không có thời giờ trước khi tàu chạy, - chàng nghĩ; tốt hơn là ta viết một lá thư". Chàng hỏi mua giấy, một chiếc phong bì và một con tem và nhắp từng ngụm nước mát lạnh có hơi, vừa bắt đầu nghĩ đến điều chàng sắp viết, nhưng đầu óc rối tung, chàng thấy không thể nào viết nổi. "Chị Natasa thân yêu, em không thể ra đi mà trong lòng còn mang theo ấn tượng nặng nề của cuộc nói chuyện với anh Ignati Nikiforovich ngày hôm qua…" - chàng bắt đầu lá thư như vậy. "Nói gì nữa nhỉ? Xin lỗi ư? Nhưng mình chỉ có nghĩ thế nào nói thế. Hắn sẽ tưởng là mình chối lời đã nói chăng. Vả lại, còn cái chuyện hắn can thiệp vào những công việc riêng của mình nữa! Không, không thể được". Và chàng lại thấy dâng lên trong lòng một mối căm ghét con người xa lạ, tự đắc, không hiểu chàng. Nekhliudov đút lá thư mới bắt đầu viết vào túi, trả tỉền và ra khỏi nhà hàng để đuổi theo đoàn tù. Trời càng nóng nực bội phần. Tường nhà, hè phố như đổ lửa. Gan bàn chân cháy bỏng khi đặt lên trên mặt đường nóng nực; và khi đưa bàn tay vịn vào tai xe sơn bóng Nekhliudov có cảm giác như bị bỏng. Con ngựa uể oải nước kiệu, lóc cóc gõ đều những chiếc móng sắt trên con đường gồ ghề, đầy cát bụi, anh xà-ích lim dim ngủ, Nekhliudov đầu óc không nghĩ ngợi gì, hững hờ nhìn ra trước mặt. Đến cuối một phố, trước cổng một ngôi nhà lớn, thấy có một đám đông xúm lại, và có một người lính áp giải mang súng đứng cạnh, chàng bảo cho xe đỗ lại. - Có chuyện gì thế? - Chàng hỏi người gác cổng. Có một người tù làm sao ấy. Chàng bước xuống xe và lại gần đám đông. Trên mặt đường đá mòn, gồ ghề gần vỉa hè, có một người tù khổ sai nằm sõng sượt, đầu dốc xuống thấp hơn chân. Anh ta đã đứng tuổi, vai rộng, râu hung hung, mặt đỏ gay, mũi tẹt mình vận chiếc áo choàng và quần màu xám, hai bàn tay úp sấp lấm tấm vết tàn nhang. Bộ ngực vạm vỡ nở nang nhô lên, xẹp xuống đều đều, anh ta vừa thở nấc lên vừa trừng trừng giương cặp mắt đỏ ngầu những tia máu nhìn lên trời. Đứng xung quanh anh ta là một viên cảnh binh, lông mày nhíu lại, một người đưa thư, một người thư ký hiệu buôn, một bà lão đi ô và một thằng bé con tóc cắt ngắn cắp chiếc thúng không. - Họ đã bị yếu ở trong tù, yếu kiệt sức rồi, vậy mà dẫn họ đi dưới trời nắng như thiêu như đốt thế nầy còn gì? - Người thư ký hiệu buôn, giọng gay gắt, nói với Nekhliudov đang tiến lại gần. - Anh ta chắc chết mất thôi. - Bà cụ đi ô nghẹn ngào nói. - Phải cởi khuy áo cánh cho anh ta, - người đưa thư bảo viên cảnh binh. Viên cảnh binh đưa những ngón tay thô kệch, run rẩy, vụng về với những chiếc dải thắt quanh cái cổ gân guốc đỏ gay của người tù. Người ta thấy rõ là hắn cảm động và ngượng nghịu, nhưng hắn vẫn thấy cần phải lên giọng quát mọi người. - Xúm lại làm gì thế nầy? Trời nóng chết cha, các người còn chặn mất cả gió! - Lẽ ra phải để thầy thuốc khám tất cả đã. Rồi những ai yếu phải để lại. Vậy mà họ bắt cả những người đã ngắc ngoải như thế nầy đi, - người thư ký hiệu buôn lại nói, vẻ hãnh diện về sự hiểu biết pháp luật của mình. Sau khi đã cởi xong những dải áo cánh, viên cảnh binh đứng dậy liếc nhìn xung quanh. - Các người tản ra đi, tôi đã bảo rồi mà! Không phải công việc của các người. Có gì mà ngó nào? - Hắn vừa nói vừa quay lại nhìn Nekhliudov để tìm một sự đồng tình nhưng không thấy có chút nào, hắn liền nhln sang người lính áp giải. Nhưng anh nầy đứng lánh ra một nơi, đang mải xem xét cái gót giẩy của mình đã bị long ra, hoàn toàn không để ý đến sự bối rối của viên cảnh binh. - Những kẻ có trách nhiệm không trông nom gì đến… - Có phép nào để chết người như vậy không? - Người tù là người tù, nhưng họ cũng vẫn là một con người. - Có tiếng nói trong đám đông ngày càng ồn ào. - Nâng đầu anh ấy lên cho anh ấy uống nước! - Nekhliudov nói. - Có người đi lấy nước rồi, - viên cảnh binh trả lời, rồi hắn lấy tay nâng người tù dậy và khó nhọc lắm mới nâng được cao hơn một chút. - Xúm lại làm gì thề nầy? - Bỗng có một giọng nói đanh thép và hách dịch, và viên đồn trưởng cảnh sát, áo quần sạch trắng, đôi ủng bóng nhoáng, rảo bước lại gần đám người đang vây quanh nạn nhân. - Đi chỗ khác! Không việc gì đến các người ở đây - chưa biết chuyện gì hắn đã quát xua mọi người đi. Khi lại gần và trông thấy người hấp hối, hắn khẽ gật đầu làm ra vẻ hắn biết từ lâu rồi. - Làm sao lại thế nầy? Viên cảnh binh báo cáo là lức đoàn tù đi qua đây, người tù nầy ngã xuống và viện sĩ quan chỉ huy đã ra lệnh để người nầy lại. - Ừ thế thì sao? Phải chở nó về đồn cảnh sát. Gọi một chiếc xe lại đây. - Người gác cổng đã chạy đi gọi rồi ạ, - viên cảnh sát vừa nói vừa đưa tay lên mép mũ chào. Người thư ký hiệu buôn định bắt đầu nói về trời nóng nực. - Việc của anh đấy à? Đi đi! - Viên trưởng đồn quát lên và trợn mắt dữ dội nhìn người thư ký làm cho anh nầy tịt mất. - Phải cho anh ta uống nước mới được, - Nekhliudov nói. Viên trưởng đồn nghiêm mặt nhìn chàng nhưng không nói gì. Khi người gác cổng mang bình nước về, hắn bảo người cảnh binh cho người tù uống. Viên cảnh binh nâng cái đầu đã ngoẹo của người tù lên, cố đổ nước vào mồm, nhưng người tù không uống được. Nước trào ra ngoài chảy xuống râu làm ướt cả chiếc áo cánh và mảnh áo lót bằng vải gai đầy bụi. - Dội lên đầu cho nó, - viên trưởng đồn ra lệnh, và người cảnh binh trật cái mũ hình bánh đa ra, đổ cả bình nước lên cái đầu hói và mái tóc xoăn vàng hung hung. Mắt người bất hạnh mở to ra như khiếp sợ, nhưng người anh vẫn không động đậy. Trên mặt, nước lẫn cát bụi chảy ròng ròng, nhưng mồm vẫn tiếp tục thở ra những tiếng khò khè đều đều, toàn thân run bật lên. - Thế còn chiếc xe kia thế nào? Gọi nó lại dây! - Viên trưởng đồn vừa ra lệnh cho viên cảnh binh vừa chỉ vào anh đánh xe của Nekhliudov. - Ê! Thằng kia! Đánh xe lại đây! - Xe tôi có khách rồi, - anh đánh xe sẩm mặt lại, trả lời mắt không nhìn lên. - Xe tôi thuê đấy, - Nekhliudov nói, - nhưng ông cứ lấy đi! Tôi sẽ trả tiền anh! - Nekhliudov quay lại nói với người đánh xe. - Thế chúng bay còn đợi gì nữa? - Viên trưởng đồn quát lên. - Khiêng nó đi! Viên cảnh binh, người gác cổng và anh lính áp giải nâng người sắp chết lên, khiêng ra xe và vực anh ta đặt ngồi trên chiếc ghế. Nhưng anh ta không thể ngồi lấy một mình được, đầu thì ngoẹo ra đằng sau và toàn thân cứ tụt xuống khỏi ghế. - Để nó nằm xuống! - Viên trưởng đồn ra lệnh. - Bẩm quan, không sao ạ, tôi đưa về đồn như thế nầy được! - viên cảnh binh vừa nói vừa ngồi xuống cạnh người sắp chết và lấy cánh tay phải ôm xốc nách người anh ta. Người lính nhấc hai bàn chân không bít-tất xỏ trong đôi giầy nhà tù, lùa xuống ghế xe. Viên trưởng đồn liếc mắt nhìn quanh, hắn trông thấy cái mũ của người tù rớt ở dưới đường, liền nhặt lấy và chụp nó vào cái đầu ướt át, lả ngoẹo ra đằng sau xe. - Thôi, đi! - Hắn ra lệnh. Anh xà-ích cáu kỷnh ngoái lại nhìn quanh, lắc đầu và đánh xe đi bước một về đồn cảnh sát, người lính áp giải đi kèm bên. Viên cảnh binh ngồi bên cạnh người tù, luôn luôn phải xốc cái thây chỉ chực trườn xuống khỏi ghế, trong khi đó, cái đầu của nạn nhân lả bên nọ, lật bên kia. Người lính đi theo bên cạnh xe, chốc chốc lại đặt lại chân cho người tù. Nekhliudov bước theo sau xe. Chương 96 Chiếc xe tù chạy qua người lính cứu hoả(1) đứng gác ở cổng, vào trong sân đồn cảnh sát và đỗ lại trước bực cửa. Trong sân, mấy người lỉnh cứu hoả khác, tay xắn lên, vừa lau rửa một chiếc xe vừa nói cười ầm ĩ. Chiếc xe chở người tù vừa đỗ, đám cảnh binh xúm quanh ngay lại, họ xốc nách, nắm chân người tù và khiêng cái xác như không hồn ấy ra khỏi xe đang cọt kẹt dưới chân họ. Viên cảnh binh đi theo người tù nhảy xuống đất, vung vẩy bàn tay tê dại, trật chiếc mũ lưỡi trai ra và làm dấu. Người sắp chết được mang lên tầng gác trên, Nekhliudov đi theo sau. Trong căn phòng nhỏ bé, bẩn thỉu nơi người sắp chết được khiêng đến, có bốn chiếc giường con, hai chiếc đã có bệnh nhân: một người mồm méo xệch, cổ quấn băng, một người lao phổi. Người ta đặt người tù xuống một chiếc giường để không. Một người bé nhỏ, mắt sáng, lông mày luôn nhấp nháy, chỉ mặc quần áo lót và đi tất ngắn, bước đi nhanh nhèn, nhẹ nhàng; hắn lại gần nhìn người tù rồi nhìn Nekhliudov phá lên cười. Đấy là một người điên bị giữ lại ở trạm y tế đồn cảnh sát. - Chúng muốn doạ tôi? - Tên điên nói. - Nhưng không doạ được đâu? Viên sĩ quan trưởng đồn và một viên y sĩ cùng vào theo sau những người cảnh binh khiêng xác chết. Viên y sĩ lại gần người chết, nắn bàn tay có vệt tàn nhang vẫn còn mềm nhưng đã vàng ệch như sáp ong và lạnh toát. Ông ta cầm một lát rồi buông ra. Bàn tay rơi phịch xuống bụng người chết. - Đi đứt rồi, - viên y sĩ lắc đầu, nhưng rồi theo đúng thể thức, ông ta kéo tấm vải thô ẩm ướt của người chết lên, vén mớ tóc xoăn của mình ra khỏi vành tai, nghiêng đầu áp tai xuống bộ ngực vàng nhợt, nở nang và không còn động đậy của người tù. Tất cả mọi người im lặng. Ông ta ngồi thẳng lên, lắc đầu rồi lấy mấy ngón tay lần lượt vuốt hết mí mắt nọ đến mí mắt kia, đôi mắt tròng xanh cứ mở trừng trừng. - Tao không sợ đâu, tao không sợ đâu! - Người điên nói, miệng luôn mồm khạc nhổ về phía y sĩ. - Thế nào? - Tên sĩ quan hỏi. - Thế nào ư? Viên y sĩ nhắc lại. - Đưa hắn xuống nhà xác thôi. - Cẩn thận đấy, có chắc không? - Rõ quá đi còn gì, - viên y sĩ vừa trả lời vừa kéo vạt áo cánh che kín ngực người chết, không biết để làm gì. - Thôi cũng cứ cho tìm ông Matvey Ivanitch để đích thân ông ta khám. Petrov, anh đi tìm ông ấy đến ngay đây! - Người y sĩ nói rồi đi ra chỗ khác. - Thôi mang nó xuống nhà xác! - Tên sĩ quan nói. - Còn mày thì đến bàn giấy ký vào biên bản, - hắn quay lại với người lính áp giải, anh nầy từ nãy không rời người tù một phút… - Xin tuân lệnh, - người lính trả lời. Mấy người cảnh binh nhấc cái thây lên, khiêng đi; Nekhliudov định theo xuống thì người điên giữ lại, nói: - Ông không đồng loã với chúng nó chứ, vậy cho tôi xin điếu thuốc. Nekhliudov lấy bao thuốc lá, đưa cho anh ta một điếu. Người điên nhấp nháy đôi lông mày và nói rất nhanh, kể với chàng là người ta hành hạ anh ta bằng ám thị như thế nào. - Nghĩa là tất cả bọn chúng hùa nhau chống lại tôi, và đem bọn phù thuỷ của chúng ra hành hạ, giầy vò tôi. - Ông thứ lỗi cho, - Nekhliudov nói và không nghe tiếp chàng xuống sân, để xem người ta khiêng xác chết đi đâu. Mấy người cảnh binh khiêng cái xác lúc nãy đã đi qua sân vào đến trong cửa hầm. Nekhliudov muốn đi theo nhưng tên sĩ quan ngăn lại, hỏi: - Ông cần gì? - Tôi không cần gì cả. - Không cần thì ông hãy đi chỗ khác! Nekhliudov nghe theo và đi ra xe. Anh đánh xe đang ngủ. Chàng thúc hắn dậy và cả hai cùng quay trở lại ga. Chưa đi được một trăm thước thì họ lại gặp một chiếc xe tải cũng có một người lính áp giải mang súng đi kèm. Một người tù nữa đã chết hẳn rồi, để nằm trên xe. Anh ta nằm ngửa, cái đầu cạo trọc với chòm râu đen, đội chiếc mũ hình bánh đa lật úp xuống tận mũi, mỗi lần chiếc xe vấp phải cái gì lại nẩy tung lên. Người đánh xe tải đi đôi ủng to, cầm một dây cương đi theo bên cạnh con ngựa; theo sau là một cảnh binh. Nekhliudov khẽ vỗ vào vai anh xà-ích của mình. Anh xà-ích kỳm ngựa dừng lại, nói: - Ngài xem họ đang làm cái gì kỳa. Nekhliudov bước xuống và đi theo sau chiếc xe tải, chàng lại qua trước mặt người lính cứu hoả gác cổng vào trong sân đồn. Lúc đó mấy người lính cửu hoả đã rửa xe xong. Ở chỗ họ đứng ban nãy, bây giờ là một viên đại uý đội cứu hoả, người cao mà gầy, mũ lưỡi trai đính băng màu xanh; hắn thọc tay vào túi, cau có nhìn con ngựa nòi màu hạt dẻ cổ béo núc; một người lính cứu hoả dắt con ngựa đi cho nhanh trước mặt hắn. Con ngựa khập khiễng một chân trước và viên đại uý bực tức nói gì với viên thú y đứng bên cạnh. Khi nhìn thấy cái xác thứ hai, viên sĩ quan trưởng đồn cảnh sát, lúc đó cũng có mặt, lại gần người đánh xe tải hất hàm hỏi vẻ bực tức: - Nhặt được nó ở đâu đấy? - Ở phố Borbatovxkaia cũ ạ. - Một tù nhân à? - Viên đại uý hỏi. - Vâng ạ. - Đây là đứa thứ hai trong ngày hôm nay, - viên sĩ quan trưởng đồn nói. - Tổ chức gì lạ vậy? Mà sao trời nóng thế! - Viên đại uý đội cứu hoả nói rồi lại quay về phía người lính dắt con ngựa màu hạt dẻ đi tập tễnh, hắn quát - Cho nó vào ngăn buồng ở trong góc ấy. Còn mày, đồ chó đẻ, tao sẽ bảo cho mày biết cách làm què những con ngựa có giá trị hơn chúng mày, đồ súc sinh! Cũng như cái xác thử nhất, người chết được mang đến trạm xá. Nekhliudov như người bị thôi miên đi theo sau. - Ông muốn gì? Không trả lời, Nekhliudov đi theo đến chỗ người ta khiêng xác vào. Người điên ngồi trên giường hút lấy hút để điếu thuốc xin được của Nekhliudov. - A, ông lại trở lại à - Hắn nói và cười rộ lên. Trông thấy người chết, hắn nhăn mặt lại. - Lại nữa! Tôi chán lắm rồi. Tôi không phải là một đứa trẻ con, có phải không? Hắn vừa nói vừa quay lại mỉm cười như hỏi Nekhliudov. Trong khi đó, Nekhliudov nhìn cái xác người lúc nãy không gì che đậy và khuôn mặt, trước có cái mũ úp lên trên, giờ đây để phơi ra. Người tù khổ sai trước xấu xí bao nhiêu thì diện mạo và thân hình người nầy đẹp đẽ khác thường bấy nhiêu. Một người đang độ sung sức. Mặc dầu một nửa đầu đã bị cạo làm cho xấu xí, vừng trán không cao nhưng thẳng, hơi gồ trên đôi mắt đen đã lạc tinh thần, còn rất đẹp, cũng như cái mũi xinh xinh, sống mũi cong cong ở trên đôi ria mép tuấn tú. Đôi môi đã tím ngắt còn ngậm một nụ cười; một bộ râu lưa thưa bao quanh dưới cằm và bên nửa đầu để lộ ra một vành tai xinh xinh cứng cáp, đẹp đẽ. Vẻ mặt nom nghiêm trang, bình tĩnh và phúc hậu. Không kể là qua vẻ mặt người đó thấy rõ biết bao khả năng tinh thần đã bị huỷ diệt đi cùng với con người, mà qua hình thù nhỏ nhắn các xương tay và chân bị xiềng xích, nhìn vào những bắp thịt rắn chắc của chân tay thật cân đối, cũng thấy rõ anh ta trước kia chỉ với tư cách một sinh vật, là một người đẹp đẽ, khỏe mạnh, nhanh nhẹn nhường nào; so với con ngựa giống màu hạt dẻ mà vết thương đã làm viên đại uý đội cứu hoả giận dữ đến như vậy thì con người anh ta cũng còn hoàn hảo gấp bội. Thế mà người ta đã giết anh ta và không những đã chẳng có một ai thương xót anh là một con người, mà cũng chẳng có ai thương tiếc cho anh ở tư cách là một con vật hữu dụng đã bị giết vô ích. Tình cảm duy nhất mà cái chết của anh gợi cho tất cả những con người ở đó là sự bực mình và phải bận mang gấp cái thây sắp rữa nầy đi nơi khác. Bác sĩ, y sĩ và viên trưởng đồn cảnh sát vào trong phòng. Bác sĩ là một người to béo và lùn, mình bận chiếc áo đũi chiếc quần hẹp cũng bằng đũi bó chắt lấy cặp đùi chắc nịch. Viên trưởng đồn người nhỏ bé, mập mạp, mặt đỏ ửng, tròn như quả bóng, bộ mặt ấy càng tròn hơn khi hắn phồng mang lên lấy hơi - hắn có thói quen như vậy rồi lại từ từ thở ra. Bác sĩ ngồi xuống giường người chết và cũng y như viên y sĩ lúc nãy, ông ta nắm đôi tay người chết, nghe tim đập rồi vừa đứng dậy vừa xốc quần, nói: - Chết cứng ra rồi còn gì. Viên trưởng đồn ngậm hơi đầy mồm, từ từ phun ra. - Ở nhà tù nào đấy? - Hắn hỏi người lính. Người nầy trả lời và nhắc hắn về những vòng xích ở chân người chết. - Ta sẽ cho tháo ra. Lo gì, đã có thợ rèn, - tên trưởng đồn nói. Hắn phùng má lên và vừa đi về phía cửa sổ vừa thổi phù hơi ra. - Nhưng sao lại có thể thế được ạ? - Nekhliudov hỏi. Bác sĩ nhìn chàng qua mục kỷnh: - Ông hỏi tại sao lại thế ư? Sao họ lại chết vì trúng nắng ư? Bởi vì họ bị giam suốt cả mùa đông chứ sao, không vận động, không có ánh sáng và bỗng nhiên đi ra nắng, mà lại vào một hôm như hôm nay; hơn nữa lại đi thành đoàn, không thoáng khí. Thế là bị trúng nắng chứ còn gì nữa? - Nhưng sao lại đưa họ đi như vậy? - Ồ, cái đó ông đi mà hỏi người ta. Nhưng ông là ai mới được? - Một người qua đường. - A! Xin chào ông! Tôi không có thì giờ, - bác sĩ nói và bực dọc vuốt quần xuống đi về phía giường các bệnh nhân. - Thế nào? Anh dễ chịu chứ? - Ông ta nói với người đàn ông méo mồm, cổ quấn băng. Người điên lúc nầy đã hút thuốc xong, ngồi ở trên giường, khạc nhổ về phía người thầy thuốc. Nekhliudov xuống dưới nhà, ra sân. Chàng đi qua trước mặt những con ngựa của đội cứu hoả: và mấy con gà mái, rồi qua trước mặt người lính gác đầu đội mũ đồng, ra khỏi cổng; chàng lên xe và bảo người xà ích đánh xe ra ga, anh chàng đã ngủ gật. Chú thích: (1) Thời đó, cảnh sát và lính cứu hoả cùng đóng chung một chỗ. Chương 97 Khi Nekhliudov ra tới ga thì tất cả đám tù đã ngồi trong những toa xe có cửa sổ chấn song sắt. Trên sân ga, có vài người đi tiễn, nhưng họ không được lại gần các toa xe. Đám lính áp giải từ lúc nầy đặc biệt bận rộn. Trên quãng đường từ nhà lao đến ga, ngoài hai người đàn ông mà Nekhliudov đã chứng kiến, còn có ba tù nhân nữa bị cảm nắng chết. Một người trong bọn họ đã được đưa vào đồn cảnh sát gần nhất như hai người tù trước, còn những người kia đã chết ngay ở ngoài ga(1). Bọn lính áp giải không hề bận tâm đến việc năm người tù dưới sự áp giải của họ đáng lẽ ra có thể sống được mà lại chết. Điều đó họ không lo; họ chỉ lo làm sao thi hành cho thật chu đáo, những quy định của pháp luật trong những trường hợp như vậy: giao người chết, giấy tờ và đồ đặc của họ đến chỗ có trách nhiệm, và gạch họ tên họ trong danh sách những tù nhân giải đi Nizni Novgorod những công việc đó làm rất chật vật nhất là vào những hôm trời nắng thế nầy. Họ đang bấn vào những thủ tục ấy nên chừng nào công việc chưa xong thì họ không thể nào để cho Nekhliudov và những người khác tới gần các toa xe được. Nhưng Nekhliudov đã cho tiền một tên hạ sĩ quan áp giải nên được lại gần ngay; tên nầy để cho chàng đi qua, nhưng yêu cầu nói chuyện thật nhanh nhanh rồi đi, đừng để cho viên sĩ quan phụ trách trông thấy. Có tất cả mười tám xe, trừ một toa chở các nhà đương sự không kể, còn thì toa nào cũng chật ních những tù nhân. Đi dọc theo các cửa sổ toa xe, Nekhliudov lắng tai nghe: chỗ nào cũng chỉ thấy tiếng xích sắt, tiếng xô đẩy, ồn ào, xen lẫn những tiếng thô tục không tưởng tượng được tịnh không thấy ở đâu cỏ lấy một lời nói về những người bạn cùng đi đã gục chết ở dọc đường như ý chàng mong đợi. Trái lại, câu chuyện chỉ xoay quanh những vấn đề hành lý, nước uống và chọn chỗ ngồi. Ngó qua cửa sổ một toa, Nekhliudov trông thấy ở lối đi giữa toa có hai người lính đang tháo cùm cho tù. Những người nầy chìa tay ra: một người lính lấy chìa khoá mở khoá, gỡ cùm ra. Còn người kia thu lại số cùm. Sau khi lướt qua hết mấy toa đàn ông, Nekhliudov đến đám toa đàn bà. Chàng nghe thấy ở trong toa thứ hai có tiếng rền rĩ đều đều, tiếp theo là một tiếng kêu rên: "Ối, ối, ối trời đất ơi!" Nekhliudov không dừng lại, đi luôn và theo chỉ dẫn của một người lính, chàng lại gần toa thứ ba. Vừa mới đến bên cạnh một chiếc cửa sổ, chàng đã thấy một luồng hơi nóng nồng nặc mùi mồ hôi, từ trong xông ra, và nghe rõ thấy tiếng đàn bà léo nhéo. Trên chiếc ghế dài, ngồi chật những tù nhân mặc áo choàng với áo lót ngắn, mặt mày đỏ gay, mồ hôi nhễ nhại, họ đang chuyện trò ầm ĩ. Gương mặt Nekhliudov tiến lại gần chấn song khiến họ chú ý. Những người ngồi gần nhất bèn im lặng, xô đẩy nhau lại phía chàng. Maxlova bận áo trắng, đầu để trần, ngồi ở phía cửa sổ đối diện bên kia. Cạnh nàng cô thiếu nữ trắng trẻo và tươi cười Fedoxia. Nhận ra Nekhliudov, cô ta lấy khuỷu tay hích Maxlova và chỉ cho nàng thấy. Katiusa vội vã đứng dậy, choàng chiếc khăn lên mái tóc đen và vừa mỉm cười vừa bước lại gần cửa sổ, tay nắm lấy chấn song, mặt hớn hở ửng đỏ, lấm tấm mồ hôi. - Nóng ghê quá? - Nàng tươi cười sung sướng nói. - Cô đã nhận được các thứ chưa? - Đã, cảm ơn ông. - Cô có cần gì nữa không? - Nekhliudov hỏi, chàng cảm thấy cái hơi hầm hập từ trong toa xe bốc ra nóng như hơi lửa. - Tôi không cần gì nữa, xin cảm ơn ông. - Giá mà được uống nước nhỉ? - Fedoxia nói. - Ờ phải, giá được uống nước, - Maxlova nhắc lại. - Thế người ta không cho các cô nước uống à. - Họ có mang đến, nhưng uống hết cả rồi. - Tôi sẽ hỏi xin người lính cho. Từ đây cho tới Nizni Novgorod, tôi sẽ không được gặp các cô nữa đâu. - Vậy ông cũng đến đấy à? - Maxlova hỏi, làm như không biết việc đó, mắt nhìn chàng, vẻ sung sướng. - Tôi đi chuyến tàu sau. Maxlova không trả lời, chỉ sau đó một lát mới bật tiếng thở dài. - Thưa ngài, có thật là có mười hai tù nhân bị hành hạ chết dọc đường không ạ? - Một bà lão vẻ người xấu xí hỏi, giọng nói thô kệch quê mùa. Đó là bà Korableva. - Tôi không thấy nói là mười hai. Tôi trông thấy có hai. - Nekhliudov nói. - Người ta bảo có mười hai người bị chết. Thế mà chúng nó không bị trừng trị gì cả, phải không? Ôi, lũ ác quỷ! - Thế phụ nữ không ai bị ốm đau gì chứ? - Nekhliudov hỏi. - Đàn bà chúng tôi vững hơn ạ, - một nữ tù nhân, người nhỏ nhắn, vừa cười vừa nói. - Chỉ có mỗi một chị nảy ra ý kiến muốn ở cữ thôi. Ông nghe chị ta kêu đấy? - Vừa nói thêm, người ấy vừa chỉ sang toa bên cạnh, từ đấy văng vẳng đưa ra những lời rên rỉ. - Ông hỏi chúng tôi cần gì ư? - Maxlova vừa nói vừa cố nén một nụ cười vui vẻ, - Thế liệu có cách nào để người đàn bà đau đẻ ấy được phép ở lại không? Hay ông nói cho một lời với các nhà chức trách… - Được tôi sẽ nói. Còn việc nầy nữa, chị Fedoxia đây muốn gặp anh Taratx, chồng chị ấy có được không ạ? - Nàng vừa nói thêm vừa đưa mắt về phía Fedoxia. - Anh ta cùng đi với ông phải không? - Thưa ngài, có lệnh cấm không ai được nói chuyện với tù nhân - Một viên hạ sĩ quan lại gần nói. Hắn không phải là tên đã ăn tiền để cho Nekhliudov lại gần tàu. Chàng lui ra và tìm viên trưởng đoàn để nói hộ cho Taratx và người đàn bà đang giở dạ đẻ, nhưng mãi chẳng tìm thấy và hỏi thăm cũng không có tên lính nào trả lời. Tất cả họ đang bấn lên: một số bận giải một người tù đàn ông đi đâu đó, mấy tên khác mải chạy đi mua thức ăn và xếp lại đồ đạc của chúng lên các toa xe, còn một số nữa thì mắc giúp đỡ một mụ đi cùng với tên sĩ quan, cho nên chúng có trả lời chàng cũng là miễn cưỡng. Mãi sau hồi chuông hiệu(2) thứ hai cho tàu chạy, Nekhliudov mới trông thấy tên sĩ quan. Hắn đang lấy cánh tay ngắn ngủi chùi bộ ria mép trùm kín cả mồm, và đang nhún vai quở mắng viên thượng sĩ về chuyện gì đó. - Ông muốn cái gì? - Hắn hỏi Nekhliudov. - Ở trong toa xe có một người đàn bà đang giở dạ đẻ. Tôi nghĩ nên… - Ừ thì cứ để nó đẻ đi? Sau đó sẽ hay, - tên sĩ quan vừa nói vừa vung mạnh hai cánh tay ngắn ngủn, bước lên toa xe của hắn. Đúng lúc đó thì viên xa trưởng đi qua, tay cầm còi. Hồi chuông hiệu cuối cùng vang lên, tiếp theo là một tiếng còi. Trên sân ga, trong đám những người đi tiễn, và trong toa đàn bà, vang lên tiếng khóc lóc rền rĩ. Nekhliudov đứng với Taratx trên sân ga nhìn những toa tầu có cửa sổ chấn song sắt với những chiếc đầu cạo trọc của tù khổ sai, nối tiếp nhau diễn ra trước mắt. Rồi toa thứ nhất chở phụ nữ chuyển tới. Chàng nhìn thấy rõ những mái đầu tựa vào cửa sổ, người thì quấn tóc người bịt khăn vuông; rồi đến toa thứ hai, từ đó vẫn vọng ra những tiếng rên ri của người đàn bà đang giở dạ đẻ; cuối cùng đến toa trong đó có Maxlova. Nàng đứng ở cửa sổ cùng với nhiều người khác và nhìn Nekhliudov, nàng mỉm cười chua xót. Chú thích: (1) Đầu năm 1880 ở Moskva có năm tù nhân chết vì cảm nắng một ngày trong chuyến đi từ nhà lao Butieki đến ga xe lửa Nizni Novgorod (Chú thích của tác giả). (2) Hồi ấy ở nước Nga, tại ga đầu, thường thường 15 hay 20 phút trước khi tàu chạy có hồi chuông thứ nhất; trước 10 phút có hồi chuông thứ hai; ngay trước khi tàu chạy có hồi chuông thứ ba. Ở các ga trung tâm thì khoảng cách giữa hai lần chuông báo có ngắn hơn ít nhiều. (Theo bản dịch Hoa văn) Chương 98 Còn hai tiếng nữa thì chuyến tàu hành khách có Nekhliudov sẽ khởi hành. Thoạt tiên, chàng định tranh thủ trong thời gian đó đi gặp chị gái, nhưng sau những ấn tượng buổi sáng, chàng cảm thấy bị kích động và mệt mỏi quá đến nỗi khi ngồi xuống chiếc ghế tràng kỷ nhỏ trong quán ăn hành khách hạng nhất, chàng bỗng thấy buồn ngủ quá, liền xoay người sang một bên và ngủ thiếp ngay đi, má tì vào lòng bàn tay. Một anh hầu bàn quần áo tề chỉnh, đeo huy hiệu, ở tay vắt một chiếc khăn ăn, đánh thức Nekhliudov dậy. - Thưa ngài, có phải ngài là công tước Nekhliudov không? Có một bà tìm ngài. Nekhliudov bừng tỉnh dậy và dụi mắt; nhớ lại xem mình đang ở đâu, và những sự việc xảy ra sáng nay. Trong ký ức chàng diễn ra đoàn tù nhân: những xác chết, những toa xe với những chiếc cửa sổ chấn song sắt và những người đàn bà bị nhốt ở trong; một người đau đẻ không có ai giúp đỡ, còn một người nữa thì mỉm cười chua chát với chàng, từ phía sau hàng chấn song sắt. Nhưng thực tế trước mắt chàng lại là một cảnh tượng khác hẳn: một cái bàn đầy những chai, những bình, những đài cắm nến, những bộ đồ ăn và xung quanh là những anh hầu bàn đi lại nhanh nhẹn; ở cuối phòng, trước một cái tủ quẩy đầy những đĩa hoa quả và chai lọ là người bán hàng và lưng những hành khách đứng đợi. Khi Nekhliudov đã ngồi dậy và dần dần tỉnh lại, chàng nhận thấy tất cả những người có mặt ở đấy đang tò mò theo dõi một cái gì xảy ra và thấy một toán người đang kiệu một bà ngồi trong một chiếc ghế bành, đầu trùm một tấm khăn "voan" mỏng. Người đầy tớ kiệu đi trước, nhìn mặt. Nekhliudov thấy có vẻ quen quen. Người kiệu đi sau là một anh gác cửa đội mũ lưỡi trai có băng dải vàng, cũng quen mặt. Theo sau kiệu là chị hầu phòng tóc uốn xoăn, mình bận chiếc tạp dề xinh xinh, tay mang một cái gói nhỏ, một vật gì tròn tròn để trong một cái bao da và mấy chiếc dù. Sau đến công tước Korsagin môi dày, cổ béo núc ních, bộ ngực ưỡn ra, đầu đội mũ lưỡi trai kiểu du lịch. Và cuối cùng đến cô Mitxi và người anh họ cô tên là Misa, cùng nhà ngoại giao Oxten, cổ cò hương, lộ hầu, lúc nào cũng vui tính mà Nekhliudov quen biết. Anh ta vừa đi vừa nói một câu chuyện gì nghiêm trang nhưng rõ ràng vẫn vừa bông lơn với cô Mitxi luôn mỉm cười. Sau rốt là lão bác sĩ, vừa đi vừa hút lấy hút để một điếu thuốc lá. Gia đình Korsagin rời ấp của họ ở vùng ngoại ô Moskva để đến ấp người chị ruột bà Công tước, trên con đường đi Nizni. Đám những người kiệu ghế, chị hầu phòng và lão bác sĩ đi vào trong phòng đợi của phụ nữ; thấy họ vào tất cả mọi người ở đấy tỏ vẻ chú ý và kính nể. Còn lão công tước vừa ngồi vào bàn là gọi ngay hầu bàn, sai lấy cho mình một cái gì đó. Mitxi và Oxten cũng dừng lại ở phòng quán ăn; họ đang sắp sửa ngồi xuống thì thấy từ ngoài cửa đi vào một người quen, họ liền ra đón. Người đó là Natalia Ivanovna, có Agrafena Petrovna đi theo. Natalia vừa đi vào vừa nhìn xung quanh. Hầu như cùng một lúc, nàng nhìn thấy cả Mitxi và cậu em trai. Thoạt tiên, nàng lại gần người thiếu nữ, đồng thời gật đầu làm hiệu với em. Ôm hôn Mitxi xong, nàng liền nói với Nekhliudov: - Gớm, mãi bây giờ chị mới tìm thấy cậu. Nekhliudov đứng dậy chào Mitxi, Misa và Oxten và chuyện trò với họ vài câu. Mitxi kể cho chàng nghe chuyện vì ngôi nhà ở nông thôn bị cháy, nên gia đình nàng phải dọn đến ở nhà bà dì. Nhân câu chuyện ấy, Oxten kể một câu chuyện cháy nhà ngộ nghĩnh, Nekhliudov không nghe hắn kể, quay sang phía chị, nói: - Chị đến, em mừng quá! - Chị đã đến từ lâu, có cả bà Agrafena Petrovna cùng đi. Nàng vừa nói vừa chỉ về phía bà Petrovna; bà nầy đầu đội mũ, mình mặc áo đi mưa, vẻ dịu dàng, trân trọng, e lệ từ xa chào vọng lại, không muốn lại gần để khỏi phiền chàng. - Bà ấy và chị, cả hai tìm cậu khắp nơi. - Thế mà em thì lại ngủ chợp đi ở đây. Chị đến, thật em mừng quá! - Chàng nhắc lại. - Em đã bắt đầu viết cho chị một bức thư. - Thế à? Nàng nói, vẻ sợ hãi. - Về vấn đề gì thế cậu? Thấy hai chị em Nekhliudov sắp bắt đầu nói với nhau về chuyện riêng. Mitxi và mấy người bạn trai của cô liền đi ra chỗ khác. Nekhliudov cùng với chị ngồi xuống bên cửa sổ, trên một cái ghế tràng kỷ bọc nhung, trên ghế, ngay bên cạnh, có một tấm mền đi đường, một chiếc hộp giấy và đồ đạc của một người nào đó. Chiều hôm qua, sau khi từ biệt anh chị, em đã định trở lại xin lỗi, nhưng em không biết anh ấy sẽ cho là thế nào; em đã hơi quá lời với anh, điều đó làm em ân hận mãi. - Chị biết lắm, chị tin là cậu chẳng muốn… Cậu cũng biết rõ… Nước mắt rưng rưng, nàng đặt tay vào tay em. Câu nói của nàng tuy không rõ, nhưng Nekhliudov cũng hiểu và rất cảm động về ý nghĩa của nó. Ý nàng muốn nói là tuy nàng hết lòng yêu chồng, nhưng tình nghĩa chị em, nàng vẫn coi là quan trọng và quý giá, và mỗi điều xích mích giữa chồng và em đều làm cho nàng hết sức đau lòng. - Cảm ơn chị, cảm ơn chị… Ôi! Giá chị được mục kích những cảnh tượng mà em đã trông thấy trong ngày hôm nay, - chàng nói vì bỗng nhớ đến người tù bị chết thứ hai. - Hai người tù đã bị giết chết! - Bị giết chết thế nào hả cậu? - Vâng, bị giết chết! Người ta dẫn họ đi đang lúc trời nóng bức thế nầy, nên hai người đã bị cảm nắng mà chết. - Không thể thế được! Thế nào, ngày hôm nay à? Vừa mới đây thôi à? - Đúng, vừa mới đây thôi. Em đã trông thấy xác họ. - Nhưng tại sao mà người ta lại giết họ? Ai đã giết? - Natalia Ivanovna nói. - Những người đã bắt họ phải đi đã giết họ chứ ai - Nekhliudov bực tức trả lời, chàng cảm thấy nàng nhìn nhận việc nầy y như chồng vậy. - Ôi lạy Chúa tôi? Bà Agrafena Petrovna đã đứng lại gần, kêu lên. - Phải, chúng ta đã không biết một tí gì về người ta đã hành hạ những người bất hạnh ấy, thế mà, chúng ta có nhiệm vụ phải biết những cái đó! - Nekhliudov vừa nói thêm vừa nhìn lão công tước Korsagin ngồi trước một đĩa hoa quả, cổ buộc một cái khăn; và cùng lúc đó, ngẩng đầu lên lão nhìn thấy Nekhliudov. - Nekhliudov! - Lão gọi to. Anh có muốn uống một chút gì giải nhiệt không? Đi đường xa mà uống một chút thì tốt lắm. Nekhliudov từ chối và quay mặt đi. - Nhưng cậu định làm gì bây giờ? - Natalia Ivanovna hỏi tiếp. - Làm cái gì em có thể làm được. Hiện nay em cũng chưa biết là cái gì, nhưng em cảm thấy cần phải làm một cái gì đấy. Và em sẽ làm việc gì em có thể làm được. - Phải, phải, chị hiểu. Nhưng với họ? - Nàng mỉm cười đồng thời đưa mắt về phía gia đình Korsagin. - Có thật mọi việc đã chấm dứt rồi không? - Dứt hẳn rồi, em nghĩ cả hai bên đều không có gì để luyến tiếc. - Thật là đáng tiếc. Chị tiếc lắm. Chị rất mến cô ta. Thôi, hãy cứ cho là như vậy, nhưng vì lẽ gì cậu lại muốn tự trói buộc mình lại? Cậu đi làm gì? - Nàng rụt rè hỏi thêm. - Em đi vì đó là bổn phận của em, - Nekhliudov nói, giọng trang nghiêm và lạnh nhạt như muốn chấm dứt câu chuyện. Nhưng chàng lại hối hận ngay về sự lạnh nhạt của mình. "Tại sao ta không nói với chị ta tất cả những điều ta nghĩ? Và để cho cả Agrafena Petrovna nghe nữa?" Chàng vừa tự nhủ vừa nhìn bà hầu phòng già nua. Sự có mặt của bà Agrafena Petrovna càng thôi thúc hơn nữa chàng nói ra điều quyết tâm của mình với người chị ruột. - Chị muốn nói đến việc em định cưới Katiusa phải không? Chị thấy đấy, em đã quyết định lấy, nhưng cô ta dứt khoát khăng khăng một mực chối từ, - chàng nói, giọng run lên như mỗi lần nói tới điều đó. - Cô ta không muốn nhận sự hy sinh của em, mà muốn chính mình lại hy sinh; trong hoàn cảnh của cô ta hiện nay thì hy sinh như vậy là hy sinh rất lớn. Em không thể nào nhận sự hy sinh đó nếu nó chỉ là do xúc động nhất thời. Và bây giờ em đi theo cô ta; cô ta ở đâu em sẽ ở đấy và đem hết sức mình ra làm cho số phận cô ta bớt đau khổ. Natalia không nói gì. Agrafena Petrovna lắc đầu và nhìn nàng, vẻ dò hỏi. Giữa lúc đó, từ phòng đợi của phụ nữ, toán người lúc nãy lại đi ra. Vẫn Filip, anh đầy tớ điển trai, cùng người gác cửa, hai người kiệu bà công tước Korsagin. Thấy Nekhliudov, bà ta đỗ kiệu, vẫy chàng lại gần vừa chìa bàn tay ra vừa lo lắng chờ đợi một cái bắt tay quá mạnh. - Thật kinh khủng? - Bà ta muốn nói về trời nóng nực. - Tôi không chịu nổi! Cái khí hậu nầy nó giết tôi mất? Khi đã nói xong về những cái khủng khiếp của khí hậu nước Nga và mời Nekhliudov đến nhà chơi, bà ra hiệu cho hai người kiệu bà đi. - Nhớ thế nào cũng lại đằng tôi chơi nhé! - Đi được một quãng rồi, bà ta còn ngoái cái gương mặt dài thưỡn lại nói với Nekhliudov. Chàng ra sân ga. Đám người kiệu bà công tước rẽ về bên tay phải, đi về phía những toa hạng nhất. Nekhliudov cùng một người phu vác hành lý cho mình và Taratx lưng đeo tay nải, rẽ về bên tay trái. - Đây là người bạn đường của em, - Nekhliudov chỉ vào Taratx, nói với chị, trước đây chàng đã có dịp nói với chị về anh chàng nầy. - Sao kia? Cậu đi toa hạng ba à? - Natalia Ivanovna hỏi khi thấy Nekhliudov dừng lại trước một toa xe hạng ba, và người phu vác hành lý cùng với Taratx trèo lên xe. - Vâng, đi thế nầy em thích hơn, em đi cùng với Taratx, - chàng nói. - À còn một việc nầy nữa, - chàng nói thêm. - Cho tới nay, ruộng đất ở Kuzminxkoie em chưa trao hẳn cho nông dân; như vậy, trường hợp em chết đi, các cháu sẽ là người thừa kế. - Dmitri, cậu đừng nói thế! - Nếu em có đem chỗ ruộng đất ấy cho đi, thì em chỉ có thể nói một điều là, tất cả chỗ tài sản còn lại sẽ về phần các cháu, vì không chắc gì em lấy vợ, mà nếu có lấy nữa thì cũng sẽ không có con. Cho nên… - Dmitri, chị van cậu, đừng nói với chị như thế! - Natalia nói. Tuy nhiên, Nekhliudov nhận thấy nghe chàng nói thế, nàng rất mừng. Ở phía đầu đoàn tàu, cạnh đám toa hạng nhất chỉ còn mấy người vẫn đứng ngắm toa xe trong có bà công tước Korsagin. Hầu hết các hành khách đã ngồi yên chỗ, chỉ còn một vài người đến chậm đang chạy vội, gót chân giẫm sầm sầm trên những tấm ván sàn sân ga; nhân viên hoả xa đóng cửa các toa xe lại, yêu cầu tất cả hành khách lên tàu và người ra tiễn đi về. Nekhliudov vào trong toa xe nóng bức và hôi hám, nhưng lập tức lại ra ngay ngoài sân cỏ, chỗ toa nối nhau. Natalia Ivanovna, đầu đội chiếc mũ hợp thời trang, mình khoác áo choàng ngắn, cùng với bà Agrafena Petrovna đứng đối diện toa xe. Nàng hẳn đang cố tìm một câu chuyện gì để nói với em, nhưng không tìm ra. Ngay cả cái câu "Viết thư nhé" nàng cũng không nói được nữa, vì từ xưa, hai chị em vẫn chế giễu cái câu cổ truyền người ta thường dùng khi chia tay đó. Mấy lời ngắn ngủi trao đổi với nhau về những vấn đề tiền bạc và gia tài phút chốc đã phá tan mối tình chị em thật là âu yếm vẫn có từ trước giữa hai người; bây giờ đối với nhau họ cảm thấy hững hờ xa lạ. Cho nên Natalia Ivanovna mừng thầm khi đoàn tàu chuyển bánh, nàng chỉ gật gật đầu vẻ mặt buồn rầu, thương cảm: "Chúc cậu đi mạnh khỏe nhé, cậu Dmitri!". Nhưng đoàn tàu vừa chuyển qua, nàng đã nghĩ ngay tới cách thuật lại thế nào với chồng câu chuyện vừa nói với em trai; vẻ mặt nàng lúc nầy nom nghiêm trang, tư lự. Nekhliudov cũng vậy, dù rằng từ trước, đối với chị chàng chỉ có những tình cảm hết sức thân thiết và không giấu chị một điều gì, giờ đây, chàng cũng thấy bứt rứt nặng nề và mong muốn chóng đi xa chị. Chàng cảm thấy người chị Natalia thân thiết xưa kia, nay không còn nữa; chỉ còn có một nô tỳ của một anh chàng khả ố, da ngăm ngăm đen, người đầy lông lá, xa lạ đối với chàng. Chàng đã nhận thấy rõ ngay như thế khi trông thấy gương mặt bà chị tươi hẳn lên lúc nghe chàng bắt đầu nói về cái điều chồng nàng đang quan tâm, tức là về việc đem ruộng đất cho nông dân và việc thừa hưởng gia tài. Và điều đó làm cho chàng rất buồn. Chương 99 Trong toa xe hạng ba rộng lớn chật ních hành khách lại bị mặt trời nung nấu suốt một ngày, hơi nóng ngột ngạt quá nên Nekhliudov không vào trong toa mà đứng bên ngoài, chỗ nối toa. Nhưng cả ở đấy nữa cũng không có lấy một chút hơi mát. Mãi khi đoàn tàu ra khỏi thành phố và có những luồng gió thổi qua, chàng mới thấy được thở căng lồng ngực. "Đúng, chúng đã giết họ" - chàng nhắc lại những lời đã nói với chị. Và trong trí tưởng tượng của chàng, trên tất cả những ấn tượng của ngày hôm đó, vụt hiện lên một cách sinh động khác thường cái khuôn mát đẹp đẽ của người tù thứ hai với nụ cười trên môi, với vẻ trang nghiêm trên vầng trán, với vành tai cứng cáp, xinh xinh dưới cái đầu trọc đã tím lại. "Và cái điều kinh khủng hơn cả là anh ta đã bị giết mà không người nào biết ai đã giết. Thế mà anh ta đã bị chúng giết. Theo lệnh của Maxlenikov, người ta đã dẫn anh đi như tất cả những người khác. Chắc hẳn Maxlenikov cũng chỉ đã ra lệnh như mọi bận, hắn nguệch ngoạc một chữ kí ngu ngốc trên một tờ giấy có tiêu đề và chắc chắn là hắn tuyệt nhiên không tự cho mình là kẻ có tội trong việc nầy. Còn bác sĩ khám sức khỏe tù nhân, thì lại càng không thấy có tội. Ông ta đã làm phận sự không sai một ly, đã lọc ra những người yếu sức; ông ta đoán trước sao được hôm nay trời lại nóng như thiêu như đốt như thế nầy và họ lại giải tù đi muộn như vậy, mà lại đông đến thế. Còn giám ngục? Viên giám ngục cũng chỉ là thi hành cái mệnh lệnh phải giao đi, vào ngày nào đó, một số là bao nhiêu tù khổ sai, bao nhiêu tù đi đày, bao nhiêu nam, bao nhiêu nữ, thế thôi. Cũng không thể nói viên sĩ quan áp giải là có tội được; nhiệm vụ của hắn là nhận một số tù nào đó, ở một nơi đã định và giao lại đủ số đó ở một nơi nào đó. Hắn đã giải đi như thường lệ và cũng không ngờ đâu rằng những con người khỏe mạnh, như hai người mà Nekhliudov đã trông thấy đấy, lại không chịu nổi và bị chết. Không ai có tội cả, thế nhưng lại đã có những người đã bị giết mà bị giết chính bởi ngay những kẻ không có tội lỗi gì về cái chết của họ?". "Sự thể nầy xảy ra, - Nekhliudov nghĩ, - chỉ tại chỗ tất cả những người đó - tỉnh trưởng, giám ngục, trưởng đồn, cảnh binh - đều cho rằng ở đời có những trường hợp mà trong quan hệ giữa con người với nhau, không bắt buộc phải có thái độ nhân đạo. Nhưng tất cả những người đó cả Maxlenikov, viên giám ngục, và viên sĩ quan áp giải nếu họ không phải là tỉnh trưởng, là giám ngục, là sĩ quan áp giải thì chắc họ phải suy nghĩ ít nhất đến hai mươi lần rằng: trời nóng như thế, có thể cho dẫn những người nầy đi đông như thế được không?. Dọc đường họ sẽ dừng lại đến hai mươi lần, và khi nhận thấy có một người lả đi,thở không ra hơi thì họ đã phải cho anh ta ra ngay khỏi hàng ngũ và dẫn anh ta vào chỗ có bóng râm, để cho anh ta uống nước, để cho anh ta nghỉ ngơi, và cuối cùng, nếu điều bất hạnh còn xảy ra, họ sẽ tỏ lòng thương xót. Điều đó chẳng những giờ đây họ sẽ không làm mà họ còn ngăn cản không cho người khác làm nữa, chẳng qua chỉ tại một điều là trước mắt họ, họ chỉ thấy chức vụ của họ và những yêu cầu của chức vụ ấy thôi; những yêu cầu đó họ đặt lên trên tất cả những yêu cầu của quan hệ con người với nhau. Tất cả là ở chỗ đó, - Nekhliudov tiếp tục nghĩ. - Một khi người ta thừa nhận, dù là chỉ trong một tiếng đồng hồ hoặc trong một trường hợp độc nhất tối đặc biệt nào đó thôi, là có một cái gì đó quan trọng hơn tình nhân loại, thì không còn có tội ác nào người ta lại không phạm được mà vẫn cho mình là vô tội. Nekhliudov đắm đuối suy nghĩ, nên không nhận thấy tiết trời thay đổi. Một đám mây đầu tiên tả tơi lan tới, thấp là là, che lấp cả mặt trời, rồi một đám mây dày dặc, mầu xám nhạt từ phương tây kéo nhanh đến: ở nẻo xa một trận mưa nặng hạt, xiên xiên đã trút xuống đồng ruộng, rừng cây. Hơi ẩm từ mây hoà vào không khí. Chốc chốc những tia chớp sáng loáng lại rạch xé mây đen. Tiếng sấm ầm ầm mỗi lúc một mau hoà lẫn với tiếng xe lửa chạy rầm rầm. Đám mây càng ngày càng lại gần; những giọt nước mưa xiên xiên, bị gió thổi bạt đi, bắt đầu lấm tấm rơi trên sàn chỗ nối toa và trên áo khoác ngoài của Nekhliudov. Chàng đổi chỗ sang phía bên kia, phồng ngực hít lấy hơi mát rượi, ẩm ướt và mùi lúa mạch ngọt ngào trên đồng ruộng đang chờ mưa; chàng nhìn những mảnh vườn, những khu rừng, những cánh đồng lúa mạch vàng hoe, những dải lúa kiều mạch xanh tươi và những luống khoai tây xanh thẫm đang nở hoa, lướt vụt qua trước mặt. Có thể nói là tất cả đều được phủ một lớp sơn bóng: màu xanh hoá ra xanh ngắt, vàng hoá ra vàng tươi, còn chỗ nào đen thì đen thẫm lại. - Mưa nữa đi, mưa nữa đi. - Nekhliudov nói, lòng khoan khoái thấy đồng ruộng, vườn tược sống lại dưới trận mưa phúc đức. Cơn mưa rào tạnh ngay. Đám mây lớn, một phần trút xuống thành mưa, còn thì bay tản mạn ra xa, và những giọt mưa cuối cùng đã rớt thẳng thưa thớt, nhỏ hạt xuống mặt đất ướt át. Mặt trời lại ló ra, làm cho muốn vật sáng loáng; đằng đông, trên đường chân trời, một cái mống cụt, không cao lắm, nhưng tươi sáng, đặc biệt có màu tím là thắm hơn ca. "Nhưng ta đã nghĩ gì thế nầy?" Nekhliudov tự hỏi mình khi tất cả những biến đổi trong thiên nhiên đó đã chấm dứt và đoàn tàu bắt đầu chạy vào trong một đường hẻm, hai bên sườn vách cheo leo. "Ừ! Phải, ta vừa nghĩ rằng tất cả những con người ấy giám ngục, sĩ quan, lính áp giải tất cả những viên chức đó, phần lớn vốn hiền lành, giờ đây, họ trở thành độc ác chỉ vì họ làm viên chức nhà nước thôi". Chàng nhớ lại thái độ lãnh đạm của Maxlenikov khi chàng kể cho hắn nghe những chuyện xảy ra ở trong nhà lao, nhớ lại sự khắc nghiệt của tên giám ngục, sự tàn nhẫn của viên sĩ quan áp giải từ chối không cho những người xin hắn được đi xe và chẳng đoái hoài chi tới người phụ nữ đau đớn, trở dạ đẻ ở trên tầu. "Tất cả những con người đó, rõ ràng là tim họ trơ như đá rắn như sắt, không một chút tình thương xót đơn giản nào thấm được vào lòng họ, chỉ vì họ là viên chức nhà nước: Tình yêu thương nhân loại không thấm vào được lòng họ - những viên chức nhà nước - cũng như nước mưa không thể thấm được vào vách đá kia, - chàng nghĩ vậy khi nhìn hai bên vách xây bằng đá màu sắc sặc sỡ, trên đó nước mưa chảy ròng ròng như suối, không thấm vào đất ở bên trong được. - Có thể việc xây những vách đá kia là cần thiết, nhưng nhìn cả dải đất trơ trụi, không cây cối ta không khỏi đau lòng, vì trên mặt nó cũng có thể mọc xum xuê đầy lúa mạch, cỏ xanh, um tùm cây cối như ở trên đỉnh vách kia. Đối với con người cũng như thế, - Nekhliudov nghĩ - có thể những viên tỉnh trưởng, giám ngục, cảnh binh kia là cần phải có, nhưng nhìn thấy họ trơ như đá, không còn bản chất chủ yếu của con người nữa, không còn tình thương yêu giữa đồng loại với nhau nữa, thì thật là đáng ghê sợ "Tất cả đều do ở chỗ những con người đó công nhận là luật pháp cái không phải là luật pháp và lại không công nhận là luật pháp cái luật pháp vĩnh cửu, bất biến, đương nhiên mà chính Thượng đế đã khắc sâu vào tâm khảm con người. Chính vì thế mà khi gần họ ta thấy khó chịu, chàng nghĩ. - Chỉ là ta sợ họ thôi. Những con người đó quả thật đáng ghê sợ, đáng ghê sợ hơn cả những tên trộm cướp. Tên trộm cướp dù sao đi nữa cũng còn có thể có từ tâm, chứ bọn họ thì không thể có được. Họ kỵ từ tâm cũng như những tảng đá kia kỵ cây cỏ. Chính vì thế mà họ đáng sợ. Người ta thường bảo là bọn Pugasev, bọn Razin là đáng sợ. Nhưng chính họ còn đáng sợ hơn gáp nghìn lần. "Giả sử người ta đặt một vấn đề tâm lý: làm thế nào để tạo những con người ở thời đại chúng ta, những người theo đạo Thiên Chúa, những người theo chủ nghĩa nhân đạo những người chất phác lương thiện, thành những người làm được những việc đại gian, đại ác mà không thấy mình là có tội, thì chỉ có một giải đáp là làm cho những con người ấy trở thành tỉnh trưởng, những sĩ quan, những giám mục, nghĩa là thứ nhất: họ tin chắc rằng có một loại công việc gọi là viên chức nhà nước nó cho phép người ta đối xử với con người như đối xử với đồ vật, không có tình nhân loại, nghĩa bác ái gì hết; thứ hai: những con người làm việc cho nhà nước đó phải liên kết chặt chẽ với nhau như thế nào, để cái trách nhiệm về hậu quả những hành vi của họ sẽ không rơi xuống đầu riêng một người nào cả. Không có những điều kiện đó thì ở thời đại chúng ta, không thể nào có thể có được những hành vi ghê gớm như là ta đã chứng kiến ngày hôm nay. Tất cả là do người ta tưởng rằng có những trường hợp có thể đối xử với đồng loại không cần tình thương yêu. Nhưng làm gì có trường hợp như vậy. Người ta có thể đối xử không chút tình thương yêu đối với những vật vô tri vô giác; người ta có thể chặt cây, nung gạch, rèn sắt không chút tình thương; nhưng trong việc đối xử với con người không thể không có tình thương yêu được, cũng như người ta không thể nào chăm sóc ong mật lại không thận trọng. Bản tính của ong mật là như vậy. Nếu anh không cẩn thận với chúng thì anh sẽ làm hại chúng và làm hại cả chính bản thân anh nữa. Đối với con người cũng thế, không thể nào cư xử khác được, bởi vì lòng thương yêu lẫn nhau của con người là định luật cơ bản của đời sống loài người. Cố nhiên ta không thể buộc người khác phải thương yêu mình, như buộc người khác phải làm việc cho mình, nhưng không phải vì thế mà có thể đối xử với mọi người không có tình thương yêu, nhất là khí còn muốn đòi hỏi ở người khác một điều gì đó. Nếu anh không cảm thấy có tình thương yêu đối với mọi người, thì anh hãy ngồi yên đó, Nekhliudov tự nói với mình, - anh hãy chăm chút đến bản thân anh, trông coi đến những vật dùng của anh, đến tất cả những gì anh muốn, nhưng đừng động đến con người. Cũng như chỉ khi ta thấy đói cần ăn thì ăn mới có lợi mà vô hại, việc đối xử của con người cũng vậy nó chỉ có lợi mà không có hại khi anh yêu thương con người. Hãy thử đối xử với mọi người không chút tình thương yêu, như ta đã đối xử với người anh rể của ta hôm qua, thì sự độc ác tàn bạo trong cách ăn ở của mọi người sẽ không còn biết đâu là giới hạn nữa, như những sự việc chính mắt ta trông thấy trong ngày hôm nay, và nỗi đau khổ cho bản thân mình cũng không còn biết đâu là bến bờ nữa, như ta đã thấy rõ trong cả cuộc đời ta như vậy phải, phải, đúng là như vậy, - Nekhliudov nghĩ. "Đúng! Đúng lắm!" - chàng tự nhắc lại và cảm thấy hai niềm khoan khoái: một là vì người được mát mẻ sau cơn nóng bức; hai là vì đã hiểu thấu được rất rõ ràng minh bạch một vấn đề từ lâu chàng vẫn băn khoăn. Chương 100 Toa tàu Nekhliudov đi, một nửa đã chật người ngồi. Trong số hành khách có người đi ở, có thợ thủ công, có công nhân, có đồ tể, có người Do Thái, có thư ký hiệu buôn, có phụ nữ vợ công nhân, một người lính, hai bà mệnh phụ - một người còn trẻ, một người đã luống tuổi, tay để trần đeo vòng xuyến, - và một người sang trọng vẻ mặt nghiêm nghị, trên mũ lưỡi trai đen có đính chiếc phù hiệu. Sau một lúc ồn ào chọn chỗ, giờ đây mọi người đều đã yên vị, kẻ đang cắn hạt quỳ, người hút thuốc hoặc chuyện trò náo nhiệt. Taratx, vẻ mặt hân hoan, ngồi ở bên phải lối đi, vừa giữ chỗ cho Nekhliudov, vừa vui vẻ chuyện trò với một người đàn ông vạm vỡ, mặc áo choàng bằng vải, để hở ngực, ngồi đối diện. Về sau, Nekhliudov môi biết anh nầy là một người làm vườn, đáp tàu đến nơi làm việc mới. Trước khi tới chỗ Taratx, Nekhliudov dừng lại ở lối đi bên cạnh một ông già tốt lão, râu bạc phơ, mặc một chiếc áo choàng bằng vải Nam kinh, đang nói chuyện với một thiếu phụ ăn vận quê mùa. Ngồi bên cạnh người nầy là một cháu gái lên bảy tuổi, chân bỏ thõng xuống không tới sàn tàu; em bé mặc một chiếc áo ngoài mới, tóc như tơ trắng kết thành bím, miệng luôn luôn cắn hạt quỳ ông cụ quay lại nhìn thấy Nekhliudov, liền thu gọn cái vạt áo từ nãy để xoà trên chiếc ghế dài bóng loáng, và nói với chàng, giọng hiền từ: - Mời ông ngồi xuống đây. Nekhliudov cảm ơn ông cụ và ngồi xuống. Chàng vừa ngồi xong thì người thiếu phụ lại tiếp tục câu chuyện bị đứt quãng. Chị kể chuyện chị ra tỉnh với chồng và được anh ta đón tiếp như thế nào; giờ đây chị về quê. Lần trước tôi ra thăm anh ấy vào dịp tết Carnaval. Cho đến bây giờ, ơn Chúa tôi mới lại ra với anh ấy, - chị ta nói. - Sau nầy, được Chúa thương, đến Giáng sinh tôi sẽ lại ra. - Thế thì hay quá, - ông cụ vừa nói vừa nhìn sang Nekhliudov. - Thỉnh thoảng cũng nên ra thăm anh ấy, kẻo còn trẻ mà ở ngoài tỉnh thì dễ hư lắm. - Thưa cụ, không đâu ạ? Nhà con không phải hạng người như vậy đâu ạ? Anh ấy đứng đắn lắm, sống như con gái ấy. Tất cả tiền nong, từng đồng xu một, anh ấy cũng góp nhặt gửi hết về nhà. Nhìn thấy mặt con bé cháu đây, anh ấy mừng mừng là! Mừng quá không nói lên được nữa, - chị ta mỉm cười nói tiếp. Đứa con gái ngồi nghe mẹ nói chuyện vừa không ngừng cắn hạt quỳ và nhổ bỏ vỏ, đôi mắt bình thản và thông minh ngước nhìn Nekhliudov và ông cụ như để chứng minh những lời mẹ nó nói là đúng. - Nếu anh ấy khôn ngoan như thế thì càng hay, - ông cụ lại nói. - Thế cái món kia, anh ấy có ưa không? - ông cụ vừa nói vừa đưa mắt nhìn về phía một cặp, đúng hai vợ chồng cùng là công nhân, ngồi ở phía bên kia lối đi. Đưa miệng chai vodka kề môi, đầu ngửa ra đằng sau, anh chồng nốc một hơi, trong khi đó chị vợ hai tay ôm cái bị vừa lấy chai rượu ra, chăm chú nhìn chồng. - Không, nhà con không uống rượu, cũng không hút thuốc, - người đàn bà thừa dịp đó để ca tụng chồng một lần nữa. - Những người như anh ấy, cụ ạ, ở thế gian nầy không nhiều lắm đâu! Anh ấy như thế đấy. - Chị nói thêm và quay về phía Nekhliudov. - Thế thì còn gì hay hơn nữa! - ông cụ vừa nhắc lại vừa nhìn anh công nhân uống rượu. Anh nầy đưa chai rượu cho vợ, chị vợ cầm lấy vừa nâng lên gần môi vừa cười, đầu gật gù. Thấy Nekhliudov và ông cụ nhìn mình, anh công nhân quay lại phía chàng, nói: - Có gì đâu thưa ngài? Ngài nhìn chúng tôi vì chúng tôi uống rượu à? Lúc chúng tôi trần lực ra làm thì chẳng thấy ai ngó đến, nhưng khi chúng tôi uống rượu thì người nào cũng nhìn. Tôi kiếm được tiền thì tôi uống rượu, tôi khao vợ tôi, có thế thôi. - Phải, phải. - Nekhliudov nói, chẳng biết trả lời thế nào khác. - Có phải thế không ạ, thưa ngài? Vợ tôi là người nền nếp, đảm đang; tôi rất vừa ý, không phải phàn nàn gì cả vì nhà tôi biết thương tôi. Có phải thế không mình, Mavra? - Nầy, cầm lấy, em không uống nữa đâu, - người vợ, miệng nói, tay đưa trả lại chồng chai rượu. - Anh ba hoa gì thế? - Chị ta nói thêm. Đấy nhà tôi nó thế đấy, - anh công nhân nói tiếp, - nhà tôi tốt, tốt đáo để, có điều là lắm lúc bỗng không lại rít ken két như bánh xe không dầu ấy. Anh nói có đúng không hả, Mavra? Mavra cười, quờ quạng cánh tay, có vẻ hơi say. - Chà! Anh lại bốc lên rồi đấy… - Và nhà tôi là như vậy đấy, tốt lắm, nhưng không phải bao giờ cũng thế đâu, y như con ngựa ấy; chỉ cần luồn một dây cương xuống dưới khẩu đuôi nó, nó sẽ cho ngài thấy những chuyện không thể tưởng tượng được… - Tôi nói thực đấy. Xin ngài bỏ quá cho. Tôi hơi quá chén! Ờ, làm gì bây giờ? - Anh công nhân nói xong, gối đầu lên đùi vợ đang mủm mỉm cười, sửa soạn ngủ. Nekhliudov ngồi nán lại với ông cụ một lúc; nghe ông cụ kể chuyện về cuộc đời mình. Ông cụ làm nghề thợ xây bếp lò, cụ đã làm việc suốt năm mươi ba năm nay, và trong một đời cụ đã xây không biết bao nhiêu là lò. Bây giờ, cụ định nghỉ ngơi một chút, nhưng cũng chẳng có lúc nào được rảnh. Cụ vừa ra tỉnh kiếm việc làm cho mấy đứa con cháu, và bây giờ cụ trở về thăm quê nhà. Nghe xong câu chuyện, Nekhliudov đứng dậy trở về chỗ Taratx vẫn giữ cho chàng. - Ngài cứ ngồi xuống đi, chúng tôi sẽ để cái túi hành lý ra đây, - người làm vườn đối diện với Taratx, hoà nhã nói, mắt ngước lên nhìn Nekhliudov. - Càng chật càng vui, ông ạ - Taratx tươi cười nói với cái giọng trầm bổng của anh; anh đưa hai cánh tay chắc nịch nhất bổng cái túi nặng tới ba mươi cân coi như không, để ra phía cửa sổ. - Chỗ ngồi thì thiếu gì, mà có đứng một tí, hay thậm chí nằm xuống dưới gầm ghế cũng được cơ mà. Thế nầy, bọn mình dễ chịu chán. Việc gì phải tranh cãi nhau? - Anh ta nói, nét mặt đầy vẻ thân ái hiền hậu. Nói về mình, Taratx thường bảo khi không uống rượu, anh chẳng nói một lời, nhưng mà rượu vào là anh tìm ngay ra được những lời rất đúng và gì anh cũng nói được cả: Quả thật như vậy, khi tỉnh táo, Taratx thường hết sức trấm lặng nhưng khi đã uống rượu - rất ít khi và cũng chỉ trong những trường hợp đặc biệt thôi - thì anh hoá ra hay nói, vui vẻ, dễ thương lạ. Lúc đó, anh nói đã nhiều lại hay, rất giản dị, chất phác và đặc biệt là rất đáng yêu, - cái vẻ đáng yêu toả ra từ đôi mắt xanh lam hiền hậu, từ nụ cười cởi mở luôn luôn nở trên môi. Hôm nay, anh chàng đang vào lúc vui. Nekhliudov đến gần, anh ngừng câu chuyện đang nói; nhưng khi đã xếp đặt xong cái túi, anh lại ngồi xuống, đặt đôi tay khỏe mạnh lên đùi, nhìn thẳng vào mắt người làm vườn và tiếp tục kể. Anh kể với người bạn mới quen về vợ mình, vì sao vợ anh đi đày, và vì sao giờ đây anh lại đi theo vợ đi Siberi. Nekhliudov trước đó chưa được biết rõ chi tiết câu chuyện, nên chàng chú ý lắng nghe. Chàng đến vào lúc anh kể đến đoạn việc đầu độc thành sự đã rồi và gia đình biết Fedoxia là kẻ thủ phạm… - Tôi đang nói về nỗi đau khổ của tôi, - Taratx thành thực và thân mật nói với Nekhliudov. - Tôi may mắn được một người rất đỗi thông cảm với tôi, chúng tôi đã tâm sự với nhau và tôi đang kể cho anh ấy nghe hết câu chuyện. - Anh cứ kể tiếp đi, - Nekhliudov nói. - Như vậy, anh ạ, thế là câu chuyện được phát giác. Mẹ tôi cầm lấy cái bánh: "Tao ra đồn đây" - bà cụ nói. Bố tôi là một ông già rất đúng mực. "Khoan đã, bà nó, - ông cụ nói, - con bé còn non dại, việc nó làm chính nó cũng không biết mình làm gì đâu. Ta phải thương nó chứ. Sau nầy, nó có thể hồi tâm tỉnh ngộ". Nhưng, nói gì thì nói, mẹ tôi cứ khăng khăng không nghe. Bà cụ bảo: "Giữ nó trong nhà, để rồi mai nó giết cả nhà như lũ nhái ấy à?" và thế là bà cụ đi ra trình đồn, anh ạ. Lão trưởng đồn lập tức sục tới nhà tôi… và tức khắc lấy nhân chứng. - Thế còn anh thì thấy thế nào? - Người làm vườn hỏi. Còn tôi, anh ạ, lúc ấy bụng nó đau quặn lên, tôi lăn ra đất và nôn mửa. Ruột gan trong người cứ lộn cả lên, tôi không nói được một tiếng. Thế là bố tôi đóng ngựa vào xe, cho Fedoxia lên xe và đi lên đồn? Rồi đến nhà quan dự thẩm. Còn Fedoxia, anh ạ, ngay từ đầu, cô ấy thú nhận hết, trước mặt quan dự thẩm cô ấy cũng khai đầu đuôi rành mạch: cô ấy lấy thuốc độc ở đâu và đã pha vào bánh như thế nào. "Tại sao mày lại làm như vậy?" người ta hỏi cô ấy. Cô ấy trả lời: "Bởi vì tôi ghê tởm nó lắm, tôi thà đi Siberi còn hơn sống với nó", nghĩa là với tôi đấy! - Taratx tươi cười giải thích - Thế là cô ấy nhận hết mọi tội. Và dĩ nhiên là phải vào tù. Ông bố tôi về một mình… Nhưng mùa màng lại sắp tới. Ở nhà tôi chỉ có mỗi mình mẹ tôi là đàn bà thôi, mà bà cụ đã yếu rồi. Chúng tôi nghĩ: "Làm thế nào bây giờ, liệu xin bảo lĩnh cho cô ấy ra, có được không? Bố tôi liền đến ngay nhà một ông quan. Không ăn thua gì; lại đến một ông khác. Ông cụ chịu đi cầu cạnh đến năm người, tưởng đành chịu. May quá về sau có một ông lục sự, một con người rất tài, thật khó mà tìm được đến một người thứ hai như vậy. Ông ta bảo: "Đưa tôi năm "rúp" tôi sẽ chạy cho cô ta được ra". Về sau thoả thuận với nhau là ba "rúp". Thế rồi, anh ạ tôi đã mang cầm số vải chính tay cô ta dệt trước đây, lấy tiền đưa cho ông ta. Ông ta đặt bút viết đơn… - Taratx nói, kéo dài giọng như là nói về một phát súng vậy, - là thành ngay lập tức. Lúc đó tôi đã bắt đầu dậy được, tôi thân hành đánh xe ra tỉnh đón cô ta. Anh ạ, thế là tôi ra tỉnh. Tôi để gửi con ngựa ở quán trọ, cầm lá đơn đến nhà tù "Anh muốn hỏi gì?" - "Sự thể là, - tôi nói, - tôi có người vợ bị giam tại nơi các ông đây." - "Thế có giấy tờ gì không?". Tôi chìa lá đơn ra. Hắn ta liếc qua một cái: "Đợi đấy". Tôi ngồi xuống một cái ghế dài. Mặt trời đã hơi xế bóng. Một ông quan ra hỏi: "Mày là Vacgusov phải không?" - "Dạ chính tôi ạ" - "Thế thì nhận lấy người nhà." - ông ta nói. Tức thì người ta mở cổng đưa cô ta ra, mặc quần áo riêng của mình, vẫn đàng hoàng. "Thôi, ta đi về!" - Anh đi bộ à? - Không, có ngựa. Chúng tôi về đến nhà trọ, tôi trả tiền gửi ngựa và đóng ngựa vào xe. Tôi lót chỗ cỏ còn lại xuống dưới một mảnh vải thô để cô ta ngồi lên đó. Cô ta lấy khăn chùm kín cả người. Chúng tôi lên đường. Cô ta im lặng, còn tôi cũng không nói gì cả. Khi về gần đến nhà, cô ta mới hỏi tôi thế nầy: "Mẹ thế nào, vẫn còn sống chứ?" - Tôi bảo "còn sống" "Thế bố, vẫn còn sống chứ? - "Còn sống" - "Taratx, anh tha cho tôi đã chót dại nhé. Tôi cũng không hiểu việc tôi làm nữa". Tôi trả lời cô ta: "Cô nói nhiều quá, vô ích, tôi đã bỏ qua từ lâu rồi". Cô ta không nói gì nữa. Chúng tôi về tới nhà. Cô ta sụp xuống chân mẹ tôi. Bà cụ nói: "Chúa tha thứ cho con!". Còn bố tôi ông cụ chào và bảo cô ta: "Chuyện đã qua rồi nhắc lại có ích gì đâu. Hai vợ chồng mày, hãy ăn ở với nhau cho tử tế hơn con ạ, bây giờ không phải là lúc nói đến chuyện ấy nữa. Phải lo thu hoạch mùa màng đi thôi. Ở đồng Xkorodino, có một sào ruộng bón nhiều phân nên năm nay trời cho hắc mạch rất tốt, dùng liềm không được, lúa chằng chịt với nhau đổ nằm rạp như dải giường cả một lượt Phải gặt thôi. Hai vợ chồng mày, ngày mai đi mà gặt, con ạ!". Và từ lúc đó, anh ạ, cô ta bắt tay vào công việc, làm hăng lắm, đến nỗi mọi người phải ngạc nhiên. Năm đó, chúng tôi có ba mẫu ruộng thuê và, ơn chúa, hắc mạch cũng như yến mạch, đều tốt chưa từng thấy. Tôi gặt, cô ta bó, đôi khi cả hai chúng tôi cùng gặt. Làm ăn thì tôi thạo lắm, chẳng để hỏng việc gì, nhưng cô ta làm còn thạo hơn tôi nhiều. Cô ta đã đảm, lại trẻ, đang sức. Cô ta ham công việc đến nỗi, anh ạ, chính tôi phải ngăn cô ta lại. Về đến nhà, những ngón tay phồng cả lên, cánh tay mỏi rời, phải nghỉ ngơi chứ; ấy thế mà cô ta cơm cũng chẳng kịp ăn, còn chạy xuống nhà ngang sửa soạn dây dợ cho sáng hôm sau. Thật là khác hẳn xưa! - Thế đối với anh, cô ta có trở nên dịu dàng hơn không người làm vườn hỏi. - Chuyện đó thì khỏi phải nói? Cô ta cứ dính chặt vào tôi như sơn ấy, hai người như một. Tôi mới chớm nghĩ đến cái gì, là cô ta đoán ra ngay. Ngay cả mẹ tôi, trước bà cụ giận là thế, mà bây giờ cũng phải nói: "Như con Fedoxia nhà ta đã biến đổi thành một đứa nào khác hẳn, hoàn toàn khác". Một hôm, chúng tôi đánh hai xe đi lượm lúa: hai vợ chồng tôi cùng ngồi với nhau trên xe đi đầu. Tôi hỏi: "Fedoxia, làm sao em lại có thể nghĩ tới chuyện ấy được?" - "Làm sao em lại có thể nghĩ tới à? Lúc đó em không muốn ăn ở với anh. Em nghĩ thà chết còn hơn, sống như vậy không chịu được". – "Thế bây giờ?" - "Bây giờ ư? Bây giờ thì mình ở trong trái tim em rồi". Taratx ngừng lại, mỉm một nụ cười sung sướng và lắc đầu ngạc nhiên: - Gặt hái vừa xong, tôi đánh một xe gai đi ngâm, lúc trở về thì - anh ta lặng đi, không nói, - có trát đòi cô ta ra toà. Còn chúng tôi thì cả đến cái duyên do vì đâu mà vợ tôi phải ra toà, cũng đã quên rồi. - Cái đó là do ma quỷ nó xui nên thế thôi! - Người làm vườn nói. - Có thể nào một con người lại tự mình tính đến chuyện sát hại một con người khác không? Ở quê tôi cũng có một người… - và người làm vườn sắp sửa kể chuyện thì tầu đi chậm lại. - Như đến ga rồi thì phải? Phải đi uống cái gì đi chứ, anh ta nói. Thế là câu chuyện kết thúc và Nekhliudov đi theo sau người làm vườn, bước xuống những tấm ván ướt át trên sân ga. Chương 101 Lúc chưa ra khỏi toa tàu, Nekhliudov đã thấy ở ngoài trước cửa ga có mấy cỗ xe ngựa sang trọng thắng ba hoặc bốn con ngựa béo tốt, cổ đeo nhạc lắc leng keng. Ra đứng trên sân ga ẩm ướt, đen sẫm vì đẫm nước mưa, chàng nhìn thấy ở trước mặt những toa hạng nhất, một đám đông, trong đó nổi bật lên một bà cao lớn, béo tốt, mình mặc áo mưa, đầu độ; mũ có điểm những chiếc lông chim quỷ giá, và một anh thanh niên cao lênh khênh, đôi chân leo khoeo, mình vận bộ quần áo đi đua xe đạp, tay dắt một con chó to béo, cổ đeo một chiếc cổ-dề loại đắt tiền. Đứng sau lưng hai người là gia nhân đầy tớ có mang ô và áo tơi ngắn, và một anh xà-ích cũng ra đón. Ở tất cả bọn người ấy, từ người đàn bà to béo đến anh xà-ích tay giữ vạt áo dài đều tỏ cái vẻ thung dung, đĩnh đạc, giàu có phong lưu. Lập tức có một đám người hiếu kỳ thấy giàu sang thì khúm núm, xun xoe vây quanh lấy họ; thầy xếp ga đội mũ lưỡi trai đỏ, anh lính sen-đầm, một cô gái gầy gò mặc bộ y phục Nga, cổ đeo chuỗi hạt thuỷ tinh (cứ mùa hè là cô ta có mặt khi tàu đến), một thầy ký giây thép nhà ga và đông hành khách, cả nam lẫn nữ. Nekhliudov nhận ra anh thanh niên dắt chó là cậu học sinh trung học Korsagin: còn bà to béo là em gái bà công tước, gia đình nhà Korsagin sẽ đến ở nhờ ấp bà ta. Viên xa trưởng lon vàng lấp lánh, giầy bóng loá, mở cửa toa xe và cung kính giữ cánh cửa, trong khi đó thì Filip và một người phu mặc tạp dề trắng, thận trọng kiệu bà công tước mặt dài như mặt ngựa, ngồi trong chiếc ghế bành xuống. Hai chị em ôm lấy nhau hôn, người ta nghe thấy những cái tiếng Pháp trao đổi hỏi xem bà công tước sẽ đi xe mui trần hay xe mui kín; đoàn người tiến ra phía cửa ga, đi sau rốt là người nữ tỳ tóc uốn quăn từng món, mang mấy chiếc dù và cái túi bằng da. Nekhliudov không muốn gặp mặt họ để khỏi phải chào chia tay một lần nữa. Chàng dừng lại, không ra vội cửa ga, chờ cho đám người đó đi hết. Bà công tước cùng với cậu con trai, cô Mitxi, ông bác sĩ và người nữ tỳ đi trước, còn lão công tước già cùng bà em vợ theo sau. Nekhliudov đứng ở xa chỉ nghe lõm bõm thấy vài câu tiếng Pháp họ nói với nhau. Có một câu lão công tước nói, không hiểu vì sao-xưa nay vẫn thường xẩy ra như vậy - đã lọt vào ký ức chàng với cả âm thanh lẫn giọng nói: - Ồ ông ta ở giới thượng lưu chân chính, giới thượng lưu chân chính! - Lão nói về một người nào đó, giọng sang sảng, tự đắc, và cùng bà em vợ ra khói ga; một anh nhân viên kiểm soát nhà ga và mấy người phu khuân vác kính cẩn đi theo. Giữa lúc đó, từ một góc nhà ga, một toán thợ chân đi giầy cỏ, mình mặc áo da cừu: lưng đeo túi hành lý đi ra sân ga. Họ xăm xăm nhẹ nhàng đi tới toa xe đầu tiên và định lên tàu, nhưng liền bị người kiểm soát xe đuổi xuống. Họ vội vã xô đẩy nhau đi luôn đến toa thứ hai và sắp sửa leo lên, va cả bọc bị vào cạnh toa và thành cửa toa xe thì lúc đó một viên kiểm soát khác đứng ở cửa ga trông thấy, bèn quát mắng ầm lên. Mấy người đã vào trong toa rồi vội vã quay trở ra và họ vẫn xăm xăm nhẹ nhàng đi tới toa sau là toa có Nekhliudov. Viên kiểm soát định ngăn lại không cho lên. Họ đã đứng lại và sắp sửa đi xa nữa, nhưng Nekhliudov bảo cho họ biết toa còn chỗ có thể lên được. Họ nghe theo. Leo lên và Nekhliudov lên theo họ. Những người công nhân đã định dọn dẹp chỗ ngồi, nhưng cái ông đội mũ có huy hiệu và hai bà lớn kia lại coi việc những người công nhân nọ lên ngồi ở toa nầy là xúc phạm đến bản thân mình, bèn cương quyết phản đối và đuổi họ đi nơi khác. Tức thì cả toán thợ có độ hai mươi người, già có, trẻ có, mặt mũi người nào người nấy hốc hác mệt mỏi, da sạm nắng, lập tức lại dọc theo toa tầu đi tới chỗ khác va những bọc bị vào ghế, vào thành tầu vào cửa toa xe, họ rõ ràng cảm thấy như mình có lỗi, và sẵn sàng đi đến chân trời góc biển nào cũng được, ngồi xuống bất cứ chỗ nào thiên hạ bảo ngồi, dù là ngồi trên đám cọc. - Lại còn đi đâu nữa hả, lũ quỷ sứ? Ngồi đấy! - Một viên kiểm soát đi ngược lại gặp họ, thét to. - Đấy lại có chuyện! - bà trẻ nhất trong hai bà nọ nói, mụ ta tin chắc rằng cái tiếng Pháp mụ nói đúng giọng như vậy sẽ làm cho Nekhliudov phải chú ý, còn bà lớn đeo đầy vòng xuyến kia thì chỉ khịt mũi và nhăn mặt, nói một câu gì đó về cái thú vị được cùng đi tàu với bọn nông dân hôi hám. Còn những người thợ, họ vui sướng, yên tâm như thoát khỏi một bước hiểm nghèo ghê gớm. Họ sửa soạn ngồi, hất mạnh để bỏ những túi hành lý trên vai xuống và luồn vào dưới gậm ghế. Người làm vườn lúc nãy rời khỏi chỗ mình đến ngồi trước mặt Taratx nói chuyện với anh chàng Taratx nay đã về chỗ cũ, thành thử bên cạnh và trước mặt Taratx có ba chỗ bỏ không. Ba người công nhân liền ngồi vào đó. Nhưng đến khi Nekhliudov lại gần, trông thấy bộ quần áo sang trọng của chàng, họ hết sức bối rối, định đứng dậy đi chỗ khác; Nekhliudov bảo họ cứ ngồi, còn chàng ngồi ghé xuống chỗ tựa tay chiếc ghế dài gần lối đi. Trong bọn thợ có một người, tuổi trạc năm mươi cùng với một người trẻ hơn đưa mắt nhìn nhau, vẻ kinh ngạc, sợ hãi. Đáng lẽ ra cái ông nầy phải chửi mắng và đuổi họ đi theo đúng tính cách ông lớn của ông ta, thì đằng nầy lại nhường chỗ ngồi cho họ, điều đó khiến họ ngạc nhiên, họ ngại. Thậm chí, họ còn sợ cái đó sẽ gây cho họ điều chẳng lành nào đó. Tuy nhiên, khi thấy Nekhliudov nói chuyện rất bình thường với Taratx và chẳng có mưu mô thủ đoạn gì ở đó cả, thì họ yên tâm, họ bảo anh thợ trẻ nhất ngồi xuống cái túi hành lý của anh ta để cho Nekhliudov ngồi vào chỗ của chàng. Thoạt đầu, người công nhân có tuổi ngồi đối diện chàng khép nép thu mình, co đôi chân đi giầy cỏ lại để khỏi chạm vào ngài quý tộc, nhưng chỉ một lát sau ông lão chuyện trò với chàng và Taratx thân mật quá, thậm chí, gặp những chỗ ông lão muốn người ta đặc biệt chú ý, còn lấy tay đập cả vào đùi chàng. Ông lão kể về thân thế, và công việc mình làm ăn ở mỏ than bùn. Ông đã làm ở đó hai tháng rưỡi, bây giờ đem tiền công về nhà, được có mười "rúp", vì một phần đã lĩnh và tiêu từ khi mới vào làm. Theo như lời ông lão thì bọn ông phải lội nước tới đầu gối và làm suốt từ lúc mặt trời mọc cho tới lúc mặt trời lặn, chỉ được nghỉ có hai tiếng đồng hồ để ăn trưa. - Với những người không quen, dĩ nhiên là gay đấy, - ông lão nói, - nhưng một khi đã quen, và nếu được ăn kha khá một chút thôi thì cũng chẳng sao! Mới đầu ăn uống tồi lắm. Về sau người ta kêu ca dữ, thì có khá hơn và công việc làm cũng được nhẹ nhàng hơn. Rồi ông lão kể rằng từ hai mươi tám năm nay, ông ra đi tìm việc làm như thế nào và gửi về nhà tất cả chỗ tiền kiếm được ra làm sao,mới đầu gửi cho bố, sau gửi cho anh cả và bây giờ thì gửi cho đứa cháu hiện nay đang quán xuyến công việc gia đình; cái số năm chục tới sáu chục đồng bạc kiếm được hàng năm, ông lão chỉ giữ lại cho mình có vài ba đồng vừa đủ tiền diêm thuốc vặt vãnh thôi. Ông lão mỉm cười bẽn lẽn nói thêm: - Kể thì tôi cũng có cái hư hỏng, đôi khi mệt mỏi quá, tôi cũng uống ít rượu. Ông lão còn kể chuyện các bà vợ trông nom nhà cửa ra sao khi những người chồng đi làm vắng nhà; và cả chuyện sáng nay, trước khi ông lão và các bạn lên đường, đã được người cai thầu thết nửa thùng rượu mạnh; một người trong bọn ông lão trước đây bị chết và một người đang ốm phải đưa về nhà. Người nầy ngồi ở một góc toa tầu: một cậu bé, mặt tái nhợt, môi tím lại. Rõ ràng, cậu ta bị bệnh sốt rét nó hành và còn đang làm khổ. Nekhliudov đến bên cạnh, cậu bé nhìn chàng với con mắt quá đau đớn, quá nghiêm nghị cho nên chàng ngần ngại không muốn hỏi thăm nữa, sợ làm phiền nó, chàng khuyên ông già nên mua ký ninh cho nó uống. Chàng viết tên thuốc lên một mảnh giấy và định cho tiền mua thuốc, nhưng ông thợ già liền bảo là ông sẽ bỏ tiền của mình để mua. - Chà, tôi đi tầu đã nhiều, nhưng bao giờ gặp được những người như ông nầy; chẳng những ông ta không đuổi mình đi mà lại còn nhường chỗ cho mình ngồi nữa chứ. Như thế có nghĩa là trong số các ông cũng có nhiều hạng lắm. - ông lão vừa nói vừa quay về phía Taratx. "Phải, đây là một thế giới hoàn toàn mới, một thế giới khác hẳn" - Nekhliudov vừa nghĩ vừa nhìn những tay chân khẳng khiu gân guốc, những bộ quần áo vải to thô kệch may lấy, những bộ mặt sạm nắng, hiền lành, tuy mệt mỏi. Chàng cảm thấy bốn phía xung quanh mình đều là những con người hoàn toàn mới, họ có những mối lo âu chỉnh đáng, những niềm vui sướng, những nỗi nhọc nhằn của một cuộc sống chân chính, cần cù. Đây mới thật là giới thượng lưu chân chính! Nekhliudov vừa nghĩ vừa nhớ lại câu nói của lão công tước Korsagin, nhớ lại tất cả cuộc đời xa hoa, nhàn hạ của gia đình nhà Korsagin cùng với những thích thú nhỏ nhen, đê tiện của họ. Và chàng cảm thấy niềm vui sướng của một người du khách đã khám phá ra được một thế giới mới, chưa từng biết, một thế giới tuyệt đẹp. Chương 102 Maxlova cùng với đoàn tù đã đi được chừng năm ngàn dặm. Nàng cùng các tù nhân thường phạm khác đi bằng xe lửa và tàu thuỷ đến tận Perm. Đến đây, Nekhliudov mới xin được cho nàng chuyển sang cùng đi với tù chính trị theo lời khuyên của Vera Bogodukhovxkaia cũng ở trong đám nầy. Cuộc hành trình đến Perm, đối với Maxlova thật là vất vả cả về thể xác lẫn tinh thần; về thể xác, vì phải chen chúc, chật chội, bẩn thỉu và vì lũ rệp ghê tởm không lúc nào để cho yên; về tinh thần, vì lũ đàn ông, cũng đáng ghét như rận rệp, mặc dầu hết mỗi chặng lại đổi một bọn khác; ở đâu cũng vậy chúng bám lấy, quấy rầy không để cho nàng yên. Giữa tù nhân nữ và tù nhân nam cùng cai tù và lính áp giải, từ lâu vẫn có cái tệ nạn dâm ô bừa bãi, thành thử một người đàn bà, nhất là đàn bà trẻ, nếu không muốn lợi dụng nữ tính của mình, thì lúc nào cũng phải cảnh giác. Mà khi người ta lúc nào cũng sợ hãi và phải đề phòng thì thật là khổ; nhất là Maxlova lại đặc biệt hay bị tấn công, vì nhan sắc, và quá khứ của nàng ai cũng biết. Đối với những lời ve vãn của bọn đàn ông, bây giờ nàng cương quyết cự tuyệt; điều đó chẳng những khiến chúng phật lòng mà còn căm tức nữa. Nhưng tình cảm của nàng có đỡ gay đôi chút là nhờ nàng gần gũi với Fedoxia và Taratx; anh nầy được tin vợ thường bị trêu chọc nên đã tự nguyện xin được ở tù để có thể che chở cho vợ, và từ Nizni, anh ta đi cùng với tù nhân như một tội phạm. Từ khi Maxlova được chuyển sang bộ phận tù chính trị, tình cảnh của nàng về mọi mặt dễ chịu hơn nhiều. Không kể tù chính trị được ở những chỗ dễ chịu hơn, được ăn ngon hơn, bị hành hạ bớt thậm tệ hơn, Maxlova được chuyển sang đi với tù chính trị còn thấy dễ chịu hơn nhiều ở chỗ nàng không còn bị đàn ông quấy nhiễu và có thể sống không bị người ta luôn luôn nhắc đến quãng đời cũ của mình, quãng đời mà giờ đây nàng chỉ muốn quên phắt đi. Nhưng điểm ích lợi nhất trong việc di chuyến nầy là nàng được làm quen với một số người đã có ảnh hưởng quyết định, (mà là ảnh hưởng tốt nhất) đến tính tình của nàng. Maxlova được phép ở cùng với tù chính trị trong những trạm nghỉ dọc đường, nhưng vì khỏe mạnh, nên khi đi đường vẫn phải cùng đi với tù thường. Nàng đi như vậy từ thị trấn Tomxk, cùng với hai tù chính trị nữa là Maria Paplovna Settinina - người thiếu nữ đẹp có đôi mắt hiền như mắt cừu non làm cho Nekhliudov phải chú ý khi chàng đến nhà tù thăm Bogodukhovxkaia, - và một anh chàng Ximonxon nào đó, da ngăm đen, tóc bù xù, mắt sâu hoắm, bị đầy đi Irkusk. Nekhliudov cũng để ý đến anh ta lần đến thăm nhà tù hôm đó. Maria Paplovna đi bộ vì nàng đã nhường chỗ trên xe cho một nữ tù nhân có mang; còn Ximonxon thì cho hưởng cái đặc quyền có tính chất giai cấp ấy là không chính đáng. Ba người nầy đi bộ với tù thường phạm từ sáng sớm, xa cách hẳn đám tù chính trị đi xe nên đi muộn hơn. Đó là tình hình sắp xếp ở chặng cuối trước khi đoàn tù tới một thành phố lớn nào đó là nơi sẽ thay sĩ quan áp giải. Một buổi sáng sớm tinh sương tháng chín, trời mưa gió âm thầm. Mưa tuyết thay mau rơi, liên tiếp gió mạnh thổi từng cơn dữ dội. Cả đoàn tù gồm bốn trăm nam và gần năm mươi nữ tập trung ở ngoài sân trạm nghỉ: một số đứng xung quanh viên sĩ quan áp giải đương phát cho các cai nhóm tù tiền hai ngày ăn; một số khác đương mua thức ăn của những người đem hàng vào bán tận trong sân trạm nghỉ. Tiếng tù nhân đếm tiền mặc cả mua hàng ồn ào lẫn với tiếng những người bán hàng rao the thé. Katiusa và Maria Paplovna từ trong trạm nghỉ đi ra sân. Hai người đi giầy cao ống, mặc áo choàng lông, đầu bịt khăn, đi lại chỗ đám người bán hàng. Những người nầy ngồi nấp sâu một bức tường phía bắc cho khuất gió; họ tranh nhau mời khách mua hàng: bánh mì, dăm bông, cá miến, cháo kiều mạch, gan, thịt bò, trứng, sữa, có người bày ra bán cả một con lợn bột quay. Ximonxon đang đứng ở ngoài sân, đợi giờ đoàn tù khởi hành; anh mặc một áo ngoài bằng cao su và đi giầy cũng bằng cao su có dây buộc chặt vào bít-tất len (anh là người ăn chay nên không dùng đồ bằng da thú vật). Anh đứng cạnh cổng và đang ghi vào sổ tay một ý nghĩ vừa thoáng qua đầu. Ý nghĩa đó như sau: "Nếu những con vi trùng cũng biết nghiên cứu và phân tích cấu tạo của móng tay người thì có lẽ nó cho đó là một chất vô cơ. Cũng như khi ta xem xét vỏ trái đất và cho trái đất là chất vô cơ. Điều đó không đúng". Mua trứng, bánh bích qui, cá và bánh mì xong, Maxlova đang xếp tất cả vào túi, còn Maria Paplovna tính tiền trả nhà hàng, thì bỗng thấy đám tù nhốn nháo. Mọi người im lặng; ai về chỗ nấy. Viên sĩ quan tù trong nhà đi ra, hắn ra lệnh cuối cùng trước khi khởi hành. Mọi việc tiến hành theo thưởng lệ: điểm tù, khám xích chân và xếp tù đi thành từng cặp chung một chiếc cùm. Bỗng thấy tiếng viên sĩ quan quát tháo, vẻ cáu tức, tiếng đánh người thùm thụp và tiếng một đứa trẻ khóc. Im lặng một lát; rồi tiếng rì rẩm lại lan ra trong đám đông. Maxlova và Maria Paplovna lại gần chỗ có tiếng huyên náo. Chương 103 Khi tới nơi, Maria Paplovna và Katiusa thấy tên sĩ quan, một gã lực lưỡng, có bộ râu mép dài vàng hoe, đương cau có và lấy tay trái xoa lòng bàn tay phải bị đau vì hắn vừa đấm vào mặt một người tù, miệng không ngớt văng lời chửi bới tục tĩu thô bỉ. Trước mặt hắn là một người tù cao, gầy, đầu cạo trọc một nửa, mình mặc một áo choàng ngắn cũn cỡn và một manh quần còn ngắn hơn nữa; một tay anh ta lau mặt bị đánh vấy đầy máu còn một tay bế đứa con gái nhỏ quấn trong một chiếc khăn đang kêu thét lên. - Tao sẽ dạy mày (chửi tục tĩu) giở lý sự (lại chửi). - Quẳng con bé cho bọn đàn bà, - tên sĩ quan quát, - xích tay nó lại. Người tù nầy bị làng trục xuất đẩy đi. Đến Tomxk, vợ anh ta mắc bệnh chấy rận rồi chết, để lại cho anh một đứa con gái. Suốt từ Tomxk, anh phải ẵm con mà đi. Khi tên sĩ quan ra lệnh xích tay anh lại, anh nói nếu bị xích tay, anh không ẵm được con. Nghe những lý lẽ của những trình bày, tên sĩ quan gặp lúc có chuyện bực mình, ừ giao cho người ta. - Lại đây với chị nào, - Maria vừa nói vừa giơ tay định đón lấy đứa bé. Nhưng đứa bé trong tay người lính cứ nhoài về phía bố nó, miệng không ngớt kêu khóc. Nó không theo Maria. - Thong thả, chị Maria, - Maxlova vừa rút ở trong bọc ra một cái bánh, vừa nói - nó sẽ theo tôi cho mà xem. Đứa trẻ vốn quen Maxlova. Nhìn thấy người quen và cái bánh, nó theo ngay. Tất cả yên lặng. Người ta mở cổng, đoàn tù đi ra ngoài vội xếp hàng lại. Lại đếm một lần nữa. Hành lý xếp lên xe và buộc lại, tù yếu cũng được ngồi xe. Maxlova ẵm đứa bé, ngồi gần Fedoxia và đám phụ nữ. Suốt từ nãy, Ximonxon cứ đứng lẳng lặng nhìn mọi việc xảy ra, lúc nầy mới quả quyết bước lại gần tên sĩ quan; hắn ra lệnh xong xuôi đương định bước lên xe, Ximonxon nói: - Anh cư xử tồi tệ lắm! - Về chỗ, không phải việc của anh. - Việc của tôi là nói cho anh biết là anh đã cư xử tồi tệ và tôi đã nói. - Dưới hàng lông mày rậm; đôi mắt Ximonxon gườm gườm, nhìn thẳng vào mặt tên sĩ quan. - Tất cả xong rồi chứ? Cả đoàn, đi! - Tên sĩ quan hô to không đáp lại lời Ximonxon, và vịn vào vai người lính đánh xe, hắn nhảy lên xe. Đoàn tù bắt đầu đi, nó kéo dài ra khi đi vào quãng đường bùn lầy hai bên có rãnh nước. Con đường xuyên qua một khu rừng rậm. Chương 104 Mặc dầu hoàn cảnh của tù chính trị cũng cực khổ, song, sau sáu năm sống cuộc đời truỵ lạc, xa hoa, uỷ mị ở thành phố và hai tháng sống với tù thường phạm, Katiusa cảm thấy giờ đây sống với tù chính trị rất là sung sướng. Mỗi ngày đi hai, ba chục cây số với mức ăn uống khá hơn, lại cứ sau hai ngày đi, nghỉ một ngày, làm cho nàng khỏe ra; sống gần gũi những người bạn mới, nàng tìm ra được nguồn sinh thú mà nàng chưa hề biết đến. Những con người kỳ diệu (nàng nói thế) như những người hiện nay đang cùng sống với nàng, chẳng những trước kia nàng chưa hề gặp mà ngay đến tưởng tượng thôi nàng cũng chưa hề tưởng tượng ra được. "Thế mà khi tuyên án, mình lại khóc, - nàng nói. - Đáng lẽ ta phải cảm ơn Chúa suốt đời mới phải. Nhờ đó ta đã được biết những điều mà nếu sống trong hoàn cảnh khác, không bao giờ ta biết được". Nàng hiểu rất dễ dàng những động cơ hành động của những con người đó; vốn xuất thân từ quẩn chúng, nàng hoàn toàn thông cảm với họ. Nàng hiểu là họ vì nhân dân mà chống lại giai cấp trên; và tuy bản thân họ cũng thuộc về giai cấp trên, nhưng họ đã hy sinh quyền lợi, hy sinh tự do, đời sống của họ cho nhân dân, điều đó đặc biệt làm cho nàng kính trọng và khâm phục họ. Nàng khâm phục tất cả các bạn mới quen biết, nhưng đặc biệt nàng khâm phục Maria Paplovna, không những phục mà còn yêu Maria với một tình yêu đặc biệt, trân trọng và nồng nàn. Nàng rất ngạc nhiên là sao một cô gái đẹp, biết ba thứ tiếng, con gái một viên tướng giàu có lại có thể sống như một cô gái lao động bình thường, và đã đem cho người khác tất cả những gì mà anh cô - một người giàu có đã gửi cho cô; cô ta ăn mặc chẳng những giản dị mà còn nghèo nàn, không hề để ý đến bề ngoài. Maria không mảy may làm dáng, nét đặc sắc đó khiến Maxlova lấy làm lạ và vì thế lại thêm phần quý mến. Maxlova thấy Maria cũng tự biết mình đẹp và cũng lấy điều đó làm thích. Nhưng thấy sắc đẹp của mình làm cho nam giới say mê, chẳng những nàng không thích mà còn lấy làm sợ nữa. Đối với tình yêu, nàng chán ghét và ghê sợ. Các bạn trai của nàng đều biết thế và nếu có ai yêu nàng thì họ cũng không dám biểu lộ ra và chỉ cư xử với nàng như với một người bạn trai khác. Nhưng theo lời nàng kể lại, đối với người lạ hay quấy rầy thì sức lực mạnh mẽ của nàng (mà nàng đặc biệt tự hào) đã cứu nàng. Có lần nàng vừa cười vừa kể: có một anh chàng theo tôi ngoài phố, cứ bám nết không chịu rời. Tôi bèn tóm ngay lấy hắn và lay cho một trận, làm hắn phát hoảng và chuồn mất. Nàng đi làm cách mạng - theo lời nàng thuật lại - vì tự thuở nhỏ, nàng đã ghét cuộc đời của những kẻ quyền quý và ưa thích cuộc sống của những người bình thường. Nàng thường bị mắng là hay xuống chơi trong phòng các gia nhân ở, trong bếp hay trong chuồng bò, chứ không chịu ở phòng khách. Nàng nói: "Nhưng tôi thấy gần gũi những người nấu bếp, đánh xe lại thú hơn, còn ngồi với các ông lớn bà lớn thì chán ngắt. Rồi đến khi hiểu biết, tôi thấy cuộc sống của chúng tôi hoàn toàn xấu xa. Mẹ tôi đã mất, tôi chỉ còn cha, nhưng tôi không ưa, cho nên khi đến mười chín tuổi tôi bỏ nhà theo cô bạn vào làm thợ ở một công xưởng Về sau, thôi việc ở xưởng, Maria về sống một dạo ở quê rồi mới lại trở về sống ở tỉnh; trong gian buồng nàng ở có máy in bí mật. Nàng bị bắt ở đấy và bị kết án khổ sai. Chính Maria không kể lại gì, nhưng Katiusa nghe người khác nói sở dĩ Maria bị kết án khổ sai vì khi nhà bị khám, từ trong bóng tối, có một phát súng nổ do một đồng chí cách mạng khác bắn, nhưng Maria đã nhận chính mình bắn. Từ khi mới quen biết Maria Paplovna, Katiusa nhận thấy là bất kỳ ở đâu và bất cứ trong cảnh ngộ nào, Maria không bao giờ nghĩ đến mình, lúc nào cũng chỉ lo giúp đỡ người khác, trong công việc lớn lao cũng như trong công việc nhỏ nhặt hàng ngày. Một người bạn hiện nay của nàng là Novotvorov đã nói đùa là nàng chỉ thích chơi môn thể thao từ thiện. Quả đúng thế, nàng coi tất cả cái thú ở đời là ở chỗ tìm được cơ hội giúp đỡ người khác, như cái thú vui của người đi săn là tìm ra được muông thú để săn. Và môn thể thao nầy đã trở thành thói quen và sự nghiệp suốt đời của nàng. Nàng làm công việc đó một cách tự nhiên, khiến những người quen biết không những đã chẳng coi trọng sự giúp đỡ của nàng mà còn dòi hỏi nàng phải giúp họ. Khi Maxlova mới đến ở chung nhóm, Maria thấy ghét và khinh. Katiusa cũng biết thế, nhưng sau, nàng cũng thấy Maria đã cố gắng kiềm chế mình và tỏ ra đặc biệt niềm nở và tử tế với nàng. Tình thân và lòng tốt của một con người khác thường như vậy đã khiến Maxlova cảm kích, nàng hết sức quý Maria Paplovna và tự nhiên cứ suy nghĩ theo quan điểm của bạn và bắt chước bạn tất cả mọi điều. Còn Maria Paplovna cũng cảm động về lòng yêu trung thực của Katiusa và dần dẩn cũng yêu mến nàng. Cả hai người nầy còn hợp nhau ở chỗ cả hai đều ghét tình yêu xác thịt. Một người thì ghét vì bản thân đã chịu tất cả những nỗi cay đắng của nó, còn người kia tuy chưa nếm trải, nhưng coi nó như một cái gì không thể hiểu được và đồng thời, như một cái gì ghê tởm, xúc phạm đến phẩm giá con người. Chương 105 Ảnh hưởng của Maria Paplovna đối với Maxlova là một thứ ảnh hưởng tự Maxlova thuận tình đón nhận. Ảnh hưởng đó do Maxlova yêu Maria mà có. Ngoài ra nàng còn chịu ảnh hưởng của Ximonxon. Ảnh hưởng nầy lại do Ximonxon yêu Maxlova mà ra. Người ta ở đời đều sống và hành động một phần theo ý kiến của mình, một phần theo ý kiến của người khác. Một trong những điều căn bản phân biệt người nầy với người khác là mức độ họ sống theo ý kiến của mình và ý kiến của người khác đến đâu. Có những người thường coi sự suy nghĩ của mình như một trò chơi tinh thần. Họ dùng lý trí của họ như một cái tay lái tháo dây cua-roa, nên trong khi hành động họ thường làm theo ý kiến cửa người khác, theo tập quán, theo phong tục, theo luật pháp. Còn có những người khác thường lấy ý kiến của mình làm động lực chủ yếu cho mọi hành động, hầu như bao giờ họ cũng tuân theo yêu cầu của lý trí và phục tùng lý trí, chỉ thỉnh thoảng họ mới theo sự quyết định của người khác, nhưng là sau khi đã nhận định một cách có phê phán. Ximonxon thuộc vào loại người sau nầy. - Anh kiểm điểm sự việc, quyết định theo lý trí và một khi đã quyết định rồi thì nhất định làm theo. Hồi còn là học sinh, anh đã dứt khoát nhận định rằng sản nghiệp của cha anh, một cựu viên chức cao cấp sở Tài chính là của cải không lương thiện, và đã nói với cha nên đem nó trả lại cho nhân dân. Nhưng người cha không những đã chẳng nghe mà còn mắng chửi anh, anh liền bỏ nhà ra đi và cự tuyệt không dùng gì đến của cải của cha anh nữa. Anh đi đến kết luận là mọi tệ lậu của xã hội hiện đang tồn tại đều do sự dốt nát của dân chúng mà ra cho nên ở trường Đại học ra, anh vào đảng Dân tuý: rồi làm giáo viên ở một trường làng; anh dũng cảm truyền bá cả học sinh và nông dân những điều anh cho là đúng và công khai bài bác những điều anh cho là giả dối. - Anh bị bắt và đưa ra toà. Trong thời gian xét xử, anh kết luận là các thẩm phán không có quyền xét xử anh và anh đã bảo họ như vậy. Khi toà không nghe và cứ tiếp tục xét xử thì anh quyết định không trả lời, mặc họ hỏi gì anh cũng chỉ im lặng. Anh bị đày đến Arkhagen. Ở đấy, anh đưa ra một học thuyết có tính chất đạo giáo: học thuyết của anh xây dựng trên cơ sở coi mọi vật trên trái đất đều sống, không có cái gì chết, và những vật ta coi là không có sự sống, là vô cơ, chỉ là những bộ phận của cơ thể hữu cơ rất lớn mà ta không thể nắm được; vì thế nhiệm vụ của con người, những phần tử bé nhỏ của cái cơ thể lớn đó, là phải duy trì sự sống của cơ thể đó và tất cả các bộ phận sống của nó. Do đó, anh cho sát hại sinh linh là một tội ác: anh phản đối chiến tranh, phản đối án tử hình và mọi thứ giết chóc khác, không cứ đối với loài người, mà cả với loài vật nữa. Về hôn nhân, anh cũng có lý thuyết của riêng mình: anh cho sinh đẻ chỉ là một chức năng thấp hèn của con người mà chức năng cao thượng là phục vụ các sinh linh đã có. Anh căn cứ vào sự kiện trong máu có những bạch huyết cầu để chứng minh lý thuyết của mình. Anh cho những người độc thân cũng giống như những bạch huyết cầu trong máu; chúng có nhiệm vụ giúp đỡ cho những bộ phận ốm yếu của cơ thể. Từ khi nhận định như vậy, anh sống theo nguyên tắc đó, mặc dầu hồi còn trẻ, anh cũng đã có ăn chơi trác táng; và bây giờ, anh tự coi mình cũng như Maria Paplovna, là những "bạch huyết cầu" của loài người. Tình yêu của anh đối với Katiusa không phạm gì đến thuyết đó cả vì anh yêu nàng một cách lý tưởng; anh cho là tình yêu đó không những chẳng có hại gì cho hoạt động "bạch huyết cầu" giúp đỡ những người yếu đuối của anh mà trái lại, nó còn có tác dụng cổ vũ anh mạnh hơn nữa. Chẳng những anh quyết định theo cách suy nghĩ riêng của mình trong các vấn đề đạo đức mà còn cả trong số lớn những vấn đề thực tế. Với bất cứ một vấn đề thực tế nào, anh cũng có lý thuyết riêng của mình, anh tự quy định làm việc bao nhiêu giờ, nghỉ bao nhiêu, ăn thế nào, mặc thế nào, nhóm lò, thắp đèn ra làm sao. Ngoài ra, Ximonxon lại hay cả thẹn và nhũn nhặn. Nhưng khi quyết định làm một việc gì thì không gì có thể ngăn cản được anh và con người ấy vì yêu Maxlova nên có ảnh hưởng quyết định đến nàng. Với bản năng của người phụ nữ, Maxlova sớm thấy ngay là Ximonxon yêu mình; và khi biết mình có thể làm một người khác thường như thế yêu mình thì nàng cũng tự thấy giá trị của mình cao hơn. Nekhliudov ngỏ ý lấy nàng là vì lòng cao thượng và cũng vì câu chuyện xảy ra trước kia, còn Ximonxon yêu nàng là yêu trong hoàn cảnh của nàng hiện nay; và đơn giản chỉ vì yêu nàng mà thôi. Nàng còn cảm thấy Ximonxon coi nàng là một phụ nữ đặc biệt khác với mọi phụ nữ khác, có những đức tính cao quý khác thường. Nàng không rõ Ximonxon thấy ở nàng những đức tính gì nhưng, dù sao mặc lòng, để chàng khỏi thất vọng về mình, Maxlova hết sức phát huy mọi đức tính tốt mà nàng có thể quan niệm được. Điều đó buộc nàng phải cố gắng để thành một người hết sức tốt. Sự thể bắt đầu khi họ còn ở trong tù, vào một buổi gặp gỡ chung, các tù chính trị, nàng đã thấy Ximonxon nhìn mình chăm chắm với đôi mắt xanh hiền từ, hồn nhiên, dưới vừng trán dô và cặp lông mày rậm. Ngay khi đó nàng đã nhận thấy anh là một người khác thường; và nàng cũng nhận thấy trên khuôn mặt anh sự kết hợp vô tình, kỳ dị giữa vẻ nghiêm khắc toát ra từ cặp lông mày nhíu lại và mớ tóc rối bù với vẻ hiền lành, thơ ngây và vẻ hồn nhiên trong khóe mắt. Rồi đến Tomxk, nàng được chuyển vào đoàn tù chính trị và lại gặp anh. Tuy hai người chưa trao đổi với nhau một lần nào, nhưng hai cặp mắt nhìn nhau đều nói rõ là họ nhớ ra nhau và cả hai đều quý nhau. Cả sau đó, họ cũng chưa thực sự nói chuyện với nhau lần nào, nhưng Maxlova vẫn cảm thấy là những khi có mặt nàng, tuy Maxlova nói với người khác, nhưng lời nói của anh đều hướng vào nàng và anh nói là để nàng nghe, và anh cố gắng nói cho hết sức rõ ràng dễ hiểu. Chỉ đến khi Ximonxon đi bộ cùng với tù thường phạm thì hai người mới thật đặc biệt gần gũi nhau.
__________________
![]() |
Ðiều Chỉnh | |
Xếp Bài | |
|
|